You are on page 1of 31

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài


Trong cuộc sống, trong giao tiếp hằng ngày con người luôn có nhu cầu giao tiếp
theo một phương thức nào đó để đạt được những mục đích của mình, luôn phải ứng
phó với biết bao tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc thật phức tạp. Xã hội càng
văn minh thì nhu cầu trong giao tiếp của con người càng cao. Ứng xử một cách thông
minh, khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật, ngày nay còn
được coi như bí quyết để hạnh phúc, thành công trong cuộc sống, trong công việc và
học tập. Tuy nhiên trong cuộc sống hiện đại và phức tạp, đây lại là một điều không dễ
dàng. Văn hóa ứng xử là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong việc
thiết lập quan hệ trong xã hội của mỗi người, đặc biệt là với sinh viên, tầng lớp được
coi là có giáo dục cao. Văn hóa ứng xử của sinh viên ngày nay đã có nhiều thay đổi và
xuất hiện những yếu tố ứng xử mới. Văn hóa ứng xử nói chung và của sinh viên nói
riêng chịu tác động của nhiều yếu tố như truyền thống dân tộc, địa phương, gia đình,
dòng tộc, sự phát triển của kiểu tế xã hội và hội nhập toàn cầu. Mỗi sinh viên có cách
ứng xử riêng của mình, sinh viên - độ tuổi đẹp nhất, tràn đầy nhựa sống với bao nhiêu
hoài bão, niềm đam mê muốn theo đuổi, suy nghĩ hành động nghiêng nhiều theo cái
tôi cá nhân thể hiện lối sống của chính bản thân. Nó thể hiện tầm nhìn, trình độ nhận
thức, trình độ hiểu biết, trình độ học vấn, đạo đức, nếp sống, suy nghĩ, hành vi của mỗi
sinh viên. Văn hóa ứng xử là một môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và
giáo dục đạo đức của mỗi sinh viên. Trong giảng đường đại học, văn hóa ứng xử của
sinh viên cảng được quan tâm hơn nữa bởi nếu trong môi trường học đường thiếu văn
hóa ứng xử chuẩn mực thì sẽ ảnh hưởng đến việc truyền tải những tri thức và việc học
tập của sinh viên. Hơn nữa, trường đại học là nơi cung cấp nguồn nhân lực trình độ
cao, cho nên có thể nói rằng văn hóa ứng xử của sinh viên trong trường đại học sẽ tạo
dấu ấn đậm nét trong lối ứng xử của họ trong các cơ quan, công sở, tổ chức,... mà họ
sẽ làm việc sau này. Vì vậy mà nhà trường ngoài việc chủ trọng vào chất lượng đào
tạo cũng đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng văn hóa ứng xử chuẩn mực, đưa ra các
biện pháp để nâng cao văn hóa ứng xử của sinh viên.

Hà Nội là trung tâm kinh tế - xã hội và văn hóa của nước ta đồng thời cũng là nơi
tập trung nhiều nhất các trường đại học, là nơi học tập để có hành trang tri thức cũng
như tu dưỡng đạo đức nhân cách, rèn luyện những thế hệ sinh viên thành những công
dân có ích cho xã hội. Do đó nhóm đã đi vào nghiên cứu đề tài “Văn hóa ứng xử của
sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội ”
để tìm hiểu những biểu hiện cũng như những nguyên nhân tác động đến văn hóa ứng
xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên từ đó đưa ra những đánh giá cũng như các
giải pháp nhằm nâng cao văn hóa ứng xử của sinh viên tại một số trường đại học trong
thời gian tới. Qua đây nêu cao những mặt tốt đẹp, phê phán những mặt hạn chế trong
văn hóa ứng xử của sinh viên để xây dựng văn hóa ứng xử ngày càng tốt đẹp hơn.

2. Tính mới của đề tài


Văn hóa ứng xử nói chung, văn hóa ứng xử của sinh viên đối với giảng viên nói
riêng là một đề tài nghiên cứu có tầm quan trọng rất lớn trong việc tạo môi trường rèn
luyện nhân cách và giáo dục đạo đức của mỗi sinh viên. Do đó, ở những phạm vi
nghiên cứu khác nhau, các cách tiếp cận khác nhau đều ít nhiều có đề cập đến nội
dung này. Đã có những sách và tài liệu tìm hiểu viết về văn hóa ứng xử như: Nguyễn
Thanh Tuấn (2008) – “Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay”, Lê Thị Bừng (1997) –
“Tâm lý học ứng xử”, Phạm Minh Thảo (2000) – “Nghệ thuật ứng xử của người
Việt”… Và một số công trình nghiên cứu liên quan đến văn hóa ứng xử như: Công
trình luận án nghiên cứu về đề tài văn hóa ứng xử như: Luận văn thạc sĩ Khoa Văn hóa
học, Hà Nội: “ Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh với việc xây dựng con người mới hiện
nay” Cao Hải Yến (2001); Luận văn văn hóa ứng xử của người Hà Nội trong thời kỳ
đổi mới hiện nay; GS, Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục. Trong cuốn sách này, tác giả đã không trình bày khái niệm văn hóa ứng xử,
nhưng đã xác định những nội hàm của khái niệm này. Tác giả cho rằng các cộng đồng
chủ thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường: môi trường tự nhiên
(thiên nhiên, khí hậu…) và môi trường xã hội (các quốc gia láng giềng). Với mỗi loại
môi trường, đều có cách thức xử thế phù hợp là tận dụng và ứng phó.
Hiện nay, văn hóa ứng xử được nghiên cứu trong tất cả các lĩnh vực trong đó có
môi trường học đường. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau: Luận văn thạc
sĩ giáo dục học: “Giáo dục văn hóa ứng xử cho sinh viên trường Cao đẳng văn hóa
nghệ thuật Việt Bắc” của tác giả Trần Thanh Ngà, trường Đại học sư phạm, Đại học
Thái Nguyên. Luận văn thạc sĩ : “Biện pháp xây dựng văn hóa nhà trường ở trường
Cao đẳng công nghiệp Nam Định” của tác giả Lê Thị Ngoãn, trường Đại học Thái
Nguyên. Luận văn thạc sĩ giáo dục học: “Thực trạng nhận thức của sinh viên sư phạm
về các giá trị văn hóa trong ứng xử” của tác giả Nguyễn Văn Bắc, Đại học Huế. Ngoài
ra, còn rất nhiều các bài nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp của các bạn sinh viên về đề
tài văn hóa ứng xử học đường.

Tuy có sự phong phú về nội dung, các cách tiếp cận, đặt vấn đề và đối tượng
nghiên cứu cụ thể song các các công trình nghiên cứu hiện có chưa đề cập đến văn hóa
ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường đại học thuộc các
khối ngành khác nhau. Đây là một nội dung nghiên cứu tương đối mới, có vai trò rất
quan trọng trong việc góp phần nâng cao văn hóa, tạo môi trường học tập lành mạnh
cho thế hệ trẻ. Do đó, từ thực tiễn tại các trường đại học, nhóm lựa chọn đề tài nghiên
cứu về văn hóa ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường đại
học trên địa bàn Hà Nội nhằm phân tích, đánh giá văn hóa ứng xử của sinh viên đối
với cán bộ giảng viên trên cơ sở lý luận để từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nâng cao
văn hóa ứng xử của sinh viên nói chung, và của sinh viên đối với cán bộ giảng viên
nói riêng; bổ sung vào các nghiên cứu về văn hóa ứng xử nói chung và văn hóa ứng xử
trong môi trường đại học nói riêng.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu


