You are on page 1of 145

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

NGUYỄN THỊ ĐIỆP

DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ


TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM


MÃ SỐ : 60 22 34

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


Phó Giáo sư - Tiến sĩ TRẦN HỮU TÁ

CẦN THƠ 2009

1
Lời cảm ơn
Sau ba năm học, đến thời điểm hiện tại tôi đã hoàn thành chương
trình Cao học ngành Văn học Việt Nam dưới mái trường Đại học Cần Thơ
nhờ sự giúp đỡ, động viên chân thành của rất nhiều thầy cô, gia đình và
bạn bè; sự tạo điều kiện thuận lợi của trường THPT Nguyễn Hùng Sơn,
Rạch Giá, Kiên Giang - nơi tôi đang công tác. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành đến tất cả.
Đồng thời tôi xin đặc biệt gửi lời tri ân đến cố nhà văn Sơn Nam,
người đã tạo ra những tác phẩm và mang đến cho tôi một tình yêu, một sự
say mê đối với mảnh đất, con người và văn học Nam Bộ.
Luận văn “Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn
Nam” là ý tưởng mà tiến sĩ Huỳnh Công Tín đã bồi đắp cho tôi ngay từ
những ngày học đầu tiên. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Huỳnh
Công Tín.
Cuối cùng, thật may mắn cho cá nhân tôi đã được sự giúp đỡ nhiệt
tình, nghiêm túc, nghiêm khắc và rất khoa học của Phó Giáo sư, Tiến Sĩ
Trần Hữu Tá. Nhờ đó, tôi đã học được cách thức làm việc cẩn trọng, khoa
học và có trách nhiệm. Tôi xin gửi đến thầy Trần Hữu Tá lời cám ơn chân
thành và lời chúc sức khỏe.

Cần Thơ, tháng 10 năm 2009


Nguyễn Thị Điệp

2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài -------------------------------------------------------------1


2. Mục đích nghiên cứu ---------------------------------------------------------------3
3. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………...…...…3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu …………………………………………7
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………..8
6. Đóng góp của luận văn …………………………………………………….9
7. Cấu trúc của luận văn ………………………………………………...……9
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA NAM BỘ
1.1 Một số vấn đề về văn hóa ……………………………………………………11
1.1.1 Khái niệm văn hóa……………………………………………….……11
1.1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học………………………………...13
1.2 Đặc điểm về văn hóa Nam Bộ ……………………………………..……….16
1.2.1 Nền tảng địa - văn hóa Nam Bộ ……………………………………...16
1.2.2 Một số nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ ……………………………17
1.3 Nhà văn Sơn Nam với vùng đất Nam Bộ ……………………………………23
1.3.1 Cuộc đời và sự nghiệp ……………………………………………...…23
1.3.2 Ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh sống ở Nam Bộ đến Sơn Nam
………………………………………………………………………………..27
Chương 2:
DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ QUA CẢNH VÀ NGƯỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
2.1 Cảnh Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam …………………………………31
2.1.1 Cảnh thiên nhiên trong truyện ngắn Sơn Nam ……………………..….32
2.1.1.1 Thiên nhiên đậm chất hoang sơ, dữ dội .….…….…………………....32
2.1.1.2 Thiên nhiên gần gũi, hiền hòa, gắn bó với cuộc sống của con người
………………………………………………………………………………..37
2.1.2 Cảnh xã hội trong truyện ngắn Sơn Nam …………………………...…41
2.2 Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam ………………………...…49
2.2.1 Hoàn cảnh sống của con người Nam Bộ …………………………...…49
2.2.2 Đặc điểm về con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam ….…..…51
2.2.2.1 Mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên ……………….…51
2.2.2.2 Mối quan hệ giữa con người với xã hội ………………………….…61
3
a. Trong mối quan hệ giữa con người với cộng đồng ……………...…62
b. Trong mối quan hệ giữa con người với con người ……...……….....66
Chương 3:
DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ QUA NGHỆ THUẬT
CỦA TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
3.1 Nghệ thuật xây dựng kết cấu……………………….…………….……...……73
3.1.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện …………………………….…………74
3.1.2 Nghệ thuật xây dựng kết cấu …………………...……………..………84
3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật ……………………………………………….90
3.2.1 Thế giới nhân vật phong phú và đa dạng …………………...…………90
3.2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố ngôn ngữ……………..……96
3.2.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố ngoại hình …………..……101
3.2.4 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật ………………………...……104
3.3 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ …………………………...…………………111
3.3.1 Phương ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam ……………...…...111
3.3.2 Vài nét về cách sử dụng thành ngữ …………………………………..119
3.3.4 Hiện tượng giọng kể chuyện mang đậm sắc thái dân gian Nam Bộ …122
KẾT LUẬN …………………………………………………………………….…127
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………...…131
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
8. Lý do chọn đề tài
“Lịch sử văn học Việt Nam là lịch sử tâm hồn con người Việt Nam”. Lịch sử tâm
hồn ấy được những người nghiên cứu, giảng dạy văn học khám phá. Tương ứng với lịch
sử của các vùng miền khác nhau trên đất nước Việt Nam, văn học ở miền ngoài cùng
với lịch sử của nó đã được chú ý từ rất sớm. Sự hình thành và phát triển của văn học,
văn hóa Nam Bộ ở một góc độ nào đó lại là một vấn đề khác. Với khoảng thời gian 300
năm, văn học, văn hóa Nam Bộ đã có những đặc trưng và dáng dấp riêng biệt, không thể
lầm lẫn. Văn học Nam Bộ là một phần của văn học cả nước. Đóng góp của văn học

4
Nam Bộ là đóng góp của mảng văn học ở một vùng miền với những nét đặc sắc riêng
biệt. Đến với văn học Nam Bộ, chúng tôi đánh giá cao những sáng tác của các nhà văn
như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc,… Với tình cảm đặc biệt dành cho
văn học và con người vùng đất mới khai phá, chúng tôi tìm đến sự nghiệp của nhà văn,
nhà biên khảo Sơn Nam Nam trong đó chú ý đến mảng truyện ngắn của ông trong giai
đọan 1954 - 1975.

Theo chiều thời gian cái gì đọng lại cùng với con người, cuộc sống của con người
mang tính ổn định bền vững, thể hiện được đặc điểm về cách sống, cách nghĩ, cách cư
xử của con người trong tự nhiên và xã hội đều có thể quy về văn hóa. Khi chọn cho
mình đề tài này, chúng tôi có cơ hội tìm hiểu về văn hóa Nam Bộ qua sáng tác của một
trong những nhà văn Nam bộ điển hình: Sơn Nam. Là người viết nhiều và thể hiện trên
nhiều khía cạnh cộng với số lượng sáng tác và biên khảo khá đồ sộ, Sơn Nam được
đánh giá là pho từ điển sống của văn hóa Nam Bộ. Tìm hiểu đề tài này là điều kiện
thuận lợi để chúng tôi mở rộng cho mình vốn kiến thức về vùng đất và con người phía
nam tổ quốc.

Mảnh đất Nam Bộ với lịch sử hình thành 300 năm, là nơi màu mỡ cả về đất đai và
tình người. Ở nơi ấy, văn chương cũng chưa được đào sâu, cày xới để thấy được những
giá trị đích thực của nó. Trong một vài thập niên gần đây, ngày càng có nhiều người đi
vào tìm hiểu mảng văn học ở vùng đất này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận án
thạc sĩ, luận án tiến sĩ đã có những đóng góp đáng kể. Đó là một hiện tượng đáng mừng
và đáng được ghi nhận.

Tuy không sinh ra ở mảnh đất này, nhưng lớn lên, đã và đang gắn bó trực tiếp với
nơi đây vì vậy được tìm hiểu về văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam là điều
thực sự có giá trị đối với riêng cá nhân tôi. Với ý thức xác định như vậy và với một sự
yêu mến kính trọng sự nghiệp và con người nhà văn Sơn Nam - nhà Nam bộ học, chúng
tôi lấy làm thích thú khi được tìm hiểu, nghiên cứu ở góc độ văn hóa về một mảng nhỏ
trong sự nghiệp sáng tác của ông. Đó là truyện ngắn của Sơn Nam trên phương diện in
đậm những nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ. Trong sự nghiệp của nhà văn, nhà biên
khảo Sơn Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã ghi nhận những sáng tác trong khoảng thời
gian 20 năm từ 1954 - 1975. Mảng truyện ngắn là những sáng tác thể hiện được đầy đủ
nhất về mảnh đất và con người Nam Bộ, đồng thời cũng nêu bật lên được giá trị ngòi
bút Sơn Nam với tư cách là một nhà văn.

5
Ngòi bút Sơn Nam, cuộc đời nhà văn Sơn Nam là sự kết nối những am hiểu sâu rộng
từ những chuyến đi du khảo trong thực tế, những nghiên cứu dưới dạng “điền dã” rồi trở
thành triết lý về văn hóa con người, vùng đất Nam Bộ. Có thể nói những trang viết của
Sơn Nam chứa một dung lượng ngồn ngộn về cuộc sống, về cảnh vật về con người Nam
Bộ. Từ những trang viết ấy, người đọc cảm nhận được tấm chân tình của một nhà văn,
của một người con Nam Bộ như ông đã tâm sự trong một lần trò truyện với phóng viên
báo điện tử Vietnamnet: “Lịch sử Nam Bộ là lịch sử của công cuộc khẩn hoang trường
kỳ và tự lực. Ý thức khẩn hoang mở đất ăn sâu vào máu thịt tôi. Đời ông nội rồi đời cha
tôi lo khẩn hoang mở đất, nên những trang viết của tôi dành cho việc khẩn hoang mở
đất và là sở trường của tôi”. Nhiều sáng tác của Sơn Nam đã để lại những giá trị về mặt
lịch sử, điạ lý, văn hóa, xã hội của vùng đất Nam Bộ. Vì vậy nhà văn Sơn Nam được gọi
là nhà văn hóa, nhà Nam Bộ học, hay dân dã hơn là “ông già Nam Bộ” với tất cả lòng
kính trọng và yêu quý của nhiều độc giả, nhà nghiên cứu hay các đồng nghiệp. Từ sự
nghiệp của Sơn Nam, người đọc nhận ra vẻ đẹp của con người Nam Bộ trong cuộc
sống, thấy được tấm lòng của một con người, một nhà văn luôn yêu mến và có ý thức
giữ gìn những giá trị tốt đẹp ấy.
Tìm về với mảnh đất Nam Bộ, những sáng tác của nhà văn, nhà biên khảo Sơn Nam
giúp ta có một cái nhìn toàn cảnh ở cả bề rộng lẫn bề sâu. Chúng ta có thể tìm hiểu vấn
đề qua lăng kính của một nhà văn, qua cách nhìn nhận ghi chép của một nhà biên khảo.
Vào những năm giữa thế kỷ XX, “ông già đi bộ” đã đi qua rất nhiều vùng đất khác
nhau, gặp gỡ nhiều con người, chứng kiến nhiều cảnh sinh hoạt khác nhau. Tất cả
những điều đó cộng với tư chất của một người cầm bút sáng tác, Sơn Nam đã đưa đất và
người Nam Bộ vào văn học một cách tự nhiên như chính cuộc sống vốn có và vốn đã
diễn ra. Còn chúng ta là thế hệ đi sau sẽ tìm thấy trong chính những sáng tác của ông
nhiều khía cạnh về văn hóa - xã hội miền Nam một cách đáng tin cậy.

2. Mục đích nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu chính của luận văn được xác định như sau:

Thứ nhất, tìm hiểu những đặc trưng cơ bản về văn hóa Nam Bộ. Bên cạnh đó là
những nội dung liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Sơn Nam. Đặc biệt, lý giải về
sự ảnh hưởng và tác động của văn hóa Nam Bộ đến tư tưởng nghệ thuật của nhà văn
này.

6
Thứ hai, khảo sát dấu ấn văn hóa Nam Bộ ở phương diện nội dung trên hai khía cạnh
cảnh sắc và con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam.

Thứ ba, đánh giá dấu ấn văn hóa Nam Bộ qua nghệ thuật của truyện ngắn Sơn Nam
trên một số phương diện đặc sắc như: nghệ thuật kết cấu truyện ngắn, nghệ thuật xây
dựng nhân vật và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.

Như vậy, mục đích chính luận văn không phải khảo sát tất cả các khía cạnh của văn
hóa Nam Bộ được biểu hiện qua truyện ngắn của Sơn Nam mà chỉ đi vào những bình
diện người viết nhận thấy đó là những nét đặc trưng cơ bản về văn hóa Nam Bộ.

3. Lịch sử vấn đề
Tác giả Sơn Nam và sự nghiệp của ông được đánh giá là một hiện tượng của văn học
Nam Bộ. Vì vậy, trong một vài mươi năm trở lại đây đã có khá nhiều nhà nghiên cứu,
phê bình và độc giả yêu mến quan tâm đến những sáng tác của ông. Tuy vậy, có thể nói
đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá đầy đủ và có
hệ thống toàn bộ sự nghiệp của nhà văn Nam Bộ này. Phần nhiều đó là các bài phỏng
vấn, lời giới thiệu, đề tựa cho các tập sách của Sơn Nam trên các báo, tạp chí hoặc
những bài viết ngắn đề cập đến một vài phương diện đặc sắc. Ngoài ra, có thể kể đến
một số luận văn, luận án nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Sơn Nam.
Ngay từ năm 1986, đã có những nhà nghiên cứu chú ý đến truyện ngắn của Sơn
Nam. Khi Nhà xuất bản Trẻ cho ra đời tập sách Hương rừng Cà Mau tập 1, Viễn
Phương, người đầu tiên viết lời tựa cho quyển sách này, nhận định đây là một cây bút
viết truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi Nam Bộ thế kỷ XX và tin tưởng vào sức sống và
giá trị của tập truyện ngắn này. Hơn 20 năm qua, niềm tin của nhà văn Viễn Phương vẫn
còn nguyên giá trị. Cùng năm này, trên tạp chí Văn nghệ Quân đội, tác giả Hồ Sĩ Hiệp
với bài viết “Vài nét về văn xuôi kháng chiến Nam Bộ” cũng quan tâm và đánh giá cao
những tác phẩm đầu tay của Sơn Nam như Bên rừng cù lao Dung, Tây đầu đỏ, Cây đàn
miền Bắc.

Các tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An trong công trình
Tác gia văn học Việt Nam (NXB Giáo dục, 1992, tập 3) đã dành một vị trí cho nhà văn
Sơn Nam với nhận định Hương rừng Cà Mau là tác phẩm tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất
của Sơn Nam và ông xứng đáng là một nhà văn, nhà khảo cứu về mảnh đất cực Nam tổ
quốc của chúng ta.

7
Năm 1994, xuất hiện tập tiểu luận Phê bình, bình luận văn học, NXB Văn nghệ
Tp.HCM do tác giả Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn và giới thiệu. Công trình nhỏ này xoay
quanh các tác phẩm tiêu biểu của ba tác giả Nam Bộ: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng và
Sơn Nam. Trong đó, phần về Sơn Nam có hai bài một của Viễn Phương như đã giới
thiệu ở trên, một của tác giả Ngân Hà với nhan đề “Gợi ý phân tích giảng văn Bắt sấu
rừng U Minh Hạ”. Năm 1995, khi Bộ giáo dục chủ trương tiến hành phân ban ở cấp phổ
thông trung học, Bắt sấu rừng U Minh Hạ đã được chính thức đưa vào giảng dạy trong
sách giáo khoa 12 ban Khoa học Xã hội, ở ban Tự nhiên được giới thiệu dưới dạng bài
đọc thêm trong sách lớp 11. Qua những tư liệu này, chúng ta thấy được vào đầu những
năm 90, truyện ngắn của Sơn Nam đã được các nhà nghiên cứu, người làm sách giới
thiệu đến bạn đọc như một món ăn tinh thần đặc sản của vùng sông nước Nam Bộ.

Vào thời điểm cuối những năm 1990, cụ thể từ 1997 - 1999 xuất hiện rất nhiều bài
viết, bài nghiên cứu về đất và người Nam Bộ nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn –
Thành phố Hồ Chí Minh. Với tư cách là nhà Nam Bộ học, những sáng tác, biên khảo
của Sơn Nam đã được nhiều người chú ý đến. Trong tập sách Bình văn của nhóm tác
giả Trần Hòa Bình, Lê Duy, Văn Giá do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1997, Văn
Giá đã nhận định Sơn Nam là nhà văn có vốn kiến thức sâu rộng về lịch sử, con người,
về đặc điểm tự nhiên và xã hội của vùng Đất Mũi. Văn Giá còn trân trọng gọi ông là
chủ nhân của rừng tràm trong một bài giới thiệu cùng tên. Sau đó, hàng loạt những
danh xưng khác nhau được gắn cho nhà văn Sơn Nam trên các bài báo, tạp chí như Sơn
Nam - người đánh đàn độc huyền kể chuyện Nam Bộ, Ông từ giữ đền của đất Gia Định
xưa, Nhà văn Sơn Nam - hãy học tập những trang đời,… Đến lúc này, trên văn đàn Sơn
Nam đã trở thành một hiện tượng văn học thực sự.

Năm 1998, Nhà xuất bản Trẻ một lần nữa chú ý đến giá trị những sáng tác của Sơn
Nam khi cho tái bản nhiều tác phẩm ông. Trong đó, Hương rừng Cà Mau được in dưới
dạng nhiều tập, được Hoàng Phủ Ngọc Phan giới thiệu và đánh giá như một quyển “cảo
thơm” có giá trị ngang với “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân và là bức tranh đất
nước trong khoảng thời gian đầu XX.

Khi văn học đô thị miền Nam được chú ý tập hợp và biên soạn, nhiều công trình có
giá trị đã ra đời. Trong đó: năm 1998, có công trình Địa chí văn hóa Thành phố Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Tp.HCM do giáo sư Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên.
Phần văn học - báo chí - giáo dục (tập 2), chương viết về “Văn học yêu nước công khai
ở Sài Gòn trong 30 năm cách mạng và kháng chiến” do nhóm tác giả Tầm Vu, Nguyên
8
Thanh, Viễn Phương, Hồ Sĩ Hiệp, Trần Hữu Tá biên soạn, đã nhắc đến Sơn Nam với
vai trò là một nhà văn tiêu biểu của Nam Bộ và ghi nhận vai trò của ông trong những
đóng góp vào mảng văn học yêu nước tiến bộ cách mạng giai đọan 1954 - 1975. “Đất
nước, lịch sử và con người Nam Bộ đã được Sơn Nam say sưa phản ánh” trong tập
truyện ngắn này. Đồng thời, tác giả bài viết còn khẳng định “Hương rừng Cà Mau đáng
quý vì đem lại cho người đọc bình thường những xúc cảm thẩm mỹ bổ ích, những gợi ý
tích cực về đất nước và tình người” [17, 457].

Năm 2000, khi cho ra đời công trình Nhìn lại một chặng đường văn học, NXB
Tp.HCM, nhà nghiên cứu văn học Trần Hữu Tá đã có những đóng góp đáng kể trong
việc nhìn lại và đánh giá một chặng đường văn học, giới thiệu những tác phẩm tác giả
tiêu biểu của văn học Nam Bộ. Trong đó tác giả khẳng định vị trí của Sơn Nam trên văn
đàn công khai Sài Gòn và còn trân trọng đánh giá nhà văn như “một người cầm bút có
dáng vẻ và hương sắc riêng” [72, 72]

Trong một vài năm trở lại đây, một số trường đại học ở khu vực phía Nam cũng đã
chú ý đến Sơn Nam và sáng tác của ông. Trong đó có: “Thiên nhiên và con người Nam
Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam”- luận văn cử nhân Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996, tác giả Đoàn Trần Ái Thy khảo sát những đặc điểm
về thiên nhiên và con người trong truyện ngắn Sơn Nam và dừng lại ở góc độ phân tích,
nhận định và tổng hợp vấn đề trên nội dung văn bản. “Từ ngữ trong tập truyện ngắn
Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam”- luận văn cử nhân Ngữ văn Đại học Cần Thơ
năm 2005, tác giả Đinh Ngọc Quyên khảo sát các phương diện khác nhau về mặt từ ngữ
trong tập truyện ngắn này và liệt kê, phân tích một vài nét đặc sắc.
Năm 2003, Lê Thị Thùy Trang trong luận văn cao học đã tìm hiểu “Đặc điểm truyện
ngắn Sơn Nam giai đoạn 1954 – 1975”. Công trình này đã có những đóng góp đáng kể
trong việc khảo sát những cảm hứng chính và những đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai
đoạn 1954 - 1975. Năm 2004, có luận văn cao học “Văn hóa và con người Nam Bộ
trong truyện của Sơn Nam” của Đinh Thị Thanh Thủy, ĐHSP Tp.HCM. Tác giả luận
văn đã có công trong việc sưu tầm những truyện ngắn của Sơn Nam được đăng rải rác
trên các tạp chí và những truyện đã được tập hợp lại thành sách. Đinh Thị Thanh Thủy
khai thác hai mảng văn hóa và con người Nam Bộ trên nền truyện của nhà văn Sơn Nam
bao gồm truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài và cả tiểu thuyết. Luận văn trên ở một góc
độ nào đó đã giúp cho chúng ta thấy được cái nhìn toàn cảnh về sáng tác văn học của Sơn
Nam. Cùng năm 2004, còn có luận văn cao học Đặc trưng truyện ngắn Sơn Nam của

9
Trần Phỏng Diều, Đại học KHXH và NV TP.HCM. Công trình này đã góp phần làm sáng
tỏ đặc trưng truyện ngắn Sơn Nam trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua
đây, chúng tôi nhận thấy trong các sáng tác của nhà văn Sơn Nam, truyện ngắn được xem
là thế mạnh vì thế khi tìm hiểu đương nhiên người ta không thể bỏ qua thể loại tiêu biểu
này.
Năm 2007, trong công trình Truyện ngắn Việt Nam lịch sử - thi pháp – thể loại,
NXB Giáo dục, Đà Nẵng, nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ đã khảo sát những đặc
trưng và thi pháp truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong đó có truyện ngắn của Sơn Nam.
Tác giả nhận định Sơn Nam “là nhà văn, nhà biên khảo tâm huyết về vùng đất và con
người Nam Bộ” [14, 697]. Đồng thời ông còn đánh giá Sơn Nam là một trong số ít
những nhà văn mà khi nhắc đến tên gọi của họ, người đọc sẽ nghĩ ngay đến những vùng
đất, những con người của một miền Tổ quốc.

Gần đây nhất năm 2008, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng, Đại học
Vinh tìm hiểu vấn đề Nghệ thuật kể chuyện của Sơn Nam trong Hương rừng Cà
Mau. Trong công trình này, người viết chỉ tập trung khai thác những nội dung liên quan
đến nghệ thuật kể chuyện cụ thể là chủ thể kể chuyện, cấu trúc trần thuật và giọng điệu
trần thuật. Với cách khai thác như vậy, luận văn này đã góp phần nêu bật lên những đặc
điểm riêng biệt của nghệ thuật kể chuyện của nhà văn Sơn Nam thông qua tập truyện
tiêu biểu này.

Cũng trong năm 2008, nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng cho ra đời công trình Văn
học Việt Nam nơi miền đất mới do NXB Văn học ấn hành. Đây là một công trình có
giá trị tổng hợp trên nhiều mặt và là sự giới thiệu khá đầy đủ về diện mạo văn học ở khu
vực phía Nam. Trong đó, Sơn Nam được giới thiệu với danh xưng khá quen thuộc – nhà
văn của miệt vườn Nam Bộ. Tác giả Nguyễn Q. Thắng đánh giá “Hương rừng Cà Mau
thuộc loại truyện xưa tích cũ …và có thể xem đây là tác phẩm đáng chú ý và sáng giá
nhất của Sơn Nam về sông nước, kinh rạch Miền Tây đất mẹ”. Đồng thời tác giả còn
nhấn mạnh “đây chính là cuốn sách thành công nhất của nhà văn sông nước miệt
vườn”[76, 1216].

Trước những tài liệu vừa điểm ở trên, chúng tôi nhận thấy việc đi vào tìm hiểu sự
nghiệp của Sơn Nam ở mảng sáng tác một việc làm cần thiết. Thêm vào đó, bản thân
vốn là người yêu thích văn học Nam Bộ và có một tình cảm đặc biệt dành cho nhà văn
Sơn Nam cùng những sáng tác của ông. Chúng tôi tin tưởng rằng qua đây sẽ thu nhận
được những giá trị của cuộc sống văn hóa và con người Nam Bộ từ những góc độ nhìn
10
nhận khác nhau. Cuộc đời của nhà văn Sơn Nam gói trọn trong thế kỷ XX và bước sang
những năm đầu của thế kỷ XXI. Những sáng tác của ông nằm gọn trong vùng không
gian và thời gian của con người Nam Bộ với những đặc điểm mang đậm sắc thái của
vùng đồng bằng sông nước, ruộng vườn, kênh rạch chằng chịt. Tìm về với truyện ngắn
của Sơn Nam cũng là tìm về với cuộc sống và con người nơi ấy với những nét đẹp riêng
khó có thể nhầm lẫn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Người đọc biết đến Sơn Nam ở cả hai mảng sáng tác và biên khảo, với hơn 60 đầu
sách đã được xuất bản, ông xứng đáng là một hiện tượng của văn học Nam Bộ, một nhà
văn điển hình của văn phong Nam Bộ. Riêng ở mảng sáng tác, Sơn Nam là một cây bút
khá đa dạng với nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn, hồi
ký. Toàn bộ sáng tác của Sơn Nam đều viết về đất và người Nam Bộ ở nhiều phương
diện khác nhau. Trong đó truyện ngắn được nhiều nhà nghiên cứu, nhà phê bình, độc
giả trong và ngoài nước chú ý khen ngợi. Và thực sự đây là thế mạnh của nhà văn miệt
vườn này.

Đối tượng khảo sát trực tiếp của luận văn là những sáng tác thuộc thể loại truyện
ngắn bao gồm 85 truyện, trong đó 66 truyện nằm trong tuyển tập Hương rừng Cà Mau
và 19 truyện ngắn nằm trong tập Biền cỏ Miền Tây. Đây là hai tập truyện có sự gần gũi
nhau về đề tài sáng tác, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung cũng như nghệ thuật. Theo
sự khẳng định của Sơn Nam trong tập hồi ký Từ U Minh đến Cần Thơ, ông đã sáng tác
khoảng 300 truyện ngắn. Trong phạm vi đề tài luận văn, chúng tôi chỉ khảo sát trên
những tác phẩm đã in trong hai tập sách trên. Bên cạnh đó, toàn bộ những sáng tác của
Sơn Nam đều có giá trị hỗ trợ, bổ sung, làm rõ vấn đề đang nghiên cứu. Điều này xét
cho cùng là vì dù biên khảo hay sáng tác và dù sáng tác với thể loại nào thì nội dung bao
trùm lên toàn bộ sự nghiệp của Sơn Nam cũng thống nhất với những tên gọi mà người
ta đặt ra hoặc tôn vinh tên tuổi tác giả - một nhà văn, nhà văn hóa Nam Bộ tiêu biểu.

Trên cơ sở phạm vi giới hạn của tư liệu như trên, chúng tôi tìm hiểu vấn đề trên
phương diện dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam. Đây chỉ là một
phần trong những đóng góp của Sơn Nam trong việc dựng lên bức tranh toàn cảnh Nam
Bộ, nhưng có thể nói đây chính là phần trọng yếu và là tâm điểm của bức tranh ấy. Qua
đó nhằm khẳng định giá trị truyện ngắn Sơn Nam từ góc độ văn hóa, khẳng định tên

11
tuổi của nhà văn Nam Bộ tiêu biểu này. Đó là mong muốn cũng là mục tiêu mà người
viết đặt ra cho luận văn.

5. Phương pháp nghiên cứu


Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn có sự kết hợp của nhiều phương pháp:

Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài
có sự liên quan chặt chẽ đến vấn đề văn hóa và lịch sử của vùng đất Nam Bộ vì vậy sự
kết hợp phương pháp nghiên cứu liên ngành giữa các lĩnh vực lịch sử, văn hóa và văn
học là một việc làm khoa học và cần thiết. Luận văn chỉ dừng lại ở việc áp dụng những
tư liệu khoa học về lịch sử và địa lý của vùng đất Nam Bộ làm kiến thức nền cho việc
khảo sát hai chương chính. Bên cạnh đó, một số phương pháp đặc trưng của các ngành
xã hội cũng được ứng dụng như phương pháp thống kê - phân loại, sử dụng số liệu,
phân tích,…

Phương pháp phân tích - tổng hợp: là phương pháp chính để tiến hành khảo sát,
tìm hiểu vấn đề. Dựa trên những truyện ngắn đã được khu biệt ngay từ đầu, luận văn
phân tích truyện ngắn Sơn Nam trên cơ sở kiến thức lý luận về văn hóa nói chung và
đặc trưng văn hóa Nam Bộ nói riêng. Đó là mấu chốt làm sáng tỏ vấn đề, sau đó tiếp tục
công việc tổng hợp lại thành những nội dung mang tính chất tổng quát. Từ hai công
đoạn này, chúng tôi đi vào khẳng định dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn của
nhà văn Sơn Nam trong đặc trưng văn hóa Nam Bộ nói riêng và bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam nói chung.

Phương pháp thống kê - phân loại: Người viết vận dụng phương pháp này để sắp
xếp các truyện ngắn có cùng biểu hiện về văn hóa qua việc thể hiện thiên nhiên và con
người Nam Bộ; phân loại và tập hợp các truyện ngắn có cùng kiểu cốt truyện, kết cấu,
đặc điểm nhân vật, đặc trưng ngôn ngữ. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng
để lập các biểu bảng trong phần phụ lục của đề tài và là công cụ để đi vào phân tích
tổng hợp những vấn đề liên quan.

Bên cạnh đó các thao tác cơ bản khi nghiên cứu văn học cũng được người viết vận
dụng như quy nạp, diễn dịch, so sánh, đối chiếu, bình luận,... và đặt vấn đề trong tính hệ
thống để tiện theo dõi.

6. Đóng góp của luận văn

12
Với sự say mê và nhiệt tình học hỏi, chúng tôi hy vọng công trình nhỏ của mình sẽ
góp phần thể hiện bức tranh về văn hóa Nam Bộ nhìn từ góc độ truyện ngắn của Sơn
Nam. Chúng tôi luôn đồng tình và tin tưởng rằng truyện ngắn chính là thế mạnh của
“nhà văn miệt vườn sông nước” Cửu Long này. Qua đó, dấu ấn văn hóa Nam Bộ được
tác giả thể hiện trên nhiều góc độ với tư cách là người sinh ra, lớn lên, sống trên mảnh
đất này, là người luôn mang bên mình ý thức tìm về với lịch sử khai khẩn Nam Bộ như
có lần nhà văn Sơn Nam đã tâm sự. Và nhiệm vụ của luận văn này là làm rõ được điều
đó.

7. Cấu trúc của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo và các bảng phụ lục, luận
văn gồm ba chương chính:

Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA NAM BỘ
1.1 Một số vấn đề về văn hóa
1.1.1 Khái niệm văn hóa
1.1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.2 Đặc điểm về văn hóa Nam Bộ
1.2.1 Nền tảng địa - văn hóa Nam Bộ
1.2.2 Một số nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ
1.3 Nhà văn Sơn Nam với vùng đất Nam Bộ
1.3.1 Cuộc đời và sự nghiệp
1.3.2 Ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh sống ở Nam Bộ đến Sơn Nam

Chương 2:
DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ QUA CẢNH VÀ NGƯỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
2.1 Cảnh Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
2.1.1 Cảnh thiên nhiên trong truyện ngắn Sơn Nam
2.1.1.1 Thiên nhiên đậm chất hoang sơ, dữ dội
2.1.1.2 Thiên nhiên gần gũi, hiền hòa, gắn bó với cuộc sống của con người

13
2.1.2 Cảnh xã hội trong truyện ngắn Sơn Nam
2.2 Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
2.2.1 Hoàn cảnh sống của con người Nam Bộ
2.2.2 Đặc điểm về con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
2.2.2.1 Mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên
2.2.2.2 Mối quan hệ giữa con người với xã hội
a. Trong mối quan hệ giữa con người với cộng đồng.
b. Trong mối quan hệ giữa con người với con người
Chương 3:
DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ QUA NGHỆ THUẬT
CỦA TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
3.1 Nghệ thuật xây dựng kết cấu
3.1.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
3.1.2 Nghệ thuật xây dựng kết cấu
3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật
3.2.1 Thế giới nhân vật phong phú và đa dạng
3.2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố ngôn ngữ
3.2.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố ngoại hình
3.2.4 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật
3.3 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
3.3.1 Phương ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
3.3.2 Vài nét về cách sử dụng thành ngữ
3.3.2 Hiện tượng giọng kể chuyện mang đậm sắc thái dân gian Nam Bộ

Chương 1:

NHỮNG VẤN CHUNG ĐỀ VỀ VĂN HÓA


VÀ VĂN HÓA NAM BỘ

1.1 Một số vấn đề về văn hóa

1.1.1 Khái niệm văn hóa


14
Văn hóa vốn là một khái niệm rộng lớn và có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Nhà
xã hội học người Pháp Mercier đã ví thuật ngữ văn hóa như một tòa lâu đài đa diện mà mỗi
nhà nghiên cứu lại chỉ tiếp nhận có một mặt, đã làm cho thuật ngữ này trở nên phức tạp.
Với tính chất như vậy khó có định nghĩa nào bao quát đầy đủ nội hàm của nó. Theo số liệu
thống kê chưa đầy đủ, đến thời điểm hiện nay có khoảng 500 định nghĩa về thuật ngữ văn
hóa. Vì vậy để tìm ra một khái niệm duy nhất đúng là điều không tưởng, tuy nhiên chúng ta
vẫn có thể tìm ra những định nghĩa chứa đựng những hạt nhân hợp lý, phù hợp với mục
đích nghiên cứu của mình. Điều đó tùy thuộc vào góc độ tiếp cận của đối tượng khi tìm
hiểu vấn đề.
Văn hóa là một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng, có mặt thấm
sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống con người, vì thế có rất nhiều định nghĩa,
cách hiểu cũng như cách khai thác khác nhau về văn hóa. Trong quá trình đi tìm định nghĩa
và nội hàm của văn hóa, đã có những tìm tòi khoa học có giá trị sâu sắc, tiếp sức nhau đạt
tới những nhận thức ngày càng hoàn chỉnh hơn của con người về một lĩnh vực rất độc đáo
do chính con người và chỉ có con người sáng tạo nên.
Sau nhiều năm tìm tòi theo các hướng, các cách tiếp cận khác nhau, đến những năm
70 của thế kỷ XX, cách hiểu phổ biến và gặp nhau nhiều nhất là ở quan niệm coi văn hóa
bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi
hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động. Tiếp đó vào
năm 1982, tại Hội nghị thế giới về các chính sách văn hóa đã thông qua tuyên bố: “Theo
nghĩa rộng, ngày nay văn hóa có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn,
vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không chỉ
bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ
thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng [10, 264]. Như vậy, theo nghĩa vừa rộng lớn vừa
bản chất, văn hóa là toàn bộ hoạt động tinh thần - sáng tạo, tác động vào tự nhiên, xã hội và
con người nhằm tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao hơn để vươn tới sự
hoàn thiện theo khát vọng chân, thiện, mỹ và góp phần thúc đẩy sự tiến bộ, phát triển
không ngừng của đời sống xã hội. Đó cũng chính là quan điểm của các nhà văn hóa lớn
Việt Nam như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trần Văn Giàu.
Khi đặt văn hóa trong một giai đoạn cụ thể của đời sống xã hội và nhìn đời sống ấy
trên nhiều lĩnh vực khác nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau thì văn hóa, hiểu theo nghĩa cụ
thể và các quan hệ cụ thể, là một trong các lĩnh vực chính, giữ vị trí rất quan trọng, cùng
với chính trị, kinh tế và xã hội tạo nên diện mạo, trình độ, chất lượng và đặc điểm xã hội
trong một giai đoạn phát triển nhất định.

15
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “trong công cuộc kiến thiết nước nhà có
bốn lĩnh vực đóng vai trò đặc biệt quan trọng ngang nhau đó là chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội” [10, 269]. Nghị quyết Trung ương V của Đại hội Đảng khóa VIII nhấn mạnh
thêm văn hóa còn bao hàm cả giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật
và cả công tác tư tưởng cũng được xem là một bộ phận quan trọng của toàn bộ hoạt động
văn hóa.
Theo cách hiểu hạn hẹp hơn và được sử dụng thông thường và khá phổ biến, khi
tách giáo dục, khoa học ra thành các lĩnh vực, các ngành có đặc trưng riêng, văn hóa còn
được coi chủ yếu là các loại hình hoạt động cụ thể của ngành văn hóa như bảo tồn, bảo
tàng, thư viện, xuất bản, báo chí, đời sống văn hóa cơ sở, lễ hội, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng,… “và các loại hình sáng tạo văn học, nghệ thuật – một lĩnh vực được coi là nhạy
cảm nhất, mang tính sáng tạo đậm đặc và là bước phát triển cao của văn hóa” [10, 268].
Khi quan tâm vấn đề văn hóa nằm trong mối quan hệ với văn học nghệ thuật và
những vấn đề về đạo đức, lịch sử, địa lý của dân tộc ta, có hai cách tiếp cận về văn hóa vừa
có ý nghĩa lý luận vừa có tính thực tiễn lâu dài. Thứ nhất, “văn hóa là kết tinh những cố
gắng nhiều mặt và liên tục của con người trong trường kỳ lịch sử để khẳng định bản chất và
năng lực của mình, để nâng cao chất lượng sống và trình độ sống” [22, 300]. Thứ hai, “văn
hóa là một lĩnh vực hoạt động cụ thể của con người trong xã hội bên cạnh các lĩnh vực khác
như chính trị, kinh tế” [22, 301]. Với ý nghĩa này, văn hóa lại chia ra thành các ngành, các
bộ phận như giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, tư tưởng, tín ngưỡng, phong
tục tập quán, ngôn ngữ,… Và điều liên quan trực tiếp ở đây chính là văn học nghệ thuật -
một bộ phận quan trọng nhất của văn hóa.
Như vậy, xem xét văn hóa từ góc độ tiếp cận liên quan đến văn học nghệ thuật ta có
thể nhận thấy vai trò lưu giữ và chuyển tải các giá trị văn hóa của dân tộc. Chính các sáng
tác văn học đã thể hiện được điều đó và chính các nhà văn, nhà thơ là người giúp cho người
đọc thấy được điều này qua cảm quan nghệ sĩ của chính mình. Một tác phẩm văn học có giá
trị luôn chứa đựng bên trong những giá trị đích thực về chính nền văn hóa của quê hương
đất nước mình ở một phương diện cụ thể nào đó.

1.1.2 Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học


Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn học, và có những
cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn học, tùy theo hoàn cảnh, mục đích,
trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này. Văn học
có lúc được coi là tiếng nói của con người, có lúc được xác định là một hình thái ý thức,

16
một công cụ nhận thức, phản ánh, miêu tả thực tại, là hình ảnh, bức tranh của đời sống; rồi
có lúc văn học lại được định danh là một loại hình nghệ thuật đặc biệt dùng ngôn từ làm
phương tiện biểu đạt, là nghệ thuật ngôn từ,… Do đó mà các tác phẩm, cũng như các công
trình nghiên cứu văn chương, được thực hiện theo những hướng và những phương pháp
khác nhau kéo theo ý nghĩa và giá trị cũng có nhiều mức độ. Sự khác biệt này do hàng loạt
yếu tố khách quan và chủ quan quy định nhưng có thể nói một cách khái quát rằng do tác
động của môi trường sống, của thời đại khúc xạ qua lăng kính của từng cá nhân người sáng
tác hay nghiên cứu. Xác định mối quan hệ giữa văn hóa với văn học là một việc làm cần
thiết để đánh giá được sự tác động, bổ sung lẫn nhau giữa hai lĩnh vực vốn có mối liên quan
mật thiết này.
Nói đến vị trí của văn học trong văn hóa là nói đến hai mặt của một vấn đề. Thứ
nhất, bản thân văn học là một bộ phận của văn hóa, nó chịu sự chi phối mang tính quyết
định của văn hóa. Thứ hai, là nói đến tính đại diện cho văn hóa của văn học; sự tác động trở
lại của văn học đối với văn hóa [83, 100].
Về mối quan hệ của văn hóa và văn học, cần nhận thấy rằng đối với nước ta văn học
là yếu tố trội của văn hóa. Trong đời sống dân tộc, văn học vốn đã có một vị trí rất quan
trọng và ngược lại trên bình diện phát triển của một nền văn học, tác động của văn hóa đến
văn học là tất yếu. Có thể nói, những nền văn học phong phú chỉ có thể phát triển thuận lợi
trên nền tảng của những nền văn hóa tiêu biểu. Và ở Việt Nam, văn học cũng phát triển trên
cơ sở của văn hóa Việt Nam. Chính các vùng văn hóa có truyền thống lâu đời như Kinh
Bắc, Thăng Long, Huế…, và folklore của các dân tộc Việt Nam là cái nôi sản sinh, nuôi
dưỡng và phát triển tài năng của các nhà văn lớn ở nước ta. Như vậy, nhìn nhận mối quan
hệ giữa văn học và văn hóa là đi vào vấn đề thể hiện những đặc trưng, giá trị của văn học
trong sự tác động và ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội và sáng tạo văn học nghệ thuật là bộ phận quan trọng, nòng cốt của văn hóa, có khả
năng truyền cảm mạnh mẽ và có sức sống lâu bền khi biết đi sâu vào tư tưởng đạo đức, đời
sống bên trong của con người.
Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, có ý kiến cho rằng văn hóa là không
gian, là bầu không khí để trên đó cái cây văn học nảy nở. Một nền văn học bắt rễ sâu vào
đời sống văn hóa dân tộc, sẽ có điều kiện tốt để phát triển, đơm hoa kết trái. Nhà văn am
hiểu sâu sắc cội rễ của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, ắt hẳn sáng tác của
anh ta sẽ đạt đến chiều sâu của sự khái quát hóa và cá thể hóa. Trong văn hóa phải thấy
được đỉnh cao của nó là văn học. Vì vậy khi ta nói mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
cũng tức là nói về “mối quan hệ giữa cái tổng thể với cái bộ phận”. Vũ Khiêu nhấn mạnh

17
trong mối quan hệ này thì “văn học mặc dù là cái bộ phận nhưng lại có vai trò rất quan
trọng” [58, 09].
Trần Đình Sử quan tâm việc “nêu cao vai trò sáng tạo văn hóa của văn học” và điều
đó được thể hiện qua bốn điểm cơ bản sau: văn học có vai trò sáng tạo những mô hình văn
hóa đặc biệt là mô hình nhân cách con người; vai trò phê phán có tính văn hóa của văn học;
văn học phát huy vai trò lựa chọn của văn hóa; văn học trong vai trò sáng tạo văn hóa bằng
những tìm tòi mới về nội dung và nghệ thuật thể hiện mang tính đặc trưng của văn học -
nghệ thuật ngôn từ [71,179]. Cùng với quan điểm này, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn
Văn Hạnh xem văn hóa như là “nguồn mạch sáng tạo và khám phá văn chương, văn học là
một hình thái đặc biệt của văn hóa, thuộc về ý thức” [23, 26]. “Văn học không chỉ lưu giữ
văn hóa, mà còn là một bộ phận - nếu không nói là nòng cốt - của văn hóa, sáng tạo ra văn
hóa” [58, 12].
Văn học là một hình thái ý thức thuộc nghệ thuật ngôn ngữ, tức là văn học ở trong
văn hóa nghệ thuật. “Nếu vấn đề cốt lõi của văn hóa thể hiện ở các lực lượng bản chất
người mang tính nhân văn thì văn học chính là hình thái bộc lộ bản chất người rõ nhất, là
nội dung mang tính nhân văn rõ nhất” [58, 11]. Như vậy, có thể khẳng định một nền văn
hóa được xem là tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trước hết phải có nền văn học nghệ thuật
phản ánh được hiện thực của dân tộc ấy, biểu hiện được truyền thống lịch sử của dân tộc ấy
và nhất là sáng tạo được những tác phẩm văn học giàu tính nhân văn. Và chính văn học sẽ
phát huy sức mạnh, sở trường của nó vào việc tô thắm các giá trị văn hóa.
Việc xác định mối quan hệ giữa văn hóa và văn học đã được các nhà nghiên cứu
văn hóa và văn học ở nước ta quan tâm từ rất sớm. Tuy nhiên, để nhìn nhận vấn đề một
cách có hệ thống và quy mô rộng lớn phải đề cập đến hội thảo khoa học “Văn hóa - mối
quan hệ giữa văn hóa và văn học” đã được Viện văn học đứng ra tổ chức tại Hà Nội vào
ngày 04/06/1998. Hội thảo đã đạt được những kết quả tốt đẹp trong việc xác định vai trò, vị
trí của văn học trong văn hóa, về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa qua đó nhấn mạnh
vào mục tiêu xây dựng một nền văn hóa mới đậm đà bản sắc dân tộc.
Phương diện văn hóa của văn học ngày càng được quan tâm bởi giữa văn hóa và văn
học có mối liên hệ hết sức mật thiết. Văn học phản ánh đời sống, thực chất là phản ánh
phương diện văn hóa của đời sống. Văn học phán đoán về hiện thực, thực chất cũng là một
phán đoán văn hóa. Văn hóa là phương diện còn lại lâu dài của tác phẩm, tác giả và cả giai
đoạn văn học. Văn hóa là một phương diện bên trong qui định hành vi, suy nghĩ, cảm nhận
của con người trong từng thời kỳ. Nó bao gồm mọi phương diện văn hóa cụ thể như chính
trị, kinh tế, pháp luật, tôn giáo, thị hiếu, ẩm thực, trang phục, tập quán, cử chỉ,… Đọc bất
18
cứ tác phẩm văn học nào ta đều thấy vô vàn biểu hiện của văn hóa trong đó. Vì thế, có thể
nói trong tổng thể văn hóa, văn học chỉ là nhánh nhưng lại có giá trị rất quan trọng.
Nói tới văn hóa của một dân tộc không ai không nghĩ đến văn học, bởi văn học có
một vị trí không thể thiếu trong mỗi nền văn hóa. Tuy nhiên ở văn học Việt Nam ta, trong
một thời gian dài do như cầu bức thiết của thực tế, vai trò của văn học được hiểu chủ yếu
như là phương tiện để truyền bá giáo dục văn hóa, một công cụ như là “văn dĩ tải đạo”.
Chính cách hiểu và cách nghĩ như thế làm giảm sút vai trò sáng tạo văn hóa sâu sắc, nhiều
mặt của văn học. Ngày nay trong viễn cảnh xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc, vai trò sáng tạo văn hóa của văn học cần được nhìn nhận lại một cách thấu đáo.
Văn học đi vào chiều sâu văn hóa phát triển không gì khác hơn là khái niệm phát triển phải
trở thành tư tưởng chủ đạo trong văn chương hiện đại, với trí tuệ dân tộc được khơi sâu
trong dòng chảy của bản chất một nền văn hóa đậm đà tính nhân văn. Vì vậy các tác giả khi
sáng tác ngoài tài năng, tính chuyên nghiệp thì yếu tố tầm nhìn văn hóa và cốt cách văn hóa
cần được nhìn nhận một cách hợp lý [23, 28]. Đó chính là cơ sở để khẳng định sự tồn tại
lâu dài của văn học với thời gian.
Khi quan tâm đến những vấn đề của cuộc sống, của xã hội và con người, của lịch sử
dân tộc và đất nước, dưới góc độ văn hóa, người sáng tác có thể làm nổi rõ lên những chủ
đề, những nhân vật, sắc màu, giọng điệu, cách diễn đạt tiêu biểu, đặc sắc của một cộng
đồng, một vùng đất, một thời kỳ. Nhờ đó mà tạo ra một tiếng nói mới, có đóng góp mới
thực sự cho sự phát triển của văn chương dân tộc và nhân loại. Đồng thời trên phương diện
tiếp cận và nghiên cứu văn chương hiện nay, việc xem xét từ góc độ văn hóa tạo điều kiện
đi sâu đi sát vào những vấn đề trọng đại, sống còn, bức xúc của đời sống, của xã hội, của
lịch sử và của con người. Qua đó góp phần làm nổi bật lên sức mạnh cảm hóa, thanh lọc
lớn lao của văn học nghệ thuật. Đồng thời còn có thể khắc phục được khuynh hướng đề cao
một chiều, tuyệt đối hóa mặt hình thức kỹ thuật của văn chương, đôi lúc biến văn chương
thành một trò chơi chữ cầu kỳ, trống rỗng.

1.2 Đặc điểm về văn hóa Nam Bộ


1.2.1 Nền tảng địa - văn hóa Nam Bộ
Nền tảng địa - văn hóa của một vùng là khái niệm liên quan trực tiếp đến những vấn
đề về văn hóa và địa lý. “Theo nghĩa hẹp, địa - văn hóa là sự nhìn nhận văn hóa trong mối
quan hệ biện chứng với các yếu tố địa lý, nghĩa là căn cứ trực tiếp vào ý nghĩa của chính
cụm từ này. Theo nghĩa rộng, đó là cách xem xét văn hóa như là một sản phẩm do ý thức
chủ quan của con người sáng tạo ra nhưng đồng thời, đó cũng vừa là những kết quả của

19
nhân tố khách quan do các quy luật của tự nhiên tương tác vào” [98, 197]. Như vậy, khi
nghiên cứu nền tảng địa - văn hóa, cần đặt sinh thái tự nhiên và xã hội tại chỗ trong quan hệ
tổng hợp với toàn vùng, tìm ra cái riêng trong cái chung, từ đó có thể nhận ra những quy
luật đã, đang và sẽ chi phối sự phát triển của văn hóa địa phương ấy.
Nam Bộ vốn bao gồm hai vùng đất có nét riêng rõ rệt. Đông Nam bộ là vùng đồi núi
thấp với những thềm phù sa cổ. Nơi đây được nhìn nhận như diềm phía nam của đai khối
cao Tây Nguyên, từ đó các dòng Đa Nhim, Đa Dung hợp lưu lại thành sông lớn Đồng Nai,
tiếp nước của La Ngà rồi vượt qua Trị An tới gặp Sông Bé, sông Sài Gòn để đổ ra cửa Lòng
Tàu. Và Tây Nam bộ tức đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn
địa ấy với một đồng bằng châu thổ phẳng và thấp. Đây là sản phẩm bồi tụ của sông Mê
Kông, con sông dài nhất, nhiều nước và nhiều phù sa nhất Đông Nam Á trên một khuôn
vịnh nông kéo dài từ bồn địa Tông-lê-sáp của Campuchia tới khu vực đồng bằng Sông Tiền
và sông Hậu [06, 12]. Những cứ liệu về mặt địa lý trên giúp chúng ta xác định vấn đề cụ thể
về địa - văn hóa Nam Bộ ở đây chính là nói về khu vực Tây Nam bộ (chúng tôi gọi tắt là
Nam Bộ).
Khi nghiên cứu về nền tảng địa - văn hóa Nam Bộ, việc đặt trong mối tương quan
với các đặc điểm về sinh thái và xã hội của vùng văn hóa này là điều kiện cần thiết. Lịch sử
Nam tiến nói riêng và lịch sử Nam Bộ nói chung là lịch sử của vùng đất mới với độ dài thời
gian hơn ba thế kỷ hình thành và phát triển. Đặc tính “mới” là nét bao trùm lên cả hai
phương diện địa lý và lịch sử của vùng đồng bằng sông Cửu Long. So với cả nước, đây là
khu vực có lịch sử khai phá trẻ nhất. Vì vậy văn hóa vùng miền của khu vực này cũng
chính là văn hóa của vùng đất mới với những nét tiếp thu và bảo tồn truyền thống dân tộc
và những nét đặc sắc riêng biệt phù hợp với những điều kiện tự nhiên và xã hội trên địa
bàn.
Quá trình Nam tiến được phản ánh rất rõ trong văn học từ những sáng tác dân gian
cho đến văn chương bác học. Trong kho tàng văn học dân gian đồng bằng Sông Cửu Long,
ca dao, thành ngữ, truyền thuyết, giai thoại về đất và người trong quá trình khai phá mở đất
chiếm số lượng khá lớn và được xem là đặc sắc, hấp dẫn nhất. Đa số truyện kể, truyền
thuyết dân gian Nam Bộ đều thể hiện những đặc tính mới của vùng miền trên nhiều biểu
hiện khác nhau của văn hóa. Ngay cả truyện cười Bác Ba Phi cũng tiếp nối truyền thống ấy
bằng cách tái hiện lại thiên nhiên hoang dã nơi cực nam tổ quốc với một trí tưởng tượng
phong phú. Văn chương bác học cũng đã có không ít những tác phẩm tập trung khai thác
mảng đề tài này một cách thành công. Qua đây càng chứng tỏ được đặc trưng của các sáng

20
tác văn học trong việc tái hiện cuộc sống và vai trò của nó trong việc lưu giữ và truyền tải
những giá trị văn hóa dân tộc.
Xem xét nguồn gốc của những người đầu tiên đặt chân đến Nam Bộ đã chứng tỏ cho
chúng ta thấy nền văn hóa của khu vực này một mặt phát sinh từ những điều kiện địa lý
nhân văn mới, mặt khác lại liên quan mật thiết đến các yếu tố gốc gác, cội nguồn xuất thân.
Có thể tìm thấy vô số biến thể ca dao, dân ca từ miền Bắc được cải sửa trong kho tàng văn
học dân gian đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày nay, khu vực này bao gồm mười hai tỉnh và một thành phố. Đồng bằng sông
Cửu Long có đặc điểm địa hình là một châu thổ thấp, bằng phẳng, là sản phẩm bồi tụ của
sông Mê Kông, và là nơi có cửa sông giáp biển nên việc bồi tụ này vẫn diễn ra hàng năm.
Đây là nơi sở hữu một hệ thống kinh rạch chằng chịt với hơn “2500 km sông rạch tự nhiên
và 2500 km sông rạch đào” [06, 14] vì thế đặc điểm nổi bật của văn hóa đồng bằng sông
Cửu Long là văn hóa sông nước, kênh rạch. Điều này được thể hiện qua nền nông nghiệp
lúa nước, tập quán khai thác đánh bắt thủy sản, việc giao thông đi lại đến các lễ hội về nước
và đặc biệt là ngôn ngữ giao tiếp có liên quan đến sông nước.
Là một vùng văn hóa có tuổi đời trẻ nhất cả nước, văn hóa đồng bằng sông Cửu
Long dù đã được hình thành trong một thời gian dài nhưng vẫn đang ngày được định hình
rõ nét hơn. Nó góp phần tô thắm bức tranh văn hóa đa sắc của đất nước ta nhưng vẫn giữ
được những nét đặc sắc cho riêng mình.

