You are on page 1of 31

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
GIẢNG VIÊN: ĐẶNG THÁI BÌNH

DANH SÁCH NHÓM 5

STT HỌ VÀ TÊN MSSV


1 NGUYỄN THỊ THÂN THƯƠNG 2053801011271
2 NGHIÊM THỊ THU TRANG 2053801011295
3 TRẦN THỊ QUỲNH TRANG 2053801011297
4 VŨ THỊ KIỀU TRINH 2053801011303
5 LÊ THỊ ÁNH TUYẾT 2053801011311
6 NGUYỄN THANH VY 2053801011333
Bài 1: Trường hợp đại diện hợp lệ
Tóm tắt Quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT:
 Chủ thể: ông Mạnh (đại diện Hưng Yên) và Vinausteel
 Tranh chấp: ông Mạnh có phải là đại diện hợp pháp của Hưng Yên không?
 Lí do tranh chấp: ngày 20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan có giấy ủy quyền cho ông Lê
Văn Mạnh - Phó Tổng Giám đốc Công ty kim khí Hưng Yên được thay mặt Công ty
thực hiện các giao dịch kinh tế trong phạm vi hành nghề kinh doanh..., nên ngày
16/01/2007, ông Mạnh đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký hợp đồng mua
bán phôi thép số 01/HĐTP/2007/VA-HY với Công ty Vinausteel.
 Tòa án: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm với Vinausteel.
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại; giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT
 Chủ thể: Xí nghiệp xây dựng 4 (là đơn vị trực thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ
An, nay là Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex) và chi nhánh Ngân hàng Công
thương Nghệ An.
 Tranh chấp: đại diện không hợp pháp
 Lí do tranh chấp: Theo tài liệu do Công ty xây dựng số II Nghệ An xuất trình thì
ngày 26/3/2001, Công ty xây dựng số II có Công văn số 263 CV/XD2.TCKT quy
định về việc vay vốn tín dụng của các đơn vị trực thuộc và ngày 06/4/2001,
Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công văn số 064CV/XDII.TCKT gửi Chi nhánh
Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có nội dung “đề nghị Ngân hàng Công
thương Nghệ An không cho các Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An
vay vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của Công ty kể từ ngày 06/4/2001...” và “Các
văn bản của Công ty liên quan tới vay vốn tại Ngân hàng Công thương Nghệ An ban
hành trước ngày 06/4/2001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày 14/5/2001 Ngân hàng vẫn ký
Hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền.
 Tòa án: Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp
đồng trên. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.
Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS năm 2005) về người đại diện.
 Thứ nhất, pháp nhân có thể là người đại diện

1
Tại Khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 quy định: Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân
(sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân
khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Với
quy định này không chỉ có cá nhân mà pháp nhân cũng có thể là người đại cho cá nhân
hay một pháp nhân. Một pháp nhân hoàn toàn có thể ủy quyền cho một pháp nhân khác
nhân danh mình tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định mà hợp đồng ủy quyền đó
là hợp pháp. Đây là một điểm mới về người đại diện so với LBSD 2005. Theo Điều 139
BLDS 2005 thì người được đại diện chỉ có thể là cá nhân mà không thể là pháp nhân,
theo đó cá nhân chỉ có thể ủy quyền cho cá nhân và pháp nhân chỉ có thể ủy quyền cho cá
nhân mà không cho phép pháp nhân ủy quyền cho một pháp nhân khác đại diện mình
tham gia một quan hệ pháp luật.
Khoản 2 Điều 134 BLDS 2015 đã quy định: Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Như vậy, BLDS 2015 đã bãi bỏ cụm từ “chủ
thể khác” trong BLDS 2005. Việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thông qua người
đại diện chỉ có cá nhân và pháp nhân mới được xác lập giao dịch thông qua người đại
diện còn các chủ thế khác theo quy định của BLDS thì không có quyền này.
 Thứ hai, pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật:
Tại BLDS 2015 đã tách riêng quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân và đại diện
theo pháp luật của pháp nhân, quy định tại 2 khoản của một điều luật. Người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 137 BLDS năm 2015 gồm: Người
được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của
pháp luật; Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Theo đó, quy định
cụ thể và rõ ràng hơn trong từng trường hợp so với quy định trước đây của BLDS 2005.
Khoản 2 Điều 137 quy định: Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp
luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140,
Điều 141 của Bộ luật này. Việc quy định cho phép một pháp nhân có thể có nhiều người
đại diện theo pháp luật của BLDS 2015 đã bảo đảm sự tương thích với quy định của Luật
doanh nghiệp 2014 trong việc quy định Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần
“có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật”.
 Thứ ba, quy định cụ thể về thời hạn đại diện:
Bộ luật Dân sự 2015 bổ sung quy định về thời hạn đại diện mà Bộ luật dân sự 2005
không quy định. Cụ thể khoản 1 Điều 140 BLDS 2015 quy định: Thời hạn đại diện được

2
xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ
của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Bộ luật dân sự 2015 bổ sung quy định về việc xác định thời hạn đại diện trong trường
hợp không xác định được thời hạn đại diện theo văn bản ủy quyền; quyết định của cơ
quan có thẩm quyền; điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (Khoản 2
Điều 140 BLDS 2015). Cụ thể: Nếu quyền đại diện được xác định theo giao dịch dân sự
cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó. Nếu
quyền đại diện không được xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là
01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.
Với những quy định trên giúp người đại diện biết rõ được thời hạn đại diện của mình khi
tham gia đại diện cho bên ủy quyền hay bên được đại diện kí kết và thực hiện các giao
dịch.
 Thứ tư, bổ sung quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền
đại diện thực hiện và do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện:
Bộ luật dân sự năm 2015 đã  bổ sung điều khoản loại trừ đối với trường hợp giao dịch
dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ các trường hợp được quy định tại điểm a, b, c
Khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 (đó là: Người được đại diện đã công nhận giao dịch;
người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; người được đại
diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người
đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện), đồng thời quy
định: Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu
trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Bộ luật dân sự năm 2015 cũng bổ sung điều khoản loại trừ trong trường hợp giao dịch
dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện, trừ các trường hợp quy định tại điểm a, b, c Khoản 1 Điều 143 (như
đã viện dẫn ở trên); đồng thời bổ sung quy định về giao dịch dân sự do người đại diện xác
lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người
được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần

3
giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải
biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Câu 2: Trong Quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng
Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel?
- Trong quyết định số 08/2013/KDTM-GĐT, đoạn cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng
Yên xác lập hợp đồng với Vinausteel là: “bởi lẽ, ngày 20/11/2006, bà Lê Thị Ngọc Lan
có giấy ủy quyền cho ông Lê Văn Mạnh - Phó Tổng Giám đốc Công ty kim khí Hưng
Yên được thay mặt Công ty thực hiện các giao dịch kinh tế trong phạm vi hành nghề kinh
doanh..., nên ngày 16/01/2007, ông Mạnh đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký
hợp đồng mua bán phôi thép số 01/HĐTP/2007/VA-HY với Công ty Vinausteel.”
Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
- Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm với Vinausteel vì: “Việc
ông Lê Văn Mạnh có Bản cam kết vào ngày 01/04/2007.... Tuy nhiên, Công ty Vinausteel
không tham gia ký kết, không đồng ý nên không thuộc trường hợp chuyển giao nghĩa vụ
dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005.”
- Và việc ông Mạnh cam kết chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty liên doanh
sản xuất thép Vinausteel là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên. Do đó, Công ty
kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi thường thiệt hại
cho Công ty Vinausteel chứ không phải cá nhân ông Mạnh, ông Dũng.
=> Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm với Vinausteel.
Câu 4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến ông Mạnh (có văn bản nào không về chủ đề này? Có thuyết
phục không?)
- Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm là thuyết phục. Mặc dù ông Mạnh được ủy
quyền kí hợp đồng với Vinausteel, nhưng khi Công ty Hưng Yên không giao đủ hàng cho
Vinausteel thì không thể để ông Mạnh chịu trách nhiệm hoàn toàn được. Vì đó là trách
nhiệm của toàn bộ công ty Hưng Yên mà ông Mạnh cũng thực hiện giao dịch trong phạm
vi cho phép của mình, không hề vượt quá phạm vi. Nhưng đó là đối với Vinausteel, còn
đối với nội bộ công ty Hưng Yên thì ông Mạnh lại phải chịu trách nhiệm. Theo khoản 3
Điều 16 Luật Doanh Nghiệp 2014 quy đinh: “người đại diện theo ủy quyền chịu trách
trước chủ sở hữu, thành viên, cổ đông uy quyền do phạm vi các nghĩa vụ quy định tại
Điều này. Chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền chịu trách nhiệm trước bên thứ ba