3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nhóm tác giả chọn đề tài: “Văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng
viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội” để nghiên cứu nhằm hướng đến
các mục tiêu cơ bản sau:
Một là, hệ thống hóa, phân tích tổng quan về văn hoá ứng xử của sinh viên đối
với cán bộ giảng viên. Từ đó chỉ ra những khái niệm liên quan đến đề tài như: khái
niệm văn hoá, ứng xử, văn hoá ứng xử, sinh viên và giảng viên, văn hoá ứng xử của
sinh viên đối với cán bộ giảng viên. Đồng thời đi phân tích được đặc điểm và vai trò
văn hoá ứng xử của sinh viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay;
Hai là, tìm hiểu thực trạng và đánh giá văn hóa ứng xử của sinh viên đối với cán
bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội, nhằm làm rõ sự khác biệt
rõ rệt, các biểu hiện cụ thể thông qua bảng hỏi khảo sát ý kiến của sinh viên các khối
ngành đại diện (Kinh tế, Kỹ thuật, Văn hoá);
Ba là, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nâng cao văn hóa ứng
xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà
Nội;
Cuối cùng từ những thông tin, kết quả trong đề tài có thể trở thành nguồn tham
khảo cho các tác phẩm, công trình nghiên cứu liên quan của các tác giả khác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trên thì nhóm tác giả đã phải tìm hiểu rõ
về các cơ sở lý luận, tổng quan những vấn đề khoa học liên quan tới đề tài văn hóa ứng
xử;
Khảo sát thực tế thông qua phát phiếu điều tra và phỏng vấn sâu để biết được
những thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số
trường Đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay. So sánh để thấy được những nét khác
biệt trong văn hóa ứng xử của sinh viên các khối ngành đại diện như: Kinh tế - Trường
Đại học kinh tế Quốc Dân; Kỹ thuật - Đại học Bách Khoa; Văn hoá - Đại học Khoa
học Xã hội & Nhân văn trên địa bàn Hà Nội;
Từ kết quả nghiên cứu nhóm đưa ra một số giải pháp nâng cao văn hóa ứng xử
của sinh viên với cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên.
4. Đối tượng, khách thể phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên với
cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội dựa trên các đặc điểm
về hành vi ứng xử, thái độ ứng xử, cử chỉ ứng xử, ngôn ngữ ứng xử.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là sinh viên tại một số Trường Đại học trên địa
bàn Hà Nội.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 31/5/2023 đến tháng 15/2/2024.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại một số Trường Đại học trên địa bàn Hà
Nội. Cụ thể nhóm tác giả đã thực hiện khảo sát điều tra bằng phương pháp bảng hỏi
với số lượng 100 phiếu/trường Đại học. Đại diện 3 khối ngành: Kinh tế - Trường Đại
học kinh tế Quốc Dân; Kỹ thuật - Đại học Bách Khoa; Văn hoá - Đại học Khoa học Xã
hội & Nhân văn.
- Phạm vi nội dung: nghiên cứu tập trung về văn hoá ứng xử của sinh viên với
cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội. Từ đó, nhóm đã đi
phân tích sâu về thực trạng của vấn đề văn hoá ứng xử của sinh viên đối với giảng viên
tại một số trường Đại học. Qua đó, nhóm đi tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên và đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế nguyên nhân lệch lạc trong văn hoá ứng
xử của sinh viên đối với giảng viên.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu, đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết lẫn thực tiễn đều được áp dụng nhằm làm
rõ vấn đề cần nghiên cứu như: phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp quan sát, phương pháp
Anket (Mẫu điều tra bằng bảng hỏi),..
Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu
Đây là phương pháp nhằm xử lý dữ liệu được thu thập qua việc đọc từ các nguồn
khác nhau như sách, báo hoặc từ mạng xã hội, internet để từ đó phát hiện vấn đề
nghiên cứu, xây dựng đề cương từng bước giải quyết vấn đề nghiên cứu. Các dữ liệu
sau khi được xử lý sẽ cung cấp tri thức cần thiết để giải quyết các vấn đề lý luận, thực
tiễn cũng như đi đến thực hiện các phương pháp tiếp theo.
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Đối với phương pháp phân tích và tổng hợp, các bộ phận tri thức được phân chia
nhằm đi sâu nhận thức từng phần sau đó đi đến thống nhất, liên kết các bộ phận tri
thức đó nhằm có nhận thức toàn bộ, tổng quan của tri thức. Để nghiên cứu về văn hoá
ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn
Hà Nội phải phân tích từ các khái niệm, đặc điểm chung nhất về văn hoá ứng xử; đi
đến phân tích văn hoá ứng xử trong trường đại học giữa sinh viên với cán bộ giảng
viên nói chung và tại các trường Đại học cụ thể. Khi tổng hợp các tri thức trên sẽ
được thực trạng chung cũng như những điểm khác biệt của văn hoá ứng xử giữa sinh
viên đối với cán bộ giảng viên ở các trường Đại học thuộc khối ngành khác nhau (kinh
tế, kỹ thuật, xã hội).
Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng để nhằm chỉ ra sự khác biệt trong văn hoá ứng
xử sinh viên 3 khối ngành: kinh tế, kỹ thuật, xã hội dựa trên các tiêu chí cụ thể.
Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát văn hoá ứng xử của các sinh viên của các trường Đại học trên
địa bàn Hà Nội được phản ánh thông qua những cử chỉ, hành vi, lời nói của các sinh
viên này; từ đó đưa ra kết luận, so sánh đối chiếu giữa sinh viên các trường thuộc khối
ngành khác nhau ở chương 2.
Phương pháp Anket (Mẫu điều tra bằng bảng hỏi)
Bảng hỏi được xây dựng dựa trên các nhiệm vụ của bài nghiên cứu tiến hành điều
tra trên 300 sinh viên đến từ ba trường Đại học đại diện cho ba khối ngành trên địa bàn
Hà Nội (số lượng sinh viên điều tra ở mỗi trường là 100 sinh viên). Kết quả điều tra sẽ
được tổng hợp, tính toán và thể hiện bằng bảng số liệu.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm ba phần chính tương ứng với 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ
giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu về văn hoá ứng xử của
sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà
Nội.
Chương 3: Thực trạng văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng
viên tại một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội.
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HOÁ ỨNG XỬ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI CÁN
BỘ GIẢNG VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm văn hoá
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên
quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong cuộc sống hàng
ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như: thơ ca, mỹ thuật, sân
khấu, điện ảnh… Theo một cách hiểu thông thường khác, văn hóa là cách sống bao
gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận…
Tại Hội nghị Quốc tế các nhà văn học họp tại Mexico do Unesco tổ chức năm
1982, trên cơ sở 200 định nghĩa khác nhau về văn hóa, bản tuyên bố chung của hội
nghị đã chấp nhận một quan niệm về văn hóa như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất văn
hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết
định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”.
Như vậy dưới góc độ xã hội học thì văn hóa là một hiện tượng xã hội gắn với đời
sống xã hội, còn nội dung của văn hóa chính là những sản phẩm của hoạt động thực
tiễn có sự sáng tạo của con người, luôn được chắt lọc, kế thừa phù hợp với đời sống và
đem lại những giá trị cho con người.
Trong Từ điển tiếng Việt văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn.
Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi, hiện
đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống… Theo Đại Từ điển tiếng Việt “Văn hóa
là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”1.
Khi nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội của mình”2.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên
được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri
1 Nguyễn Như Ý, “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nxb Văn hóa Thông tin, năm 1998
2 Trần Ngọc Thêm (1999), “Cơ sở văn hoá Việt Nam”, Nxb Giáo dục
thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng,
ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị,
truyền thống và đức tin. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng cho sự phát triển của
loài người qua các thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống văn hóa là một đất nước
giàu có về tinh thần”.
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan
hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên
con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển
trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát
triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức
đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà
do con người tạo ra.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và
Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa,
trong đó có khái niệm: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã
hội”3.
Tóm lại, Văn hoá chính là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và giá trị tinh
thần do con người sáng tạo nên được tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên - xã hội.
1.1.2 Khái niệm ứng xử
Ứng xử là cách thể hiện thái độ, hành vi hay chính là sự giao tiếp, là sự phản ứng
của con người trước sự tác động của người khác với mình trong một tình huống nhất
định được thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt
kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người với nhau 4. Điều này được thể hiện rất rõ
qua phong tục tập quán, qua thơ văn ca nhạc ca dao tục ngữ thuần việt từ xa xưa tới
nay. Có thể ví dụ như câu “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “kính trên nhường dưới”,
“mất lòng trước, được lòng sau” hay “ muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”, đó đều là

3 Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb Đà Nẵng


4 Tô Lan Phương, “Hành vi ứng xử văn hóa trong giới trẻ”, Báo Nhân dân, nguồn: https://nhandan.vn/hanh-vi-
ung-xu-van-hoa-trong-gioi-tre-post559058.html, truy cập ngày 18/09/2023
những kinh nghiệm đúc kết được cha ông ta truyền lại một cách dân dã nhưng nó thể
hiện rõ ứng xử trong xã hội đã đi sâu vào đời sống con người Việt xưa.
Như vậy ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người
khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người
không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính
toán, thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng tùy thuộc vào trí thức, kinh
nghiệm và cá tính nhằm đạt được kết quả giao tiếp cao nhất.
1.1.3 Văn hoá ứng xử
Văn hóa ứng xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng là một trong những “lát cắt”
quan trọng phản ánh văn hóa cộng đồng, quốc gia - dân tộc; phản ánh vẻ đẹp tâm hồn,
là cánh cửa mở ra mọi thế giới giữa con người với nhau. Văn hóa ứng xử được lưu giữ
trên cơ sở có sự tiếp biến trong mỗi thế hệ và các giai đoạn lịch sử khác nhau. Mặc dù
xã hội thay đổi, nhưng văn hóa - giao tiếp ứng xử luôn có tầm quan trọng đặc biệt, bởi
nó thể hiện triết lý sống, tư duy, hành động của một cộng đồng trong ứng xử và giải
quyết những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, với
xã hội5.
Theo nghiên cứu “Văn hóa ứng xử của người Hà Nội trong thời kỳ đổi mới hiện
nay”, tác giả xác định văn hóa ứng xử được hình thành từ khuôn mẫu ứng xử, có tính
lịch sử có thể gắn với điều kiện, môi trường cụ thể, và sau cùng, Văn hóa ứng xử là
văn hóa hành động (ứng phó và xử lý) của con người trong môi trường văn hóa lịch sử
- cụ thể, cho nên nó được thể hiện và thực hiện thông các những khuôn mẫu (chuẩn
mực, tiêu chí, quy ước, quy chế ...) và cả những kỹ năng ứng xử.
Cụ thể văn hóa ứng xử thông thường được chi phối bởi bốn hệ chuẩn cơ bản của
nhân cách: hệ chuẩn mực trong lao động; hệ chuẩn mực trong giao tiếp; hệ chuẩn mực
gia đình; các chuẩn mực phát triển nhân cách. Trong quá trình ứng xử, con người luôn
phải lựa chọn giữa cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai, cái đẹp và cái xấu, cái hợp
lý và cái phi lý... Sự lựa chọn này bị chi phối cũng bởi bốn hệ chuẩn mực là: hệ chuẩn
mực đạo đức, hệ chuẩn mực luật pháp, hệ chuẩn mực thẩm mỹ và trí tuệ, hệ chuẩn
mực về niềm tin.
Như vậy có thể tóm lại những quan niệm trực tiếp hoặc gián tiếp của các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam về văn hóa ứng xử bao gồm: thái độ, cách thức quan hệ, hành
động và cả những kỹ năng nhằm tận dụng ứng phó và thể hiện tình người với môi