1.2.2 Một số nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ


Nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh chia đất nước ta thành 7 vùng văn hóa,
trong đó văn hóa Nam Bộ là vùng thứ bảy và có những đặc điểm của một vùng đất mới.
Việc phân vùng văn hóa được xác định trên cơ sở mối quan hệ giữa văn hóa lịch sử và địa
lý của một vùng và gọi tắt là vùng văn hóa. “Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ, có những
tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống ở đó từ lâu có mối quan hệ nguồn gốc
và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giữa họ đã trải qua
các mối quan hệ giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại mật thiết, nên từ lâu đã hình thành
những sắc thái văn hóa chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh
thần, có thể phân biệt với những vùng văn hóa khác” [79, 64].
Văn hóa vùng hay văn hóa vùng lãnh thổ được xác định có tính chất liên văn hóa.
Nó cũng chính là văn hóa địa phương, vốn là một thực thể văn hóa, hình thành và tồn tại
trong một không gian lãnh thổ nhất định, thể hiện qua một tập hợp các đặc trưng văn hóa về
cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại, vận chuyển; về cách tổ chức xã hội cổ

21
truyền và giao tiếp cộng đồng; về vui chơi giải trí; về các sắc thái tâm lý của cư dân,… từ
đó có thể phân biệt với các đặc trưng văn hóa của vùng khác. Những đặc trưng văn hóa đó
hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài, do cư dân các dân tộc trong vùng
thích ứng với một điều kiện môi trường, có sự tương đồng về trình độ phát triển xã hội, đặc
biệt là giữa họ có mối quan hệ giao lưu văn hóa mật thiết. Trong mỗi vùng như vậy lại có
những tiểu vùng có những đặc trưng riêng lẻ. “Vùng văn hóa Nam Bộ, xét trên cả phương
diện địa lý và lịch sử, đều là vùng thứ bảy và nó có ba tiểu vùng Đông Nam bộ, Tây Nam
bộ và tiểu vùng Sài Gòn - Gia Định” [80, 17].
Những đặc trưng của vùng văn hóa Nam Bộ được xác định trên các phương diện cơ
bản: Nam Bộ là một vùng đất mới; vùng đất giao hòa chủng tộc và văn hóa; là vùng văn
hóa với nhiều sắc thái đặc trưng.
Sở dĩ gọi Nam Bộ là vùng đất mới bởi những lý do liên quan trực tiếp đến những
vấn đề về lịch sử của vùng miền. Với tính chất “mới” như vậy, Nam Bộ vừa là nơi lạ lẫm,
xa vời, lại vừa thu hút, vẫy gọi con người đến đây. Tuy vậy, đây không phải là mảnh đất vô
chủ vì tính chất “mới’ ở đây có nghĩa đối với những người Khmer, Việt, Chăm,… hiện
cùng đang sinh sống, tiếp tục khai thác vùng đất này. Đất mới với những con người cũng
mới, trên vai họ không còn nặng trĩu những lề thói, cổ tục của hàng ngàn năm nên con
người nơi đây cũng năng động, mạnh bạo và cởi mở hơn. Người Việt, người Chăm, người
Hoa và sau đó là những người tứ xứ khác đặt chân đến vùng đất Nam Bộ sớm nhất cũng chỉ
từ thế kỷ thứ XVI lại đây, còn người Khmer thì có thể sớm hơn, khoảng thế kỷ XIII .
Trong công trình biên khảo “Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa”, Sơn
Nam đã viết, đây là “…một vùng bị bỏ rơi, dân cư thưa thớt, phần lớn là bùn lầy ẩm thấp,
khí hậu khắc nghiệt. Đất úng tạo phèn. Muỗi mòng nhiều, tôm cá sinh sôi, cá lớn nuốt cá
bé, chim chóc và rắn ăn cá. Rắn bắt chim non và trứng chim, chim ăn rắn. Cỏ dại, lau sậy
làm thức ăn cho heo rừng nai, voi… Nai làm mồi cho cọp. Khỉ tha hồ ăn trái cây giữa rừng,
ven sông. Rừng lâm vồ, sộp, gừa rễ lòng thòng tạo hang động cho cọp sinh sản. Tán lá là
môi trường của nhiều loại chim. Xác thú trôi sông nuôi dưỡng cá tôm. Diều quạ và cá sấu
sinh sản mau trên bãi bùn,… Khó phân biệt đâu là đất bưng, đâu là ao vũng. Bờ biển mơ hồ
thay đổi hình dạng, cây mắm, cây đước, cây vẹt từ dưới nhô lên. Sông Cửu Long đổ ra biển
bồi đắp mũi Tây Nam. Mùa mưa nước chảy mạnh, thêm cơn lụt thường niên, cây mé sông
trốc gốc, phù sa tuôn tràn, doi bồi, vịnh lở, có cù lao sụp xuống mất dạng nhưng ở nơi khác
cồn nhỏ lại nhô lên”[46, 16]. Ngày nay, đến với vùng đồng bằng sông Cửu Long trù phú,
màu mỡ ta khó hình dung được thiên nhiên còn đầy vẻ hoang sơ trong buổi đầu khai phá.
Để làm được điều đó phải tìm đến những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, các giai thoại,

22
ca dao dân ca Nam Bộ từ xa xưa truyền lại. Đến với Nam Bộ, những nét vừa quyến rũ vừa
de dọa của thiên nhiên là những mẫu đề chính của truyện cổ và thơ ca dân gian. Sau này,
trong truyện Bác Ba Phi - một loại truyện trạng của văn học Nam Bộ, một món đặc sản tinh
thần của vùng sông nước thì khung cảnh thiên nhiên giàu có mà hoang sơ vẫn chính là cái
nền, vẫn là dòng chảy chính mang những nỗi niềm tâm sự, những quan hệ giữa con người
với nhau. Và ở thế kỷ XX, Sơn Nam đã tiếp bước truyền thống ấy một cách thành công
bằng những tác phẩm văn học mang đậm những sắc thái dân gian và hơn hai mươi công
trình khảo cứu có giá trị về đất và người, phong tục tập quán, lịch sử và văn hóa Nam Bộ.
Nam Bộ còn được biết đến là một vùng đất giao hòa của nhiều chủng tộc và văn
hóa.
Những yếu tố văn hóa từ ngoài du nhập vào đồng bằng sông Cửu Long rất rõ nét: văn
hóa Ấn Độ qua người Khmer, văn hóa Trung Quốc qua người Hoa, văn hóa Hồi giáo qua
người Chăm. Sự hỗn hợp dân cư thuộc nhiều nguồn gốc địa phương, nhiều tôn giáo tín
ngưỡng khác biệt, nhiều trình độ phát triển về mặt xã hội cũng là điều hiển nhiên. Song tất
cả sự đa dạng, khác biệt đó đều được liên kết lại trong một nền văn hóa Việt Nam phong
phú và đa dạng trên vùng đất mới. Động lực của sự liên kết đó là các tộc người, sau khi đã
di chuyển vào đồng bằng sông Cửu Long, họ phải nương tựa vào nhau để thích nghi, khai
thác, chinh phục một thiên nhiên nhiên mới, thường xuyên biến đổi và rất đa dạng, mang
tính chất bán đảo, nhiệt đới, gió mùa, ẩm. Động lực của sự liên kết là dân tộc Việt đã đem
cốt cách của nền văn hóa Việt vào vùng đất mới dưới những biểu hiện độc đáo. Đó là việc
khai hoang, trồng cấy rất sáng tạo phù hợp với cơ chế vận động của sông và biển, của mùa
mưa và mùa khô, của lũ và hạn, phát huy được nghề trồng lúa nước cổ truyền. Đó là việc
lập làng mới với hình thù, thiết chế ít nhiều thay đổi mà vẫn giữ làng gắn với nước. Đó là
những làn điệu dân ca, là phương ngữ đậm chất Nam Bộ, nhưng vẫn là ngôn ngữ Việt Nam,
tâm lý tính cách Việt Nam đặc sắc. Đó là sự hỗn hợp của nhiều tộc người thiểu số với
người Việt trên cùng một đồng bằng mà vẫn phát huy truyền thống cộng đồng dân tộc. Đó
là sự xen kẽ nhiều thứ tôn giáo khác nhau, nhưng vẫn giữ được sự dung hòa. Sơn Nam
được đánh giá là nhà văn điển hình của miền đất Nam Bộ. Sự nghiệp của Sơn Nam nói
chung và truyện ngắn của ông nói riêng đã thể hiện được văn hóa Việt Nam với sức lôi
cuốn, tập hợp và rộng mở nơi vùng đất mới.
Cùng với sự đa dạng về tộc người và được đánh giá như hệ quả tất yếu của quá trình
giao thoa và hỗn dung về văn hóa, Nam Bộ nói chung và miền Tây Nam bộ nói riêng là
một khu vực hết sức đặc biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán. Ở vùng này có
đầy đủ 6 tôn giáo lớn là Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo

23
và là khu vực đứng đầu trong cả nước về tín đồ tôn giáo. Ngoài các tôn giáo kể trên cư dân
trong vùng còn theo một số tín ngưỡng khác như Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
Tịnh Độ Cư Sĩ,… Nam Bộ nói chung và đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng có một diện
mạo văn hóa hết sức đa dạng. Nếu như người Việt có những làn điệu cải lương hay những
câu hò, điệu lý thì người Khmer lại thể hiện bản sắc của mình trong điệu múa Răm-vông,
hát đối đáp Ađay hay điệu nhảy theo nhịp trống Chay-dăm. Nếu như người Chăm có những
hoạt động nghệ thuật sôi động trong những ngày kết thúc tháng Ramadan, sinh nhật
Muhammed hoặc trong dịp cưới hỏi thì người Hoa lại góp phần vào đời sống văn hóa Nam
Bộ những câu hát Tiều, hát Quảng,… Những điểm riêng đặc sắc đó của mỗi tộc người ngày
một phát triển và hội nhập vào nhau, tạo nên nét đặc trưng riêng không thể trộn lẫn của văn
hóa Nam Bộ, tạo nên tính cách chung của người Nam Bộ trọng nghĩa, khinh tài, phóng
khoáng và hiếu khách,…
Và vượt lên trên tất cả, từ rất sớm các cộng đồng dân cư Nam Bộ đã có truyền thống
đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, không phân biệt người đến trước, người đến sau, không kỳ thị
dân tộc. Truyền thống quý báu này được hình thành và phát triển trong nhiều thế kỷ chung
lưng đấu cật cùng nhau khai phá, phát triển vùng đất Nam Bộ trước đây và trong quá trình
đấu tranh chống áp bức của phong kiến và thực dân sau này. Cũng cần nói thêm rằng, nếu
như nhu cầu khai khẩn vùng đất mới đã tạo điều kiện hình thành sự đoàn kết của cộng đồng
thì yếu tố làm cho sự đoàn kết đó trở thành một giá trị lâu bền chính là ý thức dân tộc, là tư
tưởng, tình cảm, tâm hồn gắn bó với mảnh đất yêu quý của họ, là yêu cầu của sự sống còn
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của cả dân tộc.
Nam Bộ là một khu vực bao gồm nhiều dân tộc, cư dân trong vùng theo nhiều tôn giáo,
tín ngưỡng khác nhau, nhưng các cộng đồng ở đây không tồn tại biệt lập theo nhiều không
gian văn hóa tộc người riêng rẽ mà sống xen kẽ nhau trong một đơn vị hành chính. Chính
điều kiện cộng cư này làm cho các dân tộc có điều kiện tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Trong
quá trình đó các dân tộc vừa giao lưu vừa tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhau để làm
giàu thêm bản sắc văn hóa vốn có của mình.
Nam Bộ là vùng đất với những sắc thái văn hóa đặc trưng dựa trên những nét cơ
bản:
Thứ nhất, người dân Nam Bộ cơ bản vẫn là những người nông dân, những người
làm ruộng vườn, những việc lao động đồng áng. Như vậy, văn hóa truyền thống của vùng
đất này vẫn là văn hóa, văn minh nông nghiệp. Tuy vậy, nông nghiệp và người dân Nam Bộ
vẫn có những sắc thái riêng biệt. Đó là kiểu canh tác giữa ruộng và vườn được kết hợp chặt
chẽ. Ở Nam Bộ, hệ thống kênh rạch chằng chịt vừa tự nhiên vừa nhân tạo không những
24
đóng vai trò tưới tiêu mà còn là huyết mạch giao thông đi lại. Nhiều ý kiến còn gọi nơi đây
chính là khu vực của “văn minh kinh rạch”, “văn minh miệt vườn” hay “văn minh sông
nước”,… Chính đặc trưng này đã chi phối toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của người
nông dân Nam bộ. Mặc dù vậy, nông thôn Nam Bộ không gắn chặt trong mối quan hệ kiểu
tự cấp tự túc như Bắc bộ trước đây mà phần nhiều cũng gắn với nền kinh tế thị trường của
các khu vực lân cận như Sài Gòn và các đô thị khác trong vùng.
Thứ hai, mô hình tụ cư của cư dân Nam Bộ vẫn theo phương thức chung của cư dân
nông nghiệp nước ta, tuy nhiên, do môi trường và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
vùng nên cách tổ chức dân cư và xã hội nông thôn ở đây cũng có những sắc thái riêng. Kiểu
tụ cư phân tán theo kênh rạch, theo địa hình canh tác được người dân Nam Bộ ưa thích nhất
vẫn là “tiền viên hậu điền”, nhiều khuôn viên tụ lại thành ấp, xóm với phương tiện đi lại
phổ biến vẫn là những chiếc ghe xuồng quen thuộc. Vốn là nơi đất mới, dân cư tứ xứ đến
khai phá vì vậy không có sự ràng buộc chặt chẽ giữa con người với địa bàn mới, nếu thích
hợp sinh sống họ sẽ ở lại, bằng không họ lại ra đi tìm nơi phù hợp hơn. Chính vì lẽ đó quan
hệ cộng đồng làng xã ở đây cũng không gắn bó quá chặt chẽ.
Thứ ba, những sắc thái riêng trong nếp sinh hoạt ăn, mặc, ở, đi lại của người dân
Nam Bộ: Nếp sống và cách ăn uống thường không đi vào cầu kỳ, tỉ mỉ, thưởng thức cái tinh
tế của lối sống, cách ăn mà thiên về sự dư dật, phong phú. Nếu người Hà Nội, người Huế
thích ăn uống trong khung cảnh gia đình, thì ở một chừng mực nào đó, nhất là trong quan
hệ bạn bè, người Nam Bộ lại ưa ăn uống nơi hàng quán. Về nơi ở, cư dân trong vùng
thường chọn nhà kiểu ba gian hai chái, làm bằng tre nứa, lợp bằng lá dừa, phân vách, khá
đơn giản nhằm tiện di chuyển khi cần thiết. Nét đặc sắc trong trang phục của người Nam
Bộ rất dễ nhận thấy, đó chính là bộ bà ba đen và tấm khăn rằn, hình ảnh đặc trưng của nông
dân Nam Bộ qua nhiều thăng trầm của thời gian đến nay vẫn còn được duy trì, phát huy và
đã có những cách tân đáng kể. Môi trường sinh thái ở đây là sông nước vì vậy kênh rạch,
sông ngòi cũng chính là đường giao thông, là đầu mối giao lưu và thuyền bè chính là
phương tiện đi lại, chuyên chở chính yếu, bởi thế từ lâu dân gian Nam Bộ đã có câu “sắm
xuồng để làm chân”.
Ngoài ra, nói tới sắc thái văn hóa Nam Bộ, chúng ta không thể không nói tới ngôn
ngữ - tiếng Nam Bộ. Đó chính là phương ngữ Việt, được hình thành trong quá trình người
Việt đến khai thác đồng bằng Nam Bộ. Nó thu hút vào mình ngôn ngữ của những con
người từ muôn nơi lưu lạc đến, nhưng đồng thời cũng sản sinh và phản ánh thế giới tự
nhiên và con người nơi vùng đất mới với bao màu sắc mới mẻ và đa dạng. Người Nam Bộ
cũng để lại sắc thái rất riêng biệt trong cách diễn xướng dân gian theo kiểu nói như nói vè,

25
nói thơ, nói tuồng,… Người ta dễ dàng nhận ra “dấu vết của ngôn ngữ nói trong ngôn ngữ
văn học và ngược lại, ngôn ngữ văn học cũng dường như dễ dàng hơn hòa nhập cuộc đời
thường”[06, 22]. Họ còn được biết đến là những con người yêu thích âm nhạc và ca hát.
Âm nhạc Nam Bộ thể hiện rõ trong dân ca Nam Bộ với các làn điệu lý, hát ru, hò,…và đặc
biệt là sân khấu cải lương, hát bội, đờn ca tài tử. Những sáng tác và biên khảo của Sơn Nam
đạt được điều này như một đặc điểm truyền thống vốn có của văn học Nam Bộ.
Nói tới sắc thái văn hóa Nam Bộ người ta thường không quên nhắc tới một đặc điểm
đó là tính cách Nam Bộ. Tính cách là một khía cạnh văn hóa ứng xử và để lại dấu ấn rõ rệt
trong mọi mặt đời sống văn hóa. Tính cách Nam Bộ đã từng được người xưa lưu ý tới,
Trịnh Hoài Đức cho rằng người Nam Bộ là người “trọng nghĩa khinh tài”, Lê Quý Đôn thì
xem dân Nam Bộ là dân “dám làm ăn lớn”,… Những người đầu tiên đặt chân đến vùng đất
này có gốc gác từ dân tội đồ, lưu tán, dám bỏ quê hương tới khai thác vùng đất mới với bao
thách thức và hiểm nghèo, đã tôi luyện cho họ “tính mạo hiểm”, một cuộc đời phiêu bạt nay
đây mai đó, nhưng mặt khác trong tâm thức họ vẫn có nỗi khát khao hướng về nguồn cội,
giữ gìn đạo đức cổ truyền. Vì vậy, ở những nơi họ đặt chân đến đã mọc lên các đền miếu
thờ vọng về cố hương. “Những người khai phá vùng đất mới là những người coi nghĩa khí
làm đầu, kết bạn bè huynh đệ giữa những người có nghĩa khí đáng tin cậy. Họ cư xử hào
hiệp, trọng nghĩa khí, coi khinh tiền tài, có thể vì nghĩa khí mà xả thân mình không nuối
tiếc. Họ còn là những người mến khách, thông cảm, quý trọng nhau có thể nhường cơm xẻ
áo. Trong ứng xử, họ cởi mở chan hòa, dễ kết thân, dễ hòa vào với cộng đồng mới lạ,
không sĩ diện kiểu kẻ sĩ, không quá coi trọng môn đăng hộ đối. Người Nam Bộ xưa là
những người ít học, và cũng không coi việc học hành là con đường tiến thân, đổi đời như
người miền Bắc. Bởi vậy họ không phải là những người sống nội tâm, chuộng suy tư, mà là
những người ưa hành động. Trong ứng xử, họ bộc trực, thẳng thắn, ít chữ nghĩa, văn
chương rào đón” [98, 436]. Tính cách con người và văn hóa vùng đất Nam Bộ được hình
thành trong sự tác động qua lại giữa thiên nhiên, xã hội, con người trên nền tảng tính cách
dân tộc Việt Nam.
Trong một cội chung, phẩm chất chung của dân tộc Việt Nam, người Việt trên vùng
đất mới đã hun đúc nên tính cách riêng của mình. Trong khung cảnh thiên nhiên chung của
Việt Nam, thiên nhiên Nam Bộ hiện ra với diện mạo đặc sắc thậm chí có những điểm tương
phản. Trong cộng đồng chung của các dân tộc Việt Nam không nơi nào như ở châu thổ Cửu
Long, người Việt cùng các dân tộc ít người sống chung hòa hợp với nhau trên mảnh đất
đồng bằng phù sa và màu mỡ. Trong nền nông nghiệp cổ truyền Việt Nam, phong cách của
nông dân Nam Bộ làm ăn, kinh doanh khai thác trên các vùng đất mặn, đất phèn, đất giồng,

26
đất phù sa đều có những điểm khác nhau. Trong ngôn ngữ Việt Nam, phương ngữ Nam Bộ
có nét đặc thù. Cư dân vùng này yêu nước, đoàn kết, kiên cường nhân hậu, giàu lòng nhân
ái.

1.3 Nhà văn Sơn Nam với vùng đất Nam Bộ


1.3.1 Cuộc đời và sự nghiệp
Nhà văn Sơn Nam tên thật là Phạm Minh Tài sinh năm 1926 tại làng Đông Thái, huyện
An Biên tỉnh Rạch Giá nay là Kiên Giang, mất năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc đời và sự nghiệp của Sơn Nam gắn liền với vùng đất và con người Nam Bộ.
Quê gốc của Sơn Nam vốn ở Long Xuyên, An Giang, sau đó ông nội nhà văn đưa cả
gia đình đến lập nghiệp tại ven rừng U Minh với bạt ngàn cỏ cây chim muông, phong cảnh
hoang sơ, con người thưa thớt. Đây chính là nơi sinh ra và nuôi ông lớn lên. Đây cũng
chính là bối cảnh không gian được nhà văn thể hiện trong nhiều sáng tác của mình sau này,
đặc biệt là trong các tập truyện Hương rừng Cà Mau và Biển cỏ Miền Tây.
Sơn Nam vốn xuất thân trong một gia đình nông dân, thủa nhỏ ông học tiểu học ở quê
nhà, lớn lên theo học trường Collège tại Cần Thơ. Đây là thời gian đầu tiên Sơn Nam tiếp
xúc với cuộc sống thị thành và biết đến những vấn đề chính trị xã hội. Sau khi tốt nghiệp
Thành chung năm 1945, Sơn Nam dự định quay về Rạch Giá làm việc thì Cách mạng tháng
Tám bùng nổ. Ông gia nhập Thanh niên Tiền phong, tham gia cướp chính quyền ở địa
phương, rồi tiếp tục tham gia kháng chiến Nam Bộ. Tại mặt trận Rạch Giá, Sơn Nam giữ
trọng trách Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Rạch Giá, phó bí thư Tỉnh Đoàn Thanh niên cứu quốc,
tiếp đó tham gia công tác tại Hội Văn hóa Cứu quốc Tỉnh và về phòng chính trị quân khu 9.
Đến năm 1950, Sơn Nam chuyển qua làm cán bộ văn nghệ thuộc Ban tuyên huấn Xứ ủy
Nam kỳ. Sau Hiệp định Genève, Sơn Nam được phân công trở lại Rạch Giá, tiếp tục hoạt
động văn nghệ và báo chí trong lòng địch. Trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp
gian khổ, ông hoạt động cách mạng ở địa bàn chiến khu IX. Và cũng chính trong thời gian
này, Sơn Nam đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình. Tiêu biểu là sự ra đời của các tập ký
sự Tây đầu đỏ và truyện vừa Bên rừng cù lao Dung. Đây chính là hai tác phẩm đạt giải nhất
và giải nhì Văn nghệ Cửu Long của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Sơn Nam
bắt đầu sự nghiệp của mình từ đây
Năm 1955, Sơn Nam hoạt động trên lĩnh vực báo chí ở Sài Gòn cùng Viễn Phương,
Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hòa,… Ông cộng tác với nhiều tờ báo công khai như: Nhân loại,
Tiếng chuông, Lẽ sống, Tin văn,... Bút hiệu Sơn Nam cũng chính thức được sử dụng trong
khoảng thời gian này với ý nghĩa: Sơn là họ của người Khmer được ông lấy để lưu giữ một
kỷ niệm riêng và cũng để nhắc nhở mình về nơi chôn nhau cắt rốn, và vùng đất phương
27
Nam đã nuôi dưỡng ông nên người. Đây chính là giai đoạn sáng tác sung sức nhất của Sơn
Nam. Các tác phẩm của ông thể hiện tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm của nhân
dân Nam Bộ ở nhiều dạng thức khác nhau. Những công trình biên khảo đầu tiên cũng ra đời
trong khoảng thời gian này như: Chuyện xưa tích cũ, tập truyện Tục lệ ăn trộm, các biên
khảo Tìm hiểu đất Hậu Giang và Nguyễn Trung Trực - người anh hùng dân chài. Khi chính
quyền Diệm ban bố luật 10/1959, Sơn Nam bị kết tội có vấn đề về tư tưởng, bị giam ở nhà
tù Phú Lợi trong hai năm 1960-1961.

Sau khi ra tù, Sơn Nam vẫn tiếp tục công việc sáng tác và biên khảo. Bấy giờ trên báo
Nhân Loại, những câu chuyện về đất nước tình người của quê hương Nam Bộ của Sơn Nam
đã liên tiếp được đăng tải trong mục xuất hiện thường kỳ “Hương rừng Cà Mau”. Năm
1962, nhà xuất bản Phù Sa đã tập hợp và cho in chung lại thành tập truyện Hương rừng Cà
Mau (tập 1). Hương rừng Cà Mau phần nào dựng lại được phong tục, lối sống, suy nghĩ và
tình cảm của người dân miền Nam ở buổi đầu đi khẩn hoang. Một giai đoạn đầy gian truân,
khổ ải của cha ông, nhưng cũng rất vinh quang, rất đẹp và dạt dào tình cảm. Để tránh sự
kiểm duyệt gắt gao của kẻ thù, Sơn Nam đã tập trung vào mốc thời gian những người dân
từ khắp nơi đến đây khai phá lập nghiệp và qua đó dần hình thành nên nếp sống, phong tục
tập quán, văn hóa nơi vùng đất mới. Tập truyện ngắn này ngay từ khi mới ra đời đã được
đánh giá cao và được xem như là mốc định hình phong cách khảo cứu về văn hóa Nam Bộ -
rất Sơn Nam. Trên đà sáng tác ấy, Sơn Nam cho ra đời những tác phẩm như: Chim quyên
xuống đất (1963), Hình bóng cũ (1964), Hai cõi U Minh và Vọc nước giỡn trăng (1965).
Những tác phẩm này tiếp tục men theo con đường đã định hình của Sơn Nam ngay lúc đầu
– viết về đất và người Nam bộ.

Tên tuổi và uy tín của Sơn Nam ngày càng lan rộng, lôi cuốn nhiều độc giả trong khu
vực. Tuy vậy, chính quyền ngụy bấy giờ cũng tập trung khai thác ông trên danh nghĩa xem
trọng tài năng của những người kháng chiến cũ. Trước tình hình đó, Sơn Nam được Trung
ương Cục đề nghị trở vào vùng kháng chiến nhưng ông đã từ chối và tiếp tục ở lại Sài Gòn.
Với quan điểm “sáng tác văn học là để yêu nước”, Sơn Nam cho rằng dù ở đâu cũng có thể
đánh giặc bằng ngòi bút. Trong thời gian này, ông cho ra đời tập truyện vừa Truyện ngắn
của truyện ngắn, lấy bối cảnh về đất và người Sài Gòn nơi ông đang sống trước sự du nhập
ào ạt của văn minh Mỹ.
Với định hướng ngay từ đầu, Sơn Nam đã tiếp tục sự nghiệp sáng tác và biên khảo của
một con người thật sự có lòng yêu quê hương đất nước. Tập truyện ngắn Biển cỏ miền tây
ra đời như sự tiếp nối vững chắc cho tư tưởng của chính nhà văn trong Hương rừng Cà

28
Mau. Tiểu thuyết Xóm Bàu Láng (1968), Bà Chúa Hòn (1969), Vạch một chân trời (1969)
và các tập khảo cứu Nói về miền Nam (1967), Người Việt Nam có dân tộc tính không
(1970), Văn minh miệt vườn (1970) đã được ra đời trong khoảng thời gian này. Cây bút Sơn
Nam đã tự tin vững bước đi vào vùng đất Nam Bộ và để lại những giá trị lâu bền cùng thời
gian. Xuất phát từ cơ sở đó, với vốn kiến thức tích lũy rộng qua nhiều nguồn khác nhau từ
thực tế tìm hiểu trên đường đi chiến khu qua những vùng miền khác nhau và từ những kiến
thức đọc được từ sách vở đầu những năm 70, Sơn Nam đã liên tiếp cho ra đời hàng loạt
những công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa xã hội có giá trị của Nam Bộ như: Miền
Nam đầu thế kỷ XX - Thiên Địa Hội và cuộc Minh Tân (1971), Gốc cây, cục đá và ngôi sao
(1973), đặc biệt là hai tập khảo cứu rất có giá trị Lịch sử khẩn hoang miền Nam (1973), Cá
tính miền Nam (1974). Cũng chính vì hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ và báo chí của trí
thức ở nội thành Sài Gòn mà một lần nữa Sơn Nam lại bị địch bắt trong vụ “ký giả ăn
mày”.
Khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, ông được trả tự do và tiếp tục sự
nghiệp văn chương của mình tại Hội văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh cho đến khi nghỉ
hưu năm 1990. Trước đó, năm 1977, Sơn Nam đã gia nhập hội nhà văn Việt Nam. Mặc dù
nhà văn từng khẳng định mình cầm bút trước tiên là vì sinh kế nhưng với niềm đam mê văn
nghệ và tấm lòng đối với quê hương xứ sở, Sơn Nam vẫn tiếp tục sự nghiệp một cách đều
đặn, bền bỉ cho đến cuối đời. Trong thời gian này, ông tập trung khảo cứu về lịch sử, văn
hóa, con người khu vực Nam Bộ với những công trình như: Đất Gia Định xưa (1984),
Đồng bằng sông Cửu Long: nét sinh hoạt xưa, Lịch sử đất An Giang (1988), Lăng Ông Bà
Chiểu và lễ hội văn hóa dân gian (1990), Bến Nghé xưa (1992), Văn minh miệt vườn
(1992), Đình miếu và lễ hội dân gian (1992), Lịch sử Đồng Tháp Mười (1993), Nghi thức lễ
bái của người Việt Nam (1997), Dạo chơi – Tuổi già (1997), Ấn tượng 300 năm và Sài
Gòn lục tỉnh xưa (1998),… Nhân dịp kỷ niệm 300 năm (1698 - 1998) Sài Gòn - Thành phố
Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trẻ đã ấn hành Hương rừng Cà Mau tập 2 và tập 3 vào năm
1999. Những công trình trên là kết quả của quá trình lao động nghiêm túc sau nhiều chuyến
đi thực tế học hỏi và tìm kiếm tư liệu. Qua đó, đã khẳng định Sơn Nam là một trong những
nhà biên khảo hàng đầu về văn hóa và con người Nam Bộ. Những kiến thức mà ông mang
đến chứa đựng đầy ắp những giá trị về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, xã hội của
vùng đất Nam Bộ.

Cuộc đời và sự nghiệp của Sơn Nam thực sự là một tấm gương lao động cần cù và
nghiêm túc. Dù tuổi đã cao, ông vẫn tiếp tục theo đuổi ý nguyện ban đầu của mình như lời
nhà văn từng tâm sự rất chân tình: “ Là một người thật sự muốn đến và luôn đi lữ hành mọi
29
vùng đất Nam Bộ, đi từ ngọn nguồn của đường nét văn hóa Nam Bộ bao la để hiểu, để suy
nghĩ cho đúng; từ khi cầm bút đến nay ngoài 80, tôi vẫn không từ bỏ ý định đó, dù hiện giờ
sức khỏe không cho phép”. Đầu những năm 2000, Sơn Nam cho ra đời bộ hồi ký Từ U
Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9, 20 năm giữa lòng đô thị, Bình An. Tác phẩm không chỉ
giúp chúng ta nhìn nhận cuộc đời và sự nghiệp của cá nhân nhà văn từ lúc sinh ra, lớn lên,
rời khỏi đất U Minh cho đến khi đặt chân và định cư tại đất Sài Gòn mà còn thể hiện được
bức tranh lịch sử xã hội Nam Bộ đương thời. Người đọc thấy qua các trang hồi ký ấy một
con người lặng lẽ đi, lặng lẽ ngắm nhìn, quan sát và kể lại. Kiên Giang, Cần Thơ, Sài Gòn...
những vùng đất hiện lên trên từng trang viết qua tâm tưởng và tình cảm của một người tha
thiết muốn tìm hiểu và khám phá, muốn truyền lại cho thế hệ sau tình yêu đất đai, bờ cõi
của chính quê hương mình. Bên cạnh đó, hồi ký Sơn Nam cũng chính là nguồn tư liệu giúp
chúng ta xác định hoàn cảnh ra đời của nhiều sáng tác quan trọng của ông từ những truyện
ngắn đầu tay cho đến những ghi chép cuối cùng khi đã hơn tám mươi tuổi tại đất Sài Gòn
ồn ào náo nhiệt.

Sự nghiệp của Sơn Nam trải rộng trên nhiều thể loại nhưng có thể nói phong cách Sơn
Nam là phong cách đặc sắc rừng U Minh, nhà văn đã giữ gìn và hoàn thiện trong hơn 60
năm, với hàng loạt sáng tác mà bạn đọc cả nước nhớ, yêu. Trong đó nổi bật lên trên nhiều
mặt vẫn là truyện ngắn Sơn Nam. Ở độ tuổi ngoài 80, Sơn Nam vẫn là cây bút cộng tác
đáng tin cậy của nhiều tờ báo tại Sài Gòn, đồng thời ông còn được mời đi nhiều nơi để nói
chuyện về phong tục tập quán địa phương của đất và người miền Tây Nam bộ. Hình dáng
một ông già ốm yếu, người gầy gò, trên tay luôn cầm điếu thuốc lá với một vốn kiến thức
sâu rộng về văn hóa và con người Nam Bộ đã để lại nhiều ấn tượng rốt đẹp cho người tiếp
xúc. Vì thế, nhiều đoàn làm phim đã mời ông tham gia làm cố vấn về văn hóa và phong tục.
Một số truyện ngắn của Sơn Nam cũng đã được chuyển thể thành phim như: Cây huê xà,
Mùa len trâu.
Không chỉ là nhà văn, nhà khảo cứu, Sơn Nam còn là một kho tư liệu sống về con
người, văn hóa, địa lý, lịch sử… của vùng đất phương Nam. Với những tác phẩm của mình,
ông đã làm sống lại quá khứ miền Nam, không chỉ hiện nay mà cả hàng trăm năm về trước,
từ chuyện khẩn hoang lập ấp, chuyện thời Đàng Cựu, đến lai lịch của từng vùng đất cụ thể:
Sài Gòn, Gia Định, An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Long Hồ…; những chuyện tranh chấp
thế lực từ thời Trịnh - Nguyễn, chuyện Tây Sơn vào Nam dẹp giặc Xiêm; chuyện đấu tranh
thời thực dân giữa ta và Tây; chuyện sinh cơ lập nghiệp của vài dòng họ; chuyện tranh chấp
đặc quyền hơn thua giữa những gia đình, cá nhân; đan xen những chuyện xưa là những
chuyện trong những năm gần đây, trước và sau những năm thống nhất đất nước....
30
Sơn Nam là nhà văn với những tính cách đặc biệt Nam Bộ, ông đã chọn cho mình con
đường sáng tác ngay từ khởi đầu sự nghiệp cầm bút của mình, đó là tìm về cội nguồn văn
hóa dân tộc, mà chính xác là văn hóa Nam Bộ, bằng lối văn mộc mạc nhưng chắt lọc, chữ
nghĩa giản dị mà đậm tính nghệ thuật, gần gũi với đời sống thực tế người dân nơi đây.
Trong hồi ký Sơn Nam ông tâm sự: “Tôi bắt đầu viết từ những năm đầu của thập niên 50,
viết trong khu kháng chiến. Tác phẩm của tôi chỉ được công chúng biết đến nhiều khi được
in và phát hành ở Sài Gòn. Tôi định hướng ngay từ buổi đầu đến với nghề viết: viết về cuộc
khẩn hoang miền Nam. Cả đời tôi đã đi theo định hướng đó và bây giờ vẫn tiếp tục định
hướng như vậy vì tôi đã sinh ra, lớn lên và sống ở vùng đất U Minh”[51, 68].
Tháng 08/2008 do tuổi cao sức yếu, Sơn Nam đã ra đi trong sự tiếc thương của biết bao
độc giả, đặc biệt của bà con Nam Bộ.

1.3.2 Ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh sống ở Nam Bộ đến Sơn Nam
Trong văn học Việt Nam hiện đại, một số những cây bút văn xuôi truyện ngắn, tiểu
thuyết, theo những cách thức và mức độ khác nhau, đã bộc lộ khuynh hướng tiếp cận văn
hóa trong sáng tác nghệ thuật như Nguyễn Tuân, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy, Lê Lựu, Dương Hướng, Nguyễn Khắc
Trường… Nhà văn, nhà biên khảo Sơn Nam của “văn học miền đất mới” là người rất có ý
thức về cách nhìn nhận dân tộc hiện đại trong sự kết hợp với văn hóa trong việc sáng tạo
nghệ thuật. Ngay từ những sáng tác đầu tay, Sơn Nam đã sớm biết khơi nguồn và bồi đắp
tài năng, phong cách từ hồn cốt văn hóa dân tộc. Có lẽ vì vậy danh xưng nhà văn hóa Nam
Bộ đối với Sơn Nam quả thật rất xứng đáng.
Dù nói về quá khứ hay hiện tại, viết về con người hay cảnh sắc thiên nhiên, về nông
thôn hay đô thị, hồi ký hay là những ghi chép cá nhân, Sơn Nam cũng chú ý đi sâu vào tâm
hồn tính cách con người Việt Nam, quê hương Việt Nam và điểm chú ý của ông chính là
vùng đất và con người Nam Bộ nơi ông sinh ra và lớn lên. Người đọc trong và ngoài nước
rồi đây còn chú ý đến Sơn Nam và sự nghiệp của ông cũng chính vì Sơn Nam không chỉ là
một nhà văn miệt vườn mà còn là nhà Nam Bộ học, nhà văn hóa Nam Bộ. Sự nghiệp của
Sơn Nam mở ra một hướng đi lớn đầy hứa hẹn trong sự vận động và phát triển của văn học
hiện đại Việt Nam ở khu vực phía Nam. Đến khi tuổi đã ngoài 80 lang thang trên đường
phố Sài Gòn nóng bức chật chội, Sơn Nam vẫn đặt bên lòng mối quan tâm xem xét người
Việt Nam có dân tộc tính không và đi tìm sự lý giải một cách thuyết phục và đầy tình
người.

31
Dù viết ở dạng nào sự nghiệp của Sơn Nam cũng xoay quanh vùng đồng bằng sông Cửu
Long, đô thị Sài Gòn và đất Nam Bộ. Vấn đề nhà văn quan tâm luôn hướng về văn hóa dân
tộc mà đặc biệt là vùng văn hóa Nam Bộ. Sống ở đô thị hơn nửa cuộc đời, lại là người có
vốn hiểu biết sâu rộng nhưng chất nông dân của miền đồng bằng sông nước vẫn in đậm
trong tâm trí và cả những sáng tác của Sơn Nam.
Có thể nói ảnh hưởng và tác động của hoàn cảnh sống ở Nam Bộ đến Sơn Nam được
thể hiện khá rõ nét qua tìm hiểu sự nghiệp của nhà văn này. Đặc biệt là qua tập hồi ký về
cuộc đời ông. Từ lúc ông sinh ra lớn lên, học tiểu học ở địa phương cho đến giai đoạn đầu
tiên từ U Minh đến đất Cần Thơ học trung học, những năm ở chiến khu IX và 20 năm sống
giữa lòng đô thị Sài Gòn. Chính khoảng thời gian này, Sơn Nam đã đi nhiều nơi, tiếp xúc
với nhiều người vì thế tình người, con người Nam Bộ đã đi vào sự nghiệp của ông một cách
tự nhiên như những gì vốn có ngoài thực tế. Sơn Nam từng khẳng định: “Tôi sống và làm
việc có định hướng. Tôi tập trung tất cả sức lực và thời gian cho công việc mình theo đuổi,
đến mức không làm tròn trách nhiệm của một người cha đối với con cái. Cả đời tôi đọc
sách – các loại sách về phong tục, tập quán và văn học tiếng Pháp. Tôi tiếp cận và thâm
nhập thực tế cuộc sống của người dân Nam Bộ.”
Quá trình ảnh hưởng và tác động của văn hóa Nam bộ đối với nhà văn Sơn Nam được
thể hiện khá rõ nét trong toàn bộ cuộc đời của ông. Khi bộ hồi ký hoàn tất và ra mắt bạn
đọc, những sự kiện liên quan đến nhà văn Sơn Nam nói riêng và vùng Nam Bộ nói chung
đã được ngòi bút Sơn Nam tái hiện lại một cách chân thực và sinh động. Chúng ta cũng có
thể dựa vào đây để đi tìm sự ảnh hưởng và tác động của văn hóa Nam Bộ đến chính bản
thân nhà văn Sơn Nam. Từ những năm rời gia đình lên tỉnh lị Rạch Giá ở trọ và theo học
tiểu học, Sơn Nam đã ý thức quyết tâm phải đứng đầu trong tốp những học sinh tham gia
thi vào trường Trung học tại Cần Thơ. Gia đình vốn nghèo khó, với khát vọng thay đổi đời
sống của quê hương hay ít ra cũng là của gia đình, Sơn Nam đã đi nhiều nơi và tích lũy cho
mình vốn kiến thức thực tế. Khi đó cũng là lúc Sơn Nam nhận ra quê mình quá nghèo khổ
và chưa có nhiều người biết đến vùng U Minh xa xôi, muỗi mòng đỉa vắt. Sau này, khi ông
bắt tay vào sáng tác và trở thành một nhà văn, nhà biên khảo thực thụ thì nguồn tư liệu trên
rất có giá trị. Hãy nghe lời tâm sự chân thành của nhà văn khi ông đã ngoài 80: "... Càng
già, tôi càng hiểu rằng những ấn tượng đầu tiên khi mình còn bé vừa tiếp xúc với cuộc đời
cứ theo thời gian mà càng khắc sâu trong tâm thức, không tài nào diễn tả được, khi ẩn, khi
hiện" [51, 126].
Thời gian theo học tại Cần Thơ chính là giai đoạn ông tiếp xúc với sách vở, báo chí
nhiều nhất. Bản thân vốn là người ham học hỏi vì vậy những tin tức, những sự kiện và

32
những nhân vật trong vùng đã được nhà văn lưu tâm để ý. Trong hồi ký, nhà văn đã tâm sự
rất chân thành về lời dặn dò của thân sinh trước ngày lên đường: “ráng mà học cho vẻ vang
dòng họ, mình là dân U Minh ai cũng chê dốt nát, quê mùa, áo mốc, chân phèn”. Cả đời
Sơn Nam đã mang bên mình lời dặn dò ấy và sống hết mình cho quê hương đất nước.
Khi ở chiến khu 9, Sơn Nam đã bắt đầu xác định con đường đi cho sự nghiệp của mình.
Định hướng nghiên cứu và sáng tác của Sơn Nam về vùng đất Nam Bộ đã được ông nhìn
nhận một cách có ý thức. Thời gian này, Sơn Nam đã đi bộ trên khắp các ngả đường miền
Tây Nam bộ và đã tham gia hội văn nghệ ở chiến khu, tiếp xúc với nhiều người và có điều
kiện mở mang tầm nhìn, vốn hiểu biết. Từ đó, Sơn Nam đã trang bị cho mình những hiểu
biết về văn hóa khu vực từ nguồn dân gian và bác học. Chính điều đó khiến ông càng thêm
yêu qúy quê hương mình.
Năm 1954 khi Hiệp định Genève được ký kết, Sơn Nam không tập kết ra Bắc mà tiếp
tục ở lại quê hương và ông đã chính thức trở thành người dân đô thị Sài Gòn. Bấy giờ ông
đã nhận ra “tự dưng thấy một thôi thúc mãnh liệt là phải viết những chuyện về vùng đất mà
mình đã sinh ra, lớn lên và trải qua một phần trai trẻ. Viết để người Sài Gòn, người xứ khác
hiểu về miền Tây Nam Bộ” [27, 99]. Cái tên Sơn Nam cũng nổi danh từ đây với những
sáng tác và những công trình biên khảo được nhiều người biết đến. Sống giữa lòng đô thị,
suốt ngày ngồi quán cafe, đi bộ không biết mệt mỏi trên đường phố Sài Gòn và tìm đến
những nguồn sách vở của bạn bè hay thư viện, Sơn Nam đã tiếp tục sự nghiệp của mình
một cách bền bỉ. Những truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, cũng như những tập sách biên
khảo của ông đã làm người dân Sài Gòn, người miền Nam hiểu thêm về chính vùng đất
mình đang sống, góp phần tạo sự gắn bó máu thịt giữa đất và người, nuôi dưỡng tinh thần
yêu nước và lòng tự hào dân tộc.
Như vậy, có thể nói ảnh hưởng và tác động của văn hóa Nam Bộ đối với Sơn Nam xuất
phát từ hai nguồn chính, thứ nhất đó chính là từ dân gian và thứ hai là nguồn bác học, qua
sách vở và báo chí. Nhà văn Sơn Nam còn được gọi với cái tên thân thương là “ông già đi
bộ không mệt mỏi”. Trong suốt thời trai trẻ của mình, Sơn Nam đã đi qua các vùng miền
khác nhau của quê hương, từ ven rừng U Minh lên Rạch Giá, từ Rạch Giá lên Cần Thơ, qua
An Giang, xuống Cà Mau,…đi đến đâu nhà văn đều có ý thức để ý, và lưu lại trong trí nhớ
những điều mắt thấy tai nghe. Từ đó ông lần mò đến với văn học, biên khảo, về sau khi đã
sống giữa lòng đô thị thói quen đi bộ vẫn được nhà văn giữ gìn. Ngồi bên lề đường uống ly
cà phê đá kèm điếu thuốc lá trên tay, những chuyện cuộc đời, chuyện thế sự, tình hình đất
nước con người nơi chính ông đang sinh sống đã in đậm trong một phần sự nghiệp của Sơn

33
Nam. Đó chính là những sáng tác và biên khảo trong khoảng thời gian đầu những năm 90,
dành cho đất Sài Gòn, quê hương thứ hai của ông.
Những phong tục tập quán, cách đối nhân xử thế, cảnh thiên nhiên nơi ông đặt từng
chân qua,… từ những chi tiết nhỏ nhặt, đời thường cho đến những sự kiện lớn trong khu
vực đều được Sơn Nam quan tâm chú ý. Vì vậy, tác phẩm của Sơn Nam luôn chứa đựng
những giá trị chân thực về cuộc sống và con người vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Khi có
điều kiện tiếp xúc với trường lớp và làm việc ở chiến khu rồi về Sài Gòn miệt mài trên thư
viện quốc gia, Sơn Nam đã tập trung nghiên cứu sách vở và say sưa biên khảo về văn hóa
Nam Bộ. Từ nguồn tư liệu này cộng với vốn kiến thức sẵn có sau khi đã tích lũy nhiều năm,
các tập sách biên khảo của Sơn Nam lần lượt ra đời và luôn tập trung vào một tâm điểm
duy nhất đến nỗi người ta đã trân trọng yêu mến và gọi ông với danh xưng “ông già Nam
Bộ”.
Sơn Nam từng nói: “Viết văn để viết văn, để yêu nước chứ không nhằm một mục đích
yêu nước nào khác. Văn nghệ khác với văn hóa thông tin. Muốn viết văn tốt cần phải khảo
cứu. Miền Nam chưa có lịch sử, cho nên tôi phải khảo cứu về con người và vùng đất Nam
Bộ thì mới có thể viết về con người và vùng đất đó” [100,187]. Quan niệm trên của Sơn
Nam thật chân thành, giản dị mà không kém phần sâu sắc. Với ý thức như vậy, cả cuộc đời
ông đã dành trọn cho vùng đất Nam Bộ thân yêu cho đến giây phút cuối cùng. Và ảnh
hưởng tác động của văn hóa Nam Bộ với Sơn Nam đã không chỉ diễn ra một chiều giữa văn
hóa Nam Bộ và bản thân nhà văn mà ngược lại chính những sáng tác và biên khảo mà ông
để lại đã giúp ta rất nhiều trong việc tiếp cận với những nét văn hoá đặc sắc của khu vực
này. Đó là điều đáng trân trọng và học hỏi.

Chương 2:
DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ QUA CẢNH VÀ NGƯỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
Văn học miền Nam dù ra đời muộn hơn các miền khác nhưng cũng đã có những
“ngôi sao sáng trên bầu trời văn học”. Thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ tiêu

34
biểu của văn học Nam Bộ, đã đóng góp những tác phẩm mang đậm giá trị yêu nước và
nhân đạo sâu sắc. Đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã phản ánh những vấn đề về
đạo đức, thuần phong mỹ tục, phẩm chất chung của con người Nam Bộ. Đến nửa cuối XX,
Sơn Nam nối tiếp truyền thống ấy bằng những sáng tác có giá trị trên nhiều mặt. Ông là
một trong những nhà văn tiêu biểu của Nam Bộ giai đoạn hiện đại. Các tác phẩm của Sơn
Nam đã góp phần dựng lên bức tranh lịch sử dân tộc thế kỷ XIX – XX trên bình diện phản
ánh những biến đổi trong đời sống văn hóa, xã hội vùng đất Nam Bộ. Truyện ngắn Sơn
Nam nói riêng và toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông nói chung đã thể hiện được sự phong
phú, đa dạng trong thể thống nhất văn hóa giữa các vùng miền và các tộc người trên đất
nước Việt Nam.
Hơn nửa thế kỷ nay, từ thập niên 1950, Sơn Nam được biết đến như một tài năng
của văn chương Nam Bộ. Ông không những là một nhà văn, mà còn được đánh giá như một
nhà Nam Bộ học, một nhà văn hóa. Trong những năm gần đây tác phẩm của ông liên tục
được xuất bản và tái bản. Đặc biệt, truyện ngắn Sơn Nam không đi theo cách viết về Nam
Bộ của những nhà văn hồi đầu thế kỷ XX, càng không mang những đặc điểm truyện ngắn
của lớp nhà văn trẻ Nam Bộ sau này, nó đã tạo cho mình một sức hấp dẫn rất riêng, làm nên
phong cách đặc trưng của Sơn Nam. Bởi lẽ Sơn Nam không chỉ là một nhà văn mà ông còn
là một nhà biên khảo, hai mảng này xâm nhập vào nhau làm nên một phong cách khá nhất
quán. “Biên khảo của Sơn Nam đượm hơi hướm văn chương; văn chương của ông lại giàu
những thông tin biên khảo” [www.http://my.opera.com, Sơn Nam - nhà văn của vùng đất
mới Nam Bộ]. Bằng một cảm hứng say sưa với quê hương đất trời Nam Bộ, truyện ngắn
Sơn Nam là bức tranh toàn cảnh về vùng đất cực nam tổ quốc qua nhiều giai đoạn lịch sử
khác nhau. Ở nơi đó, thiên nhiên cảnh vật và đời sống của con người được nhà văn thể hiện
với một vốn kiến thức thực tế phong phú và một tình yêu quê hương tha thiết. Điều đầu tiên
chúng ta cảm nhận được khi tìm hiểu truyện ngắn Sơn Nam là những biểu hiện của văn hóa
Nam Bộ được thể hiện rất rõ qua cảnh và con người nơi đây.

2.1 Cảnh Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam


Hai tập truyện Hương rừng Cà Mau và Biển cỏ miền Tây được sáng tác trong
khoảng thời gian 1954 – 1975, là bức tranh xã hội của Nam Bộ từ thời kỳ khai hoang mở
đất đến khi có sự xâm lăng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Truyện ngắn Sơn Nam trong
giai đoạn này là sự hoài niệm của riêng nhà văn về vùng đất phương Nam xa xôi, mảnh đất
tận cùng của tổ quốc ta. Những ký ức về một vùng quê nghèo khó, hoang sơ, dữ dội và còn
nhiều bí ẩn đang chờ con người khai phá hiện lên trong từng trang viết. Vốn sinh ra và lớn
35
lên ở vùng đất Nam Bộ, cho nên, từ tên đất, tên làng, từ cái doi, cái vịnh, từ những nhân vật
lịch sử, thậm chí từ lời ăn, tiếng nói, giọng điệu,… của vùng đất đồng bằng này đều đi vào
các truyện ngắn của Sơn Nam một cách chân thực và sinh động.

2.1.1 Cảnh thiên nhiên Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
Thiên nhiên cảnh vật vốn là một trong những đối tượng thẩm mỹ quan trọng của
nhiều ngành nghệ thuật. Đối với nghệ thuật ngôn từ, thiên nhiên vừa đóng vai trò là đối
tượng miêu tả vừa đóng vai trò là phông nền qua đó người sáng tác làm bật lên những ý
tưởng, gửi gắm những tâm sự cần giãi bày. Thiên nhiên cảnh vật được đề cập trong truyện
ngắn Sơn Nam chính là thiên nhiên cảnh vật của quê hương Nam Bộ. Toàn bộ không gian
trong truyện ngắn Sơn Nam đều là không gian của vùng đất Nam Bộ. Nhà văn đã chú ý
khắc họa hình ảnh về quê hương mình ở nhiều góc độ khác nhau, giúp người đọc dễ dàng
nhận ra những nét đặc sắc của đồng bằng sông Cửu Long. Đó là những phong cảnh sông
nước nơi người dân sinh sống và lao động, là ruộng vườn cò bay thẳng cánh, là rừng tràm,
rừng đước bát ngát trải dài đến cuối chân trời, là những mùa nước nổi, nước mặn tràn vào
bờ,… nói chung lại, đó chính là những gì thuộc về thiên nhiên mà chỉ ở vùng đất này mới
có. Bằng niềm tự hào của một người con Nam Bộ, dường như Sơn Nam luôn hướng người
đọc chú ý đến những nét đặc trưng của vùng đất mới. Đó cũng chính là cách nhà văn giới
thiệu về quê hương mình, và sâu xa hơn là về một phần của văn hóa khu vực.
Thiên nhiên cảnh vật không phải là những gì bất biến. Dưới sự tác động của thời
gian và bàn tay lao động của con người, thiên nhiên Nam Bộ đã có những thay đổi không
nhỏ so với hiện trạng ban đầu. Từ những đặc điểm của thiên nhiên, cảnh vật và môi trường
sống đã kéo theo những nét đặc trưng về tính cách của con người như một số nhà nghiên
cứu đã cho rằng chính sự giàu có của thiên nhiên sản vật nơi đây đã tạo nên tính hào phóng,
khoáng đạt của người dân Nam Bộ. Có thể khái quát hai đặc điểm lớn về thiên nhiên Nam
Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam như sau: đó là một thiên nhiên còn đậm những nét hoang
sơ, dữ dội và một thiên nhiên gần gũi, hiền hòa, gắn bó với cuộc sống của con người.

2.1.1.1 Thiên nhiên đậm chất hoang sơ, dữ dội


Trong một lần trò chuyện trên báo Văn nghệ, Sơn Nam đã tự nhận mình là “con
người của đồng quê, mang dòng máu, tâm hồn nông dân, giọng điệu nông dân, kiến thức
nông dân. Đồng bằng sông Cửu Long là giấc mơ, là sáng tác suốt đời của tôi”. Cả cuộc đời
Sơn Nam đã hướng ngòi bút về quê hương Nam Bộ với một sự nhất quán và say sưa từ
những trang viết đầu tiên cho đến những trang cuối cùng. Nhà văn Sơn Nam luôn tự hào
mình là người sống ở U Minh nên những đoạn viết về nơi này, ngòi bút của ông tỏ ra rất

36
hào hứng và linh hoạt. Những đoạn tả về rừng U Minh có một sức hút đến kỳ lạ đối với
người đọc. Ông nói đến sân chim, ông say sưa kể về chuyện ăn ong, những kinh nghiệm
đánh bắt cá, bẫy rùa, rắn, lươn rất thú vị. Bằng sự am hiểu sâu rộng, những “đặc sản” theo
mùa được nhà văn giới thiệu với một mục đích thật giản dị là “làm cho người nơi khác hiểu
hơn về quê hương Nam Bộ”. Ở một số truyện ngắn, Sơn Nam chọn cách giới thiệu trực tiếp
về quê hương xứ sở của mình, chẳng hạn như: Hai cõi U Minh, Kéo trúm, Cấm bắt rùa,
Ngày hội ba khía, Con cá chết dại, Mùa len trâu,... Điều đó không chỉ mang đến cho người
đọc kiến thức, sự hiểu biết về vùng miền mà còn khơi gợi ở họ sự tò mò về một vùng đất xa
xôi, hẻo lánh ẩn chứa nhiều bí ẩn.
Nam Bộ vốn là một vùng đất mới được hình thành từ chủ trương lớn của chúa
Nguyễn. Đi về phương Nam mở mang bờ cõi, những cư dân đầu tiên đã phải đối mặt với
muôn vàn khó khăn thử thách mà trước tiên đó là một thiên nhiên hoang sơ, dữ dội chưa
từng được khai phá. Môi trường nơi đây hoàn toàn xa lạ và bí ấn đối với con người. Thú dữ
trên rừng, cá sấu dưới sông và bao nhiêu những khó khăn khác đe dọa trực tiếp đến đời
sống của con người, đồng thời cũng thách thức lòng can đảm, ý chí và nghị lực của họ.
Trong truyện ngắn nói riêng và các thể loại khác nói chung, Sơn Nam đã dày công
khắc họa một thiên nhiên Nam Bộ với những điểm đặc trưng nhất. Hình ảnh đồng bằng
sông Cửu Long với những cánh đồng lúa xanh biếc, khi mùa nước nổi, nước lớn, nước mặn
tràn về,… đều được Sơn Nam thể hiện bằng vốn kiến thức thực tế phong phú và đa dạng.
Trong ấn tượng của Sơn Nam, đây là xứ sở “chạy dài tới chân trời một vùng trời đất bao la
không bến không bờ, ở nơi đó màu xanh của cỏ dại của lúa nối tiếp nhau khó phân biệt đâu
là ruộng đâu là đất” (Vọc nước giỡn trăng). Những loại cây cỏ đặc trưng của vùng đồng
bằng sông Cửu Long như: đước, vẹt, mắm, tràm, cóc kèn, ô rô, điên điển, lục bình,… như
cùng nhau ùa vào những truyện ngắn của Sơn Nam với một vẻ đẹp vốn có của tự nhiên.
Trong truyện ngắn Chuyện rừng tràm, Sơn Nam viết: “Trên mặt nước từng chiếc lá tràm
bay lả tả như bươm bướm mỏi cánh, đáp nhẹ xuống mặt nước như từ trong ngọn rạch chui
ra” hay “bên bờ sông im lìm, mặt nước thẫn thờ,…bông vừng buông thõng xuống từng xâu
chuỗi hường chen lấn nối tiếp nhau như bức mành mành”. Khi đọc truyện ngắn Hương
rừng, cái gợi lại cho người đọc không chỉ là một câu chuyện thấm đậm tình người mà còn
là một ấn tượng sâu sắc về cảnh sắc rừng tràm U Minh: “Hương rừng ngào ngạt, mùi hương
xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kìm hít mạnh để hửi cho kỹ, để nớ rõ nhưng mãi không
ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả. Trên hàng vạn
nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng
trước mặt mà khắp các tứ phía…. Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu

37
không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt”. Trước cảnh tượng đẹp đẽ ấy, bản thân nhà văn như
đã quên đi ý nghĩa của chốn U Minh xa xôi, âm u và hẻo lánh này và chợt nhận ra: “rừng
sáng lạng, ai dám nói là rừng âm u”. Ấn tượng về thiên nhiên Nam Bộ trong mùa bông tràm
nở trắng sông nước đã lưu lại trong trí nhớ của người đọc như một thứ xúc cảm thẩm mỹ
đẹp đẽ.
Mùa nào thích hợp để làm lúa, mùa nào phải làm mắm, mùa nào làm ba khía, bắt cá,
bắt rùa, bắt rắn, bắt lươn… những hình ảnh đẹp đẽ, giàu có về mùa tháng chạp chim về,
mùa dưa hấu ở xứ biển Hà Tiên,… đã được Sơn Nam say sưa đưa vào những truyện ngắn
của mình, làm mở mang tầm mắt cho người đọc và tạo cho họ sự thích thú. Ấn tượng rõ
nhất về mùa nước lụt ở Nam Bộ được tìm thấy trong truyện ngắn Mùa len trâu. Vào mùa
này, “xung quanh vùng chỉ có mấy gò đất nổi lên, lúa sạ gặp nước lụt cứ dâng lên cao, nước
ngập cỏ cũng không thể sống được họ đành kiếm sống bằng các nghề khác”. Trâu bò không
thể sống lâu ở vùng nước lụt vì thế hàng năm vào cứ vào thời điểm này dân tứ xứ kéo đến
vùng Ba Thê, Bảy Núi để len trâu. Trong truyện Kho vàng, xen vào câu chuyện của những
người đi đào vàng, tìm kiếm đồ cổ, Sơn Nam lại đưa người đọc đến với Ba Thê vào thời xa
xưa. Xưa kia, “đây là một gò đất khá rộng nổi lên giữa cảnh đồng không mông quạnh, rất ít
người lui tới, lau sậy mọc qua khỏi đầu người”.
Đồng bằng sông Cửu Long với hệ thống sông ngòi dày đặc là môi trường sinh sống
chính của người dân Nam Bộ. Họ cất nhà dọc mé sông, lao động kiếm sống và đi lại đều
gắn với sông nước. Truyện ngắn Sơn Nam đã mở ra trước mắt người đọc một vùng trời đất
bao la, một vùng đồng bằng với những nét quyến rũ của thiên nhiên cảnh vật. Trong một số
truyện, Sơn Nam đã cố ý làm mờ đi yếu tố thời gian và không gian. Ở thời điểm sáng tác,
điều này nhằm để tránh khỏi sự kiểm duyệt gắt gao của chính quyền thực dân nhưng đồng
thời chính nó đã tạo ra được hiệu ứng nghệ thuật đặc sắc, khiến cho truyện của Sơn Nam có
tính chất đại chúng và mở rộng giới hạn về thời điểm và hoàn cảnh xảy ra câu chuyện. Nắm
rõ từng loại cây thích hợp với thổ nhưỡng của vùng, thậm chí cả thời gian sinh trưởng và
phát triển của chúng, Sơn Nam giới thiệu đến người đọc về loài lục bình: “Xứ mình, gần
biển, gặp nước mặn, lục bình chết, ở đây nước ngọt. Nhiều người kên nó là sen Nhựt Bổn.
Nghe đâu nó tràn qua xứ mình hồi bão lụt năm Thìn, người thì nói Tây đem qua làm cây
kiểng cho đẹp mắt. Lần hồi nó sanh sôi nảy nở, tràn đồng, tràn mương”. Một lần đặt chân
đến xứ sở này, hình ảnh những giề lục bình trôi bồng bềnh trên sông nước luôn mang đến
cho người đọc cảm giác về sự thanh bình yên ả. Hãy dừng lại xem xứ sở của những con
người dùng tay “vẹt lục bình”, để một lần chứng kiến cuộc sống của người dân nơi đây như
thế nào: “Đằng kia, lục bình chận ngang con kinh, bề dài cỡ bảy tám trăm thước, hoặc ngàn

38
thước… mỗi giề nặng hơn kí lô, quỳ xuống trước mũi xuồng để lấy thế, mỗi lượt hai bàn
tay vẹt (vạch) ra được hai gié, quăng ra gần đó, miễn là trước mũi không có gì ngăn cản,
chiếc xuồng vượt lên được một thước, đầu đuôi vẹt chừng một ngàn lần, khom lưng một
ngàn lần, đủ sức chịu đựng”. Đó chính là đoạn sông cuối cùng mà Hai Cần phải vượt qua
khi đi hỏi cưới cô Hiếm ở xứ Tràm Trốc nhưng cuối cùng anh cũng không thể đủ sức để vẹt
đến một ngàn lần và đành bỏ xuồng giữa sông, lên bờ và đi bộ đến nhà người yêu. Trải qua
một đoạn đường đầy khó khăn thử thách nhưng con người vẫn giữ trọn tình nghĩa, cuối
truyện Sơn Nam để cho đôi trẻ được đoàn viên. “Cha cô Hiếm sẽ đến xóm mình một lần
nữa và Hai Cần cũng còn trở lại đây một lần nữa cho xong chuyện vợ chồng” (Vẹt lục
bình).
Truyện ngắn là những lát cắt từ cuộc sống, với cách hiểu như thế, nhà văn Sơn Nam
đã giới thiệu đến người đọc về đất và người Nam Bộ trên nhiều phương diện khác nhau.
Qua từng trang văn, hình ảnh những con sông, con rạch, cánh rừng tràm, rừng đước, mùa
nước nổi, nước giựt,… như hiện lên rõ ràng trước mắt người đọc. Cái xứ sở “muỗi kêu như
sáo thổi” ấy, qua sự thể hiện của Sơn Nam, đã tạo cho người đọc những ấn tượng đầu tiên
về một vùng thiên nhiên hoang sơ, và dữ dội. Ông bà Cả gả con gái về rừng mà trong lòng
luôn canh cánh nỗi lo lắng vì nơi ấy “khi trời sa mưa, muỗi mòng sanh sôi nảy nở gấp mười
lần so vơi mùa hạn”. Bằng lòng thương yêu của một người mẹ, bà Cả lo sợ cô Út sẽ bỏ
mạng ở xứ Cạnh Đền xa xôi hoặc quên mất gốc rễ nguồn cội của chính mình (Cô Út về
rừng). Có những nơi như vùng Đường Bàng, Sóc Xoài muỗi nhiều đến mức dù dùng bếp
un khói cũng không đuổi hết được chỉ còn cách chống xuồng cho lẹ tay để muỗi bay theo
không kịp (Ông bang cà ròn). Người dân nơi đây xưa kia đi đâu thường mang theo bên
mình những vật dụng để tránh muỗi như bếp un khói và nóp để ngủ là thế.
Mở đầu truyện ngắn Con Bảy đưa đò, Sơn Nam đưa bạn đọc đến với con rạch Cái
Mau, một ngọn sông cái lớn ăn thông qua địa phận tỉnh Cần Thơ vào thời điểm “trên ba
mươi năm về trước”. Căn cứ theo hoàn cảnh ra đời của tập truyện Hương rừng Cà Mau, đó
là khoảng thời gian đầu thế kỷ XX. Thời bấy giờ đây là “nơi sầm uất, lau sậy mọc um tùm
quanh mấy gốc cây bần to lớn cỡ hai người ôm không xuể. Sớm thì chim kêu, chiều thì
vượn hú, quang cảnh buồn bã làm sao! Thỉnh thoảng có người bảo rằng giữa đêm khuya
nghe tiếng cọp rống….” tiếp theo đó trải ra trước mắt người đọc là con kinh Xáng Lái Hiếu
vừa được múc xong. “Ngọn nước bạc mát lạnh, ngon lành đổ tuôn qua Rạch Giá, mang
mấy giề lục bình lá xanh bông tím trôi phiêu lưu từ sông Hậu Giang ra ngoài khơi vịnh
Xiêm La xa thẳm”. Đất Nam Bộ vào thời giặc Tây đến xâm lược vẫn còn là vùng đất hoang
vu. Vào thời điểm ấy, nơi đây chỉ có vài sóc Miên rải rác giữa đồng, có khi chèo ghe cả

39
ngày mà không gặp người nào. Ngoài biển chỉ có ghe đánh cá Hải Nam, trong đất liền chỉ
lác đác mấy nhóm người Triều Châu, Phước Kiến qua lại. Đất trải mênh mông, sông nước
bạt ngàn, rừng rậm, muỗi mòng đỉa vắt như trấu. Làng Bình An vào thời Pháp thuộc vẫn
còn là “vùng khỉ ho cò gáy, chưa khai hoang. Mỗi năm có đến tám tháng nước mặn tràn
vào rạch. Đến khi nước bắt đầu ngọt thì sanh ra một thứ tai nạn: muỗi bay từng bầy suốt
ngày, dẫu là lúc trưa nắng (Kéo trúm). Xứ sở huyền bí này vào đầu thế kỷ XX vẫn là nơi ẩn
chứa nhiều bí ẩn chờ bàn tay con người đến khai phá, dần dần đã mọc lên những xóm làng
với những người đổ đến từ các miệt khác nhau.
Nổi lên trong các truyện ngắn của Sơn Nam là một thiên nhiên Nam Bộ với sự rộng
lớn và trù phú nhưng còn in đậm chất hoang sơ. Nhà văn đã chú ý khắc họa nó tương ứng
với sự định cư thưa thớt của con người. Bằng nghị lực, bằng ý chí họ đã vượt qua những
khó khăn thử thách và tìm đến những nơi xa xôi hẻo lánh nhất. Sự đồn đại về kho vàng, về
những thứ quý giá của thời Gia Long tẩu quốc, thời họ Mạc ở trấn Hà Tiên đã làm cho
những người tò mò như Tư Hí và Lục Che tìm đến nơi khai quật mong trở thành bá hộ nều
may ra bắt được kho vàng. Chen vào những câu chuyện có tính chất lịch sử ấy là hình ảnh
về Nam Bộ vào thời xa xưa qua chính sự hiểu biết của nhà văn. Vùng đất này các nhà khảo
cứu gọi tên theo tiếng địa phương là Óc Eo, vốn là một thương cảng tấp nập cách nay hơn
một ngàn năm. Xưa kia đây chính là nơi các thuyền ngoại quốc từ Ấn Độ, Ba Tư qua đây
giao thương, buôn bán. Đến đầu thế kỷ XX đây vẫn là nơi “bờ bến ở tận chân trời, nước tuy
cạn nhưng có thể giết người, nạn nhơn dầu lội giỏi, vượt năm bảy ngàn thước cũng không
tìm được một căn nhà sàn, một ngọn tre mà nương tựa” (Một cuộc biển dâu). Cha con
thằng Kìm đã phải vượt qua bao chặng đường, bao khúc sông từ miệt Hậu Giang qua vùng
ruộng xạ thuộc tỉnh Long Xuyên, trước tiên là để trốn thuế thân sau là để kiếm sống. Năm
Lươn “sống giữa đồng không mông quạnh, bạn bè ít tới lui vì đường sá khó khăn. Hễ đi bộ
thì thiếu đường mòn, cỏ mọc cao nghệu đầy cánh đồng, còn đi xuồng thì nước ngập lé đé
khỏi mặt đất chừng ba tấc” (Kéo trúm).
Chân thật như chính lời khẳng định “viết văn là để yêu nước”, qua truyện ngắn của
Sơn Nam ta càng cảm nhận được tấm lòng của của một con người đối với quê hương xứ sở.
Nhà văn Sơn Nam quả xứng đáng là cây bút viết văn “có dáng vẻ và hương sắc riêng”.

