You are on page 1of 113

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ


KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
()

LÊ THỊ NHÂN

THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM HỒ BIỂU CHÁNH

Luận văn tốt nghiệp Đại học


Ngành Sư phạm Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: BÙI THỊ TÂM

Cần Thơ, 5/ 2009

2
LỜI CẢM ƠN!

Tôi xin chân thành biết ơn quý Thầy Cô thuộc Bộ môn Ngữ Văn, đã tận tình
giảng dạy tôi trong suốt thời gian học tập và rèn luyện ở Trường Đại học Cần Thơ.
Đặc biệt là giáo viên hướng dẫn đã giúp đỡ tôi vượt qua khó khăn để hoàn thành đề tài
luận văn tốt nghiệp. Dù có cố gắng để hòan thành bài viết, nhưng bản thân tôi tự thấy
khả năng mình còn vụn vặt trong cách dùng từ cũng như về dung lượng chữ viết. Bởi
do sự trang bị về mặt kiến thức còn non yếu, dù biết rằng trong cách trình bày sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót cần thiết, nhưng có điều sự việc trên thế gian này
không có gì là viên mãn mười phân vẹn mười, đã có tròn tất có khuyết, có đầy tất có
vơi, đã có dài tất có ngắn. Tôi rất tiếc gì không có điều kiện để đi sâu hơn vào những
tư liệu quý giá này, nếu có thời gian chắc chắn tôi sẽ tìm ra được nhiều vấn đề nữa hết
sức lý thú! Đó cũng là mặt hạn chế đáng tiếc xảy ra cho người viết.
Từ đề tài nghiên cứu này rất mong quý Thầy cô tận tình dạy bảo và giúp em có
cách nhìn nhận đúng đắn, để vận dụng phương pháp được tốt hơn trong cách viết cũng
như trong cách dùng vốn ngôn ngữ tiếng Việt, để đáp lại tấm lòng ưu ái của quý Thầy
cô em sẽ cố gắng học hỏi, nghiên cứu và khắc phục những mặt hạn chế của mình.

Cần Thơ, ngày 04 tháng 05 năm 2009


Người viết
(Đã ký)

Lê Thị Nhân

3
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT

PHẦN MỞ ĐẦU Số trang


1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………...2
3. Mục đích yêu cầu…………………………………………………………..6
4. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………...7
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÀNH NGỮ
1.1. Khái niệm về thành ngữ……………………………………………………9
1.2. Cấu tạo của thành ngữ……………………………………………………...11
1.2.1. So Sánh…………………………………………………………………...11
1.2.2. Phép đối…………………………………………………………………..12
1.2.3. Phép điệp………………………………………………………………….13
1.3. Đặc điểm của thành ngữ…………………………………………………….15
1.3.1. Tính biểu trưng…………………………………………………………....15
1.3.2. Tính dân tộc và tính cụ thể………………………………………………..16
1.3.3. Tính biểu thái……………………………………………………………..18
1.3.4. Tính hình tượng…………………………………………………………...18
1.3.5. Tính điệp và đối…………………………………………………………...19
1.4.Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ và tục ngữ…………………….-
1.4.1. Phân loại thành ngữ……………………………………………………….-
1.4.1.1. Dựa vào cấu trúc………………………………………………………...-
1.4.1.1.1. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm từ………………………………....-
1.4.1.1.2. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm chủ vị…………………………….19
1.4.1.2. Dựa vào nguồn gốc……………………………………………………...20
1.4.1.2.1. Thành ngữ Thuần Việt………………………………………………..-
1.4.1.2.2. Thành ngữ Hán Việt…………………………………………………..-
1.4.1.3. Dựa vào tính biểu trưng…………………………………………………-
1.4.1.3.1. Thành ngữ có tính biểu trưng thấp……………………………………-
1.4.1.3.2. Thành ngữ có tính biểu trưng cao…………………………………….20
4
1.4.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ…………………………………………...21
1.4.2.1.Những nét giống nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ………………22
1.4.2.2. Những nét khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ……………….-
1.4.2.2.1.Về mặt ý nghĩa………………………………………………………...22
1.4.2.2.2. Về mặt ngữ pháp……………………………………………………...23
1.4.2.2.3. Về mặt chức năng……………………………………………………..23
1.5. Ý nghĩa của thành ngữ………………………………………………………25
CHƯƠNG 2: THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM HỒ BIỂU CHÁNH
2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh………………………27
2.1.1. Cuộc đời………………………………………………………………….28
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác……………………………………………………….29
2.2. Phân loại thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh……………………....30
2.2.1. Thành ngữ có kết cấu là một cụm từ……………………………………..31
2.2.2. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm chủ vị………………………………..33
2.2.3. Thành ngữ Thuần Việt…………………………………………………...35
2.2.4. Thành ngữ Hán Việt……………………………………………………...39
2.2.5. Thành ngữ có tính biểu trưng…………………………………………….43
2.2.6. Thành ngữ có tính dân tộc và tính cụ thể…………………………………45
2.2.7. Thành ngữ có tính biểu thái………………………………………………49
2.2.8. Thành ngữ tính hình tượng………………………………………………50
2.2.9. Thành ngữ có tính điệp và đối………………………………………...…..51
2.3. Mục đích sử dụng thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh……………...56
2.3.1. Thành ngữ miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm…………………………...57
2.3.2. Thành ngữ miêu tả nhân vật trong tác phẩm……………………………...60
2.3.2.1. Thành ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật………………………………...61
2.3.2.2. Thành ngữ miêu tâm lí tính cách hình nhân vật………………………...65
2.3.2.3. Thành ngữ miêu tả hàng động hoạt động nhân vật……………………..69
CHƯƠNG 3: NHỮNG SÁNG TẠO CỦA HỒ BIÊU CHÁNH TRONG VIỆC SỬ
DỤNG THÀNH NGỮ Ở MỘT SỐ TÁC PHẨM
3.1. Sử dụng thành ngữ ở dạng nguyên mẫu……………………………………76
3.2. Sử dụng thành ngữ ở dạng sáng tạo………………………………………...82
3.2.1. Thành ngữ dùng ở dạng mượn ý………………………………………….83
5
3.2.2. Thành ngữ dùng ở dạng tách đôi………………………………………….85
3.2.3.Thành ngữ dùng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân………….87
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
7
1. Lý do chọn đề tài.
Ngôn ngữ tiếng Việt vốn là phương tiện giao tiếp của con người, nó được hình
thành và tồn tại trên cơ sở vững chắc trong kho tàng văn học, nhưng trong toàn bộ hệ
thống ngôn ngữ thì thành ngữ luôn giữ vai trò quan trọng, là một kho tàng tri thức vô
cùng quý báu của nhân dân. Cũng như trong ca dao, dân ca, tục ngữ,…thì thành ngữ là
tiếng nói quen thuộc gần gũi nhất, nó được đúc kết từ kinh nghiệm cuộc sống, từ triết
lý nhân sinh quan và thế giới quan. Với hình thức cấu tạo ngắn gọn không trau chuốt,
nhìn vào ta sẽ thấy dễ đọc dễ nhớ. Vì thế, việc sử dụng thành ngữ trong giao tiếp cũng
như trong sáng tạo nghệ thuật văn học, sẽ làm cho lời nói giàu bản sắc đậm tính dân
tộc. Với đề tài “Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh” thì chúng ta sẽ thấy rõ
hơn biệt tài sử dụng lớp thành ngữ của tác giả rất Nam Bộ, lấy từ chất liệu ngôn ngữ
dân gian trong cuộc sống mà nên, đọc vào ta sẽ có cảm giác rất gần gũi đến không
ngờ. Đến với đề tài người nghiên cứu thấu hiểu được tâm tư tình cảm của Hồ Biểu
Chánh qua một số tác phẩm tiêu biểu, trong trang viết của ông xuất hiện rất nhiều
những nhân vật, mà đặc biệt là người nông dân Nam Bộ sống ở miền sông nước Hậu
Giang trải dài trên các vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Thực lòng mà nói tôi chưa bao giờ thích tìm hiểu về Hồ Biểu Chánh ngay cả
chính tác phẩm tôi cũng không thèm đọc, bởi do vô tình mà tôi đọc được tác phẩm của
ông và tìm hiểu sâu thêm trong quá trình học, và khi đọc được bài viết của Giáo sư
Nguyễn Văn Trung khi viết về Hồ biểu Chánh đã tâm sự thế này: “Dạy văn trên 20
năm ở miền Nam, nhưng mới chỉ đọc Hồ Biểu Chánh gần đây gì trước đây khinh chê
không thèm đọc” [17;6]. Sau khi đọc xong Giáo Sư Trung nhận thấy tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh thật cảm động, thật hay, thật hấp dẫn, một người lớn tuổi của ông đã thú
nhận với ông: “Chả nhẽ, tôi trên 60 tuổi rồi mà còn nói bị xúc động như muốn rơi
nước mắt” [17;6]. Chính vì lời lẽ tha thiết đó làm cho tôi có một cách nhìn khác ở Hồ
Biểu Chánh so với các nhà văn đương thời, nói một cách cụ thể tác phẩm của ông giúp
tôi rất nhiều trong thời gian học, cùng vốn từ ngữ phong phú đó càng làm tôi cảm thấy
mình thật nhỏ bé. Với cách diễn đạt thật sâu xa gợi cho tôi nhiều cảm tưởng mới mẽ,
từ đó rút ra bài học là phải tự mình nghiên cứu thể nghiệm và trải qua suy luận tưởng
tượng, mới có được những gì mà mình cần đạt. Đó cũng là lý do để người viết chọn đề
tài này để hòan thành tốt bài luận văn.
8
Qua lớp thành ngữ trong tác phẩm ta sẽ thấy được điều kỳ diệu và sự tinh tế của
tư duy dân tộc và quan điểm thẩm mĩ của cha ông ta đã được tác giả thu gom lại, và có
sự sáng tạo độc đáo trong cách dùng từ. Tôi càng khẳng định rằng cuộc đời ông luôn
gắn liền trong các tác phẩm, mượn hình ảnh nhân vật để nói lên nỗi thống khổ của
cuộc đời mình, và xúc động thay khi phải đọc những trang cuộc đời thật quá bất công
của những con người nghèo, tôi mường tượng như chính cuộc đời mình có trong đó.
Từ tác phẩm tôi muốn tự rèn luyện bản thân mình có được bước đi vững vàng trong
cuộc đời hơn.
Với câu triết lý sâu sắc nhất của nhà văn Trung Quốc đã nói: “Thế hệ chúng ta
thật đáng buồn, đáng tội, tất cả những lời hay tiếng đẹp đã được tiền nhân sử dụng cả.
Ta sinh ra quá muộn ư? Hay là vì không sáng tạo được cái đẹp? Câu triết lý này quả
rất đúng. Vì thế hệ chúng ta hôm nay chỉ là sao chép và dựa vào cái sáng tạo có sẵn,
mà từ đó có cách nhìn mới để vun bồi cho nghệ thuật sáng tạo văn học. Chính vì điều
này mà người nghiên cứu thuộc thế hệ hôm nay, với những câu nói lời văn ít nhiều
cũng có ảnh hưởng và mang dáng dấp của các bậc tiền nhân đi trước. Vì lẽ đó mà tôi
chủ động tìm đến đề tài với mục đích là phải tích lũy thêm từ cái cũ mà mở rộng được
những cái mới cho riêng mình.
2. Lịch sử vấn đề.
Hồ Biểu Chánh là nhà văn lớn ở miền Nam, ông được xem là người mở đường
cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Ông còn là một trong những người viết tiểu thuyết
thành công ở giai đoạn mở đầu cho văn học Việt Nam, vì đã phản ánh đúng hiện trạng
cuộc sống xã hội Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ XX. Ông có hơn năm mươi năm
làm văn, viết đến sáu mươi cuốn tiểu thuyết. Hồ Biểu Chánh còn có công đóng góp hết
sức to lớn đối với văn học nước nhà ở nhiều thể loại như: tiểu thuyết, thơ ca, báo chí,
dịch thuật…Tác phẩm đầu tay là U tình dục (1909) và khi qua đời năm (1958) còn
hàng chục cuốn chưa in, hiện nay những tài liệu nghiên cứu về ông còn rất ít, chỉ nói
chung chung và khái quát chứ không đi sâu vào một vấn đề cụ thể. Những tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh lớp thành ngữ chiếm rất nhiều, thế mà người nghiên cứu chưa thấy
được các nhà nghiên cứu chú tâm khai thác một cách triệt để, và sâu sắc từ phương
diện nội dung tư tưởng lẫn phương diện nghệ thuật. Nếu nói về phương diện nghiên
cứu thì phải kể đến các công trình nghiên cứu đáng kể như:
9
Hoài Anh “Chân dung văn học”. Nxb. Hội nhà văn - 2001 đã có nhận định về
nhà tiểu thuyết gia Hồ Biểu Chánh như sau: “Điều kì lạ ở Hồ Biểu Chánh là ông vẫn
ung dung thích thản với phong thái của một nhà hiền triết đem những bài học luân lý
của quá khứ, để nhắc nhở hiện tại và hướng tới tương lai, khuyên con người phải biết
“Vì nghĩa vì tình” nhớ đến “Cha con nghĩa nặng”, bởi mang “Nặng gánh cang
thường” khen người “Trọn nghĩa vẹn tình” vì “Đại nghĩa diệt thân” thương kẻ “Một
đời tài sắc” mà “Chút phận linh đinh” căm ghét “Nhơn tình ấm lạnh” chạy theo
“Tiền bạc bạc tiền” để đến nỗi “Kẻ làm người chịu” thấy thân phận con người trong
xã hội kim tiền chẳng khác chi “Ngọn cỏ gió đùa” ông càng “Cay đắng mùi đời”
trước bao điều “Thiệt giả giả thiệt” nên ông “Tỉnh mộng” ngoài tuy “Cười gượng”
nhưng trong “Khóc thầm” [15;143]. Khuynh hướng đạo lý đã bộc lộ ngay ở nhan đề
tác phẩm, không e ngại ở chỗ nó làm giảm giá trị nghệ thuật do ông đã có một mục
đích, một lý tưởng viết văn mà ông quyết theo đuổi đến cùng. Từ nhận định này người
viết vẫn chưa thấy nghiên cứu sâu về thành ngữ mà chỉ nói sơ lược về cuộc đời và các
tác phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh.
Về nhận định của Vũ Ngọc Phan trong quyển “Nhà văn hiện đại phê bình văn
học 1” có nói về Hồ Biểu Chánh là về đường lý tưởng. Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
cũng giống như tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách, nghĩa là cả hai nhà văn này điều
lấy luân lý làm gốc, lấy cổ gia đình làm khuôn mẫu, lấy sự trung hậu làm điều cốt yếu
trong mọi việc ở đời. Nhưng tiểu thuyết của họ Hồ lại khác tiểu thuyết của họ Hoàng
về mấy phương diện. “Tiểu thuyết của họ Hoàng thiên về tả tình và giọng văn nhiều
chổ ủy mị, cầu kỳ, không tự nhiên; còn tiểu thuyết của họ Hồ thiên về tả việc và lời văn
mạnh mẽ giản dị, nhiều chỗ như là nói thường [18;335]. Cho nên việc Hồ Biểu Chánh
sử dụng từ địa phương xen lẫn với từ toàn dân, và những từ ấy được ông sử dụng lặp
đi lặp lại thường xuyên trong tác phẩm của mình. Vì vậy độc giả ở các vùng khác có
thể đọc và hiểu được nội dung tác phẩm của ông. Nếu ta làm cuộc so sánh về bút pháp
giữa Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh, thì chúng ta thấy rằng ở Hồ Biểu Chánh
đã tạo nên một thế đứng đối lập với ngôn ngữ của các tác giả ở phương Bắc.
Và điều đáng chú ý hơn nữa là nhà nghiên cứu Trần Thị Ngọc Lang ở cuốn
“Phương ngữ Nam Bộ”. Nxb. KHXH - Hà Nội. 1995 với bài viết: “Ngôn ngữ Hồ Biểu
Chánh những phương diện cần nghiên cứu” viết về vấn đề phương diện nghiên cứu
ngôn ngữ, và những đặc điểm ngôn ngữ của Hồ Biểu Chánh. Ở bài nghiên cứu này tác
10
giả chỉ đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ, mà đặc biệt là phương ngữ Nam Bộ, chứ không
nói gì đến thành ngữ trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Đồng thời tác giả còn chỉ ra
được phần nào tầm quan trọng của ngôn ngữ tác phẩm Hồ Biểu Chánh đối với các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ.
Nhà phê bình Thiếu Sơn trong cuốn “Thiếu sơn toàn tập” (tập 1) là người đã
viết về Hồ Biểu Chánh trong “Phê bình văn học cảo” (1993) đã nhận định về tiểu
thuyết của ông: “Cái khó là câu chuyện phải sao cho có lý, lời thuật phải sao cho gọn
gàng, cái cơ mưu phải sao cho tự nhiên, cách kết cấu phải sao cho ý vị.” [20;83].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung trong quyển “Phác thảo văn học Pháp với
văn học Việt Nam hiện đại” của giáo sư Hoàng Nhân. Nxb. Mũi Cà Mau - 1998 đã
nhận định: “Hồ Biểu Chánh đã góp phần tích cực vào việc chuyển giai đoạn cho tiểu
thuyết nói riêng cho văn học dân tộc nói chung” [19;180]. Hạn chế của tác giả là đã
lẫn tránh thực tại chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta đầu thế kỉ XX. Khi lùi lại
một thế kỷ đi tìm sự trùng hợp về thời gian với các sự kiện nội dung nguyên tác. Với
phần nhận định này thì cũng chỉ nói tóm lược về sự nghiệp sáng tác văn chương của
Hồ Biểu Chánh chứ không nghiên cứu vào cụ thể của thành ngữ.
Trong cuốn “Phê bình bình luận văn học”. Nxb. Văn nghệ - TPHCM là do
những nhà nghiên cứu về tác phẩm Hồ Biểu Chánh đều có những nhận định khá sâu
sắc như:
Giáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng: “Chúng ta không vì những mặt tiêu cực trong
cuộc đời chính trị của Hồ Biểu Chánh mà có định kiến, đi đến coi sự nghiệp sáng tác
giàu tính nhân dân của ông. Điều này chính đáng và cần thiết đối với sáng tác của các
nhà văn sống trong xã hội cũ nói chung của Hồ Biểu Chánh nói riêng”[19;72].
Về giá trị tư tưởng tác phẩm Hồ Biểu Chánh, giáo sư Nguyễn Lộc cho rằng :
“Điều Hồ Biểu Chánh quan tâm sâu xa và thể hiện đậm nét trong tác phẩm của mình
là: làm thế nào cho xã hội có được phong hóa lành mạnh. Vốn là người bản chất nhân
hậu, ông chưa bao giờ đứng về phía cái mới để đả kích cái cũ, hay ngược lại đứng về
phía cái cũ để đả kích cái mới. Thái độ của ông là tìm cách dung hòa cái mới và cái
cũ, theo ông cái mới và cái cũ đều có những ưu điểm riêng của nó”[19;72].
Tiến sĩ Lê Ngọc Trà lại cho rằng: Cái độc đáo nhất và giá trị nhất của tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh nhằm chủ yếu không phải ở chổ nó mô tả phong tục hay tuyên
truyền đạo lý mà ở chỗ thông qua mô tả phong tục, kết hợp tư tưởng là chủ nghĩa hiện
11
thực. “Cái mới và cái hay của Hồ Biểu Chánh là ông nói đạo lý đi kèm với nói chuyện
đời kể lại những cảnh đời khác nhau, có thể là không gắn gì với các biến động chính
trị, kinh tế của xã hội nhưng lại gắn chặt với đời người, lại là nội dung của đời sống
hằng ngày”. [19;73]
Về giá trị hiện thực của tác phẩm Hồ Biểu Chánh, nhà nghiên cứu Nguyễn
Ngọc Thạch viết: “Trên nửa thế kỷ trước Hồ Biểu Chánh đã phác họa được bức tranh
hiện thực về kiếp sống người bần cố nông dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, ở một
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hồ Biểu Chánh đã dựng lại cảnh vất vả cực nhọc đói
cơm, rách áo, bị đàn áp nhục mạ…của người nông dân nghèo.”[19;74]
Về giá trị nghệ thuật của tác phẩm Hồ Biểu Chánh, đồng chí Nguyễn Ngọc
Hiếu (Cao đẳng Sư phạm Tiền Giang) nhận xét: “Đọc tác phẩm của Hồ Biểu Chánh ta
thấy tác giả thường chú trọng vào những biểu hiện bên ngoài như sắc diện, ngôn ngữ,
cử chỉ, hành động,…của nhân vật”[19;74]. Tâm lý nhân vật được bộc lộ chủ yếu là
những biểu hiện bên ngòai, ấy chính việc xây dựng tác phẩm như vậy có người cho tác
giả quá đơn giản, cạn cợt, thiếu sự sâu xa, tinh tế, làm giảm giá trị tác phẩm. Bởi do
chú ý mô tả những biểu hiện bề ngòai nhiều hơn những chuyển biến bên trong tâm hồn
nhân vật, mà nhân vật của tác giả là người Nam Bộ và đã rõ là người Nam Bộ, nhưng
nhìn chung thủ pháp biểu hiện của tác giả là phù hợp với đặc tính của con người. Đó
chính là thực tế góp phần đắc lực vào việc thể hiện chân thật, tự nhiên bản tính con
người Nam Bộ được Hồ Biểu Chánh miêu tả một cách tường tận.
Về ngôn ngữ tác phẩm Hồ Biểu Chánh giáo sư Cù Đình Tú, nhà nghiên cứu
Hồng Dân, Trịnh Hoàng Mai đều nhất trí ở chổ: “ Hồ Biểu Chánh đã vận dụng khẩu
ngữ hàng ngày nâng lên thành ngôn ngữ văn chương trong tác phẩm, khác với lối văn
ước lệ, biền ngẫu trước đó”[19;75]. Tác giả chỉ đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ đặc biệt là
phương ngữ Nam Bộ, chứ không nói về thành ngữ của Hồ Biểu Chánh.
Phạm Thế Ngũ cũng có viết: “Câu văn Hồ Biểu Chánh nói chung giản dị ngắn
gọn nhất là ở chổ thuật việc và đối thoại giọng thường suông đuột in hệt cách nói của
cửa miệng bình dân nên dễ đọc dễ hiểu”[19;371]. Hay Trần Hữu Tá với bài viết: “Một
cảm nghĩ nhân đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ” đã nói “Hồ Biểu Chánh đã việt
hóa tác phẩm nước ngoài như: “Cay đắng mùi đời, Chúa tàu Kim Qui, Ngọn cỏ gió
đùa, …nhưng vẫn có sắc thái riêng, giá trị riêng, người đọc vẫn cứ ngỡ là gặp ở đây
những vùng đất Nam Bộ, sống lại không khí một thời của vùng đất này với những
12
người chất phác, trung thực hiền lương đã đổ mồ hôi và máu trên các miệt đồng các
kênh rạch đồng bằng sông Cửu Long.”[19;22]
Nhìn chung những công trình của các nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác cụ
thể một cách tòan diện về cuộc đời, và quá trình sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Qua đó
đã làm nổi bật được một con người hiền lương trung hậu sống trong xã hội kim tiền
nhưng vẫn giữ được thanh cao chánh trực. Cũng bởi một con người sống ở vùng đất
Nam Bộ, biết tận hưởng không khí trong lành của đồng quê man mác đã hun đúc nên
một tâm hồn văn sĩ. Do thế hệ Hồ Biểu Chánh còn thấm nhuần quan niệm “văn sĩ tải
đạo” trước thư lập ngôn, cho nên tác phẩm của ông dùng chứa trong không gian nghệ
thuật cụ thể. Ở mỗi tác phẩm là nhịp sống hối hả, chung đụng, bon chen trên con
đường tư sản hóa tâm lí con người luôn bị biến thiên bởi đồng tiền, quyền lực,… Bằng
ngòi bút đạo lý ông hướng con người vươn đến điều thiện lánh xa điều ác. Đó chính là
lý do những tác phẩm của ông luôn kết thúc có hậu “thiện giả thiện lai, ác giả ác
báo”. Vì lẽ đó mà về phương diện nội dung tư tưởng cũng như nghệ thuật ông điều có
đóng góp đáng kể và cũng có phần hạn chế. Về lớp thành ngữ chiếm rất nhiều trong
tác phẩm, mà vẫn chưa thấy công trình nghiên cứu nào sâu sắc, chỉ khai thác khái quát
chung chung về cuộc đời và nội dung tác phẩm mà thôi. Có thể mượn lời của Nguyễn
Quyết Thắng để kết luận về nhà văn Hồ Biểu Chánh: “Các nhà phê bình đa số điều
phiền trách cuộc đời chính trị của đốc phủ Hồ Văn Trung nhưng không ai phủ nhận
công sức đóng góp văn học của nhà văn Hồ Biểu Chánh”. [19;325]
3. Mục đích yêu cầu.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt thì thành ngữ là phương tiện giao tiếp,
cũng như trong sáng tác nghệ thuật văn chương là tất yếu. Vì thành ngữ là tiếng nói là
hơi thở của văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam, không những vậy mà thành ngữ
còn tạo lập mối quan hệ giao tiếp giúp con người đến gần nhau hơn.
Đến với đề tài “Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh” giúp người viết có
tư tưởng suy ngẫm về một vùng quê hẻo lánh ở Nam Bộ trước đây. Hồ Biểu Chánh đã
phán ánh cụ thể một xã hội đã xảy ra trước đó, từ thành ngữ có thể khái quát toàn bộ
nội dung tác phẩm biểu đạt được giá trị nghệ thuật sâu sắc của nhà văn, giúp tôi thấy
được cái hay cái đẹp của thành ngữ được phản ánh một cách toàn diện: từ khung cảnh
đến ngoại hình, tâm lý tính cách, hành động hoạt động của nhân vật. Mà cụ thể ở đây
người nghiên cứu phải chỉ ra, và làm rõ ý nghĩa của các thành ngữ được sử dụng ở
13
từng câu văn trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Song người viết ngoài việc chỉ ra vấn đề
của thành ngữ, còn phải làm rõ vấn đề nội dung tác phẩm cũng như về phương diện
nghệ thuật cần khai thác từng mạch vấn đề được tác giả bao quát ở trong tác phẩm.
Nội dung đề tài đòi hỏi người nghiên cứu phải chú tâm khai thác rõ ràng từng
thành ngữ và giá trị biểu đạt của nó. Bên cạnh đó, giúp người nghiên cứu học hỏi thêm
vốn kiến thức về thành ngữ, cụ thể là ngôn ngữ nói và viết để sử dụng thành ngữ một
cách chính xác hơn, hiệu quả hơn tránh những hạn chế không nên có. Từ đề tài người
viết còn khám phá được một dung lượng kiến thức ngôn ngữ cùng với nghệ thuật viết
văn của tác giả, một tài năng vận dụng thành ngữ một cách sáng tạo và độc đáo, do bắt
nguồn từ cuộc sống được nhân dân đúc kết, mà Hồ Biểu Chánh đã thu gom lại và vận
dụng vào văn cảnh cho phù hợp đúng lúc, đúng mục đích trong những tác phẩm càng
làm cho nội dung tác phẩm phát huy được giá trị to lớn. Có thể nói từ đề tài trên giúp
người viết có dịp học hỏi và hiểu biết thêm về văn phong của Biểu Chánh một tài
năng, một phong cách rất riêng đậm chất Nam Bộ.
Khi thực hiện đề tài người nghiên cứu chỉ ở góc độ ngôn ngữ và tìm hiểu thành
ngữ để làm nổi bật được nội dung lẫn giá trị biểu đạt và tác dụng của “Thành ngữ
trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh”.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Về mặt phạm vi của đề tài nghiên cứu “Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu
Chánh” thì có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều bình diện khác nhau, nhưng nhìn
chung nhiều công trình nghiên cứu này chỉ nhận xét khái quát chung chung chưa rõ
ràng kể cả nội dung lẫn nghệ thuật trong sáng tác của Hồ Biểu Chánh. Đặc biệt là lớp
thành ngữ không có công trình nào khai thác toàn diện về những đóng góp của ông, dù
biết rằng đề tài này đã gây không ít khó khăn trong quá trình nghiên cứu, nhưng nó
cũng có sự lôi cuốn hấp dẫn làm cho người viết được tìm hiểu và học hỏi nhiều hơn.
Cùng với số lượng tác phẩm tài liệu nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh còn hạn chế,
nên việc nghiên cứu thành ngữ còn ở dạng khảo sát chưa đi sâu một cách cụ thể, cho
nên người viết chỉ tập trung tìm hiểu thành ngữ trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
Bên cạnh đó, đòi hỏi phải chỉ ra các thành ngữ đã được sử dụng trong từng văn cảnh,
và phải nêu được tác dụng của thành ngữ, để thấy rõ được biệt tài sử dụng thành ngữ
của tác giả một cách công phu đã trọn đời đóng góp cho nền văn học nước nhà.
14
Đó là tất cả những vấn đề nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài mà người
viết muốn trình bày trong luận văn này.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được hiệu quả trong quá trình tìm hiểu và việc nghiên cứu đề tài này,
điều quan trọng là người nghiên cứu phải xác định rõ phương pháp một cách cụ thể và
sử dụng nhiều phương pháp kết hợp lại với nhau.
Với đề tài “Thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh” là một đề tài mang tính
đặc trưng của chuyên môn ngôn ngữ, nên người viết tiến hành làm việc. Trước tiên là
tìm đọc tất cả những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Sau đó tổng hợp lại và
lần lượt đọc các tác phẩm cần nghiên cứu, và rút ra những nhận định ý kiến của các
nhà nghiên cứu để phục vụ cho việc làm sáng tỏ đề tài, từ đó tìm ra các thành ngữ đã
được vận dụng trong đó, kế đến là lập thành bảng thống kê và phân loại thành ngữ.
Trên cơ sở đó người viết vận dụng trong văn cảnh và cuối cùng là sử dụng phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để làm nổi bật trọng tâm đề tài nghiên cứu và khẳng
định được biệt tài sử dụng thành ngữ của Hồ Biểu Chánh.