5 “Văn hóa ứng xử trong thời đại số”, Trang thông tin điện tử, nguồn: https://binhdinh.dcs.vn/chinh-tri/-/view-
content/163890/van-hoa-ung-xu-trong-thoi-dai-so, truy cập ngày 18/09/2023
trường thiên nhiên, môi trường xã hội và với bản thân. Những yếu tố ấy bị chi phối bởi
các giá trị được biểu hiện dưới dạng chuẩn mực xã hội.
Văn hóa ứng xử là nét đẹp của mỗi người thể hiện qua lời nói, thái độ, cử chỉ,
hành động đối tự nhiên, với xã hội và chính bản thân. Con người trong quá trình sống
luôn có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với môi trường sống và luôn chịu sự tác động
của môi trường ấy. Vì vậy đòi hỏi con người phải luôn tu dưỡng, rèn luyện và gìn giữ
những giá trị cốt lõi của bản thân. Đây là tiền đề quan trọng để xây dựng văn hóa ứng
xử cho sinh viên trong nhà trường.
1.1.4 Khái niệm sinh viên và giảng viên
Sinh viên là một bộ phận của thanh niên, là những người có độ tuổi từ 18 – 19
đến 24 – 25 đang theo học tại các trường đại học và cao đẳng. Họ là những người đang
chuẩn bị gia nhập vào đội ngũ trí thức của xã hội. Đó là những người đang trưởng
thành về mặt xã hội, hoàn thiện thể lực, định hình nhân cách học tập để tiếp thu những
tri thức, kĩ năng phục vụ cho một lĩnh vực nghề nghiệp. Sinh viên là lực lượng trí thức
trẻ có vai trò quan trọng trong quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, là
tầng lớp có năng lực tiếp thu những kiến thức mới và là hình ảnh tiêu biểu, đại diện
cho quốc gia. Bên cạnh đó, sinh viên là những người trẻ tuổi, chưa độc lập về kinh tế
và thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị dao động, dễ bị cuốn vào lối sống tự do và các tệ nạn
xã hội. Vì vậy mà vai trò của việc giáo dục trong nhà trường là rất cần thiết trong đó
có việc xây dựng văn hóa ứng xử trong trường là một trong những nội dung quan
trọng.
Giảng viên đại học là công chức chuyên môn đảm nhiệm việc giảng dạy và đào
tạo bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường đại học hoặc
cao đẳng. Trong các trường đại học, giảng viên còn là nhà khoa học, nắm vững các
phương pháp khoa học về giảng dạy và giáo dục, biết sử dụng thành thạo các phương
tiện kỹ thuật, công nghệ trong giảng dạy, thường xuyên trau dồi để nâng cao nghiệp vụ
giảng dạy của mình, tham gia tích cực vào nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội.
Theo Điều 54 Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định: “giảng viên trong cơ sở
giáo dục đại học là người có nhân thân rõ ràng, có phẩm chất, đạo đức tốt, có sức khỏe
theo yêu cầu nghề nghiệp, đạt trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ quy định tại điểm e
khoản 1 Điều 77 của Luật Giáo dục”.
Từ các quy định nêu trên, có thể đưa ra khái niệm Giảng viên là người có năng
lực, kỹ năng chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm nhiệm công tác giảng dạy, nghiên
cứu khoa học và các hoạt động khác .
1.1.5 Khái niệm văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên
Theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc thì: “văn hóa học đường là hệ thống các
chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, các thầy cô, các vị phụ huynh và
các em học sinh, sinh viên có cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp” 6. Như
vậy có thể thể hiểu đó chính là những bản nội quy mà mỗi nhà trường xây dựng nên
dựa trên những quy tắc chung trong giáo dục cũng như dựa vào những đặc thù riêng
của từng trường để yêu cầu và mong muốn học sinh, sinh viên tuân thủ.
Văn hóa ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên chính là phép xử sự giữa
sinh viên theo 3 mối quan hệ cơ bản là: ứng xử của sinh viên với sinh viên, ứng xử của
sinh viên với giảng viên, ứng xử của sinh viên với chuyên viên và cán bộ. Phép xử sự
ấy được biểu hiện qua 3 yếu tố: Hành vi, cử chỉ và ngôn từ. Trong đó ứng xử của sinh
viên với giảng viên là mối quan hệ quan trọng nhất hình thành nên văn hóa ứng xử của
sinh viên đối với giảng viên tại các trường Đại học.
1.2. Biểu hiện văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên trong trường
Đại học

Biểu hiện văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên trong môi
trường sư phạm thường được thể hiện thông qua những môi trường, hoàn cảnh,
tình huống cụ thể mà ở đó những phép xử sự được thể hiện qua các yếu tố như:
hành vi, cử chỉ, ngôn từ, thái độ. Trong mối quan hệ giữa sinh viên với cán bộ
giảng viên, sự tương tác xảy ra chủ yếu trong lớp học. Bên cạnh đó, sự tương tác
này còn diễn ra ở bên ngoài phạm vi lớp học: trong khuôn viên trường, trong các
hoạt động ngoại khoá, trong cuộc sống thường ngày.

Thái độ là khía cạnh tiềm năng của các quá trình tâm lý, liên quan đến tính
tích cực chủ quan, có chọn lọc của nhân cách. Lần đầu tiên, thái độ được định
nghĩa trên thực tế bởi hai nhà tâm lý học người Mỹ W.I.Thomas và F. Znaniecki
vào năm 1918 như sau: “Thái độ là trạng thái tinh thần (state of mind) của cá
nhân đối với một giá trị”. Đây là định nghĩa chú trọng đến yếu tố chủ quan bên
trong con người phản ứng với một giá trị làm cho con người đó có các hành
động đối với giá trị đó. Ngày nay, định nghĩa thái độ được hiểu là một thuộc tính

6 Phạm Minh Hạc (2010), “Một số vấn đề giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI”, Nxb Giáo dục Việt Nam
của nhân cách, tạo ra tâm lý sẵn sàng phản ứng lại các tác động khách quan; sẵn
sàng hoạt động của chủ thể đối với đối tượng theo một hướng nào đó, được biểu
hiện ra bên ngoài thông qua nhận thức, cảm xúc-tình cảm và hành vi của chủ thể
đối với đối tượng trong những tình huống, điều kiện nhất định. Cấu trúc của thái
độ do M.Smith đưa ra năm 1942 bao gồm ba thành phần: nhận thức; xúc cảm -
tình cảm; hành vi.

Biểu hiện văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên được thể
hiện qua các nhóm hành vi xử sự. Hành vi được hiểu là những phản ứng, cách
cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong các tình huống cụ thể. Ứng xử
giữa sinh viên và cán bộ giảng viên không thể không kể đến các hành vi mà sinh
viên thực hiện khi trực tiếp tương tác, giao tiếp, tiếp xúc với giảng viên, thể hiện
được phản ứng ra bên ngoài của sinh viên đối với giảng viên đó. Thông qua
hành vi hay nói cách khác là những việc làm cụ thể được sinh viên thực hiện tạo
nên văn hoá ứng xử.

Thái độ và hành vi luôn có sự quy định lẫn nhau. Trong khi hành vi là một
trong ba thành phần cấu thành nên thái độ thì thái độ muốn biểu hiện qua bên
ngoài phải thông qua hành vi. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu hành vi và thái độ ở
đây có sự thống nhất nhưng trong phạm vi đề tài này, phạm trù hành vi dùng để
chỉ đến những biểu hiện bằng hành động mang ý chí ra bên ngoài còn thái độ sẽ
nhằm chú trọng đến nhận thức, tình cảm bên trong nhằm quy định thiên hướng
của hành vi.

Văn hoá ứng xử giữa sinh viên đối với giảng viên còn thể hiện qua các cử chỉ.
Theo định nghĩa, cử chỉ là một hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ hoặc không sử
dụng âm thanh, trong đó những hành động nhìn thấy được của cơ thể chuyển các
thông điệp nhất định; những hành động đó hoặc là thay thế cho, hoặc là kết hợp
với ngôn ngữ nói. Cử chỉ bao gồm chuyển động của bàn tay, khuôn mặt hoặc
các bộ phận khác của cơ thể. Cử chỉ khác với giao tiếp vật lý không lời, không
truyền đạt các thông điệp cụ thể, chẳng hạn như thể hiện biểu cảm thuần túy, ủy
quyền hoặc thể hiện sự chú ý chung. Trong quá trình tương tác, sinh viên sẽ thể
hiện ít nhiều các cử chỉ hướng đến cán bộ giảng viên và từ đó nói lên được nét
văn hoá ứng xử.

Ngôn từ được sử dụng như công cụ chính để giao tiếp và chính nó cũng thể
hiện được văn hoá giao tiếp giữa con người với nhau. Ngôn từ là sự biểu hiện cụ
thể của ngôn ngữ trong giao tiếp sống động của con người qua các lời nói của
một cá nhân mang đậm sắc thái cá nhân để tác động lên một người khác. Vì vậy,
dựa vào những hoàn cảnh, địa vị, cấp bậc giữa những người nói với nhau mà
ngôn từ cũng theo đó mà phản ánh. Khi tương tác giao tiếp, sinh viên cũng cần
chú ý đến ngôn từ mà bản thân sử dụng với cán bộ giảng viên nhằm thể hiện
được văn hoá ứng xử.