2.1.1.2 Thiên nhiên gần gũi, hiền hòa, gắn bó với cuộc sống của con người
Nói đến vùng đồng bằng sông Cửu Long người ta nghĩ ngay đến vùng sông nước
miệt vườn. Thiên nhiên, địa lý miền Nam mà đặc biệt là ở khu vực này vốn nổi bật với
những nét đặc trưng gắn liền với sông nước. Nơi đây được biết đến là xứ sở “văn minh
kênh rạch”. Trong các dạng biểu hiện của kiểu văn minh đặc biệt này, yếu tố sông nước
40
hiện diện trên rất nhiều mặt từ cách ăn, ở, đi lại, buôn bán, kiếm sống cho đến phong tục và
cả ngôn ngữ. Bằng tài năng của một người cầm bút có kinh nghiệm, Sơn Nam đã làm bật
lên toàn bộ điều đó trong mảng truyện ngắn viết về miền Tây đất mẹ. Một trong những yếu
tố khiến truyện ngắn của Sơn Nam hấp dẫn người đọc bởi cách nhà văn đã dày công dựng
lên một bức tranh thiên nhiên cảnh vật với màu sắc hiền hòa, với vẻ đẹp trù phú mà tạo hóa
đã ban tặng cho nơi đây. Sơn Nam đã viết với tất cả sự say sưa và lòng tự hào của một
người con Nam Bộ.
“Khách đi đường ngỡ mình lạc lối trong hang, thứ hang thiên nhiên, bất tận. Có
tiếng vượn hú. Từ bên này con vượn bồng con, nắm sợi dây rau câu, lấy trớn đu mình sang
nhánh ở bờ bên kia để hái trái vừng. Trái quá chát, vỏ quá dày, vượn nhăn mặt, bực tức
ném mạnh. Trái vừng sa vào giữa lưới nhện giăng hờ, lơ lửng. Lưới lung linh không đứt
hẳn; con nhện hoảng hốt thả sợi tơ dài sa xuống. Chợt thấy mặt nước, nó toan rút trở lên.
Nhưng trễ quá rồi! Con cá bông phóng mỏ theo táp mạnh. Thằng Kìm ngỡ đó là con trăn.
Cá lớn bằng cây cột nhà. Vẩy xanh, vẩy trắng thêu từng vòng ngời lên khắp thân mình. No
mồi, cá lặn sát đáy, lội nhanh. Bầy cá con di chuyển theo mẹ, hàng trăm con lấm tấm như
rắc cườm đầy mặt nước, mất dạng trong bóng mát đằng kia. Bờ sông im lìm, mặt nước thẩn
thờ trả lại bóng dáng của cây chồi mọc sát mé bãi: bông vừng buông thả xuống từng xâu
chuỗi hường, chen lấn, nối tiếp nhau như bức mành mành. Nhánh vừng khô cằn, lá vàng
rụng như mất hẳn. Đôi đọt non nhú lên, mỏng mịn, chưa nhuốm được màu xanh vì thiếu
nắng; ở xa trông như những cánh bướm khổng lồ đang phập phồng, ngứa ngáy, chưa đậu
yên chỗ là đã muốn bay” (Hương rừng). Một cảm giác ngỡ ngàng và vô cùng thích thú đã
đọng lại trong lòng người đọc bởi trước mặt họ là một bức tranh thiên nhiên thật ấn tượng
và đặc sắc. Cách viết của Sơn Nam đã giúp người đọc hình dung ra mảnh đất phương Nam
hiền hòa với những cảnh sắc thật đẹp và yên bình.
Đoạn văn sau miêu tả cảnh thanh bình vào thời điểm đầu tháng giêng ở một ngọn
rạch: “Tháng Giêng, buổi chiều thật êm ả, nếu quên đi chuyện muỗi mòng. Mùi lúa chín từ
đồng khơi đưa về nồng ấm. Nước giựt xuống thấp, cây rừng bày gốc rễ trông cao lớn hơn
mọi lần. Mớ lá khô nằm đó, vàng sẫm như lót đường cho chim cò, rùa rắn. Ngọn rau muống
từ giã bờ rạch, bò lên mé rừng, dây ốm tong teo nhưng dẻo dai, lá nhỏ cuốn tròn bên mấy
chùm bông tím đang rũ xuống, kết trái, thứ trái nhỏ tròn như cái nút áo. Bươm bướm bay
tung tăng đậu trên đó” (Vọc nước giỡn trăng). Nhà văn đã cảm nhận thật tinh tế và sâu sắc
về hình ảnh thiên nhiên Nam Bộ thật đẹp, thật hiền hòa gắn bó mật thiết với cuộc sống của
con người nơi đây.

41
Truyện ngắn Sơn Nam đã đưa người đọc qua nhiều vùng khác nhau của quê hương
mình và dường như qua mỗi nơi nhà văn đều dừng lại để giới thiệu, để giải thích cho bạn
đọc hiểu rõ hơn. Ông đưa người đọc đến với những sân chim nổi tiếng, đi qua những khu
rừng tràm rừng đước bát ngát, đến với những cánh đồng lúa xanh rì, và những bãi biển đầy
nắng và gió. Sơn Nam là một trong số những nhà văn đã đề ra mục đích thật rõ ràng trước
khi cầm bút viết chứng tỏ ông luôn đặt trách nhiệm của một nhà văn chân chính lên hàng
đầu. Viết về Nam Bộ là để giới thiệu về chính quê hương xứ sở của mình và là để cho
người nơi khác hiểu hơn về quê hương mình.
Có thể cân nhắc chọn yếu tố nào để làm nổi bật tính chất văn hóa Nam Bộ qua
truyện ngắn Sơn Nam? Dễ nhận thấy việc thể hiện khung cảnh sông nước đóng một vị trí
rất quan trọng. Khung cảnh sông nước chiếm 61/85 truyện ngắn khảo sát. Một vùng sông
nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt hiện ra trước mắt độc giả qua những trang văn
thấm đượm tình người. Đối với những cư dân Nam Bộ đến đây khai cơ, lập nghiệp thì yếu
tố tự nhiên ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống sinh hoạt của họ. Đồng bằng sông Cửu Long
với một hệ thống sông rạch phong phú đã ảnh hưởng rất lớn đến việc cư trú của con người
trong quá trình khai phá, xây dựng vùng đất mới. Ngay từ buổi đầu đặt chân đến, con người
đã phải thích ứng với môi trường để có thể định cư lâu dài tại đây. Và đến nay, trải qua lịch
sử hơn ba trăm năm hình thành và phát triển đồng bằng sông Cửu Long đã trở niềm tự hào
của con người Nam Bộ, là vựa lúa lớn nhất cả nước.
Ở Nam Bộ, thiên nhiên trong yếu tố “văn minh sông nước” được chia thành hai dạng
khác nhau đó là vùng được ưu đãi về thủy lợi nhờ sông rạch và vùng ngập lụt, ngập phèn
hoặc vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn từ biển vào. Sông nước là xứ sở gạo trắng nước
trong của đất Cần Thơ, là rừng tràm bạt ngàn của xứ U Minh xa xôi hẻo lánh, là vùng ruộng
xạ thuộc tỉnh Long Xuyên hàng năm nước lên vài tháng rồi giựt xuống,.... Đến Nam Bộ
trong mùa nước nổi ta mới cảm nhận thật chính xác những gì mà Sơn Nam miêu tả trong
một số truyện ngắn như Mùa len trâu, Một cuộc biển dâu, Con cá chết dại, Kéo trúm…
Mặc dù môi trường sông nước là nơi hàng ngày người dân lao động và sinh hoạt nhưng vào
mùa bão lũ nó trở thành mối đe dọa chết người. Ấn tượng sông nước đã in đậm trong tâm
trí non nớt của thằng Kìm khi lần đầu tiên chứng kiến cảnh “nước ở đâu mà nhiều quá,
ngập đồng ruộng, sâu cỡ hai thước, mênh mông không bờ không bến như biển khơi” (Một
cuộc biển dâu). Trước mặt nó là cánh đồng nước bao la, trải dài khắp chân trời. Một mình
bơ vơ trong khung cảnh ấy, nó đau xót nhận ra mình lạc lõng và đơn lẻ biết bao. Trong
bước đường kiếm sống, việc đối mặt với nhiều thử thách đã khiến con người trở nên gan dạ

42
hơn, trưởng thành hơn. Đồng thời, chính sự khó khăn đã khiến người dân Nam Bộ sống
đoàn kết, tương thân tương ái.
Trong tập truyện ngắn Biển cỏ Miền Tây, Sơn Nam giải thích rõ hơn về đặc điểm
của vùng đất U Minh. Đây là “khu vực không có biên giới rõ rệt, chẳng hiểu Đông, Tây,
Nam, Bắc giáp với làng nào xóm nào. U Minh còn có nghĩa là tối tăm, ban ngày ánh nắng
bị tán cây che khuất, vừa quá xế chiều sương mù sa xuống chẳng thấy đâu là đâu. U Minh
là tên một cửa ngục ghê rợn trong Thập Điện do Diêm Vương cai quản. Xưa kia, U Minh
bao gồm tận bờ biển Xiêm La, lần hồi địa danh ấy bị thu hẹp lại, nhờ sự khai thác cần mẫn
của dân tứ xứ” (Hai cõi U Minh). Đó là sự đúc kết những hiểu biết từ dân gian, từ nguồn
sách vở mà nhà văn đã khái quát lại. Miền Tây đất mẹ, đặc biệt là xứ U Minh xa xôi đã đi
vào các sáng tác của Sơn Nam như một lời mời gọi chân tình những người nơi khác đến
vùng đất này.
Nhà văn Sơn Nam quê ở huyện An Biên tỉnh Rạch Giá, hơn ai hết ông là người nắm
được rất rõ về từng đặc điểm tự nhiên vùng đất này. Rạch Giá là xứ xa xôi giáp biển, địa
hình nơi đây đã mang đến cho con người nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng. Một lần
chứng kiến những cánh đồng dưa hấu vào mùa thu hoạch (Mây trời và rong biển), những
con ba khía chen nhau trên mặt cát biển (Ngày hội ba khía) và đặc biệt là cảnh cả khúc
sông toàn cá lóc chết dại (Con cá chết dại) hẳn người đọc sẽ không thể nào quên. Đến vùng
đất này, nếu biết khai thác, tận dụng những nguồn lợi sẵn có theo từng mùa vụ, con người
sẽ không phải lo nghĩ đến miếng ăn, nói như một nhân vật trong truyện của Sơn Nam “xứ
sở này xưa nay chưa từng thấy mồ mả của thằng chết đói nào cả”. Cái mà con người quan
tâm và trân trọng hơn cả đó chính là tình người với nhau. Những người từ nơi khác đến
kiếm sống luôn được dân trong vùng che chở và truyền lại những kinh nghiệm sống. Trong
ý thức của họ, đó chính là sản vật của thiên nhiên, đất trời vì thế họ không bao giờ khai thác
cạn kiệt mà luôn chú ý ăn mùa này phải để dành đến mùa sau.
Có nhiều người đã gọi Sơn Nam là “ông già đi bộ không mệt mỏi”. Đó là một thói
quen đã có từ rất sớm của nhà văn miệt vườn này. Trên mỗi bước đi, Sơn Nam lại có dịp
tích lũy cho mình vốn hiểu biết phong phú, giúp ông tiếp cận với đồng bằng Sông Cửu
Long từ nhiều góc độ khác nhau. Đọc Hương rừng Cà Mau và Biển cỏ miền Tây, ta càng rõ
hiểu thêm về quê hương Nam Bộ từ giai đoạn khai hoang mở đất đến cuộc sống hôm nay.
Dù qua thời gian, nơi đây vẫn là xứ sở còn nhiều bí ẩn mời gọi con người đến khám phá.
Sự giàu có của những nguồn lợi từ thiên nhiên cũng là một trong những yếu thố thu hút dân
tứ xứ đến đây sinh cơ lập nghiệp. Xóm ấp vì thế đã mọc lên ở tận những chốn xa xôi nhất,

43
chốn mà đi cả ngày đường không gặp được một người qua lại, chốn mà con người phải mắc
mùng để nói chuyện vì muỗi mòng quá nhiều.
Thời trai trẻ lên Cần Thơ theo học trung học và thời gian ở chiến khu IX, Sơn Nam
đã có điều kiện đi qua nhiều vùng miền, gặp gỡ nhiều mẫu người, chứng kiến nhiều cảnh
trí, phong tục tập quán địa phương. Từ sự trải nghiệm thực tế đó, Sơn Nam đã tự làm phong
phú thêm sự hiểu biết xã hội cho bản thân mình. Khi đã trở thành một nhà văn thực thụ,
bằng cách thức lựa chọn những chi tiết, hình ảnh một cách có chọn lọc, Sơn Nam đã tự hào
giới thiệu đến bạn đọc một thiên nhiên hoang sơ, dữ dội nhưng đẹp đẽ, giàu có của vùng đất
Nam Bộ. Ông thường không chọn cách miêu tả trực tiếp đối tượng mà đa phần những hình
ảnh về thiên nhiên sông nước miệt vườn được hiện lên một cách chân thực và sinh động
qua những câu chuyện kể của chính những con người sinh ra và lớn lên ở mảnh đất phía
nam này. Kiến thức và sự hiểu biết về địa lý, lịch sử, xã hội được Sơn Nam khéo léo đan
cài vào từng truyện kể. Đối với những chỗ lạ gây cản trở cho sự tiếp nhận của người đọc,
nhà văn chọn cách giải thích trực tiếp. Hai đặc điểm này xuất hiện thường xuyên trong rất
nhiều truyện ngắn, làm nên nét riêng biệt của ngòi bút Sơn Nam.
Qua việc thể hiện thiên nhiên Nam Bộ, Sơn Nam đã phần nào làm bật lên được
những nét văn hóa đặc sắc của khu vực. Nếu như nhà văn Nguyễn Tuân trong Vang bóng
một thời đã khắc họa lên hình ảnh đất nước và con người miền Bắc, cụ thể là nơi ông sinh
ra và lớn lên thì hai tập truyện ngắn trên của Sơn Nam là hình ảnh đầy đủ nhất về miền Tây
Nam của đất nước ta. Hai nhà văn ở đầu và cuối tổ quốc này bằng những cách thức và cảm
hứng khác nhau đã cùng vẽ lên hình đất nước ta trong khoảng thời gian những năm đầu thế
kỷ XX. Điểm khác biệt nằm ở chỗ, nếu như Nguyễn Tuân say sưa với những cái đẹp, cái
cao quý, lưu giữ những thứ chỉ còn là một thời vang bóng thì Sơn Nam lại đi vào những
sinh hoạt trong đời sống thường nhật của con người Nam Bộ. Điểm gặp nhau của hai nhà
văn này chính là tấm lòng với quê hương đất nước, là ý thức giữ gìn những giá trị truyền
thống đẹp đẽ của quê hương mình. Ở Nguyễn Tuân đó là sự thể hiện rõ ràng ngay từ tiêu đề
của từng truyện, ở Sơn Nam đó là sự ẩn chứa đằng sau những câu chuyện kể, những lát cắt
nho nhỏ về cuộc sống của con người Nam Bộ quê hương ông.

2.1.2 Cảnh xã hội trong truyện ngắn Sơn Nam


Truyện ngắn Sơn Nam là bức tranh toàn cảnh về vùng đất và con người Nam Bộ.
Trong đó bên cạnh những nét vẽ chân thực, sinh động và phong phú về thiên nhiên cảnh
vật, Sơn Nam còn hướng ngòi bút của mình đến những khung cảnh mang tính xã hội của

44
người dân vùng sông nước. Đó chính là cách ăn ở, thờ cúng, đi lại và cả những sinh hoạt
tinh thần của con người nơi đây. Bằng vốn hiểu biết thực tế sâu rộng, Sơn Nam đã đưa
người đọc về với quê hương Nam Bộ để hiểu hơn về đời sống của con người nơi đây. Đúng
như quan niệm “văn học phản ánh đời sống thực chất là phản ánh phương diện văn hóa của
đời sống”, khi khai thác các hình thức sinh hoạt tinh thần, nhà văn Sơn Nam đã gián tiếp
giới thiệu đến bạn đọc những nét văn hóa đặc sắc của vùng đất Nam Bộ. Những tác phẩm
văn học giúp ta tìm hiểu văn hóa của một khu vực, một cộng đồng, một dân tộc chắc chắn
sẽ có giá trị vững bền cùng thời gian. Truyện ngắn Sơn Nam đã mang đến cho bạn đọc
những cảm xúc bổ ích về đất nước và tình người, làm phong phú thêm sự hiểu biết của họ.
2.1.2.1 Khi đi về phương Nam tìm miền đất mới, người Việt vẫn lưu giữ phong tục
thờ cúng ông bà tổ tiên. Dù đi bất cứ nơi đâu hình ảnh làng quê, tiêu biểu là đình làng vẫn
in đậm trong tâm trí họ nên khi có dịp thuận lợi con người lại xây đình cất miếu để nhắc
nhở con cháu về cội nguồn. Trong công trình khảo cứu Đình miếu và lễ hội dân gian, Sơn
Nam viết “Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần. Có đình mới tạo được thế đứng, gắn bó
cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ” [51, 32]. Đó là nhu cầu tinh thần không thể thiếu
của người đi xa, nó giúp họ nhớ về cố hương và giữ gìn truyền thống dân tộc. Trên cơ sở kế
thừa nội dung và ý nghĩa của đình làng Bắc Bộ, đình ở Nam Bộ là nơi thờ thần Thành
Hoàng và các thần linh, là nơi tổ chức các hội lễ Kỳ Yên. Qua sự phản ánh của Sơn Nam, ta
thấy được không khí sinh hoạt của đình miếu ở Nam Bộ thuần túy giải trí, giải tỏa tinh thần
hơn là chức năng xử lý việc làng việc xã. Nơi đó, nhộn nhịp với những câu thai đố, những
câu hò tiếng hát, những ông kỳ lão giữ vai trò như một vị giám khảo thưởng phạt đúng sai,
đình còn là chỗ ăn ngủ trò chuyện của lũ trẻ chăn trâu,…
Trong nhiều sáng tác của Sơn Nam ta thấy có sự xuất hiện của tín ngưỡng thờ mẫu
trong dân gian. Bà Chúa Xứ là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực phía Nam. Hàng năm
vào dịp tháng tư âm lịch, dân trong vùng thường kéo đến cúng vái mong được khỏe mạnh,
an lành và làm ăn thuận lợi. Truyện ngắn Miễu bà Chúa Xứ kể về lai lịch của ngôi miếu
linh thiêng này. Trong trận đánh Tây của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực hồi tám mươi
năm về trước dân cư Gò Mả Lạn chỉ còn lại một mình ông Tư Đạt. Ông chính là người lập
nên ngôi miễu bà Chúa Xứ để những oan hồn có chốn nương thân. Cả cuộc đời ông đã sống
ở mảnh đất này và làm công việc nhang khói cho miễu vì ông tin rằng Bà Chúa luôn phù hộ
cho ông và những người dân lương thiện trong vùng. Hay trong câu chuyện kể về đám “con
cháu Thần Nông” (Lũ trẻ chăn trâu), Sơn Nam viết: “Bên gốc cây mù u không biết ngôi
miếu cổ dựng lên từ hồi nào, mái ngói rong rêu, mấy cây cột bị mọt ăn sắp ngã quỵ xuống”.
Đó chính là nơi thằng Hon làm nghề chăn trâu mướn cho ông hương cả Bạch ngủ trưa, nơi

45
lũ trẻ rủ nhau vào miếu đùa giỡn, quan trọng hơn cả là nơi thờ cúng của cả dân làng Khánh
Van. Ngôi miếu chăn trâu này được “người qua lại khấn vái, thỉnh thoảng họ cúng nải
chuối hoặc con gà”. Khi trời vừa tờ mờ sáng cả làng đã xôn xao lên vì trong chánh điện của
đình làng một con hạc bằng cây không cánh mà bay, trong hàng “lễ bộ” đã vắng dạng một
cây kích, một cây chùy. Trước tình thế ấy, ông Từ là người được giao trách nhiệm giữ “sắc
thần” tức cái bằng cấp, do triều đình ban cho để thờ phụng đã vô cùng hoảng sợ. Sắc thần là
thứ rất quan trọng nó được cất giữ tại nhà ông hương cả và chỉ vào dịp lễ kỳ yên, hương
chức trong làng mới thỉnh sắc ấy tới đình để dân chúng cúng vái. Bọn trẻ chăn trâu đã ăn
cắp sắc thần để đổi lấy sự tự do cho thằng Hon vì nó đã làm mất con trâu pháo của nhà ông
hương cả Bạch. Đêm ấy cả làng Khánh Van đánh mõ, đánh trống để tri hô, tìm bắt thủ
phạm vì họ quan niệm “đình làng mà mất sắc thần thì tai họa xảy tới”. Và quả như dự tính
của bọn trẻ “cái sắc thần phải quý hơn con trâu pháo”, ông hương cả Bạch, ông Từ giữ đình
vì mong muốn giữ được vị trí “chánh bái trong đình để góp tiền cúng tế, góp tiền tu bổ đình
làng hàng năm và để chết có danh” đã chịu thua đám trẻ chăn trâu. Bằng một giọng văn
hóm hỉnh có pha chút hài hước, câu chuyện trên đã giúp chúng ta nhận ra tầm quan trọng
của đình làng trong tâm thức của người dân Nam Bộ.
Cách ứng xử giữa con người với con người trong không gian đình làng mang lại cho
dân Nam Bộ đời sống tinh thần phong phú, đa dạng. Con người đến với nhau khi cần giải
tỏa tâm lý, khi hội hè đình đám vì thế họ đã cùng nhau tạo làng, dựng đình với tâm niệm
hướng về đất tổ và mong được yên ổn trên vùng đất mới. Hoạt động của đình miếu và các
lễ hội dân gian đã gắn kết con người với nhau từ thời quá khứ khai hoang lập đất cho đến
hiện tại đầy tất bật. Đó chính là một trong những cách mà cha ông ta lưu giữ truyền thống
văn hóa dân tộc từ bao đời nay. Tục lệ thờ cúng là biểu hiện của ứng xử xã hội trong thế
giới tâm linh của người đang sống. Nó là sợi dây ràng buộc giữa con người với đất đai, ông
bà tổ tiên, với những tập tục lâu đời khác của dân tộc, là sợi dây bện chặt tình cảm của con
người với nhau. Trong đám tang của ông hương trưởng Tạc, ta có thể nhận ra tục cúng kiến
ở miền Nam: “Dân chúng tụ họp chừng vài chục người. giết heo, uống rượu, đánh trống,
đờn cò”. Theo quan niệm của nhà Phật “chết không phải là hết mà là sự bắt đầu sự sống ở
một thế giới khác vui sướng hơn cuộc đời này”. Vì thế trong đám tang, kèn trống đánh lên
là để vui mừng đưa tiễn người chết đến một nơi khác và người thân còn lại trên dương thế
sẽ làm công việc thờ cúng, tưởng niệm người đã khuất để mãi còn mối quan hệ với nhau
(Cậu Bảy Tiểu). Nghi thức cúng bái cụ thể trong một đám ma đã được Sơn Nam phản ánh
cụ thể qua câu chuyện xảy ra ở Xóm Cù Là, ngoài ra câu chuyện còn ẩn một bài học đạo lý
ở đời. Sợi dây nhân ái ràng buộc con người với nhau cần được gìn giữ cho bền chặt. Có lẽ

46
Cậu Hai, Cô Ba con ông cai tổng Trần Hanh cũng kịp nhận ra điều thiêng liêng ấy khi dân
xóm Cù Là đã xúm vào lo cho đám tang của cha mình (Xóm Cù Là).
Truyện của Sơn Nam đã phản ánh đủ các hình thức tín ngưỡng dân gian như tục
cúng đất cúng thần, cúng tổ nghề, ngoài ra nó còn in đậm cách ăn ở đặc trưng của người
Nam Bộ. Các ông thầy bắt rắn, diệt cá sấu, đánh đuổi cọp dữ, heo rừng đều làm lễ cúng bái
trước khi hành xử. Ông Thầy Tư Nhu giảng giải cho Hai Nhiệm hiểu “khi hạ Nò Xiêm,
người miền biển cúng tế trọng thể, rước thầy nò đến nhờ xem phương hướng kẻo Hà Bá,
Thủy Long hờn giận”. Cúng tế, xem ngày bổ tróc là việc làm không thể thiếu trước ngày hạ
nò của dân miền biển (Con Bà Tám). Vùng đất hoang ở U Minh Thượng, làng Đông Thái
tỉnh Kiên Giang trước khi “nở rộ câu hò tiếng hát” từng là nơi hoành hành của thú dữ. Vì
thế dân trong vùng đã lập miếu thờ cúng ông Cai Thoại, người đã có công đánh đuổi loài
thú cọp và giúp dân chúng thêm vững tin tiến sâu vào rừng cất nhà, lập xóm (Hai cõi U
Minh). Ông Năm Hên trước khi ra tay bắt sấu ở rừng U Minh Hạ và trừ diệt con sấu cuối
cùng đều làm nghi thức cúng vái dù chỉ “vỏn vẹn một lọn nhang trần và một hũ rượu”. Vì
ông tin rằng làm như vậy công việc nhất định sẽ “xuôi chèo mát mái” (Bắt sấu rừng U
Minh hạ, Con sấu cuối cùng). Khi đi xa, lúc làm ăn buôn bán hay trong cơn hoạn nạn khó
khăn người Nam Bộ vẫn duy trì thói quen thắp nhang cúng ông bà đất nước mong được sự
phò hộ an lành. Đó không chỉ là thói quen mà còn là tín ngưỡng, phong tục của người dân
vùng đất mới.
2.1.2.2 Ở Nam Bộ người dân đi lại, buôn bán, sinh sống trên sông nước. Môi trường
sông nước đã tác động không nhỏ đến các sinh hoạt trong đời sống thường ngày của họ.
Dân Nam Bộ cất nhà dọc mé sông để ở, họ sắm xuồng làm phương tiện đi lại chính. Chiếc
xuồng vừa là mái nhà vừa là phương tiện để di chuyển, phương tiện để kiếm sống. Cô Bảy
từ miệt Cần Thơ xuống con rạch Cái Mau để gặt lúa mướn, về sau cô làm nghề chèo đò đưa
khách qua sông, ban đêm bán bánh bò cho ghe xuồng qua lại. Ở con rạch Cái Mau dân
chúng ai cũng biết đến cô nhờ giọng hát “xa lạ nhưng lại quen thân và ấm áp” (Con Bảy
đưa đò). Mẹ con cô Hồng lênh đênh trên sông nước cùng Hai Tỵ vớt những con cá chết dại
mang về tận xứ Cần Thơ làm khô, làm mắm (Con cá chết dại). Ở con rạch Thuồng Luồng
cha con ông Năm Điền, thầy Hai Rắn nổi tiếng nhờ những bài thuốc trị rắn cắn. Tình cảm
của con Lài, thằng Lợi cũng nảy nở khi chúng gặp gỡ nhau trên chiếc xuồng giữa ngọn rạch
nước trôi lờ đờ (Cây huê xà). Hai Cần phải dùng xuồng vượt qua những khúc sông nguy
hiểm, vẹt hàng ngàn giề lục bình để hỏi đến vợ ở nơi “gạo trắng nước trong” (Vẹt lục
bình). Đám cưới thằng con trai út nhà ông cai tổng Hy cũng dùng xuồng để đón dâu. Đoàn
ghe rước dâu nối đuôi nhau chạy dài cả con sông Ngã Ba Đình (Con sấu cuối cùng),… Có

47
thể nói khung cảnh sông nước là môi trường chính để cư dân đồng bằng sông Cửu Long đi
lại, kiếm sống và tổ chức các hoạt động xã hội khác.
Ngày nay, đến với quê hương Nam Bộ, một trong những nét văn hóa đặc sắc mà du
khách không thể bỏ qua đó chính là đi chợ nổi. Dọc theo những bờ kinh, những con sông ta
có thể dễ dàng nhận ra hình thức mua bán độc đáo này. Ở đồng bằng sông Cửu Long vùng
Cần Thơ có chợ nổi ngã bảy Phụng Hiệp, Cái Răng, Phong Điền, ở Sóc Trăng nổi tiếng với
chợ Thạnh Trị, Tiền Giang với chợ Cái Bè, Cà Mau với chợ Năm Căn,… Nét văn hóa độc
đáo này của cư dân Nam Bộ đã đi vào đời sống nghệ thuật trong đó có các sáng tác văn
học. Trong một số truyện ngắn nhà văn Sơn Nam đã có dịp giới thiệu đến bạn đọc bức
tranh sinh hoạt độc đáo có một không hai này. Khi nhắc đến địa danh Ngã Năm, Ngã Bảy ở
miền Hậu Giang ta hình dung ngay đến một “vùng kinh rạch bủa giăng như mạng nhện”.
Ngã Năm, Ngã Bảy là những khúc sông rộng rãi, ghe xuồng đậu ken nhau. Những dòng mở
đầu câu chuyện Thằng điếm vô danh, Sơn Nam viết: “Để cung cấp cho nhu cầu của ghe
xuồng qua lại, nhiều người bày ra hình thức mua bán lưu động, bán chè cháo, bán bánh
canh, giao hàng tận xuồng hoặc nhà của thân chủ. Tiệm tạp hóa cũng được tổ chức theo
chiến thuật lưu động, gọi là ghe “trà vải”. Hai Kim nhân vật chính của truyện tỏ ra là người
thông minh, nắm bắt được cơ hội thuận tiện anh sắm một chiếc tam bản và mở ra “một cơ
ngơi lưu động lấy tên là Tấn Lợi”. Nhờ tài ăn nói lanh lợi, hàng ngày Hai Kim nằm hút á
phiện rồi thảnh thơi uống trà mà tiền vẫn vô túi đều đều. Hay câu chuyện về vợ chồng ông
hương trưởng Neo ở làng Thạnh Hòa, làm nghề đốn củi, nuôi heo gây giống. Làm lụng vất
vả cả đời nhưng chưa một lần ông bà được đặt chân đến chợ huyện mà chỉ nghe dân chúng
đồn đại. Với phương châm sống “đại phú do thiên, tiểu phú do cần”, ông bà hương trưởng
đã có một cơ ngơi kha khá, mua được đất lập được vườn và quyết định khăn gói lên chợ
một chuyến “cho thiên hạ biết mặt”. Khi bước chân lên chiếc đò chở khách ra chợ Rạch Giá
ông bà tỏ ra hết sức ngạc nhiên, ở đó thứ gì cũng có bán từ những tờ nhựt trình đến chiếc
kẹo cao su, đậu phộng rang, nước cam, xá xị,... Ở truyện ngắn Bức tranh con heo, Sơn
Nam không trực tiếp tả cảnh chợ nổi nhưng trên chuyến đi của ông bà hương trưởng Neo
đã giúp người đọc thấy được ở vùng đồng bằng sông Cửu Long những ngôi chợ lưu động
trên sông rất phổ biến. Sau chuyến đi, ông bà hương trưởng quyết định mua một bức tranh
con heo mang về dán ngay cửa nhà mong muốn làm ăn phát đạt. Ngọn rạch Xẻo Bần năm
1945 vẫn nhộn nhịp ghe xuồng tạp hóa của bà con trong vùng, ngoài các mặt hàng như
thuốc, rượu, thức ăn, vải vóc còn có một thứ rất đặc biệt mà dân trong vùng đã tự chế được
đó chính là xà bông cục, thứ xà bông được làm bằng tro cây mắm (Bác vật xà bông). Với
hệ thống kênh rạch chằng chịt, nghề buôn bán trên sông nước ở Nam Bộ đã hình thành từ

48
rất sớm, đến nay nó đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của khu vực đồng bằng sông Cửu
Long.
2.1.2.3 Việc tìm hiểu những sinh hoạt văn hóa tinh thần của cư dân vùng đất mới
cũng là cách giúp chúng ta nhận ra những điểm đặc trưng về văn hóa Nam Bộ trong truyện
ngắn Sơn Nam. Trong rất nhiều truyện ngắn, Sơn Nam đã đề cập đến những nét sinh hoạt
văn hóa tinh thần của người dân nơi đây với ý thức giữ gìn và tinh thần phát huy những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Khi đi về phương Nam mở mang bờ cõi, ban đầu con
người chỉ chú ý đến cách thức làm sao để tồn tại, khi cuộc sống đã dần ổn định họ mới bắt
đầu chú ý đến những thú vui, sự giải trí. Trong đó, như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét,
cư dân Nam Bộ là “những người yêu ca hát”. Về phương diện này, Sơn Nam đã thể hiện rất
thành công trong một số truyện ngắn tiêu biểu như: Con Bảy đưa đò, Hát bội giữa rừng,
Hội ngộ bến Tầm Dương, Ông già xay lúa, Người tình của cô đào hát 117, Người mù giăng
câu, Miễu bà Chúa Xứ, Ngày xưa tháng chạp, Vọc nước giỡn trăng, Tình bậu muốn thôi,…
Có những truyện, ông chọn cách giới thiệu đầy đủ những đặc điểm của một hình thức hát
đặc trưng Nam Bộ, lại có những truyện ông chỉ điểm qua một vài nét trong thói quen sinh
hoạt của người dân nơi đây. Điều đó không chỉ cho ta thấy sự hiểu biết phong phú của Sơn
Nam mà ở một phương diện nào đó còn giúp ta nhận ra đặc điểm của phong cách nghệ
thuật của cây bút truyện ngắn này.
Hát bội là một trong những loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Nam Bộ.
Trong hành trang của lưu dân Việt tới vùng đất mới họ đã mang loại hình nghệ thuật độc
đáo này để nhớ về quê cha đất tổ, nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng họ trưởng thành. Hơn nữa,
nhu cầu thư giãn tinh thần sau những ngày lao động vất vả, trong lúc nông nhàn là điều
không thể thiếu. Những người đi về phương Nam phần đông đều đã trưởng thành, ý thức về
truyền thống đạo lý, phong tục tập quán, nếp sống đã ăn sâu trong tâm thức họ. Vì thế đến
vùng đất mới họ vẫn cố gắng giữ gìn những giá trị tốt đẹp đã tồn tại từ bao đời. Sự hoài
niệm về quê cha đất tổ được thể hiện bằng rất nhiều cách từ việc thờ cúng ông bà, cách
dựng miếu thờ cúng trời đất đến việc phổ biến những cách thức sinh hoạt hội hè, đình đám.
Trong đó, hát bội được xem là một trong những biểu hiện độc đáo nhất mà trên cơ sở đó về
sau dân Nam Bộ đã sáng tạo ra hình thức hát cải lương. Trong công trình khảo cứu Lịch sử
khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam từng khẳng định: “hát bội là loại hình giải trí độc đáo nhất
của người dân Nam Bộ ngay từ buổi đầu đặt chân lên vùng đất này” [48, 146]. Dân đi khai
hoang trình độ hiểu biết rất thấp, họ không biết chữ Nho cũng không hiểu tiền Đường hậu
Tống gì hết, thế nhưng thú vui xem hát bội là một thói quen không thể thiếu trong đời sống
tinh thần của họ. Sơn Nam đã phản ánh điều này trong truyện ngắn Hát bội giữa rừng. Ở

49
xóm Khoen Tà Tưng năm đó mới chỉ có khoảng hai mươi căn chòi lá nhưng nghe tin có
gánh hát bội tới, dân trong vùng đã cùng nhau góp gạo nuôi gánh hát. Thanh niên trai tráng
rủ nhau vô rừng đốn tràm về cất rạp, xung quanh sân khấu họ xóc cừ đan thành vòng tròn
để tránh cọp tấn công. Sống trên sông rạch nên dân chúng bơi xuồng cặp lại gần vòng rào
vừa tiện xem hát, vừa chống cọp vồ. Những ngày có gánh hát tới xóm Khoen Tà Tưng của
người Việt và cả xóm Tà Lóc của người Miên đều rộn rịp hơn ngày Tết. Đó là một trong
những biểu hiện của sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người cùng sinh sống trên mảnh đất
Nam Bộ. Hát bội từ bao đời đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của người dân vùng đất mới
đến cả lũ trẻ trăn trâu cũng biết nhái cách hát độc đáo này. Ở đâu đâu, trong làng, ngoài
cánh đồng, khi đang cày cấy, hay lúc nông nhàn, khi trà nước chuyện trò người ta cũng có
thể dùng lời ca tiếng hát để làm cho cuộc sống thêm tươi vui. Từ non trăm năm về trước,
khi vùng Rạch Giá, Cà Mau còn là chốn rừng rậm hoang vu, cư dân thưa thớt thì hát bội đã
trở thành hình thức giải trí không thể thiếu của con người nơi đây.
Nói đến sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc trưng của Nam Bộ cũng không thể không kể
đến hình thức hát cải lương. Đây chính là mảnh đất sinh ra và nuôi dưỡng loại hình nghệ
thuật độc đáo này. “Một đóng góp lớn của văn hóa Nam Bộ là sân khấu hát cải lương” [46,
156]. Bản vọng cổ đầu tiên, những nhóm đờn ca tài tử đã xuất hiện ở mảnh đất phương
Nam từ rất sớm. Nhiều nhà nghiên cứu đã thừa nhận cải lương, đờn ca tài tử rất phù hợp
với đặc điểm địa hình sông nước cũng như nét tính cách đặc trưng của con người Nam Bộ.
Đờn ca tài tử được sinh thành từ mảnh đất Bạc Liêu nơi bài vọng cổ đầu tiên “Dạ cổ hoài
lang” do Cao Văn Lầu sáng tác vào đêm trăng rằm tháng Tám âm lịch năm Mậu Ngọ -
1918 sau đó lan sang các khu vực khác như Sóc Trăng, Mỹ Tho, Sa Đéc,… Dường như mỗi
biểu hiện đặc sắc của văn hóa Nam Bộ đều được Sơn Nam gửi gắm trong một truyện ngắn
tiêu biểu. Người tình của cô đào hát 117 là câu chuyện nhà văn chọn lựa để giới thiệu về
nghệ thuật hát cải lương. Trong những truyện ngắn mang tính chất luận đề như thế ngòi bút
Sơn Nam đã chứng tỏ được sự linh hoạt và sáng tạo của riêng mình. Từ nguồn gốc hình
thành, quá trình phát triển trong dân gian, thái độ tiếp nhận của người dân,… cho đến quan
điểm, cách nhìn nhận của chính bản thân tác giả đều được khéo léo đan cài vào câu chuyện.
Điều đó không chỉ thu hút được sự chú ý của người đọc mà còn phần nào cho thấy Sơn
Nam xứng đáng là một nhà văn điển hình của Nam Bộ, am hiểu về Nam Bộ. Ngòi bút của
ông ký giả kịch trường “có cái tật theo dõi tình hình của các đoàn cải lương” đã đưa ta đến
vùng đồng bằng sông Cửu Long vào những năm 40 của thế kỷ XX. Thời đó sân khấu hát
cải lương đã nở rộ trong vùng. Các đoàn hát nổi tiếng Hoa Cúc, Hoa Hồng đang tập dượt
tuồng Hương Xa ở đình Cái Dầu (An Giang), đoàn Con Tầm đang xuống dốc, đào kép
đoàn Tì Bà đang rên rỉ vì tiền lương quá thấp, kép Quang Huy thình lình bỏ trốn, kép Đức
50
Ngọc bị đánh trọng thương,… Khi nghe giọng quảng cáo phát ra từ chiếc máy phóng thanh:
“Đoàn Hoa Cúc tối nay hân hạnh ra mắt khán giả mộ điệu tuồng …” sắp diễn, dân trong
vùng rộn rịp chuẩn bị đi coi như ngày hội, “ngoài cửa rạp hát gần bến xe, tuy còn sớm
nhưng khán giả đã chen vào xin chương trình, mua vé” còn ông nhà báo bạn của bà bầu
đoàn hát thì quyết “săn vài tin sốt dẻo đem về cung cấp cho các bạn ký giả ở Sài Gòn”. Hơn
một thế kỷ hình thành và phát triển, nghệ thuật hát cải lương đã khẳng định được vị trí của
mình trong đời sống tinh thần của con người phương Nam.
Lời ca tiếng hát đi vào đời sống thường nhật của con người vùng sông nước. Trên
cánh đồng khi cày cấy, gặt hái những người nông dân hát đố nhau để vơi bớt những mệt
nhọc, trên chiếc ghe chèo đưa khách những cô gái, chàng trai hát đối đáp giao duyên với
nhau hay hình ảnh một ông già kể lại cho con cháu nghe về một câu hát, một điệu hò,... Đó
chính là những hoàn cảnh cụ thể để lời ca tiếng hát được cất lên. Ở Nam Bộ, hình thức nói
thơ Vân Tiên rất được phổ biến trong dân gian. Sơn Nam đã khắc họa nét văn hóa đặc biệt
này qua truyện ngắn Người mù giăng câu. Ông già mù có biệt danh là sư tổ của ngành
giăng câu thường có thói quen nói thơ Vân Tiên khi ngồi trước mũi thuyền vào mỗi đêm.
Ông Tư Đạt sống ở Gò Mả Lạn cũng có thói quen nói thơ Vân Tiên cho đỡ buồn mỗi khi
chiều về (Miễu bà Chúa Xứ). Ông Tư Châu Xương phiêu bạt đến chốn U Minh làm nghề
đốn củi vẫn gìn giữ thói quen nói thơ Vân Tiên. Lời dạy của ông đối với anh Tư Bình Thủy
cũng chính là lời ông Tiều trong truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu (Nhứt phá sơn
lâm). Theo tác giả nói thơ Vân Tiên được xem là một dạng hát bội dân gian, không cần đào
kép chuyên nghiệp. Hình thức nói thơ Vân Tiên không đòi hỏi người nói phải biết rành câu
chữ, sắp xếp lớp lang tuần tự mà nó được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Nét văn hóa đặc
sắc này đã khẳng định được sức sống lâu bền của nó trong đời sống dân gian, bởi lẽ truyện
thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu rất phù hợp với tâm tư tình cảm của người dân Nam Bộ
xưa và nay. Trong truyện Sơn Nam, thói quen sinh hoạt này được ông gắn với những người
lớn tuổi, đã có nhiều sự trải nghiệm từ cuộc sống. Đó chính là những con người am hiểu
nhân sinh, những người được giao trọng trách giữ gìn truyền thống dân tộc.
Bên cạnh đó, hát huê tình, một thứ sinh hoạt tinh thần thời khởi hoang vùng đồng
bằng sông Cửu Long cũng được nhà văn chọn lựa và giới thiệu. Hát huê tình cũng như
nghề hát bội nhưng khó hơn vì đó là những câu hát cửa miệng, không có sách, không có
bổn tuồng, người hát tùy vào hoàn cảnh và kiến thức có được mà linh hoạt trong đối đáp.
Đồng ruộng là nơi thích hợp nhất để hát huê tình. Trên khung cảnh thiên nhiên, con người
chọn lối hát huê tình để bộc lộ tâm trạng của mình. Đây có lẽ là hình thức hát bình dân và
phổ biến nhất ở miền sông nước Cửu Long. Trên khúc sông vắng, trong đêm tối tiếng hò

51
huê tình của con Bảy đưa đò và chàng trai xứ Bình Thủy thật ngang tài ngang sức. Tiếng
hát và lời đối đáp thông minh, lanh lẹ mà rất tình nghĩa đã làm nảy sinh những tình cảm đẹp
đẽ giữa những đôi trai gái với nhau (Con Bảy đưa đò). Ở truyện ngắn Ngày xưa tháng
chạp, Sơn Nam giúp người đọc tìm hiểu trọn vẹn lối hát rất độc đáo này qua câu chuyện về
cuộc đời của ông Ba Hò, người đã hai mươi lăm năm làm nghề đốn củi ở rạch Chà Tre,
miền U Minh Hạ. Truyện ngắn Vọc nước giỡn trăng lại thể hiện một phương diện khác về
lối hát huê tình. Ngoài bờ ruộng, nơi trời mây bao la, người ta xúm lại thách đố, châm chọc
lẫn nhau cho qua cơn mệt nhọc. Và như quan niệm sống của dân gian “thanh tục là do lòng
người chớ nào vì câu hát” đã giúp người đọc hiểu thêm về một câu chuyện có từ thời nhà
Nguyễn.
Hát đối đáp là một trong những cách thể hiện tâm tư tình cảm của người bình dân
xưa. Trên những cánh đồng, ngoài bờ đê, nơi giếng nước, nam nữ thanh niên hò hát đối đáp
giao duyên với nhau. Ở Nam Bộ, ngay từ rất sớm cũng đã hình thành một kiểu sinh hoạt
tinh thần nữa là ra thai đố. Thai đố là cách hát mượn ca dao, hò, vè làm câu hát đố, gợi ý
trả lời khái quát nhất. Khung cảnh thi thai đố thường diễn ra ở những nơi đình miếu, nơi hội
hè, cúng lễ có đông người đến tham dự. Người giải đáp phải có câu trả lời tương ứng với
câu chữ trên từng dòng thơ được đưa ra. Hình thức sinh hoạt tinh thần này được Sơn Nam
nhắc đến qua hai truyện ngắn Tình bậu muốn thôi và Ngôi mộ chôn đứng. Không khí
cuộc thi thai thường rất sôi động, luôn thu hút được sự chú ý của nhiều người cùng tham
dự. Trong cuộc thi sẽ có người đứng ra phân xử thắng thua, có phần thưởng cho người
thắng cuộc. Trai gái cũng mượn dịp này để chứng tỏ tài năng và sự duyên dáng của mình,
con Lài và thằng Hưng trong câu chuyện Ngôi mộ chôn đứng là một ví dụ. Từ câu hát “Ví
dầu tình bậu muốn thôi. Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra”, ông Tư đã kể chuyện đời xưa về
lối hát thai đố cho lớp con cháu nghe “để cho tụi nó nhớ kẻo sau này tam sao thất bổn”
(Tình bậu muốn thôi).
Chỉ bằng những nét chấm phá, những lát cắt nho nhỏ, cảnh sắc, đất trời Nam Bộ đã
hiện lên đầy đủ, rõ nét dưới ngòi bút Sơn Nam. Từng hình ảnh cụ thể của quê hương ông đã
lần lượt đi vào những trang viết, giúp cho người đọc nhận ra một vùng đất phương Nam xa
xôi, với những nét hoang sơ, dữ dội và ẩn chứa nhiều điều bí ẩn.
Tìm hiểu mảnh đất mới ấy mà quên mất chủ nhân của nó – con người Nam Bộ - sẽ
là một thiếu sót rất lớn. Với một kiến thức và sự hiểu biết thực tế phong phú như nhà văn
Sơn Nam, ông đã giúp người nghiên cứu, người đọc dễ dàng hơn khi tiếp cận với con người
phương Nam qua chính những nhân vật, những con người trong truyện ngắn của mình. Và

52
đây cũng chính là phương diện bộc lộ rõ nhất về văn hóa Nam Bộ, bởi cái gì thuộc về con
người, liên quan đến con người đều thuộc về văn hóa.

2.2 Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam


Trong văn học nghệ thuật, con người vừa là chủ thể thẩm mỹ, vừa là đối tượng trung
tâm của sự phản ánh và khám phá. “Đời sống con người muôn màu muôn vẻ, cái mà nhà
văn hướng vào trước hết chính là con người, là tính cách, là tâm hồn của con người, là
những cái gì quy tụ vào con người và làm nên số phận, làm nên ý nghĩa cuộc sống của con
người” [11, 30]. Văn học với tư cách là bộ môn khoa học xã hội và nhân văn, đã miêu tả
con người vừa có tính chất cá nhân vừa có ý nghĩa khái quát. Coi đối tượng nhận thức và
miêu tả trung tâm là con người, văn học đặc biệt chú ý đến cái riêng, đến số phận từng cá
nhân. Như vậy, hướng vào số phận con người, coi con người là giá trị cao nhất của đời
sống đã làm nên cảm hứng nhân văn, dẫn dắt tâm tưởng nhà văn, giúp nhà văn xây dựng
được những hình tượng nghệ thuật sinh động, nhận thức và lý giải được những biểu hiện
muôn màu, muôn vẻ trong đời sống. Văn học có tác dụng to lớn, giúp ta tìm hiểu cuộc sống
và con người, bồi dưỡng con người về phẩm chất đạo đức, về lẽ sống, về năng lực sống một
cách phong phú, tinh tế, xứng đáng.
Khi khái quát ngắn gọn về truyện ngắn Sơn Nam nhiều nhà nghiên cứu, giới phê
bình văn học, độc giả yêu mến đều gặp nhau ở một điểm khi cho rằng: truyện ngắn Sơn
Nam là bức tranh toàn cảnh về đất và người Nam Bộ thời đi khai hoang mở đất. Đọc truyện
ngắn của Sơn Nam, không quá khó để ta có thể nhận ra bề nổi đó, tuy nhiên để có thể làm
được điều tưởng chừng như rất đơn giản ấy, Sơn Nam đã phải lao động rất vất vả và
nghiêm túc. Từng câu chuyện, từng mảnh đời, từng khung cảnh thiên nhiên dường như đều
in dấu bóng dáng nhà văn. Mảnh đất phương Nam dần hiện lên trước mắt bạn đọc, khơi gợi
ở họ sự tò mò và mong muốn được một lần đặt chân đến. Con người phương Nam, cụ thể là
những người dân nghèo vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, hiện lên một cách chân thực
và đầy đủ qua toàn bộ sự nghiệp của ông, đặc biệt là ở những truyện ngắn viết về miền Tây
Nam Bộ.

2.2.1 Hoàn cảnh sống của con người Nam Bộ


Vào đầu những năm 2000, khi đặt bút viết những trang hồi ký về cuộc đời mình, Sơn
Nam đã giúp bạn đọc hiểu được những mốc quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác của ông. “Hồi ký Sơn Nam không chỉ là chuyện kể về cuộc đời một con người mà chính
là chuyện kể về một giai đoạn lịch sử của vùng đất và con người Nam Bộ dưới cái nhìn của
một người trong cuộc” [51, 127]. Tác phẩm này đã giúp ích rất nhiều cho những người

53
nghiên cứu, tìm hiểu về nhà văn Sơn Nam và sự nghiệp của ông. Ở đó, ta có thể dễ dàng
nhận ra từng thời điểm sáng tác cụ thể và biết được hoàn cảnh sống của con người Nam Bộ
được Sơn Nam phản ánh qua các tác phẩm. Qua hai tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau
và Biển cỏ Miền Tây, Sơn Nam đã đưa người đọc ngược dòng thời gian về với vùng đất
Nam Bộ vào thời khai hoang mở đất và sau đó là thời điểm khi thực dân Pháp đặt chân lên
đất nước ta. Thời điểm ra đời của hai tập truyện ngắn này được nhà văn xác định vào
khoảng 1954 – 1975 với không gian bối cảnh chính là vùng sông nước Nam Bộ. Dù vậy,
khi tìm hiểu cụ thể từng truyện, chúng tôi nhận thấy tác giả đã có sự xáo trộn về mặt thời
gian, cuộc sống của con người phương Nam trong quá khứ và hiện tại đan cài vào nhau,
những nét văn hóa ổn định bền vững và cả sự tiếp nhận, biến đổi văn hóa đều được phản
ánh khá đầy đủ. Mảnh đất Nam Bộ, con người Nam Bộ đã đi vào truyện ngắn Sơn Nam qua
những câu chuyện mang tính chất lịch sử, đời thường mà vẫn thấm đẫm tình người. Có
những truyện nhà văn nêu rõ thời điểm và hoàn cảnh xảy ra còn lại đa phần là những sáng
tác không rõ về mặt thời gian cụ thể, thường là những truyện khẩn hoang Nam Bộ trong
buổi đầu lịch sử.
Có thể chia hoàn cảnh sống của con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam ra
làm hai thời điểm: thời khẩn hoang và giai đoạn Pháp xâm lược. Ở những truyện ngắn nằm
trong mảng đề tài khẩn hoang Nam Bộ yếu tố thời gian cụ thể được tác giả cố ý làm mờ đi.
Những truyện còn lại mốc thời gian cụ thể được xác định vào khoảng những năm 1930-
1940. Khi lựa chọn các mốc thời gian như vậy, nhà văn Sơn Nam đã mang đến một cái nhìn
toàn cảnh về quê hương ông qua nhiều giai đoạn lịch sử. Truyện ngắn của Sơn Nam trong
giai đoạn này đã từng bước phản ánh những thay đổi trong đời sống của con người Nam
Bộ: từ những thử thách ban đầu khi đến vùng đất mới cho đến bối cảnh khó khăn chung của
cả nước khi Pháp xâm lược. Tất cả những điều đó đều tác động không nhỏ đến nếp ăn, nếp
nghĩ, cách sinh hoạt của con người nơi đây. Qua đó, người đọc có dịp để hiểu rõ hơn về
người dân Nam Bộ. Sau bao biến đổi của thời cuộc, họ vẫn sống một cuộc đời bình dị nơi
quê nhà, tiếng hò câu hát vẫn vang lên trên sông nước.
Trong hoàn cảnh ra đời của hai tập truyện ngắn trên, chính quyền Sài Gòn kiểm tra
gắt gao những sáng tác của các nhà văn từng hoạt động ở chiến khu, những nhà văn yêu
nước. Hiểu được điều đó, trong nhiều truyện ngắn, Sơn Nam đã lựa chọn mốc thời gian khi
mảnh đất Nam Bộ mới hình thành. Nhờ vậy, truyện của Sơn Nam đã tránh được sự kiểm
duyệt của kẻ thù đồng thời gửi gắm được tâm sự về đất nước và tình người của nhà văn nói
riêng và con người Nam Bộ nói chung. Sơn Nam đã giới thiệu về chính mình trong một
truyện ngắn trích trong tập Biển cỏ miền Tây: “Vào năm 1948, thời kháng Pháp, tôi được

54
dịp đi tiêu dao nhiều phen. Con người tôi bẩm sinh yếu ớt, luôn có bịnh trong lục phủ ngũ
tạng, hễ đến bác sĩ hoặc y tá là luôn luôn được chứng nhận…sắp ho lao đến nơi. Thật ra tôi
là người “mình dây”, ốm nhưng dẻo dai lắm, đi bộ lai rai suốt ngày cũng không thấy mệt;
thuốc lá, cà phê, trà tàu là món “xăng nhớt” cần thiết hơn là cơm canh” [44, 179]. Trên mỗi
bước đi khi được nghe một câu chuyện, một sự kiện, một nhân vật nào đó trong vùng, Sơn
Nam đều xem như một “dịp may hiếm có, bỏ qua rất uổng. Tại sao ta chẳng đến nơi, trước
là thăm viếng, sau là ăn chơi vài ngày”. Từ khi còn ở chiến khu IX, Sơn Nam đã có dịp đi
nhiều nơi, tiếp xúc với rất nhiều người. Ham học hỏi, tìm hiểu thực tế đã ăn sâu vào máu
thịt nhà văn, tạo cho tác phẩm của ông có tính chân thực và chính xác cao.