4
đối với trách nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua
người đại diện ủy quyền.”
Câu 5: Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm gì với Vinausteel
không?
- Theo Hội đồng thẩm phán, Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ và bồi
thường thiệt hại cho Vinausteel.
Câu 6: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm liên quan đến Hưng Yên nêu trên.
- Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là thuyết phục.
- Vì ông Mạnh đã thực hiện đúng thẩm quyền trong phạm vi cho phép của mình. Căn cứ
vào khoản 1 Điều 143 BLDS 2015 về người đại diện theo ủy quyền. Mặt khác tại khoản 3
Điều 16 Luật Doanh Nghiệp 2014 quy đinh: “người đại diện theo ủy quyền chịu trách
trước chủ sở hữu, thành viên, cổ đông uy quyền do phạm vi các nghĩa vụ quy định tại
Điều này. Chủ sở hữu, thành viên, cổ đông ủy quyền chịu trách nhiệm trước bên thứ ba
đối với trách nhiệm phát sinh liên quan đến quyền và nghĩa vụ được thực hiện thông qua
người đại diện ủy quyền.”
=>Như vậy việc công ty Hưng Yên phải chịu trách nhiệm với Vinausteel là thỏa đáng.
Câu 7: Nếu ông Mạnh là đại diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng
có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài này có ràng buộc Hưng Yên không?
Biết rằng điều lệ của Hưng Yên quy định mọi tranh chấp liên quan đến Hưng Yên
(như tranh chấp phát sinh từ hợp đồng do đại diện theo pháp luật xác lập) phải
được giải quyết tại Tòa án.
Nếu ông Mạnh là địa diện theo pháp luật của Hưng Yên và trong hợp đồng có thỏa thuận
trọng tài thì thỏa thuận này không ràng buộc Hưng Yên. Vì:
- Bản chất của thỏa thuận trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên sự thỏa
thuận của các bên tranh chấp.
- Điều 19 Luật Trọng tài Thương mại 2010 chỉ rõ: “thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập
với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể
thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”. Tức là dù thỏa thuận
trọng tài được thay thể hiện dưới hình thức một điều khoản nằm trong hợp đồng chính
hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng chính thì thỏa thuận trọng tài thực
chất là hợp đông nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc lập với hợp đồng chính.
- Khoản 2 Điều 435 BLDS 2005 quy đinh:

5
“2. Trong trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thoả thuận thì bên mua có một
trong các quyền sau đây:
a) Nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại;
b) Nhận phần đã giao và định thời hạn để bên bán giao tiếp phần còn thiếu;
c) Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
- Khoản 2 Điều 437 BLDS 2015 quy định:
“2. Trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng đã thỏa thuận thì bên mua có một trong
các quyền sau đây:
a) Nhận phần đã giao và định thời hạn để bên bán giao tiếp phần còn thiếu;
b) Nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại;
c) Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu việc vi phạm làm cho bên mua
không đạt được mục đích giao kết hợp đồng.”
Bài 2: Trường hợp đại diện không hợp lệ
Câu 1: Trong Quyết định số 10, đoạn nào cho thấy người xác lập hợp đồng với Ngân
hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)?
Trong Quyết định số 10/2013/KDTM-GĐT, đoạn cho thấy người xác lập hợp đồng với
Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập)
là: “Theo tài liệu do Công ty xây dựng số II Nghệ An xuất trình thì ngày 26/3/2001, Công
ty xây dựng số II có Công văn số 263 CV/XD2.TCKT quy định về việc vay vốn tín dụng
của các đơn vị trực thuộc và ngày 06/4/2001, Công ty xây dựng số II Nghệ An có Công
văn số 064CV/XDII.TCKT gửi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An trong đó có
nội dung “đề nghị Ngân hàng Công thương Nghệ An không cho các Xí nghiệp thuộc
Công ty xây dựng số II Nghệ An vay vốn khi chưa có bảo lãnh vay vốn của Công ty kể
từ ngày 06/4/2001...” và “Các văn bản của Công ty liên quan tới vay vốn tại Ngân hàng
Công thương Nghệ An ban hành trước ngày 06/4/2001 đều bãi bỏ”, nhưng ngày
14/5/2001 Ngân hàng vẫn ký Hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4
vay tiền.”
Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm
với Ngân hàng về hợp đồng trên không?
- Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân
hàng về hợp đồng trên.
- Toàn án buộc Công ty cổ phần xây dựng 16-Vinaconex phải trả khoản nợ gốc và lãi cho
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.

6
Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm.
- Khoản 3 Điều 92 BLDS 2005: Xí nghiệp số 4 là đơn vị trực thuộc của Công ty xây
dựng số II Nghệ An. Vì vậy, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của
pháp nhân nên việc Xí nghiệp 4 mà đại diện là ông Tâm - giám đốc Xí nghiệp kí hợp
đồng với Ngân hàng với mục đích để đầu tư mua máy móc thiết bị nâng cao năng lực thi
công là hợp lí.
- Khoản 5 Điều 92 BLDS 2005 thì Công ty xây dựng số II có các quyền, nghĩa vụ phát
sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh xác lập, thực hiện tức là có quyền quyết định cho
chi nhánh số 4 vay hoặc không vay nhưng trong bản án thì Công thi xây dựng số II Nghệ
An đã có quyết định số 02/QĐ-CT ngày 9/2/2001 về việc phê duyệt dự án và đề nghị của
Xí nghiệp số 4. Tiếp đến ngày 25/2/2001, Tổng Công ty xây dựng số II Nghệ An có văn
bản số 23 CV/TCT thông báo cho chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An biết việc
công ty đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 trực tiếp vay vốn tai chi nhánh Ngân hàng
Công thương Nghệ An nên Công ty xây dựng số II phải chịu trách nhiệm là hợp lí.
- Với Điều 144 BLDS 2005 thì ông Tâm là người đại diện xác lập giao dịch vì lợi ích của
công ty để nâng cấp năng lực thi công nên nên hướng giải quyết của Tòa là hợp lí.
- Theo Điều 145 BLDS 2005 thì ông Tâm là người đại diện không hợp lệ nhưng trong
quá trình vay vốn thì đã được sự đồng ý của công ty xây dựng số II. Bản án cũng không
đưa ra rõ ràng là ông Tâm có nhận được công văn phản đối của ông Thuận hay không
nhưng ngày 14/05/2001 ngân hàng kí hợp đồng tín dụng cho xí nghiệp 4 vay tiền, thời
điểm này ông Tâm là đại diện không hợp lệ. Nhưng xét trong 3 trường hợp ta có:
+ Trường hợp 1: Nếu ông Tâm và ngân hàng đều không nhận được công văn phản đối thì
quyết định của Tòa là hợp lí.
+ Trường hợp 2: Nếu xét ông Tâm là người nhận được công văn phản đối từ cấp trên
nhưng vẫn kí hợp đồng với ngân hàng mà ngân hàng không biết thì ông Tâm và ông Toàn
phải chịu trách nhiệm.
+ Trường hợp 3: Nếu cả hai bên cùng biết về công văn phản đối mà vẫn xác lập thì đại
diện chi nhánh số 4 và ngân hàng liên đới giải quyết.
Câu 4: Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân
hàng phản đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex
không có quyền đại diện) thì phải xử lý như thế nào trên cơ sở BLDS 2015? Vì sao?