1.2.1. Biểu hiện văn hoá ứng xử trong lớp học

Trong môi trường trường học, việc tương tác giữa người dạy và người học
diễn ra chủ yếu trong các tiết học, các giờ dạy học. Không ngoại lệ, trong môi
trường giáo dục đại học, sự tương tác giữa sinh viên và giảng viên thường xuyên
diễn ra trong lớp học - nơi giảng viên là người truyền đạt và trao đổi tri thức với
sinh viên. Chính quá trình tương tác đó, văn hoá ứng xử của sinh viên đối với
cán bộ giảng viên được biểu hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, ngôn từ.

Trong tiết học, sinh viên phải có thái độ tôn trọng giảng viên và bài giảng của
giảng viên, chấp hành nội quy lớp học hay thậm chí có thái độ biết ơn khi được
truyền đạt kiến thức từ giảng viên. Khi đó, sinh viên sẽ chủ động đến lớp đúng
giờ, khi sinh viên vào lớp muộn cần có sự xin phép, chuẩn bị bài học trước khi
đến lớp hoặc tích cực phản hồi trước những yêu cầu hay câu hỏi của giảng viên
về bài học. Trong quá trình dạy học, nếu cần có ý kiến hay câu hỏi, sinh viên
phải giơ tay phát biểu và chờ sự đồng ý của giảng viên mà không được ngắt
ngang bài giảng của giảng viên. Ngoài ra, sinh viên có thể biểu hiện sự biết ơn
bằng lời cảm ơn giảng viên sau mỗi tiết học hoặc sau khi kết thúc một môn học.

Những cử chỉ của sinh viên hướng đến giảng viên cũng phải thể hiện thái độ
lễ phép, kính trọng bởi giảng viên có cấp bậc cao hơn so với sinh viên - quan hệ
giữa thầy và trò. Khi giảng viên vào lớp, tất cả sinh viên ở trong lớp phải đứng
lên để chào hỏi. Nếu trong lớp học, khi cần đưa đồ vật cho giảng viên thì sinh
viên cần có cử chỉ lễ độ: đưa đồ vật bằng hai tay, cúi đầu thể hiện sự lễ phép.
Khi xin phép giảng viên vào lớp muộn, sinh viên cũng cần có cử chỉ cúi đầu
hoặc gật đầu nhẹ biểu hiện sự xin phép.

Ngôn từ mà sinh viên sử dụng khi giao tiếp với giảng viên phải thể hiện sự
kính trọng. Sinh viên không được sử dụng những từ tiếng lóng khó hiểu mà giữa
sinh viên nói với nhau. Trong quá trình phát biểu ý kiến cần phải có những từ:
thưa, vâng, dạ, ạ với ngữ điệu nghiêm túc, nhẹ nhàng, không gay gắt, lên giọng.

1.2.2. Biểu hiện văn hoá ứng xử ngoài lớp học

Ngoài sự tương tác trong phạm vi lớp học, sinh viên và giảng viên cũng có
những sự tương tác với nhau trong những hoàn cảnh như: trong khuôn viên
trường, ứng xử trên mạng xã hội hoặc trong đời sống hàng ngày.

Trong khuôn viên trường thường là nơi mà sinh viên và giảng viên gặp mặt
nhau. Văn hoá ứng xử khi đó thể hiện ở thái độ niềm nở, lễ phép khi sinh viên
chào hỏi giảng viên nếu bắt gặp giảng viên đang đi ở trên sân trường hoặc nơi
cầu thang bộ.. Bất kể giảng viên đó có trực tiếp giảng dạy mình hay không, sinh
viên đều phải chào hỏi nếu biết trước mặt mình là giảng viên. Khi chào hỏi phải
kèm theo cả những cử chỉ như cúi người, gật đầu và không được vẫy tay để
chào. Không chỉ vậy, trong trường hợp cần thiết, sinh viên phải biết nhường
đường đi cho giảng viên (trên đường đi hoặc trên cầu thang bộ) hoặc giúp đỡ
giảng viên bê những đồ vật, tài liệu nặng. Ngôn từ sinh viên để giao tiếp ở ngoài
lớp học vẫn phải đảm bảo sự lễ phép, cung kính đối với giảng viên.

Trong thời đại ngày nay, sinh viên và cán bộ giảng viên có thể mở rộng tương
tác trên cả mạng xã hội hay những phương thức liên lạc khác như: Facebook,
Messenger, Zalo, Gmail,… Cách tương tác giữa sinh viên với giảng viên trên
những nền tảng này có ít nhiều sự khác nhau so với cách tương tác trực tiếp bên
ngoài đời sống. Việc giao tiếp chỉ thông qua những bài đăng, bình luận hay tin
nhắn lại càng chú trọng việc sinh viên phải sử dụng ngôn từ như thế nào cho phù
hợp đối với giảng viên bởi đó là công cụ duy nhất truyền tải được ý nghĩ cũng
như thể hiện văn hoá ứng xử của sinh viên. Ngôn từ được sử dụng phải chuẩn
mực, không sử dụng teencode gây khó hiểu hoặc gây hiểu lầm và sử dụng
những từ ngữ thể hiện sự lễ phép, tôn trọng: thưa, vâng, dạ, ạ. Đối với việc có
những bài đăng hay bình luận công khai có sự tương tác với giảng viên thì cũng
cần giữ gìn sự lễ phép, tôn trọng đó, không được có những lời lẽ xúc phạm, chỉ
trích gây tranh cãi.

Trong đời sống hàng ngày, sinh viên thể hiện thái độ quan tâm, biết ơn đối
với những giảng viên có công lao dạy dỗ, dìu dắt và hướng dẫn mình hoặc vào
những ngày lễ, Tết bằng những câu chúc, lời cảm ơn hoặc quà tặng tri ân. Trong
những trường hợp, giảng viên gặp hoàn cảnh khó khăn cần có thái độ đồng cảm,
sẻ chia hoặc hỗ trợ khi cần thiết.
1.3. Yếu tố ảnh hưởng đến văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ
giảng viên tại trường Đại học
Yếu tố ảnh hưởng đến văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại
trường Đại học được chia thành 2 nhóm đó là các yếu tố chủ quan và yếu tố khách
quan. Yếu tố chủ quan gồm: Tính tích cực của sinh viên. Còn yếu tố khách quan gồm:
mạng xã hội, toàn cầu hoá, giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường.
1.3.1. Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến văn hoá ứng xử của sinh viên
đối với cán bộ giảng viên
1.3.1.1 Mạng xã hội
Hiện nay, việc đăng ký tham gia vào mạng xã hội được thực hiện một cách đơn
giản, dễ dàng và tiện lợi đã thu hút rất nhiều các giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên.
Mạng xã hội đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống hằng
ngày. Mạng xã hội là một trong những công cụ tìm kiếm thông tin, góp phần bổ sung
và bồi đắp thêm những kiến thức cho người học. Mạng xã hội giúp truy cập các thông
tin một cách dễ dàng, giúp kết nối với gia đình, người thân, bạn bè khắp nơi trên thế
giới một cách nhanh chóng. Mạng xã hội còn là kênh giải trí cho giới trẻ, như xem
phim, nghe nhạc, hát…
Mạng xã hội đang từng ngày, từng giờ tác động đến cuộc sống mỗi người. Như
con dao hai lưỡi, mạng xã hội có thể làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng cũng có thể
hủy hoại con người nếu như sử dụng không đúng cách 7. Bên cạnh đó mạng xã hội còn
có ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa ứng xử của của một bộ phận sinh viên theo
chiều hướng tiêu cực. Việc học sinh, sinh viên lạm dụng mạng xã hội quá nhiều dẫn
đến sao nhãng việc học tập, đặc biệt là đắm chìm trong các trang ảo, ngại tham gia các
hoạt động ngoại khóa. Tình trạng một bộ phận học sinh, sinh viên nghiện game online
diễn ra ngày càng nhiều. Một số sinh viên đã lấy trộm tiền của bố mẹ, ông bà, thậm chí
là ăn trộm đồ, trộm tiền của những người xung quanh để theo đuổi những trò chơi trực
tuyến. Điều này không những làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần, ảnh hưởng đến
tương lai, sự nghiệp học hành dang dở, mà còn là con đường đưa đến các tệ nạn trong
xã hội8.
Một bộ phận học sinh, sinh viên sa đà, tham gia quá sâu vào mạng xã hội đã dẫn
đến thiếu sự tương tác, chia sẻ với những người xung quanh, ít thời gian dành cho
người thân và bạn bè. Các em chỉ thích chú tâm vào các thông tin giật gân để câu like,
nổi tiếng trên các trang mạng thay vì các em cần học tập các kỹ năng cần thiết để phát
triển bản thân trong tương lai. Việc các em dành quá nhiều thời gian vào các trang
mạng xã hội cũng làm thiếu đi sự sáng tạo, không phát huy được tính độc lập, tự chủ
của bản thân.