15
PHẦN NỘI DUNG

16
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÀNH NGỮ
1.1. Khái niệm về thành ngữ.
Khi nghiên cứu về thành ngữ điều trước tiên là chúng ta phải xác định được
thành ngữ, và nắm được khái niệm của thành ngữ, thì ta mới hiểu được nội dung ý
nghĩa mà thành ngữ muốn thể hiện.
Từ xưa đến nay thành ngữ luôn được xem là loại hình ngôn ngữ đặc sắc, thành
ngữ vốn gắn liền với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, ngôn ngữ của nó rất
bình dân, gần gũi với mọi tầng lớp xã hội cho nên thành ngữ đã xuất hiện trong các
câu thơ, câu văn để làm tăng thêm tính cô đọng, hàm súc, dễ hiểu, dễ đọc. Chính vì
thế, mà việc sử dụng thành ngữ đã trở thành phương tiện phổ biến giàu tính thuyết
phục, và trở thành đối tượng thu hút được sự chú ý quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Cũng từ nhiều khía cạnh nghiên cứu khác nhau, nên có sự xuất hiện nhiều quan niệm
khác nhau, trong cách dùng nhiều từ thành ngữ khác nhau. Sau đây là một số quan
niệm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ về thành ngữ:
Tác giả Đỗ Hữu Châu với công trình nghiên “Cách bình diện của từ và từ tiếng
Việt” thì ông không dùng khái niệm để định nghĩa về thành ngữ mà ông chỉ nói đến
tính chặt chẽ về ý nghĩa thường đồng nhất với tính thành ngữ như sau:
“Cho một tổ hợp có một ý nghĩa S do các đơn vị A, B, C …mang ý nghĩa lần
lượt S1, S2, S3,…tạo nên, nếu như ý nghĩa S không thể giải thích các ý nghĩa S1, S2,
S3,…thì tổ hợp A, B, C có tính thành ngữ”[1;261].
Vũ Ngọc Phan trong quyển 2 “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam tập 3” cho
rằng: “Thành ngữ là một phần câu sẳn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người
đã quen dùng nhưng tự riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn” [18;48]
Hoàng Văn Hành trong quyển “Kể chuyển thành ngữ, tục ngữ” thì: “Thành ngữ
là một tổ hợp từ cố định, bền vững về hình thái, cấu trúc hòan chỉnh, bóng bẩy về ý
nghĩa được sử dụng rộng rải trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là khẩu ngữ” [5;21].
Đái Xuân Ninh trong “Họat động của từ tiếng Việt” đã khẳng định rằng:“Thành
ngữ là một cụm từ cố định mà các yếu tố tạo thành đã mất tính độc lập ở cái mức độ
nào đó và kết hợp lại thành một khối tương đối vững chắc và hoàn chỉnh” [9;212].
Theo quan niệm của Nguyễn Hữu Huỳnh trong quyển “Tiếng Việt hiện đại”
như sau: “Thành ngữ là một cụm từ cố định có tính hoàn chỉnh về nghĩa, có sắc thái
17
biểu cảm, có tính hình tượng và tính cụ thể. Phần lớn thành ngữ đồng nghĩa hoặc
tương đương với một từ (danh từ, động từ, tính từ)” [4;212].
Nguyễn Văn Mệnh “Ranh giới giữa tục ngữ và thành ngữ” thì: “Thành ngữ giới
thiệu một hình ảnh, một hiện tượng,một trạng thái, một tính cách, một mức độ” [8;13].
Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn “Từ và nhận diện từ tiếng Việt” đã nói rằng:
“Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có giá trị
gợi tả tính hình tượng là đặc trưng cơ bản của thành ngữ. Thành ngữ biểu thị khái
niệm nào đó dựa trên những hình ảnh, những biểu tượng cụ thể. Tính hình tượng của
thành ngữ được xây dựng dựa trên cơ sở của hiện tượng so sánh và ẩn dụ” [3;181].
Cù Đình Tú trong “Phong cách học tiếng Việt” ông quan niệm thế này: “Thành
ngữ là những tổ hợp từ có sẳn (cụm từ cố định) trong ngôn ngữ có chức năng định
danh như: từ dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hoạt động” [12;274]. Ông đã khái quát
về thành ngữ khá hoàn chỉnh về hình thức lẫn nội dung.
Tác giả Nguyễn Văn Tu với công trình nghiên cứu “Từ và vốn từ tiếng Việt
hiện đại” đã nhận định :“Thành ngữ là một cụm từ cố định mà các từ trong đó, đã mất
tính độc lập đến một trình độ cao về nghĩa, kết hợp làm thành một khối hoàn chỉnh
vững chắc. Nghĩa của nó không phải do nghĩa của từng thành tố tạo ra. Những thành
ngữ này có tính hình tượng hoặc cũng có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác
nghĩa của những từ nhưng có thể cắt nghĩa bằng từ nguyên học” [13;181].
Tác giả Hồ Lê ở cuốn “Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại” có nói: “Thành
ngữ là những tổ hợp từ (bao gồm nhiều từ hợp lại có tính chất vững chắc về cấu tạ, và
bóng bẩy về ý nghĩa dùng để miêu tả một hình ảnh, một hiện tượng, một tính cách hay
một trạng thái nào đó” [6;97].
Quan niệm Dương Quảng Hàm trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” có ý
kiến cho rằng: “Thành ngữ là những lời nói do nhiều tiếng ghép lại đã lập thành sẵn.
Ta có thể mượn để diển đạt một ý tưởng của ta khi nói chuyện hoặc viết văn” [16;9].
Nhìn chung các tác giả có nhiều quan niệm khác nhau về thành ngữ nhưng
khách quan mà nói thì đa số các tác giả điều thống nhất với nhau rằng: “Thành ngữ là
những cụm từ cố định hoặc những tổ hợp từ mang tính chất vững chắc về cấu tạo, đặc
biệt là hình thức và nội dung hoàn chỉnh. Không những vậy mà các quan niệm còn nêu
được tính hình tượng, tính biểu cảm và tính gọt giũa bóng bẩy của thành ngữ”.
18
Trên cơ sở tổng hợp các quan niệm và cách lập luận khác nhau về thành ngữ
của các tác giả, ta có thể khái niệm thành ngữ như sau: Thành ngữ là những cụm từ cố
định được dùng để định danh cho các sự vật, hiện tượng, tính chất, hành động. Thành
ngữ có nội dung và hình thức khá hoàn chỉnh. Nghĩa của thành ngữ có tính hình tượng,
tính gợi cảm và hình thức diển đạt có tính bóng bẩy, trau chuốt, giàu tính biểu cảm.
1.2. Cấu tạo của thành ngữ.
Thành ngữ là một cấu tạo gọt giũa (có tính nghệ thuật dân gian về ngôn từ).
Thành ngữ được cấu tạo theo nhiều kiểu khác nhau:
1.2.1. So sánh.
Thành ngữ so sánh còn là thành ngữ tỷ dụ hóa bắt nguồn bằng phép so sánh.
Thành ngữ so sánh là do nhiều nguyên nhân phức tạp trong đó thực tế xã hội, đặc điểm
tâm lý, truyền thống văn hóa - lịch sử đóng vai trò quan trọng. Kết cấu của thành ngữ
so sánh gồm hai vế được nối kết với nhau bằng từ có nghĩa tương đồng hay đồng nhất.
Ví dụ: Dữ như hùm
Đen như mực
Trắng như ngà
Nhanh như cắt
Chậm như rùa
Khóc như mưa
Lạnh như tiền…
Thành ngữ so sánh được cấu tạo theo các dạng tổng quát sau:
Dạng đầy đủ: A như B
Dạng tỉnh lượt A: như B
Trong đó: A là sự vật được so sánh “như” là được so sánh và B là sự vật so
sánh.
Thành ngữ so sánh thành phần biểu thị quan hệ so sánh, ở đây cái so sánh là bộ
phận bắt buộc và ổn định trên cấu trúc bề mặt cũng như cấu trúc sâu. Nếu ta phá vỡ
cấu trúc so sánh thì sẽ không còn là thành ngữ so sánh nữa.
Trong tiếng Việt ta thấy có xuất hiện nhiều từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh
(như, như là, tựa là, mà là,…). Tuy nhiên ở thành ngữ so sánh thì đôi khi từ so sánh lại
mất đi những nó vẫn ngầm ý là so sánh. Ở cấu trúc so sánh, điều đáng chú ý là vế so
19
sánh (vế B). Bởi lẽ qua vế B của thành ngữ so sánh thường gợi tả những hình tượng
điển hình đậm đà màu sắc dân tộc.
Ví dụ: Hiền như bụt
Vắng như chùa bà đanh
Lừ khừ như ông từ vào đền
Lanh chanh như hành không muối
Nợ như chúa chốm
Xanh như tàu lá…
Điều này có thể giải thích vì sao có sự tương đồng hoàn toàn giữa các thành
ngữ so sánh của hai ngôn ngữ khác nhau. Việc xác định cấu trúc và đặc điểm hình thái
của thành ngữ so sánh, điều quan trọng là chúng ta phải xác định được tính chất so
sánh nói lên nghĩa tương đồng và đồng nhất giữa các đối tượng được nói đến nhằm thể
hiện cách nói cô đọng, bóng bẩy.
Tuy nhiên trong thành ngữ so sánh đôi khi còn có hình thức so sánh không có
từ so sánh “như ” mà vẫn bao hàm ý nghĩa so sánh.
Ví dụ: Cá chậu chim lồng
Đầu chày đít thớt…
Trên cơ sở đó ta chỉ đưa ra những kiểu ý nghĩa khác nhau của thành ngữ so sánh.
1.2.2. Phép đối.
Thành ngữ đối được thiết lập gồm hai vế đối nhau, từng cặp của vế này đối với
từng cặp của vế kia, tạo nên tính cân đối hài hòa làm cho thành ngữ thêm âm điệu nhịp
nhàng, dễ thuộc, dễ nhớ. Quan hệ đối ứng của hai vế được hình thành bởi thuộc tính
tương đồng về ngữ nghĩa, ngữ pháp giữa các yếu tố được đưa vào hai vế của thành
ngữ.
Ví dụ : Chim sa / cá lặn
Chân cứng / đá mền
Tai vách / mạch dừng
Tốt danh / lành áo
Chén to / kho mặn…
Bên cạnh những thành ngữ đối thì phép đối được xây dựng qua hai bậc: đối ý
và đối lời.
1.2.2.1. Đối ý:
20
Thành ngữ đối ý là bậc đối ứng giữa hai vế của thành ngữ với nhau về ý.
Ví dụ: sự đối xứng giữa “Đầu trâu” và “mặt ngựa” có quan hệ với nhau về ý
giữa hai vế của thành ngữ. Hay thành ngữ “Đời cha ăn mặn”,“đời con khác nước”
cũng là quan hệ đối ý giữa hai vế trong thành ngữ và một số thành ngữ khác.
Cá lớn nuốt cá bé
Quỷ tha ma bắt
Lên voi xuống chó
Xanh vỏ đỏ lòng
Con nhà lính tính nhà quan…
1.2.2.2. Đối lời:
Đây cũng là một dạng thành ngữ đối, nhưng điều cần chú ý là quan hệ đối ứng
về ý có được, và thể hiện ra là nhờ các quan hệ đối ứng giữa các yếu tố trong hai vế
của thành ngữ. Quan hệ này gọi là quan hệ đối lời. Nghĩa là thành ngữ đối lời là cơ sở
cấu tạo cho thành ngữ đối ý.
Ví dụ: Thành ngữ “Mẹ tròn con vuông ” chỉ việc sinh đẻ được thuận lợi may
mắn, cả mẹ lẫn con điều được khỏe mạnh, được bình an. Với thành ngữ vừa nêu trên
rõ ràng là “mẹ” đối với “con”, “tròn” đối với “vuông” trên cơ sở đối lời ấy vấn đề chủ
yếu là vấn đề đối ý: “mẹ tròn” thì đối với “con vuông”, ta thấy có sự kết hợp hài hòa
theo mạch cảm xúc “Mẹ tròn con vuông”.
1.2.3. Phép điệp.
Tính điệp trong thành ngữ là sự giống nhau ở hình thức ngữ âm (phụ âm đầu và
vần) và đặt chúng ở vị trí khác nhau. Thành ngữ điệp còn là loại thành ngữ đối, đặc
biệt ở quan hệ đối ứng đồng nghĩa, có một trường hợp là các từ đối ứng ở vế đầu và vế
sau trùng nhau hoàn toàn về âm và về nghĩa. Quan hệ đối ứng kiểu này gọi là quan hệ
điệp (tức lặp). Từ đó ta có thành ngữ điệp (đối điệp).
Ví dụ: Từ “nói” được lặp lại trong thành ngữ “Nói trăng nói cuội”, “Nói ngon
nói ngọt”, từ “mắt” trong thành ngữ “Mắt trước mắt sau”, từ hứa trong thành ngữ
“Hứa trước hứa sau”,…
Đặc điểm cấu tạo cơ bản nhất của thành ngữ loại này là yếu tố được lặp lại,
thường là động từ và số từ, và bao giờ cũng đặt ở đầu mỗi vế tức là ở đầu thành ngữ.
Ví dụ: Ngủ gà ngủ gật
Đi đông đi tây
21
Một mất một còn
Một trời một vực…
Nội dung của thành ngữ điệp có sắc thái biểu cảm cao, nhấn mạnh được mức độ
hành động (là những thành ngữ có yếu tố được lập lại là động từ). Còn số từ (thường
người Việt hay dùng số 1). Trong thành ngữ điệp dường như không biểu thị về số
lượng mà biểu thị sắc thái ý nghĩa về tính mức độ, tính khẳng định, tính cương quyết
cho phép lặp (điệp) đem lại.
Nhìn chung thành ngữ cho dù được cấu tạo theo quan hệ gì đi nữa, thì nó phải
đảm bảo những đặc trưng cơ bản sau:
Các yếu tố đối ứng phải cùng phạm trù từ loại, tức cùng một thuộc tính ngữ
pháp. Nghĩa là nếu trong một thành ngữ hai yếu tố A và B đối nhau, thì bên cạnh tính
đồng nhất về mặt phạm trù ngữ nghĩa, nó còn phải đồng nhất về thuộc tính ngữ pháp là
phải cùng từ loại: cả hai là danh từ hoặc cả hai cùng là đồng từ.
Ví dụ: “Vào luồn ra cúi”, ở đây “vào” đối với “ra”, “luồn” đối với “cúi” và
chúng là những động từ.
Các yếu tố đối ứng với trong hai vế phải phản ánh những đặc trưng cùng thuộc
phạm trù. Tính cùng thuộc một phạm trù của các đặc trưng thể hiện ở chổ chúng điều
là những sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình thuộc tính cùng một tiểu nhóm hay
tiểu phạm trù, cùng một bậc quan hệ, lời giống nhau.
Ví dụ: “Mình” và “đầu” trong thành ngữ “Đầu Ngô mình Sở ”, “đầu” và “tay”
trong thành ngữ “Đầu cua tai nheo”, “đầu” và “mặt” trong thành ngữ “Đầu trâu mặt
ngựa”, “đầu” và “đuôi” trong thành ngữ “Đầu voi đuôi chuột”,… đều là những từ chỉ
các bộ phận trên cơ thể con người hay sự vật.Hoặc “con”, “cháu”, “ông”, “cha”
trong thành ngữ “Con ông cháu cha” đều là những từ chỉ quan hệ biểu thị, quan hệ
thân thuộc trong gia đình, thân tộc họ hàng,…
Ngoài ra, còn có loại thành ngữ được cấu tạo rất đơn giản, không đối cũng
không phải là so sánh, thường nó được cố định hóa bằng những cụm từ hay những
mệnh đề bình thường.
Ví dụ: Châu chấu đá xe
Trứng chọi với đá
Đi guốc trong bụng
Lấy thúng úp xôi…
22
Qua cách cấu tạo của thành ngữ tiếng Việt ta thấy đó chỉ là xét trên bề nổi của
cấu trúc, của sự liên kết ngôn từ, chữ nghĩa, từ cách thể hiện cấu tạo đó ta dễ dàng
nhận thấy và hiểu được một cách thấu đáo hơn về thành ngữ.
1.3. Đặc điểm của thành ngữ.
1.3.1. Tính biểu trưng.
Tính biểu trưng của thành ngữ thể hiện ở chổ hình ảnh hoặc sự việc, sự vật cụ
thể miêu tả trong thành ngữ, là nhằm nói về những ý niệm khái quát hoá. Do tính hoàn
chỉnh và bóng bẩy về nghĩa đã tạo nên tính biểu trưng của thành ngữ, và tính biểu
trưng đã trở thành đặc điểm nổi bật của thành ngữ. Tính biểu trưng có ý nghĩa quyết
định giá trị của thành ngữ. Nói về tính biểu trưng của thành ngữ ta thấy cũng có nhiều
quan niệm khác nhau:
Theo quan niệm của Đỗ Hữu Châu thì tính biểu trưng như sau: “Biểu trưng là
lấy những vật thực, việc thực để biểu trưng cho những đặc điểm, tính chất, hành động,
tình thế,… phổ biến, khái quát” [2;70]
Ví dụ: “Chó chui gầm chạn” không phải là việc miêu tả con chó chui gầm chạn
mà còn nói đến thái độ, hành động hèn hạ của một kẻ sống dựa vào bên nhà vợ. “Cá
nằm trên thớt”. Ở đây không đơn giản là việc miêu tả hình ảnh con cá nằm trên thớt,
mà thông qua hình ảnh cụ thể của sự vật vừa nêu, ta thấy ý muốn nói đến tình thế rất
nguy kịch đối với tính nạng không sao tránh khỏi, tánh mạng đang bị đe dọa, cái chết
đang gần kề. Hay thành ngữ “Chuột chạy cùng sào” cũng mang ý nghĩa biểu trưng,
cho hành động gặp phải tình thế khốn đốn, bị dồn vào bước đường cùng không lối
thoát, mặc dù đã dùng nhiều phương cách, đã xoay sở mà hết cách.
Nếu không có tính biểu trưng của thành ngữ, mà ta lại dùng một cụm từ để giải
thích nghĩa của nó, thì không thể nói lên hết nghĩa và đầy đủ ý … Ngược lại còn làm
cho nghĩa của thành ngữ trở nên lệch lạc, rườm rà.
Theo sự phân tích của Cù Đình Tú thì tính biểu trưng phải “Dựa vào quy luật
hài hòa âm thanh, dựa vào quy tắc ngữ pháp, dựa vào quy tắc chuyển nghĩa ẩn dụ và
hoán dụ, người ta chọn lấy những tổ hợp từ ngữ miêu tả những hiện tượng sinh động
và quen thuộc trong cuộc sống, dùng chúng làm dấu hiệu gọi tên những đối tượng, lối
gọi tên này mang tính chất biểu trưng nghĩa là qua hình ảnh, dấu hiệu này thành ngữ
gợi ra một cái gì ở đằng sau, biểu trưng một cái gì đó” [12;234].
23
Ví dụ: Thành ngữ “Nước mắt cá sấu” biểu trưng cho sự giả dối, hay thành ngữ
“Khẩu phật tâm xà”,“Ba que xỏ lá” chỉ những kẻ lừa bịp, xảo trá, điểu giả,…
“Nhà dột cột xiêu ” là nhà cửa đã bị hư hỏng, không được trông nom, sửa sang,
cũng có thể đã bị bỏ hoang, nghĩa biểu trưng là chỉ sự nghèo khó.
Nghĩa của thành ngữ được cấu tạo bằng các phương pháp chuyển nghĩa như: ẩn
dụ, hoán dụ, so sánh, khoa trương,…Vì vậy, biểu trưng là lấy cái cụ thể để chỉ cái trừu
tượng dựa trên cơ sở sự tương đồng.
Ví dụ: Tre già măng mộc
Gừng càng già càng cay
Rừng vàng biển bạc… Biểu trưng theo phương thức ẩn dụ.
Ếch ngồi đáy giếng Biểu trưng cho sự thiển cận.
Thấy trăng quên đèn
Thấy lê bỏ lựu… Biểu trưng theo phương thức hoán dụ.
Chân lấm tay bùn  Biểu trưng cho sự vất vả cực khổ.
Chậm như rùa  Biểu trưng cho sự chậm chạp nhưng đồng thời
cũng biểu trưng cho sự tỉ mĩ, có chọn lọc.
Yếu như sên  Biểu trưng cho sự yếu đuối .
Thông qua các định nghĩa về tính biểu trưng đều lấy một vật thực, việc thực
làm biểu trưng để nêu lên vấn đề cần nói đến. Và từ những ví dụ trên, đã thể hiện rõ
tính biểu trưng cụ thể của từng vấn đề. Vì vậy, từ tính biểu trưng mà nội dung của
thành ngữ không đơn thuần là những vấn đề được nói đến trong các từ ngữ tạo nên, mà
nó còn là vấn đề ẩn đằng sau các từ ngữ đó (tức nghĩa bóng của nó).
1.3.2. Tính dân tộc và tính cụ thể.
Thành ngữ giống như các từ, cùng là đơn vị ngôn ngữ nhưng thành ngữ lại
mang chức danh định danh, nhằm biểu thị khái niệm hoặc biểu trưng về thuộc tính quá
trình của sự vật. Do thành ngữ nó mang tính biểu trưng nên đồng thời nó cũng mang
tính dân tộc. Tính dân tộc của thành ngữ được thể hiện ở cả hai mặt nội dung và hình
thức.
Theo nhận định của Cù Đình Tú thì:“Dân tộc nào cũng có kho tàng thành ngữ
của mình.Vốn thành ngữ này gồm những thành ngữ do bản thân dân tộc đó tạo nên,và
những thành ngữ mượn tiếng nước ngoài.Những thành ngữ do bản thân dân tộc tạo
24
nên, đã ghi lại cuộc sống đất nước mình bằng những hình ảnh riêng của đất nước,và
bằng những cách diễn đạt riêng của dân tộc mình” [12;238 ].
Trong thành ngữ chúng ta có thể thấy được nét văn hóa dân tộc Việt Nam được
biểu hiện rất đậm nét. Không những có thành ngữ mà ở tục ngữ ca dao, dân ca,… nó
luôn mang một nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc. Từ đó giúp ta thấy được
quan niệm, cách nghĩ, lối sống, của con người và hình ảnh thiên nhiên làm cho chúng
ta có cảm giác quen thuộc gần gũi với đời sống của dân tộc. Thành ngữ thể hiện đậm
nét văn hóa dân tộc gắn với con người và quê hương Việt Nam.
Ví dụ: thành ngữ “Cày sâu cuốc bẩm”,“Chân lấm tay bùn”,“Đầu tắt mặt
tối”,“Dầm mưa dãi nắng”,…thể hiện sự vất vả và cần lao trong công việc. Từ đó ta
mới thấy được những sản phẩm do bàn tay bé nhỏ của những người lao động nghèo
khó làm nên, cho nên cần phải trân trọng những giá trị của người lao động phải đánh
đổ bằng sức lao động mà có.
Hay hình ảnh những con vật, đồ vật quen thuộc luôn tồn tại trong đời sống con
người hằng ngày cũng được nói đến như: Thành ngữ “Ăn như mèo”,“Làm như mèo
mửa”,“Chó chê mèo lắm lông”,“Đầu voi đuôi chuột”,“Nồi nào vung nấy”,“Ăn cháo
đá bát”…
Ngoài ra còn có thành ngữ thể hiện đậm nét lịch sử, truyền thống dân tộc như:
“Con rồng cháu tiên”, “Vắng như chùa bà đanh”, “Áo gấm về làng”,… và cũng có
thành ngữ ra đời trong một thời kì lịch sử nhất định như: “Tam tòng tứ đức”, “Công
dung ngôn hạnh”, “Đa nghi như Tào Tháo”,…
Đây là những thành ngữ mang đậm nét lịch sử, quê hương, đất nước, mỗi dân
tộc hay đất nước điều có một thành ngữ riêng, ý nghĩa khác nhau giúp ta tránh được sự
nhầm lẫn trong cách dùng từ, và phân biệt được giữa thành ngữ của dân tộc ta với dân
tộc khác.
Điều đó cho ta thấy tính dân tộc của thành ngữ được biểu hiện ở chất liệu được
dùng làm biểu trưng, và phương thức biểu trưng ở từng thành ngữ cụ thể. Còn tính cụ
thể của thành ngữ thì nó được biểu hiện ở thái độ đánh giá của người nói đối với sự
vật, hiện tượng được nói đến và phạm vi sử dụng của từng thành ngữ.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu thì “Tính cụ thể ở đây thể hiện tính bị quy định về
phạm vi sử dụng” [2;72].
25
Ví dụ: “Chuột chạy cùng sào” đối tượng được đề cập không phải là sử dụng cho
riêng một cá nhân nào đó, mà nó chỉ dùng cho đối tượng bị coi thường, đồ rẻ mạt; với
hình ảnh con chuột là con vật bé nhỏ sống trong bóng tối, chui rút trong vực sâu ẩm
uớt, hôi thúi mà người đời luôn ghét bỏ. Vì nó chuyên đục khoét, gặm nhấm phá phách
cho nên con chuột được xem là con vật mang tính xấu xa, đáng ghét.
Nguyễn Thiện Giáp nói về tính cụ thể thì ông cho rằng: “Do có hình tượng nên
ý nghĩa của thành ngữ luôn có tính cụ thể” [3;183].
Ví dụ: thành ngữ “Chạy lông tóc gáy” thể hiện một thái độ trạng thái chạy bận
rộn, khẩn cấp khác với “Chạy như cờ lông công ”.
Qua các ý kiến phân tích về thành ngữ có tính dân tộc và tính cụ thể thì ta có
thể hình dung và dễ dàng tiếp cận đến thành ngữ. Thông thường khi quan sát người thợ
vụng may vội bị mất kim và người ham ăn vì nuốt vội mà phải chết vì nghẹn.
1.3.3. Tính biểu thái.
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã nói về tính biểu thái:“Kèm theo sắc thái, cảm xúc sự
đánh giá có thể nói lên hoặc lòng kính trọng hoặc sự ái ngại, hoặc sự xót thương, hoặc
sự không tán thành, lòng khinh bỉ, thái độ chê bai, sự phủ định,… của chúng ta đối với
người, vật hay việc được nói đó” [2;73].
Khi sử dụng thành ngữ thì tính biểu thái bộc lộ ở thái độ khen, chê, xót
thương… về người hay vật việc được nói đến. Vì thế khi sử dụng thành ngữ cần phải
có sự chọn lựa thành ngữ cho phù hợp với đối tượng để ý nghĩa biểu đạt của thành ngữ
có giá trị và thể hiện được ý định của người sử dụng. Ngược lại nếu ta không chú ý
đến sắc thái biểu cảm khác nhau của thành ngữ, thì khi sử dụng sẽ không phù hợp và
không diễn đạt được ý định của mình.
1.3.4. Tính hình tượng.
Tính hình tượng là kết quả tất yếu của tính biểu trưng. Do hình thức và nội
dung của thành ngữ được tạo thành từ lời ăn tiếng nói, qua những sinh hoạt hằng ngày
của nhân dân. Nghĩa là lấy những hình tượng vật thực, việc thực cảm nhận được quan
sát được. Vì vậy, điều trước tiên ta bắt gặp trong thành ngữ có sự tái hiện những hình
tượng vật thực việc thực. Nhờ có tính hình tượng nên thành ngữ có tính cụ thể. Do ý
nghĩa của thành ngữ thường vượt khỏi ý nghĩa trực tiếp của các sự vật hiện tượng.
Theo nhận định của Nguyễn Thiện Giáp thì tính hình tượng là: “Những hình
ảnh trong thành ngữ đều tồn tại độc lập, song song với ý nghĩa của thành ngữ. Vì thế
26
thành ngữ có giá trị gợi tả, giá trị gợi tả này được củng cố ở thành ngữ ngay cả khi
hình thái khác bên trong của thành ngữ bị lu mờ hoặc bị lãng quên” [3;183].
Ví dụ:Lang bạt kì hồ là con sói đạp cái bọc da ở trước cổ, lúng túng đi không được.
1.3.5. Tính điệp và đối.
Tính điệp và đối nó biểu hiện ở ngay mặt quan hệ ngữ âm và ý nghĩa giữa các
thành tố trong thành ngữ.
Ví dụ: “Ăn thưởng ăn phạt” thì thành tố “ăn” ở vế trước được lặp (điệp) lại ở
vế sau. Còn thành tố “thưởng” ở vế trước đối với thành tố “phạt” ở vế sau. Hay trong
thành ngữ “Long trời lỡ đất” thì thành tố “long” ở vế trước đối xứng với thành tố “lỡ”
ở phía sau. Thành tố “trời” ở vế trước đối xứng với thành tố “đất” ở vế sau. Vế trước
là “Long trời” đối xứng với vế sau là “lỡ đất”.Thành ngữ “Trên đe dưới búa” thì thành
tố “trên” ở vế trước đối xứng với thành tố “dưới” ở vế sau. Thành tố “đe” ở vế trước
đối xứng với thành tố “búa” ở vế sau.Ta thấy mặc dù có tính điệp và đối nhưng giữa
các yếu tố trong thành ngữ, vẫn đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ về mặt ngữ âm cũng
như về mặt ngữ nghĩa.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản và là những đặc điểm nổi bật nhất của thành
ngữ. Nhờ những đặc điểm này mà thành ngữ trở thành một trong những yếu tố rất
quan trọng trong lĩnh vực văn chương.
1.4. Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
1.4.1. Phân loại thành ngữ.
Thành ngữ có cấu tạo phức tạp và đa dạng, nên việc phân loại thành ngữ dựa
vào những tiêu chí sau:
1.4.1.1. Dựa vào cấu trúc của thành ngữ, ta có hai loại:
1.4.1.1.1. Thành ngữ có kết cấu là một cụm từ:
Ví dụ: Đầu voi đuôi chuột
Đầu trâu mặt ngựa
Vào luồn ra cúi
Gần đất xa trời…
1.4.1.1.2. Thành ngữ có kết cấu là một cụm chủ vị:
Ví dụ: Châu chấu đá xe
Gà trống nuôi con
Cá nằm trên thớt
27
Chó chê mèo lắm lông, …
1.4.1.2. Dựa vào nguồn gốc của thành ngữ, ta có hai loại:
1.4.1.2.1. Thành ngữ Thuần Việt.
Ví dụ: Nước đỗ lá môn
Đầu đường xó chợ
Nước đỗ đầu vịt
Miệng ăn núi lở…
1.4.1.2.2. Thành ngữ Hán Việt.
Ví dụ : Đồng cam cộng khổ
Chí công vô tư
Xuất đầu lộ diện
Giả nhân giả nghĩa…
1.4.1.3. Dựa và tính biểu trưng của thành ngữ, ta có hai loại:
1.4.1.3.1.Thành ngữ có tính biểu trưng thấp: là loại thành ngữ có cấu trúc là một
cấu trúc so sánh và ý nghĩa của nó được thực hiện ở cấu trúc bề mặt và thường chỉ có
một yếu tố mang tính biểu tượng mà thôi.
Ví dụ : Đẹp như tiên
Nhanh như điện…
1.4.1.3.2.Thành ngữ có tính biểu trưng cao: là loại thành ngữ có ý nghĩa ẩn dụ
sau về mặt cấu trúc đó là nghĩa bóng. Có hai hình thức để thể hiện nghĩa của thành ngữ
biểu trưng cao. Đó là ẩn dụ và hoán dụ:
a) Thành ngữ ẩn dụ: là thành ngữ lấy sự vật hiện tượng tính chất này để nêu
lên sự vật, hiện tượng khác dựa vào mối quan hệ giống nhau giữa các sự vật hiện
tượng.
Ví dụ: Thấy trăng quên đèn
Đứng núi này trông núi nọ
Há miệng mắc quai, …
b) Thành ngữ hoán dụ: cũng là hình thức chuyển nghĩa, nhưng thành ngữ
hoán dụ dựa trên mối quan hệ liên tục về sự gần nhau giữa hai đối tượng.
Ví dụ: Chân lấm tay bùn
Đầu tắt mặt tối
Chăn đơn gối chiếc…
28
1.4.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ.
Tuy nhiên thành ngữ và tục ngữ là hai phạm trù khác nhau mỗi loại có những
đặc tính riêng cần xác định rõ ràng.
Về kết cấu, tục ngữ là một kiểu thông báo ngắn gọn, nó là một câu hoàn chỉnh
diễn đạt một ý trọn vẹn, khác với thành ngữ có chức năng thông báo ấy. Thành ngữ chỉ
là tên gọi của sự vật, trạng thái hay hành động đúng hơn là tên gọi của những khái
niệm này, cho nên nội dung của thành ngữ phần lớn là cái hình chiếu của yếu tố tạo
thành. Nói khác đi là phải hiểu nó theo nghĩa bóng do mối tương quan hình ảnh của
những yếu tố tạo thành xác định.Ví dụ:
Thành ngữ: Nằm gai nếm mật
Tục ngữ: Ác giả ác báo
Phân biệt thành ngữ và tục ngữ là một vấn đề phức tạp và khó khăn. Bởi vì xưa
nay thành ngữ và tục ngữ là vấn đề cần nan giải và chưa được lý giải rõ ràng. Nhìn
chung thì sự phân biệt ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ dần dần được sáng tỏ và
ngày càng được khẳng định hơn. Tuy nhiên việc nhận diện và phân chia chúng không
dễ dàng chút nào. Chẳng hạn như :
Ví dụ: Tre già măng mọc
Sống lâu lên lão làng
Đục nước kéo cò
Lá lành đùm lá rách…
Có một số ý kiến cho rằng vấn đề vừa nêu trên là thành ngữ nhưng cũng có ý
kiến cho là tục ngữ. Cho nên việc xác định ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ là rất
cần thiết. Bởi vì thành ngữ và tục ngữ được hình thành và có sự đúc kết kinh nghiệm
sống thực tế, từ sự kết tinh trí tuệ, tinh thần của quần chúng nhân dân trong cuộc sống
hằng ngày. Vì thế thành ngữ là những đơn vị ngôn ngữ có sẵn, giàu hình ảnh, giàu sắc
thái biểu cảm, còn tục ngữ thì là một kết luận chính xác về kinh nghiệm sống, về quy
luật khách quan.
Theo quan niệm của Nguyễn Văn Mệnh “Trong tạp chí ngôn ngữ số 3/1972”
nhận định rằng: “Quả là thành ngữ và tục ngữ có một đường biên giới rõ ràng, nhưng
đó không phải là một bức thành ngăn tuyệt đối. Xen kẻ giữa những cột mốc biên giới,
ta vẫn thấy có những miền đất thâm canh, những lùm cây mà gốc ở phương Nam cành
lá xòe sang phương Bắc”[8;37].
29
1.4.2.1 Những nét giống nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ.
Nhìn chung ta thấy thành ngữ và tục ngữ có những nét giống nhau về cơ bản,
nhưng đồng thời ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ được phân định rõ ràng. Song
chúng đều là những từ ngữ được đúc kết từ thực tế cuộc sống, từ sự khái quát hóa hiện
thực để rút ra bản chất, quy luật mà có. Cho nên thành ngữ và tục ngữ được sử dụng
rộng rãi, tự nhiên và rất phổ biến trong xã hội.
Ví dụ: Thành ngữ: Gầy như que củi
Cơm hẩm cháo khê…
Tục ngữ: Được làm vua thua làm giặc
Hết nạc vạc đến xương…
Đó là những nét giống nhau giữa thành ngữ và tục ngữ. Tuy vậy, giữa thành
ngữ và tục ngữ còn có những đặc tính, đặc trưng riêng cần xác định rõ. Vì thế, việc
tiếp theo ta sẽ đi tìm hiểu những nét khác nhau giữa chúng như thế nào.
1.4.2.2.Những nét khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ.
Phân biệt ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ không phải là một đường biên
được kẻ thẳng băng, mức gạch hai phía hẳn hòi mà ở đây, đòi hỏi việc sử dụng và
phân biệt giữa chúng phải có sự khác nhau tránh nhầm lẫn cho người đang sử dụng có
thể tìm ra được nét khác biệt giữa chúng.
1.4.2.2.1. Về mặt ý nghĩa.
Thành ngữ miêu tả một hình ảnh, một hoạt động hay một trạng thái, tính chất,
một tính cách, một thái dộ nào đó mà nó phải mang tính chất trừu tượng.
Ví dụ: Mẹ tròn con vuông
Một nắng hai sương
Nói hưu nói vượn
Gắt như mắm tôm…
Tục ngữ thì đúc kết một kinh nghiệm, một chân lí của cuộc sống, một lời
khuyên răn, một bài học về tư tưởng về đạo đức ở đời nó phải mang tính chất quy luật.
Ví dụ: Ác giả ác báo
Ăn cây nào rào cây ấy
Gần mực thì đen gần đèn thì sáng
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây…
30
Ta cũng có thể so sánh thành ngữ “Chở củi về rừng” và tục ngữ “Kiến tha lâu
cũng đầy tổ”, chúng ta sẽ bắt gặp sự khác nhau giữa chúng. Thành ngữ “Chở củi về
rừng” về ý nghĩa của câu thành ngữ này muốn nói về một người nào đó làm việc thừa,
phí công vô ích, là việc đem một sản phẩm nào đó đến một nơi đã có rất nhiều sản
phẩm đó. Còn tục ngữ “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, ý nghĩa nói lên sức chịu đựng, bền
lòng kiên nhẫn, có ý chí quyết tâm, cho dù sức yếu đến đâu đi nữa, nhưng vẫn kiên trì
quyết chí thì nhất định sẽ đạt được kết quả cao. Rõ ràng câu tục ngữ này nêu lên một
kinh nghiệm cuộc sống đồng thời như một lời răn dạy, chúng ta có thể lấy đó mà làm
bài học để tích lũy vốn sống cho bản thân.
1.4.2.2.2. Về mặt ngữ pháp.
Thành ngữ thường chỉ là một cụm từ cố định (thường có cấu trúc của những
ngữ) có chức năng định danh dùng để gợi tên sự vật, tính chất nhưng phải là một câu
hoàn chỉnh.
Ví dụ: Đánh rắn giữa khúc (ngữ động từ)
Nước đổ đầu vịt (ngữ động từ)
Mèo mả gà đồng (ngữ danh)
Dốt đặc cán mai (ngữ tính từ)…
Chỉ trừ một số trường hợp thành ngữ có cấu trúc là một câu đơn. Chẳng hạn
Ếch ngồi đáy giếng
Chuột chạy cùng sào…
Trong khi đó tất cả tục ngữ đều có cấu trúc ngữ pháp của đơn vị câu (câu đầy
đủ hoặc câu rút gọn).
Ví dụ: Bụt không thèm ăn mày ma (câu đơn đầy đủ)
Căn nhà má vợ (câu phức rút gọn)…
Với đặc điểm ngữ pháp khác nhau như vậy, ta thấy thành ngữ và tục ngữ là hai
loại đơn vị thuộc hai cấp độ khác nhau. Thành ngữ thì nằm ở cấp độ cụm từ (cấp độ
dưới), tục ngữ nằm ở cấp độ câu (cấp độ trên).
Điều này đã giải thích tại sao trong thành phần cấu tạo của một số tục ngữ, có
sự hiện diện của thành ngữ với chức năng là một thành phần của câu, chẳng hạn là:
Ví dụ : Cơm hàng áo chợ, ai lỡ thì ăn
Chết sông chết suối không ai chết đuối đội đèn…
1.4.2.2.3. Về mặt chức năng.
31
Thành ngữ là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh cho các sự vật
hiện tượng, thực tế khách quan một cách hình ảnh.
Ví dụ: Dãi nắng dầm mưa
Nhà rách vách nát…
Thành ngữ làm nhiệm vụ định danh nhưng lại là đơn vị định danh bậc hai của
ngôn ngữ. Nghĩa là nội dung của thành ngữ không hướng lên, đều được nhắc đến trong
nghĩa đen của các từ ngữ tạo nên thành ngữ mà ngụ ý điều gì đó lại suy ra từ chúng,
cho nên nghĩa của nó có tính bóng bẩy hay còn gọi là nghĩa biểu trưng.
Thành ngữ “Nhà dột cột xiêu” nghĩa đen là “nhà cửa” đã hư hỏng không được
chăm nom sửa sang, còn nghĩa bóng là nói về cảnh sinh sống khó khăn, cực khổ túng
thiếu nghèo đói.
Trái với thành ngữ thì tục ngữ có chức năng thông báo.
Ví dụ: Gieo gió gặp bão
Bói ra ma quét nhà ra rác…
Cho dù một thành ngữ điều lớn đến đâu cũng không thể nêu lên được một thông
báo. Ngược lại, thì một tục ngữ dù ngắn gọn, nhỏ đến mấy cũng vẫn đảm bảo được
chức năng một cách hoàn hảo, vì thành ngữ không đảm nhận chức năng thông báo, nên
với bất kì thành ngữ nào người ta cũng đặt ra những câu hỏi. Chẳng hạn: “Chấp chới
như thầy bói cúng thánh”. Đối với tục ngữ thì lại khác nó mang một chức năng thông
báo trọn vẹn nêu lên một kinh nghiệm sống như một nhận định, một nhận xét và người
ta cũng không cần đặt ra những câu hỏi. Chẳng hạn như: “Ở hiền gặp lành” câu tục
ngữ đã nêu lên một quy luật có tính chất và chất lý, lẽ sống cho tất cả mọi người.
Để thông báo được ngắn gọn, nội dung phải cô đọng, súc tích, do đó ở tục ngữ
ta có thể xen thêm các yếu tố tỉnh lược để thấy rõ hơn mối quan hệ giữa các bộ phận
trong thông báo.
Ví dụ: Tốt gỗ (thì) hơn tốt nước sơn
Xấu đều (thì) hơn tốt lỏi…
Còn trong thành ngữ khi nói năng, người ta cũng có thể xen thêm các từ ngữ
“thì”, “mà”, “mà lại”,…
Ví dụ: Bụng (thì) đói cật (thì) ghét
Nhà (thì) rách vách (thì) nát
Chó (mà lại) chê mèo lắm lông…
32
Nhìn chung trên thực tế số lượng thành ngữ nhiều hơn hẳn số lượng tục ngữ (tỷ
lệ chiếm là 3/2). Nguyên nhân của sự chênh lệch này nằm trong sự khác biệt về nội
dung giữa hai loại.
Để nói về một hiện tượng chẳng hạn: về cảnh nghèo khổ thiếu thốn, khó khăn
trong cuộc sống, thì ta có thành ngữ nói lên điều này.
Ví dụ: Ăn đói mặt rách
Ăn bữa hôm lo bữa sau
Áo rách quần manh
Nghèo rớt mồng tơi
Cơm sung cháo giền…
Để nói về một quy luật. Chẳng hạn như: nói về một quy luật xã hội chất chứa
nhiều căm hờn người ta sẽ vùng lên đấu tranh, thì ta có câu tục ngữ “Tức nước vỡ bờ”
hay nói về một quy luật cuộc sống tốt đẹp không làm tổn hại đến ai, sống hiền hòa
chân thật thì cuối cùng ta sẽ nhận được một cuộc sống tốt đẹp “Ở hiền gặp lành” làm
ác gặp dữ, “Ác giả ác báo” đó là quy luật nhân quả nhằm cảnh tỉnh những con người
hôm nay.
Một thành ngữ không dùng độc lập tạo thành câu, còn tục ngữ thì trái lại được
dùng độc lập để tạo thành câu. Trong tác phẩm “Một chặng đường” nhà văn Nguyễn
Khải viết: “Được lòng vải mất lòng sư. Đeo cái thập gia vào cổ nay mai họ kéo về lại
khó nói” hay trong tiểu thuyết Sống nhờ Mạnh Phú Tư viết: “Bà chỉ khéo lo toan
không đâu. Rồi có được mãi mà lo liệu với không, trời sinh voi sinh cỏ”.
Từ những ví dụ trên ta thấy giữa thành ngữ và tục ngữ có sự khác nhau, có một
đường biên giới thật sự rõ ràng. Tuy nhiên đó không phải là sự ngăn cách tuyệt đối, mà
giữa chúng còn có những nét cơ bản giống nhau, để tạo điều kiện cho việc chuyển hóa
của một số tục ngữ sang thành ngữ và ngược lại.
1.5. Ý nghĩa của thành ngữ.
Cùng với những đặc điểm về hình thức và nội dung đã trình bày ở phần trên đã
giúp ta thấy được khả năng bao quát các sự vật, sự việc, hiện tượng của thành ngữ.
Bên cạnh đó, còn giúp cho người sử dụng thể hiện một cách chính xác rõ ràng ý định,
đồng thời còn bày tỏ được tình cảm của mình một cách tinh tế, cụ thể.
Cũng như trong giao tiếp hay trong sáng tác văn chương, thì thành ngữ đã trở
thành một công cụ đắc lực giúp cho người sử dụng thấy được ý nghĩa của nó. Để khi
33
sử dụng có thể rút ngắn được câu chữ và thời gian, tạo nên sự diễn đạt có tính hàm
xúc, giàu ý nghĩa thì trong lời nói lời văn sẽ giàu hình ảnh biểu cảm, nhịp điệu, hài hòa
dễ đi vào lòng người. Chẳng hạn như khi nói về sự may mắn của thành ngữ thì:
Ví dụ: Chết đuối vớ được cọc
Buồn ngủ gặp được manh chiếu
Chuột sa hủ nếp
Chó ngáp phải ruồi…
Song, cho dù người sử dụng thành ngữ một cách thành thạo đi chăng nữa thì
việc sử dụng thành ngữ phải lựa chọn cho phù hợp với ngữ cảnh và hoàn cảnh cụ thể,
nhưng đôi khi sử dụng quá nhiều vấn đề tương tự nhau thì cũng gặp không ít khó khăn
và trở nên lúng túng.
Ví dụ: Lúng túng như gà mắc tóc
Lúng túng như thợ vụng mất kim
Lúng túng như ếch vào rạp xiếc
Lúng túng như chó ăn vụng bột…
Có thể nói thành ngữ vốn là một ngôn ngữ vô cùng quý báu, nó đã góp phần
cho kho tàng văn học thêm phong phú, mà đặc biệt là trong lớp từ vựng tiếng Việt, cho
nên khi thành ngữ đã trở thành dụng cụ trong việc sáng tác văn chương của các nhà
văn nhà thơ. Thành ngữ không chỉ được dùng trong cách nói đơn thuần, mà còn nhằm
mục đích hoàn chỉnh tác phẩm làm cho nội dung miêu tả hình ảnh, cũng như trong
cách diễn đạt một hành động hay lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân được trọn
vẹn, đầy đủ ý, làm tăng thêm tính hấp dẫn và đậm đà bản sắc dân tộc.