7
- Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 10 nhưng chỉ phía Ngân hàng phản
đối hợp đồng (yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại
diện) thì căn cứ vào điều 142 BLDS 2015 xử lý theo 2 trường hợp:
+ Theo khoản 1 điều 142 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự do người không có quyền đại
diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện,
trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao dịch;
b) Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể
biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại
diện.
=> Nếu công ty Vinaconex đã công nhận giao dịch hoặc biết mà không phản đối trong
một thời hạn hợp lý hoặc có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không
thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền
đại diện thì công ty Vinaconex phải chịu trách nhiệm và bồi thường cho ngân hàng.
+ Theo khoản 2 BLDS 2015: “Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại
diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện
thì người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch
với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền
đại diện mà vẫn giao dịch.”
=> Nếu công ty Vinaconex không công nhận hoặc phản đối giao dịch thì người đại diện
của Vinaconex mà không có quyền đại diện phải có trách nhiệm bồi thường cho ngân
hàng.
Bài 3: Hình thức sở hữu tài sản
Tóm tắt Quyết định số 377/2008/DS-GDT:
 Nguyên đơn: Bà Cao Thị Xê
 Bị đơn: - Chị Vũ Thị Thu Hương
- Anh Nguyễn Quốc Chính
 Nội dung tranh chấp: Bà Xê khởi kiện yêu cầu tòa án chia di sản do ông Lưu để lại
(cụ thể là căn nhà số 150/6A trên diện tích đất 101m 2) theo di chúc. Chị Xê cho rằng
căn nhà là tài sản riêng của ông Lưu, bà Xê lấy ông Lưu là bất hợp pháp nên không
đồng ý yêu cầu của bà Xê. Còn bà Thẩm (mẹ chị Hương) khẳng định căn nhà là tài

8
sản chung của bà và ông Lưu nên đề nghị giải quyết theo pháp luật để hưởng di sản
cùng chị Hương.
 Quyết định của tòa án: Tòa án đã giải quyết theo hướng công nhận di chúc của ông
Lưu là hợp pháp, bà Xê được hưởng toàn bộ căn nhà. Đồng thời chia cho bà Thẩm
2/3 kỷ phần thừa kế vì bà Thẩm là vợ hợp pháp, có công nuôi dưỡng con chung và
không còn khả năng lao động.
Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài
sản.
- BLDS 2015 quy định 3 hình thức sở hữu (Sở hữu toàn dân; Sở hữu chung; Sở hữu
chung) thay vì 6 hình thức sở hữu như BLDS 2005 (Sở hữu nhà nước; Sở hữu tập thể; Sở
hữu tư nhân; Sở hữu chung; Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội; Sở hữu
của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp)
- Sở hữu toàn dân:
+ Tại điều 206 BLDS 2005 và điều 203 BLDS 2015: thay quyền của “doanh nghiệp, hộ
gia đình, tổ hợp tác” thành “quyền của pháp nhân”
- Sở hữu chung:
+ BLDS 2015 quy định thêm về Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình (Điều
212)
+ BLDS 2015 quy định chi tiết hơn về việc định đoạt tài sản chung tại khoản 5, 6 điều
218
- Sở hữu riêng:
+ BLDS 2015 không liệt kê cụ thể những tài sản thuộc sở hữu riêng như BLDS 2005 mà
quy định ngắn gọn trong 2 điều luật 205 và 206
+ Quy định nguyên tắc các tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng của chủ sở hữu (cá nhân
hoặc pháp nhân) đều được pháp luật bảo vệ, không bị quốc hữu hóa; chủ sở hữu có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình cho các mục đích
khác nhau, nhưng không được trái pháp luật, không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh
hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác.
Câu 2: Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ
hôn nhân với bà Thẩm không? Đoạn nào của Quyết định số 377 (sau đây viết gọn là
Quyết định 377) cho câu trả lời?

9
- Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt không được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân với bà Thẩm.
- Quyết định số 377 có ghi rõ: “căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập
trong thời kì hôn nhân giữa ông và bà Thẩm,nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào
miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông, bà Thẩm
không có đóng góp về kinh tế cũng như công sức để cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà
này.’’
Câu 3: Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà hay sở
hữu riêng của ông Lưu ? Đoạn nào của Quyết định 377 cho câu trả lời?
- Theo bà Thẩm, căn nhà trên thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà.
- Căn cứ vào lời khai của bà Thẩm trong quyết định số 377: “Bà Thẩm cho rằng căn nhà
số 150/6A Lý Thường Kiệt trên diện tích 101m2 đất là tài sản chung của vợ chồng bà nên
không nhất trí theo yêu cầu của bà Xê.”
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu chung
của ông Lưu, bà Thẩm hay thuộc sở hữu riêng của ông Lưu? Đoạn nào của Quyết
định 377 cho câu trả lời?
- Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà trên thuộc sở hữu riêng của ông Lưu.
- Quyết định 377 có ghi rõ: “căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập
trong thời kì hôn nhân giữa ông và bà Thẩm, nhưng từ năm 1975 ông Lưu đã chuyển vào
miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu nhập của ông, bà Thẩm
không có đóng góp về kinh tế cũng như công sức để cùng ông Lưu tạo lập ra căn nhà
này.’’
Câu 5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao?
- Hướng giải quyết trên của tòa án là họp tình hợp lí vì:
+ Căn cứ vào Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì: “Tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tại ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh,
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn
nhân...”
+ Căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu tạo lập bằng nguồn thu nhập riêng khi
đã chuyển vào miền Nam. Bà Thẩm hoàn toàn không có đóng góp cũng như chưa từng
vào miền Nam để thăm ông Lưu
=> Căn nhà thuộc quyền sở hữu của riêng ông Lưu là hợp lí.

10
Câu 6: Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu có thể di
chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này không? Nêu căn cứ pháp lý khi trả lời.
Câu trả lời:
- Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể di chúc
định đoạt toàn bộ căn nhà này.
- Căn cứ tại khoản 1, điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình: “việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung do vợ chồng thoả thuận.”
Bài 4: Diện thừa kế
Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu
không ? Vì sao?
Câu trả lời:
- Căn cứ theo điểm a, khoản 1 điều 651, BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.”
- Chỉ có bà Thẩm và chị Hương thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.Vì:
+ Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, chị Hương là con gái của ông Lưu và bà Thẩm.
+ Quan hệ hôn nhân giữa ông Lưu và bà Xê là vi phạm pháp luật.
Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi
trên có khác không? Vì sao?
Câu trả lời:
- Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ
khác.
- Căn cứ vào điểm a, khoản 4, nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 về những
người thừa kế theo pháp luật: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày
13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc;
trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng
thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền
Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng
bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ
nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của
tất cả các người vợ.”
=>> Vì ông Lưu kết hôn và bà Xê là ở miền Nam trước ngày 25/3/1977 nên bà Xê
thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu.