2.2.2 Đặc điểm về con người Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam
2.2.2.1 Mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên
Văn hóa là sự thích nghi biến đổi trước tự nhiên. Thiên nhiên đặt trước con người
những thử thách buộc họ phải thích nghi hoặc tự biến đổi để tồn tại và phát triển. Văn hóa
là sản phẩm của con người và là sự phản ứng, trả lời của con người trước những thách đố
của thiên nhiên. Văn hóa Nam Bộ là sản phẩm của con người Nam Bộ, được hình thành
dựa trên cơ sở kế thừa những nét truyền thống của dân tộc và sự thay đổi, thích nghi trước
một môi trường hoàn toàn mới. Ta có thể nhận ra một số nét đặc trưng về văn hóa Nam Bộ
ở thể ứng xử giữa con người với tự nhiên trong truyện ngắn Sơn Nam. Đó là cách sống linh
hoạt, sáng tạo và hòa mình cùng thiên nhiên, là sự lựa chọn những ngành nghề phù hợp với
điều kiện tự nhiên của vùng đất mới.
Như chúng ta đều biết, Nam Bộ là vùng đất có lịch sử hình thành muộn nhất ở nước
ta. Người Việt vào phương Nam từ chủ trương mở mang bờ cõi của chúa Nguyễn, bấy giờ
ở vùng đất này đã có sự xuất hiện của một số tộc người như Khmer và Hoa sống rải rác trên
một số khu vực. Tuy vậy, phải đến khi đông đảo những người Việt đến đây khai hoang mở
đất và tạo lập cuộc sống mới thì văn hóa Nam Bộ mới dần dần lộ ra những nét vẽ cơ bản
nhất. Thiên nhiên, địa lý miền Nam từ bao đời nay luôn gắn liền với sông nước. Đây là
vùng đất của nền “văn minh kênh rạch” với sự biểu hiện rất phong phú từ cách lao động
kiếm sống, cách ăn, ở, đi lại đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, ngôn ngữ,… tất cả đều có
sự hiện diện của yếu tố sông nước. Với ý thức giữ gìn và lòng tự hào của một người con đất
phương Nam, Sơn Nam tỏ ra là người nắm vững những nét đặc trưng trên và ông đã gửi
gắm toàn bộ điều đó qua từng trang văn của mình.
Bối cảnh không gian chính trong truyện ngắn Sơn Nam là khung cảnh sông nước
Nam Bộ. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện tự nhiên và địa lý của vùng đồng bằng

55
sông Cửu Long. Tìm hiểu mối quan hệ giữa con người Nam Bộ với tự nhiên cũng chính là
tìm hiểu cách thức ứng xử của họ trước thiên nhiên. Yếu tố tự nhiên là một trong những
điều kiện đầu tiên mang tính chất quyết định đến cuộc sống sinh hoạt của cư dân Nam Bộ
khi đặt chân lên vùng đất này. Trong quá trình khai phá và xây dựng cuộc sống trên vùng
đất mới, hệ thống sông rạch chằng chịt của vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có những
tác động rất lớn đến việc cư trú và sinh hoạt của con người nơi đây. Công việc khai khẩn
đất hoang có khi chỉ do một người đứng ra làm, ông Ba Hò là một ví dụ. Khi đến vùng đất
U Minh làm nghề phá rừng đốn củi từ cái thời “ngày xưa tháng chạp”, nơi này chỉ có rất ít
người sinh sống. Một tay ông Ba Hò đã khai phá cả cánh đồng rộng bao la, những lúc rảnh
rỗi “ông ngồi một mình hò hát với bụi, với rừng”, cây cỏ, chim chóc như biết nghe tiếng hát
và đồng tình với con người (Ngày xưa tháng chạp). Thích ứng với môi trường tự nhiên,
dần dần những cư dân đầu tiên đã chọn lựa được những không gian sống phù hợp, từ đó họ
có điều kiện thuận lợi để ổn định và phát triển cuộc sống.
Đồng bằng sông Cửu Long được chia ra làm hai vùng với những đặc điểm khác
nhau. Thứ nhất, đó là vùng đất được ưu đãi về thủy lợi nhờ sông rạch, thứ hai, là vùng ngập
lụt, ngập phèn hoặc chịu ảnh hưởng nước mặn từ biển tràn vào. Là một nhà văn có vốn kiến
thức thực tế phong phú, Sơn Nam đã thể hiện rất chân thực cả hai đặc điểm trên trong mảng
truyện ngắn viết về miền Tây đất mẹ. Trong đó có sự xuất hiện của đất Cần Thơ, Hậu
Giang, miệt Bảy Núi, Ba Thê, An Giang và đặc biệt là khu vực U Minh Thượng và U Minh
Hạ nơi giáp hai tỉnh Kiên Giang và Cà Mau. Qua truyện ngắn Vẹt lục bình, Sơn Nam đã
khắc họa hình ảnh con người Nam Bộ trong sự thích ứng cao độ với môi trường sông nước.
Với tuổi đời như lão Ngượt, ông đủ sức dẫn dắt Hai Cần vượt qua những khúc sông quanh
co nhất để đi hỏi vợ. Gặp lúc nước xoáy, nước bị cản gió, nước chảy ngược, hay chỗ giáp
nước ông đều có cách để đối phó dù không phải dễ dàng. Nhiều khi con người cũng phải
xuôi theo tự nhiên để tồn tại. Đó còn là kinh nghiệm rút ra từ thực tế của anh Tư Én làm
nghề nhổ bàng ở Xóm Sóc Xoài, Hòn Đất (Ông Bang cà ròn). Kinh nghiệm đi lại bao
nhiêu năm được truyền lại đã giúp con người nơi đây tồn tại và khai phá thêm nhiều vùng
đất mới. Một cuộc biển dâu là một câu chuyện gây được sự xúc động về tình người. Người
dân trong vùng đã tìm ra cách ứng xử phù hợp khi mùa nước lụt tràn về từ đó họ vẫn có thể
tồn tại thậm chí còn có thể dựa vào thiên nhiên mà sống. Khi mùa nước nổi về, nước ngập
tràn trên những cánh đồng lúa bao la rộng lớn, những con đường làng. Đâu đâu cũng toàn
là nước, đến nỗi cha thằng Kìm chết mà xác phải neo trên cây chờ cho nước giựt xuống
mới có thể đem chôn. Phương tiện đi lại và sinh hoạt duy nhất của con người trong hoàn
cảnh ấy là chiếc xuồng. Lần đầu tiên thằng Kìm theo cha đến xứ này nên còn rất nhiều bỡ
ngỡ, những người đã quen với hoàn cảnh sống khắc nghiệt ở nơi đây như vợ chồng ông Hai
56
Tích đã cưu mang, giúp đỡ nó vượt qua lúc khó khăn gian khổ với một triết lý sống thật
bình dị. Họ hiểu rằng chỉ có người nghèo mới đặt chân đến xứ này vì thế con người cần yêu
thương đùm bọc lẫn nhau để cùng tồn tại. Môi trường sông nước buộc con người phải lựa
chọn những cách thức lao động, kiếm sống, sinh hoạt cho phù hợp. Ban đầu họ gặp không
ít những khó khăn, thậm chí có người đã phải bỏ mạng nhưng họ đã không đầu hàng mà
tìm cách sống hòa mình với thiên nhiên, khai thác những nguồn lợi từ thiên nhiên để phục
vụ cho chính cuộc sống của mình. Cũng từ những khó khăn, thử thách khắc nghiệt của
thiên nhiên đã hình thành nên những nét tính cách rất đặc trưng của con người Nam Bộ.
“Từ quá trình chung sức tiến hành công cuộc khẩn hoang hết sức gian nan để biến các vùng
hoang và đầm lầy rộng lớn thành các dải đồng bằng phì nhiêu, những cộng đồng cư dân
mới ở đây đã hình thành một số nét tính cách rất đặc trưng Nam Bộ: thẳng thắn, bộc trực,
trọng nghĩa quên mình, trọng thực tế hơn lý thuyết, trọng đạo lý hơn giàu sang, ghét sự tính
toán thiệt hơn” [65, 317]. Vì lẽ đó, có nhà nghiên cứu đã nhận định “trong lao động dân
Nam Bộ là những con người linh hoạt, thông minh và sáng tạo” [65, 410].
Tập thích nghi với hoàn cảnh mới để ổn định cuộc sống, dần dà những người đến
đây thấy được bên cạnh những lúc hoang sơ, dữ tợn có khi cướp đi cả mạng sống của con
người, thiên nhiên cũng có lúc rất hiền hòa, đa sắc thái. Đó chính là lý do vì sao người ta
gọi dân Nam Bộ là những con người linh hoạt. Cách ứng xử hòa mình với thiên nhiên, biết
khắc phục những khó khăn và lợi dụng những điều kiện thuận lợi của thiên nhiên để phát
triển đời sống đã giúp họ đứng vững trên mảnh đất mới mẻ còn nhiều thách thức này. Tìm
hiểu đặc điểm thiên nhiên, tập thích nghi và hòa mình với nó, những người đầu tiên đến
mảnh đất này đã tạo nên những xóm làng dọc những bờ kinh, con sông và họ luôn mở rộng
vòng tay đón mời những người muốn dừng lại ở đây để sinh sống. Dân tứ xứ kéo đến vùng
đồng bằng sông Cửu Long rất nhiều và nơi đây cũng là xứ sở nổi tiếng hiếu khách và mang
trong mình đặc điểm trọng nghĩa khinh tài. Những thanh niên trai tráng từ các vùng Cần
Thơ, Long Xuyên, Vĩnh Long đổ xuồng miệt U Minh làm nghề đốn củi mướn. Họ đã hòa
vào cuộc sống nơi đây và cư xử với nhau rất thẳng thắn. Khi nghe Hai Cờ Đỏ kể chuyện xứ
mình mà có vẻ thiếu thực tế ngay tức thì đã có vài người lên tiếng “thiếu tiền thì lại đây, tôi
cho mượn đỡ vài cắc, chứ đừng nói dóc ”, “muốn cho người ta thương thì đừng có nói dóc
cha nội ”. Dân Nam Bộ là thế, họ không ưa cách nói năng lòng vòng mà “phải cắt nghĩa
cho mau vì xứ này ai mà biết chữ Nho”. Khi hiểu được đạo lý “trăm sự cũng chỉ vì sinh kế”
con người đã sống lạc quan và yêu đời hơn như lời ông Tư Châu Xương nói với Hai Cờ
Đỏ: “khi cuộc phá sơn lâm này mãn, chắc chắn thế nào mình cũng lời được một cái sườn
nhà” (Nhứt phá sơn lâm).

57
Cách ứng xử hòa mình với thiên nhiên, lợi dụng những điều kiện thuận lợi của thiên
nhiên để phát triển đời sống là sự phản ứng linh hoạt và thông minh của người Nam Bộ. Tại
vùng cực nam tổ quốc, những cư dân đầu tiên đã sớm thích nghi với môi trường sống mới
và dần dần hình thành nên những nét độc đáo của văn minh sông nước trên cơ sở của nền
văn minh nông nghiệp của nước ta từ bao đời nay. Xu hướng xoay nghề liên tục theo đặc
điểm của từng mùa là biểu hiện sự năng động của người Việt phương Nam.
Như đã nói, môi trường chính của vùng đất Nam Bộ là sông nước và đó cũng chính
là bối cảnh chính của hầu hết truyện ngắn Sơn Nam. Ở những truyện ngắn sau đây, nhà văn
đã chọn lựa sông nước là cái nền để diễn ra câu chuyện: Cây huê xà, Hương rừng, Ruộng lò
bom, Vọc nước giỡn trăng, Người mù giăng câu, Ngày mưa đầu mùa, Con cá chết dại, Kéo
trúm, Cấm bắt rùa, Ngày xưa tháng chạp, Ngày hội ba khía,… Hình ảnh những cánh đồng
vào mùa lúa chín, hình ảnh hàng trăm hàng ngàn những con ba khía thi nhau bò ngang bò
dọc, hay hình ảnh hằng hà sa số những con cá chết dại, rồi của những chú rùa với đủ các
loại to nhỏ khác nhau, những con rắn ri voi, những sân chim, những tổ ong ven rừng U
Minh… đã cho thấy đây là vùng đất giàu có về sản vật và có sự ưu đãi đặc biệt của thiên
nhiên. Nếu biết tận dụng những nguồn lợi của trời đất, con người sẽ không sợ đói nơi vùng
đất mới mẻ này. Ông Năm Hinh biết rất rõ xứ biển Rạch Giá trong mùa biển động dân cư
chỉ nằm nhà ăn chịu của các tiệm tạp hóa, đến mùa bắt cá họ lại bắt đầu công việc của
mình. Khi con nước trong ngọn rạch tràn ra tận mé biển cũng là lúc con người kiếm thêm
nguồn lợi từ thiên nhiên. Đó chính là mùa hò hẹn của lũ ba khía, họ bắt về ăn sống, làm
mắm bán cho các xứ khác trong vùng (Ngày hội ba khía). Đó còn là cách tìm ra mẹo để ăn
được thật nhiều ong của anh Tư Lập (Hương rừng), là sự tinh ý và biết rõ nhịp sống của cá
nước chim trời (Con cá chết dại, Tháng chạp chim về),…Và cứ như thế dân Nam Bộ đã
bước đầu ổn định cuộc sống, những căn nhà dần dần mọc lên, ban đầu là thưa thớt, rải rác
về sau thu hút thêm nhiều người từ các nơi đến sinh sống, làm cho vùng đất này trở nên
đông vui hơn.
Bên cạnh nghề làm ruộng, cư dân Nam Bộ còn sinh sống bằng các nghề khác phù
hợp với thực tế đời sống của họ. Bằng nhiều hình thức khác nhau, khi thì miêu tả trực tiếp,
khi thì giải thích cụ thể, khi thì điểm qua vài nét hoặc đơn giản chỉ là giới thiệu nghề nghiệp
của một nhân vật nào đó trong truyện,… Sơn Nam đã đề cập đến hầu hết những ngành nghề
có ở vùng đồng bằng sông Cửu Long xưa và nay. Đây cũng là cách nhà văn thể hiện văn
hóa Nam Bộ qua những sáng tác của mình. Trong đó có các nghề kiếm sống của người dân
vùng đất này tiêu biểu như nghề làm ruộng, rẫy trong các truyện Vạch một chân trời,
Đóng gông ông thầy Quít, Hết thời oanh liệt, Hòn Cổ Tron, Miễu bà chúa xứ, Ông già xay

58
lúa, Ruộng Lò Bom; nghề len trâu trong các truyện Anh hùng rơm, Kho vàng, Lũ trẻ chăn
trâu, Miễu Bà Chúa Xứ, Ngày hội ba khía, Người mù giăng câu; nghề ăn ong trong một số
truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Cái tổ ong, Hai cõi U Minh, Hết thời oanh liệt, Hương
rừng, Ông Bang cà ròn; nghề đốn củi trong các truyện Bác vật xà bông, Cao khỉ U Minh,
Chuyện rừng tràm, Chuyện năm xưa, Đảng xăm mình, Hai cõi U Minh, Ngày mưa đầu
mùa, Nhứt phá sơn lâm, Ruộng lò bom, Sông Gành Hào; nghề bắt cá tôm trong các truyện
Bà đầm phô-xi-đông, Bác vật xà bông, Cao khỉ U Minh, Đảng xăm mình, MIễu Bà Chúa
Xứ, Ngày hội ba khía, Tình nghĩa giáo khoa thư, Người mù giăng câu; nghề bắt rắn, nghề
bắt rùa trong cá truyện Ăn to xài lớn, Cấm bắt rùa, Cây huê xà, Con bà tám, Con rắn ri
voi, Kéo trúm; nghề bắt chim trong truyện Bốn cái ngu, Con trích ré, Đảng xăm mình,
Tháng chạp chim về, nghề bắt sấu trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Con sấu cuối cùng,
Sông Gành Hào, nghề bắt cọp trong Con sấu cuối cùng, Hát bội giữa rừng, Ngày xưa
tháng chạp, Ngó lên sở thượng, Hòn Cổ Tron; nghề đan bàng trong truyện Ông bang cà
ròn, … Điều đặc biệt hơn và khiến cho người đọc thích thú là với một vốn kiến thức và sự
hiểu biết thực tế phong phú, nhà văn Sơn Nam đã mang đến cho người đọc những cảm xúc
chân thực về vùng đất và con người Nam Bộ với những nghề nghiệp đặc trưng của vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Nó đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, cho đến nay có
một số nghề không còn tồn tại trên thực tế nữa như nghề bao bàng ở vùng Hòn Đất, Kiên
Giang.
Hãy xem nhà văn Sơn Nam giới thiệu về nghề len trâu, một nghề đặc biệt của vùng
đất này. Mùa len trâu xuất hiện ở vùng đồng bằng sông Cửu Long khi mùa nước nổi tràn
về, cỏ cây không còn đủ dự trữ cho trâu bò ăn, hơn nữa chúng là những loài vật ưa sống ở
những nơi cao ráo. Con trâu vốn là cả một gia tài của người nông dân, mỗi năm vào mùa
nước nổi nhà nhà lại phải gửi trâu đến vùng Bảy Núi, Ba Thê để tránh nước. Cảnh len trâu
hiện lên trước mắt bạn đọc với số lượng đôi ba trăm con, đen đầu, đặc nước giống như hồi
thiên hạ trời đất sơ khai, càn khôn hỗn độn. Nhìn từ phía chân trời có thể thấy vô số con
trâu đang lặn hụp thành từng đàn dưới mặt nước. Sơn Nam viết “Trâu quậy, sóng nước
chuyển nghe đùng đùng. Hơi thở trâu khì khì như cây rừng nổi gió. Hàng trăm cặp sừng
cong vòng, nhọn lễu nhô lên bộ mặt ngơ ngác ba góc, giống hệt như những trái ấu khổng
lồ” (Mùa len trâu). Hết mùa, những tằn khạo(người cai thầu) đem trâu về trả cho chủ cũ và
lãnh công có khi bằng tiền, có khi bằng lúa gạo. Đây là một trong những truyện ngắn đặc
sắc của nhà văn Sơn Nam bởi lẽ nó không chỉ nêu bật lên những nét đặc trưng của khu vực
từ khí hậu, địa hình, ngành nghề, mà còn giúp ta thấy được cách nhìn nhận sâu sắc của nhà
văn về con người và cuộc đời.

59
Ở miệt Rạch Giá, Cà Mau, U Minh là chốn xa xôi và tối tăm nhất. Đó là xứ sở của
rừng tràm bạt ngàn. Con người sống ở đây cũng thưa thớt và thường rất hiếm có người biết
chữ, thậm chí cả vùng không có lấy một trường học. Trong thời Pháp thuộc, cả làng Đông
Thái ở U Minh mới chỉ có cậu xã là thanh niên độc nhất thi đậu bằng cấp tiểu học, học
trường của nhà nước ở chợ (Ông già xay lúa). Khi ông phóng viên báo Chim Trời đến đòi
nợ tiền báo của độc giả ở tận xóm Cà Bây Ngọp mới vỡ lẽ “vùng quê đây rất nghèo, phong
thổ lại ẩm thấp, dân tình bệnh hoạn thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học. Các
làng khác như Đông Thái, Đông Hòa, Đông Hưng, Vân Khánh, Khánh Đông …không làng
nào có trường học hết” (Tình nghĩa giáo khoa thư). Chỉ đến khi làn sóng người Việt từ các
vùng Long Xuyên, Cần Thơ, Vĩnh Long đổ về vùng đất này khai phá họ đã phát triển
những nghề thích hợp với môi trường sống như ăn ong, đốn củi thì mảnh đất này mới trở
nên đông vui hơn. Những người dân nghèo đi đến vùng đất xa xôi này trước tiên là để trốn
thuế thân, sau đó khi nhận thấy có thể định cư lâu dài được họ mới quyết định bám trụ lại.
Ở nơi xung quanh đều là rừng tràm, ăn ong và đốn củi là những nghề thích hợp nhất. Củi và
sáp ong là những sản phẩm của rừng mang đến nhiều nguồn lợi cho con người mà lại ít tốn
thời gian và công sức. Qua truyện ngắn Lũ trẻ chăn trâu, Sơn Nam cho thấy: “chỉ cần một
buổi chống xuồng đi trong rừng, có thể gom về đầy ắp khoang cá, tổ ong và củi đốt. Người
ta vớt sáp ong dọc theo mé sông vì nơi đó ong làm tổ trắng, lốm đốm khắp rừng tràm. Tổ
quá to rớt xuống trôi lềnh đềnh theo dòng sông, người ăn ong cứ vớt đem về”. Kinh nghiệm
ăn ong được truyền lại từ người này sang người khác từ cách xác định tổ ong đóng trên cây,
cách leo lên cây lấy tổ ong thòng xuống, cách bắt ong và lấy sáp. Thông thường người làm
nghề ăn ong cũng kết hợp luôn cả nghề đốn củi. Những người thợ ăn ong, đốn củi thường
rủ nhau vào rừng thành từng nhóm để tránh sự tấn công của thú dữ (Hai cõi U Minh).
Vào khoảng những năm 1930, nhà nước đã cấp phép cho khai thác rừng ở U Minh
bấy giờ dân cư trong vùng vẫn còn rất ít, những “chủ đường” đã tập trung thuê nhân công
từ các nơi khác đến làm tay rìu. Không khí rừng U Minh sôi động hẳn lên khi những thanh
niên trai tráng, có sức khỏe từ Cần Thơ, Long Xuyên, Hà Tiên,… đổ về làm nghề đốn củi.
“Tiếng búa bổ vào gốc tràm vang lên từ đầu đến cuối rừng nghe còn hơn tiếng mõ thầy
chùa tụng kinh. Từng thân cây ngã xuống liên hồi, mặt nước rung chuyển, sóng gợn lên
chạy dài, vỗ vào vách chòi nghe lách cách” (Nhứt phá sơn lâm). Đốn củi vốn là nghề bị
luật pháp xem là lậu thuế. Những khó khăn, gian khổ của nghề này được Sơn Nam đề cập
rất rõ trong truyện Chuyện rừng tràm. Tư Hưng làm nghề đốn củi ở ngọn kinh Mười Lăm,
rừng tràm Cà Mau. Vùng đất này tập trung rất nhiều thanh niên trai tráng từ khắp các nơi
đến đốn củi, kiếm sống. Vừa hừng sáng, họ đã đi vào rừng đốn củi. “Gặp cây nào to, ngay
thẳng họ hạ xuống lột vỏ, ngâm bùn chôn giấu để làm cột nhà, bán với giá đắt hơn. Cứ
60
mười bữa, họ cho người đi chở củi, ra chợ Thới Bình bán cho nhà vựa củi. Vựa này có giấy
phép của nhà nước. Đường đi thật gay go. Lắm khi phải chịu trần truồng nhảy xuống bùn,
đẩy xuồng củi xuyên qua rừng tràm năm, ba cây số”. Đi giữa rừng sâu, để định hướng họ
ngắm sao trời mà bước thẳng tới có khi đi lạc đường cả tháng trời lại quay về điểm xuất
phát. Sở dĩ người đốn củi phải đi đêm về hôm như vậy là để tránh kiểm lâm hoặc thực dân
dưới sự điều khiển trực tiếp của các cặp rằng.
Ở xứ sở sông nước bạt ngàn, các nghề bắt tôm, cua, lươn, cá, rùa, rắn,… được người
dân tìm cách khai thác và thu lại nguồn lợi vô cùng phong phú từ thiên nhiên. Các hình
thức khác nhau của ngề ngư ở vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng được phản ánh khá rõ
trong các truyện ngắn của Sơn Nam. Ông không chỉ hiểu biết được đặc điểm sản vật theo
từng thời điểm trong năm mà còn nắm bắt được kỹ thuật của từng nghề cụ thể, vì thế người
ta xem Sơn Nam như ông thổ công của quê hương Nam Bộ. Bằng kinh nghiệm dân gian
tích lũy được, ông đã tự hào giới thiệu đến bạn đọc nghệ thuật kéo trúm bắt lươn rất đặc
trưng, các cách bắt rùa rắn cua cá. Phản ánh những điều đó, Sơn Nam đã giúp ta thấy được
sự thích ứng cao độ với thiên nhiên của những con người nơi vùng đất mới. Kinh nghiệm
kiếm sống được truyền lại cho nhau để cùng tồn tại, bởi người dân nơi đây quan niệm đó là
thứ cá nước chim trời chứ không của riêng bất cứ một ai. Người ta biết được khi nào đến
mùa cá chết dại, khi nào đến ngày hội ba khía, mùa lươn, mùa rắn,… bằng cách đó họ đã
kiếm ăn trong những tháng nước lên hoặc đang kì xạ lúa. Truyện ngắn Con cá chết dại
giúp người đọc biết thêm một đặc điểm mà thiên nhiên ban tặng cho người Nam Bộ. Mẹ
con chị Hồng vì hoàn cảnh đã bỏ xứ Long Xuyên xuống miệt Rạch Giá để gặt lúa mướn.
Cuộc sống vất vả, khó khăn. May thay họ gặp được Hai Tỵ và được biết đến mùa cá chết
dại, nhờ thế hai mẹ con đã không phải tay trắng trở về. “Xứ này (miệt Rạch Giá), mỗi năm
lại có một lần “cá dại”. Nước mặn cuối năm tràn vô rạch. Bao nhiêu cá lóc quen nước ngọt
bị sa nước mặn, chạy trốn không kịp, chết trôi lờ đờ,…”. Nắm được đặc điểm tự nhiên đó,
người dân vùng đồng bằng sông nước như Hai Tỵ, mới có thể tồn tại và lập nghiệp ngay cả
trên những vùng đất xa xôi hẻo lánh. Qua truyện ngắn Cấm bắt rùa, Sơn Nam đưa chúng ta
về miệt Cà Mau xa xôi để tìm hiểu một nghề rất đặc biệt: nghề bắt rùa. Ở xứ này, người ta
ăn rùa độn cơm, thậm chí trong chén cơm thịt rùa còn nhiều hơn cả hột cơm. Dân trong
vùng hiểu rất rõ cứ đến mùa hạn thì rừng tràm cháy. Tràm là loại cây có nhiều hột. Hễ gặp
lửa là hột nổ nghe lốp bốp. Do đã quá quen với cảnh ấy đến nỗi họ cho rằng “mọi năm cháy
như vầy hoài, rồi tràm mọc lại, rừng cũng hoàn toàn là rừng”. Thiên nhiên khí hậu khắc
nghiệt khiến cho rừng cháy nhưng con người không lo lắng, trái lại họ vẫn lạc quan và
thậm chí còn tỏ ra vui mừng. Nhờ có rừng cháy, vợ chồng Bảy Đặng mới có được cái nghề
tay trái là bắt rùa để nuôi lũ con nhỏ trong lúc nông nhàn. Trong nhà Bảy Đặng xây hẳn
61
một cái hồ lớn có sức chứa đến đôi ba trăm con rùa đủ cỡ, đủ loại. Sự phong phú đa dạng
của các loại rùa ở chốn sông nước rừng tràm Cà Mau được Sơn Nam thể hiện rất rõ trong
truyện ngắn này. Trong một truyện ngắn khác, Sơn Nam lại có dịp giới thiệu đến bạn đọc
kỹ thuật dựng nò của Hai Nhiệm để bắt một loại rùa đặc biệt ở xứ biển Rạch Giá (Con bà
tám).
Theo cách gọi của Sơn Nam, vùng đất phương Nam thời mới khai phá là nơi “chó ăn
đá gà ăn muối”, nơi muỗi mòng đỉa vắt sanh sôi nảy nở vô hạn vào mùa mưa, nơi rắn rít
còn ảnh hưởng lớn đến cuộc sống sinh hoạt của con người. Vật dụng không thể thiếu của
người dân đồng bằng sông Cửu Long là cái nóp dùng để tránh mưa tránh nắng, để làm
mùng ngủ và cái bếp un khói dùng để đuổi muỗi. Ngay cả đám trẻ con cũng biết ngồi dưới
gốc cây bạch đàn để xem hát vì chúng biết nơi đó muỗi luôn tránh xa (Hát bội giữa rừng).
Ở vùng đất xa xôi này, thịt rắn không chỉ là một món ăn ngon mà người ta còn có thể kiếm
lợi từ việc lột da rắn để bán. Trong vùng còn xuất hiện nghề trị rắn cắn với các thầy nổi
tiếng như Hai Rắn, Năm Điền. Ngoài ra, qua truyện ngắn Ông bang cà ròn, Sơn Nam đã đề
cập đến nghề bao bàng - theo tiếng Khmer là bao cà ròn - ở vùng Sóc Xoài - Rạch Giá. Xưa
kia đây là vùng đất thấp, nhiều phèn, lại thường xuyên bị lụt nên không thích hợp để làm
ruộng. Người dân nơi đây, chủ yếu là người Khmer, kiếm sống bằng nghề bao bàng thuê và
bán lại cho các chủ vựa. Để có cọng bàng, người thợ được thuê nhổ phải chèo xuồng vào
tận vùng Vàm Ràng, Đường Bàng. Nghề này vốn không khó và không đòi hỏi nhiều sức
lực, già trẻ trai gái đều có thể làm được. Đây là một nghề có từ xa xưa của dân Nam Bộ,
đến nay chỉ còn rất ít người biết đến.
Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, con người đi lại, sinh sống trên sông nước. Xưa
kia, đây là nơi “dưới sông sấu lội”, nó thường đập đuôi nhận chìm xuồng và ăn thịt người,
thậm chí còn ngỏng đầu vô hàng rào nghe hát bội hay hiên ngang chặn ghe cưới cướp mất
cô dâu. “Trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng xanh” đã có không ít người đã
bỏ thây vì loài sấu hung ác này. Sơn Nam nhấn mạnh điều đó qua bài thơ gọi hồn của ông
Năm Hên trong Bắt sấu rừng U Minh Hạ phần nào như để siêu thoát cho những oan hồn
bị sấu ăn thịt còn ẩn khuất đâu đây. Người dân sống ở U Minh thường chọn cách tránh xa,
thậm chí còn có người tin rằng bằng cách bày mâm cúng kiếng họ sẽ được sống yên ổn.
Trước khó khăn ấy, trong vùng đã xuất hiện những con người có tài khuất phục sấu như
ông Năm Hên, chú Tư Đức. Họ cũng chỉ là những người dân lao động bình thường vì từng
bị cá sấu ăn thịt mất người thân nên đã tìm cách để diệt trừ loài vật hung ác này. Trong
những truyện kể về sấu, Sơn Nam giới thiệu họ như những người anh hùng giữa cuộc đời
bình dị, họ hành động không phải vì tiền, không phải vì danh tiếng mà trước tiên là mong

62
muốn mang lại cuộc sống yên bình cho người dân nơi đây. Sấu là loài nguy hiểm đối với
cuộc sống của con người, có người bị nhận chìm xuồng mất xác, có người đang ngồi rửa
chén, sấu nổi lên rinh luôn cả cái cầu thang và cô gái,… Bằng tài trí và sự dũng cảm, ông
Năm Hên cho đào một đường nhỏ và chỉ với một nắm dây cóc kèn, một cây mốp tươi ông
đã thu phục được loài vật đáng sợ này. Đoạn văn sau đây Sơn Nam miêu tả cảnh xuất hiện
của loài sấu: “Đằng xa, một vật gì nổi lên, đi ngược dòng nước đang chảy xiết,…Nhưng
dường như vật nọ không phải là chiếc xuồng: khi thì nó thối lui, cập vào bờ, khi thì tiến tới,
day ngang qua, chậm chạp. …Và trước mũi của chiếc xuồng quái dị nọ, hai tia sáng xanh
ngời rọi tới như hai cái đèn “bin”. Nghi ngờ gì nữa! Nó là con sấu lửa mà chú Tư thường
nghe mấy người đóng đáy nói lại” (Sông Gành Hào). Khi ra tay diệt trừ con sấu cuối cùng,
ông Năm Hên đã trở thành thầy bắt sấu nổi danh trong vùng. Dù đã già nhưng sức lực vẫn
còn rất dẻo dai, ông “cưỡi lên lưng con sấu, lật hai chân trước của nó cho trở ngược lên
lưng rồi tiếp tục điều khiển như người cầm cương ngựa. Nó phải quẹo lên bãi như ý muốn
của bác. Rồi bác thọt cho nó đuôi hai con mắt”. Đó là bốn mươi năm kinh nghiệm bắt sấu
của đời ông (Con sấu cuối cùng).
Trên khắp các nẻo đường đặt chân qua, Sơn Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để
tích lũy thêm vốn kiến thức sâu rộng về vùng đất này. Chính vì lẽ đó, ông đã cung cấp cho
người đọc những nét đặc trưng của vùng miền qua nhiều thời điểm khác nhau. Nhà văn như
đã khẳng định với người đọc về thời điểm chính xác của những con cọp đã hết thời oanh
liệt, về những con sấu cuối cùng ở xứ sở bạt ngàn rừng tràm, sông nước mênh mông này.
Vì thế, đọc truyện ngắn Sơn Nam, người đọc có thể tích lũy cho mình những kiến thức về
địa lý, lịch sử, xã hội của vùng miền đã được ông khéo léo xen kẽ vào từng truyện ngắn
bằng nhiều cách thức khác nhau. Có đọc hết những truyện ngắn Sơn Nam mới thấy được
vốn hiểu biết của nhà văn thật rộng, thật phong phú. Ngoài ra, trong những truyện ngắn
khác như Con rắn ri voi, Con bà tám, Cấm bắt rùa, Kéo trúm, Cái tổ ong, Cây huê xà,…
Sơn Nam lại giới thiệu đến người đọc những cách kiếm sống khác của người dân đồng
bằng. Chinh phục thiên nhiên, dựa vào nó để khai thác những nguồn lợi sẵn có của đất trời
là cách người Việt phương Nam đã làm từ bao đời nay. Ông Năm Lươn một tay kéo trúm
nổi tiếng ở làng Đông Bình. Mỗi tuần, Năm Lươn có thể kiếm được hai trăm ký lô tức
khoảng sáu trăm con để bán lên Sài Gòn. Bắt lươn quan trọng nhất là phương thức làm mồi,
cũng là thứ cá rô cá sặc nấu chín nhưng có pha thêm vài hộp cá mồi để gây mùi thơm thì
“bao nhiêu lươn đều xúm lại chun vô ống trúm” (Kéo trúm). Khi chú Biện Tống tìm ra
cách kiếm ăn mới cho bà con ở vùng rừng tràm U Minh Hạ thì cả làng không thấy ai ca tài
tử, cờ bạc hay hát huê tình đối đáp nữa vì họ bận bắt rắn, lột da rắn và bán với giá rất cao.
Mỗi ngày 500 miếng da rắn vừa to vừa thẳng được giao cho chú Biện Tống. Bảy Đăng là
63
người bắt được nhiều rắn nhất bằng thứ mồi câu là mấy chai rượu đế nhưng Sáu Kiến mới
là người thu lợi nhiều nhất nhờ sáng chế ra kỹ thuật dùng ống bơm tạo ra những miếng da
rắn “bề ngang ba tấc” (Con rắn ri voi).
Với một vốn kiến thức phong phú, Sơn Nam còn cung cấp cho người đọc những
trang viết thú vị về các loài chim trong vùng Rạch Giá, Hà Tiên xưa kia. Truyện ngắn
Tháng chạp chim về như một sự hoài niệm của tác giả về một thời đã qua. Qua sự kể lại
của nhân vật ông Tư ta biết được xứ Rạch Giá, Hà Tiên xưa kia vốn là nơi tập họp nhiều
sân chim, thứ của trời đất dành riêng cho. Các loại sân chim nổi tiếng như sân Cái Nước,
sân Thầy Quơn, sân Thứ Nhứt,… mỗi sân rộng chừng hàng ngàn thước vuông với hàng vạn
con chim đủ kích cỡ. “Chúng nó sanh sôi nảy nở, tạo lập một thế giới riêng biệt náo nhiệt, ở
khắp nhành cây và mặt đất”. Nắm được đặc điểm đó, dân chúng kéo đến các sân chim này
để bắt chim, nhổ lông bán cho ghe buôn từ Hải Nam đến, họ mua về để kết quạt. Đó là thời
điểm của “hồi năm chục năm về trước, hồi trăm năm về trước Rạch Đường Sân ở Chắc
Băng này phồn thịnh lắm”. Ở một vài truyện ngắn khác như: Đảng xăm mình, Bốn cái
ngu, Sơn Nam cũng điểm qua thêm về cách kiếm ăn từ nghề bắt chim của người dân đồng
bằng sông Cửu Long xưa kia. Cái thời tháng chạp hàng vạn con chim kéo nhau về làm tổ
bây giờ đã không còn thấy nữa. Nỗi niềm tâm sự của ông Tư cũng chính là của tác giả đã
làm cho người đọc hiểu thêm rằng sân chim vốn là một đặc ân mà tạo hóa ban tặng cho
vùng đất này khi những “người Việt đầu tiên đến vùng Kiên Giang hưởng ơn Trời lộc
Nước mà khai phá miền Nam”. Dù thứ cá nước chim trời là của tự nhiên nhưng bản thân
con người cũng cần có cách hòa thuận với thiên nhiên, nếu khai thác thái quá, vượt qua qui
luật tự nhiên thì luôn bị phản ứng ngược lại như mấy chục năm đã trôi qua chim đã không
kéo nhau về vùng đất này thêm một lần nào nữa. Hiểu rõ được điều đó con người mới có
thể khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên và dựa vào thiên nhiên mà sống.
Hai tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau và Biển cỏ Miền Tây, dù được sáng tác
trong giai đoạn 1954 - 1975 nhưng một số lượng không nhỏ những truyện ngắn lại có mốc
thời gian nghệ thuật lùi về quá khứ rất xa thời những người đầu tiên đặt chân đến khai
hoang mở đất. Những truyện ngắn về sấu và cọp thường phản ánh rất rõ mốc thời gian này.
Xưa kia Nam Bộ là xứ sở “dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um” vì thế con người đã sớm biết
đoàn kết với nhau để diệt trừ loài thú dữ. Nghề đánh cọp, bắt sấu được hình thành với
những nhân vật nổi tiếng như ông Cai Thoại, ông Năm Hên. Xứ U Minh, Gò Quao là nơi tụ
họp nhiều cọp nhất đến nỗi dân trong vùng này luôn bị nó ám ảnh trong đầu. Họ dựng nhà
sát nhau, tránh xa những nơi cọp thường lui tới. Ban đầu dân chúng đánh cọp là do sợ hãi
và tự vệ, về sau đánh cọp trở thành một nghề thì những chú cọp cũng đã “hết thời oanh liệt”

64
và con người lần hồi tiến vào những vùng đất sâu hơn để khai thác. Ở rừng tràm U Minh
muỗi mòng đỉa vắt không những nhiều vô kể mà cá sấu cũng nhiều “như trái mù u chín
rụng”. Thậm chí miệt đất Cà Mau, Rạch Giá còn có nhiều con rạch mang tên loài vật này
như rạch Đầu Sấu, Lưng Sấu, Bàu Sấu,… từ thời hoang sơ đây đã là những địa danh có rất
nhiều sấu sinh sống. Cũng như loài cọp, cá sấu đe dọa đến sinh mạng của con người vì thế
họ tìm cách đối phó với nó cũng là để sinh tồn nơi vùng đất mới. Có những con sấu già
không chỉ bất ngờ gieo tai họa thảm khốc cho dân trong vùng mà còn ngang ngược chặn
ghe bắt người.
Miền hạ lưu sông MêKông trước kia phần lớn là rừng rậm hoang vu, khí hậu ẩm
thấp, nhiều thú dữ. Đây là nơi vắng dấu chân người lui tới cho mãi đến khi những lưu dân
Việt đặt chân lên vùng đất này. Những khó khăn của tự nhiên đã không làm họ nản chí vì
khi quyết định đi về phương Nam những thành phần lưu dân có tội với triều đình hiểu rất rõ
mình không thể quay trở lại miền ngoài. Vì thế họ mang theo bên mình cả một truyền thống
dân tộc, tập tục thờ cúng ông bà tổ tiên, nỗi niềm với quê cha đất tổ,… Đến vùng đất mới
trước sự tác động của những điều kiện tự nhiên mới, đã buộc họ phải biết cách thích nghi
để tồn tại. Điểm qua một vài truyện ngắn, ta thấy được con người Nam Bộ đã nắm bắt được
các đặc điểm tự nhiên của vùng đất mới này. Khi nắm rõ được đặc điểm địa hình trong khu
vực cũng là lúc dân Nam Bộ biết trồng lúa ở những nơi đất phù sa cao còn những vùng đất
thấp, trũng lại phù hợp với nghề bắt cá tôm. Với đôi bàn tay cần cù, siêng năng, ý thức
đoàn kết đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống, họ đã cùng nhau mở mang địa bàn cư trú và
tạo lên những xóm làng đông vui. Dần dần khi đã ổn định cuộc sống, họ bắt đầu nghĩ tới
những hình thức sinh hoạt tinh thần.

2.2.2.2 Mối quan hệ giữa con người với xã hội


Mối quan hệ giữa con người với con người trên tư cách cá nhân và cộng đồng là
biểu hiện của thể ứng xử xã hội, một trong những đặc điểm quan trọng của văn hóa. Các
mối quan hệ của con người nảy sinh trên cơ sở của điều kiện, phương thức và hoàn cảnh
sống. Hoạt động sinh hoạt, sản xuất của cư dân Nam Bộ luôn gắn bó với những biến động,
đổi thay của con nước ở các dòng sông và thủy triều ở biển cả. Ở vùng đất này, chiếc ghe
không những là phương tiện đi lại chính mà còn là phương tiện cư trú của nhiều người dân
Nam Bộ từ bao đời nay.

a. Trong mối quan hệ giữa con người với cộng đồng.

65
Nam Bộ là mảnh đất có sự cộng cư của ba tộc người Việt, Hoa và Khmer vì vậy
trong quá trình chung sống đã ảnh hưởng lẫn nhau trên nhiều mặt. Sự đoàn kết, hòa hợp
giữa các dân tộc đã tạo nên bức tranh văn hóa nhiều màu sắc của khu vực đồng bằng sông
Cửu Long.
Người Việt mang tư tưởng cộng đồng truyền thống khi đi về phương Nam, tiếp xúc
với môi trường mới và các nhân tố văn hóa bản địa trên vùng đất mới của cư dân Khmer.
Hai dòng văn hóa Việt, Khmer tiếp nhận, giao thoa lẫn nhau, tạo ra mối quan hệ gắn kết
hòa hợp. Người Khmer thường chọn vùng đất gò cao ráo để sinh sống, họ không thích phá
rừng sâu, vượt sông ra biển. Người Việt đến đây lại chọn những chỗ đất thấp để cất nhà lập
xóm. Cùng sống trên một khu vực sinh thái mỗi dân tộc chọn cho mình một địa hình thích
hợp, sống hòa bình, tôn trọng và không xâm phạm tập tục tín ngưỡng của nhau. Câu chuyện
về chiếc ghe ngo và lục cụ Tăng Liên phần nào cho ta thấy tâm tư tình cảm của người
Khmer với quê hương đất nước, với tổ quốc Việt Nam. Trên vùng đồng bằng sông Cửu
Long, vào mùa nước nổi hội đua ghe ngo của người Khmer diễn ra rất sôi động. Đây chính
là một nét sinh hoạt văn hóa rất độc đáo của họ. Vì danh dự của xóm chùa cả Lục Cụ, phó
hương quản Hem và đội đua đều cố gắng hết sức để dành chiến thắng trong cuộc đua ghe
nhưng phần thưởng mà họ nhận được thì thật cay đắng, tủi nhục và xót xa - một lá cờ tam
sắc của Pháp quốc (Chiếc ghe ngo). Ngoài ra, ở một số truyện ngắn khác, ngòi bút Sơn
Nam cũng chứng thực cho ta thấy mối quan hệ tốt đẹp này. Khung cảnh ở những nơi người
Khmer sinh sống thường có tre xanh, cây thốt nốt và có chùa chiền bao quanh. Toàn bộ dân
cư làng Tài Văn, Liêu Tú đều là người Khmer. Họ cất nhà trên các giồng cát, nơi ấy được
hình dung như một quần đảo. Mỗi giồng tập trung chừng hai mươi nhà, mỗi nhà đều có bụi
tre bao quanh. Họ sống xen kẽ với làng của người Việt, “ai nấy làm ăn vui vẻ, ai lo phận
người nấy”. Khi Tây “làm lộng” nổ súng vang cả vùng, nhân vật “tôi” và thằng Đinh mỗi
đứa một hướng chạy thục mạng, nhờ sự cứu giúp của một người phụ nữ An Nam lấy chồng
người Khmer, họ đã thoát khỏi nguy hiểm (Ngó lên Sở Thượng). Khi đồng bằng sông Cửu
Long đã trở nên đông đúc, người Việt, người Khmer cùng chung sống và lao động với
nhau. Cả xóm Sóc Xoài đều kiếm sống bằng nghề nhổ bàng đan cà ròn gia công. Đây vốn
là nghề mà người Việt học được từ người Khmer trong quá trình chung sống với nhau (Ông
Bang cà ròn). Ở xóm Cù Là người Việt cùng người Khmer cùng nhau lập nghiệp, gắn bó
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống (Xóm Cù Là ).
Hình ảnh chiếc nóp, cái cà ròn trở nên quen thuộc đối với lưu dân Việt trong quá
trình lập ấp, tạo xóm. Đó là những vật dụng của người Khmer. Chiếc nóp là một vật dụng
không thể thiếu của người Nam Bộ xưa kia. Theo sự miêu tả của Sơn Nam, chiếc nóp là

66
một miếng đệm lớn như cái túi may hình chữ nhật, miệng nóp mở ra theo bề dài, có chức
năng của cái mùng, cái mền, cái chiếu và cả cái mái nhà. “Trên miền đất ẩm ướt, dưới cơn
mưa nhỏ, cứ lật nóp chui vào để vượt qua một đêm đầy muỗi mòng giữa rừng hoang. Lúc
đi bộ, người ta mang cái nóp cuốn tròn sau lưng, khá nhẹ nhàng. Giữa trời sương, người ta
lật nóp trước mũi, sau lái hoặc trên mui ghe” [48, 161]. Vật dụng mang theo bên mình của
các tay rìu ở rừng tràm U Minh là một cái nóp vì “xứ này nhà cửa không có, muỗi bu lại
như trấu, nước ngập ngang lưng quần”. Khi một mình sống trên hòn Cổ Tron, ngoài bộ
quần áo mặc trên người, cái bếp un khói vừa để nấu cơm vừa để đuổi muỗi, vật dụng không
thể thiếu của ông Từ Thông là một chiếc nóp để che mưa, tránh nắng. Chiếc nóp cũng là
một trong những vật dụng trong hành trang của nhà văn Sơn Nam khi ông đi bộ trên khắp
vùng đất đồng bằng sông Cửu Long. Cái cà ràn là chiếc bếp của người Khmer, có hình
dáng như cái thùng đờn ghi ta, phía trước để nấu cơm, phía sau là nơi cào than rút củi bớt ra
để nướng cá. Trong hành trang đi hỏi vợ của Hai Cần không thể thiếu chiếc cà ràn quen
thuộc này. Khi chuẩn bị lên xuồng lão Ngượt nhắc nhở Hai Cần: “Cháu chịu khó rinh cái cà
ràn, cái nồi cơm đó xuống xuồng để đi du lịch đường xa” (Vẹt lục bình). Rừng tràm là nơi
ẩm thấp, nước đọng quanh năm, ban ngày muỗi mòng vẫn bay vo ve trước mặt người. Khi
câu chuyện phiếm của các tay rìu đang diễn ra sôi nổi, muỗi bu lại xung quanh, đôi bàn tay
anh Tư Bình Thủy đập từng chập mà vẫn không ngớt, mọi người phải lấy chiếc bếp un quạt
khói lên để đuổi bầy muỗi ra xa (Nhứt phá sơn lâm). Ngoài ra, ở vùng đất có nhiều sự ưu
đãi từ nguồn thủy lợi, người Khmer đã sớm nghĩ ra kỹ thuật làm mắm để tích trữ thức ăn
lâu dài (Ngày hội ba khía). Lưu dân Việt đến đây đã tiếp nhận kỹ thuật này và chế biến ra
những món ăn đậm chất Nam Bộ. Cuộc gặp gỡ giữa người Việt và Khmer diễn ra ôn hòa,
không có sự cưỡng bách về kinh tế nên văn hóa cũng không có sự đối nghịch. Cả người
Việt và người Khmer đều theo đạo Phật và thờ cúng theo cách riêng của mình. Mảnh đất
Nam Bộ dần dần đã trở thành quê hương, thành niềm tự hào chung của họ.
Trong mối quan giữa người Hoa và người Việt ta lại thấy có sự biểu hiện rất khác.
Làn sóng người Hoa di dân qua Cù Lao Phố, Mỹ Tho, Hà Tiên, họ giỏi về thương mãi, chế
biến thức ăn nhưng chỉ xem Nam Bộ là nơi dừng chân tạm thời, mong chờ ngày “phục
Minh”. Khi đến vùng đất này, cơ hội quay về dường như không còn vì vậy họ buộc phải lấy
vợ, sinh con và định cư lâu dài tại đây. Các cửa tiệm bán các tạp hóa là phương thức để
người Hoa kiếm sống. Họ bán chịu cho nông dân nghèo đến mùa thu hoạch mới đến lấy
tiền. Cách tích lũy đó đã tạo cho họ một chỗ đứng khá vững vàng. Trên vùng đất mới người
Việt cũng tiếp thu nghề thương mại của người Hoa. Ngành mua bán, chuyên chở hàng hóa
đã tạo cơ hội gặp gỡ, quen biết nhau giữa các vùng gần xa, chọ lớn, tỉnh lỵ. Ở những nơi
giáp nước quy tụ khá đông ghe thuyền, đậu lại buôn bán rồi lại di chuyển đến các vùng
67
khác. A Lẩu sinh ra trên đất Việt, làm nghề bán tạp hóa, nhưng anh luôn mong có cơ hội trở
về quê hương. Tâm sự của A Lẩu cũng là tâm sự của người Hoa trên mảnh đất này. Nhưng
rồi cuối cùng A Lẩu cũng đã chọn cách sống chan hòa thậm chí còn trở thành tri kỷ với bạn
bè người Việt. Mối quan hệ của anh với Hai Lượng, Tư Đờn không chỉ là tình làng nghĩa
xóm mà sâu xa hơn nữa họ còn tri ngộ nhau qua những điệu hát Xuân tình, Ngũ điểm, cùng
nhau nhâm nhi chén rượu giải sầu. Địa danh bến Tầm Dương là nơi họ mong ước được một
lần hội ngộ, bởi lẽ nơi đó là cố hương của A Lẩu, là tâm sự yêu nước của Hai Lượng và Tư
Đờn trong hoàn cảnh đất nước bị Pháp cai trị (Hội ngộ bến Tầm Dương). Truyện ngắn
Một người hàng xóm phản ánh rõ nhất phương cách kiếm ăn của người Hoa qua câu
chuyện nhỏ về gia đình của chú Vương Tường, làm nghề bán tạp hóa ở cầu Ông Lãnh. Nhà
của họ là cái kho chứa hàng bừa bãi với đủ thứ từ tàu hũ khô, củ cải muối, tàu vị yểu,… và
cả một bầy con năm đứa. Người Hoa giỏi làm ăn và tính toán nên dù sống trên đất mới
nhưng cuộc sống của họ khá ổn định. Nhiều gia đình người Hoa có vốn, họ đã định cư xen
kẽ với các xóm ấp của người Việt. Một số người giỏi kinh doanh đứng ra làm trung gian
buôn bán giữa các bạn hàng Việt, Hoa và cả các nước khác như Singapo, Miến Điện. Từ
bao đời nay, dân cư Việt và Hoa đã sống hòa thuận cùng nhau trên mảnh đất mới.
Quan hệ cộng đồng của cư dân đất phương Nam còn được bộc lộ rất rõ trong hoàn
cảnh thực dân Pháp xâm lược. Quan hệ làng nước, xóm giềng là nền tảng cơ bản của thể
ứng xử xã hội người Việt vẫn được duy trì. Tuy nhiên, đã có ảnh hưởng không nhỏ của lối
sống mới xa rời truyền thống dân tộc ở một số người. Truyện ngắn Sơn Nam không tập
trung phản ánh mối quan hệ đối nghịch giữa ta và địch mà chủ yếu khắc họa quan điểm,
thái độ, cách cư xử của con người Nam Bộ trong hoàn cảnh có ngoại xâm. Dù không trực
tiếp thể hiện những mâu thuẫn giằng co quyết liệt giữa ta và địch, truyện của Sơn Nam vẫn
“bàng bạc trong những trang sách này là một tình yêu quê hương đậm đà, đằm thắm….là
một ý thức chống xâm lăng triền miên sâu sắc”[67, 83]. Trong trận giặc càn năm xưa tại gò
Mả Lạn, binh sĩ của ông Nguyễn Trung Trực kéo về Châu Thành để công kích. Khi nghe
tiếng súng nổ chát chúa quanh vùng, dân chúng nửa mừng nửa sợ vì chẳng biết của bên ta
hay bên địch, những người dân nghèo vô tội ở gò Mả Lạn gần như đã bị giết sạch trong
đêm hôm ấy (Miễu bà Chúa Xứ). Thời Pháp thuộc ở xứ biển Hà Tiên, Cà Mau nổi lên
băng đảng “Cánh buồm đen” của Sáu Bộ, Năm Bùn. Họ cướp của người giàu chia cho dân
nghèo, khi muốn giữ đạo đức làm người họ đã giải nghệ và cầm cuốc cày thay cho đao
kiếm. Đầu năm 1946 khi Nam Bộ đang trong giai đoạn kháng chiến quyết liệt, ông Sáu Bộ
đã truyền lại thế võ tuyệt kỹ cho đám thanh niên cứu quốc. Ông nói rất khẳng khái: “Nếu
ngồi ở nhà không ai làm gì tôi, nhưng tôi cảm thấy nhục nhã như thiếu món nợ gì với trời
đất, núi non. Nếu xét tôi có tội, anh em cứ giết tôi để tế cờ”. Khi đất nước lâm nguy, những
68
con người một thời làm mưa làm gió như Sáu Bộ cũng tự đặt mình vào trách nhiệm, vào
nghĩa vụ đối với tổ quốc Việt Nam (Đảng “Cánh buồm đen”). Tính cách của ông Tư Lịch
(Ngày mưa đầu mùa) phổ biến trong số đông dân Nam Bộ, sống bình dị, không bao giờ
làm điều sai trái nhưng lại hành động rất anh hùng trước hoàn cảnh tồn vong của dân tộc.
Khi đối diện trước vinh nhục, sống chết mới thấy rõ khí chất xã hội của từng con người.
Vào năm 1946, “lúc bấy giờ đất nước đang trong vòng “máu lửa”, nhưng làng Đông Yên
vẫn yên như bàn thạch”. Pháp đã chiếm đóng và mở đồn cách làng không xa, dân chúng
vẫn say sưa đờn hát, rượu chè. Trước hoàn cảnh ấy, ông Tư Lịch chợt nghĩ “con người chứ
đâu phải cái máy, lương tri còn đó, sáng chói từng chập, thúc giục khách ăn nhậu nên nhớ
tới Tổ quốc”. Khi nghe tin Pháp chuẩn bị tấn công bà con ai nấy lo chạy cho thật xa, ông
Tư Lịch buồn bã nói “Mạng ai nấy lo, hồn ai nấy giữ. Thời loạn lạc khôn sống mống chết.
Nếu dân mình ai cũng ích kỷ thì nước mất luôn. Lá lành đùm lá rách mới là thương nhau”.
Trong phút giây, cậu thanh niên đi bên cạnh ông Tư chợt “cảm thấy mình trai trẻ mà quỵ
lụy, chạy trốn trước áp bức của thực dân Pháp là hèn hạ”. Cậu đã học được bài học đầu tiên
về đạo làm người trong một đất nước có giặc ngoại xâm.
Yêu nước là một phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam từ bao đời nay. Ở Nam
Bộ, trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh chống ngoại xâm tinh thần ấy có dịp bùng phát
mạnh mẽ và lan tỏa rộng khắp. Sự biểu hiện của lòng yêu nước ở con người Nam Bộ trong
truyện ngắn Sơn Nam gắn liền với điều kiện và hoàn cảnh sống của họ trên vùng đất cuối
cùng của tổ quốc. Ở nơi xa xôi hẻo lánh vẫn ngời lên nét đẹp truyền thống của người Việt
phương Nam. Cuối năm 1945, khi tái chiếm xứ Nam Kỳ thuộc địa, thực dân Pháp đã gặp
phải sự kháng cự quyết liệt của cả miền Nam. Những thanh niên yêu nước như Thiệt và
Nguyệt đã theo dòng người tham gia Thanh Niên Tiền Phong, nhiều đồng bào cùng nhau
tản cư ngược ra khu vực Pháp chiếm đóng hoặc rút xuống phía U Minh sình lầy. Riêng ông
hương cả Binh và một số người dân nghèo vẫn cố bám trụ lại trên con rạch Cái Cau. Thực
dân Pháp vào chiếm đóng dọc bờ kinh Xáng đã không gặp sự kháng cự nào đáng kể vì dân
trong làng chẳng còn bao nhiêu. Ông hương cả Binh tỏ rõ thái độ “thà chịu chết chứ không
thể rời khỏi cái nhà này, con rạch này”. Ông quan niệm con người “tử sanh hữu mạng” và
cả đời chỉ thờ một chữ “Trung”. Tinh thần trung hiếu đã cứu sống ông trong một lần đối
đáp với giặc Tây. Khi quân giặc ráo riết lùng bắt đám Thanh Niên Tiền Phong, ông hương
cả Binh vẫn tin rằng mình là người có lá số tử vi “Nê Mã độ Khương Vương” nên ông
không đi khỏi vùng nguy hiểm. Ông cũng như hình ảnh con ngựa đất đứng hầu hạ trung
thành bên các bàn thờ trong các ngôi miếu. Mặc cho cô Nguyệt can ngăn, mặc cho bị nghi
ngờ theo thực dân, ông vẫn một mình ở lại ngôi nhà quét dọn bàn thờ, chăm sóc vườn tược.
Qua hình ảnh của một ông già tuổi đã gần đất xa trời phần nào còn giúp ta thấy được tinh
69
thần bám đất giữ làng trong những năm kháng chiến ác liệt của dân Nam Bộ (Con ngựa
đất). Ông Từ Thông bao năm sống một mình trên hòn Cổ Tron, tưởng như đã cắt đứt mọi
liên hệ với đất liền nhưng vào “năm ấy, tháng ấy, ngày ấy, …ông Từ bỗng nghe chút gì băn
khoăn, rạo rực trong lòng ông và ở ngoài đời”. Bởi lẽ ông vừa nghe người thông ngôn nói
về những tin trong đất liền như nhắc nhở ông về món nợ với đồng bào, với đất nước. Ông
hổ thẹn khi thấy phận mình không bằng con chim đỗ quyên đêm hè kêu khắc khoải một nỗi
nhớ quê. “Cây có cội. Nước có nguồn. Chim có tổ. Cá có hang” và đương nhiên con người
phải có quê hương, có nguồn cội (Hòn Cổ Tron). Ông già làm nghề xay lúa ở làng Đông
Thái, ông già mù giăng câu ở kinh Rộc Lá đều là những con người gắn bó sâu nặng với quê
hương đất nước. Ông tâm sự: “Mắt lòa là mắt không thấy, chứ nào phải vô tri vô giác”.
Hàng đêm ông vẫn ngồi nói thơ Vân Tiên một mình giữa chốn sông nước bao la, lòng ông
thổn thức với bao điều mất mát: mất đứa con trai trong chiến tranh Pháp - Đức hồi thế
chiến thứ nhất và bây giờ là mất tự do trên chính quê hương đất nước mình. Nhà văn khẳng
định “Dường như tạo hóa đã dành cho ông một số phận: sinh trong thời Pháp thuộc, chết
trong thời Pháp thuộc” (Ông già xay lúa, Người mù giăng câu). Khi biên khảo về vùng đất
và con người Nam Bộ, Sơn Nam viết: “Việt Nam đã hình thành từ thời các vua Hùng,
chống giặc ngoại xâm, văn hiến rạng rỡ. Khẩn hoang tận đồng bằng sông Cửu Long là tiếp
nối bình thường truyền thống dựng nước, giữ nước, lần hồi tạo thêm nét đa dạng trong tính
thống nhất về văn hóa dân tộc” [49, 136].
Nam Bộ là nơi tụ họp của dân tứ xứ, là nơi có nhiều tộc người cùng sinh sống. Sự
đoàn kết cộng đồng đã trở thành một trong những yếu tố quyết định đối với tính cách nhân
ái, nghĩa khí của người Nam Bộ trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Cách cư xử
hào hiệp, trọng nghĩa, yêu quý đồng bào, quê hương xứ sở đã khẳng định phẩm chất đáng
quý, mang dáng vẻ riêng của người Việt phương Nam.

b. Trong mối quan hệ giữa con người với con người


Trong mối quan hệ giữa con người với con người, người dân Nam Bộ chọn cách
sống trọng nghĩa tình, sẵn sàng giúp đỡ cưu mang lẫn nhau. Bên cạnh đó cách cư xư xử bộc
trực thẳng thắn, chất phác thật thà cũng được biểu hiện rất rõ qua hành động, cử chỉ và lời
nói của con người nơi đây. Nói đến con người Nam Bộ, một nét đặc trưng không thể thiếu
đó chính là nhân ái, nghĩa khí. Đây không phải đặc tính mà chỉ có dân Nam Bộ mới có
nhưng đây lại chính là nét nổi bật của họ. Vốn mang trong mình dòng máu Việt, tinh thần
tương thân tương ái là cái gốc của con người Việt Nam từ xưa đến nay. Đến mảnh đất mới,
những cư dân tứ xứ cũng nhờ có tình nhân ái mà tồn tại và phát triển được. Tinh thần nhân
ái ở đây được thể hiện trong những mối quan hệ đối nhân xử thế giữa con người với nhau.

