You are on page 1of 11

CÁC BƯỚC LÀM BÀI (LẬP DÀN Ý) NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

VỀ MỘT TÁC PHẨM, ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI.

1. Đối tượng của bài văn nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích
văn xuôi
- Có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đoạn trích nói
chung.

- Có thể chỉ là một phương diện, thậm chí một khía cạnh nội dung hay
nghệ thuật của tác phẩm đoạn trích đó.

2. Yêu cầu của bài văn nghị luận về về một tác phẩm, một đoạn trích
văn xuôi
- Phải phân biệt được nghị luận về một đoạn trích và nghị luận về một tác
phẩm. Nghĩa là tránh việc đề cập tới tất cả các nội dung của tác phẩm còn
nội dung của đoạn trích lại sơ lược.

- Tập trung vào đoạn trích nhưng phải biết vận dụng kiến thức của toàn
tác phẩm như nội dung tư tưởng, cách kể chuyện, cách sử dụng chi tiết,
cách xây dựng nhân vật, các biện pháp tu từ. Nhất thiết phải đặt đoạn văn
trong chỉnh thể của tác phẩm mới có cách đánh giá chính xác.

3. Các bước làm bài văn nghị luận về về một tác phẩm, một đoạn
trích văn xuôi
* Bước 1: Phân tích đề – xác định các yêu cầu của đề
- Xác định dạng đề.

- Yêu cầu nội dung (đối tượng).

- Yêu cầu vê phương pháp.

- Yêu cầu phạm vi tư liệu, dẫn chứng.

* Bước 2: Lập dàn ý – tìm ý, sắp xếp ý: Theo bố cục ba phần


- Mở bài:
+ Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích văn xuôi cần
nghị luận.

+ Giới thiệu vấn đề nghị luận.

- Thân bài: Phân tích những giá trị nội dung, nghệ thuật tác phẩm, đoạn
trích để làm rõ vấn đề cần nghị luận hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất
của đoạn trích.
- Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.
* Bước 3: Viết bài
Dàn bài chi tiết
Đối với bài văn nghị luận về một đoạn trích:

* Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả/tác phẩm và dẫn vào đoạn trích.
* Thân bài:
- Bước 1: Khái quát tác phẩm trước đoạn trích đó (phân tích qua khoảng
7-8 dòng). Nếu là đoạn đầu thì bỏ qua. (Ví dụ: cảm nhận đoạn văn về
cảnh vượt thác trong Người lái đò Sông Đà thì phải khái quát, giới thiệu
đoạn trước đó với nội dung: sông Đà hung bạo, hùng vĩ, tính cách nham
hiểm, độc dữ của loài thuỷ quái). Sau đó chúng ta nêu vị trí đoạn trích
cũng như nêu nội dung đoạn văn ta sắp cảm nhận (nêu khái quát nhất –
khoảng 3-4 dòng)
- Bước 2: Cảm nhận vào đoạn chính.
+ Xác lập luận điểm dựa trên nhóm câu có cùng chung nội dung.

Ví dụ: Trong tác phẩm Người lái đò Sông Đà đoạn: “Sông Đà tuôn
dài, tuôn dài….đốt nương xuân”. Nhóm câu này có nội dung nói về hình
dáng sông Đà cảm nhận từ góc nhìn từ trên cao; sông Đà hiện lên như
hình ảnh một người đàn bà kiều diễm. Xác định được nội dung đó thì ta
có thể xác lập ra luận điểm: “Nhà văn chiêm ngưỡng dòng sông ở nhiều
góc độ. Từ trên cao nhìn xuống – sông Đà mang vẻ đẹp trữ tình lãng mạn
và gợi cảm biết bao qua phép so sánh, liên tưởng độc đáo tới người đàn
bà có áng tóc trữ tình mê đắm….”.

