You are on page 1of 59

CÁCH LÀM CÁC DẠNG CÂU HỎI ĐỌC HIỂU ĐẠT MAX ĐIỂM

Câu 1: Phương thức biểu đạt/ Thao tác lập luận/ Thể thơ

➔ Trả lời: ngắn gọn, trực tiếp vào câu hỏi

Phương thức biểu đạt:

+ Tự sự: kể - truyện có nhân vật, tình tiết, diễn biến

+ Miêu tả: từ ngữ miêu tả, biện pháp tu từ

+ Biểu cảm: câu cảm thán, bày tỏ cảm xúc – thơ

+ Nghị luận: luận điểm, dẫn chứng

Thao tác lập luận:

+ Giải thích: ko hiểu – hiểu, ko biết – biết ai là gì?

+ Chứng minh: thuyết phục người khác nghe theo quan điểm, ý kiến của mình

+ Bác bỏ: phản đối lại với ý kiến nào đó

+ Phân tích: bóc tách vấn đề

+ Bình luận: nêu ý kiến, đánh giá của mình về 1 vấn đề giữa nhiều ý kiến khác

+ So sánh

Lưu ý: PTBĐ/TTLL chính – nếu 1/ PTBĐ/TTLL – nêu 1/ nhiều nhất là 2

Thể thơ: đếm số chữ ( 6/8- thơ lục bát)

Câu 2: Theo tác giả/ văn bản, A là gì?

➔ Trả lời: Chép ngữ liệu trong văn bản (nên gạch đầu dòng, thừa còn hơn thiếu)

Lưu ý: Câu 1 và câu 2 được coi là 2 câu cho điểm nên tuyệt đối không được làm sai

Câu 3: Ý nghĩa/ giải thích tác dụng của biện pháp tu từ ?

➔ Trả lời: Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu/ đoạn/ văn bản trên là…+
DẪN CHỨNG
+ Chỉ ra BPTT: tên BPTT + biểu hiện (ví dụ: so sánh đối tượng A với đối tượng
B)
+ Chỉ ra ngữ liệu sử dụng BPTT đó
+ Nêu tác dụng:
● Nội dung: nhấn mạnh, khẳng định,... thông điệp của văn bản
● Văn bản: làm cho lời văn/ thơ trở nên sinh động, gợi cảm, hấp dẫn, ấn tượng,…
● Thể hiện thái độ của tác giả: băn khoăn, trăn trở, tình yêu, trân trọng,…

Câu 4: Rút ra bài học sâu sắc nhất/ một thông điệp ý nghĩa nhất

➔ Trả lời:

Thông điệp. bài học sâu sắc nhất mà em rút ra sau khi đọc văn bản là chúng ta
cần/nên/ phải/ đừng… Vì nó giúp em nhận ra rằng (nếu như thế này thì không thế kia
SỬ DỤNG KẾT CẤU NẾU A THÌ B). Thông điệp này không chỉ hữu ích vs em mà
còn hữu ích vs tất cả mọi người (CHỐT Ý – Bài học nhận thức - Nói theo cách khác
cũng được miễn thể hiện rằng nó có sức lan tỏa tích cực tới cộng đồng)

Câu 5: Anh/ chị hãy giải thích/ hiểu như thế nào về A?

+ Theo em, A có ý nghĩa như sau:


● Nghĩa đen
● Nghĩa chuyển
+ Điều này là đúng hay sai. Em tán thành hay không tán thành - Đánh giá
+ Giải thích lí do
+ Nếu đây là một câu thơ: bình luận về thái độ của tác giả

Câu 6: Đồng tình hay không đồng tình?

➔ Trả lời:
+ Đồng tình/ Không đồng tình/ Vừa đồng tình vừa không đồng tình
+ Vì theo suy nghĩ của em nếu như thế thì…/không như thế thì… (KẾT CẤU
NẾU A THÌ B)
+ Lấy ví dụ để tăng tính thuyết phục
+ Rút ra bài học nhận thức cho cá nhân và mọi người

Câu 7: Tại sao tác giả lại nói…?

➔ Trả lời:

Tác giả cho rằng: “…” (Chép lại câu nói/ quan điểm) vì … (giải thích ý nghĩa
câu nói theo nghĩa đen đến nghĩa chuyển – nếu có/ giải thích thẳng vấn đề). Chốt lại
em tán thành/ không tán thành. Giải thích lí do.

Lưu ý: dựa vào văn bản để giải thích không dựa vào kiến thức cá nhân

Câu 8: Đánh giá/ nhận xét về một hiện tượng

➔ Trả lời:
+ Nhận xét: hiện tượng trên tốt/ xấu; tích cực/ tiêu cực; ngợi ca/ phê phán
+ Giải thích: Vì…

BỐ CỤC BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

1. Mở bài gián tiếp (3 câu)


● 1 câu LLVH
● 1 câu PCST
● 1 câu dẫn vào đề bài: nội dung đoạn trích + yêu cầu đề bài
2. Chuyển ý/ Giới thiệu chung về tác phẩm (1 đoạn)
● HCST
● Nội dung chính của tác phẩm
● Dẫn vào đề bài cần khai thác
3. Thân bài (6-8 đoạn)
● 1 đoạn giải thích đề/ giới thiệu nhân vật (nếu có)
● Gồm các đoạn nhỏ tương ứng với các luận điểm để làm sáng rõ cho yêu
cầu 1 (bắt buộc)
● 1 đoạn ngắn đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật/ lồng ghép vào
đoạn phân tích cuối cùng của yêu cầu 1 (bắt buộc)
● 1-2 đoạn làm sáng rõ yêu cầu 2 (bắt buộc)
● 1 đoạn so sánh với các tác phẩm khác của chính tác giả hoặc các tác giả
cùng viết về chủ đề này (nếu còn thời gian/ muốn bài sâu sắc lấy 9+)
● 1 đoạn giá trị nghệ thuật (bắt buộc)
● 1 đoạn giá trị nhân đạo/ hiện thực (nếu có)
4. Kết bài (1 đoạn)
● Tóm lược tác phẩm
● PCST/ ND tác giả thể hiện
● Liên hệ thực tế
● 1 câu LLVH

VIẾT MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI CHO MỌI ĐỀ VĂN

1. Mở bài:

Nhắc tới nhà văn/ nhà thơ A là nhắc tới (PCST). Tác phẩm B là thi phẩm/ tác
phẩm hay nhất/ tiêu biểu nhất trong sự nghiệp/ đời văn/ đời thơ của tác giả A. Qua tác
phẩm B ta thấy được (Đề bài).../ Gấp lại trang sách, ta không thể không nhớ đến (Đề
bài)…

● Ví dụ:

Nhắc tới nhà văn Nguyễn Tuân là nhắc tới một cây bút với lỗi viết tài hoa nghệ
sĩ, ưa cảm giác mạnh cùng vốn hiểu biết tri thức khổng lồ trên nhiều lĩnh vực. Nhờ
vậy, mỗi trang viết của ông đều đếm cho người đọc một thế giới mới đầy hấp dẫn. Tác
phẩm “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương
của Nguyễn Tuân. Gấp lại trang sách, ta không thể nào quên được vẻ đẹp con sông Đà
vừa hung bạo vừa trữ tình để rồi từ đó nhận ra cái nhìn mang tính phát hiện đầy mới
mẻ về sông Đà và cái tôi trữ tình của nhà văn họ Nguyễn.

2. Kết bài:

Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, có những tác phẩm đã bị lãng quên
theo thời gian, nhưng đối với (Tên tác phẩm) bạn đọc vẫn luôn dành cho nó một tình
cảm rất riêng, không thể nào phai nhạt. Có thể nói, nhờ (PCST), tác giả A đã làm nổi
bật (Đề bài). Từ đó, mỗi chúng ta cũng nhận ra rằng (Bài học). Quả thực, đúng như
Thạch Lam từng nói: “Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ
tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn
và thưởng thức”.

● Ví dụ:

Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, có những tác phẩm đã bị lãng quên
theo thời gian, nhưng đối với “Người lái đò sông Đà” bạn đọc vẫn luôn dành cho nó
một tình cảm rất riêng, không thể nào phai nhạt. Có thể nói, nhờ lối viết tài hoa, nghệ
sĩ, ưa cảm giác mạnh cùng cái nhìn phát hiện đầy mới mới mẻ về sông Đà, tác giả
Nguyễn Tuân đã làm nổi bật được vẻ đẹp con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình cũng
như cái tôi văn chương của mình. Từ đó, mỗi chúng ta chợt nhận ra rằng: “Thiên
nhiên đất nước Việt là một món quà vô giá mà mẹ thiên nhiên đã ban tặng. Bởi vậy,
mỗi chúng ta, mỗi người Việt Nam hãy biết yêu thêm đất nước mình, biết trân trọng,
nâng niu và gìn giữ những danh lam, thắng cảnh hùng vĩ, tuyệt đẹp này”. Quả thực,
đúng như Thạch Lam từng nói: “Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ
không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài
học trông nhìn và thưởng thức”.

Tips: Để không mất quá nhiều thời gian trong phòng thi, mọi người hãy viết trước
hai đoạn văn này ở nhà và học thuộc nhé!

BỐ CỤC BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

1. Mở bài: Đặt vấn đề - Nêu vấn đề nghị luận


2. Thân bài:
- Đánh giá vấn đề: đức tính cần có của mỗi người (phẩm chất)/ đúng or sai/ phải
or trái
- Giải thích vấn đề: nêu từ đồng nghĩa, trái nghĩa
- Nêu biểu hiện: Đó có thể là một…, một…
● Ví dụ:
Tinh thần cầu tiến được hiểu là khát khao, mong muốn học hỏi, nâng cao trình
độ tri thức, là luôn muốn hoàn thiện nhân cách chứ không chịu tụt hậu, kiêu căng,..Đó
là một nghệ nhân không ngừng nâng cao tay nghề, một thanh niên vươn lên từ đáy sâu
tội lỗi, một sinh viên thao thức hàng giờ trên giảng đường với những nghiên cứu.
- Bàn luận vấn đề:
● Khi ta có ( phẩm chất đó/ đức tính đó) thì ta sẽ:
+ Cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc, tự tin hơn
+ Có thêm động lực, kỹ năng,..
+ Lan tỏa năng lượng tích cực,…
+ Đóng góp cho xã hội,… => xã hội trở nên tốt đẹp, văn minh hơn.
● Khi ta không có… ta sẽ trở nên…
● Ví dụ:
Cầu tiến là lúc chúng ta ý thức rất rõ về sự không hoàn thiện của bản thân, về
những điểm yếu của mình để khắc phục, là biểu hiện đầu tiên của sự “trưởng thành”.
Và từ đó, ta sẽ có niềm vui trong học tập, có động lực để phát triển từ kiến thức đến
kỹ năng, từ thái độ đến nhân cách. Như cái cây tìm thấy ánh sáng, con thuyền tìm thấy
ngọn hải đăng, người cầu tiến luôn biết vượt gian khó để đi lên, hoàn thiện bản thân,
không chỉ được yêu quý mà còn đóng góp tài năng, trí tuệ xây dựng đất nước.
- Lấy ví dụ chứng minh:
(ít nhất 3 ví dụ, không kể chuyện, dùng cấu trúc lặp, tạo nhịp điệu)
● Ví dụ:
Từ một người viết chữ rất xấu, Cao Bá Quát ngày đêm khổ luyện để “chữ như
thánh Quát”, từ thân phận người dân mất nước, những Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng
không ngại học tập để trở thành tri thức hàng đầu của đất Việt, hay hàng ngày biết bao
thế hệ học sinh vẫn không ngừng vươn ra biển lớn để học tập, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Những con người ấy đã và đang lan tỏa thông điệp tốt đẹp, xứng đáng
là những tấm gương để ta học tập, noi theo.
- Mở rộng: phản đề - phê phán (chỉ nên viết 1 câu phê phán)
- Bài học: Để có được phẩm chất đó thì ta cần:
+ Rèn luyện
+ Học tập
+ Thái độ: khiêm tốn, kiên trì
● Ví dụ:
Thế nên thật đáng buồn nếu chúng ta nghĩ rằng mình đã hòan hảo, sự tự kiêu ấy
sẽ khiến con người trở nên kiêu căng, tụt hậu và một ngày nào đó bị chính cuộc sống
đào thải. Vì thế, hãy tự ý thức về bản thân, biết những điểm mạnh và điểm yếu của
mình để ta khắc phục vươn lên. Không có viên kim cương nào ban đầu đã lấp lánh,
nếu không được cắt gọt, mài dũa, không có cây cổ thụ nào ban đầu đã vững chãi, nếu
rễ nó không đâm sâu, thân nó không vươn cao, không có con người nào ban đầu đã
vẹn tròn nếu không nỗ lực, cầu tiến vươn lên.

3. Kết bài:
- Thể hiện hành động: Hãy…
- Có câu so sánh với các hiện tượng: hoa, cây, gió, chim, sông,..
- Nếu nhớ bài hát có thể cho vào

TỔNG HỢP CÁC CÂU LÝ LUẬN VĂN HỌC HAY DÙNG NHẤT KHI VIẾT
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC

I/ MỞ BÀI:
1. Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả.
Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ. (Sê-khốp)
2. Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo
xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập. (Mác-xen Prút)
3. Làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ thì không thể không có cái
tôi (Viên Mai) – Mở bài cho Thơ
II/ KẾT BÀI:
1. Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp
kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và
thưởng thức (Thạch Lam)
III/ NGHỆ THUẬT:
1. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu
mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. (Nam Cao)
2. Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo
phong cách mới lạ, thu hút người đọc. (Phương Lựu)
IV/ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO:
1. Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà văn nhân đạo trong cốt tủy (Sê- khốp)
2. Nghệ thuật và cuộc sống là những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là
con người (Nguyễn Minh Châu)
3. Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết
ra (An-đéc-xen)
V/ GIÁ TRỊ HIỆN THỰC:
1. Nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại
2. Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ
kia thoát ra từ những kiếp lầm than (Nam Cao)
3. Cuộc đời là nơi nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học

CÁC TÁC PHẨM TRỌNG TÂM VĂN 12 NĂM 2022

I. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


1.MỞ BÀI:
Mác-xen Prut từng nói: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Với Nguyễn
Tuân, nhờ vào lỗi viết tài hoa nghệ sĩ, ưa cảm giác mạnh cùng với vốn hiểu biết tri
thức khổng lồ mà mỗi trang viết của ông đều đem đến cho chúng ta một thế giới mới
đầy hấp dẫn. Thế nên, trước cách mạng, người đọc ngỡ ngàng trước “Vang bóng một
thời” thì giờ đây tùy bút “Người lái đò sông Đà”(1960) lại hấp dẫn người đọc bởi một
dòng sông với những con người lao động rất tài ba.Gấp lại trang sách, ta không thể
nào quên ….

