You are on page 1of 5

Học viên: Nguyễn Thị Thu Phương

Lớp Luật sư K25 Vũng Tàu


*****************
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG:
Tóm tắt tình huống:
- Ngày 06/8/2014, Hợp đồng DVPL số 15/HĐ.DVPL được ký kết:
+ Các bên ký HĐồng: Luật sư Phan Thị Hoàng M (“LS Hoàng M”) thuộc Văn
phòng Luật sư TH cùng ông Trần Thanh Toàn (“ông Toàn”);
+ Nội dung HĐồng: LS Hoàng M có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị can Trần Minh Vẹn (“bị can Vẹn”, em trai ông Toàn) trong một vụ án
hình sự, đạt kết quả của hợp đồng là có bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xử cho hưởng
án treo.
+ Giá trị HĐồng: 120 triệu đồng, ông Toàn đã trả thù lao trước cho LS Hoàng M
số tiền 80 triệu đồng (02 lần ông Toàn đã chuyển khoản cho LS Hoàng M, có chứng từ
chuyển tiền).
- Kết quả xét xử vụ án: tại Bản án 51/2014/HSST ngày 28/11/2014 của TAND
huyện VC tuyên phạt 18 tháng tù giam.
- Ông Toàn gửi đơn khiếu nại đến Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư tỉnh LX (“Đoàn
LS”), Liên đoàn LS Việt Nam (“LĐLSVN”):
+ Cơ quan, tổ chức nhận đơn khiếu nại: Đoàn LS tỉnh LX, LĐLSVN;
+ Người bị khiếu nại: LS Hoàng M thuộc Văn phòng LS TH;
+ Nội dung khiếu nại: không thực hiện đúng cam kết trong Hợp đồng DVPL số
15/HĐ.DVPL ngày 06/8/2014 (không đạt được kết quả hưởng án treo);
+ Yêu cầu: LS Hoàng M trả lại số tiền 80 triệu đồng mà ông Toàn đã chuyển
trước cho LS Hoàng M để thực hiện HĐồng.
- Ngày 07/8/2015, Đoàn LS tỉnh LX xử lý kỷ luật cảnh cáo đối với LS Hoàng M
(Quyết định số 07/QĐ-BCN ngày 11/8/2015).
- Khiếu nại của LS Hoàng M:
+ Cơ quan, tổ chức nhận đơn khiếu nại: LĐLSVN;
+ Tổ chức bị khiếu nại: BCN Đoàn LS tỉnh LX;
+ Nội dung khiếu nại: mức kỷ luật cảnh cáo tại Quyết định số 07/QĐ-BCN ngày
11/8/2015 của BCN Đoàn LS tỉnh LX đối với bản thân bà là quá nặng;
+ Yêu cầu: đề nghị LĐLSVN xem xét lại mức kỷ luật.
Các văn bản pháp luật sử dụng:
- Luật Luật sư năm 2006 và Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư;
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 (số 19/2003/QH11 ngày 26/11/2003);
- Quy tắc ĐĐUXNNLS Việt Nam ban hành theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày
20/7/2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc;
- Quyết định số 68/QĐ-BTV ngày 05/10/2012 của Ban Thường vụ Liên đoàn luật sư Việt
Nam.

Trả lời câu hỏi tình huống:


1. Hành vi của LS Hoàng M trong tình huống:
1.1. Hành vi thỏa thuận kết quả thực hiện HĐồng DVPL là có bản án của TA
cấp sơ thẩm xử cho bị can Vẹn hưởng án treo) là vi phạm Quy tắc 14 (mục 14.11) trong
Quy tắc ĐĐUXNNLS Việt Nam (ban hành theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày
20/7/2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc).
Cụ thể:
Tại Quy tắc 14. Những việc luật sư không được làm trong quan hệ với khách hàng
trong Quy tắc ĐĐUXNNLS Việt Nam quy định:
“14.11. Cam kết bảo đảm kết quả vụ việc nhằm mục đích lôi kéo khách hàng
hoặc để tính thù lao theo kết quả cam kết.”
Tại Hợp đồng DVPL số 15/HĐ.DVPL ngày 06/8/2014 ký kết giữa LS Hoàng M
thuộc Văn phòng Luật sư TH và ông Toàn có ghi rõ nội dung: LS Hoàng M có trách
nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can Trần Minh Vẹn (em trai ông Toàn)
trong một vụ án hình sự, đạt kết quả của hợp đồng là có bản án của Tòa án cấp sơ thẩm
xử cho hưởng án treo, với mức thù lao là 120 triệu đồng.
Việc ký hợp đồng với nội dung như trên LS Hoàng M đã vi phạm quy tắc
ĐĐUXNNLS Việt Nam, bởi vì:
+ Bản án của Tòa án là phán quyết của Tòa án sau khi xét xử vụ án, do Hội đồng
xét xử vụ án ban hành, không phải do luật sư có thể định đoạt.
+ Luật sư khi tham gia tố tụng vụ án hình sự (với vai trò người bào chữa 1) có
quyền và nghĩa vụ2 như đưa ra các tài liệu, chứng cứ hợp pháp có tại vụ án, các tình tiết
của vụ án và sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định, lập luận, thuyết phục Hội
đồng xét xử để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.
1
Điều 56 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định về người bào chữa
2
Điều 58 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Mặc dù LS Hoàng M không chủ ý ngay từ đầu (mục đích chỉ là giúp ông Toàn,
như LS Hoàng M trình bày) nhưng đã không có ý kiến phản đối việc ghi thêm cụm từ
“án treo” vào sau cụm từ bản án sơ thẩm trong Điều 5 của HĐồng khi ký kết hợp đồng
với ông Toàn dẫn đến việc xác lập thỏa thuận chấm dứt HĐồng sau khi có bản án của
Tòa án cấp sơ thẩm xử cho (bị can Vẹn) hưởng án treo (chứng cứ là Hợp đồng DVPL
số 15/HĐ.DVPL ngày 06/8/2014). Việc làm này dẫn đến khách hàng hiểu sai về vai trò
của LS, cho rằng LS có thể “lo” được mức án theo nguyện vọng, làm cho khách hàng
có hiểu biết sai lệch về pháp luật, sẽ làm mất đi tính nghiêm minh của pháp luật.
1.2. Hành vi không chủ động thương lượng với khách hàng, cố tình né tránh
không gặp, không trả lại tiền ông Toàn khi ông Toàn nhiều lần đến gặp để yêu cầu
nhận lại số tiền mà LS Hoàng M đã nhận nhưng không thực hiện được thỏa thuận trong
HĐồng DVPL đã ký (tranh chấp thực hiện HĐồng) là vi phạm Quy tắc 13 trong Quy tắc
ĐĐUXNNLS Việt Nam (ban hành theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày
20/7/2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc).
Cụ thể:
Tại Quy tắc 13. Tiếp nhận khiếu nại của khách hàng trong Quy tắc
ĐĐUXNNLS Việt Nam quy định:
“13.1. Khi tiếp nhận yêu cầu khiếu nại của khách hàng, luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư có thái độ ôn hòa, nhã nhặn, chủ động thương lượng, hòa giải với khách
hàng; nếu không có kết quả thì hướng dẫn khách hàng thủ tục khiếu nại tiếp theo để
quyền lợi của khách hàng được giải quyết theo quy định của pháp luật, bảo vệ uy tín
của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.
13.2. Việc trả lời khiếu nại của khách hàng được thực hiện bằng văn bản.”
Theo đó, việc LS Hoàng M không chịu gặp, không chủ động thương lượng, trao
đổi với ông Toàn về các khiếu nại thực hiện HĐồng DVPL đã ký dù rất nhiều lần ông
Toàn đến gặp khiến ông rất bức xúc, cho rằng LS Hoàng M bội tín. Hành vi của LS
Hoàng M đã làm mất uy tín của bản thân LS Hoàng M, của Văn phòng LS TH nói riêng
và uy tín của LS, tổ chức hành nghề LS nói chung.
2. Đối với nội dung trình bày của LS Hoàng M:
2.1. Việc ghi bổ sung chữ “án treo” vào nội dung HĐồng DVPL đối với một
luật sư là không chấp nhận được.
Tự do giao kết hơp đồng là nguyên tắc cơ bản của giao kết hợp đồng nói chung
theo quy định của pháp luật. Các bên chủ thể của hợp đồng được tự do thỏa thuận, tự do
cam kết và đảm bảo những cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
HĐồng DVPL ngoài việc tuân thủ các quy định pháp luật dân sự còn phải tuân
thủ những quy định của Luật Luật sư và Quy tắc ĐĐUXNNLS Việt Nam. Đặc biệt đối