+ Có thể phân tích các sự kiện chính, những biến cố, những giai đoạn
trong cuộc đời nhân vật: Ngoại hình, hoàn cảnh, số phận; tính cách bộc lộ
qua hành động, thái độ, ngôn ngữ, tâm trạng,…; trong mối quan hệ giữa
nhân vật với mội trường, hoàn cảnh sống. + Chú ý các câu văn, hình ảnh
có sử dụng nghệ thuật. Nhất là kiểu câu sử dụng các động từ, tính từ.
Kiểu câu phức, câu ghép, câu đặc biệt…
+ Đoạn văn này được đặt trong chỉnh thể của tác phẩm nên khi các em
cảm nhận thì phải có sự liên kết với nội dung chung và giá trị chung của
tác phẩm đó. Nghĩa là các em phải mở rộng ra toàn tác phẩm (dù đoạn
văn đó là chính nhất)

- Bước 3: Đánh giá:

+ Đặc sắc về phương diện nghệ thuật của đoạn trích: Tài năng của nhà
văn trong nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật ( tình huống truyện,
ngôn ngữ trần thuật, giọng văn, tu từ….)

+ Đặc sắc về phương diện nội dung của đoạn trích: ý nghĩa và sức khái
quát, hình tượng tiêu biểu.

- Bước 4: vế phụ của đề


Nếu đề có yêu cầu
* Kết bài:
Đánh giá lại vấn đề.
Đối với bài văn nghị luận cả tác phẩm văn học
* Mở bài: nêu được yêu cầu của đề bài. Nghĩa là đề thi yêu cầu như thế
nào thì phải dẫn vào vấn đề như thế. Tránh lối viết mở bài mà không làm
nổi bật được yêu cầu của đề.
* Thân bài
- Khái quát về tác giả (phong cách sáng tác), tác phẩm, xuất xứ: ( nếu
các em đã đưa phần tác giả lên mở bài thì phần khái quát có thể không
cần nữa; hoặc phần khái quát sẽ dùng để nói hoàn cảnh sáng tác).
- Nội dung phân tích, cảm nhận ( Vế chính của đề)
+ Trong phần nội dung của bài làm, học sinh phải xác lập được các
luận điểm chính rồi từ đó dựa vào các thao tác: chứng minh, bình luận,
phân tích, … để làm rõ luận điểm.

+ Nên viết đoạn văn theo lối diễn dịch để ý được rõ ràng. Đầu mỗi
luận điểm, lùi bút vào 2 ô giấy để thể hiện rõ bố cục của mình hơn.

+ Đối với truyện thì phải chú ý những nghệ thuật thể hiện nội dung:
tình huống truyện, trần thuật, giọng văn, tu từ

+ Khi hành văn, cần tránh những câu từ sáo rỗng. Cần viết thật cô
đọng, giọng văn phải kết hợp được chất lý luận và suy tư cảm xúc.

+ Tránh gạch bỏ quá nhiều trong bài làm, làm bẩn bài làm sẽ gây phản
cảm cho người chấm.

+ Để tăng chiều sâu cho bài viết, cần có sự so sánh, đối chiếu giữa
nhân vật này, nhân vật kia, tác phẩm này, tác phẩm nọ. Cần đưa một số
lời phê bình, nhận định văn học vào trong bài làm. Cần có dẫn chứng
thêm ngoài tác phẩm. Những yếu tố vừa nói trên đây sẽ làm cho bài văn
của các em thêm phong phú và có chiều sâu, chắc chắn sẽ được giám
khảo cân nhắc mà cho điểm cao.
- Phần tổng kết nghệ thuật: trước khi kết bài sẽ có phần tổng kết nghệ
thuật. Học sinh cần có đánh giá, nhận xét chung về nghệ thuật của tác
phẩm. Thực ra phần nghệ thuật này đã nói trong khi chúng ta làm bài.
Đây chỉ là bước đệm cuối cùng cho đủ bố cục bài văn.
- Phân tích Vế phụ của đề: Nếu có yêu cầu.
* Kết bài: đánh giá chung về vấn đề.
THỰC HÀNH DẠNG ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