70
Tương thân tương ái, đoàn kết là một đặc điểm chung của dân tộc Việt Nam cũng là cách
sống của người Việt phương Nam. Trong truyện ngắn Sơn Nam, đặc điểm này biểu hiện rõ
nhất qua việc phản ánh hai mối quan hệ xã hội, một là mối quan hệ giữa những người thân
trong gia đình, hai là mối quan hệ cộng đồng giữa những người dân cùng sinh sống trong
một xóm, ấp, khu vực.
Mối quan hệ tình cảm giữa những người thân trong gia đình được tác giả thể hiện
qua một số truyện ngắn tiêu biểu. Đó là tình yêu thương vô bờ bến của ông bà hương Cả Ba
đối với cô con gái Út. Là bậc làm cha làm mẹ, ông bà băn khoăn, ăn ngủ không yên khi
quyết định gả con gái về xứ Cạnh Đền xa xôi. Đến khi con gái đã yên bề gia thất, có tới bốn
mặt con rồi mà ông bà vẫn ngày đêm trông ngóng. Sau khi “cự nự” với bà Cả “ông Cả im
lặng suy nghĩ, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày
đó, ai phò giá, ai rinh quan tài? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân: Măng non mọc
kề bên gốc. Phận ông có khác; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao
gần gũi để ông thấy mặt lần đầu – và cũng là lần chót – khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn
tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong
tương lai vô biên vô tận” (Cô Út về rừng). Đó còn là nỗi lo lắng luôn thường trực trong đầu
chú thím Tư Đinh (Mùa len trâu) khi đã quyết định cho thằng Nhi theo đoàn người len trâu
đến vùng Bảy Núi An Giang. Mãn mùa len trâu, thím Tư mừng rơi nước mắt khi thằng Nhi
trở về nguyên vẹn dù dọc đường đi đã chết mất một con trâu pháo. Đó còn là câu chuyện
của mẹ con bà chủ Mẹo (Hai mẹ con) phải xa cách nhau vì sinh kế nhưng lúc nào cũng
quan tâm lo lắng cho nhau. Tân mang tội giết người, buôn á phiện, phải trốn chui trốn nhủi
nhưng anh luôn tìm cách báo tin về để mẹ an lòng. Bà chủ Mẹo sống một mình, luôn hồi
hộp dõi theo từng bươc chân của cậu con trai. Tình cảm máu mủ ruột rà càng được trân
trọng hơn khi cuộc sống còn quá nhiều gian lao, vất vả. Ông cả Ban biết mình bị bệnh
phong không chữa nổi (Ngôi mộ chôn đứng), nhưng vì thương thằng con trai, sợ con mất
thể diện, sợ hôn sự của nó không thành ông đã chọn cách hy sinh đau đớn một mình. Đã
hơn mười năm ông cả Ban sống trốn lánh thiên hạ, khi quyết định ra đi ông dặn dò thằng
Hưng “Mày cứ đào một cái tổ, sau hè hoặc trong nhà, ở từng dưới. Tao nằm xuống đó. Mày
chôn sống tao. Mau đi. Nếu trễ nãi, tao chết trên giường này, mày tốn công chôn thây tao
xuống rồi thì thiên hạ xúm lại nói xấu, uổng công trốn lánh của tao từ chục năm nay… Mày
giết tao rồi đem chôn kín đáo phía sau hè. Thế là danh giá nhà này được toàn vẹn”. Phận
làm con, thằng Hưng rơi nước mắt, nó cảm thấy đau đớn như kim châm muối xát. Có lẽ chỉ
có tình phụ tử lớn lao vô bờ mới cho ông cả Ban cái dũng khí phi thường ấy. Mười hôm sau
Tư Hưng mướn thợ hồ xây một cái mả, kiểu mả đứng, giống như hình dáng cái tháp và nó
nói dóc với con Lài rằng cha nó đi tu tiên và chết ở trên núi đã hai tháng nay.
71
Câu chuyện cảm động ở chốn rừng tràm cũng giúp ta thấy rõ mối quan hệ cha con
tốt đẹp giữa những người thân trong gia đình. Cha con ông hương giáo sống ở U Minh Hạ
đã rất lâu rồi mà lòng vẫn hướng về nguồn cội xa xôi (Hương rừng). Khi Tư Lập đến xứ
này làm nghề ăn ong, anh đã lọt vào mắt của cô Hoàng Mai. Nàng xinh đẹp, nhưng yếu ớt
vì mang trong mình dòng máu nan y. Dù thương trộm nhớ thầm Hoàng Mai đã lâu nhưng
khi biết chuyện Tư Lập đã viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực và thề không quay
trở về xứ này một lần nào nữa. Ông hương giáo hiểu rất rõ bệnh tình của con, ngặt ông
không muốn nói rõ tên bệnh ra. Ông chỉ khuyên con gái năng đi guốc đừng để chân lạnh vì
rừng này “phong”nhiều lắm. Khi Tư Lập ra đi, bệnh tình của Hoàng Mai càng trở nên trầm
trọng, nước da nàng tái xanh, mái tóc rụng thưa dần, mùi hôi bay ra từ cơ thể. Chỉ mình ông
hương giáo thấu hiểu nỗi lòng và hoàn cảnh của cô con gái độc nhất. “Ông giáo đã hiểu
nguồn cơn. Mớ tóc rối nằm cuộn đống trên bàn khiến ông xúc cảm, không che giấu được
cơn buồn. Ông thở dài, cũng như ông đã thở dài hồi mấy năm trước,… Đêm đến ông nghe
tiếng rên khe khẽ. Ngỡ là con gái nhuốm bịnh, ông đến gọi cửa đôi ba lần. Hoàng Mai nằm
đó, tỉnh mà như say, hơi thở hổn hển, đôi mắt úp vào chiếc gối mềm như trốn tránh mấy sợi
tơ trăng buông xuống từng hồi, khi gió rào rạt khẽ rung làm hở ra mấy mí lá che trên đầu
vách. Nàng ra đi bỏ lại ông một mình sống lẻ loi giữa rừng cho đến tận cuối đời. Câu
chuyện của cha con Lão Bích cũng thật cảm động (Chuyện rừng tràm). Trong số dân từ
các vùng đổ về rừng Cà Mau làm nghề đốn củi ăn ong có anh Tư Hưng, người chất phác
thật thà lại có duyên ăn nói. Anh Tư Hưng và cô Một con gái Lão Bích đem lòng cảm mến
nhau nhưng thời thế không ủng hộ đôi bạn trẻ. Tư Hưng sau nhiều lần làm ăn không thành,
đã đi khỏi rừng tràm hơn ba năm mới quay về. Do kiểm lâm quản lý quá chặt nên những
tay rìu tản sang các nơi khác kiếm sống. Cả khu rừng ồn ào náo nhiệt ba năm trước giờ đây
hoang vắng, âm u đến lạ thường. Trong hoàn cảnh ấy, cha con Lão Bích vẫn ở lại rừng. Cô
Một mang thai, sống vất vưởng như người không hồn. Một tay Lão Bích trông nom, chăm
sóc đến khi cô sanh nở ông chính là bà mụ cho con. Rồi đứa nhỏ chết, cô trở nên điên loạn
lúc khóc lúc cười, chửi bới cha mình. Lão Bích vô cùng đau đớn, tủi phận nhưng cha con
ông vẫn sống, vẫn chờ Tư Hưng quay về. Cũng vì thương con mà cả đời ông già Hai phải
chịu mang tiếng xấu (Mây trời và rong biển). Dưa hấu ông trồng không hiểu tại sao ruột
lúc nào cũng trắng và ánh mắt ông luôn chất chứa những nỗi niềm u uẩn từ khi cô con gái
duy nhất qua đời. Cô Ngọc con gái ông đem lòng thương yêu thằng Tú, chuyên nghề ăn
cướp biển. Ông già Hai không bằng lòng mối tơ duyên này nên đã ra sức ngăn cản không
cho đôi bạn trẻ qua lại nhưng Ngọc và Tú vẫn tìm mọi cách để đến với nhau. Kết quả là cậu
Tú bị ông già Hai dùng dao đâm chết, cô Ngọc phát điên rồi tự tử, còn lại một mình ông già
Hai với lời dèm pha là người sống thiếu âm đức.

72
Khi mới hình thành, mảnh đất Nam Bộ là nơi đến của dân tứ xứ. Có những vùng như
rừng tràm U Minh toàn bộ dân trong làng đều đổ về từ các miệt khác để làm mướn. Bỏ xứ
ra đi đến nơi đất mới, con người chọn cách sống nhân ái, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Họ
hiểu rằng đã là con người ai cũng có quê hương cội nguồn, chỉ vì sinh kế mà phải rày đây
mai đó, có khi phải sống nơi đất khách quê người cả đời mà không có cơ hội quay về.
Đối với những người mới nhập cư, dân Nam Bộ luôn sẵn lòng đón nhận, tận tình
giúp đỡ miễn đừng tỏ ra xấc xược, huênh hoang. Vì lẽ đó, khi thầy Hai Rắn vừa chuyển đến
con rạch Thuồng Luồng đã vội khoe khoang tài nghệ liền gặp phải sự phản ứng của bà con
chòm xóm. “Nói dóc! Chưn ướt, chưn ráo mới tới xứ này không để người ta thương! Người
dân trong con rạch nhỏ này quan niệm rất giản dị: “Sao cho ai nấy ăn ngay ở phải, đừng vì
tiền tài mà nói dóc với chúng sinh”. Tài bắt rắn của thầy Hai ai chẳng nể phục nhưng thầy
kiêu hãnh quá nên hôm đó bà con không ai ở lại thụ giáo mà bực tức ra về. Cuối cùng khi
xảy ra cái chết đáng thương của cha con ông Năm Điền, thầy Hai mới kịp nhận ra rằng chỉ
có đem lòng chân thành đối xử với nhau mới có thể nhận được sự hậu đãi vô tư và lòng quý
mến của mọi người. Thầy đến đây không giúp ích được nhiều cho bà con mà còn tạo ra sự
nghi kỵ. Sau đám tang của người đồng nghề trị rắn cắn, thầy Hai bỏ xứ mà đi để lại một
mình thằng Lợi bơ vơ cùng nỗi nhớ thương cha và người yêu (Cây huê xà).
Nhân vật chiếm số đông trong truyện ngắn Sơn Nam là thanh niên trai tráng, họ có
sức khỏe và thường tìm đến nơi khác làm thuê kiếm sống. Ven rừng U Minh là nơi tập
trung đông đảo nhất của lớp người này. Ông già đui một con mắt từng nói với cậu xã Nệ:
“Dân miệt này toàn người tứ xứ tới làm ăn”, cậu không phải huênh hoang, thăm dò những
người đuôi mù như lão (Ông già xay lúa). Anh Tư Bình Thủy từ Cần Thơ xuống rừng tràm
U Minh đốn củi thuê. Vốn hiền lành, thật thà nên anh được sự yêu thương, quý mến của
cha con ông Tư Châu Xương và cô Mịn. Việc phá rừng lấy củi với bao khó khăn vất vả,
tiền thù lao lại chẳng bao nhiêu nhưng con người vẫn không bỏ cuộc. Vì ở nơi đó họ đã
mang tình cảm chân thành ra để đối đãi với nhau, mối duyên giữa anh Tư Bình Thủy và cô
Mịn đã bắt đầu nảy sinh trên mảnh đất “muỗi mòng đỉa vắt nhiều như trấu” ấy (Nhứt phá
sơn lâm).
Trong một số truyện ngắn, nhà văn Sơn Nam có cách xây dựng kiểu nhân vật rất
đặc biệt. Đó luôn luôn là một cặp nhân vật, một già một trẻ, hoặc một ông già với cô con
gái và một thanh niên từ nơi xa đến lập nghiệp. Cách lựa chọn của Sơn Nam nhằm mục
đích cho chúng ta thấy được tính chất đa dạng của thành phần cư dân trong vùng. Những
người ở xứ khác đặt chân đến miệt U Minh làm ăn rất nhiều, từ vùng Bảy Núi An Giang,
vùng Bình Thủy Cần Thơ, miệt Hậu Giang, miền biển Rạch Giá, Cà Mau, xứ Vĩnh Long…

73
họ đến đây gặt lúa thuê, làm mắm, đốn củi, ăn ong… theo mùa. Nếu thành công, mùa sau
họ sẽ tiếp tục quay lại, nếu không họ lại đi nơi khác để kiếm sống. Gặt lúa mướn là một
nghề rất đặc trưng của vùng đồng bằng Nam Bộ. Đến mùa gặt, những người dân nghèo tập
trung lại từng đoàn hoặc đi cả gia đình đến khắp các ngả trong khu vực và dừng lại ở những
nơi có công việc, những nơi làm ăn được. Mẹ con chị Hồng từ Long Xuyên xuống Rạch
Giá gặt lúa và làm mắm. Ở nơi đó họ đã gặp anh Hai Tỵ, câu chuyện về con cá chết dại là
chiếc cầu nối hai mảnh đời lỡ dở lại với nhau (Con cá chết dại). Hay bản thân Năm Hinh vì
thua cờ bạc sạch túi, về năn nỉ vợ đi làm ăn tại ấp Xẻo Lá, Rạch Giá. Ở nơi ấy, nhờ sự giúp
đỡ của ông già Hy, Năm Hinh đã biết được thế nào là ngày hội ba khía, cái viễn cảnh bài
toán làm ăn của anh đã không thành sự thật vì dân ở xứ này quá nghèo. Họ thiếu nợ anh
nhưng không có tiền trả, cuối cùng gia sản mà anh mang về là bốn cái lu đầy ắp ba khía
muối. Khi về ông già Hy còn dặn với: “nếu còn tình nghĩa Năm Hinh phải biết điều mà
mang trả lu lại cho bà con” (Ngày hội ba khía). Xứ sở U Minh là nơi muỗi mòng đỉa vắt,
nơi xa xôi hẻo lánh nhưng được thiên nhiên ban tặng nhiều sản vật vì vậy nhiều dân nghèo
trong vùng đã đến làm ăn rồi chọn nơi này là quê hương của mình. Dân đốn củi ở rừng tràm
U Minh đã cùng nhau chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống, dần dần họ tích lũy được
kinh nghiệm thực tế và truyền lại cho nhau. Ông Cai Thoại và nhiều người khác cùng nhau
kéo vào rừng sâu mở thôn lập ấp cũng là nhờ sự đoàn kết tương thân tương ái lẫn nhau. Từ
đó mà thôn xóm trở nên đông đúc hơn, đất U Minh có thêm nhiều cư dân mới (Hai cõi U
Minh).
Khi thể hiện mối quan hệ giữa người với người, nhà văn Sơn Nam đã chứng minh
cho ta thấy người Nam Bộ coi trọng nghĩa khí, xem tiền tài là vật ngoài thân. Qua hành
động của các nhân vật, qua cách họ cư xử với nhau đã tự bộc lộ tinh thần trọng nghĩa khinh
tài. Một trong những cơ sở xuất phát của nét tính cách này nằm ở chỗ người Nam Bộ là
những người mê tiểu thuyết Tàu, mê truyện thơ Vân Tiên, dù rằng ít học nhưng họ là những
người hiểu biết. Có những người không biết viết nhưng biết đọc, còn đa số họ đều mù chữ
vì vậy những người có học rất được xem trọng. Cùng sống với nhau nơi mảnh đất mới với
vô vàn những khó khăn gian khổ, con người phải biết nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau để
cùng tồn tại. “Người khẩn hoang thường là “chữ nghĩa không đầy lá me”, không rành cách
ngôn thánh hiền, tánh khí nóng nảy, bộc trực, lắm khi đến mức thô bạo, nhưng sau khi giải
thích thì vui vẻ, thông cảm. Ai hiểu lầm là nổi giận ngay”. Đó là lời nhận xét của Sơn Nam
trong công trình biên khảo Đồng bằng sông cửu Long nét sinh hoạt xưa.
Ở nơi này, người mạnh không phải là người ức hiếp kẻ yếu mà người mạnh chính là
những người nâng đỡ, che chở cho kẻ yếu. Trong cách cư xử của họ đối với những người

74
lầm lỗi cũng rất nghĩa khí. Họ thường chọn cách bỏ qua để được sống yên ổn. Đọc truyện
Sơn Nam, người đọc dễ dàng nhận ra tính trọng nghĩa khinh tài của dân miệt vườn sông
nước. Nhà văn không tìm hiểu nguyên nhân của sự xuất hiện nét tính cách rất Nam Bộ này
mà qua cách ông miêu tả cuộc sống, sinh hoạt của người dân đã thể hiện được điều đó.
Trọng nghĩa tình cũng là một biểu hiện của tinh thần nhân ái, khi gắn bó trực tiếp với nét
tính cách khinh tài, xem tiền tài là vật ngoài thân nó đã trở thành một phẩm chất đặc trưng
của Nam Bộ từ xưa đến nay. Trọng nghĩa khinh tài được xem là một nét đẹp trong văn hóa
ứng xử của người dân Nam Bộ. Dân tứ xứ đến vùng đất mới với quan điểm “tứ hải giai
huynh đệ”, họ là những con người xa lạ không cùng họ mạc, xóm làng, nguồn gốc xuất
thân. Khi đứng trước muôn vàn thử thách khó khăn, sự đoàn kết, đùm bọc yêu thương giúp
đỡ lẫn nhau là vô cùng cần thiết. Khi giúp người họ không tính toán thiệt hơn, được mất mà
xem đó như việc cần làm. Tình và nghĩa đều là thứ quý giá, trong cuộc sống đôi khi cái
nghĩa còn quý hơn cả cái tình. Truyện ngắn Sơn Nam ngập tràn những cách ứng xử đậm đà
tình nghĩa vì thế nhiều ý kiến đã đồng tình với nhau khi cho rằng truyện ngắn của Sơn
Nam, “rừng của Sơn Nam có hương thơm” là vậy. Thứ hương thơm quý giá của tình người
vùng đồng bằng sông nước Cửu Long.
Tình nghĩa vốn là thứ giá trị quý báu của dân tộc ta từ bao đời nay, nó đi theo người
khai hoang đến vùng đất mới, gặp phải điều kiện mới tình nghĩa lại có dịp biểu hiện đa
dạng và phong phú hơn. Những người mới đến lập nghiệp luôn được sự giúp đỡ cưu mang
của người đến trước. Anh Tư Bình Thủy nhờ sự chỉ bảo của ông Tư Châu Xương đã biết
cách kiếm ăn bằng nghề đốn củi, anh Tư Hưng được sự ưu ái của cha con lão Bích và cô
Một đã ở lại xứ sở rừng tràm làm nghề ăn ong, đốn củi, cha con thằng Kìm bơ vơ giữa chốn
sông nước mênh mông đã có bàn tay nhân ái của vợ chồng ông Hai Tích cưu mang trong
lúc hoạn nạn. Khi sắp xếp, gắn kết những mối quan hệ nhân ái giữa những con người với
nhau Sơn Nam đã giúp ta nhận ra những phẩm chất đáng quý của con người Nam Bộ.
Nhiều nhân vật trong tác phẩm của Sơn Nam sống bằng tinh thần, bằng cách hành
động “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã” của người anh hùng Lục Vân Tiên mà xưa kia cụ
Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao. Biểu hiện cụ thể của cách hành xử nghĩa khí của các nhân
vật trong truyện ngắn Sơn Nam luôn gắn liền với đạo nghĩa ở đời. Những người có tài bắt
sấu như ông Năm Hên, chú Tư Đức mục đích hành động trước tiên của họ là vì cuộc sống
an bình của bà con chòm xóm, là mong diệt trừ những mối nguy hiểm luôn đe dọa cuộc
sống của con người. Ông Năm Hên đã giải đáp thắc mắc của cậu bé đi cùng bằng câu nói
rất khẳng khái” “bác hành động không phải vì thứ phú quới đó”; chú Tư Đức khi hạ được

75
con sấu hung ác trên sông Gành Hào đã tâm sự: “vì đất nước chứ đâu phải vì danh lợi. Sách
có chữ “kiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
“Giấc mơ của người khẩn hoang là tạo lập nhà cửa ruộng vườn” [46, 61]. Để làm
được điều đó cần có sự đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau. Khảo sát qua các truyện ngắn của Sơn
Nam, chúng tôi nhận thấy tác giả chú trọng ở kiểu quan hệ thứ hai – tức quan hệ giữa
những người xa lạ hoặc những người cùng chung sống với nhau trong một cộng đồng.
Trong quá trình khai phá, tạo lập cuộc sống mới và trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược,
người Nam Bộ đã phải đối mặt với bao thách thức và khó khăn vì vậy tương thân tương ái,
đoàn kết lẫn nhau chính là một điều kiện tiên quyết hàng đầu cần được duy trì và phát huy.
Tinh thần nhân ái vốn là một phẩm chất quý của dân tộc Việt Nam, nó càng được
những người đầu tiên đặt chân đến vùng đất này lưu giữ và phát triển. Để có thể tạo lập một
cuộc sống nơi vùng đất mới, tình nhân ái cần được đặt lên hàng đầu. Và họ đã làm như vậy.
Tính chất nghĩa khí của con người Nam Bộ cũng từ đó được phát sinh. Dân Nam Bộ được
biết đến là những con người có lối sống phóng khoáng, tinh thần hào hiệp, trọng nghĩa
khinh tài và đặc biệt có lòng yêu thương giống nòi, tổ quốc. Những đặc tính được kế thừa
từ truyền thống dân tộc nhưng cũng có những thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh sống
mới. Đến một vùng đất mới với đôi bàn tay trắng, cái họ mang theo bên mình đó chính là
tình nhân ái. Người Nam Bộ được biết đến là những con người hiếu khách, dù họ nghèo
khó hay khá giả thì khách đến nhà vẫn được tiếp đãi hậu hĩ, không phải lo đến miếng ăn,
chỗ ở. Con người nơi đây sống cởi mở, chân thật và luôn đoàn kết gắn bó, chia sẻ những
khó khăn.
Viết về Nam Bộ, có nhiều cây bút đã khẳng định được thế mạnh của riêng mình:
Nguyên Hùng là một nhà văn chuyên viết về những con người và sự kiện Nam Bộ thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, Bình Nguyên Lộc là nhà văn tiêu biểu của miền Đông Nam Bộ,
Phi Vân với ba tác phẩm Đồng quê, Dân quê, Tình quê thể hiện được “bức tranh nông thôn
sống động với những nét chấm phá đơn giản nhưng đã phản ánh được tính chính xác của
thực tại dưới cái nhìn của một nhà báo chuyên nghiệp hơn một nhà văn” [89, 188]. Và sau
này nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư đã tiếp nối truyến thống ấy một cách khá thành công khi
viết về cuộc sống đương đại của con người nơi đây. Nhắc đến văn học ở khu vực phía Nam
không thể không đề cập đến nhà văn Sơn Nam. Khi đặt bút viết những trang hồi ký cuối
cùng, Sơn Nam tâm sự rất chân thành: “Đi nghiên cứu cũng là đi du lịch. Sống vì quê
hương khám phá nét đẹp của quê hương. Niềm hạnh phúc lớn, vượt hẳn những khó khăn,
câu nệ nhỏ nhen” [51, 542]. Với hơn 60 tác phẩm viết về đất và người Nam Bộ, ngòi bút
Sơn Nam đã giúp người đọc biết đến vùng đất phương Nam của tổ quốc một cách đầy đủ

76
và chân thực nhất. Ở nơi ấy, con người Nam Bộ hiện lên qua những sinh hoạt đời thường,
qua từng mảnh đời, từng số phận với đầy đủ những phẩm chất, đạo đức, lối sống …
Hình ảnh Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam đã được nhà văn khắc họa bằng
những đoạn miêu tả trực tiếp hoặc thông qua lời nói, lời nhận xét của các nhân vật, lời của
người dẫn truyện. Sơn Nam thường không sa vào cách tả thật tỉ mỉ, chi tiết mà chủ yếu là
chọn cách thức điểm qua những nét thực sự có ý nghĩa nhằm làm nổi bật những đặc điểm tự
nhiên vốn có của đồng bằng sông Cửu Long. Theo quan điểm của nhà văn, truyện ngắn là
thể loại mà ông tạm so sánh “như một cái cành, với lá, bông hoa linh tinh hoặc cái đọt non”
nghĩa là phải ngắn gọn và có điểm nhấn gây được sự chú ý nhất định. Với cách thức ấy,
Sơn Nam đã đưa vào những tác phẩm của mình hơi thở của đất trời Nam Bộ, làm lộ ra
những nét vẽ về vùng đất và con người nơi đây ngay từ buổi đầu ông cha ta đến đây sinh cơ
lập nghiệp cho đến khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Văn hóa Nam Bộ trong
truyện ngắn Sơn Nam nổi bật lên trên cả hai phương diện đời sống vật chất và tinh thần. Nó
chứa đựng những nét đặc trưng của vùng miền, từ việc ứng xử của con người trước môi
trường tự nhiên đến những vấn đề xã hội trong đó có cả những yếu tố mang tính chất ổn
định và biến đổi.

Chương 3:
77
DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ QUA NGHỆ THUẬT
CỦA TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
3.1 Nghệ thuật xây dựng kết cấu

3.1.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện


Cốt truyện là “hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ
thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác
phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch [ 20,100]

Cốt truyện gắn với hành động và sự phát triển tính cách của nhân vật theo hướng đã
định sẵn của tác giả. Nó là một trong những yếu tố thể hiện sở trường của người cầm bút.
Cốt truyện là phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ nó mà nhà văn thể hiện sự tác động qua lại
giữa các tính cách nhân vật, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột
xã hội. Như vậy, cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ
chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh chân thực
xung đột xã hội, có sức mạnh lôi cuốn và hấp dẫn người đọc. Căn cứ theo kết cấu và quy
mô nội dung, có hai loại cốt truyện đơn tuyến và đa tuyến. Hệ thống sự kiện của truyện
ngắn được tác giả kể lại gọn gàng và thường là đơn giản về số lượng, tập trung thể hiện tính
cách của một vài nhân vật chính, có khi chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời nhân vật chính.
Vì vậy loại cốt truyện thích hợp với truyện ngắn là kiểu cốt truyện đơn tuyến, có dung
lượng nhỏ hoặc vừa. Trong thực tế đời sống văn học, cốt truyện hết sức đa dạng nó vừa kết
tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựu văn học của từng thời kỳ lịch sử, vừa
thể hiện phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn..

Truyện ngắn Sơn Nam thường là những truyện rất ngắn, có dung lượng độ vài ba
trang. Đọc truyện ngắn của ông, chúng tôi nhận thấy có hai đặc điểm chính trong việc xây
dựng cốt truyện. Thứ nhất, đồng thời cũng là điểm độc đáo trong cách xây dựng cốt truyện
của truyện ngắn Sơn Nam, đó là cách thức chêm xen những giai thoại, những hình thức
sinh hoạt tinh thần và những mảng hồi ức có tính chất tư liệu của chính vùng đất Nam Bộ.
Thứ hai, đó là kiểu cốt truyện đơn giản về sự kiện, ít gay cấn, ít mâu thuẫn và những xung
đột xã hội quyết liệt; một số truyện có cốt truyện rất mờ nhạt hoặc như không có. Ở dạng
thứ hai này, tác giả thường tổ chức các tình tiết, chi tiết có tính chất độc sáng để thu hút sự
chú ý của người tiếp nhận.
78
3.1.1.1 Nam Bộ là nơi tập trung của dân tứ xứ, nói theo Nguyễn Đăng Duy thì đây là
nơi tụ họp của “ba họ mười làng”. Những câu chuyện từ các miền quê được họ mang ra kể
lại cho nhau nghe trong những lúc dừng tay nghỉ việc, khi trò truyện trà nước hoặc những
lúc cần giãi bày tâm sự, nỗi lòng. Nắm rõ đặc điểm này, khi đặt bút viết Sơn Nam đã chêm
xen thêm những giai thoại vào một số truyện nhằm tạo tính sinh động hấp dẫn. Giai thoại
về những anh hùng diệt sấu, bắt cọp từ thời khẩn hoang được lồng vào những câu chuyện,
tạo sự hấp dẫn cho người đọc, người nghe: giai thoại về manh áo đen của ông Cai Thoại,
người có tài thu phục cọp dữ ở rừng U Minh (Hai cõi U Minh), giai thoại về những chú
cọp cùng nghe hát bội với con người ở rạch Khoen Tà Tưng (Hát bội giữa rừng), về những
con sấu bắt người di chuyển trên sông nước (Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Con sấu cuối
cùng), về những người đi đào vàng ở vùng Ba Thê Bảy Núi (Kho Vàng), về những viên
ngọc quý của người Trung quốc xa xưa (Hai viên ngọc), về một bà cung phi thời nhà
Nguyễn (Vọc nước giỡn trăng),…Trong một số trường hợp, nhà văn còn dựa hẳn vào các
giai thoại về các nhân vật lịch sử Nam Bộ thời Pháp thuộc để dựng truyện như: giai thoại
đánh Tây của người anh hùng Nguyễn Trung Trực trong truyện Miễu Bà Chúa Xứ, về
nhân vật Đơn Hùng Tín trong truyện Đơn Hùng Tín chào đời, về thủ lĩnh của một băng
đảng ở Nam Bộ (Đảng “Cánh buồm đen”),… Những câu chuyện trên còn được chính tác
giả dân gian hóa, tạo ra màu sắc cổ tích, thần thoại, giúp người đọc hình dung đầy đủ về
mảnh đất và con người Nam Bộ xa xưa. Vùng đất Nam Bộ trong buổi đầu lịch sử đã dần
hiện lên trước mắt người đọc với những nét hoang sơ, dữ dội và huyền bí. Cái tài của Sơn
Nam chính là ở chỗ kể chuyện xưa mà người đọc lại có cảm giác rất gần gũi, rất thân thuộc
với cuộc sống hôm nay. Ngoài ra, nhiều truyện ngắn của ông còn có sức hấp dẫn bạn đọc
bởi cách dựng truyện ly kỳ, những mảng hồi ức đậm đặc tư liệu quý.

Vốn sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ, vì thế Sơn Nam nắm rất vững những đặc điểm về
lịch sử, địa lý, xã hội của quê hương mình. Đặc điểm của lối viết truyện ngắn theo kiểu dã
sử của Sơn Nam còn thể hiện rõ ở cách nhà văn bổ sung những mảng hồi ức có tính tư liệu
vào trong mạch truyện. Bằng vốn hiểu biết về văn hóa của một vùng đất, trong những trang
truyện của mình, người kể đã khéo léo lồng vào những biến động lịch sử lớn trên mảnh đất
phương Nam. Đó là biến cố liên quan đến sự kiện Nguyễn Hữu Cảnh vào vùng đất Gia
Định thiết lập nền hành chính năm 1689, xác lập cho nền văn hóa Việt Nam một thế đứng ở
Nam Bộ. Tiếp theo là khi tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp xuất hiện trên mảnh đất
Nam Kỳ kéo theo những thay đổi không nhỏ trong đời sống của người Việt phương Nam.

79
Và một sự kiện cũng có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình chính trị xã hội ở Nam Kỳ vào
khoảng những năm 50 của thế kỷ XX đó là sự hất cẳng thực dân Pháp của đế quốc Mỹ trên
chiến trường miền Nam, thay thế văn minh thực dân kiểu cũ bằng văn minh thực dân kiểu
mới. Các sự kiện lịch sử quan trọng trên dường như đã được Sơn Nam tìm hiểu rất kỹ vì thế
trong một số truyện, tác giả đã chọn cách chêm xen những đoạn tư liệu có tính chính xác,
chân thực cao vào lời kể của người dẫn truyện hoặc tâm sự về chính cuộc đời của nhân vật.
Sơn Nam đã sử dụng những tư liệu này để kể về những quá khứ liên quan đến việc khảo
cứu trong những dịp đi bộ trên khắp quê hương Nam Bộ. Đó là cách nhà văn ghi nhận công
lao của những người khai hoang mở đất và là biểu hiện của niềm vui, lòng tự hào của một
người con phương Nam.

Tiếp cận những câu chuyện ở dạng này, người đọc thấy được ngòi bút sáng tạo độc
đáo, đa dạng của Sơn Nam. Ngoài mốc thời gian vào thời kỳ khẩn hoang, truyện ngắn Sơn
Nam còn là những câu chuyện diễn ra trong thời thuộc Pháp ở một ấp, một xã, một làng
nào đó của nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó đặc điểm của chất ký sự lịch sử,
khảo cứu nổi lên rất rõ. Nhiều chi tiết lịch sử được kể lại xác thực cả về thời gian, địa điểm,
các mối quan hệ. Nhà văn thường chọn cách đặt nhân vật của mình vào một bối cảnh chung
của dòng chảy lịch sử gắn liền với các sự kiện của vùng đất Nam Bộ với những mốc cụ thể:
vào cuối năm 1945, lúc bấy giờ, vào khoảng năm 1932, vào năm 1940, vào năm
1948,…hoặc vào một giai đoạn thời gian như: vào thời Pháp thuộc, năm đó,… từ hoàn cảnh
cụ thể đó nhân vật hành động và bộc lộ tính cách. Cách tạo dựng cốt truyện như trên đã làm
cho hệ thống các sự kiện được phản ánh một cách khách quan, những diễn biến của cuộc
sống và nhất là các xung đột xã hội hiện lên một cách chân thực và sinh động. Qua đó các
tính cách của nhân vật được hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của
chúng nhằm làm sáng tỏ tư tưởng chủ đề tác phẩm. Trong truyện Kho vàng, người kể đã
say sưa kể về di tích Óc Eo ở núi Ba Thê, An Giang. Theo bước chân của những người đi
tìm kho báu, những tư liệu có giá trị về mặt khảo cổ học đã được ghi nhận: “Nơi săn vàng
này, về sau các nhà khảo cứu gọi là Óc Eo, theo tên gọi có sẵn ở địa phương, được phỏng
đoán là một thương cảng tấp nập, cách đây hơn ngàn năm, có thuyền ngoại quốc tới mua
bán, từ Ấn Độ, Ba Tư”. Qua đây, người đọc dễ dàng hơn khi hình dung về một nền văn hóa
có từ xa xưa ở mảnh đất phía Nam. Truyện ngắn Tháng chạp chim về lại đưa người đọc
đến với những sân chim nổi danh ở vùng Rạch Giá, Hà Tiên xưa kia. Nắm rõ từng đặc điểm
di chuyển, thời gian sinh trưởng của loài chim và tên gọi của những loài chim, sân chim nổi

80
tiếng trong vùng, qua lời kể của nhân vật ông Tư người đọc cảm nhận được sự hoài niệm,
tiếc nuối của tác giả về một thời đã qua.

Lịch sử khai khẩn phương Nam đã ghi nhận vai trò của họ Mạc ở trấn Hà Tiên. Sơn
Nam đã lồng sự kiện này vào một số câu chuyện trong hai tập truyện ngắn Hương rừng Cà
Mau và Biển cỏ miền Tây. Trong Cao khỉ U Minh, Hai Khị là người chuyên nấu cao khỉ,
có chút hiểu biết về chuyện đời xưa đã kể lại sơ lược về diện mạo của vùng đất Nam Bộ,
nhắc đến dòng dõi Mạc Cửu có công khai phá miền Nam: “Xưa kia, thời ông Mạc Thiên
Tứ - con ông Mạc Cửu, một người Trung Hoa sang tị nạn ở Việt Nam vùng chợ Hà Tiên –
thì sung túc nhưng rừng U Minh còn sầm uất, khỉ sống từng bầy đôi ba chục con”. Nhân vật
Tư Cồ (Ruộng lò bom), vốn là một tay thích cuộc sống nay đây mai đó đã giải thích với
người vợ mới cưới về vùng đất này như sau: “Đất này hoang vu từ hồi tạo thiên lập địa.
Nghe đâu ông Mạc Cửu đến khai khẩn vùng Hà Tiên nhưng ổng ưa vùng biển để lập chợ
mua bán, lập sòng bạc. Ruộng bỏ hoang Thế là ông Mạc Cửu tiêu tan sự nghiệp. Chợ Hà
Tiên lần lần sụp đổ”. Hoài niệm về quá khứ không chỉ để tôn vinh về vẻ đẹp của con người
và vùng đất Nam Bộ mà Sơn Nam còn muốn tìm hiểu thêm về cội nguồn dân tộc, lịch sử
hình thành vùng đất. Ở một số truyện ngắn khác, Sơn Nam còn lý giải rất cụ thể về lịch sử
hình thành và đặc điểm của các địa danh, những phong tục tập quán đặc trưng của khu vực
hoặc những sự kiện có tính chất nổi bật trong vùng. Chẳng hạn, truyện ngắn Hết thời oanh
liệt, ghi dấu mốc sự kiện “làn sóng người Việt Nam từ Cần Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch
Giá, Cà Mau để khai khẩn đất hoang”; truyện Đảng “Cánh buồm đen” là biến cố xảy ra
vào năm 1946 khi Tây trở lại chiếm vùng Rạch Giá; truyện Hai ông già là lúc “Tây đóng
đồn, coi bộ mạnh lắm. Nó chiếm tới chợ Cà Mau rồi, nghĩa là khắp Nam Kỳ lục tỉnh, như
thời xưa vậy”,... Đặc biệt Sơn Nam nắm rất rõ những địa danh trong khu vực đồng bằng
sông Cửu Long và giải thích cụ thể đến người đọc. Tại sao lại gọi là xứ Năm Căn, xóm Cà
Bây Ngọp, Hà Tiên Tỉnh, chợ Ngã Bảy, Ngã Năm, con rạch Cái Thia, Xóm Cù Là, con
kinh Bảy Ngàn,… đọc truyện ngắn Sơn Nam nếu chịu khó tra cứu ta có thể có được câu trả
lời thỏa đáng. Tìm về cội nguồn xa xưa đối với Sơn Nam là một nét đẹp, một việc rất đáng
làm nên cả đời ông đã nâng niu, trân trọng và tìm cách giữ nó bằng việc tái hiện lại trong
các truyện ngắn của mình.

Truyện ngắn Sơn Nam thuộc loại “chuyện xưa tích cũ” (Nguyễn Q.Thắng). Quả
đúng như vậy, đây cũng chính là một điểm đặc sắc trong cách xây dựng cốt truyện của nhà
văn Nam Bộ này. Sở dĩ truyện của Sơn Nam có sức hấp dẫn bạn đọc bởi lẽ nhà văn đã chọn

81
cách chêm xen thêm những chuyện xưa tích cũ, những điệu hò Nam Bộ, những câu hát huê
tình, những câu ca dao mượt mà đằm thắm của chính người Nam Bộ. Và một điều quan
trọng nhất để người đọc nhớ đến ông đó chính là “cách viết truyện mang hơi hướm khảo
cứu”. Sơn Nam xem việc đi nghiên cứu về Nam Bộ cũng như việc đi du lịch vì thế những
sáng tác của ông chứa đựng những tư liệu lịch sử, địa lý, xã hội của vùng miền. Khi chọn
lựa cách dựng truyện như thế có hai vấn đề ông muốn gửi gắm đến bạn đọc. Thứ nhất và
cũng có ý nghĩa rất quan trọng, đó là việc giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc của quê
hương Nam Bộ; thứ hai là từ sự hiểu biết thực tế của chính bản thân mình, Sơn Nam trực
tiếp giải thích một sự kiện, một địa danh hay một phong tục độc đáo ở trong vùng. Khi cầm
bút sáng tác, Sơn Nam đã ý thức rất rõ tác phẩm văn học có khả năng rất lớn trong việc
truyền tải, lưu giữ, sáng tạo văn hóa của dân tộc. Vì vậy viết truyện hay khảo cứu về Nam
Bộ cũng là cách để Sơn Nam bày tỏ tình yêu và lòng tự hào của mình với quê hương, đất
nước.

Mỗi truyện ngắn chở một câu chuyện. Truyện ngắn, đúng hơn, là một câu chuyện được
kể lại, được dựng lại một cách ngắn gọn. “Đặc điểm của truyện ngắn là tính ngắn gọn từ đó
đòi hỏi nhà văn viết truyện ngắn phải có trình độ điêu luyện, biết mạnh dạn gọt tỉa và dồn
nén” [61, 30]. Nhận định này rất phù hợp với truyện ngắn Sơn Nam bởi mỗi truyện ngắn
của ông đều chuyên chở một câu chuyện về đất và người Nam Bộ. Xét trên tổng thể, truyện
ngắn Sơn Nam giai đoạn 1954 - 1975 là bức tranh về đất và người miền Nam Việt Nam.

Một trong những nét duyên của truyện ngắn Sơn Nam đó chính là nhờ vào sự hiểu biết
của chính bản thân tác giả mà người đọc có cảm giác được hiểu về đối tượng phản ánh một
cách đầy đủ. Thêm vào đó, với cách sắp xếp, lựa chọn các chi tiết gắn với bối cảnh không
gian và thời gian thích hợp đã thu hút được sự chú ý của người đọc, người nghe. Một lần
tiếp xúc với câu ca dao “Một mai thiếp có xa chàng. Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp
xin”, hẳn người đọc sẽ rất khó hiểu cách cư xử của người vợ trong hoàn cảnh này. Đó chính
là một phần của văn hóa Nam Bộ mà Sơn Nam - một nhà văn tâm huyết với đất và người
nơi đây, luôn muốn lưu giữ và truyền lại những giá trị đạo đức tốt đẹp. Ông mượn câu ca
dao quen thuộc này và đưa người đọc đến với truyện ngắn Miễu bà Chúa Xứ. Đây cũng là
một trong những cách nhà văn mở đầu câu chuyện mình định kể. Để rồi như lời gửi gắm rất
chân tình của ông Tư Đạt: “người hát phải biết hát, người nghe phải biết nghe” thì mới có
thể hiểu một cách tường tận, Sơn Nam đã giới thiệu đến bạn đọc ngày nay một thú vui xa
xưa của dân Nam Bộ. Người con dâu, người vợ trong câu hát, vì không chịu nổi cách đối

82
xử khắc nghiệt của bà mẹ chồng, nàng đã cất lên tiếng hát như để giãi bày với chồng về
tình cảnh của mình. Quả là một cách nói rất ấn tượng, mang tính biểu trưng sâu sắc. Sau đó
câu chuyện được kể lại trong bối cảnh thời gian bắt đầu vào khoảng non 80 năm về trước.
Một số truyện ngắn khác của Sơn Nam cũng có cách xây dựng cốt truyện dựa vào chất liệu
dân gian trên cơ sở giải thích những nét văn hóa vùng miền đặc sắc bằng sự hiểu biết, trải
nghiệm của chính bản thân nhà văn. Truyện ngắn Tình bậu muốn thôi là một ví dụ. Ngay
cách đặt tiêu đề, nhà văn đã gợi được một không khí chuyện rất Nam Bộ. Truyện xoay
quanh câu ca dao Nam Bộ xưa “Ví dầu tình bậu muốn thôi. Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu
ra”. Sơn Nam đã khéo léo lồng ghép vào câu chuyện cách ăn ở giữa những người thân
trong gia đình một bài học quý giá: “Ai nấy đừng vì đồng tiền mà trở mặt với nhau”.Viết
truyện ngắn này, dường như nhà văn Sơn Nam muốn minh chứng với bạn đọc về đặc điểm
trọng nghĩa khinh tài của con người Nam Bộ .

Người mù giăng câu, Bốn cái ngu, Đồng thanh tương ứng, Lũ trẻ chăn trâu, Tục lệ ăn
trộm, Miễu bà chúa xứ, Vọc nước giỡn trăng, Ngày xưa tháng chạp, Con Bảy đưa đò…là
những truyện có cùng cách xây dựng cốt truyện như trên. Trong truyện ngắn Vọc nước giỡn
trăng, ông Năm Lượng không những thương tình cho Điệu, một thanh niên từ phương xa
đến lập nghiệp, về ở chung mà còn dạy cho anh “cái nghề hát huê tình”. Ông Năm Lượng
chính là người đóng vai trò truyền lại cho con cháu đời sau khỏi quên đi một nét sinh hoạt
tinh thần xưa của dân gian Nam Bộ. Thú vui hát huê tình không những làm cho “lòng dạ
con người thơ thới, khỏe khoắn” mà còn cởi mở được tâm sự, giúp họ gần nhau hơn. Theo
ông câu hát huê tình cao siêu lắm, bởi huê tình là chuyện ngàn xưa ai ai cũng có, cũng ưa.
Con Bảy đưa đò là một trong những truyện đặc sắc của Hương rừng Cà Mau. Nó hay ở
cách xây dựng một câu chuyện đậm đà nghĩa tình, ngoài ra người đọc yêu thích câu chuyện
này còn nằm ở những đoạn đối đáp hò hát giữa con Bảy và nhân vật khách. Sơn Nam là
người có kiến thức và có ý thức muốn lưu giữ những câu hát rất đặc trưng Nam Bộ, ông đã
đặt vào lời của cô Bảy và nhân vật khách những câu đối đáp vốn đã quen thuộc trong dân
gian, làm cho chúng có cơ hội được xướng lên trên sông nước ruộng vườn. Hãy dừng lại
nghe đôi trai gái chỉ một lần gặp gỡ trong đêm tối trên sông nước, xuồng kẻ trước người
sau thậm chí chưa một lần giáp mặt đối đáp với nhau:

Cô Bảy lanh lẹ ra câu đối:

- Bánh bò một vốn ba đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi. Để em đi bán
kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba má, sau lại nuôi mình,…
83
Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa, em phải ở một mình bơ vơ.

Khách bên xuồng nọ lên tiếng:

- Ớ nàng ơi.

Kiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận
chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sao đây.

Mái chèo nhịp nhàng khua, khách và con Bảy tiếp tục hò. Và rồi khách đi họ cảm
mến tình nhau “… con Bảy bùi ngùi tấc dạ; từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai
đó cũng không xa mấy. Con Bảy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần”. Nó trả
lời chàng trai “Bao giờ chàng trở lại. Em xin chờ”. Và như thế con Bảy đã chờ đến già mà
vẫn mang theo mình một tinh cảm đẹp đẽ bởi vì “ở đây, hồi đó, có người nói là “cần một
tấm lòng”. Bằng những nét vẽ chấm phá, hình ảnh sông nước Nam Bộ đã hiện lên trước
mắt người đọc một cách chân thực và sinh động nhất. Nơi đó có những con người cùng
sinh sống và lao động, hò hát, giao duyên và kết thân vợ chồng với nhau.

Ngoài ra, khi sáng tác Sơn Nam còn lấy cảm hứng từ một số câu ca dao, thành ngữ,
tục ngữ quen thuộc của dân tộc. Câu thành ngữ “Nhứt phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” được
nhà văn lấy cảm hứng và dựng hẳn thành một truyện ngắn gắn liền với những giai thoại về
quá trình đi khai hoang mở đất của người đời xưa (Nhứt phá sơn lâm); câu hát “Ví dầu tình
bậu muốn thôi. Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra” trong truyện Tình bậu muốn thôi, câu ca
dao “Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng. Nước xao, trăng dợn biết là về đâu?” trong truyện
Vọc nước giỡn trăng, câu ca dao “Ngó lên Sở Thượng thêm buồn. Muốn chăm cội rễ, ngặt
đường xa xôi” trong truyện Ngó lên Sở Thượng,.. Sơn Nam là một trong số ít những nhà
văn có sự xâm nhập, tìm hiểu thực tế cuộc sống rất công phu. Từ những kết quả có được,
tác giả nhận ra: “Ngoài giá trị văn chương , địa lý phong tục, ca dao, tục ngữ còn là lá bùa
cứu khổ cứu nạn thời kháng chiến” [43, 196].

Việc lựa chọn những tư liệu từ nguồn văn học dân gian trong khu vực và từ vốn
sống tích lũy được qua khắp các ngả đường đồng bằng sông Cửu Long đã tạo cho truyện
ngắn Sơn Nam có những đặc điểm mang đậm sắc thái dân gian Nam Bộ. Nhà văn Sơn Nam
đã làm việc đó như một con ong cần mẫn, xây chiếc tổ vững chắc như thách thức với thời
gian và lòng người. Những truyện trên thể hiện rõ tính chất răn dạy và hướng độc giả đến
những bài học về đạo đức, về cách sống, cách đối nhân xử thế cho hợp lòng người. Xu
hướng lựa chọn những nhân vật ông già để đảm nhiệm vai trò chính của truyện đã giúp nhà
84
văn bộc lộ rõ tâm tư tình cảm của chình bản thân mình. Phần nào họ cũng chính là hình ảnh
của “ông già Nam Bộ” - Sơn Nam - với một tình yêu, lòng tự hào đối với quê hương xứ sở.
Với cách thức kể chậm rãi, từ tốn của những người đã có tuổi và bao giờ xen vào giữa lời
kể cũng là những lời răn dạy, các truyện ngắn trong nguồn mạch này như dẫn con người
đến từng xứ sở xa xôi, hẻo lánh nhất của đất Nam Bộ, nơi có những con người sống nhân ái
nghĩa khí luôn yêu thương đùm bọc, giúp đỡ nhau vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

3.1.1.2 Ngoài ra truyện ngắn Sơn Nam còn có cách dựng truyện theo cách
thức tổ chức các tình tiết, chi tiết có tính chất độc sáng để thu hút sự chú ý của người tiếp
nhận. Các chi tiết này dù nhỏ nhưng lại có tính chất quyết định và được xem là điểm nhấn
cho toàn bộ nội dung của câu chuyện. Một số truyện ngắn tiêu biểu như: Chuyện rừng tràm,
Một cuộc biển dâu, Miễu bà Chúa Xứ, Bà vợ thứ mười, Đóng gông ông thầy Quít, Ông già
xay lúa, Hồn người trong ly rượu, Mây trời và rong biển, Ngó lên Sở Thượng, Tục lệ ăn
trộm, Lũ trẻ trăn trâu , Vẹt lục bình, Một chuyện khó tin,… Khi tìm hiểu truyện ngắn Sơn
Nam, có ý kiến đã cho rằng: “Làm nên vẻ hấp dẫn của truyện ngắn Sơn Nam, đặc biệt là
tập truyện Hương rừng Cà Mau chính là nhờ vào việc sáng tạo các chi tiết” [30, 53]; “Đọc
truyện ngắn Sơn Nam chúng ta sẽ nhận ra một Sơn Nam tinh tế trong việc lựa chọn sáng
tạo các chi tiết nghệ thuật. Có thể nói, bằng chi tiết và qua chi tiết, tác phẩm của Sơn Nam
đã thực sự cuốn hút người đọc [85, 102]. Hoàng Phủ Ngọc Phan khi đề tựa cho tập truyện
Hương Rừng Cà Mau cũng nhận định: đây là một “quyển cảo thơm, là một quyển sử không
có số trương…Cái hay của nó không chỉ ở hình ảnh câu chữ mà còn ở “cái thần” của bút
pháp được tác giả dành ở mấy câu kết nhẹ như gió thoảng và êm như mật ngọt”.

Đọc truyện ngắn của Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy nhà văn thường lựa chọn vị trí
dùng các chi tiết nhấn mạnh ở phần giữa khi câu chuyện đang ở giai đoạn cao trào hoặc ở
phần cuối khi câu chuyện chuẩn bị kết thúc. Nếu cách bố trí, sắp xếp các chi tiết liền mạch
có tác dụng tạo tính logich cho các câu chuyện thì cách xây dựng các chi tiết độc sáng lại
làm nên linh hồn cho những câu chuyện. Những chi tiết được đặt đúng chỗ, xuất hiện đùng
lúc không chỉ tạo ra sự hấp dẫn mà còn có tác dụng làm cân bằng những đoạn chêm xen các
tư liệu lịch sử khô khan, làm cho câu văn có tính uyển chuyển, mềm mại hơn. Qua đó, tư
tưởng chủ đề, giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của từng tác phẩm được bộc lộ rõ nét,
giúp người đọc nắm bắt dễ dàng hơn.

Xin dừng lại ở một vài truyện ngắn để thấy được cách xây dựng cốt truyện độc đáo
của nhà văn Sơn Nam. Đọc truyện Chuyện rừng tràm từ đầu đến cuối truyện, người đọc
85
vẫn thấy đó là những cảnh sống, những câu chuyện phẳng nhạt kể về lối sinh hoạt của một
số người sống bằng nghề đốn củi lậu thuế ờ rừng U Minh. Chỉ đến những dòng cuối ta mới
nhận ra sức hấp dẫn của câu chuyện này. Đó là chi tiết tiếng hú cộng với bóng trắng xuất
hiện khiến nhân vật Tư Hưng và người bạn của mình ngỡ là tiếng chim ụt và bóng ma.
Bóng ma kia chính là cô Một con lão Bích, người yêu, người vợ chưa cưới của Tư Hưng.
Chi tiết này đã được nhà văn sắp xếp khéo léo, báo hiệu từ trước khi Tư Hưng chống xuồng
vào ngọn kinh Mười Lăm. Cảnh vật im lìm, dòng nước trong veo, thiếu vắng cả tiếng “cum
cum” bổ củi quen thuộc. Điều đó chứng tỏ những tay rìu đã tản lạc đi các nơi khác, rừng lại
trở nên hoang vắng, âm u, khiến Tư Hưng cảm nhận đã có chuyện chẳng lánh xảy ra với
cha con lão Bích. Và như thế câu chuyện cảm động về tình người ở rừng tràm U Minh đã
để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ở truyện ngắn Miễu bà Chúa Xứ, tác giả lại
sử dụng chi tiết độc sáng ở đoạn giữa truyện khi người kể đang tả cảnh chết oan của bà con,
lại chuyển nhanh sang chuyện ông Tư Đạt gặp ma giữa ban ngày: “Bỗng nhiên thấy một
ông già hiện ra, đâu mặt với tôi, miệng ổng thì nhai đầu kia của cọng bông súng (…). Ông
già nọ nhai lần cọng bông súng đến gần mặt tôi, hai mặt đụng nhau, sát rạt, lạnh ngắt”. Chi
tiết này không chỉ tạo cho câu chuyện màu sắc huyền bí, thu hút sự chú ý của người đọc,
người nghe mà còn nhắc nhở những người còn sống như ông Tư Đạt cần phải nhớ đến
những oan hồn đã ngã xuống trên quê hương Nam Bộ. Vì thế ông Tư Đạt đã sống trọn cả
cuộc đời còn lại của mình ở gò Mả Lạn chỉ để làm công việc nhang khói cho ngôi miếu Bà
Chúa Xứ. Mượn chuyện xưa để nhắc nhở đời nay là tấm lòng tri ân sâu sắc của Sơn Nam
đối với đất trời và con người Nam Bộ. Đến với truyện ngắn Một cuộc bể dâu, ta lại bắt gặp
chi tiết xúc động về hình ảnh Lão Bích đã trút những hơi thở cuối cùng trên cánh đồng tứ
bề là nước; chi tiết bất ngờ về kiểu chôn buộc xác người neo lên những cây cọc giữa đồng,
đợi cho nước giựt xuống mới đem chôn. Câu chuyện đã gợi cho người đọc về một thiên
nhiên hoang sơ, dữ dội, đe dọa trực tiếp đến cuộc sống của con người vùng sông nước.
Trong truyện Hồn người trong ly rượu, nhân vật ông hương xã Tư để lại ấn tượng sâu sắc
cho người đọc về một con người thâm độc, dã man. Khi biết Hùng, người làm thuê cho
mình nhưng lại dan díu với Huệ, cô vợ bé được ông hết lòng cưng chiều, ông xã Tư đã ra
tay rất độc ác. Chỉ với một chi tiết rất nhỏ ở cuối truyện, Sơn Nam đã cho thấy rất rõ ông xã
Tư là người như thế nào. Lấy câu chuyện cụ thể từ một vụ án mạng xảy ra – vụ án ghen
tuông, chủ thể kể chuyện lần lượt “soi” vào tâm trạng của từng nhân vật. Hùng vô cùng đau
đớn khi ông xã Tư biết chuyện, ép mình phải lấy Lan là em của Huệ, còn Huệ thì bồn chồn

86
lo lắng tìm mọi cách để đối phó với ông xã Tư. Trong khi đó cả hai không hề biết ông xã
Tư là người quỷ kế, ông không lên xuồng đi hầu quan chủ quận theo thông lệ vào ngày
mười lăm hàng tháng mà bí mật quay về bắt quả tang mối quan hệ bất chính của hai người.
Ông dụ Hùng xuống ghe lấy xác con khỉ lên để làm thịt và thẳng tay giết chết anh, rồi lấy
máu trộn với rượu mang cho Huệ uống. Chi tiết độc sáng này có giá trị làm nổi bật tư tưởng
chủ đề của tác phẩm, bộc lộ rõ tính cách của các nhân vật.

Ở một số truyện ngắn khác, ta còn nhận ra hình ảnh một ông già kể chuyện có giọng
văn hóm hỉnh, hài hước khi tác giả xây dựng các chi tiết độc sáng có tính gây cười. Đó là
chi tiết ở cuối tác phẩm khi thằng Nậu và bà con trong xóm chợt hiểu ra bà cai tổng cũng
chính là “bà vợ thứ mười” của Hai Tước, một tên trộm tàng hình nhưng có lòng thương
người (Bà vợ thứ 10); chi tiết ông phóng viên của tờ báo Chim Trời lặn lội đường xa đến
tận xứ Cà Bây Ngọp để đòi nợ nhưng lại tay không trở về, thậm chí còn lỗ tiền đò xe chỉ vì
xứ này quá nghèo trong khi cả người đi đòi nợ và con nợ đều sống rất nghĩa tình (Tình
nghĩa giáo khoa thư); chi tiết những đứa trẻ chăn trâu đái vào những chiếc cốc trên ngôi
miếu của làng Khánh Van, ông lão giữ miếu dở khóc dở cười khi phát hiện ra những vật
linh thiêng trên bàn thờ đã không cánh mà bay (Lũ trẻ chăn trâu); chi tiết ông bác vật xà
bông vô tình phát hiện ra vì sao cả con rạch Xẻo Bần không ai đến mua xà bông do ông chế
tạo ra (Bác vật xà bông); chi tiết thú vị khi tác giả giúp thằng Thiệp và cả người đọc phát
hiện ra chính ông hương thân là ông tổ của nghề ăn trộm (Tục lệ ăn trộm),… Nhiều ý kiến
cho rằng đây chính là sự tiếp bước của nhà văn Sơn Nam với truyện Bác Ba Phi, một loại
truyện trạng của Nam Bộ. Sơn Nam đã kế thừa lối văn phong đặc sắc của loại truyện này
bằng việc sử dụng những từ ngữ và tình huống truyện mang tính chất hài hước, hóm hỉnh.
Đọc truyện ngắn Sơn Nam, người đọc thường thấy thấp thoáng bóng dáng của một ông già
kể chuyện nhưng khác với cổ tích ở chỗ, nhân vật ông già thường là chính tác giả nhiều khi
đan xen vào những lời nói, nhận xét rất cụ thể, có tính khẩu ngữ cao. Bằng cách này, ông đã
gửi gắm những tâm tư, tình cảm của mình với con người và vùng đất Nam Bộ qua từng câu
chuyện, từng mảnh đời của các nhân vật trong truyện. Cách tạo dựng những chi tiết gây
cười trong các câu chuyện trên mang đến cho người đọc trước tiên là những giây phút thư
giãn sảng khoái sau đó là “những xúc cảm thẩm mỹ bổ ích, những gợi ý tích cực về đất
nước và tình người” [17, 456], làm cho họ hiểu rõ hơn về những con người Nam Bộ.