34

PHẦN NỘI DUNG


35
CHƯƠNG 2: THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM HỒ BIỂU
CHÁNH
2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh.
Hồ Biểu Chánh là một tác gia văn học rất quen thuộc với giới văn chương
chúng ta. Quen thuộc bởi vì ông là một nhà văn lớn ở miền Nam, và là người tiên
phong đi đầu trong giai đoạn mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Với
cây bút sáng giá nhất ông đã đóng góp cho văn học nước nhà một dung lượng tác
phẩm không nhỏ, nối gót ông có sự xuất hiện của nhiều nhà văn trẻ trung, tài hoa
nhưng vai trò văn học của ông không bị lu mờ, những tác phẩm của ông vẫn còn được
nhiều độc giả ưa chuộng. Bởi niềm đam mê nghệ thuật đã đưa Hồ Biểu Chánh đến
làng văn học, ông đã không ngừng sáng tác và tiếp tục sáng tác cho đến cuối đời. Cho
đến ngày nay, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông có thể đứng vững vàng góp phần
phong phú và đa dạng cho giới nghệ thuật văn học.
2.1.1. Cuộc đời.
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, bút danh là Thứ Tiên, Biểu Chánh là
tự. Ông sinh ngày 1/10/1885 (năm Ất Dậu) tại làng Bình Thạnh tỉnh Gò Công (nay là
Tiền Giang).
Thân phụ là cụ Hồ Hữu Tạo làm Hương Chủ và Chánh Bái lại có công tranh
đấu với làng Bình Xuân, dành được hơn 600 mẫu ruộng làm công điền cho làng Bình
Thạnh.
Hồ Biểu Chánh là con thứ năm trong số mười hai anh chị em, thuở thiếu thời
sinh trưởng trong một gia đình nghèo phải chịu vất vả thiếu thốn. Năm lên chín tuổi
ông bắt đầu theo học chữ Nho tại trường làng, sau đó chuyển sang học chữ Quốc Ngữ,
chữ Pháp tại trường Vĩnh Lợi. Sau cha mẹ dời tới Giồng Ông Huê ông thi đỗ bằng
Thành Chung năm 1905.
Năm 1906 là năm ông được 21 tuổi, ông thi đậu Kí Lục Soái phủ Nam Kỳ và
ông được sơ bổ làm việc ở dinh Thượng Thơ ở Sài Gòn. Năm 1911 do bị nghi ngờ
thân thiện với nhóm Nghịch Pháp nên ông bị đổi đi Bạc Liêu, làm Ký Lục ở Bạc Liêu
rất dễ kiếm tiền nhưng ông giữ cho mình một đời thanh bạch.
Năm 1912 ông tình nguyện đi tùng sự ở Cà Mau, làm việc tại đây được tám
tháng sau đó đổi đi Long Xuyên.
36
Năm 1918 ông về làm việc tại Gia Định, 1920 tùng sự tại văn phòng thống đốc
Nam Kỳ. Năm 1921 ông thi đậu Tri Huyện và 1927 ông được thăng Tri Phủ nhận chức
ở quận Càng Long (Vĩnh Bình). Năm 1932 ông làm chủ quận Ô Môn (Cần Thơ).
1934 do bất đồng ý kiến với viên chủ tỉnh nên ông đổi đi quận Phụng Hiệp.
Năm 1935 ông đổi về Sài Gòn, 1936 ông được thăng Đốc Phủ Sứ và sau đó xin
về hưu trí năm 1937. Tuy nhiên chính phủ Pháp viện cớ không có người thay thế lưu
dụng ông cho đến cuối tháng 6/1941.
Tháng 8/1941 ông được cử làm Nghị Viên hội đồng Liên Bang Đông Dương,
sau đó ông lại được làm Nghị Viên hội đồng Thành Phố Sài Gòn kiêm chức Đốc Lý.
Năm 1942 - 1944 ông làm Nghị Viên Hội Đồng Quảng Trị Sài Gòn Chợ Lớn.
Năm 1946 bác sĩ Nguyễn Văn Thính mời ông lãnh Bộ Nội Vụ trong chính phủ
Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị, nhưng vì lớn tuổi lại bệnh ông chỉ nhận làm cố vấn và Đồn
Lý văn phòng.
Cuối 1946 vì chán ngán cuộc đời hoạn lộ ông giã từ chính trường, thật sự sống
cuộc đời hưu nhàn dành trọn những năm tháng còn lại để tịnh dưỡng tuổi già và tiếp
tục sự nghiệp văn chương.
Ông mất 4/11/1958 (ngày 23/9 năm Mậu Tuất) tại tư thất Phú Nhuận hưởng thọ
74 tuổi và được an táng ở xã Thông Tây Hội, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh.
Sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh trải qua nhiều chặng đường gắn với
nhiều biến cố của thời đại cũng như chính cuộc đời ông .
Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, thi ca, tuồng, cải lương,
truyện ngắn, hát bội, văn tế, dịch thuật,…nhưng thành công của ông vẫn là thể loại tiểu
thuyết.
Về sự nghiệp sáng tác đầu tiên Hồ Biểu Chánh viết văn và làm thơ hưởng ứng
phong trào Quốc gia phục hưng do một số nhà thơ ở Nam Kỳ đề xướng. Hồ Biểu
Chánh đã nhận ra được cần phải biết chữ Hán, bởi biết chữ Hán mới có đủ chữ mà
dùng cho công việc của mình. Ông đã dành thời gian gần 3 năm để đọc và học các
sách Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử. Kết quả công việc học chữ Hán và tập
dịch chữ Hán ông đã soạn được cuốn Tân soạn cổ tích năm 1909.
Năm 1970 đến 1917 Hồ Biểu Chánh rất say mê văn chương ông bắt đầu tập làm
thơ bằng chữ Quốc Ngữ và viết văn. Ngoài ra Hồ Biểu Chánh còn viết Trung thu
37
thưởng nguyệt in trong Biểu Chánh thi văn (1909) và viết tiểu thuyết theo lối thơ lục
bát với quyển U tình dục (1909).
Năm 1912 do gặp những con người chân thật sống ở vùng quê nước thì mặn
chát, muỗi thì ồ ào ở mảnh đất Cà Mau đã tạo cho Hồ Biểu Chánh một cảm hứng thi vị
với một tâm hồn văn sĩ đã hun đúc ông viết tiểu thuyết bằng văn xuôi đầu tiên là Ai
làm được.
Năm 1916 đến 1917 ông không viết tiểu thuyết nữa mà chuyển sang viết kịch
với vở như Vì nghĩa quên nhà.
Năm 1918 ông hợp tác viết báo với ông: Lê Quang Liêm, Lê Quang Nhơn,
Đặng Phúc Liêng, Nguyễn Văn Cư,…xuất bản tờ Đại Việt tạp chí ở Long Xuyên.
Năm 1919 ông bị đổi về Gia Định, ở đây ông giúp quốc dân diễn đàn, công luận
báo, Đồng Tháp thời báo,…
Năm 1922 Hồ Biểu Chánh trở lại sáng tác tiểu thuyết, khỏang thời gian này ông
cho ra đời những tác phẩm như: Chúa Tàu Kim Quy (1912), Cay đắng mùi đời (1923),
Tỉnh mộng (1923), Một chữ tình (1923), Nhơn tình ấm lạnh (1925), Tiền Bạc bạc tiền
(1925), Thầy thông ngôn (1926), Ngọn cỏ gió đùa (1926), Chút phận linh đinh (1928),
Kẻ làm người chịu (1928), Vì nghĩa vì tình (1929), Cha con nghĩa nặng (1929), Khóc
thầm (1929), Nặng gánh cang thường (1930), Con nhà nghèo (1930), Con nhà giàu
(1931), Cười gượng (1935), Thiệt giả giả thiệt (1935), Nợ đời (1936), Đóa hoa tàn
(1936),…
Trong khoảng 16 năm (1925 – 1941) do ông nhận thấy thực dân Pháp ra sức ức
hiếp nông dân nên ông đã chuyển về viết tiểu thuyết, để bày tỏ nỗi lòng căm phẫn đối
với bọn thực dân đứng ra bênh vực nông dân nghèo. Ông đã viết với một số lượng tác
phẩm đồ sộ gồm 40 quyển, cùng năm 1941 ông xin nghĩ hưu vì chán ngán con đường
họan lộ.
Năm 1942 đến 1952 ông trở lại làm báo và biên khảo thì ông đã xuất khẩu hai
tờ Nam kì tuần báo và Đại Việt tạp chí.
Năm 1953 đến 1958 Hồ Biểu Chánh đã viết được 24 cuốn tiểu thuyết , do tuổi
cao sức yếu lại có bệnh tim đau nặng, nên ông đã qua đời khi quyển tiểu thuyết cuối
cùng còn dang dở. Khi ông mất tài năng vẫn còn được lưu truyền, bởi thành công của
ông là ở tiểu thuyết nên ông được nỗi tiếng cũng nhờ vào tiểu thuyết. Vì thế, địa vị của
38
ông trên văn đàn văn học được khẳng định trước sau vẫn là địa vị của một nhà tiểu
thuyết tài ba.
2.2. Phân loại thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh.
Qua thống kê số lượng thành ngữ của Hồ Biểu Chánh sử dụng trong tác phẩm
có hơn 189 thành ngữ. Trong đó có một thành ngữ mà Hồ Biểu Chánh dùng rất nhiều
trong các tác phẩm, và dùng vào nhiều trường hợp khác nhau. Chẳng hạn các thành
ngữ như: da trắng môi son; má phấn môi son; dầm mưa dãi nắng; môn đăng hộ đối;
Ông Tơ Bà Nguyệt; mặt ủ mày chau; đứt ruột đứt gan; kết tóc xe tơ;… do hạn chế về
thời gian nên người nghiên cứu không có điều kiện tìm hiểu hết tất cả các thành ngữ
trong các tác phẩm của ông. Cho nên người viết chỉ khảo sát ở một số thành ngữ có giá
trị biểu đạt cao trong một số tác phẩm tiêu biểu.
Nhìn chung trong tổng số các thành ngữ thì số lượng dùng ở dạng nguyên mẫu
có 72 thành ngữ chiếm tỷ lệ 38.09 % cao hơn các dạng thành ngữ khác trong tác phẩm.
Tuy nhiên về mặt hạn chế thì thành ngữ của Hồ Biểu Chánh không thể so sánh với các
nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Quang Sáng, ... Về mặt
đóng góp thì thành ngữ nhân dân được ông dùng trong tác phẩm chiếm rất nhiều, và có
tỷ lệ vượt trội rất cao, chính vì ông có biệt tài rất phong phú trong cách sáng tạo. Bởi
vì ông dùng một thành ngữ để miêu tả tâm lí, tính cách và hành động của các nhân vật
xuất hiện trong các tác phẩm. Hơn thế nữa ông còn dùng một thành ngữ đưa vào rất
nhiều tình huống trong văn cảnh. Tiêu biểu là sự so sánh giữa Hồ Biểu Chánh với nhà
văn Nguyễn Công Hoan.
Qua tìm hiểu cách sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Công
Hoan luận văn tốt nghiệp 2004 của Trần Thị Kim Giao thì có 392 thành ngữ được sử
dụng trong đó có 279 thành ngữ nguyên mẫu chiếm tỷ lệ 71.2%. Đây được xem là một
tỷ lệ khá cao, nhưng về mặt sáng tạo độc đáo của nhà văn thì ít dùng một thành ngữ
vào nhiều tác phẩm và nhiều tình huống. Cho thấy giữa hai nhà văn Hồ Biểu Chánh và
Nguyễn Công Hoan có sự chênh lệnh về số lượng thành ngữ, nhưng về mặt sáng tạo
thì Hồ Biểu Chánh chiếm phần hơn. Hầu như tác phẩm nào cũng đều sử dụng thành
ngữ tùy theo số lượng nhiều hay ít. Tuy nhiên số lượng nhiều hay ít không thể nói lên
tất cả, không thể khẳng định một cách chắc chắn là nhà văn nào hay hơn nhà văn nào.
Mà điều quan trọng là những thành ngữ đó có được sử dụng phù hợp với mục đích và
văn cảnh hay không? Có mang lại hiệu quả biểu đạt hay không? Tuy nhiên cả hai nhà
39
văn đều có tài sáng tác riêng, phong cách độc đáo riêng và có công đóng góp rất lớn
cho nền văn học nước nhà. Kết quả thống kê thành ngữ cho thấy:
STT Phân loại thành ngữ Tổng số 189
1. Thiên nhiên (14) 7.40%
2. Ngoại hình (22) 11.64%
3. Tâm lí, tính cách (25) 13.22%
4. Hành động, hoạt động (37) 19.5%
5. Nguyên mẫu (72) 38.09%
6. Mượn ý cải biên (68) 35.97%
7. Tách đôi (17) 8.99%
8. Cụm từ (30) 15.87%
9. Chủ vị (20) 10.5%
10. Thuần Việt (12) 6.34%
11. Hán Việt (41) 21.6%
12. Tính biểu trưng (21) 11.1%
13. Tính dân tộc và tính cụ thể (9) 4.54%
14. Tính biểu thái (10) 5.29%
15. Tính hình tượng (11) 5.82%
16. Tính điệp và đối (18) 9.52
Để chứng minh được sự thành công trong phong cách sáng tạo ở Hồ Biểu
Chánh chúng ta đi vào khảo sát các lớp thành sau đây:
2.2.1. Thành ngữ có kết cấu là một cụm từ.
Thành ngữ là một cấu trúc cố định có trong tiếng nói và biểu đạt một khái niệm
hoàn chỉnh như: một từ là một hình thức diễn đạt súc tích giàu hình ảnh, nên nó được
sử dụng rộng rãi trong nhân dân. Về mặt ngữ pháp, thành ngữ có thể làm thành phần
của câu giữ một chức năng nào đó trong câu một từ.
Theo kết quả thống kê thì thành ngữ có kết cấu một cụm từ trong tác phẩm Hồ
Biểu Chánh chiếm số lượng đáng kể 15.87 % trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt như:
Mưa thuận gió hòa; Dầm mưa dang nắng; Chướng tai gai mắt; Mua gánh bán bưng;
Thầm yêu trộm nhớ; Tài cao đức trọng; Ngày qua tháng lại; Nằm gai nếm mật; Vong
ân bội nghĩa; Lên xe xuống ngựa; Ăn đói mặc rách; Sa chân lỡ bước; Một câu nhịn
40
chín câu lành; Ô danh bại giá; Táng gia bại sản; Khua môi múa mép; Đền ơn trả
nghĩa; Tranh danh đoạt lợi; …
Khi miêu tả hình ảnh con người với phẩm chất cao đẹp thì thành ngữ “Ô danh
bại giá” là nói về tính cách hư hỏng của người phụ nữ, làm mất danh tiếng nhân cách,
làm nhục tổ tông, nhà mà có một đứa con gái hư thì nó sẽ làm “Ô danh bại giá” cho
dòng họ. Lựu trong tác phẩm Con nhà nghèo một cô gái hiền lành bị Cậu Hai Nghĩa
dùng quyền cưỡng đoạt tiết trinh và bị bỏ rơi. Vì xấu hổ Lựu rơi vào vực thẩm tối tâm
của cuộc đời, may nhờ anh Cu đứng ra bảo lãnh cưu mang cứu danh cho Lựu. và họ
trở thành đôi vợ chồng nghèo hạnh phúc về sau được tận hưởng cảnh giàu sang, Cu
hạnh phúc bên vợ hiền con thảo. Đó là sự ban ơn của tạo hóa cho những người làm
việc nghĩa. Thị Xuân em Thủ Nghĩa trong Chúa tàu Kim Qui bị Trần Tấn Thân chận
đường bắt cóc cưỡng hiếp đến mang thai, làm hư danh tiết khi cô sắp chuẩn bị về nhà
chồng, nhưng trong cái rủi còn có cái may cô gặp được người biết lễ nghĩa như Phạm
Kỉnh Chi không xem trọng danh tiết, đứng ra chịu cưới cô làm vợ. Cho thấy tác giả đã
thành công trong việc miêu tả hành động kém đạo đức của Cậu Hai Nghĩa và Trần Tấn
Thân, nhưng bên cạnh đó lại xuất hiện Kỉnh Chi và Anh Cu là hai loại người đáng
kính phục, đáng mặt là người quân tử.
Thành ngữ “Đền ơn trả nghĩa” có đoạn “… Kỉnh Chi vì tiếng hứa hẹn vì lòng
tri kỷ với mình mà phải táng gia bại sản ơn ấy rất nặng nề…” [25;60], hành động của
Thủ Nghĩa khi vượt ngục trở về có được kho báu trong tay, việc đầu tiên anh làm là
đền đáp ơn nghĩa cho Kỉnh Chi, trả thù kẻ đã hãm hại anh phải chịu oan trong tù mười
một năm, lo việc gia đình xây dựng mồ mả tả hiếu song thân, tìm người yêu phối hiệp
lời hẹn ước ngày cũ. Từ hành động của Thủ Nghĩa ta mới có cụm từ thành ngữ “Đền
ơn trả nghĩa” ý nói lòng biết ơn nay có dịp trả ơn, đền đáp người đã giúp đỡ, làm ơn
cho mình. Được tác giả dùng ngay ở tiêu đề là cố ý nhấn mạnh việc làm của Thủ
Nghĩa thêm rõ nét.
Cụm từ “Kết tóc xe tơ” là thành ngữ được dùng rất nhiều trong các tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh, sẽ có sự trùng lặp nên người viết chỉ phân tích ở dạng khảo sát
một số tác phẩm tiêu biểu như: Nợ tình thì “…Vì ông thờ chủ nghĩa …cố gắng kết tóc
xe tơ…”[35;13]. Chúa tàu Kim Qui có nói “… Thiệt là người đáng cho em kính trọng
lắm, bởi vậy cho nên em mới quyết kết tóc trăm năm với anh…”[25;181], “ … Chúa
tàu …mà xin kết tóc trăm năm…”[25;158], nội dung miêu tả cuộc hôn nhân của đôi
41
nam nữ, sống là phải kết hôn, xây dựng gia đình. Thành ngữ trên nói lên lòng tự
nguyện thủy chung của Thu Thủy muốn làm vợ Kỉnh Chi, ban đau cô vì muốn trả ơn
cứu mạng cho Chúa tàu, nên cô tự nguyện làm vợ mà thôi, nhưng qua khoảng thời
gian sống chung và tìm hiểu, thì cô biết Kỉnh Chi là người trọng đạo nghĩa, cô đem
lòng yêu thương, ước nguyện duy nhất của cô trước là đền ơn cứu tử cho Chúa tàu, sau
là có được người chồng biết trọng nhân nghĩa để cô có nơi nương tựa.
Qua việc tìm hiểu những thành ngữ được miêu tả trên, ta thấy Hồ Biểu Chánh
đã phát huy cao độ việc vận dụng thành ngữ vào trong từng hoàn cảnh, từng tình
huống cụ thể, nhằm làm tăng thêm tính biểu cảm của tác phẩm, qua đó làm nâng cao
tư tưởng đạo đức tình cảm đối với người tiếp nhận.
2.2.2. Thành ngữ có kết cấu là một cụm chủ vị.
Thành ngữ có kết cấu là một cụm chủ vị (không có chức năng thông báo),
chúng đều là những đơn vị có sẵn trong tiếng nói được sáng tạo ra trong sinh hoạt. Và
được truyền lại về sau, bởi chúng đúc kết được kinh nghiệm, kết tinh trí tuệ của quần
chúng trong khái quát hóa hiện thực để rút ra một kết luận, một nhận định về sự vật
khách quan.
Trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh thành ngữ được miêu tả có kết cấu là một cụm
chủ vị như: Mặt như trăng rằm; Miệng như hoa nở; Nam thanh nữ tú; Má phấn môi
son; Mặt dạn mày dày; Mặt ủ mày chau; Chức Nữ Ngưu Lang; ngựa quen đường cũ;
loan phượng hòa minh; nước đỗ lá môn; chim lồng cá chậu; tím ruột bần gan; xanh
như tàu lá; tươi như hoa; …
Chỉ cần một câu thành ngữ cũng đủ nói lên vẻ đẹp của các cô gái thật là duyên
dáng và đáng mến như: “Mặt như trăng rằm”, “Miệng như hoa nở”, “Má phấn môi
son”,… Cô Đào trong tác phẩm Lề thề trước miễu được miêu tả là người có khuôn mặt
đẹp: “Mặt như trăng rằm”, ý nói ánh trăng vào ngày rằm thì mặt trăng tròn vành vạch
và sáng tỏa nhất, người ta thường nói những người có khuôn mặt đẹp như trăng rằm
hay sáng như trăng rằm là vậy, hiện thân của sự vô lo sung sướng, lại thêm miệng cười
hữu duyên thật đáng mến, được nhà văn miêu tả “… Vì từ lúc ngây thơ … ít nói ít
cười, mà hễ có dịp vui làm cho cô phải cười, thì mặt như trăng rằm, miệng như hoa
nở…” [32;39].Còn thành ngữ “Má phấn môi son” trong tác phẩm Chúa tàu Kim Qui
miêu tả vẻ đẹp của Thu Thủy “…Có một cô gái má phấn môi son, choàng một cái yếm
vải đen ngang qua ngực chớ áo không có, còn quần tỉ tả tơi rách nát…” [25;100].
42
Thành ngữ miêu tả đàn bà con gái cần phải trang điểm để dung nhan của mình được
diễm lệ. “Môi đỏ má hồng” sẽ làm cho khuôn mặt tươi tắn chẳng khác gì đóa hoa mới
nở. Người mà “Môi đỏ má hồng” một cách tự nhiên là người vô cùng khỏe mạnh. Thu
Thủy trong tác phẩm là người có vẻ đẹp diễm lệ, tuy cô xuất hiện với thân hình xơ xác,
áo quần tả tơi vì đói lạnh, nhưng cô có một vẻ đẹp tự nhiên làm say đắm lòng người.
Thành ngữ “Mặt dạn mày dày”, “Mặt ủ mày chau” miêu tả tâm lí tính cách
nhân vật xuất hiện trong Chúa tàu Kim Qui khi Thu Thủy ngỏ lời muốn làm vợ Kỉnh
Chi, khi thấy thái độ của Kỉnh Chi còn e ngại chưa dám quyết định. Thành ngữ “mặt
dạn mày dày” vận dụng vào “… Tuy là muốn đền ơn cho Chúa tàu, nên phải làm mặt
dạn mày dày song tưởng mình như vầy…” [25;183], ý nói là người trơ trẽn, không biết
mắc cỡ, không biết xấu hổ. Nội dung cho thấy Thu Thủy không phải là người không
biết xấu hổ nhưng vì muốn đền ơn cứu tử, nên cô kiên quyết tự hạ thấp mình. Cho nên
hành động của Thu Thủy không hoàn toàn là sai với đạo lý, mà hành động của cô là vì
đại nghĩa. Chứng tỏ thành công của nhà văn là chỉ dùng một câu thành ngữ cũng rõ
nghĩa lại phù hợp với hoàn cảnh.
Cụm từ chỉ trạng thái của chính tố “Mặt ủ mày chau” góp mặt rất nhiều trong
tác phẩm đầu tiên là bộc lộ tâm lí của Cai Tuần Bưởi, Vĩnh Xuân, Hải Đường, Thu Hà,
Túy Nga, Thủ Nghĩa, Trọng Quí, …nội dung của thành ngữ miêu tả vẻ mặt buồn rầu,
đau khổ của Cai Tuần Bưởi khi bị Bà Cai đuổi đi, em gái bị cưỡng hiếp đến mang thai.
Thủ Nghĩa thì đau buồn vì mất người thân em bị làm nhục, Hải Đường thất tình vì
nghèo, Vĩnh Xuân vì nghèo nên người yêu phải chết, Thu Hà đau khổ vì phải chung
sống với người chồng tàn ác, …còn rất nhiều những nhân vật cũng đau buồn, nếu
không gặp hoàn cảnh này thì cũng phải gặp hoàn cảnh khác. Tất cả các nhân vật của
ông xuất hiện ở nhiều cấp độ và hoàn cảnh khác nhau, mỗi nhân vật đều mang một vai
tuồng khác nhau, cho nên số phận của nhân vật đều được nhà văn định sẵn, không thể
đổi thay. Chính vì thế mà Hồ Biểu Chánh luôn khuyên con người phải sống sao cho
xứng đáng, cho phải đạo, ông kịch liệt phê phán thói chạy theo Tiền bạc bạc tiền của
con người thời đó.
Dù diễn đạt hành động, trạng thái hay một hình thức để giải thích thêm nội
dung mà thành tố biểu thị. Thì thành ngữ “Ông Tơ Bà Nguyệt”, “Chức Nữ Ngưu
Lang” , “Trai tài gái sắc”, “Trăng thanh gió mát” được Hồ Biểu Chánh đưa vào tác
phẩm Tơ hồng vương vấn, Nợ tình, Con nhà nghèo là thành ngữ có kết cấu cụm chủ
43
vị. Còn thành ngữ có kết cấu cụm vị ngữ, không có chức năng thông báo như: “Xanh
như tàu lá”, được dùng trong tác phẩm Sống thác với tình, Con nhà nghèo,“tươi như
hoa” trong Tân phong nữ sĩ.
Còn một thành ngữ cần chú ý nữa là thành ngữ thuộc loại song song có hai vế
gồm hai kiểu chính phụ có quan hệ song song như: “Cá chậu chim lồng”, “Ngậm
đắng nuốt cay” trong Nặng gánh cang thường.
Cho nên việc nghiên cứu và sử dụng thành ngữ là một biện pháp trau dồi và
phát huy vốn quý của ngôn ngữ dân tộc để nâng cao hiệu lực thông báo của nó.
2.2.3. Thành ngữ Thuần Việt.
Bên cạnh loại thành ngữ nguyên mẫu, ta thấy những thành ngữ Thuần Việt
nguyên mẫu được ông sử dụng rất nhiều chiếm tỷ lệ 6.34% trong tổng số thành ngữ
nguyên mẫu đã khảo sát. Chẳng hạn như các thành ngữ sau đây: Đầu dây mối nhợ;
than thân trách phận; ơn sâu nghĩa nặng; gió dập sóng dồi; chịu đấm ăn xôi; no cơm
ấm áo; ăn no ngủ kỹ; thân phận bọt bèo; Trôi sông lạc chợ; Ông Tơ Bà nguyệt; Chức
Nữ Ngưu Lang;…
Khi nói về số phận bất hạnh của con người trong xã hội cũ, thì ta nhớ ngay đến
anh nông dân Cai Tuần Bưởi, Lê Văn Đó, Lê Thủ Nghĩa, … họ là những người có sức
chịu đựng phi thường, mà còn phải chịu sự áp bức bóc lột bất công của bọn tham ô
quan lại, địa chủ, … Hồ Biểu Chánh đã phơi bày thực trạng cùng khổ tuyệt vọng
không lối thoát của người dân lao động. Bằng thành ngữ “than thân trách phận” được
nhà văn khắc họa đậm nét.
Dù đó chỉ là lời than trách của một con người, nhưng đã phản ánh được thực
trạng của xã hội thời đó. Một xã hội còn đầy dẫy những áp bức bóc lột bất công và
người nông dân vẫn luẩn quẩn trong vòng nô lệ, những con người thấp cổ bé họng
sống dưới đáy xã hội. Họ không biết than với ai, trách cùng ai. Để thấy được nỗi lầm
than ấy, thì Hồ Biểu Chánh sẽ cùng chúng ta trò chuyện tâm tình cùng anh nông dân
Lê Văn Đó trong Ngọn cỏ gió đùa cũng rơi vào hoàn cảnh thảm thương khi gia đình
tan nát và anh phải dấn thân vào chốn lao tù trót hai mươi năm, một thời gian dài đằng
đẳng vô cùng khổ nhọc: “…Từ ngày anh ta nhờ tên Thiệt nhắc lại chuyện cũ cho anh
ta nhớ …anh ta mới biết than thân trách phận, anh ta mới biết oán hận kẻ giàu sang
…” [34;34]. Cũng bởi nhà văn là người Nam Bộ nên ông am tường về cuộc sống cùng
khổ của xã hội đương thời, với lý tưởng đạo đức, ông luôn thể hiện qua những trang
44
viết thấm đượm tinh thần nhân đạo, ông luôn lên án phê phán cái xấu cái ác, phê phán
những điều luật khắc khe làm bó hẹp tư tưởng con người. Chính những tên quan lại
tham ô lại thi hành những điều luật đó.
Lê Văn Đó là một người cố nông nghèo khổ, vì quá đói muốn cứu sống cả gia
đình nên anh đã trộm trã cháo heo của tên Bá Hộ Cao về nuôi mẹ và đám cháu nhỏ.
Chính vì việc làm đó anh phải nhận hình phạt hai mươi năm tù, và nhớ thương mẹ già
chết vì đói bệnh và các cháu, anh phạm vào tội nhiều lần vượt ngục nên án chồng lên
án. Anh không biết làm gì để minh oan cho mình, đơn giản chỉ vì anh ta không biết
đấu tranh cho quyền sống, không ý thức được trách nhiệm mà chỉ buông xuôi theo số
phận. Và nhờ trải qua bao nỗi khổ nhọc chịu đựng cảnh bị ứ hiếp, may nhờ người bạn
tên Thiệt cùng với các hồn ma đã chỉ bảo và vạch ra nguyên nhân tù tội, trí nhớ anh
bắt đầu bừng sáng, thì anh chỉ biết tự oán trách, than thở cho số phận không may của
mình. Nếu chúng ta nhìn khách quan vấn đề thì có thể cảm thông cho thân phận của Lê
Văn Đó và những người cùng khổ này, bởi điều luật rất tàn nhẫn thì người nông dân
làm sao đủ sức để đương đầu. Chính định kiến xã hội quá khắc khe, tàn nhẫn đã đè đầu
cưỡi cổ những người thấp cổ bé họng.
Cuộc sống của người nông dân Nam Bộ vào lúc đó là cuộc sống nhiều gian nan
lận đận, vất vả khổ nhục. Hồ Biểu Chánh khái quát lên nỗi thống khổ ấy bằng thành
ngữ “Gió dập sóng dồi” dùng trong tác phẩm Chúa tàu Kim Qui. Với cách dùng thành
ngữ đặt tên cho đoạn mở đầu của tác phẩm, nhà văn muốn giúp độc giả có một cái
nhìn tổng thể về sự việc diễn biến bên trong tác phẩm. Tác giả đã khái quát cuộc sống
bấp bênh của gia đình Thủ Nghĩa. Cha thì già yếu, mẹ thì bệnh nặng không ngừng
thang thuốc, em gái bị Trần Tấn Thân làm nhục, vì tức giận việc em bị cưỡng hiếp nên
Thủ Nghĩa đã đập gãy chân Trần Tấn Thân, hậu quả nhận lấy mười một năm tù gian
khổ. Trong ngục tù Thủ Nghĩa kết thân với Mạc Tiển là người Quảng Đông cũng bị tù
oan, cả hai cùng chia sẻ nỗi vất vả. Trước lúc chết Mạc Tiển đã chỉ chỗ giấu kho báu
và tặng luôn cho Thủ Nghĩa tại đảo Kim Qui, nhân lúc nhà tù phát hỏa hoạn Thủ
Nghĩa thừa dịp trốn thoát. Về đến nhà thì cha mẹ, em gái đều chết, em rể đã lưu lạc nơi
xứ người, Thủ Nghĩa rơi vào bi kịch của cuộc đời, cuộc đời của Thủ Nghĩa hết nỗi đau
này đến nỗi đau khác như hết sóng dồi rồi đến gió dập. Chỉ một câu thành ngữ ở đoạn
mở đầu đã khái quát lên toàn bộ cuộc đời của Thủ Nghĩa như bị sóng gió xô đẩy, dồn
dập, và trải qua những thay đổi va chạm khắc nghiệt của cuộc đời. Cho thấy Hồ Biểu
45
Chánh có tầm khái quát khá cao trong cách dùng thành ngữ để miêu tả nỗi thống khổ
về cuộc đời của người nông dân Nam Bộ.
Khi nói về chuyện tình duyên, chuyện dựng vợ gả chồng cho đôi lứa, nhà văn
đã sử dụng thành ngữ điển tích “Ông Tơ Bà Nguyệt” để se duyên cho nhân vật Cu và
Tư Lựu trong tác phẩm Con nhà nghèo, “…Còn chú Cu tuy chú nghèo nàn song đối
với em qua.... qua coi chú hơn người giàu sang xa lắm. Thôi để qua đứng làm Ông Tơ
Bà Nguyệt cho đôi bên…”[23;133]. Mặc dầu đây là một thành ngữ điển tích nhưng nó
không xa lạ với độc giả thời đó, trái lại nó rất bình dị và quen thuộc, nó là lời nói xuất
phát từ cửa miệng của những người làm việc mai mối trong việc cưới xinh. Thành ngữ
trang trọng “Ông Tơ Bà Nguyệt” được Ba Rạng dùng làm mai mối để se duyên cho Cu
và Lựu. Sau khi trải qua bao phen sống gió của cuộc đời, cuối cùng họ được hạnh phúc
bên nhau, việc dùng thành ngữ này rất được sự đồng tình ủng hộ của độc giả, cũng
giống như nhà văn cùng họ xây dựng lý tưởng cao đẹp của gia đình hạnh phúc.
Trong cuộc sống bất kể việc gì đều phải có trước có sau, có ơn có nghĩa đó là
sự vay trả dần lân, tư tưởng đó được nhà văn lồng vào trong sáng tác. Trong Ngọn cỏ
gió đùa Lê Văn Đó thật lòng biết ơn sâu nặng sự cưu mang của Thể Phụng là người đã
hết lòng ra tay nghĩa hiệp nên ông nói: “… Cậu đã cưu mang ông cháu tôi khỏi chết,
bây giờ cậu còn lo bảo bọc nữa, dường ấy là ơn sâu nghĩa nặng chớ còn đợi sao
nữa…” [34;764]. Hồ Biểu Chánh luôn cho rằng đạo đức là gốc, là nền tảng trong cuộc
sống, nếu con người sống vô ơn bạc nghĩa thì có tồn tại lâu dài trong xã hội được
không? Đó là điều trăn trở cho những ai nhận sự mang ơn, cưu mang, đùm bọc giúp
đỡ của người khác. Lê Văn Đó và Thu Vân gặp nguy hiểm khó giữ được tính mạng,
giữa cái sống và cái chết thì Thể Phụng ra tay nghĩa hiệp “Tả đột hữu xung” một mình
đương đầu đánh đuổi kẻ gian cứu nguy cho hai ông cháu Lê Văn Đó. Không những
vậy mà Thể Phụng còn chăm nom, thương mến bảo bọc. Với tài và đức độ của Thể
Phụng đã làm cho hai ông cháu vô cùng cảm phục, quyết “Ghi lòng tạc dạ” ơn sâu, bởi
cảm mến người anh hùng đã ra tay nghĩa hiệp nên Thu Vân đem lòng yêu thương Thể
Phụng. Và không phụ lòng của những người yêu nhau, Lê Văn Đó hay đúng hơn là Hồ
Biểu Chánh đã tác hợp cuộc hôn nhân cho Thể Phụng và Thu Vân được sống bên
nhau, hưởng trọn hạnh phúc. Từ thành ngữ trên Hồ Biểu Chánh đã diễn tả được tâm tư
tình cảm của người chịu ơn, tâm trạng người mang ơn, cho thấy tác giả đã thể hiện
46
thành công mạch đạo đức nhân nghĩa của truyền thống dân tộc Việt Nam, đáp ứng
được sở nguyện của độc giả.
Thành ngữ “No cơm ấm áo” là chỉ cuộc sống đầy đủ về vật chất khỏi phải lo
toan chật vật về miếng ăn ta bắt gặp trong tác phẩm Khóc thầm có đoạn viết “…Thuở
nay tôi nhờ thầy Hội mà no cơm ấm áo, có lẽ nào tôi dám như vậy…”[31;87], ý nói
lên lòng biết ơn sâu nặng của Phó Lý Thâu đối với Thầy Hội Đồng đã tận tình giúp đỡ
gia đình ông được “no cơm ấm áo”, nên ông không hề có ý định giựt lúa của chủ mình.
Riêng Vĩnh Thái không nghĩ tình xót thương tá điền nghèo khổ, nhẫn tâm áp bức tá
điền tá thổ bất kể lời vang xin của họ, họ là những con người nghèo khổ thật thà chất
phác, luôn bị bóc lột chịu đựng đói khát.
Còn thành ngữ “Nước đổ lá môn” là thành ngữ Thuần Việt nói lên tính cứng đầu
khó khuyên bảo, vô ích không kết quả nằm trong tác phẩm Sống thác với tình được thể
hiện “..Người vương bệnh tình chỉ có người tình mới trị hết được, chớ người khác
khuyên giải cũng như nước đổ lá môn có thấm tháp gì đâu...”[37;166]. Và trong tác
phẩm Cười gượng cũng có nói “…Ôi trai gái thề thốt với nhau như nước đổ lá môn ăn
chịu vào đâu mà tin…”[24;22]. Miêu tả tâm lí tính cách ngang bướng khó khuyên bảo
của Thu Thủy, khi vướng phải bệnh tình ngày đêm cứ mơ tưởng thương nhớ Xuân
Sơn, mặt tình cho hai mẹ khuyên giải thế nào nàng cũng cứ trơ trơ như khúc gỗ, không
hiểu lời lẽ thiệt hơn gì hết. Còn thành ngữ ở tác phẩm Cười gượng thì khác tác giả chỉ
trích phê phán kẻ thay lòng đổi dạ của Tô Hồng Xương, xem nhẹ lời thề hẹn cùng cô
Hảo như là một lời nói suông không có giá trị. Gì muốn thỏa mãn được những ham
muốn, Hồng Xương dùng lời ngon tiếng ngọt dụ dỗ và thề thốt đến khi đạt được thì lời
nói cũng như “nước đổ lá môn”, lời thề hẹn cũng bay theo mây gió. Từ thành ngữ đủ
cho ta thấy được dụng ý của tác giả muốn nhấn mạnh nội dung của tác phẩm làm nỗi
bật tính cách của nhân vật được nói đến. Đó là nghệ thuật sáng tác rất thành công ở Hồ
Biểu Chánh.
Bên cạnh việc tìm hiểu về thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh, ta còn
thấy đôi khi chỉ dùng một thành ngữ, mà Hồ Biểu Chánh có thể sử dụng vào nhiều văn
cảnh khác nhau, nhưng vẫn giữ được nội dung ý nghĩa, mà còn làm tăng thêm giá trị
biểu đạt của thành ngữ. Chẳng hạn như: thành ngữ “Trôi sông lạc chợ” nội dung diễn
tả cuộc sống lang thang lưu lạc không chốn nương thân của con người.
47
Tác phẩm Cha con nghĩa nặng được dùng vào trường hợp thứ nhất miêu tả
cuộc sống trôi nổi của Cậu Ba Giai. Khi kể về cuộc đời mình “… Tấm thân con trôi
sông lạc chợ, ăn quán ngủ đình, con chẳng xá gì…”[27;139]. Đó là tâm trạng đau khổ
hối hận của một đứa con sau khi bôn ba tha phương cầu thực nơi xứ lạ quê người, nay
mong mỏi để được trở về đền ơn báo hiếu cho mẹ già.
Sử dụng trường hợp thứ hai được dùng trong tình huống không trang trọng,
diễn đạt nội dung ý nghĩa thô tục, khiếm nhã kém văn hóa qua cuộc cãi vã của hai vợ
chồng thầy thông Phong trong Thầy thông ngôn. Khi cô Hồng Hoa mạt sát chồng
mình “…Hứ, thứ quân trôi sông lạc chợ mà không biết thân lại còn nói lớn
lối…”[42;529], được nhân vật dùng đến với thái độ coi khinh, xem rẻ hoàn cảnh xuất
thân của những người có thân phận thấp hèn hơn người phát ngôn. Qua đó phê phán đả
kích vào người đàn bà hư thân trắc nết, nhẫn tâm sẵn sàng bán rẻ tình chồng vợ, bỏ
nghĩa mẹ con. Rõ là vấn đề đạo đức, tiết hạnh của người đàn bà bị suy đồi. Hồ Biểu
Chánh quyết ngăn ngừa những tệ hại ấy, để đưa con người quay về với cuộc sống
hướng thiện.
Như vậy qua lớp thành ngữ vừa nêu trên, ta thấy điểm nổi bật nhất của Hồ Biểu
Chánh, là dùng một thành ngữ vận dụng linh hoạt vào các tình huống, ngữ cảnh khác
nhau, nhằm làm tăng tính thuyết phục đối với người đọc, qua đó cũng vì mục đích giáo
dục tư tưởng đạo đức con người ý thức được việc làm sai trái.
2.2.4. Thành ngữ Hán Việt.
Cùng với sự tồn tại và hoạt động của các đơn vị từ vựng gốc trong tiếng Việt,
thành ngữ gốc Hán đang chiếm số lượng đáng kể trong kho tàng thành ngữ Việt Nam.
Có thể nói sự có mặt của các thành ngữ tiếng Việt, mà về mặt chất lượng chúng thật sự
có vai trò quan trọng, một mặt các thành ngữ gốc Hán mang vào trong tiếng Việt
những nội dung khái niệm mới, mà trong tiếng Việt chưa có hoặc có khi đã có, mà lại
chưa có thành ngữ biểu thị. Hồ Biểu Chánh vận dụng thành ngữ mang gốc Hán vào
trong tác phẩm của mình như:
Đầu tiên là tác phẩm Tơ hồng vương vấn thì thành ngữ “Trọng nghĩa khinh tài”
chỉ người quí trọng đạo nghĩa, coi khinh của cải, được viết “…Tánh nết thì khác nhau
như vậy nhưng lòng dạ thì hai người giống nhau: trọng nhân nghĩa khinh tiền tài, ưa
trong sạch thẳng ngay, ghét a dua hóng hách…” [38;63]. Ý nói lên tính cách của Cúc
Hương và Vĩnh Xuân tuy khác nhau, song hai người điều có chung một ưu điểm là
48
“Trọng nhân nghĩa khinh tiền tài”. Cúc Hương tính thẳng thắng nóng nảy, còn Vĩnh
Xuân thì trầm tĩnh ôn hòa. Và trong thơ truyện Kiều của Nguyễn Du khi nói về tính
cách tốt đẹp của Kim Trọng.
Chiếc thoa nào của mấy mươi,
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao.
Trong cuộc sống con người dù ở hoàn cảnh nào điều phải tuân theo những điều
luật cho là hợp thời hợp lẽ, thì thành ngữ “Nhập gia tùy tục” là vào nhà nào phải theo
tục lệ, nề nếp của nhà ấy, vào môi trường lĩnh vực nào phải theo qui định, luật lệ của
nơi lĩnh vực ấy. Hồ Biểu Chánh đưa vào lời nói, lời khuyên của Bà Kinh đối với Vĩnh
Xuân“…Tôi khuyên nhập gia tùy tục ta làm sao thầy cứ làm vậy…” [38;164]. Khi mới
bước chân ra đời Vĩnh Xuân chưa thích nghi được cuộc sống mới và cảm thấy bất
mãn, thoái chí nên khi nghe qua lời khuyên bảo của Bà Kinh, thì Vĩnh Xuân cảm thấy
cần phải khắc phục và thích nghi môi trường mới. Bởi lời văn trơn truột, nội dung diễn
đạt thêm trang trọng, nên khi nghe qua cuộc đối thoại giữa Vĩnh Xuân và Bà Kinh
giúp người đọc dễ dàng tiếp nhận.
“Môn đăng hộ đối” theo phân tích của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Lực thì