11
Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì
sao?
Trong vụ việc này, chị Hương không được chia di sản của ông Lưu.Vì:
+ Di chúc của ông Lưu được công nhận là di chúc hợp pháp nên bà Xê được hưởng toàn
bộ di sản của ông Lưu và bà Thẩm được thừa kế 2/3 kỷ phần thừa kế theo pháp luật mà
không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
+ Căn cứ theo khoản 1 điều, 644 BLDS 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc:” Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong
trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần
di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”
=>> Chị Hương đã thành niên và có khả năng lao động nên không được hưởng phần di
sản theo quy định của pháp luật.
Câu 4: Theo pháp luật hiện hành ở thời điểm nào người thừa kế có quyền sở hữu
đối với tài sản là di sản do người quá cố để lại. Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo pháp luật hiện hành tại thời điểm được chia theo di chúc hoặc pháp luật và người
thừa kế là:
+ Người được người để lại di sản định đoạt theo di chúc
+ Người thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 676 BLDS 2005
Điều 614 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người
thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Quy định này cho thấy, kể
từ thời điểm mở thừa kế, những người hưởng thừa kế có quyền hưởng di sản của người
chết để lại, thời điểm này những người thừa kế chưa có quyền sở hữu đối với di sản thừa
kế dù về nguyên tắc họ có quyền yêu cầu chia di sản bất cứ lúc nào kể từ thời điểm mở
thừa kế. Quyền hưởng di sản và thực hiện quyền hưởng di sản được diễn ra ở hai thời
điểm khác nhau trong quá trình thực hiện các bước của quan hệ pháp luật thừa kế. Quyền
hưởng di sản là căn cứ, tiền đề cho việc thực hiện quyền hưởng di sản.
Câu 5: Trong quyết định số 08 theo nội dung của bản án ở thời điểm nào người thừa
kế có quyền sở hữu nhà và đất có quyền tranh chấp? Vì sao?
Tại quyết định số 08/2013/DS-GĐT những người thừa kế của ông hà có quyền sơ hữu đất
tranh chấp sau khi ông Hà chết 12/5/2008.

12
Bởi vì sau khi để lại di sản chết thì người thừa kế có quyền và nghĩa vụ đối với di sản đó
theo quy định tại Điều 635 BLDS 2005 về người thừa kế.
Bài 5: Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Tóm tắt Bản án số 2493/2009/DS-ST ngày 04/09/2009 của Tòa án nhân dân Tp. Hồ
Chí Minh
 Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Khót, ông An Văn Tâm.
 Bị đơn: Ông Nguyễn Tài Nhật.
 Tranh chấp: Tranh chấp về thừa kế di sản.
 Lý do: Cụ Khánh và cụ Lầm có hai người con chung là bà Khót và ông Tâm, cụ
Khánh và cụ Ngọt có một người con chung là ông Nhật. Sau khi cụ Khánh mất để lại
di chúc cho ông Tài hưởng toàn bộ di sản. Nhưng tại thời điểm mở thừa kế bà Khót đã
già yếu, ông Tâm thương binh 2/4 mất 72% sức lao động vì vậy hai người yêu cầu
được hưởng một phần di sản cụ Khánh để lại.
 Quyết định của Tòa án: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Khót, ông Tâm về
việc hưởng di sản của cụ Khánh mỗi người 400.000.000 đồng theo diện những người
được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Câu 1: Đoạn nào của quyết định cho thấy ông Lưu đã định đoạt bằng di chúc toàn
bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê ?
Đoạn cho thấy ông Lưu đã định đoạt di chúc toàn bộ tài sản của ông Lưu cho bà Xê là:
“Việc ông Lưu lập văn bản để là di chúc ngày 27/7/2002 là thể hiện ý chí của ông Lưu để
lại tài sản của ông cho bà Xê là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật”.
Câu 2: Bà Xê, bà Thẩm, chị Hương có thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu không? Vì sao?
Căn cứ vào Điều 669 BLDS 2005 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người
thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc hưởng ít hơn hai phần ba suất đó trừ khi
họ là những người từ chối nhận theo quy định tại Điều 642 hoặc là những người không
có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643”
=>Nên bà Xê, bà Thẩm, chị Hương thuộc diện được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu.

13
Câu 3: Theo tòa án dân sự nhân dân tối cao vì sao bà Thẩm được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông Lưu? Đoạn nào
của quyết định cho câu trả lời.
Theo tòa án dân sự nhân dân tối cao bà Thẩm được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào
di chúc đối với di sản của ông Lưu vì bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu và không còn
khả năng lao động. Đoạn của quyết định cho câu trả lời:
“Tuy nhiên do bà Thẩm đang là vợ hợp pháp của ông Lưu đã già yếu không còn khả năng
lao động theo quy định điều 669 blds thì bà thẩm được thừa kế tài sản của ông lưu mà
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc của ông Lưu”.
Câu 4: Nếu bà Thẩm khỏe mạnh có khả năng lao động thì có được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông lưu không? Vì
sao?
Nếu bà Thẩm khỏe mạnh có khả năng lao động thì được hưởng thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc đối với di sản của ông lưu vì Căn cứ vào Điều 669 BLDS 2005
về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của người
thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc hưởng ít hơn hai phần ba suất đó trừ khi
họ là những người từ chối nhận theo quy định tại Điều 642 hoặc là những người không
có quyền hưởng di sản theo quy định.”
Câu 5: Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà thẩm sẽ được hưởng
quyền là bao nhiêu?Vì sao?
Nếu di sản của ông Lưu có giá trị 600 triệu đồng thì bà Thẩm sẽ được hưởng quyền là hai
phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật.
Căn cứ vào Điều 669 BLDS 2005 về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật trong trường hợp họ
không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc hưởng ít hơn hai phần ba suất đó.”
Câu 6: Nếu bà thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà
Thẩm có được chấp nhận không? Vì sao?
Nếu bà thẩm yêu cầu được chia di sản bằng hiện vật thì yêu cầu của bà Thẩm được chấp
nhận. Vì khi lúc đầu ông Lưu và bà Thẩm kết hôn tài sản chung của vợ chồng là 1 căn
nhà số 150/6a Lý Thường Kiệt diện tích 101m2 thành phố Mỹ Tho mặc dù sau năm 1975
ông Lưu đã vào miền Nam công tác và căn nhà được tạo lập bằng nguồn thu của ông Lưu

14
tuy nhiên trước vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng, do đó bà Thẩm có quyền chia di
sản bằng hiện vật là nhà và đất thuộc phần di sản trên.
Câu 7: Trong bản án số 2493 đoạn nào của bản án cho thấy bà Khót ông Tâm và
ông Nhật là con của cụ Khánh?
Trong bản án số 2493 của bản án cho thấy bà Khót ông Tâm và ông Nhật là con của cụ
Khánh: “Cụ Nguyễn Thị Khánh và Cụ Nguyễn Văn Lầm chết năm 1938 có hai con là Bà
Nguyễn Thị Khót sinh năm 1929 ông An Văn Tâm sinh năm 1932”
Câu 8: Ai được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp?
- Người được cụ Khánh di chúc cho hưởng toàn bộ tài sản có tranh chấp là ông Nhật
Câu 9: Tại thời điểm cụ Khánh chết, bà Khót và ông Tâm có là con đã thành niên
của cụ Khánh không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?
- Tại thời điểm cụ Khách chết, bà Khót và ông Tâm là con đã thành niên của cụ
Khánh.
- Qua đoạn: “Xét yêu cầu của ông Tâm, bà Khót về việc hưởng thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc do không có khả năng lao động vì tại thời điểm mở
thừa kế bà Khót đã 71 tuổi, ông Tâm 68 tuổi lại là thương binh 2/4.”
Câu 10: Bà Khót và ông Tâm có được Tòa án chấp nhận cho thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung di chúc không? Đoạn nào của Bản án cho câu trả lời?
- Bà Khót và ông Tâm không được Tòa án chấp nhận cho thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung di chúc.
- Qua đoạn: “Hơn nữa, từ trước đến nay ông Tâm, bà Khót có đời sống kinh tế độc
lập, không phụ thuộc vào cụ Khánh. Bà Khót có gia đình, có tài sản riêng, bản
thân bà hàng tháng còn được hưởng chính sách của nhà nước theo diện người có
công với cách mạng khoảng 400.000 đồng; còn ông Tâm tuy là thương binh 2/4
theo quy định thì ông bị suy giảm khả năng lao động là 62% nhưng ông cũng đã
được hưởng chính sách đãi ngộ của nhà nước hàng tháng ông lãnh hơn 2.000.000
đồng nên hội đồng xét xử nhận thấy không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của bà
Khót, ông Tâm về người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc.”
Câu 11: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án theo nhóm em là chưa hợp lý.
- Vì theo Khoản 1 Điều 644 BLDS 2015:

15
“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần
di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
=> Ở thời điểm bà Khót (sinh năm 1929) và ông Tâm (sinh năm 1932) tính đến thời
điểm mở thừa kế là năm 2000 thì đều là độ tuổi nghỉ hưu, bà Khót đã 71 tuổi lại
mang nhiều bệnh tật như huyết áp, tiểu đường, năm 2006 bà bị té và nằm liệt
giường không có khả năng lao động, còn ông Tâm 68 tuổi lại là thương binh 2/4
mất 72% sức lao động cho nên Tòa án nhắc tới việc bà Khót và ông Tâm không
chứng minh được tại thời điểm mở thừa kế họ là những người không có khả năng
lao động là không hợp lý. Vì vậy bà Khót và ông Tâm được hưởng thừa kế di sản
của cụ Khánh theo diện những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc, theo quy định là 2/3 của một suất thừa kế tức là mỗi người được hưởng
400.000.000 đồng.
Câu 12: Hướng giải quyết có khác không khi ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao
động? Vì sao?
- Theo Bộ luật lao động 1994 sửa đổi bổ sung năm 2002, người lao động ở tình
trạng sau đây bị coi là mất khả năng lao động: Bị tai nạn giao thông, bị bệnh nghề
nghiệp mà sau khi đã chữa trị nhưng sức khỏe vẫn không hồi phục và được xác
nhận là không còn khả năng để tiếp tục tham gia quan hệ lao động; người lao động
là nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; người lao động được cơ quan y tế xác nhận là bị
suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
 Vì vậy việc ông Tâm bị tai nạn mất 85% sức lao động cũng không làm thay đổi
hướng giải quyết của Tòa án bởi vì cơ bản ông Tâm cũng đã mất 72% sức lao
động và nằm trong khung mất đi khả năng lao động là trên 61%.
Câu 13: Nêu những điểm giống nhau và khác nhau của di chúc và tặng cho tài sản.
- Giống nhau: Đều là quyền quyết định, định đoạt về tài sản của người có tài sản, là
sự chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của người này sang cho người khác.
- Khác nhau:

Tiêu chí Di chúc Tặng cho di sản

16
1. Khái - Di chúc là sự thể hiện ý chí - Hợp đồng tặng cho tài sản là sự
niệm của cá nhân nhằm chuyển tài thỏa thuận giữa các bên, theo đó
sản của mình cho người khác bên tặng cho giao tài sản của
sau khi chết. mình và chuyển quyền sở hữu
- Cơ sở pháp lý: Điều 624 cho bên được tặng cho mà không
BLDS 2015 yêu cầu đền bù, bên được tặng
cho đồng ý nhận.
- Cơ sở pháp lý: Điều 457 BLDS
2015
2. Đặc điểm - Đây là một giao dịch dân sự - Là sự thỏa thuận, thể hiện ý chí
thể hiện ý chí đơn phương của song phương giữa người cho và
một người định đoạt tài sản người được tặng và họ phải còn
của cá nhân người đó cho sống tại thời điểm cho - nhận tài
những người thừa kế. sản.

- Người thừa kế thường là - Người được tặng cho có thể là


người thân của người lập di người thân thích hoặc bất kỳ ai.
chúc như: cha, mẹ, con cái,…
- Khi người lập di chúc không - Khi tặng cho tài sản thì những
để lại di sản cho những người người thừa kế không phụ thuộc
được hưởng thừa kế không vào nội dung di chúc của người
phụ thuộc vào nội dung của di tặng cho không được phép đòi
chúc thì họ vẫn được hưởng chia di sản đã được tặng cho.
2/3 suất của một người thừa
kế theo pháp luật.
3. Đối - Tài sản - Tài sản
tượng (Phải là tài sản đang có, đang tồn tại
chứ không phải tài sản hình thành
trong tương lai).

4. Thời - Phải được thể hiện rõ trong di - Nếu hợp đồng tặng cho là động
điểm chúc. sản: Có hiệu lực kể từ thời điểm bên
nhận Người thừa kế chỉ được nhận di được tặng cho nhận được tài sản;

17
được sản sau khi người lập di chúc Đối tượng của hợp đồng là bất động
tài sản chết. sản: Phải lập thành văn bản có công
chứng, chứng thực hoặc phải đăng
ký và có hiệu lực kể từ thời điểm
đăng ký
5. Thực - Người thừa kế được quyền - Hơp đồng tặng cho tài sản là hợp
hiện nhưng đồng thời phải có trách đồng không có đền bù.
nghĩa vụ nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản Do đó, người được tặng cho không
tài sản do người chết để lại. phải hoàn trả một lợi ích hay thực
hiện một nghĩa vụ tài sản nào.

Câu 14: Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc, mà
trước khi chết ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu
thì bà Thẩm có được hưởng một phần di sản của ông Lưu như trên không?
- Nếu ông Lưu không định đoạt tài sản của ông cho bà Xê bằng di chúc, mà trước khi
chết ông Lưu làm hợp đồng tặng cho bà Xê toàn bộ tài sản của ông Lưu thì bà Thẩm
không được hưởng một phần di sản của ông Lưu.
- Thứ nhất tài sản đó là của ông Lưu làm ra khi vào miền Nam sinh sống không liên quan
đến tài sản chung của ông và bà Thẩm nên ông hoàn toàn có quyền định đoạt tài sản đó.
Thứ hai căn cứ vào Điều 457 BLDS 2015: “ Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên
được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.”
 Vì vậy hơp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng không có đền bù. Người được tặng
cho không phải hoàn trả một lợi ích hay thực hiện một nghĩa vụ tài sản nào. Khi
hợp đồng tặng cho tài sản của ông Lưu và bà Xê có hiệu lực thì những người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc như bà Thẩm không được phép đòi
chia di sản đã được tặng cho.
Câu 15: Đối với hoàn cảnh như trên, pháp luật nước ngoài điều chỉnh như thế nào?
- Đối với hoàn cảnh như trên pháp luật nước ngoài điều chỉnh như sau:
Cả Pháp và Việt Nam đều thừa nhận tặng cho là hợp đồng, không có sự đền bù
của giao dịch tặng cho. Do đó, về lý thuyết, điều kiện tặng cho cũng là kết quả
hình thành từ sự thỏa thuận giữa bên tặng cho và bên được tặng cho nhưng sự thỏa
thuận này không mang tính triệt để, hoàn hảo như với các trường hợp thỏa thuận