Cơ sở chung của mọi cốt truyện, xét đến cùng, là những xung đột xã hội được khúc
xạ qua những xung đột nhân cách. Nhưng không đồng nhất xung đột xã hội với cốt truyện

87
của tác phẩm. Vì xung đột xã hội là cơ sở khách quan, là đối tượng nhận thức, phản ánh,
trong khi đó cốt truyện lại là sản phẩm sáng tạo độc đáo của chủ quan nhà văn. Cốt truyện
trải qua một tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc. Nguyễn Kiên quan
niệm: “Mỗi truyện ngắn là một trường hợp. Trong quan hệ giữa con người và đời sống, có
những khoảnh khắc nào đó, một mối quan hệ nào đó được bộc lộ. Truyện ngắn phải nắm
được cái trường hợp ấy. Khi quan niệm như vậy có nghĩa là nhà văn đã vận dụng toàn bộ
kinh nghiệm sống và bản lĩnh nghệ thuật để soi sáng đời sống tại những thời khắc tiêu biểu,
lóe sáng và từ đó vạch ra được bản chất, quy luật của đối tượng cần phản ánh trong một
dung lượng tối thiểu cho phép. Vì vậy cũng có thể nói, cái hay của truyện ngắn cũng nằm ở
đặc điểm này [74, 19]. Cái khó của truyện ngắn là với một dung lượng bị hạn chế về câu
chữ người viết phải gói gọn về con người hay sự việc mình muốn phản ánh đồng thời nêu
bật lên được điều mình muốn gửi gắm. Để làm được điều đó, ngoài việc chọn hình thức
chêm xen thơ ca tạo tính sinh động cho câu chuyện, Sơn Nam còn cân nhắc chọn lựa, sáng
tạo những chi tiết độc sáng có tác dụng làm điểm nhấn cho câu chuyện.

3.1.2 Nghệ thuật xây dựng kết cấu


“Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm” [20, 156]. Kết cấu tác
phẩm là tổ chức các yếu tố trong tác phẩm sao có giá trị nhất trong việc thể hiện nội dung.
Nói đến kết cấu nghệ thuật là nói đến toàn bộ những yếu tố, thành phần được sắp xếp gắn
liền với nhau theo một cách tổ chức nhất định. Kết cấu chính là một trong những nhân tố
quan trọng tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Khi nắm rõ tầm quan trọng của kết cấu,
nhà văn sẽ biết cách tổ chức cho cái cốt lõi được nổi bật và gây ấn tượng đối với người đọc.
Vì vậy cách thức xây dựng kết cấu của tác phẩm cũng giúp ta nhận ra tư tưởng phong cách
của nhà văn.

Kết cấu bao gồm tổ chức các hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ
thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt
truyện,… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật. Ngoài ra,
kết cấu hiểu theo nghĩa rộng còn bao gồm cả bố cục hay nói cách khác bố cục là một
phương diện của kết cấu. Thuật ngữ bố cục nhằm chỉ sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn,
các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất định. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn
ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà con
bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bất cứ
tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất
88
yếu của khái quát nghệ thuật. Vai trò của kết cấu trong tác phẩm văn học rất đa dạng. Đó
chính là phương diện bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng của các tác phẩm; triển khai, trình bày
hấp dẫn cốt truyện; cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách; tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác
giả; tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mỹ.

Kết cấu tác phẩm là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể, phù hợp với nội dung cụ thể
của tác phẩm. Nó bộc lộ “nhận thức, tài năng và phong cách của nhà văn” [20, 157]. Những
nhà văn được đánh giá là có phong cách cá nhân thường có cách tổ chức sắp xếp nội dung
tác phẩm theo cách riêng, độc đáo của mình. Sơn Nam cũng vậy, tuy nhiên ông có cách xây
dựng kết cấu truyện ngắn khá đơn giản và có cách tổ chức nội dung tác phẩm theo kết cấu
của thể loại truyện dân gian. Ở đây chúng tôi không đi sâu vào tìm hiểu các kiểu kết cấu
trong truyện ngắn Sơn Nam mà đi vào phương diện thể hiện được sắc thái văn hóa Nam Bộ
trong cách ông tổ chức, sắp xếp tác phẩm của mình theo một trình tự nhất định. Về phương
diện này, điểm đáng chú ý nhất trong nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Sơn Nam nằm ở cách
nhà văn mở đầu và kết thúc tác phẩm.

Các chi tiết trong truyện ngắn Sơn Nam thường được sắp xếp lớp lang theo trình tự
thời gian. Điều đó đã tạo cho người đọc dễ dàng tiếp xúc và nắm bắt nội dung tư tưởng của
tác phẩm. Nhà văn thường chọn cách thức mở đầu câu chuyện trực tiếp, nhân vật kể chuyện
thường xuất hiện ngay từ đầu. Người kể chuyện thường là nhân vật tham gia vào câu
chuyện hoặc là người chứng kiến sự việc xảy ra sau đó kể lại cho mọi người cùng nghe.
Sơn Nam thường lựa chọn hai cách: kết thúc mở, đưa ra nhiều cách hiểu cho người đọc lựa
chọn và cách kết thúc có hậu, phù hợp với tâm tư tình cảm của người bình dân.

3.1.2.1 Về phương diện mở đầu, truyện ngắn Sơn Nam có hai điểm đáng chú ý: thứ
nhất, đó chính là việc vận dụng kiểu kết cấu của loại tự sự dân gian, thứ hai là cách giới
thiệu trực tiếp đặc điểm của nhân vật ngay từ đầu truyện.

Như đã từng nói, truyện của Sơn Nam đậm chất dân gian Nam Bộ bởi lẽ ông thường
chọn cách bắt đầu câu chuyện bằng việc giới thiệu nhân vật hay một địa danh nào đó, có
khi tác giả đề cập đến tình hình chính trị xã hội, hoặc bối cảnh diễn ra câu chuyện. Ở những
câu chuyện như thế, người kể chuyện thường không nêu rõ thời gian cụ thể mà sử dụng
những cụm từ phiếm chỉ như: Năm ấy tôi là một công tử vườn ở làng Đông Bình, vùng khỉ
ho cò gáy, chưa khai hoang (Kéo trúm); Lẩm rẩm mà mình lưu lạc đến chốn này đã hơn
bốn mươi năm (Ngày xưa tháng chạp); Điệu mới đến ngọn rạch này từ sau ngày rày. Anh

89
chưa có nghề gì sinh sống, không ai quen thuộc để dạy bảo những bước đầu tiên trên đường
đời (Vọc nước giỡn trăng); “So với các rạch khác ở ven vịnh Xiêm La, vùng Xẻo Bần vào
hạng tương đối sung túc. Dân ở đây sống bằng hai nghề: Phá rừng lấy củi và khi tiết trời
thuận lợi họ ra biển đánh lưới tôm” (Bác vật xà bông); “Ở đây là hòn Móng Tay, cách bờ
biển hơn hai mươi cây số ngàn. Tàu ngoại quốc thỉnh thoảng chạy qua lại ngoài xa xa. Ghe
đánh lưới, ghe buôn lậu ít khi nào ghé vì trên hòn chỉ có một ngọn suối quá nhỏ, cạn khô
khi trời vừa hửng nắng” (Cái va li bí mật); Rạch Cái Mau là ngọn sông cái lớn ăn qua địa
phận tỉnh Cần Thơ. Trên ba mươi năm về trước đó là nơi lau sậy mọc um tùm quanh mấy
gốc cây bần to lớn hai người ôm không xuể (Con Bảy đưa đò); Non trăm năm về trước, làn
sóng người Việt Nam từ Cần Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để khai khẩn
đất hoang (Hết thời oanh liệt); Nói chuyện đời xưa nghe chơi, ông Tư ơi (Tình bậu muốn
thôi); “Thời Pháp thuộc, làng Bình An, tỉnh Rạch Giá được nổi danh là sung túc”(Anh
hùng rơm); “Ở Rạch Giá, Cà Mau nổi danh chậm tiến là chốn U Minh”(Một chuyện khó
tin);… Phương thức mở đầu này rất thích hợp với mảng đề tài về cuộc khẩn hoang Nam Bộ
bởi lẽ nó đã gợi ấn tượng ban đầu cho người đọc về một vùng đất mới.

Sơn Nam còn chọn hình thức mở đầu truyện bằng cách giới thiệu yếu tố không gian
và đặc điểm nhân vật. Số lượng những truyện ngắn mở đầu theo kiểu giới thiệu không gian
và nhân vật chiếm khoảng 29/88 truyện. Như vậy có thể nói, đây là cách mở truyện phổ
biến nhất của truyện ngắn Sơn Nam. Hình thức mở đầu này có mối liên hệ trực tiếp đến
cách tổ chức yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật. Toàn bộ không gian trong truyện
của ông đều thuộc về Nam Bộ, toàn bộ sự việc xảy ra cũng thuộc về Nam Bộ và đương
nhiên toàn bộ con người trong truyện ngắn Sơn Nam cũng chính là người dân Nam Bộ.
Trong đó, khu vực rừng tràm U Minh là không gian chính của nhiều truyện ngắn như: Bắt
sấu rừng U Minh Hạ, Con sấu cuối cùng, Hết thời oanh liệt, Hát bội giữa rừng, Hai cõi U
Minh, Kéo trúm, Chuyện rừng tràm, Hương rừng,… Bởi lẽ đây là nơi còn chứa đựng nhiều
nét hoang sơ chưa được khai phá, nơi có nhiều nguồn lợi phong phú của thiên nhiên như cá
tôm, sáp ong, rùa rắn,… vì thế đã thu hút dân tứ xứ tập trung đến làm ăn theo thời vụ.

Ở một số truyện, tác giả vào truyện bằng cách trực tiếp giới thiệu nhân vật: “Thiên
hạ đồn rằng Lục cụ Tăng Liên có phép màu, nghe được tiếng chim kêu, gió thổi và nghe cả
đến tâm sự từng giọt nước, từng hạt bụi trong lòng đất”. Lời giới thiệu mang màu sắc huyền
bí về nhân vật Lục Cụ đã gợi sự tò mò cho người đọc, người nghe (Chiếc ghe ngo); “Hồi
tháng trước Năm Hinh thua cờ bạc sạch túi. Về nhà, anh năn nỉ vợ” (Ngày hội ba khía);

90
“Thằng Hon quỳ xuống cúi mọp đầu mà lạy. Nó lạy đến lần thứ hai mươi. Ông hương cả
Bạch vẫn giữ nét mặt lạnh như đồng” (Lũ trẻ chăn trâu); “Từ bảy tháng qua, Bạch lấy làm
thỏa mãn vì đã được đổi nghề” (Trong lòng bàn tay); “Hai Cần vào bếp chụm lửa nấu cơm,
chợt nghe giọng quen thuộc của lão Ngượt (…) (Vẹt lục bình); “Gia đình ông hương
trưởng Neo rất nổi danh ở làng Thạnh Hòa” (Bức tranh co heo),…Giới thiệu về nhân vật
ngay từ những dòng mở đầu truyện là cách hướng trực tiếp sự chú ý của người đọc vào đối
tượng mình định kể. Với cách thức này, người viết truyện ngắn vẫn đảm bảo được giá trị
nội dung và nghệ thuật trong một dung lượng nhỏ hoặc vừa.

Bên cạnh đó, qua một số truyện ngắn như: Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Cái va li bí
mật, Hết thời oanh liệt, Cây huê xà, Ông già xay lúa, Chuyện rừng tràm,… Sơn Nam còn
lựa chọn cách thức mở đầu truyện bằng cách đặt câu hỏi, vừa biểu hiện sự thắc mắc của
người kể chuyện, vừa khơi gợi sự tò mò của người đọc, người nghe. Những câu chuyện này
đã tạo ra sức hấp dẫn rất lớn ngay từ những dòng đầu tiên. Thông thường những câu hỏi đặt
ra cũng chính là sự việc sẽ được tác giả kể lại hoặc giải quyết theo một cách tổ chức riêng
của mình. Khi cha ông ta đến vùng Rạch Giá, Cà Mau, miền đất tận cùng của tổ quốc, để
khai cơ lập nghiệp họ đã phải đối mặt với những khó khăn thử thách nào và làm cách nào
để vượt qua những khó khăn để tồn tại. Đó là những câu hỏi được người viết đặt ra khi mở
đầu câu chuyện Hết thời oanh liệt. Sau đó tác giả tiếp tục dẫn dắt người đọc tìm hiểu sự
đối mặt giữa con người với loài cọp ở vùng Gò Quao, Trà Ban qua những giai thoại được
nghe kể lại. Người kể bất ngờ đặt ra câu hỏi “Sự thật ra sao?” và bắt đầu kể lại câu chuyện.
Mở đầu truyện Cây huê xà, Sơn Nam đã gợi sự tò mò của bạn đọc chú ý đến một bài thuốc
quý trị rắn cắn của thầy Hai Rắn nổi tiếng trong vùng. Những điều băn khoăn thắc mắc của
thằng Lợi cũng chính là của độc giả sẽ được làm sáng tỏ ngay sau khi trả lời được hàng loạt
các câu hỏi đặt ra: “Cây huê xà là thứ cây gì? Hình dáng ra sao? Có thiệt hay là bịa đặt? Nó
có lợi hay có hại cho loài người?”. Mở đầu truyện Ông già xay lúa, nhân vật cậu xã bất ngờ
đặt câu hỏi cho chú phó hương quản: “Tây cai trị xứ mình…đem lại nhiều cái hay nhưng
cũng lắm điều dở, phải không chú phó hương quản?”. Ở truyện Mây trời và rong biển, là
thắc mắc của người kể chuyện vì sao ở vùng Hà Tiên lại có loại dưa hấu giả. Truyện Bắt
sấu rừng U Minh Hạ, là câu hỏi tại sao ở sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhứt.
Truyện Chuyện rừng tràm là câu hỏi “Rừng Cà Mau âm u và mênh mông đến mức nào?”
… Sử dụng những câu hỏi là một trong những cách nhà văn thu hút người đọc tiếp tục tìm
hiểu câu chuyện. Khi chọn các câu hỏi để mở đầu truyện, tác giả đã trực tiếp hướng người

91
đọc vào nội dung tư tưởng của tác phẩm. Cách gợi mở này tạo đã tạo nên một nét duyên
cho truyện ngắn Sơn Nam.

3.1.2.2 Một nét nổi bật khác trong nghệ thuật xây dựng kết cấu truyện ngắn Sơn
Nam là lối khép lại của câu chuyện. Có rất nhiều tác giả đã tạo điểm nhấn cho câu chuyện
bằng cách tạo ra một cách kết thúc ấn tượng. Ở truyện ngắn Sơn Nam, chúng tôi nhận thấy
tác giả đã chọn một số hình thức kết truyện như đặt câu hỏi, sử dụng cách kết truyện mở
theo kiểu dân gian hoặc dùng những lời nhận xét mang tính triết lý gợi cho người đọc
những suy nghĩ trăn trở.

Đây là đoạn kết của truyện Cây huê xà: “Cây huê xà là gì? Có thiệt hay không? Lắm
đêm nó nằm mơ thấy một thứ dây lốm đốm trắng mọc cheo leo ở chót núi Ông Cấm, tiếp
với trời xanh. Trên cảnh xa vời, không nhơ bợn đó dây huê xà nhởn nhơ uốn éo vói gió núi.
Giữa lòng từng chiếc lá, hiển hiện kìa trăm gương mặt con Lài, tươi tắn, cười riêng với nó,
trẻ mãi không già”. Còn đây là đoạn kết trong Mây trời và rong biển: “Ông già Hai ôm
mặt. Gió ngoài thổi lộng. Từng giề rong biển tấp vào bãi. Và trên trời, mây trắng bay. Xác
thằng Tú ở đâu, hồn cô Ngọc ở đâu? Trên chiếc chiếu nào và cái quan tài nào? Chàng nằm
trên nệm rong biển và nàng tới lui vơ vẩn cho đến bao giờ”. Ngoài ra, ở một số truyện ngắn
khác tác giả cũng sử dụng hình thức câu hỏi như: Đường về quê, Người đi đêm, Hội ngộ
bến Tầm Dương,…Thông thường hình thức đặt câu hỏi ở đoạn kết được Sơn Nam sử dụng
trong những truyện ngắn cũng có cách mở đầu bằng những câu hỏi. Đây là biểu hiện của
tính thống nhất cao độ trong nghệ thuật xây dựng kết cấu của truyện ngắn Sơn Nam.

Ngoài ra cách kết truyện mở, có hậu theo kiểu truyện dân gian cũng được Sơn Nam
lựa chọn trong nhiều truyện ngắn như: Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Cái tổ ong, Hai con cá,
Hòn Cổ Tron, Đóng gông ông thầy Quít, Kho vàng, Hồn người trong ly rượu, Hai cõi U
Minh, Ngày xưa tháng chạp,... Cách kết này có sự thống nhất với cách mở đầu truyện ở
mảng đề tài khẩn hoang Nam Bộ. Khi mở truyện tác giả đã cố ý giấu đi yếu tố thời gian,
đến lúc kết truyện ông lại đưa ra nhiều cách hiểu cho người đọc chọn lựa hoặc cố ý tạo cho
câu chuyện mang màu sắc giai thoại.

Xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể: Ông Cai Thoại (Hai cõi U Minh) giúp dân
miệt U Minh diệt trừ cọp dữ, làm cho chúng phải lẩn trốn vào rừng sâu không dám bén
mảng đến các làng mạc, thôn xóm. Sau đó ông để lại manh áo và ra đi không trở lại thêm
lần nào nữa. Sơn Nam kết lại câu chuyện này như sau: “Vài chục năm sau, tin rằng ông Cai

92
đã chết, mấy ông kỳ lão trong xóm bàn bạc, muốn hùn tiền cất ngôi miếu nhỏ thờ ông.
Nhưng vừa hùn tiền xong lại nghe tin ông Cai Thoại còn sống nhăn. Bằng cớ là đêm đêm,
người đi bắt trăn giữa rừng đã gặp ông thấp thoáng bên đống lửa, trong sương mù, kế bên
có con cọp bạch qùy xuống chầu chực. Lời đồn đại còn kèm theo chi tiết: Ông Cai ngồi,
uống rượu, thỉnh thoảng vỗ vai cọp, nói tiếng gì, không ai nghe được nhưng cọp gật đầu”.
Truyện ngắn Ngày xưa tháng chạp là tâm sự của ông Ba Hò, người đã lưu lạc đến rạch
Chà Tre miệt U Minh trên bốn mươi năm. Ông già có tài hò đối đáp ấy đã kể cho lớp con
cháu nghe về cách thức hò, các loại hò,… và cả cuộc đời trai trẻ của ông. Tên gọi của
truyện ngắn đã mang đến cho người đọc sự liên tưởng về bối cảnh diễn ra câu chuyện đã rất
xưa, nhà văn nhấn mạnh thêm điều đó bằng cách kết thúc như sau: “Vài năm sau trong
vòng tháng Chạp năm xưa đó, ông Ba Hò ra đi biệt tích,…Ba năm sau, có kẻ bảo ông đã
chết bờ chết bụi vì say rượu. Kẻ thì phao tin: ông ra hòn Cổ Tron cất am, lập một môn đạo
mới có kinh kệ riêng, đọc tên nghe khó hiểu nhưng giọng khi trầm khi bổng như hò như
hát. Sự thật ra sao? …Có lẽ vì vậy mà bây giờ ở rạch Chà Tre vùng U Minh Hạ tuyệt nhiên
không còn ai biết hò đúng điệu có lớp lang như hồi xưa nữa”. Kết thúc truyện Hòn Cổ
Tron, Sơn Nam đã tạo ra những dư luận về hành tung cuối cùng của ông Từ Thông như: Có
người cho rằng ông đang đi truyền bá một thứ tôn giáo mới, có giả thuyết đồn rằng ông
thường lân la đến mấy nhà có đàn bà góa, con gái tơ để gạ gẫm.

Cách mở đầu và kết thúc là điểm nổi bật trong nghệ thuật xây dựng kết cấu truyện
ngắn của nhà văn Sơn Nam. Nó tạo ra tính chỉnh thể nghệ thuật, có tác dụng liên kết các
thành phần của cốt truyện với nhau. Đó cũng là cách để nhà văn tổ chức các yếu tố trong
truyện sao cho có giá trị nhất trong việc nêu bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật


Trong nghệ thuật, nếu như tình cảm bao giờ cũng phải chứa đựng tư tưởng thì tư
tưởng bao giờ cũng thấm đượm tình cảm. Vì thế tư tưởng của tác phẩm không thể là tư
tưởng khô khan thuần túy mà phải biến thành khát vọng, thành cảm hứng. Trong tác phẩm
văn học, nhà văn có thể trực tiếp phát biểu tư tưởng, quan niệm của mình trong những trang
chính luận, có thể thông qua lời người kể chuyện hoặc nhân vật đóng vai trò đại diện, phát
ngôn cho tác giả. Thông thường tư tưởng tình cảm của nhà văn được thể hiện trong chính
hình tượng nghệ thuật: trong các chi tiết nghệ thuật, trong cốt truyện, trong cách xử lý
không gian và thời gian nghệ thuật và nhất là trong cách xây dựng nhân vật” [39, 15]. Khi
xây dựng truyện ngắn, Sơn Nam để cho các nhân vật hành động, nói năng, quan hệ với
93
nhau theo những nét tính cách đặc trưng vốn có và theo từng hoàn cảnh thực tế. Đó là hình
thức tốt nhất để nhà văn tỏ thái độ của mình một cách khách quan. Qua đó người đọc có thể
nhận ra quan điểm nhân sinh của người cầm bút. Những nhà văn lớn bao giờ cũng là những
nhà tư tưởng lớn. Vì thế giá trị của mỗi tác phẩm không phải chỉ ở tính hiện thực mà còn ở
tầm tư tưởng của nó.

Hình tượng nhân vật là kết quả của quá trình sáng tạo có tính chất hư cấu của tác giả
văn học. Nhân vật truyện, đặc biệt là nhân vật chính, là nơi tập trung giải quyết các vấn đề
trong một sáng tác đồng thời cũng là đối tượng giúp nhà văn bộc lộ tâm tư tình cảm của
mình. Nhân vật được miêu tả trong truyện có thể là con người với tư cách là chủ thể sáng
tạo, cũng có thể là con vật đã được nhân hóa về mặt tính cách, ngôn ngữ hay năng lực nhằm
để chuyển tải tư tưởng tình cảm của nhà văn. Thế giới nhân vật truyện ngắn Sơn Nam bao
gồm cả con người và loài vật trong đó chủ yếu vẫn là con người. Nhân vật được nhà văn
chú tâm xây dựng là hình ảnh những người nông dân Nam Bộ. Họ là những mẫu người
bình dân đa phần là dân nghèo và một số ít là trung lưu trong xã hội. Bằng ngòi bút của
mình, Sơn Nam đã thành công khi đưa những người nông dân nơi ruộng vườn sông nước
bước vào những trang văn với một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc. Và chính họ đã để lại dấu ấn
cho người đọc về những nét đặc trưng của con người Nam Bộ trên nhiều phương diện khác
nhau.

3.2.1 Thế giới nhân vật phong phú và đa dạng


Với hơn 60 công trình biên khảo và sáng tác, Sơn Nam xứng đáng là một cây đại thụ
của văn học Nam Bộ. Trong tác phẩm của ông, hình ảnh về người Nam Bộ hiện lên với
những nét đặc trưng cả về phẩm chất đạo đức, lối sống, cách ăn ở, sinh hoạt hàng ngày đến
sự ảnh hưởng từ những biến cố và tác động của thời thế. Với sự trải nghiệm và một vốn
sống phong phú, Sơn Nam đã tạo ra những trang văn đồng thời cũng chính là những trang
đời. Đọc truyện Sơn Nam, ta càng hiểu rõ hơn con người Nam Bộ trong một cội chung của
dân tộc Việt Nam. Có thể nói, đây là một cây bút đa phong cách, ông có thể viết được nhiều
thể loại, tuy vậy có thể khẳng định truyện ngắn là thế mạnh của Sơn Nam. Ở đó, Sơn Nam
đã dựng nên một thế giới nhân vật phong phú và đa dạng với đủ các thành phần xuất thân
từ những người nông dân chân lấm tay bùn, những người chuyên gặt lúa mướn, những
người làm nghề ăn ong, nuôi cá đến những người buôn bán nhỏ lẻ và cả hệ thống những
hương chức hội tề làng xã thời xưa,... Qua từng nhân vật, từng mảnh đời, nhà văn đã hướng

94
người đọc đến vùng đất Nam Bộ xưa với những con người ăn ở nhân ái nghĩa khí, sống
đoàn kết, chân thành.

Đối với người cầm bút “song song với vốn văn hóa, văn học, với những hiểu biết
tiếp thu từ sách vở, nhà văn phải có vốn sống phong phú, phải có kinh nghiệm về cuộc đời”
[23, 113]. Thiếu tri thức sách vở tác phẩm dễ thô kệch, nhưng thiếu tri thức thực tế, thiếu
hơi thở của đời sống, tác phẩm dễ rơi vào lối mòn sáo, khó có tính độc đáo, mới lạ, vốn
được xem là dấu hiệu đáng tin cậy nhất của tài năng nghệ thuật. Chính hiểu biết thực tế,
vốn sống, sự trải nghiệm lại tạo cho nhà văn cảm hứng, chất liệu sáng tạo trực tiếp, sự sinh
động, hấp dẫn của tác phẩm. Những năm tháng sống, chịu khó đi nhiều, khéo nắm bắt và
tra cứu, Sơn Nam mới có được một vốn sống cực kỳ phong phú về vùng đất Nam Bộ.

Đọc truyện ngắn Sơn Nam, người đọc được tiếp xúc với những người Nam Bộ đủ các
thành phần, hạng người, nghề nghiệp: giàu sang có, nghèo hèn có, công chức có, trí thức
có, địa chủ, nông dân, thương gia cũng có,… Ông am hiểu những nghề có tính đặc thù gắn
với vùng đất, như nghề: thương hồ, tằn khạo, trị rắn cắn, làm ruộng dạo, bắt sấu, bẫy chim,
ăn ong, đánh bắt cá, len trâu, làm vườn, ruộng, rẫy,… Ba tộc người được ông đề cập thường
xuyên trong các tác phẩm của mình cũng là chủ nhân của vùng đất Nam Bộ này: Kinh,
Hoa, Khmer. Ông nắm bắt được từng phong tục, tập quán, lễ hội của họ: Tết cổ truyền,
ngày Lễ cúng trăng, ngày đua ghe ngo, ngày bổ tróc, ngày giỗ ông bà, thần thánh, kiêng
kị,…

3.2.1.1 Trước tiên, phải kể đến những con người dũng cảm, mưu trí, gan dạ, sẵn
sàng đối mặt với những khó khăn nguy hiểm, đứng ra diệt trừ những loài thú dữ mang lại
sự yên bình cho nhân dân. Đó là ông Năm Hên trong truyện Bắt sấu rừng U Minh Hạ, ông
Năm Cháy, ông Năm Tự trong Con heo khịt, chú Tư Đức trong Sông Gành Hào,… hoặc
hình ảnh về những ông già Nam Bộ khỏe mạnh và lao động cần cù siêng năng như ông Từ
Thông trong Hòn Cổ Tron, ông Năm xay lúa trong truyện Ông già xay lúa,.... Hay đó là
hình ảnh về những con người tốt bụng giàu lòng nhân ái như: ông già Hy trong Ngày hội
ba khía, lão Ngượt trong Vẹt lục bình, lão Bích trong Chuyện rừng tràm… Ngoài ra,
truyện ngắn Sơn Nam còn xuất hiện những nhân vật đóng vai trò là người kể lại một câu
chuyện, một mảnh đời, một thú vui coi hát xưa kia của dân Nam Bộ. Đó là những người
mang trên đôi vai mình trọng trách nhắc nhở lớp con cháu đời sau ý thức giữ gìn những loại
hình văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là ông Năm trong Vọc nước giỡn trăng, ông Tư
trong Tình bậu muốn thôi, …. Hay đó chỉ là những người nông dân hiền lành, chất phác,
95
thật thà, quanh năm gắn với ruộng vườn sông nước như vợ chồng chú Tư Đinh trong Mùa
len trâu, chú Tư Đạt trong Miễu bà chúa xứ,… Những nhân vật thuộc hệ thống hương
chức hội tề làng xã xưa kia cũng được Sơn Nam dựng lên đầy đủ trong các truyện ngắn
như: Nhứt phá sơn lâm, Ông già xay lúa, Bức tranh con heo, Chuyện năm xưa, Hồn người
trong ly rượu, Con trích ré, Cậu Bảy Tiểu, Cấm bắt rùa, Kéo trúm, Lũ trẻ chăn trâu,…
Nam Bộ là nơi có ba tộc người cùng sinh sống với nhau, bên cạnh người Kinh còn có người
Hoa, Khmer. Tuy vậy, họ luôn sống đoàn kết nhân ái và đùm bọc lẫn nhau. Trong một số
truyện ngắn Sơn Nam cũng đã đề cập đến các nhân vật như hình ảnh về Lục cụ Tăng Liên
trong Chiếc ghe ngo, về ông Chòi Mui trong Đại chiến với thầy Chà, ông Bang cà ròn
trong truyện ngắn cùng tên; những người Hoa kiều như như anh Xìn Phóc, vợ chồng chú
Hai, chú Biện Tống, chú Chệt Ky... Ngoài ra thấp thoáng trong một vài truyện ngắn, Sơn
Nam còn nhắc đến một loại nhân vật đó là những tên giang hồ lưu manh, những tay bịp
bợm, những tên anh chị đại ca hoành hành trong vùng như: Đơn Hùng Tín, cậu Hai, cậu
Bảy Tiểu, ông Nguyen Huu Henry, anh Giáo Trích,…

Một trong những nhân vật xuất hiện với tần số cao nhất trong truyện ngắn Sơn Nam
đó là những người lớn tuổi – những ông già nông dân Nam Bộ. Đó là những người đã có
nhiều trải nghiệm từ cuộc đời với những hạnh phúc và cay đắng, biết cách đối nhân xử thế
vì họ thấy rằng cuộc đời mỗi người có hạn, lại phải đối mặt với mưu sinh. Nhân vật của
Sơn Nam nói năng khiêm cung, như tự hạ mình, nhưng thực ra bên trong họ có những trí
khôn và sức mạnh tiềm tàng. Những ai từng quen biết Sơn Nam đều thấy nhân vật trong
truyện ngắn của ông đều thấp thoáng bóng dáng tác giả. Bề ngoài Sơn Nam gầy gò, nói
năng nhỏ nhẹ, nhưng đó là cách ông giấu mình để được yên ổn hành nghề, cái nghề đã trở
thành nghiệp mà ông yêu thích. Thông thường, đây cũng chính là nhân vật chính của
truyện. Họ đóng vai trò là người dạy bảo con cháu cách ăn ở, truyền lại những kinh nghiệm
sống, giải quyết các xung đột mâu thuẫn hoặc giúp đỡ cưu mang những người có hoàn cảnh
khó khăn,... Trong thế giới nhân vật phong phú đa dạng của Sơn Nam, đây có lẽ là kiểu
nhân vật giúp nhà văn thể hiện rõ nhất tư tưởng tình cảm của mình.

Trong câu chuyện cảm động Một cuộc biển dâu, Sơn Nam để cho nhân vật ông Hai
Tích đóng vai trò là đầu mối câu chuyện, ông đứng ra lo liệu chôn xác lão Bích theo kiểu
treo lên cây chờ nước giựt xuống mới đem chôn. Ông Hai Tích rưng rưng nước mắt khuyên
thằng Kìm: “Cháu đừng khóc. Trời định vậy. Ở đây ai cũng vậy; người có của ai tới xứ
này? Trách cha, trách mẹ, trách trời là thêm tội. Cháu thắp nhang đi, lạy không được thì xá

96
ba xá”. Nhân vật ông Tư Đạt (Miễu bà Chúa Xứ) là một trong những người sống lâu năm
ở gò Mả Lạn, Đìa Gừa. Sau trận giặc Tây càn quét nghĩa quân Nguyễn Trung Trực tại
huyện Châu Thành, cả xóm Gò Mả Lạn bị bao vây và bị giết chết chỉ còn sót lại một cậu bé
chăn trâu. Ông Tư Đạt là nhân chứng sống của câu chuyện lịch sử, là người lập miễu thờ bà
Chúa Xứ. Ông đã sống cả cuộc đời mình ở cái chốn mà người ta đồn là có rất nhiều ma, chỉ
để làm công việc giữ nhang khói cho miễu, cầu siêu cho những người dân lành chết oan
trong trận càn năm xưa. Bởi ông nghĩ: “mình ở đây nghèo nhưng mà vui”. Nhiều đêm vẫn
thói quen rất Nam Bộ, ông nằm nói thơ Vân Tiên một mình mà vẫn không đỡ buồn. Ông lại
đi tới đi lui, đứng trước sân nhìn trời đất đồng ruộng và ngẫm nghĩ về cuộc đời về con
người. Đó là suy nghĩ của một người đã trải qua rất nhiều thăng trầm, chứng kiến nhiều
cảnh đời bất hạnh và cũng là suy nghĩ của những người đã đến cái tuổi luôn muốn gắn chặt
với quê hương xứ sở. Ở một truyện ngắn khác, theo cách dẫn dắt rất thú vị của người kể
chuyện thì Ông Tư (Tình bậu muốn thôi) là người được giao cho trọng trách “nói chuyện
đời xưa nghe chơi”. Thực ra Sơn Nam đã để cho nhân vật ở cái tuổi gần đất xa trời ấy
truyền lại cho lớp hậu thế những câu hò, điệu hát mà ông lo rằng sau này sẽ bị “tam sao thất
bổn”. Ẩn trong lời giới thiệu khá bài bản về lối hát thai đố của người kể còn là một bài học
làm người ở đời. Ông thẳng thắn cho rằng sự tam sao thất bổn thật ra cũng chấp nhận được
miễn sao không làm mất ý nghĩa luân lý. Với mục đích răn dạy đạo lý cho lớp con cháu đi
sau và mong muốn lưu giữ lại một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Sơn Nam
đã chọn nhân vật đảm nhận vai trò này là một người đã có tuổi. Nếu không có sự cân nhắc,
lựa chọn nhân vật một cách có ý thức như vậy, truyện ngắn này khó mà đạt được điều tác
giả muốn gửi gắm.

Cũng có khi Sơn Nam xây dựng nhân vật với một mục đích thật rõ ngay từ đầu.
Nhân vật ông Ba Hò (Ngày xưa tháng Chạp), xuất hiện chỉ để giải thích một câu hò, điệu
hát Nam Bộ. Ngay từ cách đặt tên nhân vật, tên truyện đã cho thấy dụng ý của nhà văn. Cái
thời “ngày xưa tháng chạp” lững lẫy cả một vùng không còn nữa, giờ đây ông Ba Hò sống
trong hoài niệm là chính. Bài học mà ông để lại cho lớp con cháu đi sau thật giản dị mà sâu
sắc: “Không ai giỏi hơn ai mà hòng gỡ rối cho ai… Đó là cuộc đời”. Ngày xưa ông cũng
từng một thời ngạo nghễ vì cái tài hò hát của mình có lẽ vì vậy ông tỏ ra thông cảm và hiểu
hơn cho sự cao ngạo của thằng Tịnh hay cô gái mới lớn kia. Âu cũng là sự đời và là con
người. Ông chỉ buồn vì “đời bây giờ lộn xộn quá, chớ hồi đó, hò có lớp lang đầu đuôi”.

97
Trong nhiều truyện ngắn khác, hình ảnh những ông già Nam Bộ còn hiện lên dưới
nhiều vai trò khác nhau. Đó là Lão Ngượt (Vẹt lục bình) ở xứ Tràm Trốc, nơi rừng tràm,
nước mặn, muỗi mòng ai cũng chê. Lão Ngượt là người có tấm lòng nhân ái, đã giúp đỡ
Hai Cần, một thanh niên từ xa đến lập nghiệp, vượt qua bao khó khăn thử thách để đến
được nơi hỏi cưới cô Hiếm. Đó còn là hình ảnh về ông Năm Điền (Cây huê xà) trong vai
trò của một người cha đối với cô con gái đang vào tuổi cập kê: “Ba nói thiệt với con, làm
thân con gái phải giữ gìn thân thể. Không khéo, lỡ bề gì nhơ nhuốc danh giá dòng họ. Con
thương nó thì phải cho ba hay để ba bắt buộc nó thương con”. Hay trong truyện Vọc nước
giỡn trăng đó là nhân vật ông Năm Lượng, một người giỏi ca hát đối đáp. Trong hàng trăm
cái nghề như đốn củi, bắt rùa, bắt rắn, ăn ong, gặt lúa, làm mắm,…ông đã chọn và dạy cho
thằng Điệu, một thanh niên mới lớn “nghề hát huê tình”. Theo ông đó là nghề tao nhã trong
sạch và cần được lưu giữ cho đời sau,…

Khi xây dựng kiểu nhân vật này, Sơn Nam chú trọng vào xây dựng ngôn ngữ và
hành động của nhân vật sao cho đạt hiệu quả nhất. Ông đặt vào vai họ những trọng trách
cao cả như việc gìn giữ phong tục tập quán và những giá trị đạo đức tốt đẹp, dạy dỗ lớp con
cháu cách sống, cách ăn ở sao cho hợp lòng người. Đặc biệt, qua những câu chuyện ở mảng
đề tài khai phá mở đất, những nhân vật ông già cũng chính là người trực tiếp nhắc nhở thế
hệ sau phải biết nhớ đến quê hương nguồn cội, biết thờ cúng ông bà tổ tiên, biết giữ gìn và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp. Người đọc có thể dễ dàng nhận ra cách thức tác
giả tự bộc lộ rõ ý đồ sáng tác của mình. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng với một ngòi bút có
tài và có kinh nghiệm như Sơn Nam, ông đã khéo léo tránh cho nhân vật của mình trở thành
những nhân vật chỉ đóng vai trò minh họa cho một ý đồ chủ quan của bản thân người sáng
tác. Việc hiểu rõ người nông dân Nam Bộ với những đặc điểm: chân chất mộc mạc, thẳng
thắn và bộc trực đã giúp Sơn Nam khắc họa một cách thành công nhất về họ. Những nhân
vật ông già trong truyện ngắn Sơn Nam đều là những hình ảnh gần gũi và quen thuộc trong
đời sống hàng ngày của con người vùng sông nước. Phần nào đó còn chính là hình ảnh của
tác giả Sơn Nam - một người tự nhận mình là một “ông già nông dân Nam Bộ”. Một cách
rất khách quan, Sơn Nam đã phần nào thể hiện thành công ý đồ sáng tác của mình như ông
đã phát biểu nhân dịp nhà xuất bản Trẻ cho tái bản cuốn Hương rừng Cà Mau năm 1999:
“Viết truyện ngắn, phải vận dụng nội lực nhằm toát lên cái phong thái nô đùa, thong dong,
thậm chí ngây ngô, nhưng là cái ngây ngô khổ luyện, có định hướng” [48, 6]. Với quan
điểm chặt chẽ và có định hướng ngay từ đầu như vậy, Sơn Nam đã thành công khi dựng lên

98
những câu chuyện về đất và người Nam Bộ. Đọc truyện ngắn Sơn Nam người đọc cảm
nhận được sự chân thực, hồn nhiên, thậm chí theo cách nói của tác giả là “ngây ngô”. Điều
đó được tạo nên bởi những gì ông viết đều là “vốn sống, vốn văn hóa của một con người
lịch lãm, dường như ông không viết truyện mà đang trải lên trang văn khung cảnh thiên
nhiên, cuộc sống hàng ngày ở xung quanh mình” [76, 705].

3.2.1.2 Ngoài ra, qua những truyện ngắn của mình, Sơn Nam còn dành cho những
nhân vật là phụ nữ và trẻ nhỏ một vị trí đáng kể. Trên cơ sở thống nhất với hình ảnh con
người Nam Bộ, hình ảnh những nhân vật phụ nữ và trẻ nhỏ xuất hiện đã làm cho bức tranh
về đất và người Nam Bộ của Sơn Nam trở nên hoàn chỉnh. Nhân vật con Bảy đưa đò đã
sống cả cuộc đời mình trên con rạch Cái Mau để chờ đợi “một tấm lòng” của chàng trai xứ
Bình Thủy. Con Bảy làm nghề chèo đò trên sông để kiếm sống, lại là người có tài hát đối
đáp nổi tiếng trong vùng nên được rất nhiều người tới lui để ý. Nhưng người con gái ấy đã
ưng một chàng trai xa lạ bởi lẽ lời ca tiếng hát đã giúp đôi bạn trẻ gần nhau hơn (Con Bảy
đưa đò). Trong truyện ngắn Sơn Nam, hình ảnh người phụ nữ xuất hiện đơn lẻ như thế
không nhiều. Trái lại, nhà văn thường xây dựng nhân vật này đi kèm với nhân vật “ông
già”, để biểu thị trước hết là mối quan hệ cha con, sau đó là mối quan hệ tình cảm với một
loại nhân vật khác là những thanh niên trai tráng từ nơi khác đến lập nghiệp. Đó là hình ảnh
về cô Một và lão Bích trong truyện Chuyện năm xưa, cô Mịn và ông Tư Châu Xương
trong Nhứt phá sơn lâm, cô Hoàng Mai và ông hương giáo trong Truyện rừng tràm, cô
Ngọc và ông già Hai trong Mây trời và rong biển, cô Kim Em và ông Tư trong Cái tổ ong,
cô Lài và ông Năm Điền trong Cây huê xà,… Dù chỉ đóng vai trò là nhân vật phụ, song
hình ảnh của họ cũng góp phần giúp ta nhận ra dụng ý nghê thuật của nhà văn Sơn Nam.
Đó chính là cách để nhà văn khắc họa những mối quan hệ giữa những con người với nhau
trong xã hội. Qua đó làm bật lên một đặc điểm khá quan trọng về vùng đất và con người
nơi đây: Mảnh đất Nam Bộ khi mới hình thành là nơi đặt chân đến của nhiều thành phần cư
dân phức tạp; người Nam Bộ sống nghĩa tình, luôn yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.

Nhân vật trẻ nhỏ chỉ xuất hiện thoáng qua trong truyện ngắn Sơn Nam. Dù vậy vai
trò của nó không hề nhỏ. Đây chính là thế hệ sẽ tiếp tục khai phá và phát triển mảnh đất còn
nhiều bí ẩn này. Đó là nhân vật thằng Kìm trong Một cuộc biển dâu, thằng Nhi trong Mùa
len trâu, Điệu trong Vọc nước giỡn trăng, thằng Hon và lũ trẻ chăn trâu (Lũ trẻ chăn
trâu), nhân vật “tôi” trong Con sấu cuối cùng, Miễu bà chúa xứ đám trẻ nhỏ trong truyện
Tình bậu muốn thôi,… Dưới ngòi bút của Sơn Nam, những nhân vật trẻ nhỏ đã sớm phải

99
đối mặt với cuộc sống thay vì được học hành tử tế. Dù vậy, thằng Kìm vẫn nên người và
biết theo Tư Hưng đi ăn ong, đốn củi ở ven rừng U Minh; thằng Điệu đã trở thành một
thanh niên hát huê tình nổi tiếng trong vùng,… Khi mà trường học chưa được mọc lên trên
vùng đất mới khai phá, khi mà cuộc sống con người còn bao nhiêu những vất vả khó khăn
thì những đứa trẻ chưa thể được hưởng những điều kiện tốt nhất.

Truyện ngắn Sơn Nam đạt được sức khái quát hiện thực lớn là nhờ vào việc xây
dựng một thế giới nhân vật phong phú. Qua đó, bức tranh toàn cảnh về cuộc sống của
người dân Nam Bộ như hiện lên đầy đủ trước mắt bạn đọc. Nhân vật truyện ngắn Sơn Nam
xuất hiện trong tác phẩm ở một góc độ nào đó như thoáng qua nhưng ấn tượng đọng lại thì
tuyệt nhiên không phải chỉ trong chốc lát. Những bài học từ cuộc đời, những câu chuyện về
tình người đọng lại thật sâu sắc trong lòng người đọc, giúp họ hiểu hơn về những con người
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhận ra điều giản dị mà sâu sắc đó ta càng trân trọng
nhân cách và tài năng của nhà văn Nam Bộ đáng kính này.

3.2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố ngôn ngữ
Cách nói của người dân ở một địa phương thường phản ánh những đặc trưng của
môi trường mình đang sống. Nói khác đi, những cảm nhận quen thuộc của họ bao giờ cũng
được thể hiện qua cách diễn đạt của mình. Với người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long,
môi trường sông nước miệt vườn đã tạo cho họ một cách nói tương ứng. Trong điều kiện
giao lưu, tiếp nhận những bản sắc độc đáo riêng từ cách nói của người dân mỗi miền, cách
nói của nhân vật trong truyện ngắn Sơn Nam nói riêng và của người Nam Bộ nói chung
phần nào đẽ thể hiện được nét đặc trưng của người dân vùng sông nước, đồng thời góp
phần làm phong phú thêm cho cách diễn đạt của tiếng Việt toàn dân.

Phương ngữ Nam Bộ tuy giàu sắc thái biểu cảm nhưng cũng có khi gây cho người khác
địa phương một sự khó hiểu. Có nhà nghiên cứu đã xem “ngôn ngữ nhân vật trong truyện
ngắn Sơn Nam là đặc sản của phương ngữ Nam Bộ” [89, 389]. Cách đối thoại của nhân vật
trong truyện ngắn Sơn Nam đã bộc lộ những nét riêng trong lối sống và cách cư xử của
người dân Nam Bộ, thể hiện văn hóa vùng miền của chính họ. Ngôn ngữ nhân vật (chủ yếu
là ngôn ngữ đối thoại) trong truyện Sơn Nam là ngôn ngữ thường nhật của người dân Nam
Bộ. Nó thể hiện được tính cách và tâm lý ứng xử của họ trong cuộc sống, đó là sự bộc trực,
mộc mạc, dân dã, tính hào hiệp, trọng nghĩa,…

100
Đây là một đoạn đối thoại thú vị trong truyện Mùa len trâu, một truyện ngắn đã
được chuyển thể thành phim:

Chú Tư Đinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa
to hơn sắp kéo đến:

- Ừ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết…

Thím Tư phản đối chồng:

- Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, cái hũ trôi lểnh
nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết…”

Chú Tư chờ thằng Nhì vào nhà. Nó cởi cái áo ướt mem quăng trên sàn:

- Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hở ba? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ
ghèn hoài.

Chú nói:

- Bên giòng cát Sóc Xoài… Mày có qua tới không?

- Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư
tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ đây tới nước giựt còn ba tháng nữa, làm sao chịu nổi.

Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu cho họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản.
Bây giờ tới nước này rồi,…

Trong một gia đình nông dân Nam Bộ điển hình như nhà chú Tư Đinh, mọi người có
cách ăn nói quá “bình đẳng, dân chủ” mới nghe tưởng như thiếu tính “lễ nghi, thứ bậc, tình
cảm” nhưng xét kĩ đối với nông thôn Nam Bộ thì điều ấu cũng thật bình thường. Đó chính
là những lời nói chân chất, bình dị như chính cuộc đời họ vậy.

Ông bà hương trưởng Neo vốn là những người nông dân nghèo khó, cơ cực nhờ chi
li tính toán mà họ trở nên khá giả (Bức tranh con heo). Trong một chuyến ra chợ, ông bà
đã tính toán tất cả mọi thứ sao cho tốn ít chi phí nhất. Thức ăn và nước uống mang theo
dùng đủ cho cả ngày, thậm chí còn dư mang về. Đoạn đối đáp sau đây của họ khi đã bước
chân lên chợ cho ta thấy rất rõ đặc điểm của những người nông dân:

- Kiếm chỗ nào nghỉ chân một chút.

- Nãy giờ tôi cũng như bà. Mỏi quá. Mình vô quán ăn.

101
- Bộ ông đói hả?

- Mình mượn cái ghế mà ngồi …tạm. Họ tính bao nhiêu thì mình trả. Vài cắc bạc,
chớ không lẽ nhiều.

- Phải à, kiếm một quán nào nho nhỏ. Uống bậy chén nước trà Huế, không chừng
rẻ hơn.

Hay đoạn đối thoại sau giữa thằng Lợi và con Lài trong truyện Cây huê xà:

Thằng Lợi day lại cười:

- Đi đâu vậy cô hai … rắn bông súng?

Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc. Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:

- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười
em làm chi.

- Rắn đâu dám cười rắn. Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài.

Cách nói của con Lài và Thằng lợi mang đậm chất dân dã, mộc mạc, không hoa mĩ,
trau chuốt bằng những lời hay ý đẹp của những đôi trai gái yêu nhau.

Nhiều đoạn đối đáp trong truyện Ngó lên Sở Thượng đã để lại ấn tượng không nhỏ
trong lòng ngưới đọc về đặc điểm của con người Nam Bộ. Nhân vật “tôi” trong “chuyến đi
tiêu dao nhiều phen” đã gặp lại Tư Đinh, một người bạn ở Cần Thơ hồi còn “tiền khởi
nghĩa”, bây giờ sống sung sướng, nhà cửa cáo ráo, vợ con đề huề. Khi nhận ra nhau, họ đã
hết sức chân tình, cởi mở, tối hôm ấy Tư Đinh còn nấu hẳn một nồi chè đậu xanh với sữa
để đãi bạn:

Vừa gặp tôi, thằng Đinh hò reo:

- Hay quá ta! Thời buổi này, gặp nhau là điều sung sướng. Làm tới chức gì rồi?

Tôi đáp:

- Ở không, chơi lai rai. Còn mày?

- Cũng vậy thôi. Miễn là không theo Tây. Vô nhà chờ.

Nhà giống như căn chòi, cất tạm nhưng bày biện khéo léo. Thằng Đinh cho biết:

- Mới dời về đây chừng hai tháng. Bề ngoài coi vậy chớ nội dung còn bảnh lắm.

102
Người Nam Bộ luôn hiếu khách và tiếp đãi bạn bè hậu hĩ. Dù họ giàu hay nghèo thì
những người từ nơi khác đến vẫn được đối xử tử tế, dành cho những miếng ăn ngon nhất,
chỗ ngủ tốt nhất.

Còn đây là truyện Cô Út về rừng, một trong những truyện ngắn hay của Sơn Nam
được nhiều người biết đến. Câu chuyện Cô Út về làm dâu về xứ Cạnh Đền mang đến cho
người đọc nhiều cảm xúc về tình người, về mối quan hệ ruột thịt trong gia đình. Qua truyện
ngắn này, Sơn Nam như mời gọi người đọc đến một gia đình Nam Bộ điển hình để nghe
tâm sự của những bậc làm cha làm mẹ khi gả con gái đi xa:

- Ông hút điếu thuốc, chập sau mỉm cười, đắc thắng. Bà day lại:

- Ông gả thì gả đi. Đường xá xa xôi làm sao nó về thăm mình được. Nãy giờ tôi quên
chuyện đó.

- Dễ ợt. Miễn con gái mình có hiếu.

Bà Cả bỏ đi chỗ khác còn day lại nói một câu:

- Để coi nó nhớ hay quên. Xuống miệt Cạnh Đền, muỗi ăn thịt nó. Nó bỏ thây ở đó,
hai ba năm chưa chắc về thăm mình một lần. Lần hồi mất gốc rễ, nó nhè lấy tên mình đặt
trúng cho con cháu nó mà không hay.”

Ở truyện Con cá chết dại, Sơn Nam sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc
trong đoạn đối thoại giữa nhân vật Hồng, người phụ nữ đã “xa” chồng mười năm đang ở
vậy nuôi con và anh Hai Tỵ, người cũng đang trong hoàn cảnh cô đơn:

Anh muốn “quá giang” qua sông?

…Cô lầm rồi. Tôi mời cô lên bờ.

Huệ tức giận lên tiếng để hỗ trợ với mẹ:

- Ổng không quá giang thì mình cứ bơi tới, hơi đâu mà hỏi.

Hồng không nghĩ rằng mình là kẻ đang yếu thế. Tuy “mẹ góa con côi”, nàng đã
nuôi con đến khôn lớn. Nàng dám xuống miệt này để gặt lúa và làm mắm, bất chấp đường
xa.

- Ủa! Bơi đi đâu lạ vậy? Tôi đâu phải ăn cướp. Tôi là đứa biết điều giàu lòng nghĩa
hiệp. Đời tôi cô độc lắm. Tôi nhảy xuống rạch bây giờ!

103
Đòi tự tử để hăm dọa kẻ giàu tình cảm chăng?Hồng mỉm cười để lộ hai má lúm
đồng tiền:

- Chết đâu chết phứt đi. Lì lợm quá. Để người ta làm ăn.

Hai Tỵ nói:

-Tôi nhảy xuống rạch để níu chiếc xuồng của cô.

- Đủ rồi nghen! Đừng nói dai.

Tính bộc trực thẳng thắn được thể hiện rõ trong lời nói của nhân vật Hai Tỵ, còn cô
Hồng hiện lên là người phụ nữ góa chồng nhưng đứng đắn và khá đáo để trong cách nói
năng đối đáp. Đoạn đối thoại còn để lại chút dư vị hài hước hóm hỉnh qua lời nói bông đùa
của nhân vật Hai Tỵ. Quả thật cách ăn nói có phần táo tợn của anh đã làm cho người khác
phải để ý đến mình.

Đoạn đối thoại sau giữa Tư Bình Thủy và cặp rằng Be (Nhứt phá sơn lâm) lộ rõ lên
tính cách của con người Nam Bộ. Khi anh Tư Bình Thủy đang kể chuyện xứ mình và nói
vài câu thơ Vân Tiên cho đám tay rìu rừng U Minh cùng nghe thì cặp rằng Be xuất hiện.
Hắn chống xuồng từ trong rừng đi ra, hất hàm lên:

-Ê, Tư Bình Thủy nói dóc cái gì đó? Thằng này bữa nay bày đặt o mèo nữa hả? Thi
phú của mày ăn nhập vào đâu?

Tư Bình Thủy trợn mắt nhìn cặp rằng Be. Hắn nhếch mép:

- Nói chơi không được hả? Tao cho mày hay: cô Mịn muốn có hạnh phúc thì hãy tìm
một người giống như tao. Cô sẽ có áo bông quần lãnh.

Rồi hắn day lại nhìn cô Mịn mà cười:

Phải vậy không cô Mịn? Cưa củi làm chi mà áo rách vai, rách ngực. Người ta thấy
da, thấy thịt của cô kìa…cô dòm lại coi…trắng xát.

Nhanh như chớp Tư Bình Thủy xách búa lội nước đùng đùng lại gần xuồng cặp
rằng Be mà chửi:

- Ỷ làm cặp rằng hả? Đồ tục tĩu! Tao chém mày!

Trong những trường hợp điển hình, đụng chạm đến danh dự và quyền lợi của họ,
những người dân nghèo Nam Bộ như anh Tư Bình Thủy lại bộc lộ sự thẳng thắn và có

104
những hành động rất nóng nảy. Họ không thể bằng lòng và không chịu để yên cho những
kẻ ăn nói tráo trở, hành động xấc xược như tên cặp rằng Be chẳng hạn.

Nắm bắt được vai trò quan trọng của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học, Sơn
Nam đã chú ý xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của mình luôn đi kèm ngôn ngữ với
hành động. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, cách nói của họ luôn tương ứng với hành động họ
sẽ làm. Từ đó, giúp người đọc có thể nhận ra đặc điểm về tính cách của con người Nam Bộ.
Để đạt được sự nhất quán cao độ trong cách thức xây dựng nhân vật như trên, Sơn Nam hẳn
đã phải làm việc rất vất vả. Đây chính là một trong những điểm đáng ghi nhận của nhà văn
Sơn Nam.

3.2.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố ngoại hình
Nhân vật truyện ngắn Sơn Nam có diện mạo bên ngoài rất bình thường nhưng những
suy nghĩ và hành động của họ luôn đậm đà tình người và tỏ ra khí phách, nghĩa tình trong
cách cư xử giữa con người với nhau. Trong một số truyện, nhà văn đặc biệt chú ý thể hiện
hình ảnh người nông dân Nam Bộ. Bản thân Sơn Nam vốn xuất thân từ ruộng vườn sông
nước vì vậy dù định cư lâu dài ở đô thị Sài Gòn nhưng chất nông dân đã ngấm vào máu thịt
và con người ông như một thuộc tính cố hữu. Sơn Nam là người có ưu thế khi viết về đất
và người Nam Bộ bởi lẽ ông không chỉ là người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này mà
ông còn có một tình yêu tha thiết đối với quê hương xứ sở.

Hầu hết các nhân vật truyện ngắn Sơn Nam đều có số phận nghèo khổ, cơ cực. Trong
buổi đầu đi khai phá vùng đất mới, họ gặp phải vô vàn khó khăn, trở ngại, phải hàng ngày
chống chọi với sự khốc liệt, hung dữ của thiên nhiên để bảo tồn tính mạng và duy trì cuộc
sống. Tưởng chừng con đường sống của những kiếp người bé nhỏ ấy đã lâm vào ngõ cụt.
Thế nhưng không phải vậy. Trong gian lao, ở những gương mặt, những tâm hồn đôn hậu,
chân chất đó vẫn ngời lên một niềm tin và sức sống mãnh liệt. Và giữa thiên nhiên ấy, chân
dung con người Nam bộ hiện lên qua những hình ảnh dung dị trong cuộc sống đời thường
của họ - cuộc sống lao động khỏe khoắn với một bản sắc riêng; những xóm làng, những
dòng kinh, những cô gái quanh năm đưa đò và ca những điệu hò trên sông nước, những
cuộc đua ghe ngo sôi động và căng thẳng, những đàn trâu bì bõm len đi tìm cỏ trên đồng
nước mênh mông, cách “câu” rắn bằng rượu đế, cách khai thác sân chim, hay cái thú ngồi
trong bụi rậm suốt ngày suốt buổi, chờ đợi để quan sát một chú chim cu sập bẫy vì ghen
tiếng hót,… Đó là những “hình ảnh đặc trưng của người dân đồng bằng sông Cửu Long,

105
được tác giả phản ánh với một nguồn văn liệu giàu có, phong phú thông qua những chi tiết,
tình huống hấp dẫn” [29, 91].

Có thể khẳng định, viết về con người Nam Bộ nhưng Sơn Nam đã không chú trọng
nhiều vào việc khắc họa ngoại hình của họ. Ông chỉ điểm qua bằng những nét vẽ thô sơ
nhưng qua đó hình ảnh con người Nam Bộ lại hiện lên một cách rõ ràng và chân thực. Họ
chính là những con người mang những đặc điểm và vẻ đẹp riêng của vùng đồng bằng sông
nước. Cái khó của truyện ngắn là với một dung lượng giới hạn người sáng tác phải thể hiện
được trọn vẹn ý đồ nghệ thuật của mình. Chính vì thế, Sơn Nam đã lựa chọn những nét vẽ
chấm phá một cách thành công để tô điểm hình ảnh về người Nam Bộ. Không cầu kỳ, tỉ mỉ
mà gây được ấn tượng rất chân thực gần gũi cho người tiếp nhận. Đó cũng chính là ưu điểm
của cây bút truyện ngắn này.