“Môn” là “cửa” hoặc “cổng”, “hộ” cửa trong nhà. Trong chế độ phong kiến, đôi lứa
kết duyên, nên vợ nên chồng đâu chỉ vì tình yêu của họ, đâu phải vì đôi lứa xứng đôi.
Cái quan trọng, cái cốt lõi trong hôn nhân thời ấy là “môn đăng hộ đối”, tức là hai gia
đình thông gia phải có sự ngang nhau về nhà cửa, của cải, và tương đương nhau về địa
vị xã hội. Thành ngữ “Môn đăng hộ đối” được Hồ Biểu Chánh vận dụng vào tác phẩm
làm phương tiện đắc lực trong sáng tác. Đầu tiên là tác phẩm Tơ hồng vương vấn viết
“… Tôi là con Hương Văn tôi cưới con Hương Nhì vậy là đương môn đối hộ lắm chớ
tôi nghèo mà…”[38;299]. Thành ngữ “môn đăng hộ đối” trước hết là tương xứng về
nhà cửa, gia thế. Các yếu tố “môn”, “hộ” có nghĩa là “nhà”, “cửa”, các yếu tố
“đăng”, “đối” được tách ra từ tổ hợp “đăng đối” với nghĩa là “ngang, bằng đối hợp
nhau”. Vậy là từ chỗ so sánh rất cụ thể về cái nhà, cái cửa, thành ngữ “môn đăng hộ
đối” được mở rộng nghĩa để chỉ gia thế, địa vị xã hội giữa hai bên. Đôi lứa duyên số
phù hợp nhau, xứng đáng kết tóc xe tơ chỉ khi địa vị gia đình họ ngang nhau.
Xã hội phong kiến không chấp nhận những câu chuyện tình giữa các đôi lứa
thuộc đẳng cấp chênh lệch nhau:
49
Trong Sống thác với tình nhà văn đã thay đổi vị trí từ ngữ và biến âm dùng
trong bốn ngữ cảnh khác nhau “…Hai ông bà nhứt là muốn kiếm chổ giàu sang mà
làm sui đặng đương môn đối hộ…”[37;125], “…Ấy là cuộc vợ chồng đương môn đối
hộ của ông Khải Quang kéo dài….”[37;126], “…Mấy ông mấy bả ở theo xưa mới
thấy vợ chồng yêu nhau ….không phải nhờ đương môn đối hộ…”[37;127], “…Tại bà
mẹ lựa chỗ đương môn đối hộ mà làm sui…”[37;131]. Và tác phẩm Đóa hoa tàn đựợc
viết “…Ham gả chổ đương môn đối hộ làm chi…”[30;52]. Biến thể của thành
ngữ“môn đăng hộ đối” là “môn đương đối hộ”. Dạng thức này có ý nghĩa và cách
dùng tương tự như “môn đăng hộ đối”. Từ một thành ngữ tác giả có thể vận dụng vào
nhiều tác phẩm nhiều ngữ cảnh. Nhìn chung thì nội dung thành ngữ điều nói về quan
niệm hôn nhân ngày xưa, sự giàu sang của đôi bên gia đình phải tương đương, ngang
nhau trong hôn nhân. Nếu nhà nghèo lấy nhà nghèo giàu lấy giàu, hay giàu lấy nghèo
thì đòi hỏi cặp vợ chồng đó phải có tình yêu thương với nhau cho dù chỗ “Môn đăng
hộ đối” cũng không là hạnh phúc.
Nói đến mưu trí cao siêu của những người tiên tri giỏi thiên văn, giỏi điều binh
khiển tướng vào thời chiến quốc ngày xưa. Ở Trung Quốc vào đời nhà Minh có Lưu
Bá Ôn, đời Hán có Gia Cát Lượng Khổng Minh,… Ở Việt Nam đời nhà Lê có Nguyễn
Trãi,…nhưng ở tác phẩm Hồ Biểu Chánh thì có người anh hùng tài trí Thanh Tòng
giỏi về cách cầm binh không kém gì các bậc tiền nhân thời trước. Thành ngữ “Áng
binh bất động” là đóng quân một chỗ, không hành động để dò la tìm cách đánh trả lại.
Hồ Biểu Chánh đã miêu tả thành công người anh hùng Thanh Tòng: “…Nay ta thấy
giặc áng binh bất động nên trong bụng …”[33;190], cho thấy tài nghệ của Thanh
Tòng không chỉ giỏi về võ nghệ, mà về binh thư chàng cũng thao lược, nên cách dụng
binh của chàng là “Áng binh bất động” để dò la tình hình quân địch, và lập thế tiến
công đánh thẳng vào quân địch lập chiến công oanh liệt.
Trong tiềm thức con người luôn tồn tại cái thiện và cái ác, chính thiện - ác sẽ
điều khiển lý trí và con tim của con người, cho nên lúc nào con người cũng phải thật
bình tĩnh để lý trí được sáng suốt, nếu không sẽ có hại đến mọi người và chính bản
thân. “Cải ác tùng thiện” là biết quay về con đường chính đạo, thành ngữ này được
nhà văn khắc họa đậm nét anh nông dân Lê Văn Đó là một người hiền lương, thật thà
chất phác, hiền đến độ không biết căm giận kẻ đã bỏ tù mình. Cho đến lúc ý thức được
thân phận thì anh căm ghét tất cả mọi người, vì thất học lại kém hiểu biết anh trở thành
50
kẻ xấu bị mọi người ruồng bỏ, và sự xuất hiện chủ trì Trần Chánh tâm là người tu hành
đắc đạo, đã giúp Lê Văn Đó bỏ điều ác, làm điều thiện, điều tốt “…Những người ái mộ
đạo …Cải ác tùng thiện…” [34;484]. Cuối cùng tên Đó trở thành một thánh nhân của
những người cùng khổ.
Trong các ngày hội làng, đình, hoa đăng, … là những ngày lễ truyền thống của
các dân tộc, vào các ngày này thì dập dìu người qua kẻ lại, theo truyền thống ngày xưa
thì các nàng công chúa, tiểu thư khuê các không được ra khỏi cửa phòng, chỉ đến ngày
lễ hội mới được ra khỏi nhà. Trong lễ hội đó sẽ xuất hiện rất nhiều “Nam thanh nữ tú”
ngụ ý nói các chàng công tử sẽ có dịp tao ngộ cùng các nàng xinh đẹp. Chính vì thế
“Nam thanh nữ tú” là thành ngữ Hán – Việt đồng thời cũng là thành ngữ có kết cấu
cụm chủ vị được Hồ Biểu Chánh miêu tả trai gái trẻ đẹp, thanh lịch. Ngoài “Nam
thanh nữ tú” còn có những người “Phàm phu tục tử” là những kẻ tầm thường, thô lỗ.
Tác phẩm Tơ hồng vương vấn được viết “…Ái tình của bọn tục tử phàm phu hết
thảy…”[38;45], nội dung diễn đạt cuộc đàm thoại giữa Vĩnh Xuân và Cúc Hương. Họ
yêu nhau trong âm thầm nhưng tình yêu của họ là tình yêu thanh cao, bởi tính nhút
nhát của Cúc Hương luôn lo lắng sợ mọi người biết được, đến tai cha mẹ thì cô không
được tự tay chăm sóc cho người yêu. Vĩnh Xuân muốn làm yên lòng người yêu, nên
cậu nói tình yêu của mình không thể so với thứ tình của kẻ “phàm phu tục tử”.
Tác phẩm Chúa tàu Kim Qui Hồ Biểu Chánh miêu tả cuộc sống nghèo khó của
Kỉnh Chi, vì cưu mang bảo bọc gia đình bên vợ đến nỗi phải “Táng gia bại sản” thể
hiện “… Em rể vì thế mặt cho mình táng gia bại sản thân bình bồng không
biết…[25;52], “…Vì lòng tri kỷ với mình mà táng gia bại sản ơn ấy…”[25;74] miêu tả
nhà cửa, tài sản tan nát lụn bại gần nghĩa với “khuynh gia bại sản; vong gia bại
sản”;… Cho thấy việc làm của Kỉnh Chi là việc làm đại nghĩa, anh không ngại vợ thất
tiết, bằng lòng cưới, khi cha mẹ vợ bệnh anh lo thuốc thang, khi chết lo chôn cất, thêm
vợ bệnh cũng chết để lại đứa con thơ anh phải một mình gánh vác, việc làm của Kỉnh
Chi làm cho Thủ Nghĩa phải khắc sâu ơn nghĩa đó trọn đời.
Cuộc sống bình yên vốn là mong ước của con người “An bần lạc đạo” là thành
ngữ đã nói lên điều đó. Tác phẩm Sống thác với tình được viết “ … Thuở nay cứ ham
chen lấn mà giành giựt vui sướng, chưa hề nghĩ tới sự an bần lạc đạo bao giờ…”
[37;10], sư cụ Bạch Viên muốn ông Hai Cường yên lòng với cảnh nghèo, vui vẻ sống
theo đạo đời, đừng quan tâm với những “Phú quý vinh hoa” ở ngoài, vì những thứ đó
51
đem lại cho con người sự giàu sang danh giá, nhưng là những thứ giành giựt mà có
chẳng vui sướng gì. Nét đặc trưng của Hồ Biểu Chánh là sử dụng khá nhiều thành ngữ
vào trong tác phẩm, đặc biệt là thành ngữ Hán Việt ở dạng nguyên mẫu được ông sử
dụng một cách trang trọng, thể hiện tính cách tốt đẹp của người Nam Bộ. Bởi quá
nhiều nên người viết chỉ tìm hiểu và làm rõ một vài thành ngữ tiểu biểu có giá trị cao.
2.2.5. Thành ngữ có tính biểu trưng.
Trong cuộc sống người ta thường quy ước dùng một sự vật nào đó để nói lên
một điều gì đó. Cách dùng như thế được gọi là biểu trưng. Chẳng hạn người Việt
thường dùng những bộ phận không thấy trong cơ thể con người là lục phủ ngũ tạng
nghĩa là ruột, gan, phổi,…để biểu trưng ý chí, tâm tư, tình cảm, tấm lòng những suy
nghĩ thầm kín của con người. Vậy nên mới có các thành ngữ như: bầm gan tím ruột;
đứt ruột đứt gan; Mặt như trăng rằm; Miệng như hoa nở; Tươi như hoa; mặt ủ mày
chau; ruột đau như cắt; … Con người thường dùng các bộ phận thân thể của mình,
theo khuynh hướng này thì cặp đầu/ đuôi cũng được dùng để biểu thị cho một tổng thể,
cho quá trình sự việc: đầu đuôi câu chuyện; đầu đuôi sự việc; có đầu có đuôi. Sự đối
lập đầu/ đuôi là sự đối lập giữa hai phần thấp nhất và cao nhất của con người. Về mức
độ cặp thấp/ cao có thể là sự đối lập (ít – nhiều). Do vậy, Hồ Biểu Chánh đã vận dụng
thành ngữ có tính biểu trưng cao hay thấp vào trong tác phẩm của mình để biểu trưng
cho sự vật, sự việc,…qua đó làm nổi bật nội dung tác phẩm như: Mặt như trăng rằm;
Miệng như hoa nở; Tươi như hoa; Sướng như tiên; Đẹp như tiên; Nhanh như điện; ăn
đói mặc rách; đói cơm khát nước; no cơm ấm áo; áo chiếc quần manh; ruột đau như
cắt;… đều lấy những vật thực, việc thực, cụ thể, riêng lẻ, được nâng lên để biểu trưng
cho những tính chất, họat động, tình thế,… nói về cái phổ biến, khái quát, trừu tượng.
2.2.5.1. Thành ngữ có tính biểu trưng thấp.
Thành ngữ “Sướng như tiên” biểu trưng cho sự sung sướng giàu sang được
dùng trong tác phẩm Nợ tình “…Nếu điểu thì làm đám cưới riết đặng về chỏng cẳng
mà ăn sướng như tiên dại gì…” [35;125]. Thành ngữ “Mặt như trăng rằm”, “Miệng
như hoa nở”, “Tươi như hoa”…miêu tả vẻ đẹp thanh tú dễ mến của các cô gái như: cô
Hai Tân trong Tân phong nữ sĩ thì “…Cô Tân Phong đứng dậy bước ra mặt sáng như
trăng rằm, miệng cười như hoa nở, cô đưa tay mà bắt tay chào Vĩnh Xuân và nói
…”[39;148], biểu trưng cho sự vô lo, sung sướng, lại thêm miệng cười hữu duyên thật
là đáng mến của các cô gái. Cho thấy ở Hồ Biểu Chánh ông luôn có môt phong cách
52
miêu tả rất độc đáo, nhân vật trong tác phẩm được hóa thân là những con người mang
vẻ đẹp quý phái, cuộc đời thật hạnh phúc và tươi sáng như ẩn hiện trên khuôn mặt. Đó
là điểm thành công ở nghệ thuật miêu tả của ông.
2.2.5.2. Thành ngữ có tính biểu trưng cao.
Được nhà văn phân thành hai loại thành ngữ ẩn dụ và hoán dụ để biểu trưng ý
nghĩa của thành ngữ. Hồ Biểu Chánh không chỉ lồng thành ngữ vào trong tác phẩm,
mà ông còn xây dựng hình tượng nhân vật biểu trưng ở hai tuyến đối lập nhau như:
Một bên là những người lao động, nghèo khổ: chân lấm tay bùn; ăn đói mặc
rách; áo rách quầm manh; đói cơm khát nước;…
Một bên là những kẻ áp bức bóc lột: ăn no ngủ kỹ; ăn không ngồi rồi; no cơm
ấm áo;…
2.2.5.2.1. Biểu trưng theo phương thức hoán dụ thì:
Thành ngữ “Ăn no ngủ kỹ” biểu trưng cho cuộc sống nhàn hạ, sung túc của
những người giàu. Đói cơm khát nước” biểu trưng cho sự đói khát của kẻ nghèo không
nơi nương tựa, học trò Lân vì gia đình nghèo, mẹ và chị phải buôn bán nuôi Lân ăn
học nhưng Lân lại thi rớt, Lân phải bỏ xứ ra đi tìm việc làm quyết thay đổi cuộc sống
cơ cực nghèo khổ. Còn thành ngữ “No cơm ấm áo” biểu trưng cho cuộc sống giàu
sang đầy đủ không cần phải bươn bải chật vật, nàng Thu Thủy trong Chúa tàu Kim
Qui được Chúa tàu cứu sống ban cho cuộc sống sung sướng, tận hưởng sự giàu sang
“…Em mang ơn Chúa Tàu tế độ làm ơn cho em no cơm ấm áo em chẳng biết làm sao
mà đền bồi ơn ấy cho được…”[25;162].
Nguyễn Hải Đường trong Đóa hoa tàn là học trò nghèo, anh ta quyết chí tấn thủ
thay đổi số phận anh sang Pháp du học “…Hải Đường vì nhà nghèo không tiền mỗi
năm chỉ nhờ sáu ngàn quan học bổng của nhà nứơc…bởi vậy ăn đói mặc rách khổ cực
trong sáu năm mới thi đậu tốt Trường Chư Nghệ Đại học…”[30;70]. Thành ngữ “Ăn
đói mặc rách” biểu trưng sự thiếu thốn không chỉ về vật chất mà còn không đủ ăn
không đủ mặc.
“Chân” và “tay” trong thành ngữ “Chân lấm tay bùn” biểu trưng cho sự vất vả
cực khổ. “Mặt”, “mày” trong thành ngữ “Mặt ủ mày chau” biểu trưng cho sự buồn
rầu đau khổ xuất hiện trong Ngọn cỏ gió đùa miêu tả tâm lí ăn năn hối lỗi của Lê Văn
Đó “…Mình làm dữ giựt nồi cơm hồi chiều thì chau mày ủ mặt trong lòng ăn năn
không biết chừng nào…”[34;76] anh ta vốn là con người hiền lương, cũng bởi chính
53
xã hội cũ đã tác động đến làm cho Lê Văn Đó trở thành kẻ xấu, nhưng nhờ chủ trì
Chánh Tâm và tiếng chuông chùa đã làm thức tĩnh tâm hồn anh, nên khi nghĩ lại hành
động vừa rồi anh ta cảm thấy ăn năn, và quyết quay lại bằng con đường lương thiện.
2.2.5.2.2. Biểu trưng theo phương thức ẩn dụ:
Ở tác phẩm Tân phong nữ sĩ có đoạn “…Chị có như vậy hay không?... bây giờ
chúng ta thấy non cao rừng thẳm lạ con mắt của chúng …”[39;104], thành ngữ gốc
“Rừng sâu núi thẳm” biểu trưng nơi núi rừng hoang vu hẻo lánh, đã được Hồ Biểu
Chánh cải biến thành “Non cao rừng thẳm” biểu trưng nơi núi rừng xa xôi cách trở,
còn thành ngữ “Rừng vàng biển bạc” biểu trưng cho rừng và biển là nguồn của cải
giàu có vô tận. Thành ngữ “non thẳm rừng sâu” trong tác phẩm được nhà văn miêu tả
cuộc du ngoạn vui chơi của cô Hai Tân và Vĩnh Xuân, Hạo Nhiên và Thanh Lệ khi
đến chân núi lại gặp phong cảnh thanh tịnh của núi rừng càng thích thú, dù biết xa xôi
hiểm trở nhưng họ không bỏ qua cơ hội tận hưởng phong cảnh tuyệt vời
Cho thấy tất cả những thành ngữ được Hồ Biểu Chánh sử dụng vào trong tác
phẩm, dù nghĩa của nó được cấu tạo bằng các phương pháp chuyển nghĩa như: ẩn dụ,
hoán dụ, so sánh, khoa trương,…nhưng vẫn giữ được nội dung ý nghĩa cần biểu đạt.
Vì vậy, biểu trưng là lấy cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng dựa trên cơ sở sự tương đồng.
2.2.6. Thành ngữ có tính dân tộc và tính cụ thể.
Tính dân tộc của thành ngữ là đặc điểm nói chung của một ngôn ngữ cụ thể,
theo quan điểm của một người học hay người nghiên cứu một tiếng nước ngoài, tính
chất dân tộc của thành ngữ lại càng thêm khó khăn cho sự phân tích ngữ nghĩa. Vì
không có thành ngữ nào có thể vượt ra ngoài không gian, thời gian mà không gắn liền
với điều kiện lịch sử của một xã hội, của một tập đoàn người nhất định. Cho nên trong
các ngôn ngữ nó đều mang tính chất cá biệt đặc thù không thể dịch nguyên văn ra một
tiếng nước nào đó, mà hiểu được những vấn đề, sau đây so sánh giữa thành ngữ tiếng
Việt và tiếng Pháp, tiếng Ba Lan, tiếng Tày, tiếng Nùng để làm sáng tỏ điều ấy:
Tiếng Việt: “Chở củi về rừng” tiếng Pháp: “Chở nước xuống biển”.
“Sông có khúc người có lúc”  tiếng Tày – Nùng “Đời người ba
lồi bảy lõm” ,“Tởi cần slam pẩng slí kiu”.
“Tai nghe không bằng mắt thấy”  Nùng “Mắt thấy không bằng
tay sờ”, “Tha han mi tay mừ mioọc”.
“Ăn phải nhai” Nùng“Uống nước phải nhai”,“Kin nặn lèo kẹo”.
54
Ngoài ra còn có thành ngữ ra đời trong một thời kì lịch sử nhất định như: thuần
phong mỹ tục, tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh, đa nghi như Tào Tháo,… do bắt
nguồn từ một phong tục tập quán cũ, mà nay không còn trong sinh hoạt của nhân dân
nữa. Để thấy được điều đó, chúng ta đi vào khảo sát các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh,
bởi vì tác giả là người đi tuyên truyền đạo đức văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Khi đề cập đến những phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, thì ai cũng có bổn phận giữ gìn. Vì đó là tinh hoa của sự sống, nếu ta vô tình hay
cố ý hủy diệt cái tinh hoa đó, thì đời sống xã hội sẽ tồi tệ, đen tối. Tư tưởng đó bao giờ
cũng tôn thờ những cái tinh hoa, và phổ biến những cái đẹp đi khắp nơi, những kinh
nghiệm sống nhân dân đã đúc kết nên thành ngữ “Thuần phong mỹ tục” xuất hiện
trong Tân phong nữ sĩ ở ngữ cảnh “….Trái lại cậu càng hăng hái mà đi tới…mà đem
lại mỹ tục thuần phong cho an nhà lợi nước…” [39;9]. Trong toàn bộ tác phẩm Hồ
Biểu Chánh ít nhiều gì dù trực tiếp hay gián tiếp, đều nhắc đến đạo lý truyền thống dân
tộc. Dùng thành ngữ “Thuần phong mỹ tục” nhà văn muốn chứng minh cho thiên hạ
hiểu được chủ nghĩa của mình, chủ nghĩa đó là làm thế nào cho xã hội có được phong
hóa lành mạnh. Vốn là con người thuần lương bản chất nhân hậu, ông luôn tôn trọng
vốn văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc. Cho nên những nhân vật mà ông thể
hiện bao giờ cũng ẩn chứa một nét riêng của con người cá nhân đó. Và từ thành ngữ đã
khái quát lên được những gì tinh tú nhất của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay. Đó là
nét riêng biệt đặc trưng trong phong cách sáng tạo thành ngữ của ông, và đây cũng là
lý do để chúng ta hiểu vì sao thành ngữ của Hồ Biểu Chánh lại hấp dẫn và phù hợp với
mọi tầng lớp nhân dân, mà đặc biệt là nhân dân Nam Bộ. Ông đã tạo cho mình một thế
đứng trong làng văn học, một phong cách rất riêng ở cách dùng phương ngữ Nam Bộ.
Thành ngữ “Tam tòng tứ đức” là nói đến những tập tục, giáo lý đã tồn tại theo
xã hội xưa và nay, thì người phụ nữ luôn chịu sự ràng buộc và phải tuân theo không
đuợc trái lại. Hồ Biểu Chánh không chỉ miêu tả phong tục hay tuyên truyền đạo lý, mà
còn không hợp với chủ nghĩa hiện thực, ông chưa bao giờ đứng về phía cái mới để phê
phán cái cũ nên phần lớn các tác phẩm của ông là nhằm chứng minh cái phong tục gia
đình ưu việt. Thành ngữ “Tam tòng tứ đức” được hiểu là ba việc phải phục tùng, bốn
điều luôn đức hạnh, mà người phụ nữ phải thực hiện nghiêm túc, người phụ nữ phải
chịu sự phụ thuộc vào người cha từ nhỏ đến khi lớn lên lại phải theo chồng, và khi
chồng chết là phụ thuộc vào đứa con. Vì vậy người đàn ông phương Đông thường
55
chọn những phụ nữ phải biết “Tam tòng tứ đức” để đảm bảo cuộc sống hạnh phúc
được trọn vẹn, vì người phụ nữ An Nam đã trải qua sự rèn luyện từ thời bé, nên họ có
sự chịu đựng và lòng kiên cường tuyệt vời.
Thành ngữ “Tam tòng tứ đức” trong tác phẩm Tân phong nữ sĩ được Hồ Biểu
Chánh dùng ba lần trong văn cảnh: “ … Nó sẽ cưới vợ, song nó cưới con gái An Nam,
biết lễ phép An Nam biết tam tùng tứ đức, chớ nó không chịu cưới thứ gái kim thời mặt
An Nam mà bộ như đầm…”[39;33]. Nội dung ngữ cảnh nói Đốc tờ Vĩnh Xuân vì chê
bai cô Hai Tân là gái An Nam, nhưng lại sống theo kiểu các cô gái kim thời thiếu
“Tam tòng tứ đức” nên đã từ hôn mà đi cưới vợ khác.“ …Hay là học cho tinh xảo các
nghề mà nhứt là học cho biết tam tòng tứ đức, cho biết đạo làm vợ đối với chồng cho
biết đạo làm mẹ đối với con…”[39;152], “… Tiếc vì đờn bà con gái của mình không
biết tam tùng tứ đức, thấy chồng trọng rồi trở lại lẫy lừng lấn lướt…” [39;154]. Vĩnh
Xuân sống vào thời đại Nam Nữ bình đẳng nhưng lối nghĩ suy rất cổ hủ, chỉ muốn
cưới người vợ phải đầy đủ lễ phép “Tam tòng tứ đức”, và người vợ đó phải phục tùng
chồng, nên không chọn cô Hai Tân làm vợ, từ hôn mà đi cưới gái An Nam sống theo
lối xưa, kết quả hạnh phúc đỗ vỡ vì người vợ không hiểu “Tam tòng tứ đức”. Cho thấy
Hồ Biểu Chánh đã xây dựng thành công nhân vật cô Hai Tân trong tác phẩm, là gái An
Nam có học thức, nhưng vì cô sống vào thời đại văn minh, nên tư tưởng rất mới mẽ.
Cô rõ hiểu “Tam tòng tứ đức” nên cô đem văn minh thời nay mà giáo lý cho thời xưa.
Vì hận người chồng hôn phối từ hôn, với lý do cô không biết “Tam tòng tứ đức”.
Trong hoàn cảnh đau khổ, trái tim hạnh phúc tan vỡ cô quyết không lấy chồng mà tôn
thờ chủ nghĩa độc thân, cô muốn chứng minh cho người chồng hôn phối của mình thấy
được tài năng của gái An Nam sống vào thời đại hiện nay. Cô đem cái chủ nghĩa của
mình mà đứng về phía phụ nữ, Cô tự tay viết những bài báo để bênh vực người phụ
nữ, sống cam chịu sự ràng buộc của lễ giáo gia đình cổ hủ. Cái thuyết lý của cô được
giới phụ nữ công nhận. Chứng tỏ Hồ Biểu Chánh không chỉ nêu lên đức tính đạo đức
của người phụ nữ, mà ông còn là nhà tuyên truyền giáo dục đạo đức truyền thống dân
tộc, không chỉ trong nội dung cốt truyện mà còn trong việc vận dụng phương tiện diễn
đạt.
Nói đến nữ công gia chánh thì người đàn ông không bao giờ so sánh ngang
hàng với người phụ nữ. “Công dung ngôn hạnh” là thành ngữ nhằm nói đến đức hạnh
phẩm giá của người phụ nữ, “công” nghĩa là nữ công thêu thùa, may vá, “dung” là về
56
diện mạo sắc đẹp, “ngôn” là lời hay ý đẹp, “hạnh” đức hạnh, phẩm hạnh. Thành ngữ
miêu tả như trên được Hồ Biểu Chánh vận dụng vào tác phẩm Nặng gánh cang thường
diễn tả nàng Lệ Bích “… Vợ chồng quan Ngự Sử thấy nàng có đủ công dung ngôn
hạnh mà văn học lại thêm có tài nữa, nên tưng tiu như ngọc như ngà…” [33;153]. Bởi
nàng Lệ Bích hận Thanh Tòng giết cha nên rời khỏi hoàng cung lưu lạc dân gian, vì
không tuân lệnh vua thành hôn với Thanh Tòng. Từ địa vị công nương nàng trở thành
một người dân bình thường, và được vợ chồng quan Ngự Sử nhận làm con nuôi gì tuổi
hạt đã cao mà không có được mụn con. Lệ Bích vốn xuất thân con cháu hoàng tộc, nên
từ nhỏ nàng đã được quan tâm dạy bảo nghiêm khắc, lại là một trang quốc sắc thiên
hương, “văn võ song toàn” ít có người con gái nào sánh kịp, lại thêm tài học uyên bác.
Dù là con nuôi nhưng về “Công dung ngôn hạnh” nàng chẳng thua kém một ai, nên
được vợ chồng quan Ngự Sử thương yêu cưng chiều như con ruột.
Thiên nhiên có khắc nghiệt cuộc sống con người có đổi thay, thì người nông
dân Nam Bộ vẫn gắn bó cuộc đời mình với đồng ruộng. Cho nên Hồ Biểu Chánh đã
bày tỏ lòng thương yêu sâu sắc đối với người lao động vào trong tác phẩm.
Hay hình ảnh những con vật, đồ vật rất quen thuộc luôn tồn tại trong đời sống
con người hằng ngày cũng được nói đến như: Ăn như mèo; Làm như mèo mửa; Chó
chê mèo lắm lông; Đầu voi đuôi chuột; Nồi nào vung nấy; Ăn cháo đá bát; … Qua sự
khảo sát các thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh, thì không thấy ông dùng
những thành ngữ vừa nêu trên, bởi vì đa số thành ngữ của nhà văn đều thể hiện một
phong cách rất trang trọng, có hình thức miêu tả cụ thể những hình ảnh thiên nhiên và
con người một cách có đạo đức văn hóa đều phù hợp với hoàn cảnh và nội dung tác
phẩm. Những sinh vật được ông nhắc nhiều trong tác phẩm là thành ngữ “Cá chậu
chim lồng” có mặt trong các tác phẩm: Nặng gánh cang thường, Tơ hồng vương vấn,
Chúa tàu Kim Qui,…Nội dung thành ngữ miêu tả sự tù túng, bó buộc, không được tự
do của các nhân vật: Lệ Bích, Xuân Lan, Vĩnh Xuân, Thủ Nghĩa,… Con người sống
mà không có tự do thì cũng như “Cá chậu chim lồng”. Ông mượn hình ảnh những con
vật để làm nổi bật tâm lí, tính cách của các nhân vật. Chẳng hạn ngữ cảnh được trích ở
tác phẩm Nặng gánh cang thường có nói “…Hai nàng cũng như chim ở trong lồng, cá
ở trong chậu làm sao thóat khỏi …” [33;106]. Tơ hồng vương vấn miêu tả “…Vĩnh
Xuân buồn rầu hết muốn đi chơi cứ nằm dàu dàu như chim bị nhốt ở trong lồng cá bị
57
sa vào rọ…”[38;81]. Chúa tàu Kim Qui thì “…Thủ Nghĩa có được một chiếc thuyền
rồi… như cá có vi như chim đủ cánh trong lòng nóng nảy…”[25;65].
Với vốn hiểu biết về thành ngữ Hồ Biểu Chánh đã đem đến cho người đọc hiểu
rõ hơn về nét đẹp truyền thống của dân tộc. Có thể nói việc đưa thành ngữ dân tộc
mang tính cụ thể vào tác phẩm là điều rất khó, Hồ Biểu Chánh rất tinh vi khi đem nền
đạo đức truyền thống của Việt Nam lồng vào tác phẩm, làm nền tảng cho việc giáo hóa
con người có được nếp sống và phong hóa lành mạnh. Thành ngữ có tính dân tộc và
tính cụ thể được thể hiện trong tác phẩm không nhiều, nhưng cũng đủ nói lên nền đạo
đức văn hóa vững bền của dân tộc Việt Nam.
2.2.7. Thành ngữ có tính biểu thái.
Khua môi múa mép; ô danh bại giá; danh bất hư truyền; thầm yêu trộm nhớ; than
thân trách phận; tài cao đức trọng; vong ân bội nghĩa; trêu hoa ghẹo nguyệt; … là
những thành ngữ có tính biểu thái được Hồ Biểu Chánh vận dụng rất nhiều vào trong
tác phẩm như: “khua môi múa mép” dùng trong tác phẩm Chúa táu Kim Qui có viết
“…Người mà thiên hạ thường hay khua môi múa mỏ còn kẻ…” [25;147], chỉ người ba
hoa, khoác lác, là người không thành thật, lời nói không đi đôi với việc làm.
Thành ngữ “Trêu hoa ghẹo nguyệt” miêu tả những người háo sắc, quen thói trăng
hoa, Trần Ngan ở tác phẩm Nặng gánh cang thường là một kẻ thất học vô giáo dục.
Thấy Lệ Bích và thể nữ Xuân Lan có nhan sắc xinh đẹp hắn muốn dùng thế lực con
quan mà cưỡng ép duyên, nhưng Lệ Bích và Xuân Lan là con nhà võ nên đã dạy Trần
Ngan một bài học bỏ thói ngang tàn “…Tôi xin hỏi người vậy chớ con nhà quan sao
không học thói nhà quan mà lại đi trêu hoa ghẹo nguyệt như phường du đãng vậy
hử?...”[33;103]. Hay thành ngữ “Ghẹo nguyệt trêu hoa” trong Ngọn cỏ gió đùa được
viết “….Chồng thi đậu rồi đã không lật đật về nhà chung vui với vợ con mà lại kết bè
kết bạn ghẹo nguyệt giỡn hoa…”[34;175]. Tác giả phê phán thói trăng hoa đắm sắc
của Hải Yến, lấy Ánh Nguyệt chỉ vì mê nhan sắc của nàng đến khi thi đậu làm quan lại
quen thói háo sắc bỏ rơi nàng. Đây là hành động của kẻ thất phu thiếu nhân cách, kém
đạo đức.
Thành ngữ “Ô danh bại giá” nói về tính cách hư hỏng của người phụ nữ xuất hiện
trong Con nhà nghèo được thể hiện qua lời than thân trách phận của Cai Tuần Bưởi
“…Cái thương của họ chỉ là bóc lột là lợi dụng, là vui chơi, dầu ai tan nhà nát cửa
mặc ai, dầu ai khổ thân lao lực mặc ai, dầu ai ô danh thất tiết mặc ai …”[23;36].
58
Thành ngữ “Ô danh bại giá” được tác giả mượn ý biến âm thành “ô danh xủ tiết” làm
cho lời văn được trau chuốt hơn. Nội dung nói Cô Tư Lựu là con nhà nghèo hiền lành,
bất hạnh bị cậu Hai Nghĩa dùng quyền lực cưỡng đoạt trinh tiết đến mang thai rồi bỏ
rơi. Lựu ý thức được sự nhục nhã về tinh thần lẫn thể xác, cô căm ghét kẻ đã làm hư
danh gía phẩm hạnh của cô liên lụy đến gia tộc, nỗi nhục này không phải tự cô gây ra
mà do con người bạo ngược như cậu Hai Nghĩa sống chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá
nhân, mà không nghĩ đến danh giá cho người khác.
Thu Vân trong Chút phận linh đinh nàng đã vượt dòng lễ giáo vì yêu thương Hiển
Vinh, không ngại xấu hổ, danh giá gia đình nên đã “Xủ tiết ô danh”. Bởi nàng tự
nguyện và may mắn thay nàng gặp được người biết lễ nghĩa như Hiển Vinh đứng ra
cứu lấy danh giá cho nàng khiến cho cha giận và bị tư bỏ. Cô Lê trong Sống thác với
tình cũng tự nguyện hiến thân cho người yêu, nên phải mang lấy tiếng hư bị gia đình
từ bỏ. Gia đình người yêu không thừa nhận, kết cuộc cô được hưởng hạnh phúc vì gặp
được người như Lê Khải Quang là người tình của cô đã đứng ra thừa nhận và cứu lấy
danh giá cho cô.
Trần Tấn Thân trong tác phẩm Chúa tàu Kim Qui dùng thủ đoạn đê hèn cưỡng hiếp
Thị Xuân em gái của Thủ Nghĩa. Kết quả Tấn Thân bị Thủ Nghĩa đập gãy chân, hãm
hại Thủ Nghĩa phải chịu án oan mười một năm tù giam. Thị Tố là chị dâu của Lựu vì
căm ghét lòng người đen bạc, kết quả là bị đóng trăng bảy ngày. Ba Cam vì muốn lấy
lại danh dự cho em, nhận lấy hình phạt một tháng tù treo.
Qua cách phân tích thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh được dùng trên, ta
thấy thành ngữ đều thể hiện tính biểu thái bộc lộ ở thái độ khen, chê, xót thương… về
những người được nói đến. Dù thành ngữ có tính biểu thái như thế nào cũng không
làm giảm giá trị nội dung tác phẩm. Đó là nét độc đáo ở nhà văn.
2.2.8. Thành ngữ có tính hình tượng.
Trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh ngoài thành ngữ có tính biểu trưng, biểu thái
thì thành ngữ có tính hình tượng cũng chiếm một phần đáng kể như: lên voi xuống
ngựa; lên voi xuống chó; lang bạt kì hồ; phỉ chí tang bồng; lang bạt kì hồ; áo chiếc
quần manh; …
Thành ngữ “Lên voi xuống ngựa” trong Tơ hồng vương vấn có nói “…Số người
ham tiền họ chỉ lo cho thân họ, lo cho hiện thời được lên voi xuống ngựa được ăn mặc
rực rỡ, được nhà cửa kinh dinh …” [38;180], là miêu tả con “voi” do có vóc lớn, Còn
59
đối với “ngựa” thì vóc nhỏ thuộc loại khỏe, nhanh chịu được đường dài, sa mạc,… thì
“ngựa” vẫn thuộc hàng yếu hơn “voi”. Ngược lại “Lên voi xuống chó” đối với “chó”
thì trái lại. Dù sống rất gần gũi với con người, nhưng trước sau “chó” vẫn chỉ có thân
phận thấp hèn của một con vật giữ nhà và săn đuổi con mồi theo lệnh của chủ. Và nếu
kẻ nào đóng vai trò của “chó săn” trong cuộc đời thì sẽ bị người ta nguyền rủa và cho
đến đời con cháu vẫn còn chịu tiếng xấu. Cho nên nghĩa của thành ngữ “Lên voi xuống
chó” là thay đổi thất thường, lúc làm nên, lúc thất thế, khi thì bước lên tột đỉnh cao
sang phú quý, lúc thì tụt xuống địa vị thấp hèn cơ khổ.
Có khi bị ảnh hưởng từ nguyên thông tục mà biến nghĩa khác với nghĩa cũ
“Lang bạt kì hồ” là con sói đạp cái bọc da ở trước cổ, lúng túng đi không được.
“Áo chiếc quần manh” được biến âm từ thành ngữ “ăn đói mặc rách” Thành
ngữ “Ăn đói mặc rách” chỉ sự thiếu thốn về vật chất mà còn không đủ ăn không đủ
mặc trích trong Chúa tàu Kim Qui thì “… Chẳng thà mẹ cha còn dầu mình áo rách tay
trơn…”[25;94].
Thành ngữ mang tính hình tượng được Hồ Biểu Chánh vận dụng vào trong tác
phẩm tuy không nhiều, nhưng qua sự khảo sát thì thành ngữ có tính hình tượng chiếm
5.82% , cho nên người viết chỉ lấy một vài thành ngữ có tính hình tượng cao để làm rõ
nội dung vấn đề.
2.2.9. Thành ngữ có tính điệp và đối.
Tính điệp và đối được biểu hiện ở ngay mặt quan hệ ngữ âm và ý nghĩa giữa
các thành tố trong thành ngữ.
Thành tố điệp có thể coi đây là một cái dấu nói thanh giữa hai vế làm cho
những yếu tố của thành ngữ gắn liền với nhau thành một khối có âm điệu hài hòa và dễ
nhớ.
Thành tố đối phần lớn thành ngữ gồm hai vế đối nhau, có trục đối xứng ở giữa
tạo nên tính cân đối, nhịp nhàng của chúng.
Thàng ngữ: Có đầu có đuôi; cứng đầu cứng cổ; bữa đói bữa no; đứt gan đứt
ruột; héo ruột héo gan;…Ngoài những thành tố điệp và đối chúng ta còn bắt gặp các
thành tố được lặp lại một từ đơn âm tiết và lồng chéo vào một từ ghép so sánh như:
chim lồng cá chậu;….
Từ “có” được lặp lại trong thành ngữ “Có đầu có đuôi” là có mở đầu, có kết
thúc chung thủy mạch lạc đầy đủ hệ thống, được trích trong Tơ hồng vương vấn khi
60
dùng vào “…Để rồi đó qua nói có đầu có đuôi cho em nghe…” [38;145]. Nội dung
diễn đạt lời nói của chị Hai Tỷ muốn thuật rõ câu chuyện cho “có đầu có đuôi” về cái
chết của Cúc Hương cho Vĩnh Xuân nghe. Thành ngữ này có sự cân đối về mặt nội
dung có thể đưa đến sự cân đối về âm vận theo quy luật bằng, trắc. Thành ngữ vừa có
tính điệp và đối như thành tố “có” ở vế trước được điệp lại ở vế sau. Còn thành
tố“đầu” ở vế trước đối với thành tố “đuôi” ở vế sau.
Thành ngữ “Cứng đầu cứng cổ” trong tác phẩm Chút phận linh đinh được vận
dụng vào ngữ cảnh “…Má con biểu con phải nghe lời nếu con cứng đầu cứng cổ ba
giận không thèm về đa…” [22;8]. Nội dung miêu tả tính ngương ngạnh, bướng bỉnh,
khó bảo được đặt trong văn cảnh, nhằm nói lên sự dạy bảo của Hiển Vinh, trước khi
sang Pháp du học, nên ân cần khuyên bảo đứa con gái tên Thu Cúc còn nhỏ phải lo
học và nghe lời dạy bảo của mẹ. Thu Cúc là đứa bé mới lên mười ba tuổi chưa biết
cuộc chia ly là gì, nhưng nó là đứa hiểu chuyện nên khi nghe cha dạy, nó một mực
nghe theo không dám cãi. Thành tố “Cứng” ở vế trước được lặp lại ở vế sau, thành tố
“đầu” ở vế trước đối với thành tố “cổ” ở vế sau, chỉ bộ phận trên cơ thể của con
người.
Khi miêu tả về cuộc sống đói khổ không được ăn no thường xuyên của con nhà
nghèo, một cuộc sống lang thang đầu đường xó chợ của đám trẻ. Thì “Bữa đói bữa no”
là thành ngữ miêu tả cuộc sống không nhà cửa không người thân của thằng Qùi và
thằng Hồi trong Vì nghĩa vì tình vận dụng vào “…Con của mình bây giờ ở với quân
trộm cướp, chơi chắc là ở trần ở truồng, ngủ chắc là không mền không mùng, ăn chắc
là bữa đói bữa no…”[44;36], nội dung nói Chánh tâm ăn năn tự vấn cho việc làm thiếu
suy nghĩ. Quả thật cuộc sống cơ cực của thằng Qùi và thằng Hồi là cuộc sống không
nhà cửa không người thân, phải tự đi làm kiếm ăn, nhưng chúng được sự cưu mang
của những người có tấm lòng bác ái như: bà già bán quán, hành khách, thầy giáo,…
Từ thành ngữ ta thấy được phần nào nỗi thống khổ của những người cơ hàn, mà đáng
thương thay là những đứa trẻ mồ côi ở xã hội trước và nay vẫn thế. Thành tố “bữa” ở
vế trước lặp lại ở vế sau, thành tố “đói” đối xứng với thành tố “no” ở phía sau. Cho
nên tác giả muốn nhấn mạnh yếu tố này cố ý khuyên răn con người phải biết thương
yêu giúp đỡ lẫn nhau, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Cuộc sống hèn sang đã trở thành đề tài trọng điểm trong hôn nhân gia đình,
cũng vì hai chữ giàu nghèo đã trở thành bức rào cản ngăn cách tình yêu của Hải
61
Đường và Túy Nga, nên cuộc tình duyên đành gián đoạn. Tác phẩm Đóa hoa tàn là kết
quả của cuộc nhân duyên tái hiệp “…Còn chàng nhớ cái nhà của cô Túy Nga kinh
dinh hực hỡ thì chàng teo gan héo ruột, ủ mặt châu mày, chàng lắc đầu mà đáp rằng
không thể có duyên nợ được…”[30;36]. Thành ngữ “Héo gan héo ruột” miêu tả nỗi lo
lắng đang giày dò trong lòng Hải Đường, vì nghĩ đến giai cấp nghèo giàu nên không