2.CHUYỂN Ý:
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác khi miền Bắc
đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà văn lúc ấy lên Tây Bắc- miền núi cao của Tổ
quốc. Ông không chỉ tìm thú xê dịch ngao du, khám phá mà còn ngợi ca chất vàng
mười đã qua thử lửa của con người, chất vàng mười của thiên nhiên. Nếu trước cách
mạng, Nguyễn Tuân là một người thỏa hiếu quê hương, chạy trốn thực tại, sống trong
cô đơn thì sau cách mạng con người ấy đã thay đổi, luôn gắn liền cuộc đời, sự nghiệp
văn chương của mình với đất nước, thiên nhiên, con người. Bởi vậy, hình tượng xuyên
suốt tác phẩm là hình ảnh của thiên nhiên- con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình
cùng với hình ảnh của con người- người lái đò vô danh mang nét đẹp lao động trí
dũng trở thành một người nghệ sĩ trong nghệ thuật chèo đò vượt thác. Qua nét bút của
Nguyễn Tuân, hình ảnh thiên nhiên như một thách thức to lớn để từ đó tôn vinh vẻ
đẹp lao động âm thầm, cống hiến của con người.

3.NGHỆ THUẬT:
Nam Cao đã từng nói: “Văn chương không cần đến người thợ khéo tay làm
theo một vài kiểu mẫu đã đưa cho.Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu,
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Quả thực, ở
“Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đã đem đến cho chúng ta cảnh tượng xưa nay
chưa từng có, trận chiến kinh thiên động địa giữa người lái đò và dòng thác dữ bằng
việc sử dụng những kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, địa lý, hội
họa, thể thao và điện ảnh để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên giàu chất tạo hình, chứa
đựng những thước phim đắt giá và cực kì ấn tượng. Đặc biệt phải kể đến là sự tài hoa
của nhà văn trong việc tạo ra các phép so sánh độc đáo “ tiếng thác như tiếng trâu”, “
mặt sông như tuyến bin thủy điện”, “ nước bám như đô vật”,.. kết hợp cùng đội quân
ngôn từ hùng hậu khiến ta có cảm giác nếu người lái đò phải vận dụng hết tri thức,
dũng cảm vượt qua dòng thác dữ thì Nguyễn Tuân cũng phải chỉ huy con thuyền vẫn
trên dòng sông chữ lắm thác ghềnh.Bên cạnh đó, ta còn thấy sự công phu lao động
nghệ thuật nghiêm túc của tác giả, để viết lên những trang văn sống động như thế, nhà
văn phải ngồi trên chính chiếc thuyền trải nghiệm với người lái đò, một người nghệ sĩ
không chỉ có tài mà còn có tâm với nghề của mình. “Người lái đò sông Đà” cũng vì
vậy mà xứng đáng là viên ngọc sáng trong kho tàng văn chương Việt Nam.

4.NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO CỦA NGUYỄN TUÂN:


● Phần hung bạo:
Nguyễn Tuân đã dùng hết bút lực để thi tài với tạo hoá, ông thể hiện rất rõ
chất nghệ sĩ trong tác phẩm của mình. Là nhà văn ham thích cảm giác mạnh, ông
dùng những câu góc cạnh, giàu tính tạo hình, những câu nhiều động từ mạnh nối tiếp
nhau, dồn dập; sử dụng lối nói ví von, ẩn dụ, tượng trưng, liên tưởng đầy bất ngờ,
chính xác, thú vị; vận dụng hiểu biết của nhiều ngành khác nhau: điện ảnh, quân sự,
thể thao, địa lý , lịch sử và những tri thức về tự nhiên để khắc họa vẻ đẹp của sông
Đà. Cùng với nghệ thuật nhân hóa, liên tưởng phong phú, ngòi bút miêu tả độc đáo,
con sông Đà từ một đối tượng vô tri vô giác, khi bước vào trang văn Nguyễn Tuân đã
trở thành một sinh thể có tính cách và tâm lý rất ghê gớm, đáng sợ. Đoạn trích là khúc
ca ca ngợi vẻ đẹp hung bạo, đầy cá tính của sông Đà, biểu tượng cho vẻ đẹp hùng vĩ,
dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc. Vì thế không quá lời khi khẳng định rằng, Nguyễn
Tuân không chỉ là nhà văn có tầm (tài hoa, uyên bác, độc đáo, cá tính, nghiêm túc
trong nghề nghiệp) mà còn có tâm (yêu thiên nhiên đất nước, khám phá tiềm năng
thủy điện của dòng sông).
● Phần trữ tình:
Bằng những cảm nhận tinh tế tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã phác thảo hình
sắc của nước Sông Đà bằng những đường nét uyển chuyển, bằng những màu sắc
biến ảo lung linh. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết
sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc. Nguyễn Tuân ở đây cũng vậy, ông
đã sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả, vận dụng nhiều những biện pháp
nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, những ví von, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất
ngờ và rất thú vị, từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giọng điệu mượt mà sâu lắng kết hợp với lời văn bay
bổng, phóng túng – viết không theo nguyên tắc các dấu chấm, dấu phẩy, bỏ đi để tạo
nên sự dịu dàng uyển chuyển liền mạch của dòng chảy Sông Đà. Cùng với việc sử
dụng nhiều thanh bằng tạo một con sông êm ả giống như một thiếu nữ Tây Bắc rất
mực nữ tính mà vẫn hùng vĩ lớn lao. Vì thế không quá lời khi khẳng định rằng,
Nguyễn Tuân không chỉ là nhà văn có tầm (tài hoa, uyên bác, độc đáo, cá tính, nghiêm
túc trong nghề nghiệp) mà còn có tâm (yêu thiên nhiên đất nước, khám phá tiềm năng
du lịch của dòng sông).
● So sánh “Sông Đà” với “Sông Hương”
*So sánh phần hung bạo:
Hình ảnh sông Đà dữ dội làm chúng ta liên tưởng đến một bài ký khác viết về
một dòng sông xứ Huế, đó là “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Cả hai tác giả đều để lại những trang bút ký thấm đẫm chất trữ tình: ghi chép,
miêu tả chi tiết cụ thể về vẻ đẹp hai dòng sông,qua đó bộc lộ cảm xúc, suy tư tình yêu
tha thiết với quê hương, đất nước. Dù là một con sông Đà cá tính, hay một Hương
Giang nơi thượng nguồn, tất cả đều sống động và có hồn,đều được viết bằng lối viết
tài hoa, uyên bác, ở vốn kiến thức sâu rộng trên nhiều lĩnh vực (địa lý, lịch sử, văn
hóa), hay những câu văn co duỗi nhịp nhàng, liên tưởng so sánh độc đáo. Nhưng
dường như Nguyễn Tuân nghiêng về phát hiện và diễn tả những hiện tượng đập mạnh
vào giác quan người đọc để tô đậm nét hùng vĩ dữ dội của con sông giống như một kẻ
thù hiểm ác làm nền cho người lái đò trí dũng , còn Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thiên
về chất thơ trữ tình dịu ngọt, đằm thắm như chính tính cách của con người Huế- một
cô gái Di Gan, một bản trường ca của rừng già, sự dữ dội ấy làm nổi bật sức sống cho
hạ lưu để sông Hương trở thành người mẹ phù sa của vùng văn hóa…Nếu như
Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm
giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng
nhất, có khả năng là lay động người đọc nhiều nhất, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với
tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch
sử, địa lý,..Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài
hoa.
*So sánh phần trữ tình:
Hình ảnh sông Đà trữ tình làm chúng ta liên tưởng đến một bài ký khác viết về
một dòng sông xứ Huế, đó là “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Nếu như sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả ở nhiều góc độ, mỗi góc độ lại
hiện lên những vẻ khác nhau: trên cao mềm mại, quyến rũ; bờ sông thân thuộc gần
gũi; thả thuyền tĩnh lặng, giàu sức sống; cho thấy tiềm năng du lịch, khám phá, thì
sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi
cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong manh có
tình yêu say đắm. Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu, được xây
dựng ở chiều sâu văn hóa, như một người mẹ phù sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền
thống văn hóa từ bao đời nay. Ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của hai tâm hồn có
tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông đất nước Việt
Nam. Nhưng ở mỗi nhà văn lại có một phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể
hiện hình tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa
dạng về vẻ đẹp quê hương đất nước mình.
● Cách nhìn con người của Nguyễn Tuân:
Qua nhân vật ông lái đò, Nguyễn Tuân có cách nhìn mang tính phát hiện về
người lao động mới. Ông lái đò chính là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của con người
lao động miền Tây Bắc âm thầm, giản dị, bình thường, nhỏ bé nhưng đã làm nên
những kỳ tích lớn lao trong công cuộc chiến đấu với thiên nhiên hung dữ. Thông qua
hình ảnh ông lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng, cảm phục, ca ngợi
con người Tây Bắc với chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn, đồng thời thể
hiện rõ sự tin tưởng của nhà văn với công cuộc xây dựng đất nước. Một người lái đò
anh hùng có thể xuất hiện trong một trang viết của nhà văn nào đó nhưng một người
lái đò tài hoa thì chỉ có trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở người lái đò sông Đà,
Nguyễn Tuân chứng minh những con người bình thường khi đạt đến trình độ tinh vi,
tinh xảo cũng được coi là một người nghệ sĩ. Như ông lái đò trong tác phẩm đã trở
thành người nghệ sĩ trong nghệ thuật chèo đò vượt thác và biến công việc lái đò thành
một nghệ thuật. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng vừa
mang tính thống nhất vừa thể hiện sự chuyển biến: Trước cách mạng, con người
Nguyễn Tuân hướng tới ca ngợi là những “con người đặc tuyển”, những tính cách phi
thường, đó là một Huấn Cao với cái khí phách ngang tàn, và cái tài hoa tỏa sáng,là
những nhân vật của Vang bóng một thời đem cái tài của mình ra chống đối thực tại,
thì sau cách mạng, nhân vật tài hoa của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong công
cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân, họ đem tài trí của mình ra phục vụ
đất nước, phục vụ nhân dân, Tổ quốc.
5.KẾT BÀI:
Bằng sự trí dũng và tài hoa cùng tình yêu với công việc của mình cuối cùng
người lái đò đã chiến thắng con sông Đà hùm beo, độc dữ. Và Nguyễn Tuân, ông cũng
đã phô diễn được ngòi bút độc đáo, uyên bác cùng sự mạo hiểm, ưa cảm giác mạnh
của mình trong từng con chữ. Qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, bạn đọc còn
nhận được một thông điệp nhân văn, ý nghĩa, đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay rằng: khi
làm bất cứ công việc gì chỉ cần có đam mê chắc chắn ta sẽ chạm đến được thành
công”. Quả thực, “Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới,
tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc một bài học trông nhìn và
thưởng thức” (Thạch Lam).------Kết bài phân tích Người lái đò sông Đà.

Sông Đà đã trở thành hình tượng đẹp trong tùy bút của Nguyễn Tuân, mang
đặc trưng của xứ sở Tây Bắc hoang dã, dữ dội mà đôi khi cũng nên thơ, mượt mà. Và
Nguyễn Tuân, ông cũng đã phô diễn được ngòi bút độc đáo, uyên bác cùng sự mạo
hiểm, ưa cảm giác mạnh của mình trong từng con chữ. Qua tác phẩm “Người lái đò
sông Đà”, bạn đọc còn nhận được thông điệp hết sức ý nghĩa, đặc biệt là thế hệ trẻ
hôm nay rằng: “ Hãy biết yêu thêm quê hương đất nước mình, biết tự hào, trân
trọng,bảo vệ, gìn giữ núi sông nguy nga,tráng lệ của thiên nhiên Tổ quốc”. Quả
thực,“Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp
kín đáo và che lấp của sự vật để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng
thức” (Thạch Lam).------Kết bài phân tích sông Đà