Người nông dân đặc trưng Nam Bộ thường được biết đến với hình ảnh bộ quần áo bà
ba đen và chiếc khắn rằn. Trong một số truyện ngắn, Sơn Nam đã chú ý khắc họa ngoại
hình của họ bằng một vẻ đẹp giản dị, mộc mạc. Đó là ông già Hai, người làm nghề trồng
dưa ở xứ biển Hà Tiên. Sơn Nam viết: “Người được gọi là “ông già Hai” tuổi hơn năm
mươi, dáng điệu ốm yếu. Tuy cách xa hàng trăm thước, tôi thấy rõ mái tóc bạc và bộ quần
áo lãnh đen, lấp lánh dưới ánh nắng mai” (Mây trời và rong biển). Đọc truyện ngắn Hòn
Cổ Tron, hình ảnh một ông già Nam bộ hiện lên qua sự miêu tả thật đặc sắc của Sơn Nam.
Đó là một con người đặc trưng của Nam Bộ với “tóc búi sáu ót, gài lại bằng cọng gai kim
quýt nhưng ông có một cảnh ngộ hết sức đặc biệt đó là sống một mình ở hòn, nhiều tháng
liên tiếp phơi lưng trần dưới ành nắng…”. Hay hình ảnh về Bảy Đặng người gốc gác từ xứ
Bò Húc, Cần Thơ cùng gia đình xuống miệt U Minh lập nghiệp. Cuộc sống vất vả khó
khăn, ngoài thời gian làm ruộng vợ chồng Bảy Đặng còn làm nghề bắt rùa để sinh sống.
Mấy năm trôi qua, cuộc sống vẫn không khá lên nổi, thậm chí Bảy Đặng còn chưa đóng
được thuế thân cho nhà nước. Người nông dân Nam Bộ vật lộn với cuộc sống, bán mặt cho
đất bán lưng cho trời ấy được Sơn Nam khắc họa chỉ bằng một chi tiết ngắn gọn: “Một
người trạc tuổi bốn mươi, bước ra từ đám khói mù mịt, lưng đen láng mướt mồ hôi”(Cấm
bắt rùa). Còn đây là sự nhận xét về anh thanh niên Hai Kéo, một nông dân Nam Bộ đang
tuổi lao động dưới con mắt của bà đầm phô-xi-đông: “Hai Kéo vừa trẻ, vừa cao ráo, nước
da đen ngăm, lồng ngực phồng lên no tròn, mặt vuông, chân mày rậm. Nếu anh ta đứng
dậy, thủ bộ thì ắt giống nhưlực sĩ Hy Lạp”(Bà đầm Phô-xi-đông). Rõ ràng Hai Kéo là một
thanh niên nông thôn Nam Bộ với một vẻ đẹp khỏe mạnh và lực lưỡng. Đó còn là vẻ đẹp

106
nhân hậu của con Bảy đưa đò khi người kể chuyện nhận xét: “Con Bảy có gương mặt chữ
điền, đôi mắt đen lánh và vóc người cao ráo” (Con Bảy đưa đò); vẻ đẹp mặn mà của cô
Mịn mơ màng hiện lên trong tâm trí anh Tư Bình Thủy: “…nhớ đến đôi mắt của cô Mịn,
đôi mắt đen như nước rừng, có đôi vì sao chiếu xuống ngời lên lấp lánh” (Nhứt phá sơn
lâm); vẻ đẹp cao sang quý phái của cô Hoàng Mai với “làn da trằng leo lẻo”, “mái tóc đen
huyền”, “má đỏ hây hây”, “miệng chúm chím hàm tiếu”(Hương rừng),…

Nam Bộ là nơi có nhiều tôn giáo lớn cùng tồn tại, bên cạnh đó còn có những đạo chỉ
phát sinh ở khu vực này như đạo Nằm, đạo Dừa, đạo Ớt. Mặc dù không nhiều, nhưng điểm
qua ở một vài truyện ngắn của Sơn Nam người đọc cũng nhận thấy sự xuất hiện thoáng qua
của những loại đạo này. Trong truyện ngắn Đảng “Cánh buồm đen”, Sơn Nam miêu tả
“một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trầm hương từ từ đi lại”. Đó chính là hình ảnh
đặc trưng của một trong số trăm ngàn đạo sĩ ở vùng núi Thất Sơn. Cuối truyện ngắn Hòn
Cổ Tron, bóng dáng ông Từ Thông theo Đạo Tịnh thấp thoáng khi dư luận bàn tán về hành
tung bí ẩn của ông sau ngày giặc Tây và Xiêm hòa hõan với nhau trên hòn Cổ Tron, tứ bề
sóng gió bao quanh.

Thành phần cư dân Nam Bộ rất phức tạp. Đây là xứ sở tụ họp của dân tứ xứ, có gốc gác
cội nguồn đa dạng đến từ nhiều vùng khác nhau. Vùng rừng tràm U Minh xa xôi hẻo lánh
là nơi lý tưởng cho nhiều tội đồ đến lẩn trốn. Ở nơi này ngoài những người dân nghèo đến
làm thuê theo thời vụ còn có sự xuất hiện của những nhân vật là những tay anh chị trong
vùng. Trong một vài truyện ngắn, Sơn Nam đã chú ý khắc họa về vẻ bề ngoài của họ.
Chẳng hạn hình ảnh về những tên “đại ca” cướp của giết người, hoành hành ở miệt Tiền
Giang, Hậu Giang được Sơn Nam miêu tả một cách ngắn gọn trong truyện ngắn Đơn Hùng
Tín chào đời như sau: “Đơn Hùng Tín mặc quần cụt, ở trần, mình mẩy xăm toàn…rồng và
chim phụng hoàng. Ngay giữa ngực anh ta có hàng chữ Pháp, nói lên ý nghĩa cao cả của
cuộc phá khám Bách Ti 1789 ở mẫu quốc xa xôi…Tự Do-Bình Đẳng-Bác Ái. Hình ảnh về
những thanh niên theo đảng xăm mình được nhà văn nhắc đến trong truyện ngắn Đảng xăm
mình. Trong truyện, Thầy hương quản giải thích ngọn nguồn cho ông Tây Lơ Pheo về băng
đảng này như sau: “Họ tự xưng là người “làm ăn lương thiện” ở ngoài mé biển”. Những
người này ở trần, để lộ rõ hàng chữ xăm trên cánh tay, tạm dịch theo chữ Nho là “Ninh thọ
tử bất ninh thọ nhục”.

Ngoài ra, trong một số truyện ngắn Sơn Nam cũng chọn cách điểm qua về hình dáng,
diện mạo của nhân vật làm bật lên đặc điểm bề ngoài của họ để người đọc dễ có cơ sở nắm
107
bắt. Tác giả chỉ dành một câu để miêu tả ngoại hình của ông Năm Hên trong truyện Bắt sấu
rừng U Minh Hạ. Qua lời nhận xét của nhân vật “tôi”, ông Năm Hên có dáng vẻ “như
tướng của ông thầy pháp”; tên cặp rằng Be trong truyện Nhất phá sơn lâm với đặc điểm
“hắn mặc áo bành tô vàng, miệng ngậm ống vố”; tên Nguyen Huu Henry trong Anh hùng
rơm là một “ông lạ mặt, người Việt Nam, mặc âu phục, tay xách cặp da, miệng hút ống
vố”,… Các chi tiết miêu tả ngoại hình dù rất nhỏ nhưng có giá trị trong việc thể hiện tính
cách nhân vật.

Khi xây dựng tác phẩm, mỗi nhân vật đều có một vai trò, vị trí nhất định. Có tác giả
chú ý nhiều đến ngoại hình, có người lại đặt nặng yếu tố ngôn ngữ, với nhà văn Sơn Nam
cái mà ông mong muốn người đọc chú ý đến nhiều nhất đó là tính cách nhân vật. Mỗi nhân
vật, Sơn Nam chỉ dành đôi ba dòng để miêu tả ngoại hình của họ vì điều quan trọng mà nhà
văn muốn nhấn mạnh đó là tính cách của con người họ. Nếu ngoại hình nhân vật giúp ta
thấy rõ vẻ bề ngoài của họ thì tính cách nhân vật giúp ta nhận ra vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp
tâm hồn của họ. Đó mới chính là điều nhà văn Sơn Nam quan tâm và mong muốn được giới
thiệu đến người đọc.

3.2.4 Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật


Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội (Các Mác). Con người đóng vai trò là
chủ thể xã hội, nhưng tính cách của nó lại bị quyết định bởi hoàn cảnh. Người Nam Bộ là
người Việt Nam sinh sống trên đất nước Việt Nam, một cộng đồng thống nhất. Dĩ nhiên
Nam Bộ có những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên cũng như quan hệ xã hội. Tính cách
con người Nam Bộ, do đó về bản chất là tính cách Việt Nam biểu hiện trong hoàn cảnh cụ
thể. Từ bản chất chung ấy, có những mặt được biểu lộ rõ nét hơn, ngược lại, có những mặt
lại bị mờ nhạt đi hoặc bị các nhân tố khác lấn át.

Khi khắc họa những đặc điểm nổi bật về con người Nam Bộ, Sơn Nam đã tạo được
những tình cảm yêu mến, khơi gợi sự tò mò của người đọc về đất và người nơi đây. Người
dân Nam Bộ là người Việt sống ở phương nam, họ cũng mang trong mình những đặc điểm
chung của người Việt Nam đồng thời cũng có những nét mới mẻ do hoàn cảnh sống mới
tạo nên. Vì thế Sơn Nam đã khẳng định ông viết về con người, về đất trời, về lịch sử hình
thành Nam Bộ với mục đích “giúp người dân Sài Gòn và người dân xứ khác hiểu hơn về
con người miền Nam”.

108
Tính cách con người Nam Bộ được Sơn Nam khắc họa không phải bằng những lời nhận
xét, gợi mở một chiều mà nó được nhìn nhận một cách khách quan từ mối quan hệ của các
nhân vật trong truyện. Qua cách họ hành động, nói năng, đối mặt với thiên nhiên, trong quá
trình mưu sinh hay qua cách cư xử với nhau Sơn Nam đã khái quát lên đầy đủ những nét
đặc trưng của người Nam Bộ. Đó là những con người có truyền thống yêu nước, là những
con người có lòng hiếu khách, có thái độ sống trọng nghĩa khính tài, và còn là những con
người có cách ăn nói bộc trực thẳng thắn ít rào đón, văn hoa,…

Trước hết đó là lòng yêu nước nồng nàn. Yêu nước cũng chính là tính cách chung của
con người Việt Nam. Yêu nước vốn là nét thể hiện tập trung nhất, cơ bản nhất trong đạo
đức truyền thống của con người Việt Nam. Trong lao động sản xuất và trong giao thiệp sinh
hoạt hàng ngày, dân Nam Bộ là những con người dũng cảm, ngang tàng, phóng khoáng. Ta
có cảm tưởng như chính việc mở mang những vùng đất mới trong hoàn cảnh khó khăn đã
đào luyện nên đức tính ấy. Con người đã không lùi bước trước trở ngại thiên nhiên cũng
như chẳng luồn cúi trước sức mạnh phi nghĩa. Sự ngang tàng ở đây là sự ngang tàng của
con người trọng nghĩa, không bị ràng buộc bởi những quan niệm hẹp hòi, cổ hủ của Nho
giáo trong cách xử thế, ít bị níu kéo bởi những tục lệ làng xã. Chân trời dù sao cũng đang
rộng mở. Cho dù có bị cướp đoạt, có bị bức hại, cho dù có gặp bước gian truân cũng vẫn
còn một góc trời, một mé rừng nào đó để dung thân. Việc nghĩa ở đây trước hết là vì nước
vì dân, vì những người bị áp bức bóc lột. Nghĩa là chống lại cường quyền, là bênh vực
những người yếu đuối hoặc sa cơ thất thế. Nghĩa là nghĩa khí, là ăn ở thủy chung, dám xả
thân vì việc lớn, không lấn át kẻ yếu hèn. Người có đạo nghĩa biết đón nhận tất cả mọi
người không phân biệt giàu nghèo, quá khứ tốt hoặc xấu. Biết đạo nghĩa thì mọi tranh chấp
đều có thể giải quyết trong quan hệ anh em bầu bạn, không cần can thiệp của nhà cầm
quyền, mà về cơ bản họ không thừa nhận uy lực.

Đọc truyện ngắn Mùa len trâu, một chi tiết rất nhỏ được Sơn Nam chú ý thể hiện đó là
cảnh thím Tư Đinh thắp nhang thờ cúng ông bà đất nước đã phù hộ cho thằng Nhi bằng an
trở về sau chuyến đi len trâu ở tận vùng Ba Thê Bảy Núi. Cuộc sống cơ cực, đối mặt với
nhiều khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng như con người không thể chống chọi nổi nhưng
họ vẫn mang theo bên mình một tình yêu đất nước giản dị và mộc mạc. Dù thím Tư Đinh
đã tỏ ra bực tức với ông bà tổ tiên, chửi rủa đất nước mình sao khó bề sống quá, nhưng
ngay tức khắc chú Tư đã nhắc nhở thím đây là đất là nước của mình. Vì thế mình phải biết
kính trọng và yêu quý. Gia đình chú đã có truyền thống thờ cúng ông bà tổ tiên từ xa xưa

109
mong được phò hộ cho cuộc sống của họ luôn an lành may mắn. Lòng yêu nước còn ẩn
chứa đằng sau tâm sự của vợ chồng ông bà Cả khi quyết định gả cô Út về xứ Cạnh Đền.
Chốn muỗi mòng đỉa vắt xa xôi mà cô Út về làm dâu đã khiến người làm cha mẹ như ông
bà Cả không khỏi lo lắng. Sơn Nam đã khéo léo khắc họa tâm trạng của họ dành cho cô con
gái yêu quý của mình. Nhưng rồi cuối cùng vì thương con bà cũng phải nhượng bộ ông.
“Phật trời thiêng liêng xin phò hộ, chứng giám! Từ bao nhiêu thế kỷ rồi, trên đất mình lắm
người luống tuổi chịu cảnh sanh ly nnhư ông Cả, cô Út. Để cho nước mạnh, dân còn”(Cô
Út về rừng). Đó là lời của một người cha cũng chính là lời tâm huyết mà Sơn Nam muốn
gửi gắm đến mọi người.

Trong những biểu hiện của đời sống hàng ngày, ta đã nhận ra tấm lòng của dân Nam Bộ
đối với quê hương đất nước. Khi Pháp đặt chân lên quê hương họ thì tình thần yêu nước lại
càng được con người nơi đây phát huy cao độ. Ở truyện ngắn Chiếc ghe ngo, Sơn Nam chỉ
sử dụng một chi tiết nhỏ đã giúp người đọc nhận ra tấm lòng yêu nước thương nòi của dân
chúng vùng Gò Quao, đặc biệt là Lục cụ Tăng Liên. Hình ảnh “Lục cụ không nói nửa tiếng,
nuốt nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục xót xa” ở cuối tác phẩm đã nói lên tình cảm
rất thiêng liêng đó. Chiến thắng trở về từ cuộc đua ghe ngo nhưng cả đội đua chùa Sóc Ven,
chú hương quản Hem và Lục Cụ đều ngậm ngùi cay đắng bởi phần thưởng mà họ nhận
được là một lá cờ tam sắc to tướng.

Câu chuyện xảy ra ở xóm Tà Lốc thời Pháp thuộc cũng giúp ta hiểu thêm về phẩm chất
tốt đẹp này của con người Nam Bộ. Sự kiện nhà nước làm lễ ăn khánh thành con kinh quản
hạt Rạch Giá-Hà Tiên, có quan toàn quyền Đông Pháp đích thân tham dự đã làm xôn xao
cả xóm. Khi xảy ra sự cố tàu bị mắc cạn, máy móc hư hao không xuống bến được, hương
ấp Thum lãnh trách nhiệm thuyết phục bà con xóm Tà Lốc làm “phận sự con dân thuộc
địa”. Thành phần cư dân trong xóm đều là những người nghèo khó, không có nổi miếng
giấy thuế thân, chưa có tên trong sổ bộ. Biết rõ hoàn cảnh của mình, các bô lão trong xóm
nhóm họp và chọn ra cách cách cư xử hợp lý. Vì muốn được yên thân, đêm đó “thanh niên
trai tráng sắp hàng ra bờ kinh xáng để kéo tàu”(Đồng thanh tương ứng) .

Lòng yêu nước của dân Nam Bộ còn được Sơn Nam đề cập đến trong một số truyện
ngắn khác như: Miễu bà chúa xứ, Nhứt phá sơn lâm, Con ngựa đất, Đảng xăm mình, Hòn
Cổ Tron, Ông già xay lúa, Hội ngộ bến Tầm Dương, Người mù giăng câu, Đường về quê,
Ngó lên sở thượng,… Có những truyện ông chọn cách đề cập trực tiếp như câu chuyện ở
Gò Mả Lạn (Miễu bà chúa xứ), câu chuyện của ông hương cả Binh ở rạch Cái Cau (Con
110
ngựa đất), câu chuyện của ông già đui một con mắt (Ông già xay lúa)…cũng có những
truyện Sơn Nam chỉ điểm qua bằng một vài chi tiết nhỏ. Chẳng hạn như chi tiết cặp rằng
Be huênh hoang gọi “xứ này là xứ của Tây” đã gặp phải sự phản ứng của ông Tư Châu
Xương và những tay rìu vùng rừng tràm U Minh. Khi câu nói đó thốt ra “khiến ai nấy cười
rộ lên, cười chua chát thiếu điều rơi nước mắt” còn ông Tư Châu Xương ôn tồn: “Mình dốt
nát nhưng chắc chắn không bao giờ nói một câu quá trật lất như thằng cặp rằng đó” (Nhứt
phá sơn lâm).

Điều kiện tự nhiên và sinh hoạt kinh tế tạo nên nếp sống phóng khoáng, ít bị câu thúc
bởi những thiên kiến nặng nề cố hữu của hệ tư tưởng phong kiến. Cư dân Nam Bộ mưu
sinh trên vùng đất lạ, ít bà con thân thích. Vì thế trong cuộc sống họ rất cần tình cảm, họ
cần tình cảm hơn cả vật chất, có lẽ vì thế nét tính cách trọng nghĩa khinh tài đã sớm nảy
nở trên vùng đất này. Sơn Nam tỏ ra rất tự hào khi thể hiện nét tính cách đặc trưng này của
người Nam Bộ trong các sáng tác của mình. Theo Sơn Nam, nét đẹp này càng cần được
phát huy hơn nữa trong cuộc sống hôm nay. Khi viết bút ký về đồng bằng sông Cửu Long,
Phan Quang đã nhận xét: “hiếu khách trọng nghĩa khinh tài, tiêu xài rộng rộng rãi là một
đặc điểm “khác thường” được nhắc tới khi nói về tính cách con người Nam Bộ” [65, 441].
Nam Bộ là vùng đất mới khai phá, tính hoang dã, thoáng rộng của đồng bằng, sông nước
kênh rạch chằng chịt, biển cả trùng trùng, núi non điệp điệp đã khiến cho con người nơi đây
trở nên rất phóng khoáng và hào hiệp. Có lẽ với đặc điểm của một vùng đất mới, còn thưa
chân người đến khai phá cùng với sự hào phóng của thiên nhiên đã làm cho con người Nam
Bộ có tính tình phóng khoáng, hậu đãi với nhau. Người ta sống ít lo lắng tới ngày mai.
Chính tính hào phóng – cũng có khi thêm sự nông nổi – khiến người dân nơi đây lúc gặp
việc nghĩa ít tính toán thiệt hơn. Từ cơ sở đó cộng với một thiên nhiên hoang dã, ẩn chứa
nhiều nguy hiểm đã khiến cho con người Nam Bộ cần có lòng thương yêu nhau để cùng tồn
tại nơi vùng đất mới. Vì thế gắn liền với trọng nghĩa khinh tài là tinh thần tương thân tương
ái, đoàn kết trong cuộc sống. Nét tính cách đáng quý này in đậm trong rất nhiều truyện
ngắn Sơn Nam.

Một trong những điểm nổi bật làm xứng danh “Nam Bộ học” của Sơn Nam là ông đã để
cho các nhân vật của mình suy nghĩ, hành động, biểu thị tính cách hoàn toàn phù hợp với
đặc trưng của con người Nam Bộ. Khi đọc các tác phẩm của ông, đặc biệt là truyện ngắn,
nhiều người đọc Nam Bộ như nhận ra hình ảnh của chính mình với một nét tính cách, suy
nghĩ nào đó được hóa thân trong các nhân vật mà ông đã xây dựng như: Lục cụ, Cai tổng

111
Biện, giáo Trích, thầy Chà, thầy Hai rắn, cô Ngó, cô Út, cậu Ba, Hai Lành, Hai Lến, cô Tư
Hạnh, Bảy Út, Mười Hy, con Lài, thằng Kìm… Họ là những nhân vật thuộc những tầng lớp
khác nhau với những hoàn cảnh và số phận khác nhau nhưng lại chính là những con người
Nam Bộ “mộc mạc, bộc trực, chân thành, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài,…”. Việc khắc
họa tính cách Nam Bộ điển hình không dễ dàng chút nào đối với lớp nhà văn Nam Bộ đã
thành danh như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi, Lê Văn Thảo, Dạ Ngân,…và
càng khó khăn hơn đối với lớp nhà văn Nam Bộ trẻ đang cầm bút.

Lời tâm sự của ông hương giáo với thằng Kìm về Tư Lập trong truyện ngắn Hương
rừng của Sơn Nam đã khắc họa được đôi nét về tính cách của con người Nam Bộ. Tư Lập
là người xứ khác đến làm ăn và đem lòng thương mến con gái ông Hương giáo, vì hoàn
cảnh éo le anh đã ra đi, nhưng trong lòng vẫn canh cánh một tình cảm sâu sắc với gia đình
cô Hoàng Mai và cách cư xử của mình. Nếu Tư Lập là người trọng lẽ phải, trọng nghĩa
khinh tiền tài, sống có lòng nhân ái lại có chí tang bồng hồ thỉ mà Sơn Nam gọi với một
danh xưng rất dân dã “bịnh giang hồ” thì ông Hương giáo chính là người sống có đạo nghĩa
và có lòng khoan dung độ lượng. Ông hiểu hoàn cảnh của Tư Lập, càng hiểu hơn hoàn cảnh
đặc biệt của con gái mình vì vậy ông không hề trách móc anh đến nửa lời mà trái lại: “Ta
hiểu lắm. Dù sao trở về lần này, Tư Lập cũng đã tỏ ra có nghĩa! Ai nỡ câu thúc chí trai của
mình trong một xó để đổi lấy chữ nhàn?”. Ông chỉ thấy tội cho con gái “nó ngồi một chỗ,
không còn đủ sức mà thăm cội hoàng mai trước ngõ như hồi Tư Lập biết”.

Cách sống trọng đạo nghĩa, xem tiền tài là vật ngoài thân đã khiến ông phóng viên báo
Chim Trời trở về tay không khi lặn lội đường xa để đòi nợ tiền báo thiếu của anh Trần Văn
Có. Không những thế, khi đã hiểu nhau anh phóng viên còn hứa chắc như đinh đóng cột
mỗi kỳ báo ra sẽ giữ tặng anh Có một tờ để làm kỷ niệm (Tình nghĩa giáo khoa thư). Sơn
Nam đã dựng lên một câu chuyện với những tình tiết đơn giản nhưng cái tình của con
người với nhau thì thật sâu sắc. Ngoài ra, nét tính cách trọng nghĩa khinh tài còn được Sơn
Nam thể hiện rất rõ trong cách phản ứng của bà con ở xóm rẫy Tân Bằng, ven rừng U Minh
đối với cách “ăn to xài lớn” của anh Giáo Trích và cô Tư Hạnh. Dân chúng vùng này vốn
quý trọng tình nghĩa, khi Giáo Trích xuất hiện, anh đã không tạo được sự đoàn kết mà còn
đảo lộn nhiều thứ. Vì thế, loại người vì tiền mà thay đổi ngay như cô Tư Hạnh cuối cùng
cũng đã bỏ anh đi (Ăn to xài lớn). Tong truyện ngắn Tình bậu muốn thôi, Sơn Nam chọn
cách gián tiếp thể hiện nét tính cách này của con người Nam Bộ. Trong truyện cách cư xử
của cả người chồng và người vợ đều có chỗ sai: anh chồng khi đã giàu có lại trở mặt đuổi

112
vợ ra khỏi nhà., còn cô vợ khi cưới chồng khác làm quan to thì lên mặt hỗn láo với người
chồng cũ. Tuy nhiên khi câu hát dân gian được cất lên thì đó là lời “nhắc nhở con người
nên ăn ở thủy chung, đừng ỷ thế giàu sang”, khinh khi nghèo khó.

Ngoài ra dưới ngòi bút Sơn Nam, người Nam Bộ còn được biết đến là những người bộc
trực ăn nói thẳng thắn, ít nói văn hoa, rào đón. Trải qua bao thế hệ, nét tình cách này
vẫn được bảo tồn, là một nét cực kỳ quý báu trong quan hệ giữa người với người. Các nhà
nghiên cứu hay nhấn mạnh tính mộc mạc trong văn học dân gian Nam Bộ. Tinh hoa của ca
dao Nam Bộ cũng nằm trong sự mộc mạc trong sáng. Dường như sự đậm đà là ở tính hóm
hỉnh và chất trào lộng. Xét đến cùng, đây chỉ là sự kế tục và phát huy một nét đặc sắc trong
tính cách con người Việt Nam: luôn luôn lạc quan yêu đời, cả những khi lâm vào những
hoàn cảnh rất gay cấn, thậm chí cái chết kề bên.

Điểm qua một vài trường hợp ta thấy rất rõ đặc tính này của người Nam Bộ. Nhân vật
chú Tư Đức (Sông Gành Hào) là người có lòng tự trọng, tinh thần trọng nghĩa khinh tài.
Những câu trả lời của chú với ông Rốp khi bị bắt quả tang chở củi lậu đã phần nào cho thấy
cách nói của người Nam Bộ: “Chết thì tôi chịu chứ tôi không về. Cha con tôi không có nhà
cửa gì ráo…Bởi vì tôi không có đất…Tôi đã cất nhà nhiều lần rồi mà ở vẫn không yên”.
Chú Tư đã không e ngại mà thẳng thắn tỏ rõ thái độ cho đối phương hiểu về hoàn cảnh và
cách cư xử xủa mình. Hay lời nói chất phác không văn hoa rào đón của nhân vật ông Từ
Thông (Hòn Cổ Tron) khi nhận xét về dân trong đất liền như sau: “Coi bộ bà con mình
nghèo hơn ở hòn Cổ Tron của tôi. Áo quần không có. Mình mẩy bị ghẻ khuyết ăn lở lói.
Nhà cửa xiêu vẹo, nay ở mai dời…chắc là tại giặc Xiêm”. Trong hoàn cảnh bị tình nghi,
ông vẫn tỏ rõ thái độ của mình bằng những câu nói rất thật. Sự phản ứng của bà chủ quán
rượu (Mối tình đầm lai) khi nghe Hai Tâm bày chuyện nói dóc thiên hạ về tài “o mèo” của
mình được Sơn Nam thể hiện bằng những câu nói rất bộc trực sau: “Tôi lạy cha! Nói dóc
hoài. Tới giờ dẹp quán rồi! Nãy giờ cha nội hái …bông hoa cúc quá nhiều. Cóc mà bày đặt
trèo thang. Hái trộm bông trong nhà chùa, hèn gì…bị quả báo, gãy một chân là may. Đúng
ra cha phải gãy luôn hai chân mới đáng tội”. Rồi bà chủ quán hùng hổ bước tới cửa, chụp
cây gài cửa dựng lên đe dọa. Trong những hoàn cảnh cụ thể, mỗi nhân vật tùy theo đặc
điểm đều có những phát ngôn tương ứng. Thẳng thắn, ít văn hoa rào đón là điểm chung
trong cách nói của người Nam Bộ. Đặc điểm này cũng hoàn toàn phù hợp với nét tính cách
trọng nghĩa khinh tài của họ. Tuy vậy, trong những trường hợp cần nhấn mạnh sự thay đổi
tính cách, Sơn Nam cũng đã chú trọng vào việc thay đổi ngôn ngữ nhân vật cho phù hợp.

113
Trường hợp thằng Nhi trong truyện ngắn Mùa len trâu là một ví dụ. Sau mùa đi “len” trâu
về, thằng Nhi con chú thim Tư Đinh đã có những câu nói, câu chửi thề tục tĩu rất sành sỏi.
Tiếp xúc với môi trường mới dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn cũng dễ tác động đến
con người đặc biệt là những người trẻ tuổi như thằng Nhi. Những từ ngữ mà Sơn Nam tạm
gọi là “tán thán từ” luôn xuất hiện trên cửa miệng thằng Nhi khiến cha mẹ nó cũng phải giật
mình. Chú Tư chợt nhận ra đó là hậu quả tất yếu từ một chuyến đi thực tế. Vùng Bảy Núi,
Ba Thê vốn là nơi cư tụ nhiều thành phần cư dân từ các xứ đến. Dù sao chú thím vẫn còn
cảm thấy may mắn vì cuối cùng thằng Nhi cũng đã an toàn mà trở về. Giá trị sâu sắc của
truyện ngắn này còn nằm ở phương diện rất tình người ấy.

Tên tuổi của nhà văn gắn với tác phẩm chủ yếu là thông qua nhân vật. Sức sống của
nhân vật, giá trị điển hình của nhân vật thể hiện rõ tài năng của nhà văn. Những đặc điểm
về tính cách của con người được hình thành trên các yếu tố: di truyền, tự vận động và môi
trường. Môi trường tác động mạnh mẽ đến sự sinh ra và nuôi dưỡng tính cách, tâm hồn con
người. Con người vừa mang bản chất tự nhiên, vừa mang bản chất xã hội. Trong đó thực
thể sinh học và thực thể xã hội thống nhất trong một chỉnh thể mà yếu tố xã hội đóng vai
trò là tiêu chí quyết định, yếu tố tự nhiên là tiêu chí cần thiết khi xem xét và đánh giá sự
phát triển của con người. Nhân cách con người được hình thành trong chính môi trường tự
nhiên và xã hội.

Đến truyện ngắn của Sơn Nam, tính cách Nam Bộ được bộc lộ rõ nét trong môi
trường sống của mình. Họ vẫn mang những đặc điểm chung của người Việt Nam bởi đó là
một cộng đồng dân tộc thống nhất, có cùng cội nguồn lịch sử, văn hóa, cùng lãnh thổ, ngôn
ngữ, sinh hoạt,…, nhưng người Nam Bộ lại có những nét tính cách riêng hình thành do điều
kiện sống khác biệt trên một vùng văn hóa khác. Tính cách con người Nam Bộ mang đặc
trưng văn hóa vùng, thống nhất trên cơ sở những biểu hiện phong phú và đa dạng. Nó được
hình thành trong quá trình tiến về phương Nam mở mang bờ cõi, tìm cuộc sống mới. Điều
kiện tự nhiên, xã hội mà con người phải đối diện và thích ứng đã làm xê dịch những nét
chung của con người Việt Nam về các mặt phong tục tập quán, tâm lý tình cảm, tạo nên
một tính cách Nam bộ với những nét đặc thù.

3.3 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

114
Nhà văn là nghệ sĩ dùng lời nói để biểu đạt tư tưởng tình cảm, tạo nên những bức tranh
về cuộc sống. Dấu hiệu của một tài năng văn học thể hiện rõ ở cách viết, ở khả năng khám
phá, khai thác những khía cạnh tiềm ẩn, tinh tế của ngôn ngữ, ở khả năng làm mới, “lạ
hóa”, khôi phục lại tính chất trinh nguyên, vẻ đẹp ban đầu của từ ngữ, của lời nói.

Ngôn ngữ là một trong những phương diện bộc lộ đặc điểm văn hóa. Sẽ là thiếu sót rất
lớn khi tìm hiểu văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam mà bỏ qua nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ của ông. Sơn Nam sinh ra, lớn lên tại miền Tây Nam Bộ, cả cuộc đời ông
đã dành tình yêu cho quê hương và con người nơi đây. Tất cả vốn sống, vốn văn hóa đã
được ông diễn tả bằng một ngôn ngữ, giọng điệu mang đậm màu sắc Nam Bộ. Con người
Nam Bộ hiện lên trong khuôn mặt đời thường của họ, với lời ăn tiếng nói hàng ngày của
chính họ: vừa chân chất, giản dị, vừa ngọt ngào, duyên dáng, vừa phóng túng, ngang tàng.
Điều đó góp phần làm nên giá trị truyện ngắn Sơn Nam, như cách Tạ Tỵ khẳng định là “hơi
thở của miền Nam nước Việt”, khiến cho ông thực sự là nhà văn của Nam Bộ, về Nam Bộ.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đã cho rằng sự xuất hiện dày đặc của các từ ngữ địa phương
khiến cho tác phẩm của Sơn Nam phần nào trở nên xa lạ, khó tiếp thu đối với những người
đọc vốn đã quen hít thở bầu không khí trên các vùng miền khác của đất nước. Thế nhưng
trên một phương diện khác, ta sẽ dễ dàng nhận ra đó chính là dụng ý, là sự giới thiệu có
định hướng của nhà văn Sơn Nam về quê hương Nam Bộ. Bởi lẽ để có được những sáng
tác phản ánh sinh động thực tại, không gì tốt hơn là phải dùng được chất liệu ngôn từ của
thực tại cần phản ánh. Ở trường hợp của nhà văn Sơn Nam, cũng như nhiều nhà văn Nam
Bộ khác thì việc dùng ngôn ngữ của quê hương mình, địa phương mình là cách tốt nhất để
thể hiện về chính mảnh đất và con người nơi mình sinh ra.

3.3.1 Phương ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam


Phương ngữ là một chuỗi các nét biến dạng địa phương từ một ngôn ngữ toàn dân,
do những tác động địa lý, xã hội mà dần hình thành. Phương ngữ Nam Bộ là tiếng nói của
người dân Nam Bộ, là biến thể địa lý của ngôn ngữ toàn dân. Sự chia cắt tự nhiên về mặt
địa lý, dẫn đến tâm lý vốn có ở những người Việt trước đây, như ngại đi lại và giao tiếp,
cũng là nguyên nhân đưa đến sự hình thành phương ngữ Nam Bộ. Lịch sử phát triển vùng
đất phương Nam đi liền với lịch sử của nhiều cuộc chiến tranh chia cắt có tính chất dai
dẳng, quyết liệt, mà chính các cuộc chiến tranh này chia cắt hẳn sự tiếp xúc giữa các vùng
miền; đồng thời, tạo nên những diện mạo xã hội khác nhau, điều đó làm cho tiếng Việt phải
phát triển theo những mô hình xã hội ở những vùng, miền này.
115
Ngôn ngữ và tư duy vốn có mối quan hệ biện chứng: ngôn ngữ thể hiện tư duy, còn
tư duy được cố định hóa bằng những vỏ vật chất của ngôn ngữ. Đi liền với lịch sử khẩn
hoang miền Nam là quá trình hình thành những nét riêng, mới cho những cư dân người
Việt. Trên phương diện ngôn ngữ, sự thay đổi không chỉ diễn ra ở lớp cư dân người Việt
vào Nam, mà còn ở cả những cộng đồng người Việt tại chỗ. Vì sự thay đổi trong ngôn ngữ
không chỉ do tác động của nhân tố không gian (vị trí địa lý và hoàn cảnh xã hội) mà còn cả
nhân tố thời gian (sự vận động chuyển biến cũng là quy luật tất yếu). Sơn Nam cũng như
Hồ Biểu Chánh, Vương Hồng Sển, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân... bằng cái tài và cái tâm của
người cầm bút, đã nỗ lực mang "hương vị" Nam Bộ đến với người đọc qua từng trang viết.
Chính những đóng góp quý giá ấy giúp ta hiểu rõ hơn về lối sống - văn hóa ở khu vực Nam
Bộ mà không phải cây bút nào cũng có thể làm được. Tìm hiểu chất Nam Bộ trong ngôn
ngữ truyện ngắn Sơn Nam là tìm ra những điểm đặc trưng thể hiện rõ tính chất phương ngữ
của khu vực. Nó diễn ra trên tất cả các bình diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đến phong
cách diễn đạt. Trong đó hai dạng thức thể hiện rõ nhất là từ ngữ và phong cách diễn đạt.

Có một lớp từ vựng Nam Bộ có hiện tượng biến âm so với lớp từ vựng chung. Sự
biến âm này có thể do “khuynh hướng phát âm đơn giản hóa của người dân Nam Bộ” mà
hình thành [89, 257]. Sơn Nam sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ vì thế ông nắm rất rõ từng đặc
điểm trong cách phát âm của người dân nơi đây. Có thể thống kê rất nhiều những từ đặc
trưng Nam Bộ trong các truyện ngắn của Sơn Nam như: hảo hớn, minh mông, tuồm luôm,
nươm nướp, cháng váng, hơi hướm, châu đáo, lè lẹt; các từ do khuynh hướng kiêng kỵ:
huê(hoa), kiểng(cảnh), quới(quý), mệnh(mạng), phước(phúc),… Hiện tượng biến âm trên
trong phương ngữ Nam Bộ còn diễn ra ở hàng loạt những từ ngữ được sử dụng thông
thường trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như: chứ bứ, chư bư, chừ bự, rảng, cà khỉa, cà
khịa, cà khía, chằm bằm, chằm vằm, chằm quằm, ngon chớn, coi sóc, ghen tương, nhơn
mạng, chưn ướt chưn ráo,… Những nét riêng trong cách phát âm của người Nam Bộ được
thể hiện khá rõ trong truyện ngắn của Sơn Nam. Lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân
phương Nam đã được nhà văn ghi lại một cách chân thực và sinh động. Đọc tác phẩm của
ông ta có thể dễ dàng nhận ra điều giản dị mà đáng quý đó.

Về mặt từ ngữ, trong các sáng tác của Sơn Nam nói chung và truyện ngắn nói
riêng, nhà văn đã có ý thức lưu giữ lại một lớp từ cổ của tiếng Việt mà ở các vùng khác,
tiếng Việt chuẩn không còn sử dụng. Chẳng hạn: mầng (mừng), ngộ (dễ nhìn), coi (xem),
cậy (nhờ), hun (hôn), méc (mách), thơ (thư), nhơn (nhân), tổng khậu (đầu bếp)… Trong quá
116
trình giao lưu tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người Việt, Hoa, Khmer, người dân vùng đồng
bằng sông Cửu Long đã sử dụng một số từ ngữ vay mượn từ các dân tộc sống chung trên
địa bàn. Nhiều từ ngữ xuất hiện lặp đi lặp lại nhiều lần trong các truyện ngắn của Sơn Nam
như: cà rá, cà ràng, cà ròn, xà rông, thốt nốt, len trâu, bò hóc, đi ênh, ghe ngo, bổ tróc, …
số dách, xập xám, miệt, mai, báo, má chín, Xìn Phóc…

Chúng ta có thể học được rất nhiều từ ngữ Nam Bộ trong các sáng tác của Sơn Nam.
Đó là những từ địa phương của khu vực, được dùng để chỉ những sự vật hiện tượng, những
sinh hoạt đời thường của người miền Nam. Những từ này được Sơn Nam dùng trong văn
cảnh cụ thể, gặp những trường hợp khó hiểu tác giả diễn giải rất cẩn thận. Đôi khi nhà văn
còn đóng vai trò là người giải nghĩa của một nhà ngữ học. Điều này vừa thể hiện vốn hiểu
biết sâu sắc của người cầm bút vừa thể hiện mối quan tâm của ông đối với từ địa phương
Nam Bộ, mà ông sợ rằng, với thời gian nó có thể bị mai một. Sơn Nam quan tâm đến cả
những từ mà ngày nay đã không còn được sử dụng phổ biến nữa như: bài kía, cà ràng, điệu
nghệ, ghe cui, củi lục, huê xà, hươi, len trâu, lóc, miệt thứ, miệt vườn, nò cạn, nò Xiêm, tam
sên, tầm bò, thỏm mỏn, xài giấy năm trăm, sở Thượng, xổ nho, nước rặc, nhãn tiền… Nhờ
lớp từ ngữ này mà chúng ta có thể hiểu được nhiều câu ca dao Nam Bộ xưa, hiểu được một
số đặc điểm tự nhiên, xã hội của vùng đất phương Nam thời khai phá. Bên cạnh đó, Sơn
Nam còn đưa vào tác phẩm của mình một khối lượng lớn từ ngữ Nam Bộ thông thường
trong cuộc sống hàng ngày. Bất cứ người Nam Bộ nào khi đọc tác phẩm của ông họ cũng
dễ dàng nhận ra, những từ ngữ thông dụng như: ảnh, bà, cậu, ổng, bảnh, bàu, bển, bịnh,
bùng binh, cà rá, cà kèo, chàng ràng, chẹt, choại, chạy mặt, con mẻ, dân xứ Năm Căn, điên
điển, đờn kìm, gây lộn, ghe hát, ghe hầu, hàng xáo, hát bóng, lục bình, lung, má, miệt dưới,
miệt trên, nhểu hột, nhọn lễu, ô rô, rắn mối, rặt mùi, ròng, tằng khạo, thương hồ, trấp, vẹt,
xáp lại, xẻo, xôm, xúp lê, chạy mặt, nhìn mặt, làm lộng, hỏi trổng, hươi đao, chết chùm, quá
xá, mưa đổ hột, làm lộng, chánh thức, thứ thiệt, chận đầu, võ khí, sát nhơn, mần ăn, chun
vô nóp… Lớp từ ngữ địa phương này đã thể hiện rất rõ tính chất văn hóa của khu vực Nam
Bộ. Bởi xét đến cùng, trong mối quan hệ giữa văn hóa và văn học thì ngôn ngữ chính là
một trong những nhân tố quan trọng, có vai trò to lớn trong việc chuyển tải những giá trị
văn hóa của dân tộc.

Các nhà văn khi sáng tác thường vận dụng vốn từ địa phương nhằm nhấn mạnh tình
chất riêng biệt về khu vực, địa bàn của các sự vật, hiện tượng cũng như nhân vật muốn nói
đến. Trong truyện ngắn Sơn Nam, nhà văn sử dụng lớp từ này để phản ánh, miêu tả những

117
đối tượng mà chỉ miền Nam mới có, hay nhằm để nhấn mạnh nét sinh hoạt, những nét đặc
trưng riêng của khu vực. Đó là những sản vật của vùng đồng bằng sông Cửu Long, những
sự vật hiện tượng chỉ tồn tại ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Khi muốn thể hiện điều đó một
cách chân thực và sinh động nhất thì việc lựa chọn từ địa phương Nam Bộ là điều cần thiết
và có tính hiệu quả cao. Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần khẳng định
văn phong đậm đà chất Nam Bộ của Sơn Nam. Là người am hiểu về Nam Bộ nói chung và
có một vốn sống, vốn từ ngữ phong phú, những từ ngữ địa phương đã được nhà văn chú ý
đặt vào những ngữ cảnh khác nhau, phù hợp với những nét đặc trưng về con người và vùng
đất phương Nam.

Lớp từ ngữ phản ánh địa hình, cây cối, sông nước của miền đồng bằng Nam Bộ xuất
hiện với mật độ dày đặc, bao phủ lên hầu hết những truyện ngắn Sơn Nam như: sông, rạch,
xẻo, kinh, mương, rãnh, láng, lung, bầu, đầm, ao, bàu, đìa: tràm, đước, bần, mù u, trâm
bầu, ghe ngo, xuồng ba lá, tam bản, vỏ lãi, trẹt, xà lan, tắc rán, nơi giáp nước, nước ròng,
nước giựt, nước đứng,… hay các loại đặc sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long như: rùa,
rắn, ba khía, con bà tám, các loại cá, các loại chim,.... Việc sử dụng lớp từ này và không
những góp phần làm bật lên những nét đặc trưng của vùng sông nước đồng bằng mà còn
góp phần làm phong phú thêm vốn từ vựng tiếng Việt.

Ngoài ra, vận dụng vốn từ vựng vào tác phẩm đúng cách, đúng chỗ và đúng mục
đích cũng chính là một trong những cách để khẳng định phong cách cá nhân của người sáng
tác. Việc vận dụng lớp từ khẩu ngữ đã giúp Sơn Nam miêu tả thật sinh động, chân thực về
cuộc sống, về nét sinh hoạt thường nhật của người dân Nam Bộ xưa. Đó là chính là cách để
nhà văn miêu tả cụ thể hành động của đối tượng, phản ánh bản chất của sự vật, sự việc và
hiện tượng. Có thể dẫn ra một số từ khẩu ngữ được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần như: cực
chẳng đã, rủi bề gì, mưa đổ hột, xiết hầu bao, chạy thầy chạy mặt, nhìn mặt, chộn rộn, day
mặt, đâu dè, quá xá, xí hụt, ai dè,…

Trong cách nói của người Nam Bộ có một hiện tượng đáng lưu ý. Đó là cách xưng
gọi, và cách dùng từ xưng gọi. Trong gia đình, người Nam Bộ có thói quen dùng thứ để kêu
gọi: hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, út,… Các nhân vật của truyện ngắn Sơn Nam được ông đặt
tên theo cách gắn với ngành nghề hoặc đặc điểm nổi bật của họ như thầy Hai Rắn, ông
Chòi Mui, ông bang cà ròn, bác vật xà bông, … và cách gọi theo thứ bậc như ông Năm
Hên, ông Hai Cháy, ông Năm Tự, ông Năm Lượng, ông Tư Đạt, ông Tư Châu Xương, ông
Ba Hò, ông Tư Lịch, ông Tư Huỳnh, cậu Bảy Tiểu, cậu ba, anh Tư Hít, anh Tư Hưng, anh
118
Tư Bình Thủy, Hai Tâm, Hai Tỵ, Hai Nhiệm, Tư Nhu, Năm Lươn, Bảy Đặng, anh Chín
Tiễn, cô hai bông súng, cô Út,… Ngoài ra ở Nam Bộ còn có cách gọi ở ngôi thứ ba, có tính
chất giản lược âm như ổng, bả, ảnh, chỉ,… Lối xưng gọi này được nhìn nhận có sự chân
tình, mộc mạc, chân chất. Nó thể hiện thái độ bình đẳng trong giao tiếp của người phương
nam, không nặng về tập tục, phép tắc. Sơn Nam cũng chú ý sử dụng cách xưng hô rất đặc
trưng này của người Nam Bộ, thậm chí trong một số trường hợp ông còn cố ý nhấn mạnh.
Đặc biệt là trong những đoạn đối đáp giữa các nhân vật là những người nông dân rặt Nam
Bộ

Ngôn từ của người Nam Bộ phản ánh lối tư duy của họ. Đó là một tư duy phóng
khoáng nặng tình nghĩa nhưng không nặng quy tắc, khuôn luật. Những biểu hiện phong phú
của từ địa phương Nam Bộ được Sơn Nam nắm rất vững và sử dụng hợp lý trong từng hoàn
cảnh cụ thể, tạo ra những hiệu quả nghệ thuật nhất định.

Phong cách diễn đạt là phương diện thể hiện rõ nhất lối tư duy của người Nam Bộ.
Qua tác phẩm của Sơn Nam ta dễ dàng nhận ra cách diễn đạt rất đặc trưng của người miền
Nam.

Đầu tiên, đó là một phong cách diễn đạt giàu hình ảnh, giàu yếu tố cụ thể. Nhìn
chung, người Nam Bộ có cách nói, cách diễn đạt không bóng mượt, nhưng dễ tiếp nhận do
lối liên tưởng so sánh dễ hiểu. Đoạn đối đáp sau đây giữa con Lài và thằng Lợi trong truyện
ngắn Cây huê xà gợi cho người đọc một cảm giác thoải mái và có phần hài hước. Ngoại
hình của các nhân vật được so sánh, liên tưởng một cách cụ thể, dân dã: con Lài trong chiếc
áo hoa được ví như con rắn bông súng, thằng Lợi trong chiếc áo đen bạc màu được ví như
con rắn hổ đất.

Thằng Lợi day lại cười:


- Đi đâu vậy cô Hai …rắn bông súng?
Con Lài sực nhìn chiếc áo bông đang mặc.
Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:
- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười
em làm chi.
- Rắn đâu dám cười rắn – Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài.
Con Lài rút tay lại cho có lệ. Nó bước qua xuồng, ngả vào lòng thằng Lợi.
- Anh à!
- Cái gì đó, hở rắn!
119
- Thiên hạ họ thấy, họ cười chết.
- Ai thấy mà cười.? Chung quanh đây cái gì cũng là rắn như hai đứa mình. Thí dụ
như mấy sợi dây choại, dây bòng bong kia.
Hay đoạn miêu tả đặc điểm ở một địa hình sông nước có nhiều lục bình mang lại cho
người đọc những cảm nhận về một vùng đất xa xôi với những con người thắm đượm nghĩa
tình: Dông dài lắm. Chỗ này kêu là “giáp nước”, do Tây đào kinh xáng gây ra. Nước lớn
phái Cần Thơ dồn qua, nước lớn phía Rạch Giá dồn lại. Hai ngọn nước gặp nhau tại đây.
Suốt ngày đêm, nước đứng tại chỗ. Xa biển, ngoài biển vừa ròng, thỏm nỏm, chưa rút hết
thì đứng lại, rồi nước lớn. Bởi vậy, dù mấy chục năm qua rồi, nó sanh đẻ tại chỗ, dày bịt,
quy tụ nào xác chó, xác rắn, cá tôm. Giống như cái chấp ở U Minh, trên mặt cứng, phía
dưới nước lõng bõng, coi như bơi xuồng được, nhưng rốt cuộc là chịu thùa, sa lầy (Vẹt lục
bình)

Còn đây là đoạn miêu tả khung cảnh làng Đông Bình khi bắt đầu vào mùa mưa (Kéo
trúm). Cách tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong đã gợi ra trước mắt người đọc một không
gian yên ả, thanh bình:

Bấy giờ, vào khoảng tháng Năm. Mưa khá nhiều nhưng đồng cỏ chưa nổi nước.
Từng bầy cúm núm bay bổng khi chúng tôi đến sát bên ổ. Lát sau, chúng tôi vào căn chòi.
Hàng trăm cái ống trúm chất đống theo trật tự, giống như những gốc củi xếp đặt sẵn từng
thước khối chờ giao cho thân chủ.
Chòi không vách. Tấm lá chằm ngăn đôi. Phía trước là bộ ván ăn cơm, phía sau là
giường ngủ.
…Xung quanh chòi, cây mua, cây lức mọc um tùm. Kế bên chòi, một cái đìa khá sâu, nước
trong leo lẻo phản chiếu ánh nắng trưa. Thềm đìa quá rậm rạp. Rau muống bò lan tràn.
Chuột chạy tới lui như đùa giỡn với mấy con rắn nước đang há mỏ.
Ngay cả những đoạn tác giả miêu tả trực tiếp hay lời nhận xét của người kể chuyện
cũng in dấu rất rõ cách thức diễn đạt giàu hình ảnh và yếu tố cụ thể của người Nam Bộ:
Trời đã quá chạng vạng. Ánh nắng thoi thóp, đỏ khè, trong giây phút trở sang màu tím
bầm. Muỗi dậy ổ kêu vo ve khắp gần xa. Loài ếch nhái côn trùng bắt đầu lên tiếng, chào
mừng bóng tối đang tràn ngập qua nhanh chóng (Miễu bà chúa xứ).; một đoạn khác trong
truyện Con cá chết dại: Nằm trong nóp hồi lâu, Hồng cựa quậy vì tiết trời hơi nực, ngứa
ngáy. Nàng tung nóp ngồi ngóng vẩn vơ. Đêm ở miền biển cũng thơ mộng, nếu không có
muỗi cắn. Nàng đặt mấy que củi vào bếp un, rôi nghĩ đến công việc ngày mai. Dưới rạch
nước gần cạn. Cá lóc táp mồi nghe đùng đùng. Xứ này nhiều cá hơn mức tưởng tượng của

120
nàng. Nếu siêng năng có thể câu, hoặc tát mấy vũng cạn, khỏi tốn tiền. Dưới ánh trăng, cá
đua nhau đớp bọt như nồi cơm đang sôi.

Bên cạnh đó, cách nói giàu sắc thái biểu cảm và nhiều chất hài của người Nam Bộ
cũng xuất hiện trong truyện ngắn Sơn Nam. Chất hài của Nam Bộ cũng có những đặc điểm
khác với chất hài của các vùng miền khác trên đất nước ta, không phải là do năng lực tư
duy, mà do sở thích “bông đùa” muốn cho cuộc sống bớt căng thẳng. Đây là đoạn đối đáp
giữa đôi trai gái đang yêu nhau trong truyện Tục lệ ăn trộm:

Thiệp cúi đầu ra sân rồi lén trở xuống nhà bếp.
Huệ đang lui cui luộc mấy con rùa. Anh đến bên cạnh:
- Em nhớ anh không?
Huệ giật mình, bước lui:
- Kỳ quá hè. Thiệt là “ba sớn ba sác”. Ổng xuống bây giờ. Cỡ này, ổng hay quạu
bất tử lắm. Chờ mai mốt, hẹn chỗ khác, bộ chết sao mà nóng nảy dữ vậy.
Thiệp đắc ý:
- Cỡ này ba của em “xả cản”. Chờ cuối tháng giêng ổng mới làm khó dễ thằng con
rể này.
- Nói dóc hoài. Đứng dang xa ra, bằng không em chạy lên nhà méc ba bây giờ.
Ngoài ra đó còn là một phong cách diễn đạt có nhiều tính chất cường điệu và phóng
đại. Tính chất này thể hiện khá rõ trong thành ngữ, tục ngữ. Trong ngôn ngữ kể chuyện của
Bác Ba Phi, ông Ó, và trong ca dao dân ca. Nhờ đó mà truyện kể có màu sắc lạc quan, gây
nhiều cảm xúc hơn. Sơn Nam đã vận dụng cách diễn đạt này trong những tác phẩm có sự
xuất hiện của những câu hò điệu hát và cả trong cách dẫn truyện rất đặc trưng của mình.

Và đó còn là phong cách diễn đạt bình dân, có nhiều yếu tố từ ngữ giản dị và mộc
mạc. Tính chất này rất phù hợp với đời sống và tính cách của người Nam Bộ. Trong những
lời dẫn truyện, lối “văn nói Nam Bộ” với những từ ngữ dung dị đời thường, những câu
ngắn gọn, chứa đựng nhiều từ ngữ Nam Bộ đặc trưng được Sơn Nam thể hiện rất thành
công. Đó là lối văn “điển hình của văn phong Nam Bộ”.

Đây là đoạn văn nói về sự ra đi rồi lại trở về của anh Tư Hưng trong truyện Hương
rừng: Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc màu bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm
nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú
về Long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui. Ở lâu lại sanh
buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại không được. Chú lại trở
về.

121
Hay một đoạn tả căn chòi của Bảy Đặng trong truyện Cấm bắt rùa: Đến chòi Bảy
Đặng, thầy đội trố mắt hồi lâu. Trong chòi, chú bảy đã xây cái hồ to lớn, chứa chấp bao
nhiêu là rùa. Đôi ba trăm con rùa đủ cỡ đủ loại đang cỡi đè lên nhau, chen lấn nghe lộp
cộp. Con thì ngả ngửa, khoe cái yếm vàng lườm, bốn cẳng ngoe nguẩy bơi trong không khí.
Con khác cố gắng quào vào vách hồ bằng sậy, lú cổ dài nhằng, miệng há rộng, thiếu răng
giống như mỏ chim. Loại rùa nắp thì e thẹn, khép cái yếm lại, giấu kín đầu cổ vào trong
mai, giống như món đồ ngon cất kỹ trong cái hộp bằng xương..
Dưới đây là một đoạn trong Ông già xay lúa. Đọc đoạn đối thoại sau, ta cảm nhận
được những con người thuần nông Nam Bộ với cách nói giản dị mộc mạc, chứa nhiều
những từ ngữ bình dân như: hai chả, lặn hụp, cùng mình, ăn thua đậm, dằn mặt, chết
chùm,chạy cà nhỏng…

Thầy xã với phó hương quản tới. Nghe không? Hai chả đốt đuốc lặn hụp dưới ruộng
nảy giờ. Tôi thấy rõ ràng.
Mấy chả gan mật cùng mình sao kìa. Hồi nào tới giờ họ chưa từng đặt chân tới xóm
mình. Chắc có chuyện gì mình ăn thua đậm.
Nói bậy đi. Hễ không thấy thì chê người ta nhát, kiêu căng. Bây giờ người ta tới thì
công kích. Thầy xã này là người có âm đức. Ba của thẩy, chú của thẩy hồi đó hiền lắm.
- Hiền đâu không thấy chứ tôi hồ nghi mấy “chả” toan xét giấy thuế thân để dằn
mặt tụi mình.
Hay một đoạn khác trong Ngó lên Sở Thượng:

Sau vài phút suy nghĩ thằng Đinh nói khẽ:


Mấy ông là nhơn vật quan trọng mình chạy theo thì chết chùm. Chi bằng mình giả
dạng thường dân, chạy cà nhỏng ra sau ruộng, chắc ăn hơn. Chẳng lẽ tụi nó kéo đại đội
hùng binh ra ruộng để bắt hai đứa tay không, ốm nhom ốm nhách như tụi mình?
Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn chương đã cho rằng “Người miền Nam nói chung,
cả nhà văn nữa, viết như nói”. Khi nói câu ấy, họ có hàm ý chê văn miền Nam thiếu trau
chuốt, gọt giũa, nói sao viết vậy, dùng nhiều từ ngữ đời thường, câu cú không thành, ý tứ
thiếu chặt chẽ,… Đó là đặc điểm văn phong Nam Bộ của một số sáng tác ở giai đoạn văn
học quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Đến với những tác phẩm trong giai đoạn sau này, đặc biệt là
trong các sáng tác của các nhà văn như Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Sơn Nam, văn
chương Nam Bộ đã có sự phát triển vượt bậc và trở thành đặc sản tinh thần của vùng sông
nước nói riêng và góp phần làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam hiện đại nói
chung.

Điều quan trọng hơn để nhiều nhà nghiên cứu đề cao vai trò của Sơn Nam với tư cách
là một nhà văn hóa Nam Bộ chính là ở cách sử dụng ngôn ngữ, ở văn phong của ông. Với

122
sự kế thừa và phát huy từ lớp nhà văn Nam Bộ tiền bối đàn anh, như: Hồ Biểu Chánh,
Nguyễn Trọng Quản, Phú Đức và các nhà văn cùng thời như Phi Vân, Bình Nguyên Lộc,…
Đặc biệt là trong ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật. Nó mang những đặc trưng đầy
đủ về phương ngữ Nam Bộ trên các bình diện từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, đến phong
cách diễn đạt.

3.3.2 Vài nét về cách sử dụng thành ngữ


Việc sử dụng các chất liệu dân gian trong truyện ngắn của Sơn Nam vừa có những nét
chung vừa có nét riêng biệt. Điểm chung đó cũng chính là việc vận dụng một cách nhuần
nhuyễn kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ của người Việt. Điểm riêng là trong quá trình
vận dụng, nhà văn đã có sự cải biên cho phù hợp với tính cách của con người và đặc điểm
của vùng đất Nam Bộ. Trong sáng tác văn học, việc vận dụng thành ngữ góp phần không
nhỏ trong việc khẳng định giá trị nghệ thuật của tác phẩm và truyền tải những thông điệp
của nhà văn. Với xu hướng lựa chọn những thành ngữ có tính chất khẩu ngữ cao phù hợp
với ngữ cảnh và có sự biến đổi về hình thức phát âm theo tiếng nói chung của người dân
Nam Bộ, Sơn Nam đã tạo được một cách rõ nét sắc thái dân gian Nam Bộ trong các truyện
ngắn của mình.

Thành ngữ là một tổ hợp từ có tính chất cố định về mặt hình thức. Ngoài đặc điểm mang
màu sắc phong cách, thành ngữ còn mang đến cách nói biểu cảm, tính trừu tượng và đặc
biệt là tính khái quát khá cao. Khi đi vào các tình huống cụ thể, thành ngữ được sử dụng để
phản ánh bản chất của sự vật hiện tượng hoặc thay cho lời nhận xét đánh giá của chính
người phát ngôn. Trong tổng số 88 truyện khảo sát, theo thống kê chưa thật đầy đủ có
khoảng 300 lượt xuất hiện thành ngữ dưới hai dạng: thành ngữ nguyên mẫu và thành ngữ
biến đổi. Việc lựa chọn và sử dụng thành ngữ đã tạo ra những hiệu quả nhất định cho
truyện ngắn Sơn Nam, phần nào làm nên phong cách nghệ thuật đặc sắc của ông.