dám bày tỏ tình cảm của mình, bản thân chàng là một học trò nghèo, Túy Nga là một
cô gái con nhà giàu sang, giai cấp khác nhau nên không thể đến được với nhau.
Trong cuộc đời dù ít hay nhiều ai cũng phải trải qua những bi kịch đau đớn
nhất. Hiện hữu ở đây là các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, thì bi kịch thảm thương nhất
là cuộc đời của Thủ Nghĩa, bị kẻ gian hãm hại phải chịu ngồi tù oan mười một năm,
đến nỗi cha mẹ, em gái khi qua đời mà anh không một lần nhìn mặt. Cuối cùng kết quả
của kẻ gian ác đã từng bày mưu lập kế hãm hại Thủ Nghĩa thì sao? Và thành ngữ “Đứt
ruột đứt gan” trong Chúa tàu Kim Qui miêu tả cảnh chia ly của gia đình Trần Tấn
Thân “…Vợ con Trần Tấn Thân khóc mùi, Trần Tấn Thân thấy vậy lại càng đứt ruột
nát gan hơn nữa…”[25;194]. Đây là hậu quả của việc làm không có tính người, Trần
Tấn Thân là kẻ gian ác cũng phải đau đớn xót xa khi lìa vợ con. Hồ Biểu Chánh thấm
thía được nỗi đau bi kịch của cuộc đời Thủ Nghĩa, nên ông đã đẩy nỗi đau đó trả về
cho Trần Tấn Thân. Vì nỗi đau đó do hắn hãm hại Thủ Nghĩa, nên giờ bị trừng phạt
cũng là thích đáng.
Thành ngữ “Đứt ruột đứt gan” còn chỉ nỗi đau đớn, xót xa tột độ của Thanh
Tòng trong Nặng gánh cang thường được miêu tả “…Tuy chàng không dám trách trời
nhưng mà nghĩ tới cha chết còn nằm tại nhà, mẹ già đeo nuốt thảm, thì chàng nát ruột
đứt gan nuốt đắng trêu cay …”[33;123]. Thành ngữ “Nằm gai nếm mật” được Hồ
Biểu Chánh chuyển đổi trật tự của thành tố và biến âm từ vựng, do đối xứng ở hai vế
được ông thể hiện “…Đạo làm trai phải phơi gan trải mật mà phò vua giúp nước, phải
khắc cốt ghi tâm mà trả thảo đền ơn…”[33;19]. Thanh Tòng là một chàng thanh niên
tuấn tú văn võ gồm tài, lại mang chí lớn quyết đem thân mình mà đền đáp non sông.
Văn cảnh trên nói lên ý chí của người làm trai Thanh Tòng quyết đem tài học của mình
xong pha ngòai chiến trận dù phải “Phơi gan trải mật” cũng không hề nao núng.
Thanh Tòng ngó Lệ Bích nói rằng“…Xin Công chúa an lòng ở lại đây ít ngày tôi thề
quyết trải mật phơi gan mà phò vua giúp nước…”[33;182]. Qua lời đối thoại giữa
62
Thanh Tòng và Lệ Bích ta thấy được tấm lòng trung quân ái quốc của Thanh Tòng, lúc
gia đình gặp cơn nguy biến chàng cũng quyết đền ơn nợ nước.
Tự do là điều mà con người hằng mơ ước, vì ai cũng không muốn mình bị trối
buộc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nhưng trên thế gian này không có gì là viên mãn
mười phân vẹn mười, có tròn tất có khuyết, vì lý trí và con tim sẽ điều khiển thân xác
ta, cho dù bản thân không muốn nhưng cũng sẽ tự ràng buộc mình. Đến với tác phẩm
Tơ hồng vương vấn tác giả viết “…Vĩnh Xuân buồn rầu hết muốn đi chơi cứ nằm dàu
dàu như chim bị nhốt ở trong lồng cá bị sa vào rọ…”[38;81]. Tác giả đã chuyển đổi
yếu tố từ thành ngữ gốc “cá chậu chim lồng” sang ý nghĩa diễn đạt khác, sự tự do của
Vĩnh Xuân bị trói buộc bởi lí trí khi nghĩ đến cảnh nhà nghèo, mẹ cơ cực không tiền ăn
học. Vĩnh Xuân không còn biết vui sướng, cũng chẳng muốn vui chơi, tưởng mình như
chim, cá bị nhốt mất hết tự do.
Và nàng Lệ Bích và Xuân Lan lại bị Trần Ngan ngăn cản sự tự do “…Hai nàng
cũng như chim ở trong lồng, cá ở trong chậu làm sao thóat khỏi …” [33;106], trong
tác phẩm Nặng gánh cang thường ý nói lên cảnh tù túng, bó buộc, mất tự do. Thành tố
“chim” đối với “lồng”, “cá” đối với “chậu” lại chen yếu tố “ở trong” vào giữa thành
ngữ và lặp lại hai lần. Nội dung cũng vì Lệ Bích không tuân lệnh vua kết hôn cùng
Thanh Tòng, nên dẫn theo thể nữ Xuân Lan bỏ nhà trốn khỏi hòang cung, khi vào cảnh
rừng núi hoang du gặp phải tên vô loại háo sắc Trần Ngan dùng quyền lực con quan
mà toan cưỡng đọat trinh tiết. Thành ngữ trong ngữ cảnh ý nói hai nàng là phận gái
yếu đuối không sao thóat khỏi tay hắn. Với sự cấu tạo theo cách lồng chéo này, thì
thành ngữ của Hồ Biểu Chánh càng làm cho các yếu tố của thành ngữ kết hợp lại
vớinhau thành một thể thống nhất có âm điệu uyển chuyển, nhịp nhàng có hình ảnh
sinh động giàu tính biểu cảm.
Do hiện tượng có tính cân đối thể hiện rất rõ ở mặt đối ý, đối chữ hoàn chỉnh
giữa hai vế được dùng sau đây: “Lên voi xuống ngựa” là thành ngữ miêu tả con “voi”
do có vóc lớn, lại đường bệ dũng mãnh nên “voi” được liệt vào hàng bậc chúa sơn lâm.
Có lẽ cũng vì thế mà người đời dành cho “voi” một lòng kính trọng với vẻ thần bí nên
gọi là ông voi chăng? Còn đối với “ngựa” thì trái lại, dù sống rất gần với mọi người,
lại thuộc loại khỏe, nhanh chịu được đường dài, sa mạc,… thì “ngựa” vẫn thuộc hàng
yếu hơn “voi”. Nếu sống vào thời chiến quốc thì trên chiến trường người cầm binh
cưỡi “voi” đi đánh giặc, sẽ giành phần thắng nhiều hơn là cưỡi con tuấn mã. Và nếu kẻ
63
nào đóng vai trò của ngựa trong cuộc đời, thì sẽ chịu sự sai khiến, làm toai mọi con
người. Vì thế thành ngữ “Lên voi xuống ngựa” đã miêu tả một cách cô đọng hai
nghịch cảnh, biểu trưng cho sự thăng trầm của thân phận con người trong cuộc đời. Và
thành ngữ này được trích từ tác phẩm Tơ hồng vương vấn được viết “…Số người ham
tiền họ chỉ lo cho thân họ, lo cho hiện thời được lên voi xuống ngựa được ăn mặc rực
rỡ, được nhà cửa kinh dinh …” [38;180]. Ở đoạn văn này Hồ Biểu Chánh cố ý phê
phán những kẻ thờ ơ với thời cuộc chỉ biết lo tu bổ cho thân mình, thích ăn ngon mặc
đẹp, thích sống sung sướng, nhàn nhã mà quên đi trách nhiệm đối với đất nước.
“Sinh con đẻ cái” là thành ngữ miêu tả việc “sinh con đẻ cái” để nối dõi tông
đường. Từ “sinh”, “cái” trong thành ngữ gốc được thay bằng từ “sanh”, “cháu” xuất
hiện ở tác phẩm Cười gương “… Nay mai đây mẹ con tôi sẽ đi để cho cậu ở đây thông
thả mà cưới vợ giàu rồi sanh con đẻ cháu cho nhiều mà nối dòng…”[24;12], Tân
phong nữ sĩ có nói “…Thì sanh đờn bà con gái để hiệp với đờn ông con trai gầy dựng
gia đình, sanh con đẻ cháu, làm cho xã hội bền vững chớ sao?...[39;44], thành tố
“sinh”,“đẻ” đối ý và đối chữ với thành tố “con”,“cái”. Nội dung nói về cuộc vợ
chồng ăn ở với nhau là để “sinh con đẻ cái” nối dõi tông đường. Đó là một nhiệm vụ
thiêng liêng không ai có quyền chối bỏ. “Sinh con đẻ cái” còn có nghĩa vụ là phải răn
dạy cho con nên người có đức có học thức để sau lớn lên giúp ích cho gia đình xã hội.
Trong giao tiếp thì ngôn ngữ bao giờ cũng là phương tiện để đánh giá một con
người có đầy đủ phẩm chất và học vấn. Và trong tình chồng nghĩa vợ cũng vậy đòi hỏi
phải có sự thông cảm, hiểu nhau và phải “đồng tâm hiệp lực” thì mới “tát cạn biển
đông” cuộc sống sẽ hạnh phúc lâu bền. Nhưng thực tế vẫn thường trớ trêu, không thỏa
mãn hết ước mơ, nguyện vọng của con người, số phận luôn trêu chọc hồng nhan. Thu
Hà trong Khóc thầm có chồng mà cũng như không, cô buồn duyên tủi phận biết dường
nào, tưởng là gặp được một người chồng xứng đáng để cùng nhau hiệp lực, ra sức xây
dựng quê hương chăm lo tiến hóa cho quốc dân. Việc có chồng đã làm cho cô hoàn
toàn thất vọng, bởi vì cô luôn nắm chặt lòng thành thiệt, chồng thì chuốt ngót tiếng
phỉnh phờ “…Vợ thì ăn một đọi nói một lời, chồng thì nói một đường làm một ngã…”
[31;64], vợ chồng dường ấy làm sao mà gọi là “loan phụng hòa minh”. Thành ngữ
“Loan phượng hòa minh” nghĩa đen “Phượng loan là chim phượng, chim loan đang
hót, nghĩa bóng tượng trưng cho đôi lứa trai gái chung chạ ân ái với nhau”. Tác giả
dùng để nói cảnh vợ chồng hòa thuận yêu thương nhau, nhưng trong thành ngữ này Hồ
64
Biểu Chánh dùng nó trong sự đối lập với ý nghĩa sẵn có của bản thân để nói lên hoàn
cảnh éo le, bất hạnh của Thu Hà về cuộc tình duyên mà cô cứ ngỡ là sẽ mang đến cho
cô nhiều hạnh phúc. Nhà văn sử dụng thành ngữ này trong sự tương phản với ý nghĩa
của văn cảnh để nhằm vạch trần hiện thực xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Qua
đó tác giả còn phê phán đả kích gay gắt những người tự xưng là văn minh tiến bộ,
dùng lời nói đặt ngoài chót lưỡi đầu môi để thực hiện mưu đồ xấu xa của họ. Cách sử
dụng thành ngữ như thế vừa gây bất ngờ nơi người đọc, vừa thực hiện ý đồ của nhà
văn là lên án gay gắt xã hội thời đó.
Hầu như trong số thành ngữ có tính điệp và đối được Hồ Biểu Chánh dùng đều
là những cụm chẳn trục đối xứng là chờ ngắt giọng.
2.3. Mục đích sử dụng thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh.
Có thể nói Hồ Biểu Chánh là nhà văn cựu của làng văn học Việt Nam, do xuất
thân từ một gia đình nông dân, cuộc đời và sự nghiệp đều gắn liền với tầng lớp nông
dân. Cho nên đa số những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đều thể hiện một bút pháp tả
cảnh rất thực, phản ánh đúng thực trạng xã hội, khái quát toàn bộ một bức tranh sinh
hoạt của vùng đất Nam Bộ.
Đọc tác phẩm của Hồ Biểu Chánh ta thấy ngay ở lời đề tựa ông đều có sự lựa
chọn một cách tinh tế, cho đến cái tên nhân vật ông cũng có sự chắt lọc và đặt cho phù
hợp với tính cách và hành động. Không những thế Hồ Biểu Chánh còn có nghệ thuật tả
cảnh rất tài tình, tả cảnh mà thấu đáo được tâm trạng của nhân vật, từ những cánh
đồng, con đường mòn, những ngôi nhà lá, nhà ngói cổ xưa, … tất cả hiện lên ngay
trước mắt người đọc. Để thấy được nét tinh vi cùng thủ pháp tả cảnh của tác giả, chúng
ta đi vào khai thác thành ngữ miêu tả thiên nhiên để thấy được điều kì diệu và sự tinh
tế trong cách dùng thành ngữ của ông.
2.3.1. Thành ngữ miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh.
Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh toát lên từ một thực trạng xã hội có hai giai cấp
đối lập nhau, mỗi tác phẩm điều mang hơi thở của một làng quê với không khí mát mẽ
trong lành do dòng sông Hậu Giang mang lại. Tuy vô hình nhưng thấm đượm những
tình cảm tha thiết gắn bó giữa người với người, và hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong
tác phẩm đều chứa đựng một tình cảm thật nồng nàn sâu lắng. Từ những cánh đồng
ruộng lúa trải rộng qua hai mùa mưa nắng, dường như nó luôn sinh sôi nảy nở, và có
đôi tay khéo léo của những người lao động cần mẫn làm cho chúng trở nên có hồn, có
65
sức sống và từng cộng cỏ miếng đất ở đây đều gắn bó mật thiết với người dân nghèo.
Điều đó chứng tỏ tác giả không chỉ thành công trong việc miêu tả thiên nhiên luôn có
sức sống có hồn, cho đến tâm lí tính cách nhân vật ông cũng khai thác rất cụ thể trong
từng ngữ cảnh.
Chẳng hạn như: ở tác phẩm Con nhà nghèo thành ngữ miêu tả thiên nhiên
“Mưa thuận gió may” nguyên mẫu là “Mưa thuận gió hòa” xuất hiện trong ngữ cảnh
khi Cai Tuần Bưởi đi thăm ruộng về với niềm hân hoan thấy được ruộng lúa năm nay
có mòi tốt hơn năm vừa rồi, nên anh có ý mừng thầm là mình khỏi phải xa nhà đi ghe
mướn nữa, mà thầm dang vái trời cao thương thân phận cực khổ của con nhà nghèo
“…Vái trời mưa thuận gió may như vậy hoài cho tôi thì tới mùa ruộng mình không
mất 500 giạ lúa…” [23;9]. Thành ngữ “Mưa thuận gió may” là ý nói về thời tiết rất
thuận lợi, khí trời trong lành, để cho người lao động được dễ dàng canh tác, tiết trời
ấm áp như thế này thì chắc cả năm sẽ “Mưa thuận gió hòa”. Ở đây tác giả dùng “Mưa
thuận” là thời tiết tốt thì ruộng lúa trúng lớn còn “gió may” là ý nói sự may mắn của
con nhà nghèo sẽ không sợ đói nữa, mà còn có lúa để đong cho điền chủ, biết đâu đỡ
được cảnh nghèo cơ cực, và điều ao ước đó đã thành sự thật Cai Tuần Bưởi đã được
tội nguyện.
Hay thành ngữ “Dầm mưa dang nắng” xuất hiện trong văn cảnh “ …Ruộng
cũng cứ cấy lúa, tá điền cũng dầm mưa dang nắng trót năm…”[23;197] là sự chịu
đựng vất vả của những người nghèo, mà đặc biệt là tầng lớp nông dân sống dưới sự áp
bức của địa chủ chịu sự cực khổ, không ngại nắng mưa gian khổ sương gió qua nhiều
năm tháng. Từ “Dầm mưa dang nắng” đã được Hồ Biểu Chánh phản ánh đậm nét tất
cả những con người sống lúc đó như Hội đồng, địa chủ, quan lại, tá điền, thông ngôn,
kí lục,… những người giàu họ chỉ biết sống phong lưu thỏa mãn những ham muốn dục
vọng cá nhân, còn ngược lại người làm thuê, làm mướn tá điền thì nghèo khổ vậy mà
cuộc sống họ vẫn thiếu trước hụt sau. Cho nên lúc nào người giàu cũng được hưởng
phần lợi lớn, họ hưởng cuộc sống sung sướng còn người nghèo thì phải chịu cực khổ.
Thế nhưng một lúc nào đó họ có nghĩ đến sự khổ cực và chút thương xót con người
nghèo chăng?
Ở tác phẩm Con nhà nghèo Hồ Biểu Chánh sử dụng thành ngữ “Dầm mưa dang
nắng”, nhưng khi đến với tác phẩm Chúa tàu Kim Qui đã được thay thế “Dầm mưa
trải nắng”. Tuy thành ngữ được sử dụng giống nhau cùng một ý nghĩa miêu tả sự khổ
66
cực của người lao động, nhưng ở tác phẩm Chúa tàu Kim Qui ta sẽ thấy rõ được phần
nào sự cơ cực hơn. Tác giả đã thay thế từ “dang” thành từ “trải” là cố ý làm cho sự
chịu đựng nắng mưa sương gió đã quen rồi, và họ đã từng trải nghiệm sự cực khổ đó
nhiều hơn, nên họ không còn sợ khổ cực nữa. Thành ngữ “Dầm mưa trải nắng” đã
khái quát được những nỗi gian truân của người dân cam chịu mọi khó khăn của thời
tiết để cày bừa kiếm sống. Quan hệ của người giàu và người nghèo là quan hệ bóc lột,
“cái thương của người giàu chỉ là lợi dụng, là vui chơi, dầu ai tan nhà nát cửa mặc ai,
khổ thân lao lực mặc ai, dù ai ô danh xủ tiết mặc ai”. Họ bắt người nghèo làm đến
cháy da bỏng trán sinh ra phần lợi nào là họ lấy hết. Việc sử dụng thành ngữ “Dầm
mưa trải nắng” đã thể hiện được sự chịu thương chịu khó của những con nhà nghèo.
Gia đình anh Cai Tuần Bưởi không quản ngại gian khổ, quanh năm cặm cuội với nghề
làm ruộng hễ làm ra ba phần lợi thì họ lấy hết hai.
Còn trong Chúa tàu Kim Qui thì“…Rồi nói với Thủ Nghĩa rằng mình nay già cả
làm nghề chày lưới dầm mưa trải nắng nữa không nổi mà thấy Thủ Nghĩa có nét siêng
năng có tính trung hậu thì thương…” [25;64]. Chỉ sự vất vả, cơ cực của những người
sống ở làng chày, phải cam chịu mọi khó khăn của thời tiết. Vì cuộc sống mưu sinh
phải vượt hiểm nguy ngoài sông biển, để đổi gạo qua ngày vất vả từ ngày này sang
ngày khác. Bác thuyền chày này đã tận tâm với nghề đánh cá, làm đến khi sức khỏe
cạn kiệt Bác mới chịu dừng. Bởi cảm mến lòng trung hậu của Thủ Nghĩa nên Bác đã
chỉ dạy nghề chày lưới của mình cho Thủ Nghĩa, để tiếp tục nghề của ông mà mưu
sinh. Phạm Kinh Chi là em rể của Thủ Nghĩa vì tình bằng hữu, tình nghĩa anh em với
gia đình Thủ Nghĩa cũng “Dầm mưa dang nắng” sống bằng nghề chèo đò đưa khách
sang sông, lao lực cực thân vì chén cơm manh áo. Hằng ngày phải kiếm tiền bằng cách
đó, dù thời tiết có thay đổi Kinh Chi vẫn làm đến cùng hễ có khách là anh ta không sợ
cực khổ.
Ở tác phẩm Đóa hoa tàn có đoạn nói “…Ảnh dầm mưa dãi nắng khổ cực hết
sức mà cũng không ăn xài chi hết …”[33;44]. Không những thành ngữ “Dầm mưa dãi
nắng” chỉ dành cho những người nghèo mà còn được tác giả dùng cho những con
người giàu, Thái Hòa con ông Cai Tổng Bình là người giàu có sang trọng, thế nhưng
vì xuất thân là con nhà nông, nên bản tính ham làm chứ không ham chơi, dù biết gia
đình dư ăn dư mặc, nhưng Thái Hòa vẫn miệt mài với nghề làm ruộng vẫn “Dầm mưa
dãi nắng” như những tá điền. Nguyễn Hải Đường cũng thế anh ta là con nhà nghèo,
67
với lòng hiếu học đã được thành tựu với bằng cấp Kỹ Sư Bác Vật, nhưng Hải Đường
vẫn tham gia công việc đồng án khổ cực “…Ông lội trong ruộng ở trong rừng dãi
nắng dầm mưa cực nhọc đáo để mà ông cũng không lấp mạch sầu được…”[33;98].
Bởi Hải Đường thất tình uất chí nên phải tự đọa đày bản thân, không hưởng vinh hoa
phú quý, mà cam chịu cơ cực “Dãi nắng dầm mưa” với người lao động.
Có thể nói Hồ Biểu Chánh rất thành công trong việc sử dụng thành ngữ vào
nhiều tác phẩm. Từ “Dầm mưa dang nắng” Hồ Biểu Chánh có thể khai thác và đảo vị
trí cho phù hợp với tình huống hoàn cảnh nhân vật. Từ người nông dân nghèo cho đến
những đứa trẻ, tá điền, con nhà giàu sang như Thái Hòa, Kỹ Sư Bác Vật như Hải
Đường,…có hoàn cảnh khác nhau nhưng họ vẫn chung một mục đích là cuộc sống
mưu sinh, gắn bó đời mình với đồng ruộng. Thiên nhiên có khắc nghiệt và thay đổi thế
nào thì họ không sợ khó khăn chịu thương chịu khó để làm lụng kiếm ăn, đọc tác phẩm
chúng ta càng thấy thương xót và cảm thông cho họ nhiều hơn. Điều đó làm cho chúng
ta thấu hiểu được ở Hồ Biểu Chánh luôn có sự cảm thông thương yêu sâu sắc đối với
người dân nghèo.
Nếu việc miêu tả thiên nhiên bằng câu lý luận suông thì lời văn trở nên dài
dòng khó hiểu, nhưng nếu dùng một câu thành ngữ thay thế thì câu văn sẽ trở nên
bóng bẩy, có sức thuyết phục cao. Trước cảnh đẹp của ánh trăng lan tỏa và luồng gió
dịu mát, tác phẩm Đoạn tình Hồ Biểu Chánh đã dùng thành ngữ “Trăng trong gió mát”
để miêu tả khỏang không gian mơ mộng đã làm cho lòng Thuần xao động trước vẻ đẹp
yêu kiều của cô Vân. “Thanh phong minh nguyệt” chỉ cảnh thiên nhiên tươi đẹp có sự
kết hợp của “trăng thanh gió mát” trời đẹp, được tác giả đưa vào văn cảnh “…Tại anh
thích thanh phong minh nguyệt gặp cảnh như vậy anh sanh cảm trong lòng …”[29;87].
Thành ngữ miêu tả thiên nhiên là thành ngữ quá quen thuộc, thành ngữ này đã được
nhà văn nhà thơ sử dụng vào sáng tác của mình, ta bắt gặp thành ngữ “Gió mát trăng
trong” trong câu thơ miêu tả thiên nhiên của truyện Kiều, khi nàng Kiều và chàng Kim
Trọng đang tâm tình với nhau, nên nhìn cảnh sinh rằng :
“Gió mát trăng trong
Bấy lâu một chút lòng chưa cam.”
Nguyễn Du dùng thành ngữ “Gió mát trăng trong” thì Hồ Biểu Chánh dùng
thành ngữ Hán Việt “Thanh phong minh nguyệt”. Cả hai thành ngữ này cùng một
nghĩa, nhưng để dùng thành ngữ cho phù hợp với ngữ cảnh, thì Hồ Biểu Chánh đã có
68
sự cân nhắc rất kỹ. Nhân vật Thuần vốn vĩ là một người trí thức, Vân cũng là người
yêu thơ ca, cả hai đều trọng tài trọng sắc lẫn nhau, nhưng tiếc là tình yêu không đúng
lúc. Thuần dầu sao cũng có vợ nhưng vốn là người đa tình đa cảm, lại gặp cảnh thiên
nhiên hữu tình diễm lệ Thuần thấy tình dao động. “Thanh phong minh nguyệt” là cảnh
“gió mát trăng trong” chính cái cảnh nên thơ này, đã được Nguyễn Du chọn làm điểm
đánh dấu tình yêu của Thúy Kiều Và Kim Trọng. Đồng thời được Hồ Biểu Chánh
chọn làm cảnh nên thơ để thể hiện tình cảm và sự yêu thương của Thuần, khi đứng
trước một người con gái đa tài như Vân, vợ chồng Thuần thường xuyên bất hòa với
nhau về quan điểm, nên trong lòng anh đang đau buồn lại gặp được người tri kỷ, lại
thêm cảnh đẹp thơ mộng của thiên nhiên, càng làm cho lòng Thuần sinh cảm với cô
Vân nhiều hơn. Và tác giả còn dùng thành ngữ “Gió mát trăng trong” để miêu tả tình
cảm thật nồng nàn của vợ chồng Ánh Nguyệt với Hải Yến trong Ngọn cỏ gió đùa ông
dùng “…Gặp giữa trăng trong gió mát vợ chồng nhắc ghế dựa mấy bụi bông rồi mặt
nhìn nhau vịnh phú ngâm thi…”[34;172]. Qua đây ta thấy được giá trị đặc sắc của việc
dùng thành ngữ miêu tả thiên nhiên của Hồ Biểu Chánh, chứng tỏ tác giả đã có sự chắt
lọc tinh tế, khi xây dựng hòan cảnh tình huống và diễn biến tâm lý nhân vật khá thành
công.
Nhìn chung, ở mỗi tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đều có sự phân biệt rõ ràng,
mỗi thành ngữ điều chứa đựng một ý nghĩa khác nhau, ông luôn có sự lặp đi lặp lại
những thành ngữ. Qua đó ta thấy được biệt tài sử dụng thành ngữ ở từng hoàn cảnh và
ngữ cảnh, tuy có sự khác nhau song vẫn mang ý nghĩa chung, làm bật nổi sự chịu đựng
khổ cực của người dân nghèo. Cũng bởi xuất thân trong chốn bần cố nông nên tính
chịu đựng gian lao rất phi thường, khi gặp phải gian nan thì tinh thần tự vươn lên ngày
càng cao để vượt qua khó khăn thử thách. Từ thành ngữ Hồ Biểu Chánh đã thể hiện
được sự vất vả cần lao trong công việc, điều đó chứng minh cho ta thấy được những
sản phẩm do bàn tay bé nhỏ của những người lao động nghèo khó làm nên thật gian
nan. Vì vậy ta cần phải trân trọng những giá trị của người lao động phải đánh đổ bằng
sức lao động mà có. Chính vì lẽ tự nhiên giúp ta thấy được quan niệm, cách nghĩ, lối
sống của con người và hình ảnh thiên nhiên làm cho chúng ta có cảm giác quen thuộc
gần gũi với đời sống của dân tộc. Thành ngữ thể hiện đậm nét văn hóa dân tộc gắn với
con người và quê hương Việt Nam.
2.3.2. Thành ngữ miêu tả nhân vật trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh.
69
Hồ Biểu Chánh không chỉ thành công trong việc sử dụng thành ngữ miêu tả
thiên nhiên, mà việc miêu tả ngoại hình tâm lý, tính cách nhân vật còn độc đáo hơn,
ông đã khái quát toàn bộ đức tính cao đẹp của người Nam Bộ. Bên cạnh đó, ông còn
lột tả bản chất xấu xa đen tối của bọn địa chủ, bọn quan lại tham ham ô, kẻ háo sắc,…
tất cả được tác giả khẳng định một cách toàn diện và khai thác rõ ràng từng ngõ ngách.
2.3.2.1. Thành ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật.
Nhìn qua hệ thống nhân vật trong các tác phẩm ta thấy được phần lớn các nhân
vật được tác giả xây dựng đều đẹp, đẹp cả về ngoại hình cũng như tính cách. Trong
hàng loạt các nhân vật nếu là phụ nữ thì xinh đẹp, thông minh và đầy cá tính như: nàng
Lệ Bích, Túy Nga, Thu Hà, Thu Vân,… tượng trưng cho vẻ đẹp Việt Nam.
“Da”, “môi” trong thành ngữ “Da trắng môi son” trong tác phẩm Sống thác
với tình được nhà văn miêu tả “…Một thiếu phụ cỡ tuổi cô Lê áo lụa quần hàng da
trắng môi son diện mạo thanh bai, tướng đi yểu điệu, ở trong rừng phía sau chồi đi ra
trảng…”[37;18]. Miêu tả người phụ nữ có ngoại hình xinh đẹp “Da trắng môi son” là
vẻ đẹp thiên nhiên được trời ban tặng chứ không phải là vẻ đẹp tự tạo. “Dáng vẻ thanh
bai” tức là dáng người nho nhã, nhìn vào biết ngay một vẻ đẹp của con nhà thế phiệt
trâm anh. “Hình dung yểu điệu” là thân hình mảnh dẻ yếu đuối, mền mại, uyển chuyển
và duyên dáng. Thành ngữ miêu tả cô Thiên Hương có một vẻ đẹp thiên nhiên mang
nét đẹp thanh lịch nho nhã “Da trắng” là nước “Da trắng như tuyết”, “Môi đỏ như
thoa son”. Còn cô Lê có nước “Da trắng nõn” là màu trắng nõn nà, mềm mại, một vẻ
đẹp thanh nhã, của một trang thiếu phụ, tuy đã trải qua nhiều vất vả gian lao, đã làm
mẹ mà nét đẹp của Thiên Hương và Lê vẫn không thay đổi. Hồ Biểu Chánh không chỉ
miêu tả nét đẹp dịu dàng của các thiếu phụ mà cả những đứa bé cũng thế, các cô gái
con nhà nghèo hay giàu đều có một nét đẹp riêng.
Chẳng hạn như: Thu Vân trong Chút phận linh đinh, Ánh Nguyệt Ngọn cỏ gió
đùa, Thu Hà Khóc thầm, Túy Nga Đóa hoa tàn, Lệ Bích Nặng gánh cang thường, Thu
Thủy Chúa tàu Kim Quy, Cúc Hương và Cẩm Nhung Tơ hồng vương vấn, Bạch Tuyết
và Băng Tâm Ai làm được, Thanh Kiều Tiền bạc bạc tiền, Yến Tuyết Tỉnh mộng,…
không những tác giả miêu tả đặc sắc những cô mỹ nữ, mà hầu hết các nhân vật nam
trong tác phẩm cũng tương đồng với nhau, đều xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng là
những chàng trai thông minh, tài trí, cá tính mạnh mẽ, nhân cách cao thượng và luôn
mưu cầu hạnh phúc như: Hải Đường Đóa hoa tàn, Vĩnh Thái Khóc thầm, Vĩnh Xuân
70
Tơ hồng vương vấn, Chí Đại và Trường Khanh Ai làm được, Kỳ Tâm và Trường Xuân
Tỉnh mộng, Chánh Tâm và Trọng Quí Vì nghĩa vì tình, Thanh Tòng Nặng gánh cang
thường, Hải Yến và Thể phụng Ngọn cỏ gió đùa, Bá Kỳ và Hiếu Liêm Tiền bạc bạc
tiền, Thủ Nghĩa và Kỉnh Chi Chúa tàu Kim Qui, Anh Cu Con nhà nghèo…
Thành ngữ “Da trắng môi son” trong Chút phận linh đinh được tác giả miêu tả
vẻ đẹp thiên nhiên của Thu Cúc, vẻ đẹp thơ ngây trong trắng “…Ngó Thu Vân rồi ngó
Thu Cúc thấy mẹ con y phục lam lũ, mà mẹ bàn tay dịu nhĩu bàn chơn trắng nõn, còn
con mặt mài sáng rỡ, da trắng môi son, thì lấy làm lạ…”[22;96], và nét đẹp của Thu
Vân con Ánh Nguyệt lúc mới biết nói biết cười “…Con thiệt là ngộ nghĩnh môi đỏ như
thoa son mắt sáng ngời như sao đóng, nước da mỏng mà trắng nõn, cườm tay mà no
tròn, diện mạo giống hệt Từ Hải Yến như khuôn đúc…”[34;196].
Còn ngoại hình của Thu Hà trong Khóc thầm nằm ở “…Bàn tay cô dịu nhĩu, da
mặt trắng ngần…”[31;7]. Cô Năm Đào trong Vì nghĩa vì tình thì “…Cô đương hồi
xuân xanh như hoa vừa nở như trăng đương tròn, da trắng môi son, má miếng bầu,
mày vòng nguyệt …”[44;34]. Cô Túy Nga ở Đóa hoa tàn thì “…Môi đỏ như thoa son,
da trắng như giồi phấn, mặt sáng rỡ như hoa tươi, tóc láng mướt như huyền
dồi…”[30;10]. Nét đẹp của Ánh Nguyệt trong Ngọn cỏ gió đùa được miêu tả như thế
này: “…Mặt nàng không dồi phấn mà trắng hồng hồng, môi nàng không thoa son mà
ửng đỏ; hàm răng nàng khít khao mà lại trắng trong; chơn mày nàng cong vòng mà
lại nhỏ mức; ngón tay nàng dài nhọn như mũi viết, lại thêm phao hồng
hồng…”[34;88]. Tuy là con gái nhà nghèo nhưng nết na dè dặt, ăn nói hẳn hòi, lòng
sạch trơn không để đóng bợn nhơ, trí ngay thẳng không ưa điều giả dối, đã vậy mà
nàng có ngón đờn tươi văn học rộng, dầu nát thân cũng còn ôm chữ hiếu, dầu ngàn
lượng không đổi chữ trinh, cuộc sống lam lũ mà nét đẹp chẳng thua gì con nhà thế
phiệt bởi hồng nhan đa truân nên nàng mắc mưu kẻ lừa lọc mang lầm duyên trao thân
đến nỗi phải muốn tự vẫn quên sầu đau khổ. Thu Vân cô con gái gặp nhiều long đong
của Ánh Nguyệt, khi lớn nàng cũng có nét đẹp chẳng thua vì mẹ “…Nước da trắng đỏ,
mái tóc đen thui, cặp chơn mày nhỏ mức mà cong vòng, cặp con mắt hữu tình ….răng
trắng nõn lại thêm môi son che đậy, má miếng bầu lại có núng hai đồng
tiền…”[34;478]. Từ thành ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật ta bắt gặp ở câu thơ miêu
tả ngoại hình của hai chị em Thúy Kiều như:
Vân xem trang trọng khác vời,
71
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kém xanh.
Giữa Nguyễn Du và Hồ Biểu Chánh nếu so sánh sẽ có sự khác biệt rất nhiều, ta
thấy lối bác học ở Nguyễn Du khi vận dụng nghệ thuật miêu tả ngoại hình rất rõ ràng,
và xa lạ với cách miêu tả truyền thống diễn đạt của Hồ Biểu Chánh. Nguyễn Du thì
dùng lối bác học với lời văn sáng giá nhất, còn với Hồ Biểu Chánh lại dùng lối bình
dân nhưng cả hai đều có sự kết hợp những ngôn ngữ tiếng Việt của dân tộc. Và có
điểm sáng tạo cá nhân nên cả hai đều có sự nổi bật và đạt thành công cho lĩnh vực văn
học của mình.
Hầu như trong mỗi tác phẩm của Hồ Biểu Chánh thì đa số những phụ nữ đều
xinh đẹp, mỗi người mang một vẻ đẹp khác nhau: cô Thu Hà, cô Túy Nga, Ánh
Nguyệt, Thu Vân,… là những cô gái tân học vừa có sắc, vừa có học thức nhưng duyên
phận lại vô duyên, đều gặp phải những ông chồng ham danh lợi, dục vọng làm khổ vợ
con nhưng số phận khác nhau. Thu Hà thì tiếp tục học và giúp nhiều công ích cho quê
hương đất nước, cô đem tài học của mình để giúp đỡ đồng bào vượt qua khó khăn và
nâng cao trí thức. Còn Túy Nga tình duyên lở dở cô an phận thủ thường vui tạm ngày
tháng với cầm thi, cuối cùng được hưởng hạnh phúc với người mình yêu. Còn Thiên
Hương với Lê, cô Năm Đào,… là những phụ nữ trọng danh tiết trọng danh nghĩa, tuy
cảnh đời khác nhau nhưng vẫn giữ được tiết sạch danh thơm. Riêng Thiên Hương và
Năm Đào cả hai gặp cảnh đời bất hạnh chồng chết, vẫn một lòng chung thủy và ở vậy
nuôi con. Lê tuy bất hạnh song nết na đằm thắm lại bị bên chồng bỏ rơi mẹ cha từ bỏ,
nhưng vì tình yêu chung thủy nên hưởng trọn hạnh phúc suốt đời. Còn Ánh Nguyệt là
phụ nữ có sắc có nết nghèo khổ lại mồ côi, ở đợ trả nợ cho cha, quyết giữ danh tiết
không ham giàu mà làm nhục tổ tiên, dù bị Hải Yến buông lời chọc ghẹo mà nàng
chẳng mảy may một lời, do số phận bất hạnh cuộc đời nghèo khổ của một cô gái xinh
đẹp bị chồng vô tâm bội nghĩa dứt tình phu thuê, thật đúng với câu nói của người xưa
“hồng nhân bạc phận”. Còn Thu Vân lại may mắn hạnh phúc hơn mẹ, bởi Thu Vân
72
sống trong sự đùm bọc của mọi người, đặc biệt là đại ân nhân Trần Chánh Tâm chánh
tức Lê Văn Đó là người có số phận bi đát nhất. Cúc Hương là cô gái xinh đẹp nết na,
trọng tình trọng nghĩa, chịu cực khổ nuôi người yêu ăn học và chết trọn nghĩa vì người
yêu. Đó là đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, còn Cẩm Nhung là loại phụ
nữ có sắc song không có nết lại đánh mất phẩm giá tiết hạnh làm bại hoại gia
phong,…Thị Lựu trong Cha con nghĩa nặng, Thị Sen Khóc thầm là điển hình nhưng
đây chỉ là số ít. Đa số đều là những phụ nữ đầy đủ đức tính “công dung ngôn hạnh”.
Còn đám thanh niên thì có Hải Đường, Vĩnh Xuân, Lý Chánh Tâm, Lữ Trọng Qúi,
Thể Phụng, Vĩnh Xuân,…là những gương mặt đáng ngợi ca.
Còn những loại người háo sắc ham danh như: Cậu Hai Nghĩa chuyên đi phá
danh tiết con gái nhà nghèo mà Cô Tư Lựu là nạn nhân. Vĩnh Thái tàn ác ức hiếp dân
nghèo bóc lột công sức của người lao động lại còn dâm bôn lấy vợ tá điền. Hải Yến vì
say đắm Ánh Nguyệt đến nỗi bỏ ăn bỏ ngủ, bỏ đèn sách đến nỗi không phiền gì bị
nhục không tởn nghĩ chẳng lạ gì, là con nhà học trò Hải Yến không trân trọng ái tình,
đã không biết tăng cao phẩm giá của người mình yêu, mà lại bày kế ngụy quân tử dùng
chước xảo mà làm cho phỉ tình dục của mình, người dường ấy chưa đáng vào bực “đa
tình nhơn”. Phùng Xuân vì ham tiền của vợ bán rẻ lương tâm: hút sách, đàng điếm, bài
bạc,…biết vợ không còn thương nhưng vẫn cố ở lì, nhận con của vợ làm con của
mình. Trường Xuân thì lợi dụng tình anh em họ mà dụ dỗ Yến Tuyết phải ố oen danh
giá làm nhục tổ tông vậy mà không biết ăn năn. Trần Tấn Thân có hành vi vô liêm sỉ
bắt cóc Thị Xuân em gái Thủ Nghĩa cưỡng hiếp để thỏa mãn sắc dục,…Đây là những
tên vô loại đáng bị nguyền rủa, sống để làm đảo lộn trật tự xã hội. Đa số tác phẩm Hồ
Biểu Chánh đều kết thúc có hậu, thiện ác được chia làm hai tuyến đối lập nhau, ở hiền
luôn được hưởng hạnh phúc, ở ác gặp quả báo và bị trừng phạt. Bởi vì ông luôn có ý
thức thiết lập nhân vật chính diện để đề cao cái đẹp cái thiện, phủ định cái ác. Trong
tác phẩm của ông không chỉ có một màu đen xám xịt mà còn có màu hồng tươi sáng
của tâm hồn đẹp, đưa con người hướng tới một tương lai, một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thành ngữ “Xanh như tàu lá” ở tác phẩm Sống thác với tình được trích ở ngữ
cảnh “…Hôm trước nó thưong nhớ con quá ăn ngủ không được ốm như tàu
lá…”[39;193]. Nó còn xuất hiện trong Con nhà nghèo thì “… Cô Tư Thục tuy vóc lớn,
nhưng mà cô bỏ ăn bỏ ngủ trong mấy ngày thì ốm teo như tàu lá người xốp ve, đi ngã
tới,…”[25;329], miêu tả thân hình ốm yếu, gầy gò, người xanh xao, không có sức sống
73
người ốm teo mà lại “Xanh như tàu lá”. Cũng bởi do Thu Thủy nhớ thương Xuân Sơn
bỏ ăn bỏ ngủ tự hành hạ thân xác của mình, còn Cô Tư Thục cũng thế quên ăn quên
ngủ vì nhớ thương Quan Kinh Lý, uất ức gì bị từ hôn nhưng cô nào có biết đâu hậu
quả là do cha nàng gây ra, vì hai người là anh em cùng cha khác mẹ. Bởi hai cô có
chung một tâm trạng thất tình uất chí, cứ ngỡ người mình yêu bỏ mặt mình nên không
còn thiết sống làm cho thân xác ốm teo như tàu lá, một con người mà không có sức
sống cứ nuôi ý nghĩ chết thì làm sao khỏe mạnh được. Hay nàng “…Thái Cẩm Vân
ngồi bên đó đầu trọc lóc mình ốm teo nàng cúi mặt xuống …[44;41], Cẩm Vân vì nỗi
giận chồng, nỗi đau mất con nên nàng buồn khổ, thân hình ốm teo chứ không phải như
Thu Thủy với Tư Thục.
Qua đó ta thấy được nghệ thuật sử dụng thành ngữ của Hồ Biểu Chánh rất tài
tình và độc đáo, ông đã diễn tả được đầy đủ một con người đầy đặn, một khuôn mặt
khả ái, dáng đi yểu điệu của các cô gái, cứng cỏi mạnh dạn của các chàng trai. Hay
một thân hình khô héo của người bệnh hoạn…Nếu chúng ta để ý một chút sẽ thấy
phần nhiều những cô gái trong tác phẩm đều mang vẻ đẹp tự nhiên quyến rũ, thêm nét
tự trang điểm cho mình làm say đắm lòng người. Còn những nhân vật nam thì nho nhã
thư sinh đôn hậu, cộng thêm học thức uyên bác làm cho dáng người thanh lịch tương
xứng với những cô mỹ nữ. Tất cả nhân vật nam hay nữ đều xinh đẹp cân xứng phù hợp
với từng nếp sống với nhau, ngây cả ông già bà lão cũng mang một vẻ đẹp hiền từ
phúc hậu, còn những người có ngoại hình cũng tương xứng lại mang bản chất xấu xa
đê tiện mà tôi vừa trình bày phần trên. Hồ Biểu Chánh đã chọn lọc kỹ càng từng nhân
vật mang một vẻ đẹp riêng mà kết hợp với nhau tạo thành một thành ngữ “Nam thanh