7 Hà Nghĩa, Hãy là người sử dụng mạng xã hội thông minh để lan tỏa những điều tốt đẹp trong cuộc sống,
nguòn: https://bimson.thanhhoa.gov.vn/web/trang-chu/nghien-cuu-trao-doi/hay-la-nguoi-su-dung-mang-xa-hoi-
thong-minh-de-lan-toa-nhung-dieu-tot-dep-trong-cuoc-song.html, truy cập ngày 1/11/2023
8 Đoàn Thị Thu Huyền, Lý Thị Vân Chinh, Ảnh hưởng của mạng xã hội đến văn hóa ứng xử, lối sống của học
sinh phổ thông, Hội thảo giáo dục Việt Nam, 2021, tr.926-927
Các thông tin trên mạng rất phong phú và đa dạng, có tốt, có xấu, có đúng, có
sai, có thông tin đã được kiểm chứng nhưng cũng có những thông tin chưa được kiểm
chứng. Trong môi trường giao tiếp không gian mạng, những thông tin cá nhân có thể
ảo hóa và dễ dàng đi đến chỗ cung cấp thông tin giả. Sự lừa dối trên mạng xảy ra khá
nhiều, một số người xem nó như một trò chơi, từ đó dần ảnh hưởng sang quan niệm về
đạo đức và ảnh hưởng đến cả các lĩnh vực khác. Vì vậy, khi tuổi đời còn trẻ, chưa đủ
sự chín chắn, nếu quá chú tâm phụ thuộc vào mạng xã hội sẽ gây ra những hậu quả
khôn lường. Bên cạnh đó, các em cũng có khả năng mất kiểm soát hành vi, đua theo
những trò bạo lực, thiếu tự tin vào chính mình, có thể bị đe dọa về mặt tinh thần. Để
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các trang mạng xã hội đến việc giáo dục, nuôi dưỡng
phát triển hoàn thiện nhân cách và lối sống tốt đẹp của con người, nhất là tuổi trẻ hiện
nay, mỗi gia đình, nhà trường, cơ quan, đơn vị, địa phương cần làm tốt công tác giáo
dục, bồi dưỡng cho thanh niên nâng cao nhận thức về vai trò, tác dụng và những bất
cập của việc tham gia và sử dụng các trang mạng xã hội9.
Như vậy, nếu học sinh, sinh viên không biết chọn lọc thông tin, phát huy các mặt
tích cực của mạng xã hội mang lại sẽ rất dễ bị sao nhãng vào những mục tiêu không
quan trọng khác. Do đó, cần hạn chế tối đa những tiêu cực trong thế giới ảo, tăng
cường kiểm soát bản thân, biết cân đối thời gian để không vướng vào những sai lầm
đáng tiếc.
1.3.1.2. Toàn cầu hóa
Trong quá trình toàn cầu hóa, sinh viên, dễ tiếp thu cái mới, nhạy cảm với các
vấn đề chính trị – xã hội. Phần lớn sinh viên theo học tập trung tại các trường đại học
và cao đẳng, nên sinh hoạt tập trung trong cùng một cộng đồng với những mối quan hệ
khá thân thiết. Sinh viên với tuổi đời còn trẻ, năng lực sáng tạo, khả năng tiếp nhận cái
mới nhanh và linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội
hiện đại, từ đó quá trình toàn cầu hóa đã tác động không nhỏ tới đối tượng này. Nhìn
chung, sự tác động của toàn cầu hóa đến văn hóa ứng xử của sinh viên rất phong phú
và đa dạng, có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực.

9 Nguyễn Thị Mỹ Linh, Các nhân tố tác động đến đời sống văn hóa sinh viên hiện nay, Tạp chí Văn hoá Nghệ
thuật, nguồn: http://vanhoanghethuat.vn/cac-nhan-to-tac-dong-den-doi-song-van-hoa-sinh-vien-hien-nay.htm,
truy cập ngày 1/11/2023
Về mặt tích cực, toàn cầu hóa tác động đến với văn hóa ứng xử của sinh viên tạo
ra sự đồng nhất tương đối giữa quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của một cộng
đồng với các quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế. Với sức
trẻ, có tri thức và dễ tiếp thu cái mới, lại được trang bị ngoại ngữ, tin học, cùng sự hỗ
trợ của các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng, đa dạng hóa tiến trình giao
lưu quốc tế, sinh viên đã hòa kịp vào dòng chảy mới trong quá trình hội nhập, mở ra
những cơ hội giao lưu, học hỏi. Từ đó đã tạo ra sự xích lại gần nhau của các giá trị đạo
đức trong một tinh thần cảm thông và cởi mở. Giao lưu văn hóa quốc tế ngày càng mở
rộng cũng là cơ hội tốt cho sinh viên được mở rộng tầm nhìn, tiếp cận, thụ hưởng các
thành tựu văn hóa đa dạng hơn trong thời kỳ hội nhập quốc tế10.
Về mặt tiêu cực, nếu sinh viên không có khả năng chọn lọc thì có thể dễ bị “nhấn
chìm” trong các yếu tố “không phù hợp” với xã hội và con người Việt Nam. Tác động
của toàn cầu hóa còn làm cho một bộ phận sinh viên hình thành tâm lý sính ngoại,
“học đòi”, “bắt chước” những cái mới không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của
người Việt Nam; hành xử thiếu văn hóa, đạo đức bởi ảnh hưởng của văn hóa nước
ngoài dẫn đến chối bỏ hoặc lãng quên truyền thống văn hóa dân tộc. Một bộ phận sinh
viên bắt đầu hình thành tư tưởng hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, sa vào tệ nạn xã hội, dễ
bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế, xã
hội mở cửa. Một bộ phận sinh viên có các quan niệm đạo đức đang bị lệch chuẩn.
Chẳng hạn, có quan niệm cho rằng, đạo đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất
trong mọi lúc, mọi nơi11.
1.3.1.3. Giáo dục gia đình
Văn hóa gia đình là hệ thống những giá trị, chuẩn mực điều tiết mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình. Việc tổ chức cuộc sống gia đình, việc dạy dỗ, ứng xử,
giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên gia đình thuộc các thế hệ rất
quan trọng. Nhân cách, đạo đức, lối sống của các thành viên trong gia đình ảnh hưởng
rất lớn đến con cái, ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành những phẩm chất, nhân
cách gốc của con trẻ.

10 Trần Nguyên Hào, Giáo dục văn hóa ứng xử cho sinh viên trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay – kinh nghiệm
từ Trường đại học Hà Tĩnh, Hội thảo giáo dục Việt Nam, 2021, tr.1016-1017
11 TS. Nguyễn Thị Thuý Cường, Các yếu tố ảnh hưởng và định hướng giao dục văn hoá ứng xử cho sinh viên
hiện nay, Tạp chí khoa học chính trị, nguồn: https://khoahocchinhtri.vn/cac-yeu-to-anh-huong-va-dinh-huong-
giao-duc-van-hoa-ung-xu-cho-sinh-vien-hien-nay/, truy cập ngày 2/11/2023
Trong mỗi gia đình, cha mẹ, ông bà không chỉ giáo dục con cháu về đạo đức và
văn hóa, mà còn giáo dục về thái độ, cử chỉ, giao tiếp và ứng xử lễ nghĩa, kính trên
nhường dưới; đồng thời, rèn luyện cho con tính tự giác trong học tập, suy nghĩ, sinh
hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn nắp, kỹ năng sống,… giúp thế hệ trẻ hình thành nhân
cách, ý thức được trách nhiệm của mình đối với mọi người và xã hội.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế hiện nay, gia đình Việt Nam
truyền thống đang có những biến đổi mạnh mẽ và chịu tác động từ xu thế toàn cầu
hóa. Những giá trị, chuẩn mực truyền thống cũng đã và đang thay đổi. Không ít gia
đình, mối quan tâm, chăm sóc của một bộ phận cha mẹ dành cho con cái suy giảm.
Một số cha mẹ chưa dành thời gian thích đáng cho con. Đây là một trong những thách
thức lớn đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức, lối sống, nuôi
dưỡng sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ nói riêng.
1.3.1.4. Cách thức tổ chức, quản lý đào tạo của nhà trường
Cách thức tổ chức, quản lý đào tạo của nhà trường là khái niệm chỉ toàn bộ hệ
thống các phương pháp, là những tác động của nhà trường vào quá trình giáo dục và
đào tạo (được tiến hành bởi tập thể giảng viên và sinh viên, với sự hỗ trợ đắc lực của
các lực lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách sinh viên theo
mục tiêu đào tạo của nhà trường. Sinh viên là những tri thức tương lai của đất nước, là
lực lượng kế tục, phát huy nguồn trí tuệ nước nhà, là nguồn lực chủ yếu trong thời đại
kinh tế tri thức, khoa học công nghệ12 đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, việc đào tạo, quản lý sinh viên như
thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao là một câu hỏi khó đối với nhà trường. Trong
đó, bên cạnh việc được đào tạo (chuẩn đầu ra) theo đúng quy định thì việc được tham
gia, huấn luyện về các lớp kỹ năng mềm, các hoạt động ngoại khóa giúp cho sinh viên
tự tin hơn, bản lĩnh hơn và là yếu tố quyết định đến chất lượng đội ngũ sinh viên tốt
nghiệp ra trường.
Thực tế cho thấy, cách thức tổ chức, quản lý đào tạo của nhà trường có ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động giao tiếp, văn hoá ứng xử của sinh viên. Trong môi
trường văn hóa học đường, thầy giáo, cô giáo luôn là những tấm gương sáng để các