với luật sư còn phải có trách nhiệm tư vấn cho khách hàng biết việc ghi bổ sung chữ “án
treo” vào nội dung HĐồng DVPL là không đúng pháp luật vì sẽ dẫn đến xác lập giao
dịch HĐồng DVPL mà ở đó nội dung HĐồng có thỏa thuận không hợp pháp.
2.2. Việc thỏa thuận lại (thỏa thuận miệng) nội dung của HĐồng là LS Hoàng
M sẽ bảo vệ quyền và lợi ích cho bị can Vẹn theo hướng giảm nhẹ hình phạt:
- Xét về hình thức thỏa thuận lại (thỏa thuận miệng) nội dung của HĐồng mà hai
bên không tiến hành ký kết phụ lục HĐồng là vi phạm hình thức HĐồng DVPL “phải
được làm thành văn bản” quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật Luật sư 2006 được sửa đổi,
bổ sung tại Luật số 20/2012/QH13 ngày 20/11/2012 của Quốc hội.
Mặc dù xét về mặt hình thức HĐồng thì thỏa thuận miệng việc điều chỉnh nội
dung HĐồng là không có giá trị pháp lý, nhưng trên cơ sở những vấn đề LS Hoàng M
đã trình bày thì thực tế thỏa thuận này là có thực, đã được hai bên (ông Toàn và LS
Hoàng M) chấp nhận. Bởi các điểm sau:
+ Sau khi thỏa thuận điều chỉnh nội dung HĐồng (thỏa thuận miệng), LS Hoàng M
vẫn thực hiện tư vấn, hướng dẫn cho bị can Vẹn nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt
(cụ thể là tiếp tục soạn thảo 03 hồ sơ xin giảm nhẹ hình phạt, xin bảo lãnh tại ngoại đồng
thời cung cấp, giao nộp chứng cứ, tài liệu và trình bày trực tiếp với các cơ quan chức
năng, giúp bị can Vẹn được cho tại ngoại);
+ Kết thúc phiên tòa, bị cáo Vẹn bị kết án 18 tháng tù giam (mức án thấp trong
khung hình phạt tương ứng với tội danh và mức độ vi phạm);
+ Bị cáo Vẹn không kháng cáo, gia đình ông Toàn cũng không có ý kiến gì về
mức án do Tòa án tuyên.
+ Mặt khác, ngày 25/12/2014, LS Hoàng M vẫn giúp bị cáo Vẹn làm đơn xin
hoãn thi hành án phạt tù.
- Xét về nội dung thỏa thuận lại nội dung HĐồng là không vi phạm quy định
pháp luật, phù hợp và có cơ sở với những tình tiết mà LS Hoàng M đã tìm hiểu, thu
thập được khi thực hiện HĐồng như: khung hình phạt từ 3 năm đến 10 năm đối với mức
độ phạm tội của bị can Vẹn; nhân thân, hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh phạm tội của bị
can Vẹn và phù hợp với quyền và nghĩa vụ của luật sư (với vai trò là người bào chữa
cho bị can) trong việc đưa ra những tình tiết, chứng cứ hợp pháp để lập luận, thuyết
phục và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can.
3. Mức độ xử lý kỷ luật (cảnh cáo) của Ban Chủ nhiệm Đoàn LS tỉnh LX đối
với hành vi vi phạm của LS Hoàng M là chưa phù hợp, có thể là quá nặng so với hành
vi và những nội dung trình bày trong đơn khiếu nại của LS Hoàng M:
- LS Hoàng M có hành vi vi phạm lần đầu, có thể thấy mức độ vi phạm ít nghiêm
trọng;
- Hành vi vi phạm của LS Hoàng M không phải chủ ý từ đầu (vì ban đầu Tại
Điều 5 của HĐồng đã ký kết có ghi rõ sẽ chấm dứt khi thực hiện xong công việc theo
Điều 1 được giải quyết bằng văn bản pháp lý là bản án sơ thẩm), mà phát sinh sau khi
HĐồng đã ký kết, hành vi của LS Hoàng M xuất phát từ cảm tính, tình thương đối với
mẹ của bị can Vẹn;
- Ngay khi biết được các tình tiết về tính chất, mức độ phạm tội và khung hình
phạt mà bị can Vẹn bị khởi tố (không thể hưởng án treo), LS Hoàng M đã chủ động gặp
gỡ để giải thích, thỏa thuận với khách hàng về việc điều chỉnh nội dung HĐồng và đã
được khách hàng đồng ý, tiếp tục thực hiện HĐồng thể hiện thiện chí khắc phục vi
phạm;
- Trong quá trình thực hiện HĐồng, LS Hoàng M luôn chủ động, tích cực, có ý thức,
trách nhiệm trong công việc, tận tâm với khách hàng (tư vấn, hướng dẫn cho khách
hàng, huy động tất cả các tài liệu, chứng cứ hợp pháp của vụ án để giúp bị can Vẹn
được tại ngoại, xin giảm nhẹ hình phạt, hơn nữa sau khi có bản án của Tòa án là
HĐồng DVPL đã kết thúc theo thỏa thuận nhưng LS Hoàng M vẫn giúp bị cáo Vẹn làm
đơn xin hoãn thi hành án phạt tù; hỗ trợ ông Toàn 20 triệu đồng để làm chi phí thăm
nuôi bị cáo Vẹn thể hiện thiện ý của LS Hoàng M đối với việc khiếu nại của ông Toàn);
- Hành vi vi phạm của LS Hoàng M chưa làm xảy ra thiệt hại nghiêm trọng cho
khách hàng.
Với những nội dung nêu trên, xét thấy hành vi vi phạm của LS Hoàng M là vi
phạm lần đầu với mức độ nhẹ, có thiện chí khắc phục vi phạm.
Căn cứ Điều 12 Quyết định số 68/QĐ-BTV ngày 05/10/2012 của Ban Thường vụ
Liên đoàn luật sư Việt Nam, hành vi vi phạm của LS Hoàng M có thể đề nghị xem xét
mức kỷ luật khiển trách là phù hợp.

You might also like