nữ tú” càng làm cho cốt truyện có phần hấp dẫn lôi cuốn người đọc.
2.3.2.2. Thành ngữ miêu tả tâm lý tính cách của nhân vật.
Hồ Biểu Chánh đã thành công trong việc khai thác triệt để tâm lý tính cách
nhân vật để làm rõ nội dung tác phẩm, mà còn thấu đáo và hiểu sâu sắc hơn từng suy
nghĩ của mỗi nhân vật. Chẳng hạn thành ngữ: “Mặt ủ mày chau” xuất hiện rất nhiều
trong các tác phẩm, thành ngữ đã bộc lộ rõ nét tâm tư tình cảm của mỗi nhân vật đều
khác nhau, nhưng lại có động tác “Mặt ủ mày chau”.
Thành ngữ xuất hiện trong Chúa tàu Kim Qui nằm ở ngữ cảnh “…Như ai đem
bức tranh thảm sầu mà treo trước mắt nên chau mày ủ mặt rồi đổ quạu mà đáp một
cách rất cộc cằng …”[25;142], nội dung miêu tả tâm lý nhân vật Lê Thủ Nghĩa với vẻ
74
mặt buồn rầu đau khổ. Thành ngữ xuất hiện trong hoàn cảnh này là Thủ Nghĩa đang
nhớ tới cảnh đau thương bị mất người thân, tâm trạng khó chịu khi người khác tìm
hiểu lai lịch của mình, nên khi nghe Thu Thủy hỏi thì anh ta như bị ai đâm trúng vết
thương lòng và nỗi oán thù càng thêm nặng. Thành ngữ “Mặt ủ mày chau” còn được
dùng trong Ngọn cỏ gió đùa để miêu tả anh nông dân “…Lê Văn Đó đi một mình mà
hễ nhớ tới việc nhà thì lại châu mày ủ mặt …” [34;39]. Không chỉ có Lê Thủ Nghĩa
đau buồn vì mất người thân và bị án oan mười một năm tù, mà Lê Văn Đó cũng thế
anh ta vì thương mẹ, chị dâu và các cháu, nên anh trở thành kẻ trộm chỉ vì trã cháo heo
bị kết án năm năm tù giam, và tội vượt ngục vì nhớ thương mẹ già cùng các cháu nên
anh bị kết án hai mươi năm tù. Nỗi đau đớn phải xa người thân và công lý khắc khe đã
đưa đẩy một con người hiền lương đi vào tù tội. Không người chia sẻ Lê Văn Đó chỉ
biết đau buồn một mình.
Và nàng Lệ Bích trong Nặng gánh cang thường cũng “Mặt ủ mày chau” được miêu
tả “…Lệ Bích đương vui mà nàng nghe chàng xin quên hờn …thì nàng châu mày ủ
mặt ngồi ngẫm nghĩ …”[33;174]. Nội dung nói lên nỗi đau buồn của nàng Lệ Bích khi
nhớ đến người chồng hứa hôn đã giết chết cha nàng, thì thử hỏi làm sao nàng quên
được mối thù giết cha. Lệ Bích làm sao có thể chung sống với kẻ thù, nàng khó xử
giữa bên hiếu bên tình nên nàng lộ rõ nét buồn đau khổ. Tác phẩm Tơ hồng vương vấn
cũng xuất hiện “…Ngó năm chữ xá sanh nhi thủ nghĩa với hai chữ Cúc Hương cậu ủ
mặt châu mày ruột gan lạnh ngắt…”[38;160]. Từ thành ngữ trên chúng ta đủ thấy
được nỗi buồn của Phan Vĩnh Xuân khi mất người yêu, cậu ta quyết thủ tiết và nhớ
thương sâu sắc nàng Cúc Hương. Không những thành ngữ “Ủ mặt mày chau” miêu tả
vẻ buồn rầu mà còn bộc lộ nỗi thương xót nuối tiếc người yêu không ở cạnh mình,
cùng chung hưởng niềm vui hạnh phúc .
Và “…Thằng Quỳ chau mày xịu mặt nói rằng chị tao để con Lựu té nên má tao
đánh nó …”[44;95]. Tác giả không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lý của những
người lớn mới biết lo nghĩ lo làm, mà ngay cả những đứa trẻ thơ bụi đời như thằng
Quỳ với thằng Hội là những đứa chỉ biết ham chơi mà thôi. Nhưng ở tác phẩm này tác
giả lại khắc họa đậm nét Thằng Quì mới chỉ mười hai tuổi cũng biết đau buồn, khi
chứng kiến cảnh bà mẹ ghẻ hành hạ đánh đập chị của nó, nó không biết vui sướng gì
nữa mà nét mặt mếu máo đang khóc, khi nó nhận ra người thân yêu của nó bị đánh đập
bởi bàn tay ác độc của bà mẹ ghẻ, mà chính nó đã từng chịu những cực hình đó.
75
Bên cạnh đó, thì: “…Lê Thủ Nghĩa ra khỏi xóm rồi ruột gan đau như cắt nước mắt
dầm dề tay đấm ngực miệng kêu trời xem ra lấy làm thảm thiết lắm…”[25;59]. Thành
ngữ gốc “Nát ruột nát gan” được nhà văn biến âm thành “Ruột gan như cắt” miêu tả
nỗi đau tột độ của Thủ Nghĩa sau mười một năm bị tù tội, nay trở về quê nhà lại gặp
cảnh nhà cửa tan hoang lại mọc lên ba mô đất, thì anh ta đau đớn không còn muốn
thiết sống khi những người thân yêu duy nhất đã không còn, anh ta nghĩ sống để làm
gì. Và rồi cuối cùng Thủ Nghĩa cũng thấu hiểu được nỗi đau mất người thân, và quyết
đi tìm cuộc sống mưu sinh để đền ơn cho người em rể là Kỉnh Chi, trả oán kẻ đã hãm
hại mình phải “Tan nhà nát cửa”. Hồ Biểu Chánh đã đẩy nỗi đau mà Thủ Nghĩa từng
hứng chịu trả về cho Trần Tấn Thân, là một kẻ ác độc nhiều mưu mô xảo quyệt đã
hảm hại Thủ Nghĩa phải lìa xa gia đình. Cho thấy Hồ Biểu Chánh đã vạch rõ chuyến
tuyến thiện - ác điều như nhau, ân đền óan trả kẻ hiền được đền bù kẻ ác phải bị trừng
phạt mới hay có câu “Thiện ác báo đầu chung hữu báo”. Trần Tấn Thân ở cuối tác
phẩm phải nhận lấy hình phạt thích đáng cho việc làm bất nghĩa vô nhân đạo đó.
Thu Hà trong Khóc Thầm là nỗi đau giày dò tâm hồn trong trắng của nàng, khi vừa
mới rời khỏi ghế nhà trường tưởng đâu lấy được người chồng mà mình hằng mơ
tưởng, nào đâu gặp phải con người sâu hiểm như Vĩnh Thái. Nàng muốn dứt bỏ chồng
nhưng định kiến xã hội Việt Nam không cho phép nàng hành động như thế, nàng tự
biết là phận gái dù trong dù đục may nhờ rủi chịu nên trăm năm chỉ một chồng. Thu
Hà là gái có học thức biết lễ nghĩa, nhưng lương tâm không cho phép nàng làm những
điều ngược lại, dù biết trong thâm tâm nàng rất khinh bỉ chồng, dầu phải cắn răng nuốt
lệ mà ép lòng chung chạ với người chồng vô loại như Vĩnh Thái xem nhân nghĩa như
cỏ rác. “…Thu Hà ngó theo ô đau đớn trong lòng như gan teo ruột thắt…”[31;157].
Nàng chỉ khinh bỉ chồng ăn ở bất nhân bất nghĩa ức hiếp tá điền mà thôi, thành ngữ
“Bầm gan tím mật” chỉ sự tức giận không sao kềm chế được. Thành ngữ miêu tả lòng
căm tức của Thu Hà giận chồng tàn nhẫn cậy thế nhà vợ mà ức hiếp tá điền của nhà cô
“…Chừng cô nghe chồng bó buộc phó lý Thâu về 50 giạ lúa thì cô bẩy gan ứa mật, cô
buông cái bàn thêu mà đứng dậy cô muốn …”[31;96]. Cô không thể nhẫn nại được
nữa cô toan ra làm bẻ mặt chồng trước mặt mọi người. Nhưng cô chợt nghĩ mình là vợ
dù có tức giận chồng đến mấy cô cũng ráng đè nén, cô tự xét nếu mình hành động hấp
tấp làm bỉ mặt chồng trước mặt tá điền, thì còn gì là danh dự của chồng, là vợ mà nói
xấu chồng thì mọi người sẽ xem thường chồng nàng. Từ cử chỉ đó ta thấy Thu Hà là
76
một người biết lễ nghĩa, một người vợ đúng mực, riêng bản thân Vĩnh Thái là con nhà
nghèo lại dựa hơi bên vợ, cậy thế làm càng bóc lột người nghèo, không những vậy mà
Vĩnh Thái còn vô liêm sỉ đi lấy vợ người, một hành động đáng khinh rẻ. Thu Hà đau
khổ tột cùng không phải vì ghen mà nàng đau đớn tủi nhục cho số phận bạc bẽo của
mình, phải vương mang người chồng xấu xa đó suốt đời, và tội nghiệp cho anh Hương
Hào Điều gặp phải người vợ lăn lòn trắc nết làm ố oen cho giới nữ lưu ở Việt Nam.
Thành ngữ “Hồn phi phách tán” miêu tả tâm lí sợ hãi, hốt hỏang như không còn
hồn vía gần nghĩa như: dựng tóc gáy, hết hồn hết vía,…được miêu tả ở “…Trần Mừng
nghe nói hồn phi phách tán chẳng kể chi đến sự tiền bạc mất…”[25;85]. Nói lên trạng
thái hoảng sợ của Trần Mừng, khi nghe Trần Tấn Thân dọa là anh sẽ bị bắt vì mang
theo tiền bạc nhiều để làm việc tạo phản. Một con người lương thiện như Trần Mừng
xưa nay làm ăn chân chính, chỉ lo một việc là người Quảng Đông buôn bán ở xứ
người, nên cũng lo ngại việc không hay. Ngược lại Trần Tấn Thân là một kẻ háo sắc,
nham hiểm, độc ác, chiếm đọat của người làm của riêng cũng phải kinh sợ. Trước
công lý khi hành vi bị vạch trần “… Án Sát sai qua bắt đem về mà nạp thì hồn phi
phách tán run lập cập không biêt việc lành dữ thế nào…”[25;194]. Trần Tấn Thân cả
đời làm nhiều việc ác không sao nhớ hết, nên khi nghe Quan Án sai bắt cũng lo sợ
nhưng không biết mình phạm phải tội gì mà kiếm đường chạy chữa. Qua việc tìm hiểu
về thành ngữ ta thấy được ở tác giả có một tấm lòng yêu thương con người sâu sắc.
đặc biệt là những người nghèo bị ức hiếp, ông đã vạch rõ bản chất của từng nhân vật:
người giàu, người nghèo, người hiền, kẻ ác, …đều được khai thác rõ nét. Tuy nhiên ở
mỗi nhân vật có tính cách khác nhau, hoàn cảnh và thái độ khác nhau, nhưng khi được
nhà văn lồng vào thành ngữ miêu tả tâm lí con người, thì đều thể hiện nỗi đau buồn
khác nhau: có mạnh, có nhẹ, có nông, có sâu, ...Và đưa vào từng văn cảnh để thể hiện
đầy đủ tính cách mạnh mẽ, có sức chịu đựng phi thường của con nhà nghèo, dù gặp
phải hòan cảnh đau thương như thế nào thì họ cũng có thể vượt qua. Đó là sự di truyền
của dân tộc Việt Nam ta lúc bấy giờ.
Như Hồ Chủ Tịch đã từng nói mỗi người chúng ta rất có thể khác nhau về tuổi tác,
về tầng lớp, về kinh nghiệm cuộc đời, về vốn văn hóa, … nhưng có chung một ngôn
ngữ. Nghe Hồ Chủ Tịch căn dặn “Phải ra sức thi đua cày sâu cuốc bẩm làm cỏ bón
phân” người nông dân cảm thấy như nghe lời chỉ bảo ân cần của “Bậc lão nông”.
Được Hồ Chủ Tịch giảng giải về “Nhân chi sơ tính bản thiện về nghĩa vụ phò chính
77
trừ trà” giới trí thức như nghe tiếng nói đầy lương tri của bậc đại trí đại dương, đến
những kẻ lầm đường lạc lối cũng phải giật mình nhức nhối như nghe thấy tiếng gọi tha
thiết và cũng là lời cảnh tỉnh của cha ông. Cũng bởi tiếng nói từ dân gian bắt nguồn từ
tiếng nói của dân tộc, Hồ Biểu Chánh có những độc đáo riêng của mình, trong các tác
phẩm ông luôn có sự phân phối nhịp nhàng theo từng bối cảnh, từng lối suy nghĩ và
tiến độ làm việc của nhân vật, ông không bỏ sót một chi tiết nào dù nhỏ. Mỗi nhân vật
luôn ý thức được hành động của mình, và phải giật mình khi phạm phải sai lầm. Đó là
nét độc đáo và khả năng miêu tả đặc sắc của nhà văn.
2.3.2.3. Thành ngữ miêu tả hành động họat động của nhân vật.
Dùng thành ngữ là yếu tố thiết yếu trong lời ăn tiếng nói hằng ngày, Hồ Biểu
Chánh đã vận dụng tiếng nói dân gian đưa vào tác phẩm. Nhằm mục đích tạo nên nét
nổi bật ở nhân vật không bị lu mờ, dù là chính diện hay phản diện đều được thể hiện
rất rõ ràng qua từng chi tiết cụ thể.
Thành ngữ “Ăn no ngủ kỹ” là chỉ về cuộc sống nhàn hạ, sung túc của những
người giàu sang xuất hiện ở ngữ cảnh “…Họ sai khiến người ta dầm mưa giãi nắng để
cho họ ở nhà ăn no ngủ ấm cũng gọi là thương …”[24;36]. Nội dung ở ngữ cảnh chủ
yếu miêu tả số phận cơ cực của con nhà nghèo được bộc lộ bởi cái “thương” của con
nhà giàu. Cái “thương” của họ là để con nhà nghèo phải làm lụn cật lực ngòai đồng
ruộng. Vậy mà cuộc sống nghèo vẫn cứ bám lấy họ, dường như họ sinh ra là để hứng
chịu cái nghèo thì phải? Tầng lớp nông dân thật là khổ, con nhà giàu thì thiệt là sướng
chỉ biết “Ăn no ngủ kỷ”. Trong lúc họ đang dư ăn dư mặc, thì con nhà nghèo phải chịu
ăn đói lạnh. Còn lúc họ ngủ ấm thì người nghèo phải lao lực việc đồng án, tối lại phải
mất ngủ sợ thất mùa không có lúa nộp cho điền chủ phải bị lấy ruộng lại không cho
làm thì càng khổ. Thế nhưng họ chỉ biết cái sướng của họ chứ họ nào thấu được cái
cực của người dân đen nghèo khổ. Cái “thương” của họ còn cay nghiệt biết dường nào
họa cái ghét còn đau đớn hơn chăng? Cai Tuần Bưởi mỗi khi nghĩ tới cái “thương”
của con nhà giàu anh đau lòng xót dạ hơn.
Riêng ở tác phẩm Chúa tàu Kim Quy cũng xuất hiện thành ngữ “Ăn no ngủ kỹ”
được vận dụng “…Xin Chúa tàu cứ việc ăn no ngủ kỹ đừng lo sợ chi hết nếu ai muốn
nhổ một sợ lông chưn của Chúa tàu thì phải giết tôi chết rồi có lẽ mới làm
được…”[25;91], miêu tả hành động của Lê Thủ Nghĩa là tận hưởng sự giàu sang
không quan tâm lo lắng. Sau khi Thủ Nghĩa tìm được kho báu giả làm người khách
78
Quảng Đông mua tàu đi buôn và trở thành Chúa Tàu Kim Qui thì cuộc đời của Thủ
Nghĩa đã hòan tòan thay đổi. Từ số phận của một kẻ thấp hèn bấp bênh chịu lắm nỗi
đau thương, bổng chốc Thủ Nghĩa trở thành một kẻ giàu sang tiền sài không hết. Dù
sống trong cảnh sung sướng, nhưng Thủ Nghĩa vẫn không quên ơn Kỉnh Chi, và băn
khoăn lo nghĩ tìm cách đền ơn cho người em rể, tố cáo tội ác của Trần Tấn Thân. Ở
trong hòan cảnh đó thì Trần Mừng luôn thông cảm chia sẻ sự lo lắng của Chúa Tàu,
nên hắn khuyên Chúa Tàu đừng suy nghĩ, đừng bận tâm đến việc gì cứ bình tâm tĩnh
trí, lo ăn uống nghỉ ngơi để giữ gìn sức khỏe. Qua đó ta thấy được dụng ý của tác giả
trong cách dùng thành ngữ thật gần gũi miêu tả ngay thực tại cuộc sống, dù cùng ý
nghĩa nhưng lại khác nội dung biểu đạt. Thành ngữ trong Con nhà nghèo miêu tả hành
động, họat động của con nhà giàu ác nghiệt chỉ biết hưởng thụ sự giàu sang bằng sự
bóc lột của công, lấy hết phần lợi kiếm được của người nghèo. Còn ở Chúa tàu Kim
Quy thể hiện họat động biết tận hưởng sự giàu sang của mình không bóc lột của cải
của người khác. Thành ngữ “Ăn no ngủ kỹ” là chỉ cuộc sống bình yên không bận tâm
suy nghĩ lo lắng chuyện cơm ăn áo mặc, đây là nghĩa chính xác của thành ngữ đồng
thời cũng là nghĩa được Hồ Biểu Chánh vận dụng vào ngữ cảnh trên …Qua đó ta thấy
được mặt trái của xã hội xuất hiện với hai lọai người khác nhau được Hồ Biểu Chánh
thể hiện rõ.
Thành ngữ “No cơm ấm áo” là thành ngữ được miêu tả trong tác phẩm Lời thề
trước miễu vận dụng vào “…Ở đợ ít năm cho biết nghề làm ruộng …cũng no cơm ấm
áo được vậy…”[32;7], ý nói về cuộc sống đủ đầy, Lân là một thanh niên hiếu học,
nhưng hòan cảnh gia đình nghèo khó mẹ và chị phải bán bánh nuôi Lân ăn học. Dượng
ghẻ thì không muốn cho Lân ăn học, nên triết lí rằng nghề làm ruộng thì cũng “No cơm
ấm áo” cuộc sống thì cũng đầy đủ nhàn hạ, người nông dân ngày xưa họ chỉ quan
niệm cuộc sống đủ đầy là hạnh phúc. Họ đâu cần nghĩ đến học vấn tri thức, đối với họ
hạt gạo làm no bụng sẽ sống được lâu, còn tri thức không có thì cũng chẳng quan hệ
gì. Thành ngữ “No cơm ấm áo” được dùng trong các tác phẩm đã thể hiện phần nào
nỗi khát vọng của người nông dân trong xã hội xưa, lúc nào họ cũng vậy chỉ bám đất
bám làng làm ruộng miệt mài mong sao có được cuộc sống “No cơm ấm áo” là đủ, họ
không cần phấn đấu vượt khỏi cảnh nghèo cũng như không cần học hành để thay đổi
số phận. Với Lân thì ngược lại là con trai phải có chí lớn Lân quyết lập thân bằng
chính con đường học vấn của mình.
79
Nếu thành ngữ “Đói cơm khát nước” là nói về cảnh cơ hàn đói khát của kẻ
nghèo không nơi nương tựa, thì thành ngữ “No cơm ấn áo” là cuộc sống đủ đầy. Còn
thành ngữ “Cơm no áo ấm” cũng không khác gì được tác giả vận dụng vào tác phẩm
Tơ hồng vương vấn được thể hiện “…Cậu nói con người trước hết phải lo cho no cơm
ấm áo…”[38;30]. Nội dung nói lên sự thiếu thốn của gia đình Vĩnh Xuân, vì vậy cậu
phải lo học cho giỏi đặng có được cuộc sống đủ đầy. Vĩnh Xuân là một con người hiếu
hạnh vẹn tòan lại học giỏi, nên nhờ cậu ruột lo cho ăn học khỏi phải rách rưới như
thiên hạ. Nguyễn Hải Đường trong Đóa hoa tàn cũng là một người hiếu đạo vì nhà
nghèo lại ham học, anh quyết chí tấn thủ lấy sự học làm niềm vui, để vùi chôn mối tình
thầm kín và quyết thay đổi số phận anh sang Pháp du học “…Hải Đường vì nhà nghèo
không tiền mỗi năm chỉ nhờ sáu ngàn quan học bổng của nhà nứơc…bởi vậy ăn đói
mặc rách khổ cực trong sáu năm mới thi đậu tốt Trường Chư Nghệ Đại
học…”[30;70]. Thành ngữ “Ăn đói mặc rách” khi xét về mặt chức năng thì miêu tả sự
thiếu thốn không chỉ về vật chất mà còn không đủ ăn không đủ mặc. Cả ba nhân vật ở
ba tác phẩm khác nhau nhưng có chung một mục đích hòan cảnh đều như nhau, số
phận họ lại khác nhau. Phan Vĩnh Xuân vì nghèo hiếu học kết quả được thành công mĩ
mãn, từ chức vụ thông ngôn cho đến chức Quan Phủ, Nguyễn Hải Đường cũng được
toại lòng anh ta đã thành công với bằng cấp Kỹ Sư Bác Vật. Đáng thương cho thân
phận của Lân, vì nghèo chàng quyết tâm học sau này lo cho mẹ và chị có cuộc sống
hạnh phúc đầy đủ khỏi phải “Buôn gánh bán bưng” vất vả ước nguyện là thế, nhưng
Lân lại thi trượt tú tài đành phải bỏ gia đình và quê hương ra đi tìm nghề nuôi thân để
có được cuộc sống ấm no.
Hầu như các nhân vật trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đều là những con
người có thật trong xã hội thực dân, Vĩnh Xuân vì nghèo vì thương mẹ nên ý chí đi
học không còn may nhờ có sự an ủi động viên của Cúc Hương nên “….Anh phải học
đặng nuôi mẹ già, cho mẹ hưởng sung sướng với người ta khỏi mua gánh bán bưng
cực khổ nữa…”[38;175]. Vĩnh Xuân đau buồn khi nghĩ tới đời sống thực tại và tương
lai. Thành ngữ “Mua gánh bán bưng” miêu tả sự vất vả của những người nghèo phải
dang lưng buôn bán, kiếm từng đồng lời ít ỏi mà tiếp tục cuộc sống qua năm này tháng
nọ. Thành ngữ trên miêu tả việc buôn bán nhỏ ít vốn, ít hàng hóa đi buôn thì phải gánh
bộ đi bán thì bưng trên tay, bán buôn phải đi theo lối xóm hoặc ở chợ. Thành ngữ này
gần nghĩa với “Buôn thúng bán mẹt”,…tác giả muốn nhấn mạnh nỗi vất vả của mẹ con
80
Vĩnh Xuân, vì nhà nghèo nên mẹ Vĩnh Xuân phải “Buôn gánh bán bưng” quanh năm
bán đủ nghề, hết vật này đến vật kia nào là: xôi, bánh tét, bánh ú, bánh ếch, trái
cây,…mẹ Vĩnh Xuân phải tần tảo thức khuya dậy sớm tranh thủ ra chợ bán kiếm lời
được vài đồng bạc cắc, để đổi gạo qua ngày. Cho đến ngày Vĩnh Xuân được làm thông
ngôn mà mẹ của cậu vẫn tiếp tục làm lụn kiếm thêm cho đủ sống, vì Vĩnh Xuân làm
quan thanh liêm không hối lộ, mà cũng không hổ thẹn với đồng nghiệp về việc làm
của mẹ. Bên cạnh hai mẹ con Vĩnh Xuân thì chúng ta còn nhận ra mẹ con Hải Đường
ở tác phẩm Đóa hoa tàn Hải Đường đi học xa, chồng chết mẹ của Hải Đường phải
sớm hôm buôn bán mà độ nhật qua ngày “…Từ ngày chồng thím khuất rồi thì thím
mua gánh bán bưng mỗi ngày té lời đôi ba cắc bạc, nên không đến nỗi đói
khát…”[30;70]. Qua hành động họat động của nhân vật ta thấy được đức tính tốt đẹp
của con người biết được cuộc sống nghèo túng, nhưng vẫn không than phiền hay trách
móc, cũng không có ý nghĩ bất chính tự thân ra “Buôn gánh bán bưng” mà sống qua
ngày, hành động của hai bà mẹ làm cho hai đứa con như Hải Đường và Vĩnh Xuân
một mực hiếu thảo.
Thành ngữ “Đổ mồ hôi sôi nước mắt” là nói lên việc làm lụn vất vả, cực nhọc
trong công việc làm ăn sinh sống của những người lao động nghèo, gần nghĩa với
thành ngữ “Đổ mồ hôi xót con mắt”, “Đổ mồ hôi mẹ mồ hôi con” được tác giả dùng
vào tác phẩm Khóc thầm vận dụng vào văn cảnh “…Cái đó ác lắm người ta đổ mồ hôi
xót con mắt mới khai phá được một khỏanh đất này cấy lúa…”[31;147]. Miêu tả hành
động ngang tàn bóc lột sức lao động, thu thuế cao của Vĩnh Thái đã khiến cho những
người tá điền làm thuê ruộng đất phải chịu nhiều cực khổ. Bằng vốn thành ngữ phong
phú Hồ Biểu Chánh đã làm cho lời văn thêm trơn truột, chất văn thêm đậm đà và hình
ảnh biểu đạt trong văn chương của ông thêm cụ thể hơn. Hồ Biểu Chánh chẳng những
đã có sự quan sát. mà còn sáng tạo thành ngữ cho phù hợp với ngôn ngữ Nam Bộ làm
tăng thêm trí tưởng tượng cho người đọc, người đọc sẽ hình dung được con người sự
vật, sự việc …trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh có sự chuyển hóa theo ngôn từ.
Bằng cách cải biến thành ngữ gốc “Đổ mồ hôi sôi nước mắt” vào trong văn
cảnh “Đổ mồ hôi xót con mắt” tác giả đã thay từ “sôi” thành từ “xót” đã cho ta thấy
được cuộc sống lao động khổ cực của người dân. Hồ Biểu Chánh đã bóc trần lớp vàng
son giả hiệu đã lột được mặt nạ lừa phỉnh ti tiện giả đạo đức của bọn địa chủ. Qua đó
ông đã tố cáo những thủ đọan bóc lột công sức lao động, tô tuất của bọn địa chủ tiêu
81
biểu ở đây là Vĩnh Thái thay mặt cho bọn người địa chủ bóc lột theo lối cổ điển. Hắn
buộc tá đền nếu mướn một trăm công đất thì phải vay gấp đôi, lúa và tiền đó phải trả
lãi hàng năm là sáu mươi phân, ai không chịu vay lúa tiền thì hắn lấy ruộng đất lại, hắn
đã bóc lột tô tuất cùng lúc. Và đời đời biến người dân thành nô lệ gắn chặt với ruộng
vườn của mình. Không những vậy mà Hắn còn bắt tá điền phải đóng thuế thổ trạch,
thuế mồ mả, người dân nghèo lao động khổ cực suốt đời chỉ bám ruộng bám vườn đến
mệt lả mới có được miếng ăn, họ không chỉ khai phá đất hoang cực nhọc mà còn phải
chịu sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Với cách bóc lột dã tâm của Vĩnh Thái làm cho
người đọc cảm thấy xót thương cho thân phận khổ cực của dân nghèo, càng phẫn nộ
căm ghét kẻ tham hiểm tàn bạo bóc lột sức người. Vĩnh Thái không nghĩ đến nỗi vất
vả của người lao động, vì số phận sinh ra là cam chịu kiếp nghèo nên họ không hề oán
trách tạo hóa lại cần mẫn vì chén cơm, mà phải lên rừng khai khẩn đất hoang tạo lập
cuộc sống đủ đầy. Thế nhưng Vĩnh Thái lại muốn chiếm đọat hết số ruộng đất đó, với
lời khuyên ngăn của cha vợ rất hữu ý làm cho Vĩnh Thái cảm thấy hổ thẹn.
Cùng một nghĩa với thành ngữ này nhưng lại xuất hiện ở một ngữ cảnh khác
trong tác phẩm Đóa hoa tàn được thể hiện “…Thầy làm đổ mồ hôi xót con mắt mà gây
dựng chút đỉnh điền sản, thiệt ý thầy cũng quyết để dành cho con …”[30;68]. Ông Cai
Tổng Bình cả đời cực nhọc làm lụn vất vả tạo ra một điền sản lớn, cuối cùng vì hai chữ
công danh làm mờ mắt, bị con rể bòn rút nên gia sản tiêu tan, gia đình trở nên suy sụp,
nhưng ông không lấy làm buồn phiền ,vì tự tay ông làm ra thì dù có mất cũng là do ý
của tạo hóa đã sắp đặt sẵn, nên ông không hề hối tiếc vì ông nghĩ rằng tạo hóa ban cho,
giờ tạo hóa lấy lại là lẽ tự nhiên. Với tài năng vốn có Hồ Biểu Chánh đã dựng lại cảnh
sống vất vả cực nhọc của người dân bằng thành ngữ vừa nêu trên khá thành công, đủ
thấy tác giả là một người rất tường tận và đau xót cho số phận người lao động nghèo.
“Phỉ chí tang bồng” là thành ngữ nguyên mẫu được Hồ Biểu Chánh lượt bớt
thành “Chí tang bồng” được miêu tả trong tác phẩm Chúa tàu Kim Qui vận dụng khi
“…Thủ Nghĩa tay nắm lèo chơn kềm chí tang bồng khấp khởi với dòng xanh nhớ
chuyện cũ, tính đường đi lòng ân óan chập chồng như non cả…”[25;60] ý nói lên
nghĩa vụ bổn phận chí làm trai phải xông pha ngòai xã hội, phải tung hòanh khắp nơi.
Thành ngữ được nêu trong ngữ cảnh này theo sự phân tích của Hòang Văn Hành trong
quyển “Kể chuyện thành ngữ tục ngữ” thì ý nghĩa của từ “Chí tang bồng” được nói
như sau: từ “Tang bồng” vốn là cách viết tắt nói tắt của thành ngữ “Tang bồng hồ thỉ”,
82
“Tang” là “Dâu”, “Hồ” là “Cung”, “Tang hồ” là “Cung” được làm bằng “Gỗ dâu”,
“Bồng” là “Cỏ”, “Thỉ” là “Tên”, “Hồ thỉ” là “Tên” bằng “Cỏ bồng”. “Tang bồng hồ
thỉ” là “Cung” làm bằng “Gỗ dâu”, “Tên” làm bằng “Cỏ bồng”. Theo tục truyền ngày
xưa của người Trung Quốc hễ sinh con trai thì dùng lọai cung tên này bắn sáu phát,
bắn bốn phát ra bốn hướng một phát lên trời, còn một phát xuống đất ngụ ý của việc
làm này là sau khi trưởng thành người con trai sẽ mang chí lớn “Hai vai gánh vác sơn
hà” tung hòanh ngang dọc trời đất, sống phải lấy nghĩa vụ của người làm trai “Đầu đội
trời chân đạp đất” thà “Đổ máu chứ không rơi lệ”. Với ý nghĩa ấy thì “Chí tang bồng”
dùng để chỉ sự thỏa mãn tự do trong họat động nhằm thể hiện chí lớn không chịu sự gò
bó ràng buộc nào, khi liên hệ với ngữ cảnh trên ta thấy Thủ Nghĩa đã thỏa mãn lòng
mong ước khi được tự do thực hiện được dự định, và hy vọng đạt được ơn đền trả oán
của mình giương buồm ra biển cả. Khi một mình đứng giữa trời đất minh mông Thủ
Nghĩa đã ý thức được nghĩa vụ bổn phận của kẻ làm trai và nhận thấy trách nhiệm của
mình đối với gia đình xã hội. Hồ Biểu Chánh không chỉ đưa Thủ Nghĩa là một người
nông dân bình thường cũng có chí lớn.
“Quạ nuôi tu hú” theo phân tích của nhà ngôn ngữ học thì tu hú là loài chim
nhỏ bằng bồ câu sẻ đuôi dài hơn và lông đen như quạ. Tu hú có giọng hót như tên nô,
và sống tập trung ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ, loài chim này không biết làm tổ mà
đẻ. Nó thường tìm đến ổ quạ mà đẻ nhờ và dĩ nhiên là nhờ nuôi hộ con cho luôn. Tác
giả mượn thành ngữ “Quạ nuôi tu hú” miêu tả công lao nuôi dưỡng dày công dạy dỗ
của những người có tấm lòng nhân nghĩa cao thượng như Hương Sư Cu là điển hình
trong Con nhà nghèo. Tác giả khẳng định mạnh mẽ nội dung tác phẩm, qua cuộc đời
của Cô Tư Lựu trong hoàn cảnh khốn cùng. Cô Tư Lựu bị uy quyền của người có tiền
giàu có, con của điền chủ đã cưỡng hiếp Lựu cho đến mang thai rồi bỏ rơi. Ngược lại
còn rẻ khinh thậm tệ bội bạc vội quên lời hứa, trong lúc Lựu bị hàng xóm chê cười Bà
Cai Tổng đuổi đi nơi khác. Thì anh Cu là một anh nông dân nghèo khổ, từ nhỏ chí lớn
chỉ gắn bó với nghề làm ruộng, một tấm lòng cao đẹp cùng một trái tim chung thủy với
cô Tư Lựu, sống có tình có nghĩa với mọi người, sống cùng một mẹ già mà trong nhà
luôn thiếu trước hụt sau. Khi mẹ mất anh sống hiu họanh ở đợ cho ông Cả, đến khi
thấu hiểu được cuộc đời bất hạnh của Lựu, thì anh Cu đứng ra bảo bọc Lựu cứu danh
giá cho Lựu. Sau này gia đình khá giả lại có chức có quyền con của Tư Lựu đã lớn
khôn, ông Hương Sư Cu sợ mình giống như “Quạ nuôi tu hú” lớn lên thằng bé sẽ trở
83
về nhìn cha mà quên đi công nuôi nấng bảo dưỡng dạy dỗ của ông. Trước tình cảnh
đau lòng đó Bà Hương Sư Cu đã khẳng khái tuyên bố với chồng rằng: con bà không hề
bội bạc vô tình với người đã dày công dạy dỗ. Mặc dù không phải là con ruột của
Hương Sư Cu nhưng nó là con tôi, tôi đẻ nó ra tôi hiểu tánh tình nó không bao giờ
sống thiếu tình, thiếu nghĩa mà quên ơn nuôi dưỡng của ông. Hồ Biểu Chánh đã vận
dụng thành ngữ “Vong ân bội nghĩa” trong tình huống này không chê bai hay trách
móc mà nhằm củng cố khẳng định lời quyết đóan. Hồ Biểu Chánh đã vận dụng rất
thành công việc sử dụng thành ngữ vào trong tác phẩm mà không kém phần khó hiểu,
làm cho lời văn thêm trơn tru, làm nổi bật ý nghĩa của ngôn ngữ trong tác phẩm, làm
rõ ý nghĩa ngược lại của thành ngữ.
Tóm lại, việc sử dụng thành ngữ vào trong sáng tác đã tạo hiệu quả cao, tạo
được sự gần gũi đối với người đọc, nhiều thành ngữ được tác giả lựa chọn làm lời nói
của nhân vật làm tăng thêm giá trị biểu đạt tình cảm, và tính hàm súc của câu văn. Hồ
Biểu Chánh hay dùng thành ngữ để miêu tả thiên nhiên, ngọai hình, tâm lí tính cách,
hành động họat động của nhân vật. Tạo được sự gần gũi giữa nhân vật tiếp xúc với
thiên nhiên trong tác phẩm với con người đời thường. Từ đó làm cho nhân vật có thể
bước từ trong tác phẩm ra hòa lẫn với cuộc sống bên ngòai, đồng thời những con
người bình thường ấy đang hiện diện ngòai cuộc sống cũng có thể đi vào trong sách
vỡ. Chính nhờ khả năng sử dụng thành ngữ và biệt tài độc đáo trong sáng tác Hồ Biểu
chánh đã tạo đuợc ấn tượng sâu sắc đối với người đọc.
84
CHƯƠNG 3: NHỮNG SÁNG TẠO CỦA HỒ BIỂU CHÁNH
TRONG VIỆC SỬ DỤNG THÀNH NGỮ Ở MỘT SỐ TÁC
PHẨM
3.1. Sử dụng thành ngữ ở dạng nguyên mẫu.
Đây là dạng xuất hiện ở tần số tương đối cao trong sáng tác của Hồ Biểu
Chánh, cho nên việc sử dụng thành ngữ ở dạng nguyên mẫu thì tác giả Chu Xuân Viên
có nói như vầy: “Sở dĩ thành ngữ có thể giữ nguyên dạng đã có sẵn của nó như vậy vì
không những nó có cấu trúc hình thức ổn định mà thường lại được dùng như một lời
khuyên răn, hay như một lời phán đóan luận cứ trong hình thức chứng minh của tư
duy lôgic” [17;176]. Do đó mà việc sử dụng thành ngữ ở dạng nguyên mẫu này có ý
nghĩa là tác giả sẽ giữ nguyên hình thức ngữ pháp của nó khi đưa vào trong tác phẩm
của mình.
Hầu hết những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh được viết với phong cách “Viết
như nói mà nói như làm” viết thật mộc mạc bình dị. Vì vậy ngoài những thành ngữ
Hán Việt, Thuần Việt thì ông còn vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo và hợp lý,
không gò bó hay kiên cưỡng khi đưa vào tác phẩm. Và còn được dùng ở nhiều dạng
khác nhau như: mượn ý, cải biến, tách đôi,…để làm tăng thêm giá trị mới mẻ và phong
phú, nghĩa là ông mượn những thành ngữ quen thuộc có sẵn trong lời ăn tiếng nói
hằng ngày của nhân dân đưa vào trong tác phẩm, chứ không có sự cải biến, để diễn đạt
một vấn đề, một sự vật, sự việc … làm cho người đọc hay người tiếp nhận thấy gần
gũi và yêu thích tác phẩm của ông nhiều hơn.
Ở đây người viết chỉ đưa ra một vài thành ngữ tiêu biểu được sử dụng trong tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh như:
- Chướng tai gai mắt
- No cơm ấm áo
- Chịu đấm ăn xôi
- Một câu nhịn chín câu lành
- Bữa đói bữa no
- Nhập gia tùy tục
- Than thân trách phận
- Loan phụng hòa minh
- Bất cộng đái thiên…
85
Hồ Biểu Chánh đã vận dụng thành ngữ nguyên mẫu tương đối ở nhiều dạng,
nhiều nét vẽ khác nhau vô cùng phong phú. Ngay cả thành ngữ Thuần Việt, Hán Việt
hoặc những thành ngữ điển tích, điển cố. Do Hồ Biểu Chánh thấy được khả năng khái
quát cao tiện dụng của thành ngữ, nên thành ngữ giúp ích rất nhiều cho nhà văn tiết
kiệm được lời nói, tránh nói dài dòng mà câu văn vẫn giàu sức thuyết phục. Trong tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh thì những thành ngữ được tạo bởi gốc Hán Việt, Thuần Việt,
điển tích, điển cố khá nhiều. Đọc tác phẩm Hồ Biểu Chánh ta sẽ bắt gặp được rất nhiều
thành ngữ được tạo bởi từ Hán Việt.
Vẫn một mực trung thành với truyền thống của dân tộc Hồ Biểu Chánh luôn
khuyên con người phải sống sao cho xứng đáng, cho phải đạo, ông kịch liệt phê phán
thói chạy theo Tiền bạc bạc tiền của con người thời đó. Khi đề cặp đến thói hư tật xấu
của Thanh Huê, Hồ Biểu Chánh sử dụng thành ngữ “Ngựa quen đường cũ” thì “…Đến
lúc này Thanh Huê chẳng còn cậy nhờ cha mẹ như trước nữa được, mà ngựa quen
đường cũ cũng cứ đi đánh bài hòai …”[41;600]. Và thành ngữ “Loan phụng hòa
minh” ở tác phẩm Khóc thầm vận dụng khi “…Vợ chồng dường ấy lấy làm sao mà gọi
là loan phụng hòa minh…”[31;64], nói lên sự hòa hợp của những cặp vợ chồng hiểu
nhau, đồng cảm cho nhau, cùng sang sẻ những buồn vui với nhau. Nhưng ngữ cảnh
trên cho thấy vợ chồng Thu Hà với Vĩnh Thái bất đồng tâm ý, sống với nhau chỉ vì
cuộc hôn nhân gượng ép. Cho nên Thu Hà không thấy hạnh phúc khi ở bên chồng.
“Ông Tơ Bà Nguyệt”,“Loan phụng hòa minh” cả hai thành ngữ này được dùng
để nói chuyện tình duyên, chuyện nghĩa vợ tình chồng. Thành ngữ “Ông Tơ Bà
Nguyệt” là thành ngữ điển tích nói về người làm nhiệm vụ đi se chỉ se duyên kết tóc
duyên nợ cho người trần gian. Thành ngữ đó không chỉ nói về vấn đề vợ chồng mà còn
được Hồ Biểu Chánh dùng với một chủ thể của câu nói, làm cho lời văn thêm trau
chuốt mạch lạc “…Chỉ có Ông Tơ Bà Nguyệt mới biết được chứ người làm sao mà
biết…”[38;38] trích trong Tơ hồng vương vấn.
Trong tác phẩm Nặng gánh cang thường thành ngữ “Bất cộng đái thiên” nói lên
nỗi căm giận hận thù sâu sắc không thể tha thứ, không thể dãn hòa, không thể chung
sống được giữa Lệ Bích và Thanh Tòng “…Chữ phụ thù bất cộng đái thiên ta không
thể nào mà thấy mặt ngươi nữa được…”[33;84]. Bởi trước kia hai người từng thề ước
sống chết có nhau, nhưng đứng trước cái chết của cha, Lệ Bích không thể không căm
ghét Thanh Tòng. Không chỉ có nàng Lệ Bích trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh mới
86
mang mối thù hận đó, mà thực tế nhân dân Việt Nam cũng từng có mối thù “Bất cộng
đái thiên” đối với quân xâm lược Mỹ khát máu, đối với bù nhìn Thiệu – Kỳ bán nước
tàn bạo, tòan dân Việt Nam đã mang mối thù sâu nặng đó được trích trong “Báo nhân
dân. 29-05-1968”. Không những Hồ Biểu Chánh miêu tả thành công lòng oán thù sâu
sắc của nàng Lệ Bích mà ông còn khai thác triệt để lòng dạ con người thay đổi, thói
đời đen bạc. Khi đưa những thành ngữ Hán Việt: Vong ân bội nghĩa; Nhân tình thế
thái; Cải tử hòan sinh; Nam thanh nữ tú; Áng binh bất động; Phú quý vinh hoa; ….
vào trong các tác phẩm Nặng gánh cang thường, Con nhà nghèo, Đóa hoa tàn, Chúa
tàu Kim Qui,… thì Hồ Biểu Chánh đã thể hiện một sự hiểu biết phong phú về từ vựng
tiếng Việt của dân tộc về trí tuệ, tâm hồn, thói đời, lòng người, đạo lý cuộc sống sâu
sắc của nhân dân.
Nói đến số phận cơ cực nghèo đói túng thiếu thì có Lê Văn Đó, mẹ con Vĩnh
Xuân, mẹ con Hải Đường, … nói đến tính chịu đựng nhẫn nhục của người nông dân
khi bị chủ điền ức hiếp, khinh rẻ thì có anh Cai Tuần Bưởi trong Con nhà nghèo, Thủ
Nghĩa trong Chúa tàu Kim Qui, tên Mau trong Khóc thầm,… Chẳng hạn các thành
ngữ: Than thân trách phận; Bữa đói bữa no; Mua gánh bán bưng; Thân phận bọt bèo;