12 ThS. Nguyễn Thị Hiền, Vai trò của sinh viên trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam hiện
nay, nguồn: http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/vai-tro-cua-sinh-vien-trong-su-nghiep-xay-dung-chu-
nghia-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay-478.html, truy cập ngày 3/11/2023
em học tập, noi theo. Tuy vậy, một số giảng viên vẫn còn hạn chế trong cách ứng xử
văn hóa học đường. Một số giảng viên vào lớp muộn nhưng không bao giờ xin lỗi sinh
viên. Một số giảng viên biết sinh viên vi phạm nghỉ quá số buổi quy định nhưng vẫn
cho thi, sinh viên đi học quá trễ vẫn cho vào; một số sinh viên làm việc riêng trong giờ
nhưng giảng viên vẫn không xử lý. Thậm chí, một vài giảng viên có thái độ khinh miệt
hoặc quát mắng sinh viên một cách thái quá, không những không thể hiện thái độ thân
thiện, không sẵn sàng giúp đỡ, mà còn gây áp lực, gây “khó dễ” cho sinh viên…
1.3.1.5. Phương pháp dạy học và năng lực giao tiếp của giảng viên
Trong xã hội ngày nay, người giảng viên tham gia vào lĩnh vực đào tạo - một
trong những lĩnh vực quan trọng góp phần phát triển xã hội. Sự chuyên nghiệp về
chuyên môn và đạo đức của người giảng viên là những tiêu chỉ quan trọng tác động
tích cực đến quá trình đào tạo, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng đào
tạo trong trường đại học. Vì vậy, vai trò của người giảng viên vô cùng quan trọng
trong quá trình giáo dục, lượng kiến thức đưa đến người học, từ mỗi hành vi, cử chỉ
của giáo viên đều có tác động đến toàn bộ quá trình giáo dục. Thông qua bài học, giờ
Giảng và các buổi học ngoại khóa nhân nào cảm các em hiểu như thế nào là đúng hành
xử như thế nào là chuẩn mực, ứng xử như thế nào là có văn hoá, nho nhã, lịch sự, quan
niệm sống kỹ năng sống .. Để làm được điều đó thì giảng viên bên cạnh kiến thức
chuyên sâu thì phải có một phương pháp dạy tốt, có kỹ năng giao tiếp truyền tải kiến
thức tốt để tiếp cận và truyền đạt hiệu quả tới sinh viên của mình. Bên cạnh gia đình
nhà trường thì giảng viên chính là người truyền cho sinh viên những cảm hứng là tấm
gương cho sinh viên học tập. Giảng viên là một người cỏ nhân phẩm và năng lực tốt,
khả năng truyền đạt hấp dẫn sẽ giúp cho sinh viên cảm thấy hào hứng ham tìm hiểu,
thích giao lưu và không ngừng hoàn thiện bản thân hơn Để làm được điều đó thì đội
ngũ giảng viên phải là những người ưu tú và chuẩn mực để có đủ năng lực và phương
pháp để truyền đạt tới sinh viên - thế hệ tương lai của đất nước.
1.3.1.6. Môi trường điều kiện học tập tại trường
Môi trường và điều kiện học tập tại trường có liên quan chặt chẽ đến tinh thần,
thái độ, trách nhiệm của sinh viên là một trong yếu tố khách quan ảnh hưởng tới văn
hoá ứng xử của sinh viên. Nếu môi trường học tập không lành mạnh thì họ sẽ cảm thấy
ức chế, không thoải mái. Như vậy, sinh viên đó sẽ luôn thực hiện những mặt tiêu cực
của văn hoá ứng xử như hay có các biểu hiện tức tối, dễ nổi nóng và không hòa đồng
với mọi người xung quanh.Yếu tố điều kiện học tập ở đây còn được hiểu bao gồm cả
việc có cơ hội để tiếp cận với nhiều tri thức mới, công nghệ mới cùng hệ đào tạo tiên
tiến, từ đó có một công việc tốt hơn trong tương lai.
Thực tế hiện nay trong các trường đại học nói chung cho thấy, điều kiện học tập
của sinh viên còn nhiều hạn chế, chưa được đầy đủ. Nhiều sinh viên cảm thấy chán
không được phát huy hết khả năng của mình. Mặt khác, do khi bước chân vào đại học
nhiều bạn còn bỡ ngỡ, chưa quen với cuộc sống xa nhà dẫn đến sống thu hẹp, không
thích tiếp xúc với nhiều người. Điều này khiến cho kỹ năng ứng xử của sinh viên cũng
như khả năng tạo mối quan hệ của sinh viên kém đi và rất khó khăn khi thực hiện
những kỹ năng đó.
1.3.2. Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến văn hoá ứng xử của sinh viên đối
với cán bộ giảng viên
1.3.2.1. Yếu tố nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của văn hoá ứng xử
Nhận thức là sự hiểu biết của con người về sự việc, hiện tượng và quy luật nào
đó. Tác giả Robert N Lussier xem nhận thức của mỗi cá nhân trong một tổ chức nào
đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các kỹ năng giao tiếp bởi nhận thức
có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu và hành vi của họ trong giao tiếp 13. Xuất phát từ
quan điểm này mà tác giả nhấn mạnh đến việc phải nâng cao nhận thức cho bản thân
để có được sự nhận thức tích cực về công việc và môi trường công việc
Yếu tố nhận thức có ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp, ứng xử của sinh viên là ở
chỗ nếu sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng ứng xử, nét đẹp văn hoá
ứng xử với hoạt động học tập, cũng như cho công việc sau này thì họ sẽ có ý thức rèn
luyện kỹ năng giao tiếp của mình một cách tự giác, tích cực. Nhận thức là cơ sở cho
mọi vấn đề bởi nhận thức là cơ sở để có thái độ đúng từ đó mới có thể có hành vi đúng
trong sự thống nhất ba mặt nhận thức - thái độ - hành vi. Nghiên cứu khía cạnh ảnh
hưởng của nhận thức tới văn hoá của sinh viên chúng tôi chú ý tới một số vấn đề sau:
- Văn hoá ứng xử trong hoạt động học tập và tham gia các hoạt động tại nhà
- Văn hoá ứng xử phục vụ cho công việc sau khi ra trường
1.3.2.2. Yếu tố ý thức rèn luyện văn hoá ứng xử

13 Robert Lusier: Humanrelation in organization Askill building approach. McGraw Hill


Trước hết, sinh viên tự hình thành, tự tích lũy tri thức về văn hoá ứng xử. Trên cơ
sở đó, sinh viên tự nhận thức, đánh giá bản thân thấy thực sự cần thiết, có mong muốn
nhu cầu, hứng thú, lý tưởng động cơ thôi thúc bù đắp những thiếu hụt về văn hoá ứng
xử. Ý thức rèn luyện về văn hoá ứng xử khi họ cho rằng nét đẹp trong văn hoá ứng xử
mang lại hiệu quả cho hoạt động học tập và công việc trong tương lai, mong muốn bù
đắp những thiếu hụt về kiến thức giao tiếp, kỹ năng ứng xử mong muốn có những giải
pháp hiệu quả hơn để thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về giao tiếp, lắng
nghe sự góp ý của gia đình thầy cô, bạn bè và thường xuyên trau dồi kiến thức, kinh
nghiệm về văn hoá ứng xử14.
1.3.2.3. Yếu tố tính cách của sinh viên
Tính cách là những nét đặc trưng tâm lý riêng của mỗi con người, sẽ quy định
hành vi của họ trong các tình huống. Những sinh viên năng động sáng tạo hay trầm tư,
thụ động sẽ chi phối hành vi và đều ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động học tập và làm
việc của họ.
Yếu tố tính cách của sinh viên là tính chất, đặc điểm về nội tâm của mỗi sinh
viên đó, mà có ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ, lời nói và hành động. Vì vậy, yếu tố
tính cách có ảnh hưởng rất lớn đến văn hoá ứng xử của sinh viên hiện nay.
Dù có xem xét ở phương diện nào cũng không thể phủ nhận những ảnh hưởng
của cá nhân thuộc tỉnh tâm lý cá nhân như khả năng sử dụng ngôn ngữ, tính cách khí
chất, năng lực... đến quá trình giao tiếp. Những đặc điểm cá nhân này có thể trở nên
thuận lợi hoặc là rào cản trong hoạt động văn hoá ứng của sinh viên hàng ngày.
1.3.2.4. Yếu tố nền tảng kiến thức về chuyên môn và kiến thức về xã hội của sinh
viên
Yếu tố nền tảng kiến thức về chuyên môn và kiến thức xã hội của sinh viên được
coi là cơ sở để sinh viên thực hiện tốt văn hoá ứng xử của mình.
Nền tảng kiến thức chuyên môn ở đây được hiểu là những kiến thức mà sinh viên
được cung cấp trong quá trình học và thực hành ở các trường đào tạo. Đối với sinh
viên, khi bước vào môi trường đại học, ngoài việc học các môn chung giống với các
ngành khác, họ còn được học các môn cơ sở ngành và chuyên ngành. Đây là những

14 Hoàng Thị Nhài, Diệp Khánh Huyền ; PGS. TS. Đặng Thanh Nga hướng dẫn, Kỹ năng giao tiếp của sinh
viên Trường Đại học Luật Hà Nội : đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học / Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.27
nền tảng kiến thức quan trọng và ảnh hưởng đến văn hoá ứng xử, lời nói hành động cử
chỉ của sinh viên.
Nền tảng kiến thức xã hội của sinh viên được hiểu là ngoài việc được đào tạo ở
nhà trường sinh viên còn tham gia các phong trào và hoạt động của trường lớp, đoàn
thể. Đặc biệt, họ còn được tham gia vào những đợt kiến tập và thực tập. Đây là những
yếu tố tạo nên sự hiểu biết rất thực tế cho nghề nghiệp sau này15.
Vì vậy, yếu tố nền tảng kiến thức chuyên môn và kiến thức xã hội được coi là cơ
sở tiền đề để sinh viên có thể phát triển những kỹ năng cơ bản của mình trong hoạt
động giao tiếp, ứng xử.
Như vậy, văn hóa ứng xử của sinh viên trong giai đoạn hiện nay chịu tác động
bởi nhiều yếu tố. Trong mỗi yếu tố đều có mặt ưu và nhược, có mặt tích cực, nhưng
cũng có mặt hạn chế. Vấn đề đặt ra là mỗi sinh viên cần nhận biết những mặt tích cực
của các nhân tố đó để phát huy, trau dồi văn hóa ứng xử của mình theo hướng chân,
thiện, mỹ.