Đề bài
I. Đọc hiểu ( 3 điểm)
Đọc đoạn văn dưới đây và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Hầu hết tâm trí con người giống như một con lắc dao động qua lại giữa
quá khứ và tương lai không bao giờ ngừng. Nếu để ý những suy nghĩ của
bản thân, bạn sẽ thấy phần lớn thời gian chúng ta dành để suy nghĩ
những chuyện trong quá khứ hoặc tương lai, trong khi đó thời gian cho
hiện tại lại không nhiều. Nếu để tâm tới hiện tại, bạn chắc chắn sẽ phát
hiện ra rằng, mỗi giây phút sẽ chứa những vẻ đẹp riêng của nó.
Suy nghĩ của con người đều đi trên một trục thời gian: quá khứ, hiện tại,
tương lai. Những người mãi suy nghĩ tiêu cực là những người có khoảng
thời gian hối hận, đổ lỗi cho bản thân vì những việc trong quá khứ cũng
như thời gian để lo lắng về tương lai rất dài. Trong khi đó họ lại không
thể tập trung vào những niềm vui, vẻ đẹp, niềm hạnh phúc, những việc có
thể thực hiện trong hiện tại. Hay nói cách khác, họ có xu hướng không
thể sống ở hiện tại.
Một ngày như một đời. Điều này có nghĩa coi một ngày, từ buổi sáng đến
khi thức dậy cho đến đêm khuya, khi đi ngủ, như một cuộc đời, từ lúc sinh
ra cho đến lúc chết đi, và mỗi một ngày đều sống hết mình không hối tiếc.
Giả sử chúng ta sống được 80 năm, tức khoảng 30.000 ngày, thì mỗi
ngày sẽ có một điều tuyệt vời, một vẻ đẹp, một khám phá, hội ngộ, nhận
thức, niềm vui, số phận khác nhau.
Khi chúng ta chìm trong hối tiếc về quá khứ hay bất an cho tương lai,
chúng ta đang đánh mất thời gian quý giá không thể đánh đổi được của
ngày hôm nay.
(Mình là cá, việc của mình là bơi, Takeshi Furukawa, NXB
Thế giới, 2018)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2. Theo văn bản, những người mãi suy nghĩ tiêu cực là những người
như thế nào?
Câu 3. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu
sau: “Giả sử chúng ta sống được 80 năm, tức khoảng 30.000 ngày, thì
mỗi ngày sẽ có một điều tuyệt vời, một vẻ đẹp, một khám phá, hội ngộ,
nhận thức, niềm vui, số phận khác nhau”.
Câu 4. Anh/ chị có đồng tình với quan điểm: “Khi chúng ta chìm trong
hối tiếc về quá khứ hay bất an cho tương lai, chúng ta đang đánh mất
thời gian quý giá không thể đánh đổi được của ngày hôm nay” được nêu
trong văn bản không? Vì sao?
II. Làm văn (7.0 điểm )
Câu 1 (2.0 điểm) :Nghị luận xã hội
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, hãy viết đoạn NLXH (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về những việc bản thân cần làm để
sống trọn vẹn từng ngày
Câu 2 (5.0 điểm) : Nghị luận văn học .
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người đàn bà hàng chài
(Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) trong đoạn trích dưới đây:
Người đàn bà hưởng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý toà...
- Sao, sao ?
- Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bat
con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ
làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của
người đèm bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biến của Đâu
tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước
ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình
trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ
rằng toà án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đẩy! - Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một
con người bảo vệ công lí vừa có thêm người đen tiếp viện, anh chạy sang
phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người
đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đấu đã trở về ngồi sau
chiếc bàn lớn mà là tôi với mẩy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để
dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cải cung
cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi
là kêu gọi hoà thuận...
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng
vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cảm ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một
cái giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú.
Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó
nhọc...
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài
khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người
đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn
trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ
phải biết ơn...
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ
để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi
nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy,
thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại là một người đàn bà
lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt
đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một
bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong
cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một
anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan
lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành
lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời
mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng
hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc,
ông trời làm động biến suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn
cây xương rồng luộc châm muối...
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguy không? - Tôi bỗng hỏi
một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng
mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá,
mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở- Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề
thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng
chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như
đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ
khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ
mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! – Đẩu và tôi
cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú
biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền
không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở
dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man
rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ
chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài
ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong
ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên chục
đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi
khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
sống cho con chứ không thế sống cho mình như ở trên đất được! Mong
các chú lượng tình cho cái sự lạc hận. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần
đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt bừng sáng lên như một nụ
cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi
sống hoà thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó
được ăn no...
Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngót lên những
chồng hồ sơ, giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào
hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì vừa mới vỡ ra trong
đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biên, lúc này trông Đẩu rất
nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
(Theo Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2008, tr. 74-77)

You might also like