18
khác. Cụ thể, Bộ luật Dân sự Pháp ghi nhận đối với chứng thư tặng cho có điều
kiện thì điều kiện tặng cho phải thỏa mãn các yếu tố sau đây: Điều kiện tặng cho
phải có thể thực hiện được; Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội. Ngoài ra, Điều 900 Bộ luật Dân sự Pháp quy định rõ: “Nếu trong
chứng thư tặng cho hoặc trong di chúc có các điều kiện không thể thực hiện được,
các điều kiện trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì coi như không có các điều
kiện đó”. Bên cạnh đó, tặng cho là việc chuyển giao quyền sở hữu mà không có
đền bù, nên sẽ không hợp lý nếu bên tặng cho đưa ra một điều kiện làm lợi cho
chính họ. Do vậy, Bộ luật Dân sự Pháp ghi nhận, việc tặng cho cũng vô hiệu nếu
kèm theo điều kiện phải thanh toán các khoản nợ hoặc các chi phí khác với các
khoản nợ hoặc chi phí xác định tại thời điểm tặng cho hoặc những khoản nợ hoặc
chi phí được xác định trong chứng thư tặng cho hoặc trong một bản kê khác kèm
theo chứng thư tặng cho (Điều 945 Bộ luật Dân sự Pháp).
Câu 16: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng mở rộng chế định đang nghiên cứu cho
cả hợp đồng tặng cho.
- Theo quan điểm của nhóm em là hoàn toàn có khả năng mở rộng chế định đang nghiên
cứu cho cả hợp đồng tặng cho. Vì pháp luật về hợp đồng tặng cho trong BLDS 2015 còn
nhiều bất cập và hạn chế. Thứ nhất là, các quy định về hợp đồng tặng cho tài sản còn sơ
sài, nhiều vấn đề chưa được quy định như thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tặng
cho với các tài sản vô hình; các căn cứ hủy bỏ hợp đồng đặc thù được áp dụng riêng hợp
đồng tặng cho tài sản; bảo vệ quyền lợi cho con và những người thân thích khác của
người tặng cho…; Thứ hai là, một số quy định hiện hành về hợp đồng tặng cho tài sản
còn chưa phù hợp như: Thời điểm phát sinh hiệu lực chưa thống nhất giữa động sản và
bất động sản không phải đăng ký sở hữu. Điều 458 BLDS 2015 quy định bên tặng cho và
bên được tặng cho được phép thỏa thuận về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng
tặng cho động sản không phải đăng ký sở hữu. Đây là sự thay đổi căn bản nhất. Tuy
nhiên, sự bổ sung này được đánh giá không phù hợp và không mang tính khả thi…; Thứ
ba là, một số quy định về hợp đồng tặng cho tài sản còn nhiều mâu thuẫn với luật chuyên
ngành như sự không tương thích giữa BLDS 2015 và Luật Nhà ở 2014 về thời điểm phát
sinh hiệu lực đối với trường hợp tặng cho nhà ở… Do đó, những hạn chế, bất cập tồn tại
trong pháp luật về hợp đồng tặng cho là nguyên nhân dẫn đến hệ quả thiếu cơ sở cho việc
thực hiện, áp dụng pháp luật của các chủ thể trong xã hội và của các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.

19
Bài 6: Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản
Câu 1: Theo BLDS những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh
toán?
- Những nghĩa vụ của người để lại di sản ưu tiên thanh toán theo quy định tại Điều 658
Bộ luật dân sự 2015:
“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo
thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu.
3. Chi phí cho việc bảo quản di sản.
4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.
5. Tiền công lao động.
6. Tiền bồi thường thiệt hại.
7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.
9. Tiền phạt.
10. Các chi phí khác.”
Câu 2: Ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng
thành không?
- Ông Lưu và bà Thẩm có đăng ký kết hôn và là vợ chồng hợp pháp, chị Hương là con
chung của hai người. Vì vậy căn cứ Theo Khoản 1 Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình
2014: Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng: “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang
nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình.” thì ông Lưu hoàn toàn có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi
trường thành. Trường hợp hai người ly hôn và chị Hương không sống chung với ông Lưu
thì ông là người không trực tiếp nuôi dưỡng chị Hương nên ông phải thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành.

Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi
còn nhỏ đến khi trưởng thành?
Trong Quyết định có đoạn cho thấy bà Thẩm nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến
khi trưởng thành. Đó là đoạn: “Mặt khác, trong suốt thời gian từ khi ông Lưu vào miền

20
Nam công tác, bà Thẩm là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ lúc còn nhỏ cho đến
khi trưởng thành,...”
Câu 4: Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì có phải
trích cho bà Thẩm từ tài sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi
dưỡng con chung không?
Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, nếu bà Thẩm yêu cầu thì phải trích cho bà
Thẩm từ tài sản của ông Lưu một khoản tiền để bù đắp công sức nuôi dưỡng con chung.
Cụ thể, trong Quyết định có đoạn: “...khi giải quyết lại cũng cần xem xét đến công sức
nuôi dưỡng con chung của bà Thẩm và trích từ giá trị khối tài sản của ông Lưu để bù đắp
công sức nuôi con chung cho bà Thẩm (nếu bà Thẩm có yêu cầu).”
Câu 5: Trên cơ sở các quy định về nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản, anh/chị
hãy giải thích giải pháp trên của Tòa án.
Theo Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2015, tiền cấp dưỡng còn thiếu nằm ở vị trí thứ hai
trong danh sách các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được
thanh toán. Vì vậy tiền cấp dưỡng còn thiếu là một trong những khoản chi phí được ưu
tiên thanh toán sau khi người để lại di sản mất.
Ông Lưu và bà Thẩm là vợ chồng, có trách nhiệm và nghĩa vụ ngang nhau trong việc
nuôi dưỡng và chăm sóc con chung. Nhưng từ khi vào miền Nam công tác, ông Lưu lại
không hề thực hiện việc nuôi dưỡng chị Hương nữa, chỉ có một mình bà Thẩm nuôi
dưỡng chị Hương cho đến khi trưởng thành. Do đó, ông Lưu phải trả khoản tiền trợ cấp
nuôi dưỡng con cho bà Thẩm trong những năm ông không nuôi dưỡng. Nay ông đã mất
thì trích từ di sản của ông một phần tiền để trả lại cho bà Thẩm theo Điều 658 BLDS
2015.
 Giải pháp của Tòa án là hoàn toàn hợp lí.
Tóm tắt quyết định số 619/2011/DS-GĐT
Nguyên đơn là anh Toản và bị đơn là chị Thu, anh Tuấn. Vấn đề tranh chấp ở đây là tòa
hủy di chúc của bà Lan có hiệu lực pháp luật hay không. Nguyên nhân là bà Lan có lập
một bản “Di chúc thừa kế nhà ở" để lại một căn nhà 15m 2 cho anh Toản, nhưng sau đó bà
Lan lại lập một “Đơn xin hủy bản di chúc" không để nhà lại cho anh Toản nữa mà để căn
nhà đó làm nhà thờ. Tòa án giải quyết theo hướng xem xét thêm để xác định “Đơn xin
hủy bản di chúc” đó có thể hiện đúng ý chí của bà Lan hay không, nếu có thì hủy bản di
chúc rồi phân chia di sản theo pháp luật.
Tóm tắt quyết định số 767/2011/DS-GĐT

21
Nguyên đơn là anh Đang, bị đơn là ông Sáu. Vấn đề tranh chấp ở đây là cụ Trượng, cụ
Tào có thay đổi di chúc vào năm 1999 hay không. Nguyên nhân ở đây là do cụ Trượng có
viết di chúc vào năm 1997 để cho anh Đang 3000m 2 đất, ông Sáu lại nói cụ đã sửa di
chúc để lại cho anh Đang 2000m2 đất và ông 1000m2 đất canh tác. Tòa án giải quyết theo
hướng xác nhận hiệu lực của di chúc năm 1999, hủy bỏ bản di chúc năm 1997.
Tóm tắt quyết định số 194/2012/DS-GĐT
Nguyên đơn là ông Nhiên, bị đơn là ông Mạnh. Vấn đề tranh chấp ở đây là di chúc của cụ
Môn có hiệu lực pháp luật không. Nguyên nhân là do cụ Môn có để lại di chúc chung của
mình và cụ Giảng (cụ Giảng không ký), sau đó cụ Giảng mất, cụ Môn lại định đoạt tài
sản của mình một lần nữa qua “Biên bản cuộc họp gia đình của cụ Bùi Hữu Môn”, sau
khi cụ Môn chết thì ông Nhiên và ông Mạnh mâu thuẫn về nội dung di chúc. Tòa án xử
theo hướng công nhận di chúc của cụ Môn là hợp pháp.
Tóm tắt bản án 363/2013/DS-GĐT
Nguyên đơn là bà Chim và bà Bay, bị đơn là bà Sáu và bà Lên. Vấn đề ở đây là di chúc
được bà Sáu và bà Lên trình lên có được xem là hợp pháp hay không. Nguyên nhân là do
tờ di chúc mà bà Sáu và bà Lên nói rằng là của cụ Nhà có điều kiện, người hưởng thừa kế
thực hiện điều kiện thì mới được hưởng di sản. Tòa án giải quyết theo hướng không công
nhânn di chúc đó là hợp pháp.
Câu 6: Cho biết thực trạng văn bản pháp luật liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di
chúc (về thời điểm, cách thức và hình thức thay đổi, hủy bỏ).
Hiện nay, đã có quy định pháp luật liên quan đến vấn đề thay đổi, hủy bỏ di chúc. Cụ thể
là Điều 640 BLDS 2015.
Điều 640 BLDS 2015 quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc:
“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung thay thế hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ
lúc nào.
2. Trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có
hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu
thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị
hủy bỏ.”
=> Suy ra:
- Thời điểm thay đổi hủy bỏ di chúc là bất cứ lúc nào khi người để lại di chúc còn
sống.