15 Lương Thanh Hà, Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng xin việc làm của sinh viên sau khi ra trường, Tạp
chí Công thương, nguồn: https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/cac-nhan-to-anh-huong-den-kha-nang-xin-viec-
lam-cua-sinh-vien-sau-khi-ra-truong-88987.htm, truy cập ngày 3/11/2023
Tiểu kết chương 1
Văn hóa ứng xử nói chung có hàm nghĩa rộng là phép ứng xử giữa các mối quan
hệ trong môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Trong giới hạn đề tài nghiên
cứu Văn hóa ứng xử của sinh viên đối với giảng viên tại một số trường Đại học trên
địa bàn Hà Nội nhóm nghiên cứu chỉ tập trung đi vào làm rõ mối quan hệ chính đó là
văn hóa ứng xử giữa sinh viên giảng viên của một số nhóm trường Đại học đại diện
cho các khối ngành: kinh tế, văn hoá, kỹ thuật hiện nay. Chương này tác giả nêu ra
những tri thức cơ bản về Văn hóa ứng xử nói chung và văn hóa ứng xử trong trường
Đại học nói riêng và vai trò, đặc điểm, yêu cầu cơ bản của văn hóa ứng xử. Để từ đó
thấy được vai trò quan trọng của văn hóa ứng xử trong trường Đại học. Các tri thức ấy
là cơ sở, nền tảng lý luận đối sánh để tác giả triển khai chương 2: Thực trạng văn hoá
ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học trên địa bàn
Hà Nội.
CHƯƠNG 2:
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HOÁ ỨNG XỬ
CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI CÁN BỘ GIẢNG VIÊN TẠI MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

2.1. Tổ chức nghiên cứu


Đề tài tiến hành nghiên cứu được chia làm 2 giai đoạn chủ yếu: nghiên cứu lý
luận và nghiên cứu thực tiễn.
2.1.1. Tổ chức nghiên cứu lý luận
Mục đích: Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Nội dung nghiên cứu bao gồm:
- Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa và khái quát hóa những công trình nghiên
cứu trong và ngoài nước về văn hoá ứng xử nói chung và văn hoá ứng xử của
sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường đại học nói riêng;
- Xác định các khái niệm công cụ của đề tài và những khái niệm liên quan:
- Xác định các biểu hiện của văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng
viên;
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến văn hoá ứng xử của sinh viên đối với
cán bộ giảng viên tại một số trường Đại học.
Công cụ: sách, báo, tạp chí khoa học chuyên ngành, giáo trình, đề tài khoa học, tài
liệu bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài, máy tính, internet,...
Cách tiến hành: tìm kiếm, thu thập, đọc, ghi chép, phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa, khái quát hóa những nội dung có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: phương pháp chính được sử dụng là phương pháp
nghiên cứu tài liệu thông qua các bài viết, công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn
trong và ngoài nước về vấn đề văn hoá ứng xử nói chung và văn hoá ứng xử của sinh
viên đối với cán bộ giảng viên tại một số trường đại học nói riêng.
2.1.2. Tổ chức nghiên cứu thực tiễn
Mục đích của nghiên cứu thực tiễn là thu thập, xử lý, phân tích dữ liệu để đưa ra
thực trạng biểu hiện văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số
trường Đại học và các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó trong phạm vi khảo sát. Để
đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần xây dựng phương pháp thu thập dữ liệu đồng
thời xác định mẫu khách thể nghiên cứu.
2.2. Mẫu và phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu: Đề tài triển khai nghiên cứu khách thể là khoảng 300 sinh viên
từ các khối ngành thuộc các trường đại học trên địa bàn Hà Nội, đại diện như: Kinh tế
- Trường Đại học kinh tế Quốc Dân; Kỹ thuật - Đại học Bách Khoa; Văn hoá - Đại
học Khoa học Xã hội & Nhân văn trên địa bàn Hà Nội. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
được trình bày cụ thể ở bảng 2.1.

Bảng 2.1. ……..

→ Tỷ lệ khách thể tham gia điều tra là sinh viên đại học thuộc các trường đại học
thuộc khối ngành kinh tế, kỹ thuật, văn hóa chiếm tỷ lệ đồng đều. ……

2.2.2. Phương pháp nghiên cứu


Để triển khai nghiên cứu thực trạng mức độ hài lòng đối với công tác CVHT của
sinh viên Trường ĐHLHN và những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng đó tại thời điểm
nghiên cứu, đề tài sử dụng phối hợp hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau
đây:
2.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Trên cơ sở tham khảo bảng hỏi đã được một số tác giả khác sử dụng để nghiên
cứu cùng với đó là sự góp ý của giảng viên hướng dẫn, chúng tôi đã xây dựng bảng
hỏi gồm những nội dung sau đây:
a, Lời chào và giới thiệu:
Cung cấp thông tin về nhóm nghiên cứu, tên đề tài nghiên cứu và mong muốn
đối với người trả lời câu hỏi
b, Phần điền thông tin chung:
Ở phần này chúng tôi đưa ra các câu hỏi về giới tính, ngành học, năm học để
người trả lời câu hỏi lựa chọn đáp án đúng về thông tin cá nhân của họ.
c, Phần nội dung chính của bảng hỏi:
Trong phần này chúng tôi đưa ra các câu hỏi liên quan đến tần suất thực hiện các
hành động, cử chỉ, lời nói, thái độ thể hiện văn hoá ứng xử của sinh viên đối với giảng
viên dưới dạng lựa chọn 1 trong 5 mức độ thể hiện mức độ thường xuyên thực hiện
các khẳng định được đề cập. Bảng hỏi gồm 3 thang đo: thang đo mức độ thường xuyên
thực hiện các biểu hiện văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên; thang
đo các yếu tố ảnh hưởng đến các biểu hiện văn hóa ứng xử của sinh viên đối với cán
bộ giảng viên.
- Thang đo mức độ thường xuyên của các biểu hiện văn hóa ứng xử của sinh viên
đối với cán bộ giảng viên
● Thang đo mức độ thường xuyên của các biểu hiện văn hóa ứng xử của sinh viên
đối với cán bộ giảng viên trong lớp học

Biểu hiện văn hóa ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên trong lớp học
được đánh giá trên 4 yếu tố đó là hành vi, thái độ, cử chỉ và ngôn từ. Vì vậy, thang đo
này được chia thành 4 tiểu thang đo đó là thang đo về hành vi, thang đo về thái độ,
thang đo về cử chỉ và thang đo về ngôn từ của sinh viên đối với cán bộ giảng viên
trong lớp học để sinh viên đánh giá chung về thái độ, sụ tôn trọng của sinh viên đối
với cán bộ giảng viên trong lớp học. Trong đó, tiểu thang đo hành vi bao gồm 17
items, tiểu thang đo cử chỉ gồm 4 items, tiểu thang đo ngôn từ bao gồm 2 items. Các
phương án trả lời theo thang Likert 5 bậc, tương ứng với điểm số ở mỗi bậc: 1. Không
bao giờ; 2. Hiếm khi; 3. Thỉnh thoảng; 4. Thường xuyên; 5. Rất thường xuyên. Độ tin
cậy của mỗi item và của chung mỗi tiểu thang đo, hệ số Cronbach Alpha, được phản
ánh ở bảng 2.2a, 2.2b, 2.2c. Có thể thấy, các tiểu thang đo đều đáp ứng tốt 16 yêu cầu về
độ tin cậy, có thể sử dụng để điều tra chính thức.

● Thang đo về mức độ thường xuyên của các biểu hiện văn hoá ứng xử của sinh
viên đối với cán bộ giảng viên ngoài lớp học

Biểu hiện văn hóa ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên ngoài lớp học
được đánh giá thông qua các trường hợp cụ thể như: trong khuôn viên trường, ứng xử
trên mạng xã hội, trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, thang đo này được chia thành 4

16 Theo Phạm Văn Quyết và Nguyễn Quý Thanh (2016), trong thống kê, những thang đo hay item có độ tin cậy
từ 0,30 là dùng được, từ 0,60 được xem là tốt.
tiểu thang đo đó là thang đo về biểu hiện của sinh viên khi bắt gặp cán bộ giảng viên
trong khuôn viên trường; thang đo về biểu hiện của sinh viên ứng xử trên mạng xã hội,
thang đo về biểu hiện của sinh viên trong đời sống thường ngày để sinh viên đánh giá
chung về thái độ, sự tôn trọng của sinh viên đối với cán bộ giảng viên ngoài lớp học.
Trong đó, tiểu thang đo về biểu hiện của sinh viên khi bắt gặp cán bộ giảng viên trên
đường bao gồm 3 items, tiểu thang đo về biểu hiện của sinh viên khi nhắn tin, email,
tương tác với cán bộ giảng viên trên mạng xã hội gồm 6 items, tiểu thang đo về biểu
hiện của sinh viên trong đời sống thường ngày bao gồm 3 items và tiểu thang đo về
biểu hiện của sinh viên trong một số trường hợp khác bao gồm 3 items. Các phương án
trả lời theo thang Likert 5 bậc, tương ứng với điểm số ở mỗi bậc: 1. Không bao giờ; 2.
Hiếm khi; 3. Thỉnh thoảng; 4. Thường xuyên; 5. Rất thường xuyên. Độ tin cậy của mỗi
item và của chung mỗi tiểu thang đo, hệ số Cronbach Alpha, được phản ánh ở bảng
2.3. Có thể thấy, các tiểu thang đo đều đáp ứng tốt yêu cầu về độ tin cậy, có thể sử
dụng để điều tra chính thức.