II.AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG - HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
( ngoại vi+vào tp)
1.MỞ BÀI:
Mác-xen Prut từng nói: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần
người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”.Với Hoàng Phủ
Ngọc Tường-một nhà văn chuyên viết bút ký, nhờ vào sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sâu sắc và tư duy đa chiều được tổng hợp từ
vốn kiến thức sâu rộng, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa mà mỗi
trang viết của ông đều đem đến cho người đọc một thế giới mới đầy hấp dẫn. “Ai đã
đặt tên cho dòng sông” là thi phẩm minh chứng rõ nhất cho tài năng của người nghệ sĩ
độc đáo này. Gấp lại trang sách người đọc sẽ chẳng thể nào quên được hình tượng của
dòng sông Hương xứ Huế không chỉ nổi bật với vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trữ
tình, thơ mộng mà còn ẩn sâu trong đó là bề dày văn hóa lịch sử đáng tự hào………
(Trích đề)
2.CHUYỂN Ý:
Bút kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài bút ký xuất sắc, được viết tại Huế
năm 1981 in trong tập sách cùng tên. Đây là những nét viết ngợi ca vẻ đẹp của quê
hương, thiên nhiên đất nước, ngợi ca vẻ đẹp văn hóa của con người Huế nói riêng và
con người Việt Nam nói chung. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, anh
hùng dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên Tổ quốc và truyền thống văn
hóa lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích lũy cả một đời
người.Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ
đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình với những nét tính cách phức
tạp,biến đổi một cách kỳ diệu trong không gian, thời gian, để rồi nhà văn như muốn
nhắc nhở mỗi chúng ta về nhiệm vụ ngợi ca, bảo vệ văn hóa, chạm khắc và lưu giữ vẻ
đẹp của thiên nhiên quê hương đất nước.
3.NGHỆ THUẬT:
Nam Cao đã từng nói: “Văn chương không cần đến người thợ khéo tay làm
theo một vài kiểu mẫu đã đưa cho.Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu,
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Quả thực, ở
“Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phô diễn được ngòi bút tài
hoa, uyên bác với sự kết hợp giữa trí tuệ và trữ tình một cách uyển chuyển. Nhà văn
huy động rất nhiều kiến thức trên các lĩnh vực khác nhau như âm nhạc, thi ca, hội họa.
lịch sử,..kết hợp với ngôn ngữ giàu chất thơ, mềm mại và những so sánh linh hoạt,
thống nhất, nhân hóa dòng sông như một người con gái nơi thượng nguồn hồn nhiên,
trong sáng, có tính cách, tâm hồn rất riêng.Không chỉ vậy, nhà văn còn sử dụng ngòi
bút nghị luận sắc bén và tư duy đa chiều thuyết phục người đọc khi miêu tả mối quan
hệ giữa thiên nhiên và con người, giữa dòng sông và thành phố, sông Hương và Huế
với vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và chiều sâu văn hóa, sự thủy chung, son sắt ở tâm
hồn. Đặc biệt là việc sử dụng phép so sánh với những dòng sông đẹp trên thế giới,
mượn lời nhận xét của những người độc giả, những giáo sư và Võ Nguyên Giáp để từ
đó cho thấy cái nhìn khách quan, đa chiều, khẳng định vị trí của sông Hương trong
lịch sử dân tộc và văn hóa nhân loại.“Ai đã đặt tên cho dòng sông” cũng vì vậy mà
xứng đáng là viên ngọc sáng trong kho tàng văn chương Việt Nam.
4.PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:
● Cái tôi tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Quả nhiên “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng
tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác
phẩm của mình”. Với một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình
ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi
của sông Hương. Đoạn văn nhẹ nhàng với ngòi bút tinh tế, lối viết giàu cảm xúc, kết
hợp giữa miêu tả và tự sự. Bằng quan sát tinh tường, tỉ mỉ, tưởng tượng phong phú,
tác giả đã miêu tả sông Hương từ góc nhìn địa lý,hành trình sông hương tìm về với
Huế như về với tình nhân của mình. Các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,..
được sử dụng hiệu quả. Tác giả còn vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu
biết sâu sắc về nhiều mặt như địa lý, thơ ca, âm nhạc, hội họa…để làm giàu cho giá trị
nhận thức của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung. Chất thơ thể hiện rõ qua
ngôn từ, hình ảnh.. tạo nên những câu văn rất hay như “chiếc cầu trắng…nhỏ nhắn
như những vành trăng non”, “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ…một tiếng
“vâng” không nói ra của tình yêu”...Vẻ đẹp của sông Hương cùng tài năng của Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã tạo nên đoạn văn đậm chất nhạc và họa. Nhìn bằng con mắt của
hội họa, sông Hương cùng những chi lưu tạo nên những đường nét thật mềm mại, tinh
tế và cổ kính.Cảm nhận bằng âm nhạc thì sông Hương đang trong điệu slow du
dương, sâu lắng và ngập tràn tình cảm với Huế. Tất cả cho thấy một cái tôi HPNT
thực sự tài hoa, uyên bác và chân thành, tha thiết yêu sông Hương- xứ Huế. Đoạn trích
còn thể hiện phong cách sáng tác riêng biệt và đặc sắc của tác giả: sự kết hợp giữa
chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
*So sánh với sông Đà trữ tình:
Đoạn văn đã cho ta thấy phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, nhưng để làm sáng rõ hơn nét độc đáo đó, ta cùng so sánh với một nhà viết ký
khác cũng viết về dòng sông là Nguyễn Tuân với “Người lái đò sông Đà”. Mặc dù
sông Đà thuộc vùng núi Tây Bắc còn sông Hương thuộc về thành phố Huế nhưng
chúng vẫn có những điểm chung dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Hai tác giả đã nhân hóa dòng sông yêu thương của mình thành những sinh thể
có tâm hồn thuần túy nhưng lại mang vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên tươi mới của đất
nước. Cùng viết về trữ tình, chất thơ nhưng mỗi dòng sông lại có chất thơ khác nhau,
chất thơ mang bản sắc riêng của nó. Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ
mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn mang dáng vẻ của một người con gái xinh đẹp, mong
manh có tình yêu say đắm. (Khi gặp thành phố thân yêu , sông Hương được cảm
nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý
thức tìm về người tình mong đợi; khi uốn những khúc quanh, dòng chảy thật
khoan thai, dịu dàng,...- khi vào thành phố) Còn với sông Đà, nó được miêu tả ở
nhiều góc độ khác nhau và mỗi góc là một vẻ đẹp riêng. Nhìn từ trên cao xuống nó
mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ Tây Bắc, nhìn sang hai bên bờ nhà văn lại mang
đến cho chúng ta những hình ảnh sông Đà thật hoang sơ, cổ kính. Có thể thấy rằng
cùng là vẻ đẹp trữ tình, cùng được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác nhưng sông
Hương lại tập trung tái hiện đẹp văn hóa giàu chất trữ tình, sông Đà thì chủ yếu thể
hiện vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên. Tất cả điều đó đã tạo nên ấn tượng độc đáo
riêng của mỗi tác giả trong tâm hồn bạn đọc, đồng thời thể hiện tình yêu, niềm tự hào
về thiên nhiên quê hương đất nước của hai tác giả và cho người đọc những góc nhìn
mới mẻ, đa dạng về vẻ đẹp của thiên nhiên Tổ quốc.
( Khi ở cánh đồng Châu Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người
tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung
tình, là người con gái dịu dàng của đất nước. Sông Hương được cảm nhận qua
lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông Hương là thủy trình có ý thức tìm về
người tình mong đợi- ngoại vi thành phố )
*So sánh với sông Đà dữ dội:
Đoạn văn đã cho ta thấy phong cách nghệ thuật độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, nhưng để làm sáng rõ hơn nét độc đáo đó, ta cùng so sánh với một nhà viết ký
khác cũng viết về dòng sông là Nguyễn Tuân với “Người lái đò sông Đà”. Mặc dù
sông Đà thuộc vùng núi Tây Bắc còn sông Hương thuộc về thành phố Huế nhưng
chúng vẫn có những điểm chung dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc
Tường. Hai tác giả đã nhân hóa dòng sông yêu thương của mình thành những sinh thể
có tâm hồn thuần túy nhưng lại mang vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên tươi mới của đất
nước. Sông Hương và sông Đà đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình
có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê
hương sâu sắc của mỗi tác giả. Chúng còn mang trong mình vẻ đẹp của sự hùng vĩ, dữ
dội, được viết bởi những ngòi bút tài hoa uyên bác để lại trong lòng người đọc những
ấn tượng khó phai. Sự tài hoa của mỗi tác giả khi miêu tả hai con sông trên phương
diện văn hóa, thẩm mỹ, khi dòng sông Hương hiện lên là dòng sông của âm nhạc, của
thơ ca, của lịch sử gắn liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người
dân xứ Huế thì sông Đà lại là nơi hội tụ hai nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên
Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng. Cả hai tác giả còn
cho thấy sự uyên bác của mình khi đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến
thức trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng mỗi dòng sông.
● Chất trữ tình, chất thơ
Với một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi
của sông Hương. Hình tượng sông Hương được miêu tả bằng ngôn ngữ tinh tế, giàu
chất thơ, lối hành văn hướng nội, mê đắm, tài hoa; nghệ thuật so sánh, nhân hóa sáng
tạo, những liên tưởng độc đáo… sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm
vốn quen thuộc trong thơ như so sánh kết hợp với ẩn dụ, nhân hóa. Chất thơ toát ra từ
những câu văn, hình ảnh đẹp, đầy màu sắc và từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ
thuật (“ những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “Sông Hương vẫn đi trong
dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”,” Những ngọn đổi này
tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”, “sớm xanh, trưa vàng, chiều
tím”,...)Nhà văn không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy địa lý tự nhiên
của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người
yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận
riêng, độc đáo và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng
thành phố thân yêu. Cảm hứng xuyên suốt trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm
là niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của
con sông xứ huế. Hương Giang hiện lên qua cuộc tìm kiếm của HPNT không chỉ là
con sông tự nhiên mà là một sinh thể, một người con gái vừa xinh đẹp, vừa tài hoa,
vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hóa riêng
của nó. Rõ ràng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu say đắm và những cảm xúc
sôi nổi phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một bài ca tôn vinh vẻ đẹp của
sông Hương. Vì thế cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất thơ, chất trữ tình sâu
sắc.
● Cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông:
Với một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn từng bước đi
của sông Hương. Vốn ngôn từ đẹp, tao nhã tinh tế, lịch lãm, những ví von, so sánh,
nhân hóa giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa và chất suy cảm, hướng nội đã làm nên nét
thanh tao rất riêng trong chất ký của HPNT; sự quan sát và tưởng tượng bằng lăng
kính của tình yêu và cái nhìn lãng mạn; giọng điệu rất Huế, rất trữ tình, sâu lắng, đầy
suy niệm đã làm nên chất trữ tình riêng của đoạn văn và tác phẩm. Nhà văn phát hiện
dòng sông giống như người con gái mang trong mình nhiều phẩm chất và vẻ đẹp tâm
hồn: vừa mạnh mẽ sôi nổi, vừa đằm thắm, dịu dàng. Dòng sông giống như một cô gái
Di-gan, một bà mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Ông khám phá ra “ phần đời”
mà dòng sông muốn bộc lộ là vẻ đẹp ở thượng nguồn với cảnh sắc thiên nhiên phong
phú và đa dạng. Phải là một con người có vốn tri thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn
hóa, đặc biệt là phải có một tình yêu thiết tha, mãnh liệt với dòng sông Hương, với
thành phố huế, với quê hương xứ sở, nhà văn mới có được góc nhìn mới mẻ, độc đáo
đến vậy.

5.KẾT BÀI:
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” xứng đáng là một tuyệt tác bút ký phát hiện và
ngợi ca vẻ đẹp của nàng thơ xứ Huế với một sinh thể có tâm hồn, có cảm xúc và có cả
cuộc đời, với nhiều nét cá tính khác nhau, lúc hùng vĩ, mãnh liệt,lúc hoang dại, quyến
rũ rồi có lúc lại thật dịu dàng bao dung.Hoàng Phủ Ngọc Tường đích thực là sự kết
hợp độc đáo giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa tư duy đa chiều và nghị luận sắc
bén cùng một giọng văn hướng nội, uyên bác và tài hoa.Còn với người đọc, chúng ta
chợt nhận ra rằng, sông Hương đã trở thành một dòng sông bất tử, luôn chảy trôi mãi
cùng thời gian và bởi thế ta cần phải bảo vệ tài nguyên và thiên nhiên môi trường để
những dòng sông mãi vẹn nguyên nền văn hóa xứ sở.Cảm ơn nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo,
đúng như Thạch Lam đã nói: “Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không
ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học
trông nhìn và thưởng thức”.