22
- Cách thức: Thay đổi di chúc gồm có sửa đổi, bổ sung, thay thế di chúc. Hủy bỏ
di chúc gồm có hủy bỏ minh thị và hủy bỏ mặc nhiên.
Chỉ có người lập di chúc mới có quyền thay đổi, hủy bỏ di chúc.
- Hình thức thực hiện việc thay đổi di chúc phải tuân theo các thể thức và thủ tục
luật định tương tự như việc lập một di chúc mới. Còn hủy bỏ di chúc thì không cần
tuân theo.
Câu 7: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc là ngầm định (tức
người lập di chúc không cần nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc) không? Vì
sao?
- Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không nên ngầm định.
- Vì nếu như người lập di chúc không nói rõ là họ thay đổi hay hủy bỏ di chúc thì sẽ
không có ai hiểu đúng việc họ làm (người nghĩ là đã thay đổi hoặc hủy bỏ, người
thì không). Vì vậy, đến khi phân chia di sản thì không những ý chí của người để
lại di sản không được thể hiênn đúng mà những người thừa kế cũng có thể xảy ra
mâu thuẫn nhiều hơn vì cách hiểu của mỗi người khác nhau, gây ra nhiều rắc rối
hơn trong việc giải quyết di sản thừa kế.
- Cụ thể, trong các bản án trên thì người để lại di sản đều để lại di chúc mới hay
“đơn xin hủy bản di chúc" để thay đổi hay hủy bỏ bản di chúc của mình. Đây là
biểu hiện của việc nói rõ mình thay đổi hay hủy bỏ di chúc.
Câu 8: Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc có phải tuân thủ
hình thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ không? Vì sao?
- Trong thực tiễn xét xử, việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc không cần tuân theo hình
thức của di chúc bị thay đổi hay hủy bỏ.
- Vì việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc cũng tương tự như việc lập ra một di chúc
mới, do vậy người lập do chúc có thể lựa chọn một hình thức nào đó phù hợp,
không cần tuân theo hình thức cố định của di chúc cũ.
Câu 9: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong 3 quyết
định trên (3 quyết định đầu) liên quan đến thay đổi, hủy bỏ di chúc.
- Theo nhóm em, hướng giải quyết của Tòa án trong 3 quyết định trên liên quan đến
thay đổi, hủy bỏ di chúc là hợp lí.
- Vì:
+ Trong quyết định số 619/2011/ DS-GĐT, vẫn chưa có câu trả lời tại sao bà Lan
không tự viết “Đơn xin hủy bản di chúc” mà phải nhờ cháu ngoại của mình viết,
nếu nhờ viết thì nội dung đơn có đúng ý chí của bà Lan hay không. Do vậy không
đủ căn cứ để hủy bản di chúc, phải xem xét thêm.

23
+ Trong quyết định số 767/2011/DS-GĐT, có thể thấy “Tờ cam kết" có khả năng
không đúng theo ý chí của cụ Trượng, do vậy bản di chúc năm 1999 có hiệu lực
pháp luật.
+ Trong quyết định số 194/2012/DS-GĐT, “Biên bản cuộc họp gia đình cụ Bùi
Hữu Môn" là một hình thức của di chúc. Cụ Môn đã phân chia phần di sản của
mình cho các con trong biên bản này và đã được các con chứng kiến và đồng
thuận, do đó bản di chúc này hợp pháp.
Câu 10: Đoạn nào cho thấy trong Quyết định 363, Tòa án xác định di chúc là có điều
kiện? Cho biết điều kiện của di chúc này là gì?
- Trong quyết định số 363/2013/DS-GĐT có đoạn: “Như vậy, di chúc này thuộc loại
di chúc có điều kiện, khi xem xét công nhận di chúc có , phải xem xét những điều
kiện được nêu trong di chúc có được đảm bảo thực hiện hay không.”
- Điều kiện nêu trong di chúc là: bà Sáu và bà Liên được trọn quyền sử dụng phần
đất này, đồng thời có trách nhiệm thờ cúng ông bà tổ tiên nhưng không được
quyền cầm cố hay chuyển nhượng và phải nuôi dưỡng ông Cu khi bị ốm đau, bệnh
hoạn hoặc tuổi già.
Câu 11: Cho biết thực trạng văn bản quy phạm pháp luật về di chúc có điều kiện ở
Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào chính thức quy định
về di chúc có điều kiện một cách rõ ràng cả.
Câu 12: Cho biết hệ quả pháp lý khi điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng.
Nếu điều kiện đối với di chúc không được đáp ứng thi người thừa kế sẽ không được thừa
hưởng di sản (trong trường hợp là những điều kiện ấy không vi phạm điều cấm, không
trái với đạo đức xã hội).
Câu 13: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về di chúc có điều kiện ở Việt Nam (có nên
luật hóa trong BLDS không? Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung nào?)
- Di chúc có điều kiện nên được luật hóa ở Việt Nam để hoàn thiện hơn hệ thống
pháp luật Việt Nam.
- Nếu luật hóa thì cần luật hóa những nội dung như:
+ Điều kiện của di chúc như thế nào mới hợp pháp?
+ Thời gian thực hiện điều kiện đó là bao lâu?
+ Nếu người hưởng thừa kế không thực hiện điều kiện thì di sản được xử lý như
thế nào?
+ Những thủ tục pháp lý cần dùng cho di chúc có điều kiện là gì?

24
Tóm tắt Án lệ số 24/2018/AL về di sản thừa kế chuyển thành tài sản thuộc quyền sở
hữu, quyền sử dụng hợp pháp của cá nhân.

Nguyên đơn: bà Phạm Thị H, bà Phạm Thị H1, bà Phạm Thị H2

Bị đơn: ông Phạm Văn H3

Nội dung: Nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các thừa kế của cụ H thống nhất phân
chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác định phần đất 110m2 trong đó phần
bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã được thực hiện trên thực tế và đã
được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa thuận phân chia không vi phạm
quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên có cơ sở xác định nhà, đất
không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển thành quyền sử dụng đất
hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có quyền khởi kiện đòi lại
44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm 1991; tài sản là di sản
thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu chia di sản của cụ
H, cụ V nữa.

Câu 1: Trong án lệ số 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy đã có thỏa thuận phân
chia di sản ?

Năm 1991, cụ V đứng ra chia mảnh đất trên cho bảy con: Bốn con trai mỗi người 1 phần,
còn 1 phần (có chiều ngang 3m giáp đường, diện tích 44,4m2) chia chung cho ba con gái
(là các nguyên đơn). Ngay sau khi được chia, ông Đ đã bán lấy tiền vào tỉnh Sông Bé (cũ)
sinh sống; ông T, ông Q đã nhận đất xây dựng nhà ở. Phần các bà được chia nằm liền với
phần đất cụ V chia cho ông H3 (có chiều ngang 4m giáp đường). Riêng ông H3 lúc đó đã
có nhà đất ở nơi khác nên ông cũng chưa sử dụng phần đất được chia. Thời điểm này các
bà đang ở miền Nam nên ông H3 trông nom cả phần đất các bà được cụ V chia và đất của
ông được chia, tổng diện tích hai phần là 110m2 (chiều ngang 7m). Nhiều năm sau đó
ông H3 vẫn thừa nhận là đất của các bà được chia ông trông nom.