- Thang đo về các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng đối với văn hóa ứng xử của
sinh viên đối với cán bộ giảng viên
● Thang đo về yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự hài lòng đối với văn hóa ứng
xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên

Thang đo này có 6 items, các nội dung này đề cập đến khía cạnh tính tích cực của
sinh viên trên mạng xã hội, trong quá trình toàn cầu hóa, trong văn hóa gia đình, ,
trong cách thức tổ chức, quản lý đào tạo của nhà trường, phương pháp dạy học và năng
lực giao tiếp của giảng viên, môi trường điều kiện học tập tại trường. Các phương án
trả lời theo thang Likert 5 bậc, tương ứng với điểm số ở mỗi bậc: 1. Không bao giờ; 2.
Hiếm khi; 3. Thỉnh thoảng; 4. Thường xuyên; 5. Rất thường xuyên. Độ tin cậy chung,
hệ số Cronbach Alpha của thang đo là 0,764 > 0.60 vì vậy thang đo đáp ứng tốt yêu
cầu về độ tin cậy, có thể sử dụng để điều tra chính thức.

● Thang đo về yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự hài lòng đối với công tác
CVHT của sinh viên
Đề tài này đề cập đến 4 yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự hài lòng đối với
công tác CVHT của sinh viên: nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của văn hoá
ứng xử; ý thức rèn luyện văn hoá ứng xử; tính cách của sinh viên; nền tảng kiến thức
về chuyên môn và kiến thức về xã hội của sinh viên. Vì vậy, thang đo này sẽ gồm 4
tiểu thang đo đó là: Tiểu thang đo về nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của
văn hoá ứng xử; Tiểu thang đo về ý thức rèn luyện văn hoá ứng xử; Tiểu thang đo về
tính cách của sinh viên; Tiểu thang đo về nền tảng kiến thức về chuyên môn và kiến
thức về xã hội của sinh viên. Các phương án trả lời theo thang Likert 5 bậc, tương ứng
với điểm số ở mỗi bậc: 1. Không bao giờ; 2. Hiếm khi; 3. Thỉnh thoảng; 4. Thường
xuyên; 5. Rất thường xuyên.

2.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn sâu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chủ yếu là phân tích dữ liệu thu được từ
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, tuy nhiên chúng tôi cũng đã phỏng vấn sâu một
số sinh viên trong các trường để thu thập, bổ sung và làm rõ hơn những thông tin đã
thu được từ khảo sát trên diện rộng. Cụ thể chúng tôi đã phỏng vấn 05 sinh viên hệ
chính quy.
Do yếu tố khách quan, các cuộc phỏng vấn đều được thực hiện qua điện thoại. Ở
các cuộc phỏng vấn, sau khi đã tạo không khí thân thiện đối với sinh viên, chúng tôi
đều nêu thẳng vấn đề và đề nghị sinh viên cho ý kiến. Nhận thấy rằng phương pháp
phỏng vấn sâu tạo ra điều kiện thuận lợi trong cuộc hỏi đáp giữa chúng tôi và sinh
viên. Nhờ các cuộc hội thoại lặp đi lặp lại, chúng tôi đã thu thập có đầy đủ luận cứ,
luận điểm để có thể phân tích về người tham gia phỏng vấn. Đồng thời có thể theo dõi
được những thay đổi trong giọng điệu và cách lựa chọn từ ngữ của những người tham
gia. Phỏng vấn 05 bạn sinh viên khác nhau sử dụng phương pháp này cũng tạo ra sự
bình đẳng giữa những người tham gia phỏng vấn và người phỏng vấn. Bởi vì các kiến
thức, câu hỏi sẽ dễ được trao đổi, bàn luận và phát triển hơn. Các ý kiến, câu trả lời sẽ
có tính xây dựng và đóng góp cho chủ đề nghiên cứu. Tuy nhiên có một số nhược
điểm khi chúng tôi sử dụng phương pháp này: các câu trả lời của các bạn sinh viên
chúng tôi ghi nhận thường mang tính ước chừng nên khó có thể kết luận, khái quát hóa
thành những lượng cụ thể. Nói cách khác, thông tin không được chuẩn hóa nên khó
lượng hóa. Đồng thời, về phía người phỏng vấn - chúng tôi là nhóm nghiên cứu vẫn
còn là sinh viên nên có thể có thiếu sót trong quá trình phân tích. Ngoài ra, quá trình
phân tích thông tin cần nhiều thời gian. Đòi hỏi chúng tôi cần chia nhỏ, phân loại
thông tin sau đó tổng kết lại để đưa ra thành những luận điểm cụ thể, từ đó phát triển
sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu.
2.2.2.3. Phương pháp phân tích dữ liệu
a. Tạo các biến số và đánh giá
Văn hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên tại một số Trường Đại
học trên địa bàn Hà Nội là sự tích hợp của văn hoá, thái độ, hành vi, cử chỉ của sinh
viên đối với: Đội ngũ CBGV; Môi trường văn hóa.
Văn hoá ứng xử là nét đẹp của mỗi người được thể hiện thông qua nhiều hình
thức: dùng lời nói, thái độ, cử chỉ, hành động đối với tự nhiên, xã hội và bản thân.
Văn hoá, thái độ, hành vi cử chỉ của sinh viên trong văn hoá ứng xử đối với cán bộ
giảng viên được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày và biểu hiện thông qua các biến
được tính ĐTB và dựa vào đó để phân tích (chia mức độ, bình luận). Sử dụng thang đo
khoảng, mỗi biến này được đo lường theo 5 mức độ sau:
1. Không bao giờ - ĐTB trong khoảng từ 1 đến 1,8. Mức độ này biểu thị rằng văn
hoá ứng xử của sinh viên đối với cán bộ giảng viên đang dần bị suy thoái, nhiều
sinh viên có hành động chưa đúng đắn không phù hợp với chuẩn mực văn hoá
ứng xử của sinh viên. Sinh viên ở mức độ này có thể sẽ luôn dùng những lời
nói, hành động hay cử chỉ khiếm nhã đối với cán bộ giảng viên của mình gây
ảnh hưởng nét đẹp văn hoá tôn sư trọng đạo mà ông cha ta đã căn dặn.
2. Hiếm khi - ĐTB từ 1,8 đến 2,6. Mức độ này biểu thị rằng văn hoá ứng xử của
sinh viên đối với cán bộ giảng viên vẫn chưa được tốt, nhiều sinh viên vẫn đang
chưa biết mình cần làm gì để có thể xây dựng nên một môi trường văn hoá ứng
xử thông minh, đáp ứng chuẩn mực của xã hội. Sinh viên ở mức độ này sẽ
thường có thái độ không tốt đối với cán bộ giảng viên, ý thức học tập, rèn luyện
sút kém và hành vi, thái độ ứng xử thiếu văn hóa trong nhà trường của một bộ
phận sinh viên sẽ trở thành một vấn đề đáng lo ngại của các nhà quản lý giáo
dục và toàn xã hội.
3. Thỉnh thoảng - ĐTB từ 2,6 đến 3,4. Mức độ này biểu thị văn hoá ứng xử của
sinh viên đối với cán bộ giảng viên chỉ ở mức bình thường, khoảng 50% sinh
viên thường xuyên thể hiện nét văn hoá ứng xử tốt và chưa tốt đan xen nhau.
Trong tình trạng này, sinh viên sẽ có sự đan xen giữa cảm xúc dương tính và
cảm xúc âm tính.
4. Thường xuyên - ĐTB từ 3,4 đến 4,2. Mức độ này biểu thị rằng văn hoá ứng xử
của sinh viên đối với cán bộ giảng viên đã đáp ứng được những kỳ vọng, mong
đợi cơ bản của cán bộ giảng viên. Sinh viên có những hành động tôn trọng, lễ
phép, nói những điều tích cực về đội ngũ cán bộ giảng viên và cơ sở đào tạo...
5. Rất thường xuyên - ĐTB từ 4,2 đến 5,0. Mức độ này biểu thị văn hoá ứng xử
của sinh viên đối với cán bộ giảng viên hoàn toàn đáp ứng được các kỳ vọng,
mong đợi của cán bộ giảng viên. Sinh viên ở mức độ này là những người tự ý
thức rõ ràng, sinh viên Việt Nam là những người sẽ học tập, gìn giữ văn hóa
Việt. Không những thế họ còn phải ý thức được rằng rằng họ phải là những
người thực hành văn hóa ứng xử chuẩn mực, và hơn thế nữa, phải có trách
nhiệm nâng lên một mức cao hơn. Ý thức này biểu hiện ở sự tôn trọng thầy cô
giáo qua việc chào hỏi, ý thức học tập trong lớp luôn chú ý nghe giảng và tích
cực trong học tập.
b. Phân tích thống kê
- Độ tin cậy: Các thang đo được điều tra thử để kiểm tra độ tin cậy, hệ số
Cronbach Alpha. Kết quả cho thấy các thang đo đều đảm bảo độ tin cậy,
- Thống kê mô tả: Phân tích ĐTB, tần suất, ĐLC, trung vị, yếu vị, giá trị lớn nhất,
giá trị nhỏ nhất, độ nghiêng, độ nhọn được dùng để mô tả đặc điểm các đường phân bố
điểm thường xuyên thể hiện văn hoá ứng xử đối với cán bộ giảng viên.
- Phân tích hệ số tương quan: Dùng để xem xét mối quan hệ giữa các tiêu chí đánh
giá mức độ thường xuyên.
- Phép hồi quy tuyến tính đơn và bội giữa biến phụ thuộc là mức độ thường xuyên
thể hiện văn hoá ứng xử đối với cán bộ giảng viên và 5 biến độc lập.
- Kiểm định sự khác biệt về mức độ thể hiện văn hoá ứng xử đối với cán bộ giảng
viên với các nhóm yếu tố nhân khẩu học.

You might also like