III.CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - NGUYỄN MINH CHÂU


1.MỞ BÀI:
“Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn
cả.Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ”. Với Nguyễn
Minh Châu, ông xứng đáng là nhà văn thực thụ bởi phong cách sáng tác đậm chất tự
sự-triết lí kết hợp cùng lỗi viết dung dị đời thường, có lẽ bởi vậy mà ông còn được
mệnh danh là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kỳ đổi
mới. Đặc biệt khi nhắc đến Nguyễn Minh Châu, những con người yêu văn chương sẽ
không thể bỏ lỡ truyện ngắn“ Chiếc thuyền ngoài xa”, nơi mà ngòi bút của nhà văn
được thể hiện một cách đầy hấp dẫn. Hấp dẫn đến nỗi khi gấp lại trang sách, người
đọc không thể nào quên được,......(Trích đề)
2.CHUYỂN Ý:
Truyện ngắn: “Chiếc thuyền ngoài xa” được in trong tập “Bến quê”, viết vào
năm 1983, khi đất nước đang đổi mới sau chiến tranh, con người quay trở về với cuộc
sống muôn mặt đời thường chính vì vậy mà không ít những phức tạp nảy sinh, đòi hỏi
văn chương và nghệ thuật cũng cần đáp ứng sự thay đổi đó của cuộc sống. Đây là câu
chuyện kể về chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu
sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời, từ đó làm nổi bật cách nhìn của chính tác giả
đối với hiện thực cuộc sống, một cái nhìn thấu hiểu, thấm đẫm tình thương cùng sự
băn khoăn, day dứt về thân phận con người cũng như những chiêm nghiệm sâu sắc về
nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người lao động
trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn và hành trình tìm kiếm những “hạt ngọc tâm hồn”
không hiện ra trong lửa đạn chiến tranh, mà lẩn khuất giữa đời thường đầy sóng gió.
*Dẫn vào tình huống truyện:
Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm văn học có tình huống truyện hết sức độc
đáo, cuốn hút người đọc ngay từ những câu văn đầu tiên. Có thể nói tình huống truyện
chính là chiếc chìa khoá để vận hành cả cốt truyện, là điểm tựa để người đọc khám
phá trọn vẹn một tác phẩm văn xuôi. Tình huống truyện chính là…Bằng tài năng và
phong cách nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện
nhận thức đầy bất ngờ và chứa đựng những nghịch lý cuộc đời, đó chính là hai phát
hiện của nghệ sĩ Phùng.
*Tình huống truyện:
PHÁT HIỆN MỘT – LÀ VẺ ĐẸP CỦA CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh được phân công nhiệm vụ đến một vùng biển
để chụp ảnh chuẩn bị cho bộ sưu tập năm sau. Anh đã phục kích mấy buổi sáng nhưng
vẫn chưa chụp được tấm nào vừa ý. Sau gần một tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng
quyết định thu cảnh đánh cá vào lúc bình minh. Và đó cũng là lúc Phùng phát hiện vẻ
đẹp của chiếc thuyền ngoài xa.
+ Cảnh đẹp ngây ngất
Ở cự ly xa, đó là một chiếc thuyền lưới vó trong cảnh biển mờ sương. Là một người
nghệ sĩ, Phùng đánh giá khung cảnh ấy rất đẹp, rất quý và cũng rất hiếm gặp. “Có lẽ
suốt một đời cầm máy chưa bao giờ tôi thấy được cảnh “đắt” trời cho như vậy: trước
mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Đó là một cảnh tượng đẹp:
Có tiền cảnh, trung cảnh, hậu cảnh theo đúng bố cục của nhiệp ảnh hội họa. Phùng
đang đứng trước một bức tranh thiên nhiên không chỉ mang vẻ đẹp cổ kính mà đó là
một vẻ đẹp không thể gặp lại lần thứ hai. Bức tranh ấy có sự hài hòa giữa đường nét,
ánh sáng cho đến màu sắc. “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”, chỉ với vài đường
nét phác họa, tác giả đã vẽ ra một khung cảnh tuyệt vời như những bức tranh cổ
thi.Không chỉ có hình ảnh thiên nhiên, trong bức tranh ấy còn có sự xuất hiện của con
người “Vài bóng người lớn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui
khum khum”. Con người cũng như cảnh vật đều im lặng, con người như cũng muốn
hòa cùng cảnh vật và cũng không muốn phá vỡ bầu không khí yên tĩnh này. Con
thuyền đang chuyển động nhưng dường như lại đứng yên trong giây phút nó xuất hiện
trước mắt Phùng. Điều đặc biệt đó là khung cảnh ấy “được nhìn qua những cái mắt
lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó” giống hệt “cánh một con dơi”. Các từ
láy kết hợp với hình ảnh so sánh đã góp phần cho thấy vẻ mơ hồn, huyền ảo, tinh khôi
và sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên.
+ Tâm trạng và phản ứng của Phùng
Vẻ đẹp ấy làm người nghệ sĩ phải rung động. Đối diện với hình ảnh “chiếc thuyền
ngoài xa” với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích” khiến cho Phùng cảm thấy “bối rối,
trong trái tim như co cái gì bóp thắt vào”.Đây là trạng thái vừa xao xuyến vừa căng
thẳng đến nghẹt thở khi lần đầu tiên anh phát hiện cái đẹp quý giá đến thế. Anh liên
tưởng đến câu nói “bản thân cái đẹp chính là đạo đức” và tưởng như chính bản thân
mình đã vừa khám phá ra “chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc
trong ngầm của tâm hồn”. Vậy là cái đẹp hướng con người đến những giá trị đạo đức,
những điều thanh cao trong sạch “chân – thiện – mỹ”. Cái đẹp ấy còn có thể thanh lọc
tâm hồn con người, gột rửa đi những lấm lem của đời sống.Vì ý thức được vai trò của
cái đẹp đối với đời sống con người, Phùng đã cố gắng thu giữa hết lấy mọi khoảnh
khắc ấy để dâng tặng cho đời. Chính vì vậy, anh đã “bấm liên thanh một hồi hết một
phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica” cái đẹp tuyệt đỉnh ấy. Sau này, bức ảnh
chiếc thuyền ngoài xa của Phùng có mặt “trong các gia đình sành nghệ thuật”.
➔ Tiểu kết:
Đây có thể được xem là một phần thưởng cao quý, một cách khẳng định tài năng của
những người làm nghệ thuật đều khát khao. Qua việc Phùng phát hiện bức ảnh tuyệt
bích của thiên nhiên trong cảnh sương mờ ấy, tác giả muốn nhấn mạnh vai trò, chức
năng của nghệ thuật. Nghệ thuật phải hướng con người đến cái đẹp, “chân – thiện –
mỹ” ở đời. Và người nghệ sĩ phải là người phải biết phát hiện, rung cảm và dâng tặng
cái đẹp ấy cho đời.

PHÁT HIỆN HAI – LÀ BI KỊCH TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG
CHÀI
+ Chiếc thuyền thật gần
Khi tiếp cận chiếc thuyền ở cự ly gần, Phùng lại phát hiện ra thêm bao điều. Đó
là những xấu xí trong cuộc sống của một gia đình ngư dân. Chưa kịp ngắm nhìn kiệt
tác thiên nhiên thì bỗng chốc “chiếc thuyền đăm thẳng vào chỗ Phùng đang đứng”. Từ
trên thuyền bước xuống một người đàn ông và một người đàn bà.Hai nhân vật này đều
có vẻ ngoài hoàn toàn đối lập với khung cảnh nên thơ. Người đàn bà “trạc ngoài bốn
mươi”, thân hình “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Còn khuôn mặt người đàn
bà thì rỗ mặt, “tái ngắt” và “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới”. Còn người
đàn ông thì xuất hiện với “mái tóc tổ quạ”, “chân đi chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc
dữ”. Một cảnh bạo hành vi phạm đạo đức, sự đảo lộn luân thường đạo lý trong chính
gia đình ấy. Đôi vợ chồng đi về phía bãi xe tăng. Người đàn ông “trút cơn giận như
lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Lão vừa
đánh vừa nguyền rủa bằng một giọng rên rỉ “mày chết … cho ông nhờ”. Nhưng thằng
Phác – con của gia đình hàng chài, đã tìm đến kịp lúc để che chở cho mẹ mình. “Nó
giằng được chiếc thắt lưng” rồi quật vào khuôn ngực của ba nó. Thế nhưng, lão đàn
ông giáng cho nó hai cái tát rồi bỏ đi về phía chiếc thuyền. Thế nhưng, không chỉ cảnh
bạo hành đó khiến Phùng bất ngờ mà còn chính là sự nhẫn nhục, cam chịu đến mức
nhu nhược của người đàn bà khi bị đánh. Trước những trận đòn roi của chồng, chị
“không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Hay
chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha và bị cha đánh, chị chỉ có thể “ôm chầm lấy nó
rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Trước bức tranh hiện
thực cuộc sống trần trụi ấy hiện ra, Phùng đã phải trải qua biết bao thái cực khác nhau
của cảm xúc.
+ Phản ứng của Phùng
Nếu đứng trước chiếc thuyền ngoài xa Phùng cảm thấy rung động và thăng hoa
trước cái đẹp, thì giờ đây chứng kiến chiếc thuyền ngoài xa ấy ở cự ly gần Phùng lại
chỉ có thể “kinh ngạc đến mức (…) há mồm ra mà nhìn”. Rồi sau đó, anh liền vội “vứt
chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Anh kinh ngạc bởi sự thật quá trớ trêu,
nghiệt ngã.
➔ Tiểu kết:
Nếu chiếc thuyền ở ngoài xa là biểu tượng của vẻ đẹp toàn thiện toàn bích
hướng con người đến những gái trị đạo đức, thì giờ đây chiếc thuyền – nhìn từ cự ly
gần lại trở thành hiện thân của sự nghèo đói, bạo hành, là sự thay đổi vị trí đảo lộn
luân thường đạo lý – chồng đánh vợ, con đánh cha. Hành động “vứt chiếc máy ảnh”
của Phùng như nói lên anh không cần giữ lại bức ảnh cảnh đắt trời cho này mà trong
giây phút này chuyện quan trọng nhất đối với Phùng chính là cứu người đàn bà. Chiếc
thuyền tuyệt đẹp trong biển trời mờ sương bỗng chốc là những trái chiều trớ trêu đến
mức gần như Phùng không tin vào điều mình vừa tận mắt chứng kiến. Đẹp và xấu,
thiện và ác, giữa tâm hồn trong ngần và những dằn vặt đau đớn, tất cả hòa lẫn vào
nhau trong cùng một khung cảnh. Đặt Phùng trong tình huống éo le ấy, nhà văn muốn
đặt ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật phải vì cuộc sống, người
nghệ sĩ phải biết đấu tranh nhìn nhận đúng đắn về sự vật, hiện tượng. Phân tích tình
huống truyện chiếc thuyền ngoài xa, ta thấy nhà văn không được cực đoan, phiến diện
một chiều mà phải có cái nhìn xa và gần, từ bên ngoài đến bên trong thì mới có thể
đánh giá đúng bản chất của sự vật hiện tượng.
*Nhận xét khi phân tích tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã xây dựng một tình huống truyện cuốn hút và
độc đáo. Phía sau bức ảnh tuyệt đẹp là những đớn đau, ngang trái trong gia đình người
đàn bà. Phía sau vẻ ngoài xấu xí là một vẻ đẹp tâm hồn bị khuất lấp của người đàn bà.
Từ tình huống đó mà tính cách của các nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm
được thể hiện. Nhân vật Phùng cũng chính là hóa thân của tác giả. Một góc nhìn tinh
tế, khách quan đầy khám phá của nhà văn và cũng là một trái tim cháy bỏng vì cuộc
đời. Tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa thuộc tình huống nhận thức,
mang tính khám phá, phát hiện về sự thật đời sống – Đây cũng là đặc điểm chính của
tình huống nhận thức. Phân tích tình huống truyện chiếc thuyền ngoài xa, ta thấy nó
đã nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó giữa nghệ thuật và cuộc sống. Qua đó, nhà văn
nhắn gửi đến mọi người cần phải hòa mình vào cuộc sống và có cái nhìn đa chiều để
có thể khám phá ra những vẻ đẹp khuất lấp của cuộc sống và có thể nhìn thẳng vào
đúng bản chất vấn đề.
*Kết bài
Như vậy thông qua tình huống truyện trong tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa,
nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rất nhiều thông điệp có ý nghĩa sâu sắc về
cuộc sống và nghệ thuật. Chúng ta không thể đơn giản hay sơ lược khi nhìn nhận đánh
giá về một hiện tượng sự vật mà cần có cái nhìn đa diện đa chiều.
*Dẫn vào phân tích nhân vật:
Và hạt ngọc sáng nhất trong truyện ngắn này chính là nhân vật người đàn bà
làng chài, nhân vật trung tâm được nhà văn khắc họa sắc nét bằng bút pháp hiện thực
theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất
hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật
người đàn bà làng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và
không khỏi trăn trở.
3.KẾT BÀI:
“Chiếc thuyền ngoài xa” khép lại bằng tấm ảnh chứa đầy cảm xúc của Phùng,
đằng sau một tấm ảnh thuyền biển tuyệt đẹp là những góc khuất tối tăm của cuộc đời,
là hiện thực trần trụi với cuộc sống lam lũ mà trung tâm là hình ảnh một người đàn bà
xấu xí thô kệch đang bước chậm rãi, hòa lẫn trong đám đông.Nhưng với một nhà văn
suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn dấu như Nguyễn Minh Châu, cuộc hành trình khám phá
cuộc sống còn đầy hấp dẫn để trăn trở, băn khoăn. Còn với người đọc, chúng ta chợt
nhận ra rằng,đôi khi trong cuộc sống cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều, thế giới hiện
đại với quá nhiều thông tin khiến chúng ta dễ đánh giá đối tượng bằng vài dòng status,
vài cái ảnh trên facebook, để rồi phán xét cực đoan hoặc phiến diện khi nhìn nhận.Có
lẽ, cần phải trải nghiệm, phải khám phá nhiều hơn nữa. Xin cảm ơn Nguyễn Minh
Châu, ông đã làm tròn công việc của mình như Thạch Lam đã nói: “Công việc của nhà
văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự
vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”.

Từ câu chuyện về số phận của người đàn bà hàng chài tội nghiệp, Nguyễn
Minh Châu đã đặt ra những vấn đề lớn lao trong cuộc sống và nghệ thuật: Con người
đa đoan, cuộc đời đa sự. Cũng vì vậy mà chúng ta không thể dễ dàng, đơn giản nhìn
nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống với cái nhìn một chiều, phiến diện, cần
phải có cái nhìn đa chiều, bao quát mới có thể cảm nhận hết được cái gai góc, phức
tạp của cuộc đời. Đây chính là thông điệp mới được gửi gắm tới bạn đọc, nét mới
trong văn xuôi mà Nguyễn Minh Châu chính là vị: “khai thần quốc công của triều đại
văn học mới”. Cho đến tận ngày hôm nay, trong cuộc sống hội nhập ngày càng phức
tạp, càng không thể giản đơn phiến diện khi nhìn nhận và đánh giá bất cứ điều gì, ta
thậm chí phải mở rộng lòng mình để hiểu và mưu sinh ngoài kia. Đúng như quan điểm
của Nguyễn Minh Châu “ Nghệ thuật và cuộc sống là những đường tròn đồng tâm và
tâm điểm chính là con người”.