Chịu đấm ăn xôi; Một câu nhịn chín câu lành; … Hồ Biểu Chánh đã thể hiện sự đồng
cảm chia bùi sẻ ngọt với những người có số phận bất hạnh trong cuộc sống.
Để thấy được lời văn miêu tả rất chân thực cuộc sống nghèo túng nhẫn nhục
của những người nông dân thì thành ngữ “Chịu đấm ăn xôi” trong tác phẩm Con nhà
nghèo được nhà văn vận dụng khá đặc sắc “…Cai Tuần Bưởi bị mắng nhiếc không
dám kháng cự…ấy là anh ta nghĩ mình ráng chịu đấm ăn xôi chớ nếu nói đi nói lại…”
[23;81]. Nội dung nói lên sức chịu đựng của Cai Tuần Bưởi. Tuy Cai Tuần Bưởi nhận
thức rõ về thủ đoạn lường gạt, bóc lột sức lao động của mẹ con Bà Cai, nhưng vì mặt
cảm chữ nghèo, không mảnh đất dung thân không muốn vợ con vất vả. Chỉ biết chấp
nhận nhẫn nhục để có đất làm lụn nuôi sống cả gia đình, nên anh phải cắn răng nhẫn
nhịn chịu đựng không một lời kháng cự khi bị bà Cai Tổng Hiếu sĩ nhục, mắng nhiếc.
Từ thành ngữ chúng ta còn bắt gặp trong câu thơ của Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân
Hương “Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm” nói lên tính nhẫn nhục cam chịu kiếp làm lẽ mọn
của người phụ nữ sống trong thời đại phong kiến. Thành ngữ trên được tác giả vận
dụng vào tác phẩm là muốn nhấn mạnh lòng thương xót con nhà nghèo, qua đó phê
phán thói giả đạo đức của con nhà giàu.
87
“Một câu nhịn chín câu lành” là thành ngữ nói lên một lời nhường nhịn sẽ
tránh được những xích mích không hay, và những hậu quả khôn lường khi Bà Cai
giáng xuống gia đình. Tuy bị ức hiếp nhưng vì nghĩ cho gia đình nên Cai Tuần Bưởi
cố gắng khuyên vợ nên bỏ qua, vì anh biết rõ mọi thủ đọan của Bà Cai. Thành ngữ này
như một lời triết lý sâu sắc để an ủi động viên cho những số phận nghèo hèn bị ức
hiếp. Đó là sự sáng tạo trong cách sử dụng thành ngữ của Hồ Biểu Chánh thật hết sức
độc đáo và phù hợp với tâm lý người dân nghèo được ông khắc họa đậm nét. Và
ngược lại cảnh nghèo khổ của mẹ con Vĩnh Xuân trong Tơ hồng vương vấn mẹ con
Hải Đường trong Đóa hoa tàn thì lại khác, họ không gặp phải những điền chủ ác độc
như Cai Tuần Bưởi. Tuy cuộc sống có thiếu thốn, áo không đủ mặc, cơm không đủ no,
nhưng hai bà mẹ vẫn tần tảo buôn bán nuôi hai con ăn học, bù lại hai bà mẹ rất vui vì
có được hai đứa con hiếu thảo, lại học giỏi thành đạt cao. Cả hai lại cùng vương mang
bệnh tình và cùng hưởng cảnh giàu sang hạnh phúc bên người mình yêu thương.
Thành ngữ “Sa chân lỡ bước” tác giả dùng ở ngữ cảnh thứ nhất “…Mai mốt rủi
tôi sa chân sẩy bước thầy giúp tôi lại…” [38;56], miêu tả sự không may gặp cảnh rủi
ro trong lúc thất thế. Mục đích nói ông Kinh Lương là người nhân hậu hay thương
người, thấy tình cảnh của Vĩnh Xuân nên ông động lòng, và quyết giúp đỡ Vĩnh Xuân
trong lúc khó khăn. Nhưng Vĩnh Xuân không muốn mang nặng ân nghĩa, nên có phần
từ chối. Chính vì lẽ đó mà ông Kinh có ý nhắc nhở Vĩnh Xuân đừng ái ngại chuyện ân
nghĩa, ở đời có trước có sau, kẻ cao giúp người cô thế.
Ở ngữ cảnh thứ hai thì được viết “…Không ăn năn sao được, có vợ giàu lại
đẹp, mà để cho nó thông thả, ta bà quá, rủi sa chân sẩy bước, nhơ danh ố tiết rồi sao
…” [38;123]. Bởi Bà Kinh thấy vợ chồng Vĩnh Xuân không được ấm êm, thấy chồng
quá dễ dãi để cho vợ tự do thông thả không còn biết gia đình gì nữa, nên bà khuyên
Vĩnh Xuân phải chú ý việc đi lại của vợ, tránh việc không tốt xảy đến. Đây là lời
khuyên chân thành của bà, vì bà rất am tường cuộc sống của Vĩnh Xuân, bà rất cảm
thông và thương mến Vĩnh Xuân tuổi trẻ học giỏi có hiếu làm việc liêm chính.
Ngữ cảnh thứ ba thì “… Tội nghiệp cho thân phận Cẩm Nhung rủi sa chân sẩy
bước mà cảnh đời tươi cười hóa ra cảnh đời thê thảm …” [38;182], tác giả miêu tả sâu
sắc cuộc vợ chồng của Vĩnh Xuân và Cẩm Nhung không được hạnh phúc. Bởi Cẩm
Nhung vốn là con nhà giàu sang lại có sắc, nhưng kém hiểu biết nên không tròn hạnh
đạo vợ hiền dâu thảo, lại thêm vợ chồng không có tình yêu thương, nên Cẩm Nhung
88
lầm đường lạc lối đến nỗi phải sa chân sẩy bước làm nhơ nhuốc danh tiết. Chứng tỏ
Hồ Biểu Chánh đã thành công việc dùng thành ngữ nguyên mẫu lại có thêm sự sáng
tạo từ ngữ mới, để làm sáng tỏ được vấn đề nội dung cần biểu đạt. Rõ là tác phẩm của
Hồ Biểu Chánh không chỉ dùng thành ngữ với mục đích là nối kết các ý trong câu văn
lại với nhau, mà còn được dùng như một chiếc chìa khóa để mở tung cánh cửa đạo đức
giáo huấn con người, và là lời chỉ dẫn khuyên bảo. Chẳng hạn những thành ngữ như :
- Tài cao đức trọng
- Lên xe xuống ngựa
- Trước lạ sau quen
- Đầu dây mối nhợ
- Thầm yêu trộm nhớ
- Bóng chim tăm cá….
Nét độc đáo của Hồ Biểu Chánh là đưa thành ngữ vào trong sáng tác, nghệ
thuật phong phú vẫn là ở cách miêu tả. Trong tác phẩm thì thành ngữ thể hiện hình
thức nội dung diễn đạt cả về mặt ý nghĩa và chức năng ngữ pháp. Một mặt nói về thế
sự, tình người, tình đời, … mặt khác lại thể hiện tâm tư tình cảm cá tính con người ở
mọi hòan cảnh, sự việc khác nhau: một kẻ nham hiểm, độc ác, háo sắc như Hai Nghĩa,
Trần Tấn Thân, Vĩnh Thái, … cũng phải nhận lãnh hậu quả cho những hành vi sai trái
của mình. Hai Nghĩa phải đau đớn trước cái chết của đứa con gái, mà nguyên nhân là
sự xuất hiện của đứa con trai ruột, mà mình bỏ rơi lúc mới tượng hình do Lựu sinh ra.
Trần Tấn Thân phải đau lòng trước cảnh vợ con than khóc và hình phạt thích đáng là
năm năm tù giam chấp nhận lấy cái chết cô độc trong lao tù. Còn Vĩnh Thái một con
người có học thức, lại hiểm sâu độc ác, phải nhận lấy cái chết rất thê thảm trong ô
nhục thân xác đầy máu, về tội dâm bôn lấy vợ người. Thành ngữ trên được tác giả vận
dụng rất thành thục, ông không câu nệ lễ tiết, người hiền được ca tụng kẻ ác phải bị
trừng phạt. Đó là luật nhân quả có vay ắt có trả miễn sao phù hợp với nội dung, tình
cảm ý nghĩa của đề tài thì ông cứ dùng.
Thành ngữ Đầu dây mối nhợ; Thầm yêu trộm nhớ; Ăn no ngủ kỹ; … đều được
ông sử dụng khá thành công và độc đáo. Ông đã phát huy cao độ sự hiểu biết về khả
năng vốn có của mình, mà biểu hiện tình cảm ở nhiều góc độ, tình huống, cảnh ngộ, …
tất cả đều hợp lý làm tăng thêm giá trị của thành ngữ ở mức diễn đạt.
89
Một đặc điểm nữa chúng ta cần lưu ý để thấy được tài năng dùng thành ngữ và
sự sáng tạo của Hồ Biểu Chánh vào tác phẩm. Dùng một thành ngữ tác giả có thể đưa
nhiều vào các tác phẩm, không những vậy mà ông còn sử dụng vào nhiều hòan cảnh,
nhiều tình huống, cốt truyện vào một tác phẩm nhưng nội dung biểu đạt ý nghĩa khác
nhau. Dù vậy nó vẫn phát huy được tính tích cực trong từng ngữ cảnh. Qua cách dùng
thành ngữ ta sẽ hiểu ngay tác giả muốn nói gì để chứng minh cho hành động của nhân
vật được cụ thể rõ ràng hơn như thành ngữ:
- Kết tóc xe tơ
- Nam thanh nữ tú
- Tam tòng tứ đức
- Ông Tơ Bà Nguyệt
- Lên xe xuống ngựa…
Như ở tác phẩm Tơ hồng vương vấn thì thành ngữ “Ông Tơ Bà Nguyệt”, được
sử dụng ba lần, “Lên xe xuống ngựa” được dùng hai lần trong ngữ cảnh, nhưng cả hai
đều thể hiện được nhiều vấn đề và nội dung khác nhau. Đó là nét tinh tế trong cách
sáng tạo của Hồ Biểu Chánh trong việc vận dụng vốn thành ngữ của dân tộc.
Thành ngữ “Lên voi xuống ngựa” sử dụng ở trường hợp thứ nhất là “…Số
người ham tiền họ chỉ lo cho thân họ, lo cho hiện thời được lên voi xuống ngựa được
ăn mặc rực rỡ, được nhà cửa kinh dinh …” [38;180]. Ở đoạn văn này Hồ Biểu Chánh
cố ý phê phán những kẻ thờ ơ với thời cuộc chỉ biết lo tu bổ cho thân mình, thích ăn
ngon mặc đẹp, thích sống nhàn nhã mà quên đi trách nhiệm đối với đất nước.
Sử dụng ở trường hợp thứ hai tác giả lại đề cao đức tính đạo đức sống thanh cao
chánh trực của Vĩnh Xuân, là một thanh niên hiếu học luôn trọng nhân nghĩa, biết hiếu
lễ với cha mẹ và mọi người, quí trọng nhân dân, ông viết “…Ông Kinh Lương chứa
Vĩnh Xuân trong nhà cả tháng…cưới vợ thiệt giàu thiệt đẹp đặng lên xe xuống ngựa
ăn ở cao sang …” [38;252].
Và thành ngữ “Ông Tơ Bà Nguyệt” được sử dụng ở trường hợp thứ nhất ông
đưa vào ngữ cảnh “…Chỉ có Ông Tơ Bà Nguyệt mới biết được chứ người làm sao mà
biết…”[38;38], ở đọan hai “…Nhưng thuở nay có ai thấy được Ông Tơ Bà Nguyệt hồi
nào…” [38;41], đọan ba thì “…Hôm qua qua nói chơi với em…biết duyên nợ thì vái
Ông Tơ Bà Nguyệt…” [38;41].
90
Thành ngữ “Thầm yêu trộm nhớ” trong tác phẩm được vận dụng “…Thân mến
nhau trót hai tháng khi học Mạnh Tử với thầy rồi thầm yêu trộm nhớ nhau tới hai năm
nay nữa...Thà để trộm nhớ nhau vậy thôi…[38;169], ý nói về mối tình thầm kín mà
cao thượng của Vĩnh Xuân và Cúc Hương. Thành ngữ này còn được dùng ở tác phẩm
Thiệt giả giả thiệt khi miêu tả “…Song cô vẫn coi Thầy Thuốc Cộn là chồng của cô,
cô thầm yêu trộm nhớ cô nguyện…” [40;100]. Nội dung diễn đạt về tình yêu thầm kín
của cô Phùng Xuân dành cho Thầy Thuốc Cộn.
Và thành ngữ “Kết tóc xe tơ” cũng được thể hiện ở nhiều ngữ cảnh trong các
tác phẩm Tơ hồng vương vấn thì nêu “…Tôi là Phan Vĩnh Xuân 17 tuổi ước nguyện
kết tóc trăm năm với Lý Thị Cúc Hương, kính cẩn vái ông ủng hộ cho hôn sự được
thành…” [38;66], ý nói Vĩnh Xuân muốn chứng minh tình yêu chân thành đối với Cúc
Hương, nhờ quan ông ở Thần Miếu chứng tri cho lòng thành kính đó. Ở tác phẩm Chút
phận linh đinh thể hiện “…Từ ngày chàng vì danh dự mà se tơ kết tóc với Thu Vân,
cha của chàng không suy xét dùm cho chàng nên đọan tình phụ tử…” [22;201]. Hiển
Vinh vì trọn nghĩa niềm phu phụ cứu vớt danh giá cho Thu Vân, nên đã vượt quyền
cha mẹ tự ý kết hôn, bị cha từ bỏ.
Tác phẩm Nặng gánh cang thường thì “…Con xét lại thì phận con bây giờ là
người thù của nàng nên không thể nào nàng kết tóc xe tơ với con được …”[33;114].
Thanh Tòng đã biết tội giết cha vợ là rất nặng, Lệ Bích vì mang phụ thù nên không thể
làm vợ chồng cùng Thanh Tòng, nàng bỏ đi là không có lỗi. Thanh Tòng nói với cha là
chàng quyết thủ tiết với nàng Lệ Bích không tuân lệnh của vua với cha.
Cùng một loại thành ngữ Hồ Biểu Chánh đã vận dụng linh họat vào các tác
phẩm khác nhau, nội dung ý nghĩa vẫn phù hợp với từng tình huống, từng văn cảnh.
3.2. Sử dụng thành ngữ ở dạng sáng tạo.
3.2.1. Thành ngữ dùng ở dạng mượn ý.
Với số lượng thành ngữ gốc đều có sẵn trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của
nhân dân, kết hợp với sự hiểu biết, lối nói dân gian rất phong phú thì Hồ Biểu Chánh
đã sử dụng nhiều thủ pháp chuyển đổi mượn ý, tách đôi, cải biến, đảo, thay đổi vị trí,
có thể chen thêm hoặc lượt bớt,… Tạo thành một hệ thống chỉnh thể, hợp tình, hợp lý
làm tăng nét nghĩa sắc thái biểu cảm, tính hàm súc, cô đọng.
Thành ngữ gốc Thành ngữ được đưa vào văn cảnh
Tranh danh đoạt lợi → Tranh danh trục lợi
91
Sửa túi nâng khăn → Sửa tráp nưng khăn
Non cao rừng thẳm → Rừng sâu núi thẳm
Ngày qua tháng lại → Ngày qua đêm lại
Tâm đầu ý hợp → Tâm đầu ý hiệp
Đồng tâm hiệp lực → Đồng tâm hiệp chí…
Đây là những thành ngữ được sử dụng trong cách sáng tạo của nhà văn, tuy có
sự thay đổi về mặt cấu trúc nhưng ý nghĩa vẫn giữ nguyên được thể hiện:
Trong tác phẩm Khóc thầm Hồ Biểu Chánh lấy thành ngữ gốc “Tranh danh
đọat lợi” đưa vào văn cảnh “…Theo đời này những người có học thức ai cũng lo tranh
danh trục lợi chớ ít ai biết lo cho quê hương xã hội..” [31;21]. Nội dung nhằm mục
đích là nói lên những người chỉ lo tranh giành chiếm đoạt quyền lợi, lo tham nhũng
làm xáo trộn nội bộ, họ chỉ biết lo tu bổ cho riêng mình chứ không nghĩ đến người
khác. Vĩnh Thái biết nói lên ý nghĩa cao xa đó, chỉ dùng lời nói của người biết thời thế
mượn hai chữ học thức mà kiếm cơm kiếm gạo. Cho nên tác giả miêu tả đúng với ý
nghĩa xác thực Vĩnh Thái nói dễ, nhưng chẳng làm được gì mà còn gây hại cho xã hội.
Ở tác phẩm Đóa hoa tàn thì “…Thiệt đời khốn nạn lắm ai cũng lo tranh danh
đọat lợi mà có lẽ cũng còn một số người biết trọng tình trọng nghĩa chớ…”[30;29],
thời thế thay đổi nên mọi người chỉ lo tranh danh quyền cao chức trọng để có địa vị
cao trong xã hội. Nhưng bên cạnh đó còn những con người biết trọng nghĩa nhân xem
nhẹ công danh phú quý. Thành ngữ gốc “Sửa túi nâng khăn” được dùng trong tác
phẩm Nặng gánh cang thường được tác giả mượn ý đổi thành “Sửa tráp nưng khăn”
làm tăng giá trị ý nghĩa của lời văn được vận dụng vào “…Thiếp xin công tử …cho
thiếp mượn Xuân Lan thay mặt thiếp mà lo bề sửa tráp nưng khăn được như vậy thì
thiếp đã khỏi lỗi với chén thề …” [33;171], nói lên sự săn sóc chăm nom hầu hạ của
người vợ đối với chồng. Nội dung đọan văn nói nàng Lệ Bích vì mối phụ thù nên
không thể cùng Thanh Tòng nên nghĩa vợ chồng, nàng không muốn mình bất hiếu với
cha lỗi đạo lời thệ ước cùng Thanh Tòng. Nàng khuyên chàng chấp nhận Xuân Lan là
hầu nữ thế nàng mà lo bề “Sửa tráp nưng khăn”.
Tác phẩm Chúa tàu Kim Qui cũng xuất hiện thành ngữ vừa nêu, bởi có sự sáng
tạo mới nhà văn đã làm thay đổi vị trí ngữ âm của thành ngữ, mục đích là gây sự chú ý
ở người đọc “… Nếu anh chẳng chê em là gái hư hèn, anh khứng cho em nưng khăn
sửa tráp thì em nguyện…”[25;179]. Thu Thủy vì trọng ân nghĩa với Chúa tàu nên tự
92
nguyện làm vợ Kỉnh Chi để được săn sóc hầu hạ người chồng đáng mặt là quân tử. Từ
thành ngữ ta thấy Hồ Biểu Chánh đã rất khó khăn trong việc chọn lựa từ ngữ, và hóan
đổi vị trí để làm tăng thêm hiệu quả biểu đạt. Tuy có sự khác biệt nhưng nội dung ý
nghĩa vẫn không thay đổi miễn sao phù hợp với vấn đề cần làm rõ.
Thành ngữ “Tâm đầu ý hiệp” miêu tả đôi bạn “Tâm đầu ý hợp” đã trở thành một
con người hoàn chỉnh, bộ óc xét đoán sáng suốt của người này hoạt động cùng với trái
tim bồng bột sôi nổi của người kia. Thành ngữ “Tâm đầu ý hiệp” còn được dùng trong
tác phẩm Chút phận linh đinh được viết “…Lê Hiển Đạt khi còn trai ông hay kén vợ
…nên vợ chồng về ở với nhau tâm đầu ý hiệp chẳng có đôi lứa nào bằng…”[22;17]. Ý
nói về cặp vợ chồng không hề quen biết và có tình dan díu nhau, nhưng khi nên nghĩa
vợ chồng họ thấu hiểu nhau nên “tâm đầu ý hiệp”. Ông Lê Hiển Đạt thấu hiểu ý vợ
còn vợ thì tôn trọng, chiều chồng nên gia đình rất hạnh phúc.
Thành ngữ này cũng có ý nghĩa thông hiểu, đồng điệu hòa hợp với nhau trong quan
hệ anh em, chị em, bạn hữu,…như ở tác phẩm Ai làm được viết “…Bạch Tuyết …gặp
Băng Tâm …hai người nói chuyện với nhau tâm đầu ý hiệp vô cùng…”[41;410], nội
dung miêu tả Băng Tâm và Bạch Tuyết cùng phận gái, nên cả hai yêu nhau vì mến nết.
Riêng nàng Bạch Tuyết thì con nhà quan nhưng hạnh phúc vợ chồng chưa trọn vẹn.
Băng Tâm thì xuất thân là con nhà nghèo lại tôn trọng đạo nghĩa. Vì thế cả hai vừa kết
tình chị em như có duyên nợ định sẵn, không những có tình chị em giữa Bạch Tuyết và
Băng Tâm, mà còn có tình bạn hữu giữa Bá Kỳ và Hiếu Liêm trong Tiền bạc bạc tiền.
Thủ Nghĩa với Kỉnh Chi trong tác phẩm Chúa tàu Kim Qui được vận dụng “...Đêm ấy
hai người trò chuyện cùng nhau coi tâm đầu ý hiệp lắm. Trần Mừng thì kính Thủ
Nghĩa, còn Thủ Nghĩa thì yêu mến Trần Mừng…”[25;88]. Vì cả hai tôn trọng và cảm
thông cho hòan cảnh số phận mồ côi như nhau nên “tâm đầu ý hiệp”, dưới biết kính
trên, trên thì yêu mến dưới nên cư xử hòan tòan hợp ý nhau. Trong những ngữ cảnh
này, nếu tác giả sử dụng thành ngữ “Tâm đầu ý hợp” thì nó có ảnh hưởng gì đến nội
dung văn cảnh, nhưng khi dùng từ địa phương “hiệp” thay thế cho từ tòan dân “hợp”
thì tác giả đã tạo nên sắc thái địa phương giúp người đọc Nam Bộ dễ dàng thông hiểu.
Thành ngữ “Đồng tâm hiệp lực” được dùng trong tác phẩm Sống thác với tình
ông viết “…Hai con với chú đồng tâm hiệp chí xa lánh …”[37;93], là thành ngữ Hán
Việt nói lên sự cố gắng, một lòng chung sức đòan kết lại với nhau, ông Hai Cường
thấy tình cảnh khốn khổ của Thiên Hương với Lê, thì ông thương mà lo cưu mang
93
đùm bọc. Một người thì chồng chết, một người thì bị người tình phụ bạc, nên cuộc
sống khốn khổ phải vào tận Phú Quốc mà xa lánh cuộc đời vui hưởng thiên nhiên. Ông
Hai Cường vì muốn cho đời sống đỡ vất vả hơn, nên ông khuyên hai cô hãy quên
chuyện đau buồn cùng ông mà gầy dựng cuộc sống mới, lo cho hai đứa nhỏ có được
cuộc sống an nhàn của tạo hóa. Cùng một thành ngữ khi đưa vào tác phẩm Ở theo thời
lại mang ý nghĩa khác “…Vợ chồng phải chọn lựa cho đồng tâm hiệp chí cho biết
thương nhau…” [36;167]. Trong Khóc thầm lại viết “…Là kết bạn với người nam tử
đồng tâm đồng chí …”[31;45], ý nói tình nghĩa vợ chồng phải chọn lựa người cùng chí
hướng, đồng tâm mà xây dựng hạnh phúc. Thành ngữ “Ý hợp tâm đầu” hoàn toàn hiểu
nhau, thông cảm cho nhau. Khi hai người đã “Ý hợp tâm đầu” rồi thì cả hai lúc nào
cũng “Đồng tâm hiệp lực” lại với nhau nhờ đó mà gia đình vừa có hạnh phúc, xã hội
thêm vui. Ở đoạn văn vừa nêu thì đủ biết Thu Hà đau khổ biết dường nào khi phải
sống cùng người chồng không đồng quan điểm đồng suy nghĩ. Qua đó ta thấy được
điểm thành công sáng tạo rất tinh tế của Hồ Biểu Chánh.
3.2.2. Thành ngữ dung ở dạng tách đôi.
Với cách sử dụng sáng tạo các thành ngữ dân gian vào tác phẩm. Hồ Biểu
Chánh còn có khuynh hướng tách đôi thành ngữ, có dạng ông không dùng nguyên kết
cấu, mà có sự thay đổi bằng cách tách đôi thành ngữ gốc, thêm vào đó là một yếu tố
mới, để làm tăng thêm tính biểu cảm của nó, đồng thời muốn nhấn mạnh ý nghĩa cần
thể hiện.
Trong tác phẩm Tơ hồng vương vấn thành ngữ nguyên mẫu nhân dân ta có câu
“Cơm no áo ấm” nhưng khi được Hồ Biểu Chánh dùng vào tác phẩm. Thì ông đã tách
đôi chúng ra thành hai bộ phận bằng cách đẩy bộ phận từ loại danh từ về một phía,
tính từ về một phía thêm vào giữa là một ý nghĩa thuộc yếu tố phụ, nhưng góp phần
làm tăng thêm mặt ý nghĩa và tính biểu trưng cần đạt. Hồ Biểu Chánh đã lồng từ
“phải” vào thành ngữ “Cơm áo phải ấm no” được viết “…Nay nước mình đã mất chủ
quyền mà vì cơm áo phải ấm no,lại vì thảo thân vẹn tòan…”[38;196]. Đây là nét sáng
tạo độc đáo rất thành công ở ông, tuy thành ngữ được tách đôi nhưng vẫn giữ được ý
nghĩa hòan chỉnh và ý nghĩa biểu đạt.
Tác phẩm Cay đắng mùi đời cũng được thể hiện thành ngữ vừa nêu, thể hiện
đầy đủ đức tính cao đẹp của Thầy Đàng. Mặc dù Thầy Đàng phải sống trong cảnh
nghèo khó cơ cực nhưng không vì thế mà Thầy bán rẻ lương tâm mà không nuôi thằng
94
Được với con Liên. Thầy rất cương quyết để nuôi hai đứa nhỏ “…Đặng dạy nó biết
trọng nhơn nghĩa, biết khinh tiền tài…”[26;258], đồng thời Hồ Biểu Chánh cũng dùng
nghệ thuật sáng tạo là tách đôi thành ngữ ra làm hai mặt ý nghĩa để làm nổi bật tính
cân đối hàm súc của lời văn được trau chuốt hơn. Trong ngữ cảnh trên thành ngữ gốc
là “Trọng nghĩa khinh tài” khi vận dụng vào sáng tác thì Hồ Biểu Chánh đã tách thành
ngữ thành hai vế, làm cho thành ngữ nổi rõ tính cân đối. Qua đó ông còn chen từ
“nhân” và “tiền” vào thành ngữ góp phần làm sáng tỏ tính cụ thể của thành ngữ làm
cho người dọc dễ hiểu, dễ tiếp nhận nội dung của thành ngữ gốc. Cùng với điệp
từ“biết” được lặp lại hai lần nhằm nhấn mạnh nội dung thông tin cần đạt. Phải là người
rất tinh tế hiểu được trình độ về cách biến hóa thành ngữ của tác giả, thì mới có khả
năng nhận thức một cách sâu sắc dụng ý của Hồ Biểu Chánh được ông vận dụng một
cách linh họat như thế.
Cùng thành ngữ “Trọng nghĩa khinh tài” nhưng trong tác phẩm Thầy thông
ngôn cách diễn đạt thành ngữ này cũng khác “…Những người lập chi khác hơn Thầy
coi nhơn nghĩa hơn tiền tài, coi danh dự quý hơn quyền tước …”[42;513]. Trong ngữ
cảnh tác giả cũng chen từ vào thành ngữ gốc, đồng thời ông cũng bỏ bớt từ “trọng” và
“khinh” thay vào đó là cặp từ “coi…hơn…” tức là ông đã dùng thủ pháp so sánh trong
thành ngữ, để nhằm khẳng định “nhơn nghĩa” bao giờ cũng quý hơn “tiền tài” cách
diễn đạt như thế làm cho câu văn mất đi tính réo rắt trang trọng, mà nó trở nên bình dị
trơn tru hơn, giống như lời nói thường ngày mà ta thường bắt gặp giúp người đọc dễ
hiểu hơn. Từ cách diễn đạt này góp phần làm cho khả năng vận dụng thành ngữ của
Hồ Biểu Chánh trở nên uyển chuyển, tạo ra nhiều nét nghĩa, nhiều cách diễn đạt mới
hơn, góp phần làm cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc thêm phong phú và đa dạng.
Bên cạnh những thành ngữ này Hồ Biểu Chánh còn sáng tạo ở nhiều thành ngữ
nguyên bản khác như: Trai tài gái sắc; Nghĩa nặng tình sâu; …Hồ Biểu Chánh đã
thêm một số yếu tố mới vào trong thành ngữ gốc như: Trai tài phỉ chí gái sắc phỉ tình;
Nghĩa càng nặng tình càng sâu;…xuất hiện trong tác phẩm Nợ tình tác giả viết “…Cô
Cẩm Hường xin xăm thì nói, vì số phải khiến Ngưu Lang lìa Chức Nữ kẻ bên Tây bôn
ba người bên Đông chờ đợi…” [35;53]. Hồ Biểu Chánh đã tách đôi thành ngữ và nhấn
mạnh yếu tố phụ thêm vào thành ngữ gốc để làm tăng thêm tính biểu cảm, làm cho sự
xa cách giữa Cẩm Hường và Tất Đắc giống như cảnh Ngưu Lang và Chức Nữ khó
95
lòng mà gặp nhau. Tác giả đã mượn thành ngữ điển tích “Chàng Ngưu Ả Chức” để
miêu tả cảnh này.
Cụ thể trong tác phẩm Tơ hồng vương vấn ông đưa vào văn cảnh “…Nếu không
ân thì là nghĩa …mà nghĩa càng nặng thì ân càng sâu…”[38;69]. Hồ Biểu Chánh nhấn
mạnh tình nghĩa sâu nặng bền chặt giữa Cúc Hương và Vĩnh Xuân, nghĩa tình ấy càng
sâu sắc hơn khi Hồ Biểu Chánh xen vào thành ngữ gốc “Nghĩa nặng tình sâu” cấu trúc
phụ “…Càng…thì…càng…” làm cho nghĩa trong lời văn được khẳng định mạnh mẽ.
Với tài năng vốn có và khả năng sáng tạo tinh tế cùng việc vận dụng thành ngữ vào tác
phẩm. Ta thấy rõ một điều không phải nhà văn nào cũng giống nhà văn nào, không
phải nhà văn nào cũng sử dụng thành ngữ vào tác phẩm đều đạt hiệu quả cao như Hồ
Biểu Chánh, mà phải do tài năng sáng tác của người sử dụng. Hồ Biểu Chánh là một
trong những người khá thành công ở lĩnh vực này. Ông không chỉ vận dụng thành ngữ
một cách thành thạo, hài hòa mà còn sáng tác linh hoạt làm cho số lượng thành ngữ
trong tác phẩm trở nên phong phú, đa dạng. Đây rõ ràng là sự thành công của Hồ Biểu
Chánh cũng như sự đóng góp rất lớn của ông trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt.
3.2.3. Thành ngữ dùng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân.
Cũng bất cứ của cải vật chất và tinh thần nào, thì con người cũng sáng tạo ra
thành ngữ mà dùng. Khi xét về nguồn gốc cấu tạo và quy luật phát triển, thì những
cách biểu đạt có sẵn này vốn là những kết hợp tự do được xã hội gọt giũa dần. Bởi vậy
tính chất rắn nguyên vẹn nói trên không phải và không thể hoàn toàn tuyệt đối trong
lời nói được, vẫn có những khoảng trống dành riêng cho sự sáng tạo cá nhân, cùng với
việc dùng nguyên vẹn các thành ngữ vốn có của nhân dân. Hồ Biểu Chánh đã có sự
sáng tạo cho riêng mình một thành ngữ mới, nhưng ý nghĩa vẫn giữ nguyên thành ngữ
gốc. Trong việc sáng tạo ông đã dùng cả những hình thức cũ để nói những cái mới,
nghĩa mới, nội dung mới, cùng quan điểm mới …Qua cách dùng thành ngữ vào trong
tác phẩm, ta thấy Hồ Biểu Chánh có một phương hướng tu dưỡng đạo đức tư tưởng
mạnh mẽ của người dân Nam Bộ nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung.
Thành ngữ ở dạng sáng tạo của Hồ Biểu Chánh được dùng một cách linh hoạt,
nhịp nhàng cân đối hoàn toàn phù hợp với từng văn cảnh như:
Thành ngữ gốc Thành ngữ trong văn cảnh
Kim chi ngọc diệp → Kim diệp phỉ nguyền
Bướm lả ong lơi → Bướm ong rần rật
96
Ngoài ra Hồ Biểu Chánh còn cải biến cách phát âm thành ngữ, bằng cách bỏ
các yếu tố cũ không phù hợp để thay vào các yếu tố mới cho phù hợp với tình huống
trong ngữ cảnh, các yếu tố mới được đưa vào thành ngữ gốc một cách tự nhiên khéo
léo làm cho giá trị của thành ngữ tăng cao, lời văn thêm trau chuốt mạch lạc hơn như
các thành ngữ:
Ghẹo nguyệt trêu hoa → Ghẹo nguyệt giỡn hoa
Từ “trêu” trong thành ngữ gốc được thay bằng từ “giỡn”
Kinh hồn bạt vía → Kinh hồn khiếp vía
Từ “bạt” ” trong thành ngữ gốc được thay bằng từ “khiếp”
Sinh con đẻ cái → Sanh con đẻ cháu
Từ “sinh”,“cái” trong thành ngữ gốc được thay bằng từ “sanh”, “cháu” xuất
hiện trong tác phẩm Tân phong nữ sĩ vận dụng như sau “…Thì sanh đàn bà con gái để
hiệp với đàn ông con trai gầy dựng gia đình, sanh con đẻ cháu…”[39;44]
Khua môi múa mỏ → khua môi múa mép
Từ “mỏ” trong thành ngữ gốc được thay bằng từ “mép” được dùng trong tác
phẩm Chúa táu Kim Qui có viết “…Người mà thiên hạ thường hay khua môi múa mỏ
còn kẻ…”[25;147], trong Sống thác với tình thể hiện “…Té ra lời căn dặn là lời thành
thiệt…không phải lời phỉnh phờ ở khóe môi chót lưỡi…”[37;107]. Từ thành ngữ gốc
Hồ Biểu Chánh đã thay đổi âm tiết cũ thêm vào đó là âm tiết mới làm tăng tính địa
phương của ngôn ngữ Nam Bộ. Tác giả sử dụng cách biến âm này làm cho lời văn
được mạch lạc thu hút độc giả tạo ấn tượng khó quên. Thành ngữ cải biến sáng tạo
trong tác phẩm không những vận dụng từ ngữ dân gian, mà còn vận dụng tài tình thành
ngữ Hán Việt để làm tăng thêm tính nhuần nhuyễn hấp dẫn cho người tiếp nhận.
Thành ngữ gốc Thành ngữ được cải biến
Quốc sắc thiên hương → Sắc nước hương trời
Bỉ cực thái lai → Có cực trước rồi sau mới sướng
Văn võ tòan tài → Văn võ gồm tài
Hồn bay phách lạc → Hồn phi phách tán
Dày gió dạn sương → Dày dạn phong trần
Vật đổi sao dời → Vật hoán tinh vi…
Để cho cách nói thêm gần gũi với ngôn ngữ dân tộc nên đòi hỏi ngôn ngữ tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh phải mang tính dân tộc, tính cụ thể.
97
Như trong tác phẩm Ngọn cỏ gió đùa có đoạn viết “…Nàng đỗ thừa tại cha mẹ
ép, chứ nàng với Hải Yến tình nặng nghĩa dầy không lẽ nào mới …”[34;184]. Tác giả
đã chuyển thành ngữ gốc “Tình sâu nghĩa nặng” thành “Tình nặng nghĩa dầy”, với
cách sáng tạo mới góp phần làm tăng thêm tính hấp dẫn làm cho người đọc dễ hiểu
hơn. Bên cạnh việc sử dụng thành ngữ ở dạng cải biến, Hồ Biểu Chánh còn lượt bớt
lấy bộ phận làm cho thành ngữ có tính hàm súc và biểu đạt cao.
Hay thành ngữ “Có đầu có đuôi” khi dùng vào “…Để tôi nói đủ đầu đuôi cho
mà nghe…”[33;100] trích trong Nặng gáng cang thường mặc dù thành ngữ đã bị lượt
mất từ “có” thay bằng từ “đủ” chỉ lấy bộ phận “Đủ đầu đuôi” nhưng nghĩa thành ngữ
không thay đổi vẫn giữ được nội dung cần nói. Thành ngữ “Mâm cao cỗ đầy” đã lượt
mất từ “cao” đưa vào ngữ cảnh chỉ còn“…Bữa cơm chiều sơ sài như vậy nhưng mẹ
con gặp nhau vui mừng nên ăn ngon như mâm cỗ đầy…”[38;115] dùng trong Tơ hồng
hương vấn chỉ lấy bộ phận của thành ngữ “Mâm cỗ đầy” dù bị lượt mất đi những từ
không thích hợp, để diễn tả bữa cơm đạm bạt của mẹ con Vĩnh Xuân, chứng kiến cảnh
vui mừng đoàn viên mà bữa cơm nghèo thành bữa cơm cao lương mỹ vị. Bằng cách
vận dụng thành ngữ ngắn gọn đó không kém phần trau chuốt, nhưng Hồ Biểu Chánh
có thể gắn liền thành một ý hợp lẽ. Tuy có lượt bỏ mà vẫn đầy đủ ý tứ của câu văn làm
tăng tính hàm súc cô đọng hơn.
Thành ngữ “Dày gió dạn sương” được tác giả thay đổi vị trí từ ngữ và cải biến
thành “Dày dạn phong trần” chỉ sự từng trải, chịu đựng nhiều thử thách đến mức quen
với khó khăn vất vả. Ở ngữ cảnh “…Ông Hai Cường thuộc hạn bình dân nhờ ông đã
dày dạn phong trần nên ông lịch lãm nhơn tình thế thái…”[39;122] trích Sống thác với
tình thành ngữ nói về sự chịu đựng khó khăn thử thách của ông Hai Cường vốn là
người nông dân chất phác hiền lành. Chính cái nghèo đã rèn luyện ông trở thành người
có sức chịu đựng dẻo dai. Ông Hai Cường không ngại hoàn cảnh vất vả, cực khổ để
bảo bọc đứa cháu gái tên Lê, khi bị thất thân với Khải Quang và bị cha mẹ đánh đập
đuổi đi, ông không ngại gian lao đưa Lê ra đảo Phú Quốc trồng trọt làm ăn, do bản tính
quen làm lụn cả đời Ông Hai Cường luôn gắn liền với mảnh vườn thửa ruộng nên việc
mưu sinh bằng nghề trồng trọt để nuôi mẹ con Lê là lẽ tất nhiên. Là người từng trải
chuyện đời từng chịu đựng nhiều thử thách, ông Hai Cường đã “Dày dạn gió sương”
dạn dày kinh nghiệm sống và chiến đấu, phải chăn cái giá lạnh của sương gió, cái nóng
của nắng đã trở thành quen thuộc với người nông dân. Cho nên họ rất cứng cỏi sẵn
98
sàng đương đầu với mọi thử thách nghiệt ngã của thiên nhiên và con người. Từ thành
ngữ trên chúng ta hiểu được tính chịu đựng mạnh mẽ của ông Hai Cường rất bền bỉ
được Hồ Biểu Chánh đưa vào ngữ cảnh là rất thích hợp. Đồng thời giúp người đọc có
thể hình dung được tất cả những gian truân của người nông dân đã phải đương đầu,
trải nghiệm theo thời gian vì cuộc sống.
Cùng với cách biến âm này Hồ Biểu Chánh còn thể hiện rất nhiều thành ngữ
khác ở trong tác phẩm như:
Thành ngữ nguyên mẫu Thành ngữ trong văn cảnh
Chân ướt chân ráo → Chưn ướt chưn ráo
Tiến thóai lưỡng nan → Tấn thóai lưỡng nan
Hữu danh vô thiệt → Hữu danh vô thực…
Tác phẩm Tơ hồng vương vấn được biến âm cụ thể qua ngữ cảnh “…Thầy mới
tới còn chưn ướt chưn ráo không quen với ai…”[38;215], hay “… Người có danh
thường hay thận trọng…không để người ta chê hữu danh vô thiệt…” [38;232], chữ
“chơn”, “thực” biến âm thành ngữ gốc thành “chân”, “thiệt” thể hiện đầy đủ con
người nhân hậu của Vĩnh Xuân. Với cách sáng tạo đó bộc lộ được khả năng biểu đạt
và diễn xuất của nhân vật rất khéo léo. Bởi Hồ Biểu Chánh là người Nam Bộ nên trong
sáng tác cũng như trong việc dùng thành ngữ dân tộc ông có một tư tưởng giữ vững
lập trường ngôn ngữ của mình. Cho dù thành ngữ có sự biến âm đôi chút nhưng rất
phù hợp với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân Nam Bộ. Ngòai việc biến âm,
lượt bớt, chen thêm yếu tố cho thành ngữ gốc thì Hồ Biểu Chánh còn có thủ pháp nghệ
thuật sáng tạo mới là hoán đổi vị trí trong câu thành ngữ, mà số lượng từ nội dung ý
nghĩa biểu đạt vẫn không thay đổi, tiêu biểu rải rác ở một số tác phẩm như:
Thành ngữ nguyên mẫu Thành ngữ trong văn bản
Môn đương đối hộ → Đương môn hộ đối
Ghẹo nguyệt trêu hoa → Trêu hoa ghẹo nguyệt
Mặt ủ mày chau → Chau mày ủ mặt
Lòng son dạ sắt → Lòng dạ sắc son
Trôi sông lạc chợ → Lạc chợ trôi sông…
Trong tác phẩm Đóa hoa rừng tác giả viết “…Mà chừng nó thấy chú trai đó …
mẹ con bà Ba trọng đồ lạc chợ trôi sông …”[28;158]. Thành ngữ “Trôi sông lạc chợ”
99
được đảo lại “Lạc chợ trôi sông” ý nói người tha phương cầu thực lưu lạc xứ lạ quê
người, tác giả dùng làm cho lời văn trở nên bóng bẩy trơn tru phóng khoáng hơn.
Thành ngữ “Mặt ủ mày chau” góp phần ý nghĩa trong tác phẩm Khóc thầm khi
viết “…Vĩnh Thái thấy vợ ngăn trở việc của mình làm thì chau mày trợn mắt mà nói
rằng…”[31;98]. Trong Con nhà nghèo thì “…Cậu thấy Thị Tố thì chưng hửng rồi cậu
chau mày trợn mắt hỏi …”[23;46], và “…Nhớ tới việc của em …anh ta chau mày xịu
mặt quày quả bỏ đi về …”[23;22], và trong Cười gượng viết “…Cô Hảo chau mày
xanh mặt đứng trân trân không nói được...”[24;36]. Tất cả những thành ngữ đều miêu
tả vẻ mặt buồn rầu đau khổ của các nhân vật, đặc biệt là nỗi buồn của cô Hảo khi hay
người tình của mình là Tô Hồng Xương đi cưới vợ, ngược lại thái độ của Vĩnh Thái là
khinh khi vợ không theo ý cậu, lại còn khiển trách chê bai. Cậu Hai Nghĩa thì tác giả
dùng thành ngữ cố ý chỉ trích hành vi khinh người, thái độ thiếu tôn trọng người với
người coi dân nghèo như rơm rác, cử chỉ “Chau mày trợn mắt” của cậu đủ để nói lên
bản chất đê tiện của kẻ ham tiền háo sắc thiếu trách nhiệm không ý thức được việc
làm. Ngược lại thành ngữ “Chau mày xịu mặt” của Cai Tuần Bưởi là một cử chỉ đau
đớn khi nghĩ tới nỗi nhục gia đình, nỗi nhục tinh thần của em gái. Đó là cách sáng tạo
trong cách vận dụng thành ngữ của tác giả, tuy có phần thay đổi cấu trúc nhưng góp
phần tạo thêm tính trang trọng, cổ kính của thành ngữ được nâng cao hơn.
Với cách sáng tạo này giúp cho các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh trở nên quen
thuộc với nhân dân Nam Bộ. và đây cũng là nét đặc trưng để người nghiên cứu có thể
phân biệt được phong cách riêng của tác giả so với những nhà văn khác. Song ở Hồ
Biểu Chánh ta thấy được sự thành công của ông là dùng thành ngữ nguyên mẫu của
nhân dân, cộng thêm tính sánh tạo độc đáo của riêng mình, góp phần tạo nên nét nghĩa
mới khiến cho người đọc càng thích thú. Khi đọc vào ta có cảm giác gần gũi dễ hiểu
dễ thuộc.