Câu 2: Trong án lệ sô 24/2018/AL, nội dung nào cho thấy thỏa thuận phân chia di
sản đã được Tòa án chấp nhận?

Với các chứng cứ trên, đủ cơ sở xác định nhà đất của cụ V, cụ H đã được cụ V và các
thừa kế của cụ H thống nhất phân chia tài sản chung xong từ năm 1991 và đủ cơ sở xác
định phần đất 110m2 trong đó phần bà H, bà H1 và bà H2 là 44,4m2. Việc phân chia đã

25
được thực hiện trên thực tế và đã được điều chỉnh trên sổ sách giấy tờ về đất đai; thỏa
thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của bất cứ thừa kế nào, không ai tranh chấp nên
có cơ sở xác định nhà, đất không còn là di sản thừa kế của cụ V, cụ H nữa mà đã chuyển
thành quyền sử dụng đất hợp pháp của các cá nhân. Vì vậy, bà H, bà H1, bà H2 chỉ có
quyền khởi kiện đòi lại 44,4m2 đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp do được chia từ năm
1991; tài sản là di sản thừa kế của cha mẹ không còn nên không có cơ sở chấp nhận yêu
cầu chia di sản của cụ H, cụ V nữa.

Câu 3: Suy nghĩ của anh/ chị về việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia di sản
trên? Anh/ chị trả lời câu hỏi này trong mối quan hệ với yêu cầu về hình thức và nội
dung đối với thỏa thuận phân chia di sản.

Việc Tòa án chấp nhận thỏa thuận phân chia tài sản là hoàn toàn thuyết phục. Bởi vì,
trong phần nhận định của Tòa án ta thấy những người thừa kế đã thống nhất với nhau về
tình trạng của di sản và tỉ lệ của khối di sản. Qua đó thấy được đã có sự thỏa thuận phân
chia di sản.

Chủ thể tham gia: Án lệ có ghi nhận thỏa thuận phân chia không vi phạm quyền lợi của
bất của bất cứ thừa kế nào. Vì vậy, về mặt nội dung thì thỏa thuận phân chia di sản này là
hợp pháp. Khi cụ H mất thì có 7 người con và cụ V còn sống, vậy có 8 người thừa kế di
sản của cụ H. Theo tình tiết vụ việc cho thấy 8 người này đã thống nhất phân chia khối tài
sản là nhà, đất, trong đó có phần di sản của cụ ông. Như vậy, về chủ thể tham gia, những
chủ thể tham gia và quyền lợi của họ đều được đảm bảo và Án lệ đã khẳng định không ai
tranh chấp. Vì vậy xét về mặt nội dung, thỏa thuận này là đáp ứng các yêu cầu về chủ thể.

Về hình thức: Việc phân chia di sản không được lập bằng văn bản, không được công
chứng, chứng thực mặc dù di sản ở đây là nhà đất. Tuy nhiên, thời điểm diễn ra việc phân
chia di sản này diễn ra ở năm 1991, lúc này pháp lệnh về thừa kế đang có hiệu lực nhưng
lại không rõ nét về hình thức của thỏa thuận phân chia di sản. Và vụ việc đã xảy ra hơn
hai năm cũng như việc chia di sản đã được thực hiện theo thỏa thuận nên không có cơ sở
vô hiệu.

Câu 4: Sự khác nhau cơ bản giữa tranh chấp di sản và tranh chấp tài sản.

Theo Điều 612 của BLDS 2015 “ Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Đối với tài sản lại có khái niệm

26
rộng hơn, có thể bao gồm cả di sản. Từ thời điểm thỏa thuận phân chia di sản, di sản ấy
chấm dứt và các phần được chia sẽ trở thành tài sản riêng của cá nhân.

Câu 5: Trong án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa
thuận trên là tranh chấp về di sản hay tranh chấp về tài sản?

Trong án lệ số 24/2018/AL, tranh chấp về tài sản đã được chia theo thỏa thuận trên là
tranh chấp về tài sản. Vì nội dung án lệ có nhắc “ có cơ sở xác định nhà đất không còn là
di sản thừa kế nữa”. Khi thỏa thuận phân chia di sản đã có giá trị pháp lí thì di sản phân
chia chấm dứt. Nên không thể yêu cầu chia di sản thừa kế. Từ thời điểm phân chia di sản,
di sản ấy chấm dứt và các phần được chia sẽ trở thành tài sản riêng của từng người. Nếu
có tranh chấp về phần được chia, thì đó là tranh chấp về việc đòi tài tài sản, các quy định
về việc đòi tài sản được áp dụng.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong
Án lệ số 24/2018/AL.

Theo nhóm em, hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao trong án lệ số 24 là
hợp lí. Vì trong trường hợp này, phải xác định nhà đất đó đã chuyển thành sở hữu quyền
sử dụng hợp pháp của các cá nhân, những người này chỉ có quyền khởi kiện đòi lại nhà
đất được chia đang bị người khác chiếm hữu, sử dụng bất hợp pháp. Án lệ số 24 giải
quyết được 2 vấn đề pháp lý là công nhận thỏa thuận (bằng miệng và hành vi) về phân
chia di sản (thỏa thuận tồn tại và có giá trị pháp lý) và cho biết hệ quả của việc công nhận
thỏa thuận phân chia di sản (không áp dụng quy định về yêu cầu chia di sản mà áp dụng
quy định về đòi tài sản riêng như không áp dụng thời hiệu yêu cầu chia di sản).

Tóm tắt án lệ số 05/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân

Bị đơn: ông Nguyễn Chí Trải, chị Nguyễn Thị Thúy Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào

Nội dung: Cụ Hưng chết năm 1978, theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm
1959 thì ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng. Phần tài sản ông Trải
được hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư. Bà Tư chết năm
1980, các thừa kế của bà Tư gồm ông Trải và 03 người con của ông Trải, bà Tư trong đó
có chị Phượng.Tuy chị Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ
Hưng, cụ Ngự, nhưng là cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa

27
chữa nhà nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phượng không yêu cầu xem xét
công sức vì chị Phượng cho rằng vụ án đã hết thời hiệu chia thừa kế, không đồng ý trả
nhà đất cho các thừa kế. Như vậy, yêu cầu của chị Phượng đề nghị xác định quyền lợi là
lớn hơn yêu cầu xem xét về công sức, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem
xét công sức cho chị Phượng là giải quyết chưa triệt để yêu cầu của đương sự.

Câu 1: Trong án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ
phần thừa kế của cụ Hưng có thuyết phục không? Vì sao?

Trong án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế
của cụ Hưng là thuyết phục. Vì theo Điều 651 BLDS 2015 có quy định :

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc
từ chối nhận di sản.”

Vậy nên ông Trải được hưởng 1/7 kỷ phần thừa kế của cụ Hưng cùng với vợ cụ và năm
người anh khác.

Câu 2: Trong án lệ số 05/2016/AL, Tòa án xác định phần tài sản ông Trải được
hưởng của cụ Hưng là tài sản chung của vợ chồng ông Trải, bà Tư có thuyết phục
không? Vì sao?

Theo nhóm em là không thuyết phục. Vì theo Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình 2000
quy định về tài sản riêng của vợ, chồng cụ thể là:
28
"1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi
người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ
hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và
Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.

2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung".

Vậy nên đây là phần tài sản mà ông Trải được hưởng của cụ Hưng có thể coi là tài sản
riêng.

Câu 3: Trong án lệ số 05/2016/AL, Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công
sức quản lí di sản có thuyết phục không? Vì sao?

Tòa án theo hướng chị Phượng được hưởng công sức quản lí di sản là hoàn toàn thuyết
phục. Vì chị Phượng đã có công sức quản lí di sản, trong án lệ có đề cập: “Tuy chị
Phượng không phải thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hưng, cụ Ngự, nhưng là
cháu nội của hai cụ và có nhiều công sức quản lý, đã chi tiền sửa chữa nhà.” Đây là điểm
án lệ rất thuyết phục để bảo vệ người quản lí di sản.

29

You might also like