IV. VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI


1.MỞ BÀI
Nhà văn Sê-khốp từng nói: “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó
không bao giờ là nhà văn cả.Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn
thực thụ”. Với Tô Hoài, cái giọng riêng ấy chính là lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động,
lối kể chuyện tự nhiên, gần gũi cùng với vốn hiểu biết phong phú sâu sắc về phong tục
tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. “Vợ chồng A Phủ” là minh chứng rõ nhất
cho tài năng của nhà văn thực thụ này khi đã có công đưa Tây Bắc vào bản đồ Văn
học Việt Nam. Gấp lại trang sách ta không thể không nhớ đến bức tranh chân thực về
cuộc sống và số phận đau khổ của những người dân nghèo miền núi cao Tây Bắc,
cùng sức sống và vẻ đẹp của con người nơi đây,.. mà tiêu biểu là nhân vật Mị/ Đặc
biệt là hình ảnh.. qua đoạn trích…từ đó thấy được…mà nhà văn gửi gắm.
2.CHUYỂN Ý:
“Vợ chồng A Phủ” ra đời năm 1952 in trong “Truyện Tây Bắc”, là kết quả của
những năm tháng mà Tô Hoài cùng những người cán bộ chiến sĩ lên miền núi cao Tây
Bắc để giải phóng dân tộc nơi đây. Cùng chiến đấu, sinh hoạt với những người dân
mộc mạc giản dị, nhà văn đã phát hiện ra bên trong những con người tưởng chừng lạc
hậu ấy là sức sống tiềm tàng mãnh liệt, là vẻ đẹp của tình yêu tự do, tấm lòng nhân
hậu, ngay thẳng, đáng mến. Và cũng vì “Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều
quá”, nên điều kỳ diệu là viết về một cùng đất rất mới mẻ trong văn học nhưng Tô
Hoài đã tạo ra một vùng đất vừa đậm màu sắc Tây Bắc, vừa giàu chất thơ và vô cùng
hấp dẫn.
3.GIÁ TRỊ HIỆN THỰC+NHÂN ĐẠO:
Đọc đoạn trích… ta thấy rõ được giá trị hiện thực của tác phẩm. Đầu tiên
đó là bức tranh chân thực về số phận nô lệ khổ sai của người dân lao động nghèo Tây
Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi. Hơn thế truyện
cũng phơi bày bản chất tài bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi với những
đòn roi tàn bạo, những hành động tra tấn giã man của cha con thống lý Pá Tra. Bên
canh đó, người đọc còn thấy được một cách sống động về vẻ đẹp của bức tranh thiên
nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi qua cảnh mùa xuân và cảnh xử
kiện A Phủ. Quả đúng “Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại”.
Đọc tác phẩm/ đoạn trích ta thấy rõ cái nhìn nhân đạo/ tư tưởng nhân đạo
mới mẻ của tác giả. Đầu tiên đó là bức tranh chân thực về số phận và cuộc đời nô lệ
khổ sai của những người dân nghèo miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn
cường quyền phong kiến khiến ta cảm thông và chia sẻ sâu sắc với cuộc sống của họ
nhưng cũng đồng thời phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người của cường
quyền và thần quyền. Sau đó là chất thơ, chất tình thấm đẫm trong từng trang viết về
vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con
người.Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi
khát vọng sống tự do và hạnh phúc như cái cách mà Mị thức tỉnh trong đêm mùa xuân
hay cởi trói cho A Phủ càng làm cho chúng ta thêm trân trọng và ngợi ca những con
người phi thường ấy.Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi
Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi
những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình. Đúng như Nam Cao đã nói
cách đây gần thế kỷ “Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là
tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.
4.NGHỆ THUẬT:
Nam Cao đã từng nói: “Văn chương không cần đến người thợ khéo tay làm
theo một vài kiểu mẫu đã đưa cho.Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu,
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Quả thực, ở
“Vợ chồng A Phủ”, trước một đề tài không còn mới, nhưng con chữ của Tô Hoài vẫn
rất tự nhiên, sống động nhất là khi ông miêu tả tâm lí nhân vật, nhà văn khéo léo sử
dụng ngôn ngữ trần thuật phức hợp ( nửa trực tiếp nửa gián tiếp) cùng với kỹ thuật
đồng hiện của điện ảnh khiến hai cô Mị của hiện tại và quá khứ cùng hiện lên tạo ra
những mâu thuẫn, đấu tranh đầy kịch tính. Trước mắt người đọc, là một cô Mị bề
ngoài lặng lẽ, héo úa, nhưng bên trong lại là một tâm hồn ham sống, khát khao hạnh
phúc,... Bên cạnh đó, ta còn chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên và cuộc sống phong
tục tập quán đặc sắc của người dân nơi núi cao, đó là nhớ vốn hiểu biết và lối kể
chuyện dầy duyên dáng của Tô Hoài. Chất thơ và chất hiện thực hòa quyện , khiến tác
phẩm vừa nhức nhối, đau đớn, vừa đầy hy vọng và khát khao, Vợ chồng A Phủ vì vậy,
xứng đáng là viên ngọc sáng trong văn chương cách mạng những năm chống Pháp.
5.KẾT BÀI:

V. ĐẤT NƯỚC- NGUYỄN KHOA ĐIỀM


1.MỞ BÀI:
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu” , Đất nước luôn là một trong những nguồn
cảm hứng mang đề tài đặc trưng của nền văn học Việt Nam từ thời muôn thuở, chúng
ta đã bắt gặp hình ảnh đất nước trong rất nhiều tác phẩm tiêu biểu, đó là hình ảnh đất
nước chìm trong đau thương, mất mát trong thơ Hoàng Cầm, hay là hình ảnh đất nước
đang đổi mới từng ngày trong thơ Nguyễn Đình Thi … Nhưng có lẽ, hình tượng Đất
Nước được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất vẫn là trong tác
phẩm “Đất Nước” (trích trường ca “mặt đường khát vọng”) của nhà thơ trữ tình chính
luận Nguyễn Khoa Điềm. Đặc biệt đoạn thơ đầu của bài thơ nhà thơ đã giải thích Đất
nước bằng những hình ảnh giản dị hằng ngày.
2.CHUYỂN Ý:
“Đất Nước” thuộc chương V, trích trong Trường ca “Mặt đường khát vọng”
được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, thời kỳ cuộc
kháng chiến chống Mỹ diễn ra vô cùng ác liệt, hơn bao giờ hết, vận mệnh của đất
nước, Tổ quốc được đặt lên hàng đầu. Trường ca ấy xuất hiện như một lời kêu gọi thế
hệ trẻ ở khu tạm chiếm miền Nam phải có ý thức xuống đường đấu tranh cho sự toàn
vẹn, sự thống nhất của đất nước.
3. TƯ TƯỞNG ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN:
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là tư tưởng mới mẻ “Đất Nước của Nhân dân”.
Từ xưa đến nay, nhắc đến Đất Nước, chúng ta sẽ nhắc đến “thiên thư”, “đế cư” hay
“Một mối thiên thư đồ sộ/ Hai vầng nhật nguyệt chói lòa”. Tuy nhiên, đến thời đại Hồ
Chí Minh, ta thấy rõ ràng sức mạnh của nhân dân – những con người đã “Giũ bùn,
đứng dậy sáng lòa” trong công cuộc dựng xây và phát triển Đất Nước.Vì lẽ đó, trong
chương này, Nguyễn Khoa Điềm đã trả lại chủ nhân đích thực của Đất Nước là nhân
dân, nhân dân là những người đã sản sinh, bảo vệ, gìn giữ đất nước trong suốt mấy
ngàn năm lịch sử. Có thể nói, vai trò của nhân dân vô cùng vĩ đại, đó là giá trị cốt lõi
có ý nghĩa quan trọng cho đến tận ngày hôm nay – hỡi những người con Việt Nam,
hãy cùng nhau chung tay để bảo vệ vững chắc Tổ quốc mình, để không phụ công của
thế hệ cha anh.
4.NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO
a/ Mối quan hệ Đất nước- Văn hóa-Nhân dân:
Điểm độc đáo, đặc sắc, mới mẻ trong tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” là
việc Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn Đất Nước – Nhân dân gắn liền với văn hóa. Văn hóa
là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần được ông cha ta sáng tạo, bảo vệ và gìn
giữ, phát triển trong suốt bao năm tháng thăng trầm của lịch sử. Có thể nói, văn hóa là
bản sắc, là nét riêng trong cá tính của mỗi dân tộc. Nhờ có văn hóa mà mỗi người dân
có ý thức gìn giữ, bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc – nhất là đối với đất nước ta,
đất nước thường xuyên phải đối diện với âm mưu đồng hóa của kẻ thù xâm lược.
Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn Đất nước và Nhân dân gắn liền với nền văn hóa mang
đậm dấu ấn của đời sống lao động, sinh hoạt đời thường bình dị. Có ai ngờ, tình nghĩa
làng xóm, tình yêu đôi lứa và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” lại hiện ra chỉ qua một
miếng trầu. Có ai ngờ, truyền thống lao động cần cù, kiên cường bất khuất giữ lấy Đất
Nước 4000 năm lại nằm gọn bên lũy tre làng thân thuộc? (Có ai ngờ nét duyên dáng,
gọn gàng trong lao động hay sự cần cù, chịu thương chịu khó của người phụ nữ
Việt lại cuộn tròn trong búi tóc của mẹ…Có ai ngờ, tình nghĩa vợ chồng thủy
chung son sắt, thương nhau trong gian khổ lại vụt lên từ những gừng cay, muối
mặn, những thứ gia vị quen thuộc trong cuộc sống đời thường…-9 câu đầu) Tất cả
những thứ tưởng chừng như nhỏ bé, dễ bị lãng quên ấy lại gợi dậy niềm tự hào về bản
sắc riêng của Đất Nước mình, nhắc nhở ta phải có trách nhiệm bảo vệ nét văn hóa độc
đáo ấy của dân tộc.
(Có ai ngờ rằng: những Núi Bút, Non Nghiên lại được góp bởi những người
học trò nghèo - Những Hòn Vọng phu mang bóng dáng những người chinh phụ
chờ chồng trở về từ chiến trường - Vịnh Hạ Long mênh mông, rộng lớn lại được
góp bởi những con cóc, con gà QH- đoạn những người vợ nhớ chồng)

b/ Chất liệu văn hóa dân gian:


Người đọc còn say mê đắm mình trong chất liệu văn hóa dân gian, sợi dọc sợi
ngang, óng ánh sắc màu văn hóa dân gian đan cài nên bức tranh Đất Nước. Trong
chín câu thơ đầu, ta thấy sự xuất hiện đậm đà của ca dao, dân ca, những câu truyện
truyền thuyết, truyện cổ tích quen thuộc. Đó là cái “ngày xửa ngày xưa”, là “gừng cay
muối mặn”, là lũy tre làng cùng nhân dân đánh giặc trong mấy mươi thế kỷ … Chúng
đã tạo nên cho tác phẩm bầu khí quyển dân gian độc đáo đầy tính hấp dẫn. Trong thơ
cổ, các tác giả trung đại thường sử dụng những tính chất quy phạm, những ngôn từ
ước lệ như “thiên thư”, “đế cư”. Đất Nước hiện lên thật hùng vĩ, tráng lệ nhưng lại xa
cách, vời vợi không thể nào với tới. Tuy nhiên, Nguyễn Khoa Điềm trong thời đại mới
đã bình dị Đất Nước, xóa nhòa khoảng cách giữa Đất Nước và Nhân dân. Ông đã đưa
Đất Nước từ “sách trời”, bất khả xâm phạm, từ ngai vàng của Hoàng Đế xuống búi tóc
của mẹ, xuống miếng trầu bà ăn, xuống câu chuyện cổ tích ta nghe thuở nhỏ… nhờ
vào hệ thống ngôn từ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Chính vì vậy,
Đất Nước không ở xa ta mà ở trên ta, trong ta và quanh ta.
Người đọc còn say mê đắm mình trong chất liệu văn hóa dân gian, sợi dọc sợi
ngang, óng ánh sắc màu văn hóa dân gian đan cài nên bức tranh Đất Nước. Trong 12
câu thơ trên, ta thấy sự xuất hiện đậm đà của các truyền thuyết dân gian gắn với các
danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa mà ẩn sâu trong mỗi câu chuyện là một
truyền thống đạo lý của dân tộc. Đó là sự tích núi Vọng Phu được dân gian thổi vào đó
tấm lòng thủy chung son sắt chờ chồng nuôi con của người phụ nữ Việt Nam phải
chăng được thêu dệt từ những hòn Vọng Phu. Hòn Trống Mái cũng là biểu tượng cho
tình cảm vợ chồng gắn bó son sắt bên nhau được dân gian truyền miệng qua sự tích
cùng tên. Hay “gót ngựa Thánh Gióng”, “đất tổ Hùng Vương” lại vẽ lên một không
gian lịch sử hào hùng trong truyền thuyết Thánh gióng và truyền thuyết các vua Hùng
dựng nước và giữ nước. Thêm vào đó, một loạt các tên người dân như Ông Đốc, Ông
Trang, Bà Đen, Bà Điểm đã tạo nên cho tác phẩm một bầu khí quyển dân gian độc
đáo, đầy hấp dẫn. NKĐ đã đưa đất nước từ ngai vàng của Hoàng đế xuống những núi
Bút, non Nghiên, xuống những hòn Vọng Phụ xuất hiện trên khắp ĐN, những dòng
sông xanh thẳm, những ao đầm, vùng đất Tổ thiêng liêng – tất cả những địa danh này
đều mang dáng hình của nhân dân nhờ vào hệ thống ngôn từ bình dị, gần gũi với lời
ăn tiếng nói hàng ngày.Chính vì vậy, Đất Nước không ở xa ta mà ở trên ta, trong ta và
quanh ta.
5.KẾT BÀI:

VI. VỢ NHẶT - KIM LÂN


1. Bình luận về cái nhìn nhân đạo của nhà văn Kim Lân
Đọc “Vợ nhặt” ta có thể thấy rõ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông với người
nông dân. Điều đó không chỉ thể hiện ở việc nhà văn miêu tả một cách vô cùng chân
thực cuộc sống bi thảm của người nông dân trong những năm đói khát, đói đến mức
độ mà đám cưới, niềm vui lại mong manh trước lưỡi hái của tử thần, mà còn giống
như “ Vợ chồng A Phủ” - cả hai thiên truyện đều bắt đầu với cái u tối đau đớn của
hiện thực - nhưng con người thì không chấp nhận hoàn cảnh, họ đã phản kháng, đấu
tranh, vùng vẫy, quẫy đạp, họ đã bằng cách này hay cách khác đứng lên. Kim Lân đã
bày tỏ niềm cảm thương, đau xót trước số phận bi thảm của người nông dân trong
những năm đói đồng thời thầm kín thể hiện sự trân trọng, nâng niu từng ước mơ bé
nhỏ, tội nghiệp của họ. Nếu “ Chí Phèo”, “Lão Hạc” ra đời trước Cách mạng tháng
Tám đều là những thiên truyện với một kết thúc tăm tối, bế tắc thì cái kết “ lửng”
trong thiên truyện của Kim Lân qua hình ảnh Tràng nghĩ về lá cờ đỏ lại biểu hiện một
niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Nên nhớ rằng, “nhà văn phải là người thư kí trung
thành của thời đại”, và trong mỗi giai đoạn văn học khác nhau đều phản ánh những
cách tiếp cận hiện thực riêng biệt của mỗi nhà văn. Còn như Kim Lân, hơn ai hết, ông
thực sự đúng là “một nhà nhân đạo trong cốt tủy”.