100

PHẦN KẾT LUẬN

101
Có thể nói Hồ Biểu Chánh là một nhà văn độc tài trong lĩnh vực sáng tác cũng
như trong phong cách rất Nam Bộ, ông đã thể hiện được tài năng vốn có của mình ở
lĩnh vực văn học. Hầu như các tác phẩm của ông đều được đưa vào làng sân khấu nghệ
thuật, đặc biệt là giàn sân khấu cải lương của Nam Bộ, và còn đưa vào phim ảnh. Điều
đáng quan tâm hơn nữa là nội dung tác phẩm phần nhiều còn khẳng định những vấn đề
về đạo đức, nhân cách của người Việt Nam nói chung và người Nam Bộ nói riêng. Chỉ
cần một vấn đề của thành ngữ, dù câu không quá dài cũng không gọi là ngắn nhưng
cũng đủ nêu lên một bài học về đạo đức và thái độ làm người. Vì ông cho rằng thành
ngữ là sản phẩm tinh túy được kết hợp từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. Hồ
Biểu Chánh đã lồng thành ngữ vào trang viết dùng làm phương tiện đắc lực trong việc
diễn đạt và thể nghiệm linh hoạt có hiệu quả trong sáng tác.
Khi đến với đề tài nghiên cứu thì người viết gặp không ít khó khăn và trở ngại,
dù đã trải qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu cách sử dụng thành ngữ dân tộc vào
trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Thì chúng ta càng cảm mến và phục tài sáng tạo
của ông. Và đều đáng nhớ nữa là mỗi tác phẩm của ông điều viết về những con người
luôn gắn bó với các miền sông rạch ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bằng ngòi bút
sáng tạo thủ pháp vốn có ông đã cho ra đời những trang viết rất thật, rất chân tình làm
cảm động lòng người, đọc tác phẩm ta thấy xúc động thay những trang viết hay chính
những trang lòng của tác giả .
Nhìn chung ngoài những thành ngữ nguyên mẫu, Hồ Biểu Chánh còn lấy cả ý
lẫn lời hoặc mượn hình ảnh biểu tượng cấu tạo lại, để đưa vào văn cảnh cho phù hợp
với nội dung tác phẩm. Ông đã chắt lọc những gì tinh vi, để sáng tạo lại lời ăn tiếng
nói hằng ngày mang tính cửa miệng của quần chúng, và tạo màu sắc nghệ thuật của nó
thật lung linh. Dù biết rằng cách vận dụng thành ngữ của ông không đặc sắc hơn
những nhà thơ, nhà văn như: Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Sơn Nam, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Minh Châu, …nhưng không kém phần thành công với
lời văn nhẹ nhàng, giản dị cũng tạo được một phong cách riêng đậm chất Nam Bộ.
Tuy nhiên trong cách sáng tạo của Hồ Biểu Chánh ta thấy ông rất thận trọng
trong việc chọn lựa từ ngữ, chính ông đã tạo cho ngôn ngữ trong văn xuôi, có những
đặc điểm mới. Với câu văn như lời nói có trong sinh hoạt, ngôn ngữ nôm na bình dị
đưa vào văn xuôi tạo phong cách tả thực. Song những cố gắng của ông cũng chỉ mới
dừng lại ở đấy, câu văn thiếu quá trình tu sức thẩm mỹ, nên nhân vật được xây dựng
102
theo một kiểu, nhiều hành động mà ít biểu hiện tâm lý. Thế nhưng khi đọc tác phẩm
của Hồ Biểu Chánh người đọc phải xuýt xoa tiếc nuối vì trong bát cơm trắng trong đôi
khi còn rơi rớt mấy hạt sạn vô tình. Đó cũng là một phần hạn chế về nghệ thuật sáng
tác của ông.
Trải qua việc nghiên cứu người viết đã học hỏi và tích lũy thêm vốn hiểu biết
về ngôn ngữ nói và viết, nhưng đó cũng chưa đầy đủ để ta có cách nhìn, cách nghĩ một
cách độc lập và thực hiện nghiêm túc hơn. Bởi vì trí thức vốn là sợ dây trói buộc con
người, mà càng đọc sách nhiều thì ta sẽ càng cảm thấy mình thật nhỏ bé. Cho nên
chúng ta cần phải tiếp xúc với sách nhiều hơn, vì đọc sách rất có ích và nó cũng là
cách tốt nhất để tra tài liệu, đó là ưu điểm truyền thống của sách. Và từ sách giúp tôi
hoàn thành đề tài, củng cố được niềm tin vững chắc về vốn ngôn ngữ. Đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho người viết sử dụng ngôn ngữ được chính xác và phù hợp hơn.
103
PHỤ LỤC
BẢNG THỐNG KÊ THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM HỒ BIỂU
CHÁNH
S
T
T
Phân loại Thành ngữ gốc Thành ngữ trong văn cảnh Tác phẩm Số
Trang
1. Thiên
nhiên
Mưa thuận gió hòa

Dầm mưa dang


nắng

Dầm mưa trải


nắng

Sóng dồi gió dập


Trải nắng dầm
mưa

Dầm mưa dãi nắng

Thanh phong minh


nguyệt
Trăng trong gió
mát

- …Vái trời mưa thuận gió


may như vậy hoài…
- … Ruộng cũng cứ cấy lúa,
tá điền cũng dầm mưa dang
nắng…
- … Rồi nói với Thủ Nghĩa
… dầm mưa trải nắng…
- …Mà lội ngoài biển…sóng
dồi gió dập trồi lên…
- … Bộ tịch tèm lem của
đám trẻ… lội rạch trải nắng
dầm mưa…
- … Ảnh dầm mưa dãi nắng
cực khổ …
- … Tại anh thích thanh
phong minh nguyệt gặp cảnh
như vậy anh sanh cảm trong
lòng …
- … Gặp giữa trăng trong
gió mát vợ chồng nhắc ghế
dựa mấy bụi bông rồi mặt
nhìn nhau vịnh phú ngâm
thi…
Con nhà
nghèo

Chúa tàu
Kim Qui

Tơ hồng
vương vấn

Đóa hoa tàn

Đoạn tình
Ngọn cỏ gió
đùa
9

197

64

104

11

44

87

172

2. Ngoại
hình
Da trắng môi son

- … Thiếu phụ …áo lụa


quần hàng, da trắng môi
son…
Sống thác
với tình

18

104
Xanh như tàu lá

Da trắng môi son


Má phấn môi son

Da mặt đen nám

Trắng như tuyết

Môi đỏ như son

Xanh như tàu lá

Mặt như trăng rằm


Miệng như hoa nở

Tươi như hoa


-…Ăn ngủ không được ốm
như tàu lá- Thu Thủy
- …Ngó Thu Vân…còn con
mặt mày sáng rỡ da trắng
môi son …
- …Cô Năm Đào …như hoa
nở như trăng tròn da trắng
môi son…
- … Đầu trọc lóc mình ốm
teo…
- …Có một cô gái…má
phấn môi son…
- … Phạm Kỉnh Chi lao thân
lao lực…
- …Thu Hà…da mặt cô
trắng ngần…
- …Môi đỏ như thoa son, da
trắng như giồi phấn…Cô
Túy Nga…
- … Ăn không được…ốm
teo như tàu lá - Cô Tư Thục
- …Cô Đào vì từ lúc ngây
thơ …ít nói ít cười mà hễ có
dịp vui làm cho cô phải
cười, thì mặt như trăng rằm,
miệng như hoa nở…
-…Cô Tân Phong đứng dậy
bước ra mặt sáng như trăng
rằm, miệng cười như hoa nở,
cô đưa tay mà bắt tay chào
Vĩnh Xuân và nói …

Chút phận
linh đinh

Vì nghĩa vì
tình

Chúa tàu
Kim Qui

Khóc thầm

Đóa hoa tàn

Con nhà
Nghèo
Lời thề
trước miểu

Tân phong
nữ sĩ
193

96

34

41

100

157

7
10

329

148
3. Tâm lý Ruột đau như cắt -…Thủ nghĩa ra khỏi xóm Chúa tàu 59
105
tính cách
Hồn phi phách tán

Tâm đầu ý hiệp

Mặt ủ may chau

Ủ mặt chau mày

Héo gan héo ruột

Đứt gan đứt ruột

Chau mày ủ mặt

Ủ mặt chau mày

Thầm thương trộm


nhớ
Mặt ủ mày chau

Nát gan đứt ruột

Tâm đầu ý hiệp


… ruột đau như cắt...
- … Trần Mừng…hồn phi
phách tán…
-…Án sát…hồn phi phách
tán …
- … Hai người trò chuyện
coi tâm đầu ý hiệp…
-…Treo trước mắt nên chau
mày ủ mặt…
- … Hải Đường nhớ cái
nhà…ủ mặt mày chau…
- …Lê Văn Đó…chau mày
ủ mặt…
- …Lê Văn Đó thấy tình
cảnh thì teo gan héo ruột ...
- …Thanh Tòng…nát gan
đứt ruột ...
- …Lê Bích đương vui …
chau mày ủ mặt…
- …Vĩnh Xuân ủ mặt mày
chau …
- …Thân mến nhau hai
tháng … thầm thương trộm
nhớ…
- …Chàng gát tay qua trán
… chau mày ủ mặt…
- …Thằng Qùi…chau mày
xịu mặt ...
- …Trọng Quí thấy cái buồn
nên đứt ruột ...
- …Vợ chồng với nhau nên
tầm đầu ý hiệp…
Kim Qui

Đóa hoa tàn

Ngọn cỏ gió
đùa
Nặng gánh
cang thường

Tơ hồng
vương vấn

Vì nghĩa vì
tình

Chút phận
linh đinh

85

194

88

142

36

39

46

123

174

160

169

36

70
95

10

106
Cứng đầu cứng cổ

Ô danh bại giá

Ô danh bại giá

Nước đỗ lá môn
- … Má con dại bảo…nếu
con cứng đầu cứng cổ…
- … Vì sợ con ô danh xủ
tiết…
-…Dầu ai ô danh thất tiết
mặt ai…
- … Người vướng bệnh
tình…như nước đỗ lá môn…

Con nhà
nghèo
Sống thác
với tình
8

189

36

166
4. Hành
động
họat
động
Ăn no ngủ kỹ

Chí tang bồng

No cơm ấm áo

Đói cơm khát


nước
Bũa đói bữa no

Sa chân lỡ bước

Mưa gánh bán


bưng

Ăn đói mặc rách

Đổ mồ hôi sôi con


mắt
-…Để cho họ ở nhà ăn ngon
ngủ ấm cũng gọi là…
-…Thủ Nghĩa tay nắm kì lái
chí tang bồng…
-…Làm ơn cho em no cơm
ấm áo em chẳng…
-…Em đeo tấm ván…mà lại
đói cơm khát nước…
-…Con mình bây giờ…chắc
là bữa đói bữa no…
- … Mình muốn đi…bữa đói
bữa no vậy thì học làm chi
- ... Mai mốt…sa chân sẩy
bước…
- …Anh phải học…khỏi
mua gánh bán bưng cực khổ
- …Từ ngày chồng thím
khuất…mua gánh bán bưng
mỗi ngày…
- …Bởi vậy ăn đói mặc rách
chịu cực khổ trong sáu
năm…
- …Thầy làm đổ mồ hôi xót
con mắt mà gây dựng…
Con nhà
nghèo
Chúa tàu
Kim Qui
Vì nghĩa vì
tình
Tơ hồng
vương vấn

Đóa hoa tàn

Khóc thầm

36

60

162

106

36

175

266

60

70

70

68

107
Bầm gan tím ruột
Nằm gai niêm mật

Trêu hoa ghẹo


nguyệt
Ghẹo nguyệt trêu
hoa
- …Cái đó ác lắm người ta
làm đổ mồ hôi xót con mắt...
- …Cô nghe chồng nói…thì
cô bẩy gan ứa mật,…
- …Đạo làm trai…trải mật
phơi gan…
-…Con nhà quan lại học
đòi…trêu hoa ghẹo nguyệt
-…Chồng thi đậu…ghẹo
nguyệt giỡn hoa…

Nặng gánh
cang thường

Ngọn cỏ gió
đùa
147

96

182

103

175
5. Nguyên
mẫu
Một câu nhịn chín
câu lành
Chịu đấm ăn xôi

Thân phận bọt bèo

Vong ân bội nghĩa


Gió dập sóng dồi

Chí tang bồng

Ăn no ngủ kỹ

Đứt ruột đứt gan

Loan phụng hòa


minh
Một câu nhịn chín
câu lành

-…Một câu nhịn chín câu


lành, phận mình nghèo…
-…Ấy là anh ta nghĩ mình
ráng chịu đấm ăn xôi chứ…
- … Bẩm bà xin bà thương
dùm thân phận bọt bèo…
-…Nên tôi chắc không khi
nào nó vong ân bội nghĩa…
-…Bạn tàu và mấy người …
sóng dồi gió dập trồi lên…
-…Thủ Nghĩa tay nắm chèo
chơn kìm lái chí tang bồng...
-…Xin Chúa tàu cứ việc ăn
no ngủ kỹ đừng lo sợ chi…
-…Tấn Thân thất vậy lại còn
đứt ruột đứt gan hơn nữa…
-…Vợ chồng…gọi là loan
phụng hòa minh…
-…Tưởng là sắc cần hòa
hiệp loan phụng hòa minh…
- … Một câu nhịn chin câu
lành…
Con nhà
nghèo

Chúa tàu
Kim Qui

Khóc thầm

Ở theo thời

84

81

72

186

104

58

79

171

58

144

146

108
Phú quý vinh hoa

Vong ân bội nghĩa

Một câu nhịn chín


câu lành
Tài cao đức trọng
Chẳng chịu đội
trời chung
Bất cộng đái thiên

Áng binh bất động

Nước đỗ lá môn

No cơm ấm áo

Ông Tơ Bà
Nguyệt
Ông Tơ Bà
Nguyệt
Ông Tơ Bà
Nguyệt

Ông Tơ Bà
Nguyệt
- …Thầy ở lại ăn cơm…lại
được phú quý vinh hoa…
-…Chúng tôi xin độc giả
đọc số báo sau … gở mặt nạ
kẻ vong ân bội nghĩa cho
công chúng…
- … Phải mẹ …nhưng mà
một câu nhịn chin câu lành
- …Nay lệnh bệ hạ sai
Nguyên Nhung …tài cao
đức trọng …
-…Lệ Bích nói tiếp…chẳng
chịu đội trời chung đã…
- … À thôi chữ phụ thì bất
cộng đái thiên ta không
thể…
-…Nay ta thấy giặc áng binh
bất động nên trong bụng …
-…Ôi trai gái thề thốt với
nhau như nước đỗ lá môn ăn
chịu vào đâu mà tin…
- …Tại ý cậu tôi …phải lo
cho no cơm ấm áo…
- …Chỉ có Ông Tơ Bà
Nguyệt nới biết…
- … Tục truyền về chuyện
Ông Tơ Bà Nguyệt …
- … Nhưng thuở nay có ai
thấy được Ông Tơ Bà
Nguyệt hồi nào…
- … Hôm trước qua nói …
biết duyên nợ thì phải vái

Nặng gánh
cang thường

Cười gượng

Tơ hồng
vương vấn

241

254
24

76

77

87

190

22

23

38

41

41

41

109

Bữa đói bữa no

Thầm yêu trộm


nhớ

Mua gánh bán


bưng
Lên voi xuống
ngựa

Vật đổi sao dời

Chướng tai gai


mắt

Nhập gia tùy tục


Danh bất hư
truyền
Lên xe xuống
ngựa

An cư lạc nghiệp

Tam tòng tứ đức

Nhân tình thế thái

Ông Tơ Bà Nguyệt.
-…Mình nuốn đi học…bỏ
mẹ ở nhà áo quần rách rưới
bữa đói bữa no vậy thì…
- …Thân mến nhau trót hai
tháng…rồi thầm yêu trộm
nhớ…
-…Anh phải học…khỏi mua
gánh bán bưng cực khổ …
-…Số người ham tiền …
được lên voi xuống ngựa ăn
mặc…
-…Cháu phải nhờ…mặc dầu
vật đổi sau dời cháu là
người Việt…
- …Bấy giờ…làm nhiều
việc cháu thường gai mắt hết
sức…
- …Tôi khuyên nhập gia tùy
tục ta làm sao…
- …Phải làm sao… công
nhận danh bất hư truyền
- …Cưới vợ thiệt giàu …
đặng lên xe xuống ngựa ăn ở
cao sang…
- …Cháu có học tứ thơ, cháu
biết …xa gần đều lạc nghiệp
an cư mà mình ở…
-…Nó sẽ cưới vợ …biết tam
tòng tứ đức…
- …Tôi luận nhân tình thế
thái …
Tân phong
nữ sĩ

60

123

127

131

143
159

164

108

185

141

24

77

110
Thanh phong minh
nguyệt
Thầm yêu trộm
nhớ

Bóng chim tăm cá

Sướng như tiên

Kết tóc se tơ

Nam thanh nữ tú

Trên trời dưới đất

Tu mi nam tử

Đầu dây mối nhợ

No cơm ấm áo

Than thân trách


phận
Cải ác tùng thiện

Ơn sâu nghĩa nặng


- …Tại anh thích thanh
phong minh nguyệt…
- …Song cô vẫn coi thầy
thuốc Cộn … cốt thầm yêu
trộm nhớ cô…
-…Nghĩ điều rừng thẳm vực
sâu suối…bóng chim tăm cá
biết đâu mà tìm …
-…Nếu điểu thì làm đám
cưới …ăn sướng như tiên …
-…Vì ông thờ chủ nghĩa …
cố gắng kết tóc xe tơ…
-…Vì ông thờ chủ nghĩa…
cho nam thanh nữ tú …
- … Nói trên trời dưới đất
mênh mông làm cho tôi ...
- ...Có lẽ chúng ta phận tu
mi nam tử…
-…Chủ điền…mà đầu dây
mối nhợ cũng tại…
- … Ở đợ ít năm cho biết
nghề làm ruộng … cũng no
cơm ấm áo được vậy…
- ... Từ ngày anh ta…mới
biết than thân trách phận…
- ... Những người ái mộ
đạo…cải ác tùng thiện …
- ... Cậu đã cứu ông cháu tôi
ơn sâu nghĩa nặng chớ còn...
Đọan tình

Thiệt giả giả


thiệt

Đóa hoa
rừng

Nợ tình
Lời thề
trước miễu

Ngọn cỏ gió
đùa

78

100

125

13

27

27

51

70

29
7

34

78

484
6. Mượn ý
cải biên
Mặt ủ mày chau

Ô danh bại giá


-…Anh ta chau mày xịu mặt
quày quả …
- …Dầu ai ô danh thất tiết…
Con nhà
nghèo

26

36
111
Kinh hồn bạt vía

Dầm mưa trải


nắng
Ngày qua tháng lại

Táng gia bại sản

Hồn phi phách lạc

Tâm đầu ý hợp

Áo rách khố ôm

Gió dập sóng dồi

Môn đăng hộ đối

Đồng tâm hiệp lực

Ô dang bại giá

Môn đăng hộ đối

Môn đăng hộ đối

- ... Tôi nhớ trong nhà kinh


hồn khiếp vía ...
-…Ruộng cứ cấy…cùng
dầm mưa dang nắng ...
- ... Ngày qua đêm lại lần
lượt…
- … Em rễ vì thế mặt cho
mình táng gia bại sản thân
bình bồng không biết…
- …Vì lòng tri kỷ với mình
mà tán gia bại sản ơn ấy
- …Trần Mừng nghe nói …
hồn phi phách tán…
- …Đêm ấy hai người…coi
tâm đầu ý hợp lắm…
- …Chẳng thà mẹ cha còn
dầu mình áo rách tay trơn
- …Cách chẳng bao lâu sóng
dồi gió dập trồi lên…
- …Ham gả chổ đương môn
đối hộ làm chi…

-… Hai con với chú đồng


tâm hiệp chí xa lánh…
- …Dụ dổ con gái nhà nghèo
… có ô danh xủ tiết
- …Hai ông bà nhứt định
muốn tìm chỗ giàu sang …
đặng đương môn môn đối
hộ…
- …Ấy là cuộc vợ chồng
đương môn đối hộ của ông

Chúa tàu
Kim Qui

Đóa hoa tàn


Sống thác
với tình

70

197

22

52

53

74

77

82

91

52

93

94

125

126

112
An bần lạc đạo

Đồng tâm hiệp lực

Táng gia bại sản

Vinh hoa phú quý

Văn võ toàn tài

Mặt ủ mày chau

Có đầu có đuôi

Kết duyên châu


trần

Mặt ủ mày chau

Khải Quang…
- … Mấy ông mấy bả ở theo
xưa mới thấy vợ chồng yêu
nhau ….không phải nhờ
đương môn đối hộ…
- …Tại bà mẹ lựa chỗ
đương môn đối hộ mà làm
sui…
- … Thuở nay cứ ham chen
lấn mà giành giựt vui sướng,
chưa hề nghĩ tới sự an bần
lạc đạo bao giờ…
- … Vợ chồng… cho đồng
tâm hiệp ý cho…
-…Tại cái mạng tôi phải
táng gia bại sản…
-…Thầy ở lại …lại được
phú quý vinh hoa…
- … Nàng Lệ Bích là một
gái dung nhan tuyệt thế…
thêm văn vỏ gồm tài…
- …Bà thấy ông đương ngồi
chồng tay…
- …Chớ không ủ mặt chau
mày tối ngày…
-…Để nói đủ đầu đuôi cho
mà nghe…
-…Thu Thủy… mà phối
hiệp châu trần…
-…Chừng nghe hỏi…chau
mày ủ mặt rồi đổ quạu…
-…Chúa tàu nhớ lại…loan

Ở theo thời

Nặng gánh
cang thường

Chúa tàu
Kim Qui
127

131

10

167

214

241

14

164

100

121

123

124
113
Loan phụng hòa
minh
Kết tóc xe tơ

Khua môi múa


mép
Kết tóc xe tơ

Hồn bay phách lạc

Đền ơn trả nghĩa


Tranh danh đoạt
lợi
Đồng tâm hiệp lực

Đổ mồ hôi sôi con


mắt

An cư lạc nghiệp

Phàm phu tục tử

Bỉ cực thái lai

Kết tóc xe tơ

Lang thang như


thành hoàng làng
khó
Mâm cao cổ đầy
phụng hòa minh…
-…Chúa tàu…mà xin kết tóc
trăm năm…
-…Người mà thiên hạ…hay
khua môi múa mỏ còn kẻ…

-…Bởi vậy…mới quyết kết


tóc trăm năm…
-…Quan án…thì hồn phi
phách tán sợ run…
- …Thủ Nghĩa đền ơn trả
oán xong hết…
-…Người có học thức ai
cũng lo tranh danh trục lợi…
-…Người nam tử đồng tâm
đồng chí…
-…Té ra mình làm đổ mồ
hôi xót con mắt mà cái lợi…
- …Người ta đổ mồ hôi xót
con mắt mới khai phá…
- …Lo xây dựng…lạc
nghiệp an cư…
-…Ái tình của bọn tục tử
phàm phu hết thảy…
-…Có cực trước thì sau mới
sướng có buồn thì…
- …Vĩnh Xuân…kết tóc
trăm năm với Lý Cúc Hương
-…Mà bận cho khỏi lang
thang rách rưới…

- …Vui mừng nên ăn ngon

Khóc thầm

Tơ hồng
vương vấn

125

128

158
170

195

20

41

71

131
6

45

46

50

58

85
114

Chân ướt chân ráo

Hữu danh vô thực

Sinh con đẻ cái

Sanh con đẻ cháu

Bướm lả ong lơi

Tham sống sợ chết


như mâm cổ đầy …
- …Thầy mới tới chân ướt
chân ráo…
-…Chê mình hữu danh vô
thực…
-…Gia đình sanh con đẻ
cháu…
-… Nay mai đây mẹ con tôi
sẽ đi để cho cậu ở đay thông
thả mà cưới vợ giàu rồi sanh
con đẻ cháu cho nhiều mà
nối dòng…
- …Trót mười năm nay
bướm ong rần rật trăng gió ê
hề…
- …Thẩy thuộc về hạng
trung lưu tính thấp thỏi ham
sống sợ chết chẳng bao giờ
dám…

Tân phong
nữ sĩ

Cười gượng

Lời thề
trước miễu

155

168

12

82

97
7. Tách đôi Cơm no áo ấm
Cá chậu chim lồng

Trọng nghĩa khinh


tài

Nghĩa nặng tình


sâu

Trai tài gái sắc

- …Mất chủ quyền…vì cơm


áo phải ấm no…
- …Vĩnh Xuân buồn rầu …
chim bị nhốt trong lòng cá bị
sa vào rọ…
-…Tánh nết khác nhau …
trọng nhân nghĩa khinh tiền
tài…
- Nêu không ân thì nghĩa …
nghĩa càng nặng thì tình
càng sâu…
- …Trai tài phỉ chí gái sắc
phỉ tình…cô Cẩm Hường…
Tơ hồng
vương vấn

Nợ tình

196

81

63
69

53

115
Chức Nữ Ngưu
Lang
Chim có cánh cá
có vây
Ăn nên đợi nói
nên lời
Ngồi trên lưng cọp

Chim lồng cá chậu

Nước đỗ lá môn
-…Vì khiến Ngưu Lang lìa
xa Chức Nữ…
- …Thì chẳng khác nào như
cá có vi như chim đủ cánh…
- …Vợ thì ăn một đọi nói
một lời…
-… Nghĩ mình đã leo lỡ lên
lưng cọp không dễ gì…
- …Hai nàng cũng như chim
ở trong lồng, cá ở trong
chậu…
- Hòa thượng ra…như nước
đỗ trên lá môn…

Chúa tàu
Kim Qui
Khóc thầm

Nặng gánh
cang thường

Ngọn cỏ gió
đùa
53
58

58

191

106

69

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu sách ngôn ngữ và tạp chí:

1. Đỗ Hữu Châu - Các bình diện của từ và từ tiếng Việt. Nxb. KHXH - Hà Nội.
1986.
2. Đỗ Hữu Châu - Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt .Nxb. GD. 1996.
3. Nguyễn Thiện Giáp - Từ và nhận diện từ tiếng Việt. Nxb. GD. 1996.
4. Nguyễn Hữu Huỳnh - Tiếng Việt hiện đại. Trung tâm biên sọan từ điển bách
khoa Việt Nam. 1994.
5. Hoàng Văn Hành - Kể chuyển thành ngữ, tục ngữ. Nxb. KHXH. 1994.
6. Hồ Lê – Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại. Nxb. Đại học và THCN - Hà Nội.
1978.
7. Trần Thị Ngọc Lang – Ngôn ngữ Hồ Biểu Chánh, những phương diện cần
nghiên cứu. Tạp chí số 1/1996. Viện ngôn ngữ học ủy ban khoa học xã hội Việt
Nam.
8. Nguyễn Văn Mệnh - Ranh giới giữa tục ngữ và thành ngữ. Tạp chí ngôn ngữ số
3/1972.
9. Đái Xuân Ninh - Hoạt động của từ tiếng Việt. Nxb. KHXH - Hà Nội. 1978.
10. Nguyễn Văn Nở - Phong cách học tiếng Việt. Cần Thơ – 2004
11. Huỳnh Thị Lan Phương – Văn học Việt Nam hiện đại. Cần Thơ - 2000
12. Cù Đình Tú - Phong cách học tiếng Việt và đặc điểm tu từ tiếng Việt. Nxb. GD.
1983.
13. Nguyễn Văn Tu - Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại. Nxb. Đại học và THCN -
Hà Nội. 1976.
14. Nguyễn Thị Thu Thủy – Bài giảng môn từ vựng học tiếng Việt. Cần Thơ –
2001.
* Tác phẩm văn học:
15. Hoài Anh – Chân dung văn học. Nxb. Hội nhà văn. 2001.
16. Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu. Nxb. Hội nhà văn. 1996
117
17. Hoàng Nhân – Phác thảo văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại. Nxb.
Mũi Cà Mau. 1998.
18. Vũ Ngọc Phan - Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (tập 3) .Nxb. KHXH. Hà
Nội. 1991.
19. Hòang Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Hồ Dzếnh – Phê bình
bình luận văn học. Nxb. Văn nghệ - TPHCM.
20. Thiếu Sơn – Thiếu Sơn toàn tập (tập 1). Nxb. KHXH. 1993.
21. Hồ Biểu Chánh – Ai làm được. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
22. Hồ Biểu Chánh – Chút phận linh đinh. Nxb. Phụ nữ
23. Hồ Biểu Chánh – Con nhà nghèo. Nxb. Văn nghệ - TPHCM. 1988.
24. Hồ Biểu Chánh – Cười gượng. Nxb. Phụ nữ
25. Hồ Biểu Chánh – Chúa tàu Kim Qui. Nxb. Phụ nữ.
26. Hồ Biểu Chánh – Cay đắng mùi đời. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
27. Hồ Biểu Chánh – Cha con nghĩa nặng. Nxb. Văn hóa Sài gòn
28. Hồ Biểu Chánh – Đóa hoa rừng. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
19. Hồ Biểu Chánh – Đoạn tình. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
30. Hồ Biểu Chánh – Đóa hoa tàn. Nxb. Phụ nữ.
31. Hồ Biểu Chánh – Khóc thầm. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
32. Hồ Biểu Chánh – Lời thề trước miễu. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
33. Hồ Biểu Chánh – Nặng gánh cang thường. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
34. Hồ Biểu Chánh – Ngọn cỏ gió đùa. Nxb. Văn nghệ - TPHCM. 1996.
35.Hồ Biểu Chánh – Nợ tình. . Nxb. Phụ nữ.
36. Hồ Biểu Chánh – Ở theo thời. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
37. Hồ Biểu Chánh – Sống thác với tình. Nxb. Phụ nữ.
38. Hồ Biểu Chánh – Tơ hồng vương vấn. Tác giả giữ bản quyền
39. Hồ Biểu Chánh – Tân phong nữ sĩ. . Nxb. Phụ nữ.
40. Hồ Biểu Chánh – Thiệt giả giả thiệt. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
41. Hồ Biểu Chánh – Tiền bạc bạc tiền. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
42. Hồ Biểu Chánh – Thầy thông ngôn. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
43. Hồ Biểu Chánh – Tỉnh mộng. Nxb. Văn hóa Sài gòn.
44. Hồ Biểu Chánh – Vì nghĩa vì tình. Nxb. Văn hóa Sài gòn.

118
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………
119

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU Số trang
6. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..1
7. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………...2
8. Mục đích yêu cầu…………………………………………………………..6
9. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………...7
10. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THÀNH NGỮ
1.1. Khái niệm về thành ngữ……………………………………………………9
1.2. Cấu tạo của thành ngữ……………………………………………………...11
1.2.1. So Sánh…………………………………………………………………...11
1.2.2. Phép đối…………………………………………………………………..12
1.2.3. Phép điệp………………………………………………………………….13
1.3. Đặc điểm của thành ngữ…………………………………………………….15
1.3.1. Tính biểu trưng…………………………………………………………....15
1.3.2. Tính dân tộc và tính cụ thể………………………………………………..16
1.3.3. Tính biểu thái……………………………………………………………..18
1.3.4. Tính hình tượng…………………………………………………………...18
1.3.5. Tính điệp và đối…………………………………………………………...19
1.4.Phân loại thành ngữ và phân biệt thành ngữ và tục ngữ…………………….-
1.4.1. Phân loại thành ngữ……………………………………………………….-
1.4.1.1. Dựa vào cấu trúc………………………………………………………...-
1.4.1.1.1. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm từ………………………………....-
1.4.1.1.2. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm chủ vị…………………………….19
1.4.1.2. Dựa vào nguồn gốc……………………………………………………...20
1.4.1.2.1. Thành ngữ Thuần Việt………………………………………………..-
1.4.1.2.2. Thành ngữ Hán Việt…………………………………………………..-
1.4.1.3. Dựa vào tính biểu trưng…………………………………………………-
120
1.4.1.3.1. Thành ngữ có tính biểu trưng thấp……………………………………-
1.4.1.3.2. Thành ngữ có tính biểu trưng cao…………………………………….20
1.4.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ…………………………………………...21
1.4.2.1.Những nét giống nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ………………22
1.4.2.2. Những nét khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ……………….-
1.4.2.2.1.Về mặt ý nghĩa………………………………………………………...22
1.4.2.2.2. Về mặt ngữ pháp……………………………………………………...23
1.4.2.2.3. Về mặt chức năng……………………………………………………..23
1.5. Ý nghĩa của thành ngữ………………………………………………………25
CHƯƠNG 2: THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM HỒ BIỂU CHÁNH
2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Hồ Biểu Chánh………………………27
2.1.1. Cuộc đời………………………………………………………………….28
2.1.2. Sự nghiệp sáng tác……………………………………………………….29
2.2. Phân loại thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh……………………....30
2.2.1. Thành ngữ có kết cấu là một cụm từ……………………………………..31
2.2.2. Thành ngữ có cấu trúc là một cụm chủ vị………………………………..33
2.2.3. Thành ngữ Thuần Việt…………………………………………………...35
2.2.4. Thành ngữ Hán Việt……………………………………………………...39
2.2.5. Thành ngữ có tính biểu trưng…………………………………………….43
2.2.6. Thành ngữ có tính dân tộc và tính cụ thể…………………………………45
2.2.7. Thành ngữ có tính biểu thái………………………………………………49
2.2.8. Thành ngữ tính hình tượng………………………………………………50
2.2.9. Thành ngữ có tính điệp và đối………………………………………...…..51
2.3. Mục đích sử dụng thành ngữ trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh……………...56
2.3.1. Thành ngữ miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm…………………………...57
2.3.2. Thành ngữ miêu tả nhân vật trong tác phẩm……………………………...60
2.3.2.1. Thành ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật………………………………...61
2.3.2.2. Thành ngữ miêu tâm lí tính cách hình nhân vật………………………...65
2.3.2.3. Thành ngữ miêu tả hàng động hoạt động nhân vật……………………..69
CHƯƠNG 3: NHỮNG SÁNG TẠO CỦA HỒ BIÊU CHÁNH TRONG VIỆC SỬ
DỤNG THÀNH NGỮ Ở MỘT SỐ TÁC PHẨM
3.1. Sử dụng thành ngữ ở dạng nguyên mẫu……………………………………76
121
3.2. Sử dụng thành ngữ ở dạng sáng tạo………………………………………...82
3.2.1. Thành ngữ dùng ở dạng mượn ý………………………………………….83
3.2.2. Thành ngữ dùng ở dạng tách đôi………………………………………….85
3.2.3.Thành ngữ dùng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân………….87
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
122
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN DIỆN
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
123
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
………………………………………………………………………
……………………............

You might also like