Số lượng thành ngữ xuất hiện trong truyện ngắn Sơn Nam khá lớn đó là một trong
những cách để nhà văn thể hiện các mối quan hệ khác nhau trong xã hội thông qua chính
cách nói, cách ví von so sánh của con người Nam Bộ. Việc sử dụng thành ngữ còn góp
phần làm cho truyện ngắn của Sơn Nam ngắn gọn, súc tích và giàu ý nghĩa biểu trưng. Sơn
Nam có xu hướng lựa chọn những thành ngữ có tính chất khẩu ngữ cao, thể hiện tính đa
phong cách mà ít khi lựa chọn những thành ngữ có tính chất gọt giũa trang trọng. Một số
trường hợp tiêu biểu như: chân lấm tay bùn, mặt mốc chân phèn, khôn nhà dại chợ, chân

123
ướt chân ráo, chết vinh hơn sống nhục, có tiếng mà không có miếng, cơm không lành canh
không ngọt, đơn thương độc mã, dục tốc bất đạt, đồng tâm nhất trí, ăn gởi nằm nhờ, trời
xui đất khiến, vai u thịt bắp, nói hươu nói vượn, khôn nhà dại chợ,…

Khi nói về người nông dân, người ta thường vận dụng thành ngữ “chân lấm tay bùn”.
Thành ngữ này vốn mang sắc thái nghĩa dương tính, nó hàm ý chỉ công việc của người
nông dân chứ không hàm ý chê bai. Ở trường hợp này, Sơn Nam đã thay thế bằng một cách
nói rất Nam Bộ. Ta thử dừng lại xem cách vận dụng thành ngữ “mặt mốc chân phèn” trong
truyện ngắn Ăn to xài lớn. Đặt thành ngữ trên vào lời của nhân vật cô Tư Hạnh để bênh
vực cho lý lẽ của người yêu là anh Giáo Trích vốn thích “ăn to xài lớn” và chê bai những
người nông dân cùng đẳng cấp với mình như sau: “Dầu sao đi nữa thầy ta cũng là người đi
xa mới về chớ đâu phải hạng mặt mốc chân phèn tối ngày ở xó rừng”. Khi vận dụng cách
nói “mặt mốc chân phèn” trong một tình huống cụ thể, Sơn Nam đã nêu bật lên được đặc
điểm về người nông dân vùng đồng bằng sông nước, đồng thời cũng giúp người đọc nhận
ra đôi điều về nhân vật cô Tư Hạnh. Rõ ràng cô là người thích “ăn to xài lớn”!

Lớp thành ngữ có biến đổi được Sơn Nam sử dụng nhiều hơn và tạo được ấn tượng
riêng về cách nói mang đậm sắc thái Nam Bộ. Thông thường, sự biến đổi ở đây nằm trên
phương diện ngữ âm, trên một vài từ chính hoặc cả thành ngữ theo chính cách phát âm của
người Nam Bộ. Chẳng hạn như: ngó cao đau ót (trèo cao té nặng), nước đổ lá môn (nước
đổ lá khoai), rung cây nhát khỉ (rung cây dọa khỉ), tấn thối lưỡng nan (tiến thoái lưỡng
nan), vàng thiệt không sợ lửa (vàng thật không sợ lửa), cao bay xa chạy (cao chạy xa bay),
hậu sanh khả úy (hậu sinh khả úy), sanh sau đẻ muộn (sinh sau đẻ muộn), sanh sôi nảy nở
(sinh sôi nảy nở), đờn khảy tai trâu (đàn gảy tai trâu), ăn gởi nằm nhờ (ăn gửi nằm nhờ), lỡ
cười lỡ khóc (dở khóc dở cười), vạn sự bằng an (vạn sự bình yên), tay lấm chơn bùn (chân
lấm tay bùn), … Với cách vận dụng có ý thức như vậy, Sơn Nam đã khẳng định những đặc
điểm về văn hóa Nam Bộ trên phương diện ngôn ngữ bằng chính cách phát âm của người
Nam Bộ. Những từ ngữ vốn đã quen thuộc, có tính chất cố định trong vốn ngôn ngữ toàn
dân đã được nhà văn dùng theo thói quen ăn nói hàng ngày của người Nam Bộ. Ở đây,
chúng ta có thể nhận ra những nét đặc trưng trong cách phát âm, dùng từ của người dân
đồng bằng sông Cửu Long. Điều đáng ghi nhận đó chính là lời ăn tiếng nói của người dân
Nam Bộ xưa và cả nay đều được phản ánh rõ nét trong các sáng tác của Sơn Nam. Đây là
sự kế thừa của lối văn phong truyền thống Nam Bộ kể từ những những sáng tác bằng chữ
quốc ngữ đầu tiên được phổ biến. Đến với Sơn Nam lối văn này đã được định hình và tạo

124
được tiếng nói riêng, bản sắc riêng cho mình. Một nhà văn có tấm lòng như Sơn Nam quả
thật đã có ý thức giữ gìn và phát huy cái vốn quý mang tính đặc trưng ấy.

Truyện ngắn Con Bảy đưa đò kể về một thời vàng son của con gái đưa đò nhưng có tài
hát đối đáp nổi tiếng trong vùng. Cậu trai con của ông hương ấp mê cô Bảy nhưng cô
không để ý đến, dù thân phận có kém hơn. Thiên hạ hay biết họ đã không tiếc lời mỉa mai
con Bảy: “Ừ trời cao có mắt. Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị. Trèo cao té nặng. Ngó cao đau
ót”. Trong tình huống này, để thể hiện lời gièm pha của dân chúng khi họ chưa hiểu rõ con
người của cô Bảy, Sơn Nam đã vận dụng liên tiếp bốn thành ngữ có tính chất bổ sung nghĩa
cho nhau nhằm đạt ý đồ nghệ thuật của mình. Đặc biệt, chất Nam Bộ đã được khắc họa một
cách có ấn tượng qua việc tác giả cố ý nhấn mạnh thêm bằng câu thành ngữ “ngó cao đau
ót”. Trong hoàn cảnh như thế người ta thường nói “trèo cao té nặng” là đủ, với Sơn Nam
ông còn bổ sung một cách nói rất dân gian mà có lẽ chỉ ở riêng khu vực miệt vườn sông
nước Cửu Long mới có: “Ngó cao đau ót”. Khi cả hai thành ngữ được kết hợp bên cạnh
nhau đã làm tăng thêm tính chất của sự việc, đồng thời còn giúp ta thấy được sự đa dạng
trong cách vận dụng của nhà văn.

Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ và lối nói ví von so sánh là một trong những yếu tố
góp phần thể hiện tính chất khẩu ngữ trong tác phẩm văn học. Với đặc trưng mang tính khái
quát cao và giàu tính hình tượng những phương tiện ngôn ngữ này có tác dụng cao trong
việc miêu tả hiện thực cuộc sống hàng ngày của người dân Nam Bộ. Thành ngữ, tục ngữ có
đời sống lâu bền trong dân gian, đó là môi trường để nó hình thành và phát triển. Truyện
ngắn của nhà văn Sơn Nam đã thành công khi đặt đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng về
cách nói của dân Nam Bộ. Chính điều này đã góp phần làm cho truyện ngắn của Sơn Nam
nói riêng và sáng tác của ông nói chung gần gũi, hấp dẫn hơn với nhiều đối tượng độc giả.

3.3.3 Hiện tượng giọng kể chuyện mang đậm sắc thái dân gian Nam Bộ
Nhiều người cho rằng tác phẩm của Sơn Nam chỉ là những trang ghi chép lại từ những
chuyến đi thực tế. Trong trường hợp này, có thể dùng cách nói của Nguyễn Văn Hạnh
“chính nhà văn tạo ra tác phẩm và tác phẩm tạo ra nhà văn” để khẳng định giá trị của truyện
ngắn Sơn Nam. Theo chúng tôi, chính việc đi và ghi nhớ đã làm nên tên tuổi của nhà văn,
nhà biên khảo Sơn Nam theo một cách riêng, khó có thể nhầm lẫn. Vốn sống và sự trải
nghiệm là điều không thể thiếu giúp ta khẳng định vai trò và vị trí của nhà văn Sơn Nam.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Q.Thắng đã đánh giá rất đúng về Sơn Nam khi cho rằng “muốn

125
tham quan Đồng bằng sông Cửu Long thì Sơn Nam là một hướng dẫn viên đáng tin cậy”.
Ông cũng đã nhận xét “giọng kể chuyện của tác giả thường khi rất giản dị, không có chút gì
trau chuốt” [76, 1214]. Trung thành với lối kể chuyện theo mô típ chuyện dân gian của
người dân Nam Bộ xưa, đôi lúc phóng đại câu chuyện theo kiểu chuyện Bac Ba Phi, Sơn
Nam dẫn người đọc về thế giới rất riêng của vùng sông nước, và cách dựng truyện cũng
theo lớp lang, tuần tự theo thời gian, không phải truyện nào cũng đặc sắc, nhưng trong mỗi
truyện đều có những chi tiết ấn tượng.

Truyện ngắn Sơn Nam có lối viết thật tự nhiên, hấp dẫn. Mỗi truyện như một lời kể
dung dị của một người dân quê – chân thành, chất phác nhưng không kém phần sâu sắc.
Đọc truyện, độc giả quên rằng nhà văn đang vẽ nên một thế giới hư cấu, mà có cảm tưởng
như chính mình đang sống, đang hít thở bầu không khí của “hương rừng Cà Mau”, để được
“vọc nước giỡn trăng” hay tham gia vào những cuộc “hát bội giữa rừng” kỳ thú,… “Truyện
ngắn Sơn Nam đạt được điều đó bởi những gì ông viết đều là vốn sống, vốn văn hóa của
một con người lịch lãm, dường như ông không viết truyện mà đang trải lên trang văn khung
cảnh thiên nhiên, cuộc sống hàng ngày ở xung quanh mình” [26, 96]. Việc sử dụng nguồn
tư liệu từ kho tàng truyện kể dân gian Nam Bộ đã tạo ra cho truyện ngắn của Sơn Nam tính
chất bình dị và gần gũi với người dân lao động. Tác giả Hoài Anh khi viết về nhà văn Sơn
Nam trên tạp chí Văn hóa đã đưa ra nhận xét: “Ngôn ngữ kể chuyện của anh dung dị, sinh
động hấp dẫn, có màu, có tiếng kết hợp với động tác, không những đã góp phần tô đậm tính
cách nhân vật mà còn vẽ lên bộ mặt tinh thần của từng con người Nam Bộ”.

Sắc thái dân gian Nam Bộ được in đậm khá rõ nét trong cách xây dựng chủ thể kể
chuyện trong truyện ngắn của nhà văn Sơn Nam. Với nhiệm vụ kể lại câu chuyện, có vai trò
quan trọng trong tác phẩm tự sự, chủ thể kể chuyện không những thể hiện nhiệm vụ dẫn
truyện mà còn thể hiện trình độ sáng tạo của nhà văn. Dù được gọi bằng những cái tên khác
nhau như: người kể chuyện, người thuật truyện, người trần thuật, người dẫn truyện,… thì
các thuật ngữ trên đều gặp nhau ở điểm xem “chủ thể kể chuyện là chủ thể của lời kể
chuyện, là người đứng ra kể trong tác phẩm văn học” [38, 149]. Chủ thể kể chuyện có thể
xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở phương diện thể hiện sắc thái dân gian Nam
Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam, chúng tôi chỉ dừng lại khảo sát chủ thể kể chuyện ở dạng
vô nhân xưng.

Trong truyện ngắn Sơn Nam, chủ thể kể chuyện dạng vô nhân xưng chiếm 66/85
truyện được khảo sát. Người kể chuyện dùng ngôi kể thứ ba, đứng từ điểm nhìn bên ngoài
126
của tác phẩm để trần thuật. Sơn Nam đã kế thừa hình thức kể chuyện đặc trưng của văn
phong truyền thống, bên cạnh đó, ông cũng đã phát huy những đặc điểm của hình thức này
trong văn học hiện đại bằng cách chêm xen những nhận định, đánh giá của bản thân. Nhờ
đó, truyện ngắn Sơn Nam đã đảm bảo được độ chân thực, tính khách quan dù đó có thể là
những câu chuyện do nhà văn ghi chép lại sau khi đi và quan sát thực tế.

Một trong những mảng đề tài chính trong truyện ngắn Sơn Nam là đề tài về cuộc khẩn
hoang Nam Bộ. Ở mảng đề tài này, Sơn Nam chủ yếu sử dụng hình thức chủ thể kể chuyện
vô nhân xưng, trong Hương rừng Cà Mau chiếm 52/66 truyện; trong Biển cỏ miền Tây
chiếm 14/19 truyện. Các truyện ngắn tiêu biểu như: Bác vật xà bông, Cô Út về rừng, Ruộng
lò bom, Hương rừng, Nhứt phá sơn lâm, Hai ông già, Người mù giăng câu, Chiếc ghe ngo,
Tháng Chạp chim về, Con rắn ri voi, Chuyện rừng tràm, Hát bội giữa rừng, Con Bảy đưa
đò, Hai cõi U Minh, Ngày hội ba khía, Ngày xưa tháng chạp, Vẹt lục bình, Tục lệ ăn trộm,
Cấm bắt rùa, Con Bà Tám,… Cách sử dụng dạng chủ thể kể chuyện vô nhân xưng có tác
dụng rất lớn trong việc phản ánh về thiên nhiên và cuộc sống con người Nam Bộ. Ngoài ra
ở một số truyện hình thức kể chuyện này còn góp phần thể hiện sự phong phú của những
sản vật địa phương. Thiên nhiên được miêu tả bằng một giọng văn tự hào, có sự xen lẫn
giữa kể, tả và chen vào những suy nghĩ nhận định của người kể. Như đã khẳng định, hiệu
quả của việc lựa chọn ngôi kể thứ ba đã giúp truyện ngắn của Sơn Nam đạt được tính chất
khách quan, chân thực và chính xác. Đó dường như là những câu chuyện kể của dân gian
và trong dân gian, nó có thể diễn ra ở bất kỳ thôn xóm, làng xã nào của vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Người đọc có thể thay thế địa danh cụ thể trong mỗi truyện để trở thành
câu chuyện về chính quê hương mình. Nhờ đó, truyện của ông đã tạo được sự gần gũi cho
người đọc, người thưởng thức. Và qua đó, độc giả như được quay về với không gian và thời
gian của thời đi mở đất với những chuyện bắt sấu, ăn ong, đánh cọp, chuyện làm lúa và
chọn kiểu canh tác như thế nào cho phù hợp với khí hậu và địa hình.

Mảng đề tài thứ hai trong truyện ngắn Sơn Nam hướng về những thay đổi trong cuộc
sống, sinh hoạt của con người Nam Bộ khi có xâm lăng của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Ở mảng đề tài này, nhà văn đã nêu bật lên hình ảnh về con người Nam Bộ trên một phương
diện khác. Đó là tính kiên cường, bất khuất, quyết giữ đất giữ vườn của con người Nam Bộ
và một tình cảm yêu nước chân thành, quyết tâm bảo tồn những nét đẹp truyền thống đạo lý
của người Việt và ý thức giữ gìn sự giàu có của thiên nhiên sông nước miệt vườn. Sơn Nam
đã tập trung khai thác ở nhiều góc cạnh khác nhau những mối quan hệ giữa con người với

127
cộng đồng làng xã, với quê hương đất nước và với kẻ thù xâm lược. Tiếp tục mạch truyện
trên, ông có dịp khai thác rõ hơn và giới thiệu những chuyện tai nghe mắt thấy trên bước
đường “đi kháng chiến” của mình. Trong hồi ký, Sơn Nam tâm sự khi còn ở chiến khu IX
có lần ông được nghe dân chúng kể về chuyện một con trâu đã nhỏ những giọt nước mắt
khi thấy chủ bị giặc bắt phải tự tay xúc lúa do mình trồng được đổ xuống sông. Một hình
ảnh gây xúc động như thế để lại ấn tượng trong lòng Sơn Nam rất lâu và trong cuộc đời
sáng tác của mình, Sơn Nam luôn mong có dịp để đưa nó vào một truyện ngắn nào đấy.
Trong Hương rừng Cà Mau những truyện được sáng tác như thế khá nhiều. Đó là kết quả
của một vốn sống, vốn hiểu biết thực tế phong phú mà nhà văn đã tích lũy được. Và có lẽ
cũng vì vậy mới có những nhà văn sau này lần theo truyện ngắn Sơn Nam để hiểu thêm về
những sáng tác và về chính con người nhà văn Nam Bộ này. Với 19 truyện được tuyển
chọn đưa vào tập Biển cỏ Miền Tây, cũng vẫn với giọng văn, giọng kể truyện và lối viết đặc
trưng ấy, Sơn Nam đã dẫn dắt người đọc đi khắp các nẻo đường của đồng bằng Sông Cửu
Long để chứng kiến, thâm nhập vào cuộc sống, sinh hoạt của những người dân đồng bằng.

Ngoài ra, Sơn Nam còn tạo cho truyện ngắn của mình một nét riêng trong việc xây
dựng cấu trúc trần thuật. Điều này bắt nguồn từ cảm hứng sáng tác của nhà văn đối với chủ
đề khai khẩn đất ở Nam Bộ trong buổi đầu lịch sử. Những chuyện đuổi cọp, bắt sấu, nghệ
thuật kéo trúm của người dân đồng bằng, chuyện lột da rắn ri voi để “xuất khẩu”, chuyện
tháng chạp chim về làm tổ, chuyện con cá chết dại nổi trắng cả một vùng sông nước,
chuyện ngày hội ba khía với hàng trăm hàng ngàn con, chuyện “ăn ong” ở rừng U Minh,…
tất cả vốn đã mang màu sắc dân gian Nam Bộ đậm nét. Và quan trọng đó chính là cách thức
tổ chức, bố trí và sắp xếp các chi tiết của nhà văn. Điều này có sự liên quan mật thiết đến
cách sử dụng ngôi thứ trong việc kể chuyện của Sơn Nam như đã đề cập ở trên. Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá: “Hương rừng Cà Mau được viết bằng một cây bút già dặn,
cách trần thuật ngắn gọn, súc tích mà ly kỳ, hấp dẫn, rất có duyên. Mỗi truyện xoay quanh
một tình tiết thú vị” [39, 44].

Viết theo lối dân gian là một nét độc đáo trong các sáng tác của Sơn Nam. Sau này
trong tập truyện Chuyện xưa tích cũ viết chung với nhà báo Tô Nguyệt Đình, yếu tố dân
gian Nam Bộ cũng được Sơn Nam chú ý và thể hiện rõ nét hơn. Trước khi đặt bút viết, Sơn
Nam đã xác định đối tượng mà ông hướng tới đó chính là những con người nơi mình sinh
ra và lớn lên, những người dân sông nước miệt vườn. Vì thế trong một số tác phẩm, Sơn
Nam lấy cảm hứng từ truyện dân gian Nam Bộ với một cách viết giản dị, mang những đặc

128
điểm của thi pháp truyện dân gian ngay từ cách đặt tên truyện như: Hai con cá, Con sấu
cuối cùng, Hai viên ngọc, Con heo khịt, Hết thời oanh liệt, Con rắn, Con rắn ri voi, Cái tổ
ong, Miễu bà Chúa Xứ, Sông Gành Hào, Con cá chết dại, Hai cõi U Minh, Ngày xưa tháng
chạp, Tục lệ ăn trộm,… Ngoài ra, trong một số truyện như: Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Con
sấu cuối cùng, Sông Gành Hào,… Sơn Nam đã lấy cảm hứng từ những truyện kể dân gian
về sấu và cọp. Trong những truyện trên, Sơn Nam không đóng vai trò là người kể lại một
giai thoại, một câu chuyện dân gian mà đặc điểm nổi bật của truyện Sơn Nam là xen vào
mỗi truyện một khối lượng kiến thức không nhỏ về đất đai, sông ngòi, những đặc điểm về
thiên nhiên, lịch sử hình thành của khu vực,… Những truyện có cấu trúc như vậy thường
nằm trong mạch cảm xúc viết về những sản vật, địa danh, lịch sử của địa phương. Có lẽ đây
là dụng ý của chính nhà văn Sơn Nam nhằm khắc họa những dấu tích ban đầu về những
người đi khai hoang mở đất, đồng thời đây còn là sự tự thể hiện lòng yêu nước sâu sắc,
thầm kín của chính nhà văn.

Qua những nội dung trên, truyện ngắn Sơn Nam đã có thể tạo được sự hấp dẫn đối
với nhiều thế hệ độc giả. Điểm xuất phát của cuộc đời và sự nghiệp của Sơn Nam đi từ ven
rừng U Minh đến các tỉnh khác của đồng bằng sông Cửu Long rồi mở rộng ra đô thị Sài
Gòn - Gia Định. Cả cuộc đời cầm bút ông đều hướng về quê hương Nam Bộ, viết cho quê
hương Nam Bộ với một sự nhất quán và một lòng say sưa. Vì vậy sự yêu mến, trân trọng
của người dân Nam Bộ xưa và nay luôn dành cho Sơn Nam cũng là điều dễ hiểu. Các
truyện ngắn của ông phần nhiều là những truyện rất ngắn có độ dài khoảng vài ba trang và
cách thể hiện như những mảnh đời, những lát cắt nhỏ của thiên nhiên và cuộc sống con
người vùng bán đảo Cà Mau. Truyện của Sơn Nam mang đậm tính chất dân gian Nam Bộ
còn ở chỗ những con người, những nhân vật trong truyện của ông cũng có thể là bất kỳ
người dân nào sinh sống trên vùng đồng bằng sông nước Cửu Long. Đọc truyện Sơn Nam
giúp chúng ta biết thêm nhiều điều về vùng đất và con người Nam Bộ. Bằng cách viết giản
dị, mộc mạc, nhà văn Sơn Nam đã có những trang văn in đậm những sắc thái dân gian Nam
Bộ. Ngay từ khi còn đi học ông đã tâm nguyện phải làm gì đó cho vùng quê nghèo của
mình. Chính vì vậy, cả cuộc đời của nhà văn, nhà biên khảo Sơn Nam đã dành trọn cho
mảnh đất Nam Bộ thân yêu với một lòng chung thủy son sắt trước sau như một. Sơn Nam
được trân trọng đánh giá là “hơi thở của miền Nam nước Việt” và “muốn hiểu Nam Bộ hãy
tìm đọc Sơn Nam”. Những sáng tác của ông thật gần gũi với quê hương và con người vùng

129
đồng bằng sông Cửu Long. Càng đi vào khám phá tác phẩm của Sơn Nam người đọc càng
nhận ra nhiều điều thú vị.

Tác phẩm của Sơn Nam là sản phẩm của những chuyến “đi và ghi nhớ”. Nhà văn
Sơn Nam quan niệm: “không phải cứ ghi âm lại cuộc nói chuyện của người dân Nam bộ là
thành văn chương được đâu”. Văn chương Nam Bộ có một cái gì đó khác nữa và vì thế nó
có sức lôi cuốn rất riêng đối với độc giả. Thật đúng khi nói văn chương Nam Bộ là một thứ
văn gần với ngôn ngữ nói, không nặng trau chuốt mượt mà. Phong cách diễn đạt của Sơn
Nam nhìn chung cũng có những đặc điểm đặc trưng ấy, thêm vào đó, ông đã có những
bước tiến vững chắc trong việc khẳng định đặc điểm của văn phong Nam Bộ tính từ thời
điểm những sáng tác bằng chữ quốc ngữ ở Nam Bộ đầu thế kỷ cho đến nay. Đến với Sơn
Nam, ngôn ngữ và lời văn Nam Bộ đã khẳng định được vẻ đẹp riêng của mình.

Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đất rộng lớn và phì nhiêu của miền đồng
bằng Nam Bộ. So với các miền trong cả nước thì miền Tây Nam Bộ là vùng đất mới nhưng
nhiều hứa hẹn của lưu dân Việt vùng Bắc và Trung Trung Bộ thế kỷ XVII. Có nhiều câu ca
của những người đi tiên phong mở đất như muốn mời gọi thêm bạn bè, đồng hương vào
cuộc đất mới để khẩn hoang, lập ấp; hoặc ít ra cũng để thỏa mãn chí khí của người trai rày
đây mai đó. Trải qua hơn ba thế kỷ, đất nuôi người, người bảo vệ và mở rộng đất, dần dà
đất và người gắn bó với nhau. Môi trường sống mới đã tạo nên một hoàn cảnh mới, từ đó
cũng làm thay đổi lớp cư dân người Việt này một tính cách mới, một tư duy khác. Những
đặc trưng văn hóa mới cũng được hình thành song song với những đặc điểm ngôn ngữ mới.

KẾT LUẬN
1. Sơn Nam là một hiện tượng hiếm có của văn học Nam Bộ. Sinh thời, ông từng
được biết đến bằng nhiều tên gọi trân trọng như: nhà văn Nam Bộ điển hình, nhà văn hóa
Nam Bộ, nhà Nam Bộ học, ông già Nam Bộ, ông từ giữ đền của đất Nam Bộ, ông già đi bộ,
hơi thở của miền Nam đất Việt,… Tất cả các tên gọi trên đều có một điểm chung đó chính
là tính chất Nam Bộ, đặc điểm Nam Bộ. Sự xuất hiện của các tên gọi này bắt nguồn từ

130
những đóng góp của Sơn Nam đối với văn hóa, văn học Nam Bộ. Ông là người am hiểu
nhiều vấn đề về Nam Bộ. Các sáng tác của ông đã giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu
những vấn đề của Nam Bộ từ nhiều phương diện: lịch sử, văn hóa, xã hội, phong tục, tập
quán, lễ hội, phương ngữ, ngành nghề,... Vì thế có người đã cho rằng một trong những cách
tốt nhất để hiểu về Nam Bộ là hãy tìm đọc Sơn Nam! Có thể nói mỗi vùng miền trên đất
nước ta đều có những nhà văn, những tác phẩm mang dáng dấp đặc trưng của nó. Đối với
văn học Nam Bộ khi nói đến văn học miền Đông Nam Bộ ta không thể không đọc Bình
Nguyên Lộc và đến với văn học của miền Tây Nam Bộ, miền sông nước Cửu Long mà bỏ
qua tác phẩm của Sơn Nam sẽ là một thiếu sót rất lớn. Ở đó ta cần ghi nhận đóng góp đặc
biệt trong toàn bộ sự nghiệp của Sơn Nam là mảng truyện ngắn viết về Nam Bộ. Đây có thể
xem là thành tựu cả một đời cầm bút của một nhà văn tâm huyết với đất và người Nam Bộ -
Sơn Nam.

2. “Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam” là đề tài mà chúng tôi rất
tâm đắc, dù vậy trong quá trình khảo sát hẳn sẽ còn những thiếu sót. Chúng tôi hy vọng
rằng luận văn sẽ góp một phần nhỏ trong việc khẳng định tính chất văn hóa Nam Bộ trong
truyện ngắn Sơn Nam nói riêng và giá trị truyện ngắn của Sơn Nam trong giai đoạn 1954 -
1975 nói chung. Có thể nói, văn hóa Nam Bộ in đậm trong toàn bộ sự nghiệp của Sơn Nam
trên cả hai phương diện sáng tác và biên khảo. Trong đó, khi nhắc đến Sơn Nam với tư
cách là một nhà văn, nhiều nhà nghiên cứu, giới phê bình và cả độc giả yêu mến truyện của
ông đều đánh giá rất cao những sáng tác trong giai đoạn 1954 - 1975, đặc biệt là tập truyện
Hương rừng Cà Mau. Có thể nói, mảnh đất Nam Bộ, con người Nam Bộ đã hiện lên một
cách rõ ràng và đầy đủ dưới ngòi bút tài hoa của ông. Chỉ xét riêng khoảng 100 truyện ngắn
sáng tác trong giai đoạn này đã đủ để khẳng định chỗ đứng của nhà văn Sơn Nam trong văn
học khu vực Nam Bộ nói riêng và văn học cả nước nói chung. Với cách viết giản dị pha lẫn
đặc điểm của một cây bút khảo cứu, qua truyện ngắn của mình, Sơn Nam đã khái quát lên
bức tranh toàn cảnh về Nam Bộ thời khai phá mở đất và giai đọan khi có sự xuất hiện của
thực dân Pháp. Đó cũng là hai mảng đề tài chính trong truyện ngắn Sơn Nam. Giá trị của
truyện ngắn Sơn Nam và các sáng tác khác của ông nằm ở khả năng thức tỉnh người đọc
tình yêu quê hương đáng quý, giúp họ hiểu được 1/3 đất nước Việt Nam tươi đẹp của chúng
ta. Và vì thế chúng ta có quyền tự hào về một nhà văn và sự nghiệp của ông đã có những

131
đóng góp quan trọng trong việc khẳng định vẻ đẹp của người Việt ở phương Nam, khẳng
định truyền thống lịch sử, văn hóa, địa lý của khu vực.

3. Với 300 năm lịch sử hình thành và phát triển, miền đất mới - Nam Bộ đã có
những thay đổi không nhỏ trong cả đời sống tinh thần và vật chất. Ngày nay, đến với Nam
Bộ là đến với một miền đồng bằng trù phú, nhà cửa chạy dọc trên các mé sông, dòng kinh,
ghe thuyền tấp nập qua lại; đến với những con người hiếu khách, sống tình nghĩa nhân ái và
đặc biệt là đến với vựa lúa lớn nhất nước. Để hình dung được mảnh đất ấy thời xa xưa như
thế nào, hãy tìm đọc những truyện ngắn viết về “miền Tây đất mẹ” của Sơn Nam trong giai
đoạn 1954 - 1975. Đi vào truyện Sơn Nam, người đọc sẽ nhận ra ngay những lát cắt đời
sống của người dân Nam Bộ trong khoảng thế kỷ XIX - XX. Thông qua đó, những nét biểu
hiện của văn hóa Nam Bộ được tác giả tô đậm và khái quát thành đặc trưng - sắc thái
phương Nam trong hệ thống chỉnh thể văn hóa Việt. Những mô tả về cách ăn, ở, đi lại, nói
năng, sinh hoạt giải trí, tín ngưỡng thờ cúng,… trong từng truyện như nguồn tư liệu tham
khảo phong phú, sống động cho các nhà nghiên cứu, tìm hiểu về mảnh đất và con người
Nam Bộ. Kiến thức và sự trải nghiệm thực tế đã giúp ông có những trang văn chân thực và
sinh động. Có thể nói, các yếu tố văn hóa trong truyện ngắn Sơn Nam cũng chính là bản sắc
đọng lại trong khoảng 300 năm hình thành và phát triển vùng đất mới. Và như thế, con
người Nam Bộ, tính cách Nam Bộ, phẩm chất Nam Bộ đã ngời sáng lên qua những trang
viết mộc mạc, chân thành, thấm đượm tình người của Sơn Nam.

4. Trong cơ chế giao lưu, lan truyền, tiếp nhận, biến đổi, hội nhập văn hóa, các biến
đổi của văn hóa miền Nam là một quá trình thay đổi để thích nghi tồn tại, bao dung để độc
lập văn hóa. Trong khung biến đổi, văn hóa Nam Bộ vẫn hội tụ những đặc điểm của một
chỉnh thể văn hóa có bản sắc của dân tộc Việt Nam, không lầm lẫn, pha trộn vào các nền
văn hóa khác. Bên cạnh đó, văn hóa Nam Bộ đã tiếp thêm cho mình một sức sống mới, một
sức sáng tạo mới trên bản ngã văn hóa Việt Nam. Văn hóa Nam Bộ biết bảo tồn những giá
trị đã ổn định, kế thừa và biến đổi những yếu tố mới phù hợp với dân tộc, xây dựng cho bản
thân nét địa phương biểu hiện tính đa dạng trong sự thống nhất chung. Những khung cảnh
tự nhiên và xã hội, những mối quan hệ của con người trong truyện ngắn Sơn Nam đã in
đậm những nét văn hóa đặc trưng của vùng đất phía nam tổ quốc. Chính sức sống vượt lên
cảnh ngộ thông qua những câu chuyện mà nhà văn Sơn Nam đã kể từ những ngôi làng,
132
dòng sông, con rạch, khu rừng đã chứng minh sức sống văn hóa của dân tộc. Nam Bộ là
mảnh đất mới vì thế văn hóa Nam Bộ cũng là một nền văn hóa mới. Tuy nhiên cái mới ở
đây được hình thành trên cơ sở kế thừa những yếu tố truyền thống và có những biến đổi
phù hợp với đặc điểm của một môi trường, một điều kiện sống hoàn toàn khác. Nắm vững
điều đó, truyện ngắn Sơn Nam nói riêng và toàn bộ văn nghiệp của ông nói chung đã phản
ánh một cách chân thực và sinh động những đặc điểm về văn hóa Nam Bộ từ nếp ăn, nếp
nghĩ, nếp sinh hoạt trong đời sống thường nhật đến những thú vui, giải trí đặc trưng của
khu vực. Viết về mảnh đất và con người Nam Bộ là tâm huyết cả đời của nhà văn Sơn
Nam.

5. Vốn là một nhà văn sống dưới chế độ cũ, để tồn tại cùng sự nghiệp văn chương,
Sơn Nam đã chọn cách viết văn theo kiểu dã sử hiện đại và khảo cứu lịch sử vùng đất khẩn
hoang Nam Bộ. Ông nói cách viết này được nhiều độc giả quan tâm, lại không khiêu khích
chính quyền Sài Gòn trước 1975. Tuy nhiên, người đọc tinh tế, có sự đồng cảm cao, sẽ dễ
dàng nhận ra tinh thần yêu nước, tưởng nhớ cội nguồn tiên tổ trong từng trang viết. Chọn
cách viết dã sử hiện đại, Sơn Nam đã thổi vào những câu chuyện về vùng đất và con người
Nam Bộ những đặc điểm của hình thức tự sự xưa nhất của văn học. Đặc biệt, nhà văn Sơn
Nam đã tạo ra cho truyện ngắn của mình tính thống nhất cao từ cách lựa chọn đề tài đến
cách xây dựng cốt chuyện, kết cấu, cách xây dựng nhân vật, cách vận dụng ngôn ngữ,… tất
cả đều hướng đến mục đích làm bật lên những đặc điểm về mảnh đất, con người và đặc biệt
là văn hóa Nam Bộ. Để đạt được điều đó, bản thân nhà văn phải là người có tầm văn hóa
cao và có ý thức về sự trau dồi tiếng Việt. Chúng tôi xin mượn những dòng sau để kết lại đề
tài “Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong truyện ngắn Sơn Nam”: “Khi Sơn Nam trước tác, thì
mỗi trang viết của ông có thể xem là sự lên tiếng của văn hóa Nam Bộ. Ông đã tích tụ vào
mình cả một nền văn minh mà chính ông đã đặt tên là “văn minh miệt vườn”, cả một nền
văn hóa mà chính ông đã gọi là “văn hóa sông nước” để làm trữ lượng cho một đời cầm
bút. Vì thế, khi ông thả những dòng chữ trên trang giấy, thì đó không còn là những nét
mực, mà đó là những gợn sóng Cửu Long sóng sánh phù sa. Hơi thở Nam Bộ, không khí
miệt vườn thấm đượm, chan hòa đến từng dòng văn, từng lời chú thích”
[www.http//my.orpera.com, Sơn Nam – nhà văn của vùng đất mới Nam Bộ]. Từ đó, ông
cũng luôn hiện ra như một sự hòa hợp kỳ lạ: vóc dáng gầy guộc mà nội lực thâm hậu. Có lẽ

133
nhờ vốn tích tụ khổng lồ mà ông đã để lại hơn 60 đầu sách thuộc nhiều thể loại từ biên
khảo đến sáng tác, trong đó có những cuốn sách đã in đi in lại không biết bao nhiêu lần,
nhiều cuốn sách đã thành cẩm nang, thành sách gối đầu giường đối với những người muốn
tìm hiểu về đất và người Nam Bộ. Bất cứ người viết trẻ nào cũng có thể nhận từ ông bài
học về lòng yêu đời và sự tích tụ văn hóa đối với con đường sáng tạo lâu dài.

THƯ MỤC THAM KHẢO


--------------------
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Tp.HCM.
2. Hoài Anh (1997), Sơn Nam - người đánh đàn độc huyền kể chuyện Nam Bộ,
Tạp chí văn hóa Số 5.
3. Lại Nguyên Ân (1986), Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua, TCVH Số 1.
4. Huỳnh Công Bá (2007), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa, Huế.

134
5. Nguyễn Duy Bắc tuyển chọn (2001), Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật
trong công cuộc đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa cư dân Đồng
bằng sông Cửu Long, NXB KHXH, Hà Nội.
7. Trần Hòa Bình, Lê Duy, Văn Giá (1999), Bình văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
8. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, NXB Tp.HCM.
9. Trần Phỏng Diều (2004), Đặc trưng truyện ngắn Sơn Nam, Luận án thạc sĩ, Đại
học KHXH và NV TP.HCM.
10. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học, Văn hóa, Tiếp nhận và suy nghĩ, NXB Từ
điển bách khoa, Hà Nội.
11. Lê Tiến Dũng (1991), Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB Tổng hợp, Sông Bé.
12. Lực Đức Dương (2001), Lịch sử lưu dân, NXB Trẻ, Tp.HCM.
13. Trần Trọng Đăng Đàn (1993), Văn hóa văn nghệ Nam Việt Nam 1954 - 1975,
NXN Thông tin Tp. HCM.
14. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam lịch sử - thi pháp – chân dung,
NXB Giáo dục, Đà Nẵng.
15. Phạm Văn Đồng (2006), Về văn hóa và văn học nghệ thuật, NXB Văn học, Hà
Nội.
16. Hà Minh Đức (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới,
NXB Sự thật, Hà Nội.
17. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình (1987), Địa chí văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tp.HCM.
18. Đoàn Giỏi (2007), Đất rừng phương Nam, NXB Lao động, Hà Nội
19. Nguyễn Thị Bích Hà (2005), Mã và mã văn hóa, Tạp chí Văn hóa dân gian, Số
6.
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB ĐHQG, Hà Nội.
21. Đàm Mỹ Hạnh (1984), Nhận thức cuộc sống của nhà văn - một biểu hiện của
tài năng sáng tạo văn học, TCVH Số 5.
22. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1996), Lý luận văn học - vấn đề và
suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

135
23. Nguyễn Văn Hạnh (2007), Văn hóa như là nguồn mạch sáng tạo và khám phá
văn chương, TCVH Số 1.
24. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn hóa văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB KHXH,
Tp. HCM.
25. Trần Mạnh Hảo (2004), Sơn Nam cây lục bình Nam bộ, Báo Văn nghệ, Hội nhà
văn, Số 33.
26. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Triết lý văn hóa và triết luận văn chương, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
27. Hồ Sĩ Hiệp (1986), Vài nét về văn xuôi kháng chiến Nam Bộ, Tạp chí Văn nghệ
Quân đội.
28. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB KHXH, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Năm Hoàng (2008), Sơn Nam – một đời sống và viết bằng tình
yêu Nam Bộ, Tạp chí Nhà Văn số 09.
30. Nguyễn Thị Hồng (2008), Nghệ thuật kể chuyện của Sơn Nam trong “Hương
rừng Cà Mau”, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.
31. Đỗ Văn Khang (1996), Phê bình văn học hiện đại, TCVH Số 2.
32. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, NXB Văn
học, Hà Nội.
33. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người - Môi trường - Văn hóa, NXB Tp.HCM
34. Lê Quý Kỳ (2000), Đường biên văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
35. Lê Đình Kỵ (1984), Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB Tp. HCM.
36. Huỳnh Lứa (1987), Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, NXB Tp.HCM.
37. Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam bộ các thế kỷ XVII, XVIII,
XIX, NXB KHXH, Hà Nội.
38. Phương Lựu (2003), Lý luận văn học, NXB Trẻ, Tp.HCM.
39. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý (2004), Từ điển tác gia tác
phẩm văn học Việt Nam, NXB ĐHSP.
41. Cao Xuân Mỹ sưu tầm, Mai Quốc Liên giới thiệu (1999), Tuyển tập truyện
ngắn và văn xuôi Nam bộ nửa đầu XX , Tập 1 NXB Văn Nghệ Tp. HCM.
42. Phạm Xuân Nam(2005), Văn hóa vì phát triển, NXB KHXH, Hà Nội.

136
43. Sơn Nam (2003), Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam. Miền Nam đầu XX -
Thiên địa hội và cuộc Minh Tân, NXB Trẻ Tp.HCM.
44. Sơn Nam (2004), Biển cỏ miền Tây, Hình bóng cũ, NXB Trẻ Tp.HCM.
45. Sơn Nam (2004), Đất Gia Định - Bến Nghé xưa - Người Sài Gòn, NXB Trẻ
Tp.HCM.
46. Sơn Nam (2004), Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa - Văn minh
miệt vườn, NXB Trẻ Tp. HCM.
47. Sơn Nam (2005), Hương rừng Cà Mau, NXB Trẻ Tp.HCM.
48. Sơn Nam (2005), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Văn nghệ Tp.HCM.
49. Sơn Nam (2005), Nói về miền Nam - cá tính miền Nam - thuần phong mỹ tục
Việt Nam, NXB Trẻ Tp.HCM.
50. Sơn Nam (2005), Tìm hiểu đất Hậu Giang - Lịch sử đất An Giang, NXB Trẻ
TP.HCM.
51. Sơn Nam (2005), Từ U Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9, Hai mươi năm giữa
lòng đô thị, Bình An, NXB Trẻ Tp.HCM.
52. Sơn Nam (2006), Dạo chơi. Tuổi già, NXB TRẻ Tp.HCM.
53. Sơn Nam (2006), Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam, NXB Trẻ, Tp.HCM.
54. Sơn Nam (2006), Gốc cây, cục đá & ngôi sao, Danh thắng miền Nam, NXB
Trẻ Tp.HCM.
55. Sơn Nam (2006), Theo chân người tình. Một mảnh tình riêng, NXB Trẻ
Tp.HCM.
56. Sơn Nam (2006), Vạch một chân trời. Chim quyên xuống đất, NXB Trẻ Tp.
HCM.
57. Sơn Nam (2008), Sài Gòn xưa- Ấn tượng 300 năm. Tiếp cận đồng bằng sông
Cửu Long, NXB Trẻ, Tp.HCM.
58. Phan Ngọc (1998), Về mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, TCVH Số 6.
59. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa văn học bằng ngôn ngữ học, NXB Thanh
Niên, Hà Nội.
60. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà
Nội.
61. Vương Trí Nhàn (1998), Sổ tay truyện ngắn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
62. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB KHXH Tp.HCM.

137
63. Ngô Văn Phú (2002), Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
64. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hóa
người Việt ở Nam Bộ, NXB KHXH, Hà Nội.
65. Phan Quang (2001), Bút ký Đồng Bằng Sông Cửu Long, NXB Trẻ, Tp.HCM.
66. Đinh Ngọc Quyên (2005), Từ ngữ trong tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau
của Sơn Nam, Luận văn cử nhân Ngữ văn Đại học Cần Thơ
67. Vũ Tiến Quỳnh (1994), Phê bình bình luận văn học Anh Đức - Nguyễn Quang
Sáng - Sơn Nam, NXB Văn nghệ Tp.HCM.
68. Trần Quang Sen, Phan Tấn Tài, Nguyễn Văn Nở (2006), Hồ Biểu Chánh người
mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Văn nghệ, Tp. HCM.
69. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học, NXB Tp.HCM.
70. Trần Đình Sử (1995), Một thời đại văn học mới, NXB Văn học, Hà Nội.
71. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, NXB Văn học, Hà Nội.
72. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, NXB Tp. HCM.
73. Đào Thản (1994), Đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi,
TCVH Số 2.
74. Bùi Việt Thắng (1990), Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội.
75. Nguyễn Q. Thắng (1994), Tiến trình văn nghệ miền Nam, NXB Văn học, Hà
Nội.
76. Nguyễn Q. Thắng (2008), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, NXB Văn học,
Hà Nội.
77. Hồ Bá Thâm (2003), Văn hóa Nam Bộ vấn đề và phát triển, NXB Văn hóa –
Thông tin, Tp.HCM.
78. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp.HCM.
79. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB
Trẻ, Tp.HCM
80. Ngô Đức Thịnh (2005), Tổng quan về các dạng thức văn hóa ở Việt Nam, Tạp
chí Văn hóa dân gian, Số 4.
81. Ngô Đức Thịnh (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,
NXB KHXH, Tp.HCM
82. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, NXB KHXH, Hà Nội.

138
83. Đỗ Thị Minh Thúy (1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, NXB VHTT,
Hà Nội.
84. Lê Ngọc Thúy (2001), Quá trình hiện đại hóa văn học quốc ngữ Nam Bộ nửa
cuối XIX đến 1930, Luận án Tiến sĩ Văn học Việt Nam.
85. Đinh Thị Thanh Thủy (2004), Văn hóa và con người Nam Bộ trong truyện của
Sơn Nam, Luận án Thạc sĩ, Đại học KHXH và NV Tp.HCM.
86. Đoàn Trần Ái Thy (1996), Thiên nhiên và con người Nam Bộ trong truyện
ngắn của Sơn Nam, Luận văn cử nhân, Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM
87. Huỳnh Công Tín (1999), Đồng bằng sông Cửu Long môi trường sông và ảnh
hưởng của nó vào văn hóa, tư duy và ngôn ngữ, Bông Sen Số 11&12.
88. Huỳnh Công Tín (2000), Ấn tượng“sông nước” qua cách diễn đạt của người
dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Ngữ học Trẻ 2000, Hội ngôn ngữ học
Việt Nam, Hà Nội.
89. Huỳnh Công Tín (2006), Cảm nhận bản sắc Nam Bộ, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
90. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, NXB KHXH, Tp.HCM.
91. Bùi Đức Tịnh (1999), Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, NXB Văn nghệ
Tp. HCM.
92. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, Tp. HCM.
93. Lê Ngọc Trà (2003), Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận, NXB Giáo
dục, TP.HCM.
94. Lê Thị Thùy Trang (2003), Đặc điểm truyện ngắn Sơn Nam giai đoạn 1954-
1975, Luận án thạc sĩ, ĐHSP TP.HCM.
95. Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hóa văn học một hướng tiếp cận, NXB Văn học và
Viện văn hóa, Hà Nội.
96. Trần Quốc Vượng (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
97. Bùi Quang Xuân (2005), Văn hóa nghệ thuật, NXB Tổng hợp Đồng Nai, Đồng
Nai.
98. Hội khoa học lịch sử TP.HCM (2004), Nam Bộ đất và người, NXB Trẻ,
Tp.HCM
99. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam,
NXB Thế giới.

139
100. Tạp chí Xưa và Nay (2001), Nam Bộ xưa và nay, NXB Trẻ, Tp. HCM
101. Nhiều tác giả (1999), Truyện ngắn miền Tây, NXB Trẻ, Tp. HCM.
102. Viện KHXH tại TP. HCM (1982), Một số vấn đề khoa học xã hội về ĐBSCL,
NXB KHXH, Hà Nội.
103. Viện văn hóa (1984), Mấy đặc điểm văn hóa ĐBSCL, Viện văn hóa xuất bản.
104. Viện văn học (2002), Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
105. www.http://my.opera.com/giaoviendialy
106. www.http://vanghesongcuulong
107. www.http://tailieu.vn

Phụ lục 1
MỘT SỐ HÌNH THỨC SINH HOẠT TINH THẦN TIÊU BIỂU
CỦA NGƯỜI DÂN NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN
NAM
==================

S TÊN ĐẶC ĐIỂM MỘ SỐ TÁC


T GỌI PHẨM TIÊU BIỂU
T
1 Hát - Loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Nam Bộ có nguồn Hát bội giữa rừng,
bội gốc từ miền Trung (Quảng Nam, Bình Định) do các lưu dân Hết thời oanh liệt,
Việt trên đường nam tiến đã mang theo để tưởng nhớ ông bà tổ Lũ trẻ chăn trâu,
tiên, cội nguồn. Hai con cá.
- Nghệ thuật sân khấu xây dựng trên luân lý Khổng Mạnh, rút
cốt truyện trong các tiểu thuyết của lịch sử Trung Quốc. Được
xem là nghệ thuật diễn tả các trái ngang mà con người phải gặp
trong xã hội hàng ngày.
- Hát bội được giới bình dân tán thưởng vì nội dung hát bội gợi
lên những tình cảm nhân bản của con người, như tình vua tôi,
bạn hữu, mẹ con, trong xã hội sống theo lối Khổng Mạnh. Nội
dung tuồng hát đã đánh trúng các khát khao thầm kín của người
xem trong khuôn khổ đạo lý nhân bản, lễ nghĩa liêm sỉ, diệt
nịnh phò trung, trọn nghĩa vẹn tình.
- Phù hợp với nhiều không gian khác nhau. Thường xuất hiện
140
trong các ngày rằm, ngày lễ Kỳ Yên ở Nam Bộ xưa.

2 Hát cải - Một đóng góp lớn về văn hóa của Nam Bộ. Là một loại hình Người tình của cô
lương kịch hát, có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam. Hình thành trên đào hát 117, Hội
cơ sở dân ca ĐBSCL và nhạc tế lễ. ngộ bến Tầm
- Theo Trần Văn Khê, “cải lương” là sửa đổi cho tốt đẹp hơn. Dương, Ngày mưa
Thể hiện qua sân khấu biểu diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật đầu mùa, Ông già
biểu diễn, dàn nhạc và bài bản. xay lúa, Anh hùng
- Theo Vương Hồng Sển, cải lương ra đời vào khoảng 1916- rơm, Con trích ré,
1918 (16/11/1918 tuồng Gia Long tẩu quốc công diễn tại nhà Cậu Bảy Tiểu, Ông
hát Sài Gòn – đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải lương). già xay lúa.
- Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên là những mảnh đất
ươm mầm cho sân khấu cải lương.
- Tên gọi “cải lương” xuất hiện lần đầu tiên trên hiệu gánh hát
Tân Thịnh vào năm 1920.
- Loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp cao, có hát, nói, diễn
xuất, hành động bao gồm: phần hát có ca cổ, các làn điệu lý;
phần nói có nói theo lối kịch, nói theo lối hát; phần diễn xuất
bao gồm diễn xuất tâm lý, diễn xuất cách điệu, diễn xuất hài;
phần hành động có các hành động thực tế.

3 Nói - Nói thơ Vân Tiên tức là cách diễn xuất với giọng nói, nhịp Miễu bà Chúa Xứ,
thơ điệu, sắc mặt có khác với thể thơ dùng để ngâm nga. Nói thơ Nhứt phá sơn lâm,
Vân Vân Tiên được xem là một dạng hát bội dân gian, không cần Người mù giăng
Tiên đào kép chuyên nghiệp. câu.
- Là một loại hát kê mang tính chất ngâm ngợi, phù hợp với
giọng thô của nam giới. Nội dung là truyện thơ Nôm nổi tiếng
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Phổ biến ở Bến Tre,
phù hợp với đời sống nông nghiệp thời xưa của vùng ĐBSCL.
- Nói thơ Vân Tiên được diễn đạt theo nhịp điệu không buông
rơi đều đặc như hát bài chòi, hoặc hát sắc bùa mà luôn thay đổi
từ khoan thai đến dồn dập. Hình thức này không đòi hỏi người
nói phải biết rành câu chữ, sắp xếp theo lớp lang tuần tự mà chủ
yếu là thuộc lòng và truyền miệng qua nhiều thế hệ.
- Giai điệu thường bắt đầu ở âm khu cao ở đầu điệp khúc rồi lên
xuống giữa âm khu trung và âm khu trầm và chậm dần để kết
thúc mỗi điệp khúc. Không sử dụng tiếng đệm, hãn hữu mới
thấy tiếng “mà” giặm vào, cũng rất hiếm tiếng “ầu ơ” chen
ngang.
- Chung nhất, nói thơ Vân Tiên là một sản phẩm văn nghệ dân
gian độc đáo của ĐBSCL, “bảo vật” phi vật thể đậm đà bản sắc
văn hóa Nam Bộ. Cho đến nay, cả tiết điệu, âm vận, đến cung
141
đoạn và cách thức ngâm nga, nghỉ ngừng,… vẫn được giữ gìn.

4 Hát - Hình thức sinh hoạt tinh thần bình dân và phổ biến thời khẩn Con Bảy đưa đò,
huê hoang vùng ĐBSCL Ngày xưa tháng
tình - Hát huê tình là những câu hát cửa miệng, không có sách, chạp, Chuyện rừng
không có bổn tuồng, người hát tùy vào hoàn cảnh và kiến thức tràm, Vọc nước
có được mà linh hoạt trong đối đáp. giỡn trăng, Cô Út
- Không gian thích hợp nhất là đồng ruộng, chỗ lao động có về rừng.
đông người tham dự. Mục đích để giao lưu và giải trí sau những
giờ lao động mệt nhọc và bày tỏ tình cảm, tâm sự với nhau.
- Có ba lối hát huê tình: hát truyện là lối hát dùng tích trong
truyện xưa, truyện tàu; hát văn là dùng cách ngôn thánh hiền;
hát mép là lối hát thông thường và khó hơn hết, dùng dẫn liệu
từ đời sống.

5 Thai - Là cách biểu hiện tâm tư tình cảm của người bình dân xưa. Ra Tình bậu muốn
đố thai đố là cách để nam nữ thanh niên hò hát đối đáp và giao thôi, Vẹt lục bình,
duyên với nhau. Ngôi mộ chôn
- Thai đố là cách mượn ca dao, hò, vè làm câu hát đố, gợi ý trả đứng.
lời khái quát nhất. Người giải đáp phải có câu trả lời tương ứng
với câu chữ trên từng dòng thơ được đưa ra.
- Không gian phù hợp là những nơi dân chúng tập trung lao
động như: trên cánh đồng, ngoài bờ đê, bên giếng nước, những
nơi đình miếu, hội hè, cúng lễ có đông người đến dự.

Phụ lục 2:
MỘT SỐ THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIÊU BIỂU
TRONG TRUYỆN NGẮN SƠN NAM
===============

STT TÊN THÀNH NGỮ TÊN TÁC PHẨM

6 Đất bằng sóng dậy, Lấy độc trị độc, Sao y bản Anh hùng rơm
chính, Tay lấm chân bùn, Vàng thiệt không sợ lửa,
Chém ruồi ai dùng gươm vàng làm chi
5 Đồng tâm nhất trí, Khỉ ho cò gáy, Mặt mốc chân Ăn to xài lớn
phèn, Sinh bất phùng thời, Tỏ vẻ ta đây
2 Khỉ ho cò gáy, Thanh thiên bạch nhật Bà đầm Phô-xi-dong
5 Đâm heo thuốc chó, Đau lòng xót dạ, Sinh nghề tử Bà vợ thứ 10
142
nghiệp, Thừa nước đục thả câu, Vừa đánh trống
vừa la làng
2 Tay làm hàm nhai, Thực lộc chi thê Bác vật xà bông
1 Sinh sôi nảy nở Bắt sấu rừng U Minh Hạ
4 Cơm không lành canh không ngọt, Liên tu bất tận, Bốn cái ngu
Ngồi lê đôi mách, Làm mai lãnh nợ gác cu cầm
chầu
2 Có tiếng mà không có miếng, Giả đò mua khế bán Cái tổ ong
chanh
6 Cao chạy xa bay, Đờn khảy tai trâu, Nước đổ lá Cái va li bí mật
môn, Tương kế tựu kế, Quận tử tham tài tiểu nhân
tham thực, Lương tâm cắn rứt
2 Vong gia thất thế, Bịnh ở đâu thuốc ở đó Cao khỉ U Minh
Sống gởi thác về, Tiền trảm hậu tấu, Cẩn ngôn cẩn Cậu Bảy Tiểu
4 ý, Tru di tam tộc,
4 Chân ướt chân ráo, Chém ruồi ai dùng gươm vàng Cây huê xà
làm chi, Khóc không ra nước mắt, Trẻ mãi không
già
2 Tham sanh úy tử, Đẫm mùi máu lửa Chuyện năm xưa
4 Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị, Ngó cao đau ót, Con Bảy đưa đò
Trèo cao té nặng, Bốn biển là nhà
3 Chết vinh hơn sống nhục, Tham sanh úy tử, Tử Con ngựa đất
sanh hữu mạng
Dục tốc bất đạt, Cò bay thẳng cánh, Tai nghe mắt Con rắn
7 thấy, Tràng giang đại hai, Đầu râu tóc bạc, Tràng
giang đại hải, Thuần phong mỹ tục
1 Chim trời cá nước Con rắn ri voi

3 Hùm tha sấu bắt, Sinh nghề tử nghiệp, Ngậm cười Con sấu cuối cùng
chín suối
2 Gió chướng qua gió nồm, Hết nắng sang mưa Cô Út về rừng
4 Lang bạt kỳ hồ, Xa cơ thất thế, Ngồi mát ăn bát Giấc mơ ngoài bãi tha ma
vàng, Lưới trời lồng lộng
1 Tán gia bại sản Đảng xăm mình
1 Tay lấm chân bùn Đồng thanh tương ứng
10 Chiêu quân mãi mã, Bất nhân thất đức, Giả nhân Đơn Hùng Tín chào đời
giả nghĩa, Hô phong hóan võ, Khôn nhà dại chợ,
Nhường cơm xẻ áo, Ốm o gầy mòn, Phất cờ gióng
trống, Sinh sau đẻ muộn, Tài hèn đức kém
6 Cá nước chim trời, Ẩn sĩ quy điền, Tiên vi chủ hậu Hai con cá
vi khách, Gừng càng già càng cay, Đầu ghềnh cuối
bãi, Nhập gia tùy tục
1 Tùy cơ ứng biến Hai mẹ con
1 Tai vách mạch rừng Hai viên ngọc

143
1 Nhất cử lưỡng tiện Hát bội giữa rừng
1 Rung cây dọa khỉ Kho vàng
1 Sinh bất phùng thời Ngôi mộ chôn đứng
3 Nói có sách mách có chứng, Nhứt phá sơn lâm nhì Nhứt phá sơn lâm
đâm hà bá, Cao chạy xa bay
Chân ướt chân ráo, Đơn thương độc mã, Mở đường Người tình của cô đào hát
7 khai lối, Sanh sau đẻ muộn, Tai vách mạch rừng, 117
Than thân trách phận, Thùng rỗng kêu to, Thêm
mắm thêm muối
4 Giang hồ tứ chiếng, Tình ngay lý gian, Mèo mả gà Ruộng lò bom
đồng, Thuần phong mỹ tục
5 Ẩn sĩ quy điền, Đất có thổ công sông có hà bá, Ma Sông Gành Hào
đưa lối quỷ dẫn đường, Nuôi quân ba tháng dụng
quân một ngày, Tu tâm dưỡng tánh.
2 Sinh sau đẻ muộn, Sinh sôi nảy nở Tháng chạp chim về
4 Bủa giăng mạng nhện, Cắm sào đợi nước, Đồng Thằng điếm vô danh
chua nước mặn, Mâm vàng đĩa ngọc
3 Tam sao thất bổn, Công thành danh toại, Chồng Tình bậu muốn thôi
chúa vợ tôi.
5 Chọn bạn mà chơi, Gần mực thì đen, Ở bầu thì tròn Tình nghĩa giáo khoa thư
ở ống thì dài, Nước chảy đá mòn, Kiến tha lâu đầy
tổ
8 Xuất quỷ nhập thần, Nhất bến đò nhì lò rèn, Mẹ góa Xuất quỷ nhập thần
con côi, Già kén kẹn hon, Sợ bóng sợ gió, Nhanh
như chớp, Chết bờ chết bụi, Bá phát bá trúng.
9 Tâm đầu ý hiệp, Ăn ngay nói thẳng, Nói bóng nói Yêu cho được
gió, Mắng chó chửi mèo, Nằm gai nếm mật, Hậu
sanh khả úy, Thề non hẹn biển, Liên tu bất tận,
Tương kế tựu kế.
6 Liên tu bất tận, Tay bắt mặt mừng, Lội đỏ con mắt, Cấm bắt rùa
Ném đá giấu tay, Đầu trộm đuôi cướp, Bá phát bá
trúng
7 Đất có thổ công sông có hà bá, Kính nhi viễn chi, Con bà tám
Bách văn bất như nhứt kiến, Liên tu bất tận, Chết
đuối bám được phao, Vong ân bạc nghĩa, Đối nhân
xử thế
3 Trên bờ có lúa dưới sông có cá, Mẹ góa con côi, Cá Con cá chết dại
nước chim trời
5 Gối mỏi da dùn, Tay ngọc gót vàng, Trên ô tô dưới Đường về quê
thời ca nô, Ăn gởi nằm nhờ, Ngựa quen đường cũ
2 Ngọc ngà châu báu, Ẩn sĩ quy điền Hai cõi U Minh
5 Khỉ ho cò gáy, Nước mặn đồng chua, Quê cha đất Kéo trúm
tổ, Đồng không mông quạnh, Bá phát bá trúng
1 Con cháu Thần Nông Lũ trẻ chăn trâu
4 Thanh lâu u cốc, Lâu ngày chầy tháng, Ngũ hồ tứ Mây trời và rong biển
144
hải, Đồng tịch đồng sàng
4 Chó ăn đá gà ăm muối, Khỉ ho cò gáy, Nói hươu Một chuyện khó tin
nói vựợn, Đại phú do thiên tiểu phú do cần
1 Xiết hầu bao Ngó lên Sở Thượng
1 Nam thanh nữ tú Qua hiệu sách
1 Nhàn cư vi bất thiện Vọc nước giỡn trăng

145

You might also like