2. Bình luận về giá trị nghệ thuật


Đọc “Vợ nhặt”, người ta như cảm thấy bên tai tiếng nói của riêng Kim Lân, của
nhà văn “một lòng đi về với đất, với thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông
thôn”. Tiếng nói ấy vang lên trong cách nhà văn xây dựng tình huống truyện độc đáo,
khi ông đặt nhân vật của mình vào một đám cưới giữa vô vàn đám ma, làm bật lên sự
đối lập tương phản giữa hoàn cảnh tối tăm với tình người ấm nóng, rồi lại bằng ấm
nóng tình người dẫn người ta đi từ bóng tối ra ánh sáng. Tiếng nói ấy vang lên trong
cách nhà văn sử dụng giọng điệu trần thuật linh hoạt, khi ông thật tài tình mà luồn
lách tận sâu những góc khuất nội tâm của những nhân vật rất đỗi “nhà quê” bằng thứ
ngôn ngữ rất đỗi “quê mùa”. Các nhà văn khác có thể kinh lịch nhiều vùng đất để tích
lũy vốn sống, tư liệu cho sáng tác, còn riêng Kim Lân, ông chọn gắn bó lâu dài với
vùng quê của mình, nâng cao “vốn sống” lên thành “chất sống”, để rồi cứ tự nhiên
như thế, “chất sống” ấy thấm nhuần vào thế giới nghệ thuật tác phẩm, tạo nên cho ông
“tiếng nói riêng”, tạo nên cái mà Tuốc-ghê-nhép coi là “quan trọng nhất trong tài năng
văn học, và có lẽ là trong bất cứ tài năng nào”. Bằng tiếng nói ấy, Kim Lân đã gửi đến
người đọc những thông điệp nghệ thuật cũng tư tưởng nhân đạo độc đáo không thể lẫn
lộn giữa dòng chảy chung của văn học Việt Nam thời bấy giờ.

V. HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT - Lưu Quang Vũ

1. MỞ BÀI CHUNG

Đối tượng của văn học vốn là thân phận con người, nên chỉ có kẻ nào đọc
và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn học mà là
một kẻ hiểu biết con người một cách sâu sắc”. (Văn chương lâm nguy, Todorov).
Quả đúng như vậy bởi văn học chính là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi
đi tới của văn học. Mỗi nghệ sĩ lớn đều ý thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa văn
học và cuộc sống. Đời sống và con người là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn cho
những sáng tác đầy nảy nở, bước đi của những nẻo đường là một giọt chắt chiu tư
tưởng được hình thành. Những năm tám mươi của thế kỉ XX, Lưu Quang Vũ là một
hiện tượng của sân khấu kịch trường Việt Nam. Ông là một trong những người đi
trước trong phong trào đổi mới văn học, nghệ thuật, dùng ngòi bút của mình để góp
phần đem đến những điều tốt đẹp cho con người. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” được viết năm 1981, có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian được công diễn vào
năm 1998, là một trong những tác phẩm kịch xuất sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Bằng
ngòi bút giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới.
Kịch bản của ông không đơn thuần là chuyện vay mượn xác tái sinh mà còn đặt vấn
đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, qua
mâu thuẫn giữa tâm hồn (thanh cao) và thể xác (phàm tục), vở kịch mang chứa những
triết lý nhân sinh. Đặc biệt ấn tượng là đoạn trích…., qua đó bạn đọc có thể thấy được
… (yêu cầu 2 của đề)
Notes: Mọi người có thể cắt bớt mở bài này tách thành 2 đoạn Mở bài và Chuyển ý
như mình đã hướng dẫn nhé!

2. PHÂN TÍCH ĐOẠN

Đoạn số 1

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong đoạn
trích sau. Từ đó, nhận xét ngắn gọn về quan điểm triết lí nhân sinh của Lưu
Quang Vũ được thể hiện trong đoạn trích.

Hồn Trương Ba: (ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi đứng vụt dậy) Không! Không! Tôi
không muốn sống như thế này mãi! (nhìn chân tay thân thể) Tôi chán cái chỗ ở không
phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu
sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó
được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!

(Trên sân khấu, hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt và hiện lờ mờ
trong dáng nhân vật Trương Ba thật. Thân xác bằng thịt vẫn ngồi nguyên trên chõng
và lúc này chỉ còn là thân xác)

Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn
khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi được tôi đâu, dù tôi chỉ là thân xác..

Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói! Mày
không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…

Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi,
đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê
gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!

Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết,
không có tư tưởng không có cảm xúc!

Xác hàng thịt: Có thật thế không?

Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém mà bất cứ con thú
nào cũng thèm được: Thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…

Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông ở bên nhà
tôi…Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại..
Đêm hôm đó suýt nữa thì…

Hồn Trương Ba: Im đi, đấy là mày chứ, chân tay mày hơi thở của mày…

Xác hàng thịt: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ? Tôi
chỉ trách là sao đêm hôm ấy, ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của… Này nhưng ta nên
thành thật với nhau một chút: Chẳng nhẽ ông không xao xuyến chút gì à? Hà hà, cái
món tiết canh cổ hủ, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng
lâng cảm xúc được sao? Để thoả mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự vào chút
đỉnh gì? Nào hãy thành thật trả lời đi!

Hồn Trương Ba: Ta...ta... đã bảo mày im đi!

Xác hàng thịt: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi được!
Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi!

Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,
thẳng thắn…

Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi
hỏi của tôi mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!

Hồn Trương Ba: (bịt tai lại)Ta không muốn nghe mày nữa!

Xác hàng thịt: (lắc đầu) Ông cứ việc bịt tai lại! Chẳng có cách nào chối bỏ tôi
được đâu! Mà đáng lẽ ông phải cảm ơn tôi. Tôi đã cho ông sức mạnh. Ông có nhớ
hôm ông tát thằng con ông toé máu mồm máu mũi không? Cơn giận của ông lại có
thêm sức mạnh của tôi! Ha ha..

Hồn Trương Ba: Ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo.

Xác hàng thịt: Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! Đâu phải
lỗi tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được
quý trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm
lụng, cuốc xới. ông nhìn ngắm trời đất cây cối người thân…Nhờ có đôi mắt của tôi,
ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi… Khi muốn hành hạ tâm hồn
con người. Người ta xâm phạm thể xác.. Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là
hay vin vào có tâm hồn là quý, khuyên con người ts sống với hồn, để rồi bỏ bê cho
thân xác họ mãi khổ sở nhếch nhác.. Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi
thèm ăn thịt hỏi có gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho
tôi ăn chứ?

Hồn Trương Ba: Nhưng…nhưng..

Xác hàng thịt: Hãy công bằng hơn, ông Trương Ba ạ! Từ nãy tới giờ chỉ có ông
nặng lời với tôi, chứ tôi thì vẫn nhã nhặn với ông đấy chứ? (thì thầm) Tôi rất biết
cách chiều chuộng linh hồn.

Hồn Trương Ba: Chiều chuộng?

Xác hàng thịt: Chứ sao? Tôi thông cảm với những trò chơi tâm hồn của ông.
Nghĩa là những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn
bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi.
Làm xong điều gì xấu ông cứ đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết cần phải
để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện. hà hà…miễn là..
ông vẫn làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát của tôi!
Hồn Trương Ba: Lí lẽ của anh thật ti tiện!

Xác hàng thịt: Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy! Có phải lí lẽ của tôi
đâu, tôi chỉ nhắc lại những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy
chứ! Đã bảo chúng ta tuy hai mà một mà!

Hồn Trương Ba: (như tuyệt vọng) Trời! Xác hàng thịt (an ủi) Ông đừng nên tự
dằn vặt làm gì! Tôi đâu muốn làm khổ ông, bởi tôi cũng rất cần đến ông. Thôi, đừng
cãi cọ nhau nữa. Chằng còn cách nào khác đâu! Phải sống hoà thuận với nhau thôi!
Cái hồn vía ương bướng của tôi ơi, hãy về với tôi này!

(Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt. Trên sân khấu nhân vật
Trương Ba biến đi. Chỉ còn lại xác hàng thịt mang hồn Trương Ba ngồi lặng lẽ bên
chõng…)

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,

Ngữ văn 12, tập hai, NXBGD Việt Nam, 2019)

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung


- Giới thiệu đoạn trích: Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang
Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên
đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh
được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt là đáng chú ý hơn cả.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Giới thiệu về hồn Trương Ba

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có
tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị
bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm
trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn.
Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh
hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất
nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn
bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương
Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của
bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán
chường trước cuộc sống không thật là mình.

2. Đối thoại hồn Trương Ba và xác hàng thịt


2.1 . Tâm thế của hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại:

Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho hồn
Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” và tự giãi bày tâm sự, nỗi
lòng của mình “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái
chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt
đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ,
để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Tư thế ngồi “ôm đầu” đã cho người
đọc thấy hình ảnh của một con người đầy đau khổ, lại có sự kết hợp của ba từ phủ
định liên tiếp “không…không…không”, lời thoại của hồn là các câu cảm thán, ngắn,
lời văn dồn dập, hối thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bối, đau khổ, dằn vặt, bế
tắc đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được nữa nên vụt đứng dậy… Có
thể thấy hồn Trương Ba đang đau khổ, bức bối là bởi ông không còn được là mình
nữa. Ông phải sống trong thân xác của một kẻ khác và cái thân xác ấy làm ông ghê
tởm. Ông ước muốn có hình hài riêng và muốn được tách ra khỏi xác hàng thịt dù chỉ
giây lát. Nắm bắt được nguyện vọng của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo ra tình
huống hồn và xác phân thân để đối đáp với nhau. Tưởng rằng, khi tách ra khỏi xác
hàng thịt, hồn sẽ phần nào giải tỏa được nỗi đau khổ bị dồn nén bấy lâu khi có cơ hội
cất lên tiếng nói của mình nhưng hóa ra không phải vậy.

2.2. Xác hàng thịt lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba

Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt hồn Trương Ba gọi
xác hàng thịt là mày, sau đó gọi là anh. Xác hàng thịt gọi hồn Trương ba là ông. Dựa
trên cách xưng hô này thì vai trên vai dưới rất rõ ràng. Hồn Trương Ba ở vai trên và
xác hàng thịt ở vai dưới. Tuy nhiên, trong cuộc đối thoại xác hàng thịt không hề lép
vế, yếu thế mà còn lấn lướt và sỉ nhục hồn Trương Ba. Bởi vì xác hàng thịt ngày càng
ý thức được vai trò của nó. Nó nói” “Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết
tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà
tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy! Nó còn khẳng
định nó là “cái bình để giữ linh hồn”, nhờ nó mà hồn Trương Ba mới có thể làm lụng,
cuốc xới, ngắm nhìn trời đất, người thân. Xác thịt tuy âm u, đui mù nhưng có thể lấn
át, sai khiến, thậm chí đồng hóa linh hồn cao khiết. Hồn không thể còn nguyên vẹn,
trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Để
chứng minh điều đó nó đã kể ra những việc mà hồn Trương Ba đã làm dướu sự sai
khiến của nó. Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run
rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”. Hồn Trương Ba sống
trong thể xác phàm tục của người hàng thịt giờ đã có cảm xúc lâng lâng trước các món
ăn mà trước đây ông cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi. Khi giận dữ, hồn
Trương Ba đã sử dụng vũ lực một cách tàn bạo với con trai. Với sức mạnh của xác
hàng thịt, ông đã tát thằng con đến toé máu mồm, máu mũi…

Rõ ràng, Hồn Trương Ba đã nhiễm những thói hư tật xấu của xác hàng thịt. Xác
anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một
đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Nó nói “Nực cười thật! Khi ông
phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận là nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn!”. Nó còn sỉ nhục khi nói Trương Ba hãy chơi trò chơi tâm
hồn. Hãy thỏa mãn nó và mỗi khi làm việc xấu hãy đổ tội hết cho nó. Hãy cứ nghĩ
mình cao khiết nhưng chỉ vì hoàn cảnh. Thậm chí nó cho rằng đấy chính là lí lẽ hồn
Trương Ba tự nói với mình và người khác “Có phải lí lẽ của tôi đâu, tôi chỉ nhắc lại
những điều ông vẫn tự nói với mình và những người khác đấy chứ!”. Trong cuộc đối
thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì
mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn Trương Ba
thanh cao, trong sạch phải sống với xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục, đầy thói hư tật xấu
đã là đau khổ lắm rồi. Vậy mà thật sỉ nhục khi xác hàng thịt nhắc đi nhắc lại cái điều
“Đã bảo chúng ta tuy hai mà một mà!”.

Ngoài ra, xác hàng thịt còn bày tỏ những bất công mà mình phải gánh chịu khi
sống với linh hồn Trương Ba “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy
phục! Đâu phải lỗi tại tôi.. (buồn rầu) Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi
cũng đáng được quý trọng chứ!”. Xác hàng thịt cho rằng khi sống chung với hồn
Trương Ba nó bị xúc phạm, bị bỏ bê nhếch nhác, khổ sở…vì những lý do không chính
đáng. Chẳng hạn “Mỗi bữa cơm rôi đòi ăn tám, chín bát cơm, tôi thèm ăn thịt hỏi có
gì là tội lỗi nào? Lỗi là ở chỗ không có đủ tám, chín bát cơm cho tôi ăn chứ?”. Một
mặt nó đấu tranh cho những nhu cầu chính đáng của mình, mặt khác nó tìm cách ve
vuốt, đề nghị hồn Trương Ba trở về sống hoà hợp với mình.

Nhìn chung, trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt có thế chủ động, đặt nhiều câu hỏi
phản biện, lí lẽ giảo hoạt, trở thành kẻ thắng thế, buộc Trương Ba phải quy phục.

2.3. Thái độ của Hồn Trương Ba trước sự lấn lướt sỉ nhục của xác hàng thịt

Khi tách khỏi xác hàng thịt, hồn Trương Ba có cơ hội bày tỏ tâm trạng uất ức,
tức giận vì phải chung sống với cái xác thô lỗ, tầm thường, dung tục. Hồn cũng không
che giấu sự coi thường, khinh bỉ đối với xác là “kẻ âm u đui mù, không cảm xúc,
không tư tưởng, không có tiếng nói”...; kẻ có nhu cầu vật chất thấp kém gần với con
thú (thèm ăn ngon, thèm rượu thịt), sức mạnh thể chất gắn với sự tàn bạo… Hồn cũng
phủ nhận sự lệ thuộc của linh hồn vào xác thịt, khẳng định linh hồn có đời sống riêng:
“nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”… Ông mắng xác hàng thịt là “lí lẽ của anh thật
là ti tiện” và “Ta…ta…đã bảo mày im đi”…Nhưng trước lí lẽ của xác hàng thịt,
Trương Ba cuối cùng cũng phải thừa nhận rằng mình đuối lí, mình đang sống nhờ thể
xác kẻ khác và bị thể xác đó điều khiển, dẫn đến sự tha hoá không có cách gì chuyển
biến được. Những đối thoại ngắn và dần dần là những lời thoại bỏ lửng cho thấy sự
đuối lí của hồn trong cuộc đối thoại cùng xác.

Một mặt tức tối trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt, mặt khác Trương Ba
hoàn toàn bối rối, lúng túng, không thể phản bác những ý kiến đó. Kết thúc cuộc đối
thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái
với chính mình, chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở
thành người thua cuộc. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào xác hàng thịt,
ngồi lặng lẽ bên chõng” đã diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch và
sự bế tắc của hồn Trương Ba.

3. Đánh giá
3.1. Nghệ thuật xây dựng cuộc đối thoại:

Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu
tượng, xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời
thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành
động bên ngoài và hành động bên trong. Ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai, dí
dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật.

3.2. Nhận xét về triết lí nhân sinh trong đoạn trích (Ý nghĩa của cuộc đối thoại)

Triết lí nhân sinh hay nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với mỗi con
người, là toàn bộ những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống của
con người và cũng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt mục tiêu, hành động của con người.
Bên cạnh đó nhân sinh quan còn là nguồn gốc của mọi suy nghĩ, hành vi và chi phối
các hoạt động của con người trong đời sống. Nói vắn tắt thì nó là cách người ta nhìn
cuộc đời hay là cái đạo làm người của người ta. Trong đoạn trích Lưu Quang Vũ đã
thể hiện những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc. Nếu trong tích truyện dân gian, được sống
là niềm hạnh phúc lớn lao, nên mặc dù mang thân anh hàng thịt nhưng Trương Ba vẫn
sống cuộc sống vui vẻ, thì trong vở kịch của Lưu Quang Vũ, việc phải trú nhờ vào
thân xác thô kệch của anh hàng thịt lại là một nghịch cảnh phi lý, trái tự nhiên, là hoàn
cảnh trớ trêu mà hồn Trương Ba buộc phải chấp nhận, quy phục. Đây chính là mấu
chốt của tấn bi kịch mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt. Chính vì vậy cuộc đối
thoại giữa hồn và xác tuy căng thẳng, quyết liệt nhưng mang đến nhiều ý nghĩa và triết
lí nhân sinh sâu sắc:

Trong tích truyện cổ, dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, cho rằng hồn
luôn quyết định và điều khiển thể xác. Còn ở đây Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan
niệm mới mẻ là linh hồn và thể xác dù có mối quan hệ hữu cơ với nhau nhưng chúng
vẫn có sự tồn tại độc lập tương đối, chi phối lẫn nhau. Sự chi phối của xác hàng thịt
với hồn Trương Ba cho thấy rất rõ điều đó.

Hơn nữa, hồn và xác là những ẩn dụ nghệ thuật. Xác hàng thịt là ẩn dụ cho bản
năng, nhu cầu ham muốn, dục vọng tầm thường của con người, hồn Trương Ba là thế
giới tinh thần luôn hướng đến sự thanh cao, trong sạch, lương thiện. Xung đột giữa
Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên
trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn và
thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và
tầm thường... là xung đột dai dẳng giữa các mặt tồn tại trong một con người. Có thể
nói cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và
tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần người và phần con trong mỗi con
người. Trong cuộc đấu tranh thường xuyên diễn ra trong con người ấy thì linh hồn
phải biết kiểm soát, chế ngự thể xác chứ không được để thể xác lấn át rồi đổ hết tội
cho nó. Nếu để thể xác lấn át, con người sẽ trở nên phàm phu, thô tục, tha hóa, sẽ chạy
theo những ham muốn tầm thường.

Từ bi kịch của hồn Trương Ba không được sống là mình, Lưu Quang Vũ đặt ra
vấn đề khuyên người ta phải biết sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác, sống đúng là
mình. Ông cũng phê phán lối sống giả, không đúng là mình khiến con người dễ bị tha
hóa. Mặt khác, tác giả cũng phê phán lối sống chỉ vì linh hồn, vì quá trọng linh hồn
mà bỏ bê thể xác khiến thể xác nhếch nhác, khổ sở. Đó cũng là lối sống duy tâm, cực
đoan, lười biếng và không tưởng. Sự tha hóa của hồn Trương Ba còn khiến chúng ta
nhận ra rằng con người sống trong môi trường dung tục rất dễ bị tha hóa, dung tục
hóa. Điều này làm ta nhớ đến một câu nói "Những thói xấu ban đầu là người khách lạ
qua đường, sau đó là người bạn thân ở chung nhà và kết cục trở thành ông chủ khó
tính" hoặc nhớ đến câu tục ngữ mà cha ông ta bằng trải nghiệm của mình đã đúc rút
thành “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Vì vậy, con người cần luôn tự hào về đời
sống tâm hồn của mình; dũng cảm nhìn thẳng vào sự tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu
tranh với nghịch cảnh, với dục vọng tầm thường để vươn tới những giá trị tinh thần
cao quý.

Sâu sắc hơn, từ mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong đoạn trích, Lưu
Quang Vũ còn hướng chúng ta đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Nội dung
và hình thức vốn là hai phạm trù khác nhau, không thể từ cái nọ suy ra cái kia nhưng
chúng phải thống nhất với nhau trong một chỉnh thể . Nếu đúng thống nhất và phù hợp
với nhau thì có thể tạo nên giá trị và sức mạnh. Còn nếu chúng không phù hợp với
nhau sẽ làm giảm giá trị, thậm chí có nguy cơ đe dọa đến đến sự tồn tại của sự vật
hiện tượng.

Đoạn số 2:
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân trong đoạn trích “Hồn
Trương ba, da hàng thịt” (Trích trong vở kịch cùng tên) của Lưu Quang Vũ.

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung


- Giới thiệu đoạn trích: Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang
Vũ đã dựng lên các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên
đến tận cùng buộc phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh
được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại giữa hồn
Trương Ba và người thân cũng đem đến rất nhiều ý nghĩa cho vở kịch.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Giới thiệu về hồn Trương Ba

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có
tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị
bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm
trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn.
Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh
hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất
nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn
bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương
Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của
bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán
chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba
với người thân là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt. Trong cuộc đối
thoại ấy, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã
rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn.
Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở
về cuộc sống trái với chính mình, chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ,
tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại
vào xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” đã diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của
xung đột kịch và sự bế tắc của hồn Trương Ba. Bi kịch của hồn Trương Ba càng trở
nên đau đớn hơn trong cuộc đối thoại với người thân.

2. Đối thoại hồn Trương Ba và người thân

Gia đình là một mái ấm mà ở đó, ta nhận được tình yêu thương của những người
thân. Những lúc mệt mỏi, vấp ngã, nơi đầu tiên ta muốn tìm về là gia đình, người đầu
tiên ta muốn chia sẻ, giãi bày là những người thân, bởi họ luôn ở đó, yêu thương ta
một cách vô điều kiện. Khi bị rơi vào bi kịch đầy bế tắc, Trương Ba cũng tìm về với
những người thân yêu với mong muốn được chia sẻ. Nhưng khi đối mặt với họ, ông
lại càng đau khổ, tuyệt vọng hơn. Những người thân của ông đều cho rằng ông đã thay
đổi khiến họ không còn nhận ra. Việc trò chuyện với họ còn khiến Trương Ba chợt
hiểu rằng ông đã làm cho người thân của mình đau khổ và họ đang dần xa lánh ông.
Hồn Trương Ba đau khổ gấp bội bởi vì với một người như Trương Ba, không có gì
đau đớn hơn khi chính mình làm người thân của mình đau khổ.
2.1. Cuộc đối thoại với vợ
Trong cái nhìn của người vợ, Trương Ba là người rất yêu thương vợ con. Nhưng
bây giờ bà nhận ra ông đã thay đổi quá nhiều:“ông đâu còn là ông, đâu còn là ông
Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Ngay cả người vợ, người gần gũi nhất với ông nhất
cũng đã không còn hiểu nỗi lòng của ông, không còn nhận ra ông. Trương Ba bây giờ
đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới
hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã
chết rồi. Bởi vậy mà bây giờ, ông cũng không dạy được con, để nó bán vườn đi mở
thêm cửa hàng thịt. Người vợ mà ông yêu thương cũng đòi bỏ ông mà đi. Với bà “đi
đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Hóa ra, Trương Ba đã mang đến cho vợ bao
nhiêu đớn đau, buồn tủi. Vì thương ông nên bà đã nhường ông cho cô vợ hàng thịt
nhưng những mâu thuẫn cứ ngày một nhiều để rồi bà phải than với trời đất rằng “Cái
thân tôi sao trời không bắt đi cho rảnh”. Bà sẽ đi thật xa, đi biệt cấy thuê, làm mướn
ở đâu cũng được để tránh xa thực tế đau khổ này. Kết thúc đối thoại, bà vợ bỏ đi, hồn
Trương Ba chỉ biết ngồi ôm đầu đau đớn.
2.2. Cuộc đối thoại với cháu gái
Cái Gái là cháu nội của Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội hơn nhiều.
Trong kí ức của nó, ông nội nó là người giỏi làm vườn, quý cây, khéo léo và nhân
hậu. Khi ông nội chết, đêm nào nó cũng khóc vì thương ông, nó cất giữ, nâng niu
những vật dụng của ông như đôi guốc gỗ, bó đóm thuốc lào, nhất là những cây cối
trong vườn như những kỉ vật về ông. Vì vậy nên với tâm hồn tuổi thơ trong sáng,
không chấp nhận sự giả dối, nó không thể chấp nhận việc người ông nó hết mực yêu
thương lại ở trong thể xác anh hàng thịt xa lạ, đáng ghét. Nó một mực không nhận
ông: “Tôi không phải là cháu ông”, “Ông nội tôi chết rồi”. Trong mắt cái Gái cái kẻ
có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”
“giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” làm sao lại có thể là ông nội nó. Nó còn kể
tội hồn Trương Ba đòi chữa diều cho cu Tị mà lại làm gãy nan, rách cả diều khiến cu
Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng
như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu
lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
2.3. Cuộc đối thoại với con dâu

Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn và biết phải trái. Chị là người thấu hiểu
và thương bố chồng nhất. Chị thương ông hơn cả trước kia vì biết ông bây giờ “ khổ
hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng chị cũng đau đớn mà thấy rằng tình cảnh gia đình bây giờ
rất đáng buồn “như sắp tan hoang ra cả”. Chính chị cũng không thể nhận ra bố
chồng, không thể giữ được những điều tốt lành của Trương Ba ở lại. Bởi vậy, chị đã
nói với bố chồng về nỗi buồn và những lo lắng của chị: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài
là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy,
đau đớn thấy... Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc,
nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả không cho anh con trai thực dụng của
Trương Ba vào trong màn đối thoại với người thân. Bởi vì nếu nhân vật này xuất hiện
anh ta sẽ ủng hộ hồn Trương Ba sống trong xác hàng thịt để giúp anh ta hành nghề
bán thịt. Điều đó sẽ không làm nổi bật bi kịch bị người thân xa lánh của hồn Trương
Ba.

=> Vợ, cháu gái và con dâu, người thì chua xót dằn dỗi, tủi thân (vợ), người thì
tức tưởi xua đuổi (cháu); người thì lại thấu hiểu sẻ chia (con dâu). Mỗi người trong gia
đình ở một vị trí, một thái độ khác nhau nhưng đều có điểm chung là họ rất yêu quý và
muốn níu giữ Trương Ba ở lại nhưng bất lực. Dù vậy, họ đều nhận thấy Trương Ba đã
thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn và họ đều rất đau khổ, chán
nản, buồn rầu, than phiền vì điều đó. Họ không muốn chấp nhận tình trạng hai mảnh
hồn và xác bất nhất của chồng, cha, ông mình. Họ đã nói ra thành lời nỗi đau của họ
rằng với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng
không khổ bằng bây giờ”. Kết quả Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân
và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông. Đây là lúc mâu thuẫn kịch lên
đến đỉnh điểm khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Mỗi lời nói của
người thân trong gia đình như mũi dao găm vào trái tim đang đau đớn, bế tắc của
Trương Ba, để giờ đây còn đẩy Trương Ba vào sự tuyệt vọng khôn cùng. Không còn
gia đình để bấu víu, hy vọng Trương Ba hiểu mình đã mất tất cả, đã rơi vào trạng thái
hoàn toàn cô độc. Ông cũng hiểu rõ nếu tiếp tục tồn tại bi kịch ấy sẽ còn tiếp diễn và
theo chiều hướng tiêu cực hơn nữa. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn
dần... lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào buộc ông phải đi đến quyết định cuối
cùng.
Sau đó, Lưu Quang Vũ lại một lần nữa để cho hồn Trương Ba ngồi lại một mình
với nỗi đau khổ, tuyệt vọng, để hồn Trương Ba tự mình nghĩ ra cách cứu mình, quyết
định tìm đường thoát khỏi tấn bi kịch cuộc đời. Những câu hỏi liên tiếp“lẽ nào ta lại
chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”,“Chẳng còn cách nào khác”!
Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn
cách nào khác?” đó thật sự là những câu hỏi cuộn xoáy dữ dội, giằng xé trong lòng
Trương Ba. Để rồi ông đã tìm ra con đường của mình: “Không cần đến cái đời sống
do mày mang lại! Không cần!”. Lời thoại này cho thấy hồn Trương Ba đã tìm ra con
đường giải thoát cho mình và cho người thân nên ông đã dứt khoát thắp nhang khấn
mời tiên Đế Thích xuống giúp đỡ để được từ giã sự sống vênh lệch ấy.

3. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật

Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu
tượng, xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời
thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, độc thoại nội tâm giúp bộc lộ tính cách
nhân vật. Ngôn ngữ kịch đậm chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân
vật.

3.2. Ý nghĩa của cuộc đối thoại

Thông qua đoạn đối thoại của hồn Trương Ba với người thân, Lưu Quang Vũ
đã giúp người đọc cảm nhận được bi kịch đầy đau đớn của hồn Trương Ba, từ đó nhận
ra những quan niệm nhân sinh sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm. Nếu trong tích
truyện dân gian, được sống là niềm hạnh phúc lớn lao, nên mặc dù mang thân anh
hàng thịt nhưng Trương Ba vẫn sống cuộc sống vui vẻ, thì trong vở kịch của Lưu
Quang Vũ, việc phải trú nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt lại là một nghịch
cảnh phi lý, trái tự nhiên, là hoàn cảnh trớ trêu mà hồn Trương Ba buộc phải chấp
nhận, quy phục. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân cho thấy giống
như tất cả mọi người trong cuộc đời này, Trương Ba cũng ham sống, ông càng khao
khát được sống bên những người ông yêu thương và cũng rất yêu thương ông. Nhưng
khi phải đối diện với bi kịch của một cuộc sống không phải của mình, Trương Ba
khẳng định chua xót và thấm thía sống như thế còn khổ hơn là cái chết. Với một người
nhân hậu như Trương Ba, ông còn day dứt vì sự sống vay mượn, giả tạo của mình đã
đem đến bao đau khổ cho người thân, khiến gia đình như sắp tan hoang ra cả…Đó là
những cái giá quá đắt cho cả Trương Ba và gia đình ông, cái giá mà ông không thể trả
dù là cho sự sống quí giá của chính mình. Chính vì vậy mới dẫn đến sự lựa chọn của
hồn Trương Ba trong đoạn sau của vở kịch. Và như vậy cuộc dối thoại giữa Trương
Ba với người thân của mình góp phần đem đến nhiều ý nghĩa cho vở kịch. Từ bi kịch
của hồn Trương Ba không được sống là mình, Lưu Quang Vũ đặt ra vấn đề khuyên
người ta phải biết sống hài hòa giữa linh hồn và thể xác, sống đúng là mình. Ông cũng
phê phán lối sống giả, không đúng là mình khiến con người dễ bị tha hóa.

Đoạn số 3:

Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng
thịt được nữa, không thể được!

Đế Thích: Sao thế?Có gì không ổn đâu!

Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư?
Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên
trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho
xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị
gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút
hình thù gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện
không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ
đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết

Đế Thích: Nhưng mà ông muốn gì?

Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông
có thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, thân thể anh hàng thịt còn lành lặn
nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với
thân xác này

Ðế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần
hồn tầm thường của anh hàng thịt?

Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận
được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị vợ anh
ta nữa…chị ta thật đáng thương!”

Đế Thích: Nhưng thế hồn ông muốn trú vào đâu?

Hồn Trương Ba: Ở đâu cũng được, chứ không ở đây nữa. Nếu ông không
giúp, tôi sẽ…tôi sẽ… nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn
tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất.
(Trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – Lưu Quang Vũ,

SGK Ngữ văn 12 tập hai, trang 149, NXB Giáo dục 2008, tr149)

Phân tích vẻ đẹp nhân cách của Trương Ba thể hiện qua đoạn đối thoại với
Đế Thích. Từ đó nhận xét về chiều sâu triết lí được tác giả gửi gắm qua đoạn
trích?

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu đoạn trích:

Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ đã dựng lên
các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng buộc
phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một
cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại này giữa hồn Trương Ba và Đế
Thích thuộc đoạn giữa phần 3 cảnh VII, gần màn kết vở kịch cũng là một đoạn thoại
đáng chú ý.

II. THÂN BÀI


1. Khái quát
1.1. Giới thiệu về hồn Trương Ba

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có
tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị
bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm
trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn.
Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh
hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất
nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn
bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương
Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của
bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán
chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba
với Đế Thích là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt và người thân.
Trong cuộc đối thoại với giữa hồn và xác, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn
Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là
mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba
phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người
thua cuộc. Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân, bi kịch của hồn
Trương Ba càng trở nên đau đớn hơn khi ông nhận ra việc sống trong xác hàng thịt
khiến ông không chỉ bị người thân xa lánh mà còn làm khổ những người ông yêu
thương nhất.

2. Đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích

Bi kịch lên đến đỉnh điểm khiến hồn Trương Ba không thể chịu đựng thêm
được nữa nên ông đã gọi Đế Thích xuống nhờ giúp đỡ. Cuộc trò chuyện giữa hồn
Trương Ba với Đế Thích có vai trò quyết định trong việc giải quyết mâu thuẫn kịch.
Nó cũng trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và
cái chết, về cả những triết lí nhân sinh.
2.1. Sự lựa chọn của Hồn Trương Ba

Một triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính
anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con
người hoàn thiện và rất đúng đắn giống như lựa chọn của hồn Trương Ba trong đoạn
trích. Khi gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp
nhận cái cảnh phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo “Ông Đế Thích ạ, tôi
không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Hồn Trương
Ba không thể chấp nhận sống chung với xác hàng thịt thô lỗ, phàm tục. Ông muốn
được sống đúng là mình một cách toàn vẹn nhất“Không thể bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Những lời thoại của Hồn
Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính
chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa
hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước
khi đi đến quyết định.
Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên hồn Trương Ba nên
chấp nhận vì “thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả”, thậm chí
đến cả người có quyền lực tối thượng như Ngọc Hoàng cũng không thể sống hoàn
toàn là mình. Ngọc Hoàng cũng phải khuôn phép để sống đúng với địa vị của mình.
Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của
Đế Thích và trách móc: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện
không nên nay đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Lời nói của Trương
Ba cho thấy Đế Thích có lòng tốt với Trương Ba, nhưng lòng tốt không phải lúc nào
cũng đem lại điều tốt lành cho người khác. Những người có lòng tốt mà vô tâm thậm
chí còn đem đến những điều tệ hại, nghịch cảnh, bi kịch hơn. Vì lòng tốt với người
bạn cờ của mình mà Đế Thích đã một lần sai khi giúp Nam Tào, Bắc Đẩu sửa lỗi,
khiến hồn Trương Ba phải sống đầy bi kịch trong xác anh hàng thịt. Những tưởng
mạng sống là quý giá nhưng có một điều còn quý giá hơn đó là được sống là chính
mình. Sống thực sự cho ra con người quả thực không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống
nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa,
thậm chí khi đó cuộc đời chỉ còn là chuỗi bi kịch đầy đau đớn. Mặt khác, lời thoại này
cũng cho thấy hồn Trương Ba đã thấm thía nỗi khổ vì sự vênh lệch giữa linh hồn và
thể xác, khiến Trương Ba không thể chịu đựng thêm.
Đế Thích vì yêu mến trân trọng Trương Ba nên luôn mong muốn Trương Ba
được sống. Ông chỉ rõ hồn Trương Ba muốn tiếp tục sống thì phải sống nhờ thân xác,
bởi vì “Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông
đâu!”. Đế Thích trân trọng và muốn giữ lại tâm hồn đáng quý của Trương Ba “Sao lại
có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh
hàng thịt?”. Dù Đế Thích có thuyết phục thế nào thì hồn Trương Ba vẫn kiên quyết
lựa chọn cái chết và muốn trả lại sự sống cho anh hàng thịt. Ông muốn trả lại sự sống
cho xác hàng thịt vì dẫu có phàm tục, tầm thường, thô lỗ nhưng anh ta sẽ được sống
hài hòa giữa linh hồn và thể xác. Hơn nữa, Trương Ba muốn trả lại sự sống cho xác
hàng thịt còn vì ông thấy tình cảnh của người vợ hàng thịt cũng thật đáng thương. Sự
kiên quyết lựa chọn cái chết của hồn Trương Ba còn được thể hiện rõ qua câu nói của
ông “Nếu ông không giúp, tôi sẽ…tôi sẽ… nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao
vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”.

Qua diễn biến của đoạn thoại, chúng ta có thể cảm nhận được những mâu thuẫn
trái ngược trong quan niệm sống của hồn Trương Ba và Đế Thích. Quan điểm của
Trương Ba là không chấp nhận lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Bởi
đó là lối sống giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho chính mình. Vì
thế, Trương Ba đã dũng cảm đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống
không phải là mình, chiến thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân,
không chịu lùi bước trước xác hàng thịt. Với Trương Ba được sống là mình trọn vẹn
cả linh hồn và thể xác mới thực sự là sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh
phúc cho mọi người. Còn Ðế Thích nghĩ đơn giản, quan liêu và hời hợt khi cho rằng
không ai được sống là mình, trên trời dưới đất đều sống kiểu bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo, kể cả Trương Ba, Đế Thích và thậm chí cả Ngọc hoàng thượng đế tối
cao cũng vậy. Ðó là sự thật phải chấp nhận không nên thay đổi, phủ nhận. Chỉ cần có
thể xác cho linh hồn trú ngụ còn thể xác và linh hồn không thống nhất không quan
trọng. Vậy quan điểm của Ðế Thích không coi trọng sự sống thực sự mà chỉ coi trọng
sự tồn tại. Sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo không nguy hại gì cho ai, vì
vậy hãy cố gắng chập nhận và sống chung với hoàn cảnh đó.
3. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật:

Màn đối thoại thể hiện sự xung đột quyết liệt, căng thẳng và kịch tính căng ra
trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ
sinh động, giọng điệu biến hoá, lời thoại vừa hướng nội vừa hướng ngoại, thấm đẫm
triết lí nhân sinh. Hành động kịch góp phần quan trọng thể hiện tính cách nhân vật.
Cách giải quyết xung đột kịch bất ngờ và đậm chất nhân văn. Đoạn thoại cũng góp
phần thể hiện những đặc trưng thể loại kịch: mâu thuẫn phát triển từ “đỉnh điểm” đi
đến “mở nút”.
3.2. Đánh giá về sự lựa chọn của Trương Ba và ý nghĩa của đoạn thoại
Sự mâu thuẫn trong hai quan điểm sống giữa hồn Trương Ba với Đế Thích và
sự lựa chọn của hồn Trương Ba đã thể hiện nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
* Đây là sự lựa chọn nhân văn
Quyết định dứt khoát xin tiên cờ Đế Thích cho mình được chết là kết quả của
một quá trình nhận thức tỉnh táo, sáng suốt. Trong trang sách hay trên sân khấu, lời lẽ
của Hồn Trương Ba đều làm xúc động lòng người bởi nó rất nhân văn. Nhân văn ở
chỗ:

+ Lựa chọn ấy xuất phát từ khát vọng sống cao đẹp, khát vọng được sống đúng
là mình mình toàn vẹn cả tâm hồn và thể xác.
+ Đặc biệt, sự lựa chọn của ông không chỉ giải thoát được nghịch cảnh mà còn
cho thấy Trương Ba là người nhân hậu, luôn biết nghĩ cho người khác. Ông sẵn sàng
từ bỏ mạng sống của mình để anh hàng thịt được sống, để giúp đỡ người vợ anh hàng
thịt. Từ đó, vở kịch thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình người, khẳng định lẽ sống cao
đẹp của con người là cần phải biết quan tâm đến người khác, nhất là những người có
hoàn cảnh đáng thương.
* Đoạn đối thoại thể hiện quan niệm, triết lí về đời sống và con người
Qua màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, tác giả gửi gắm nhiều thông
điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về
cuộc sống và con người:
Với lời thoại của hồn Trương Ba “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, Lưu Quang
Vũ muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác
phải hài hoà. Cuộc sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống đúng là
mình, hài hòa giữa linh hồn và thể xác. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc
sống ấy thật vô nghĩa. Và không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác
phàm tục tội lỗi. Ngược lại, khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng
của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu
hình của tâm hồn vì thể xác chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Thông điệp nữa ở
đây là với con người được sống là điều may mắn nhưng sống thế nào cho thật ý nghĩa
mới là điều quan trọng. Và sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình
quả không hề dễ dàng, đơn giản vì đến cả Ngọc Hoàng cũng khó có thể được tuyệt
đối là mình.
Cũng thông qua sự lựa chọn của hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đề cao, ca
ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh với cái dung tục, giả tạo để
bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp tự nhiên và để hoàn thiện nhân cách vươn tới
sự cao khiết về linh hồn và khỏe mạnh về thể xác. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ
cũng được bộc lộ ở đây.
Qua đoạn thoại, tác giả Lưu Quang Vũ còn muốn nói đến một chuẩn mực trong
đánh giá về con người là con người trong mối quan hệ với những người xung quanh.
Con người sống không chỉ nghĩ đến mình mà còn phải biết sống vì người khác để tâm
hồn mình thanh thản và để cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Hơn nữa, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự
vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn trích nói riêng,
Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc
bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm
thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như
Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm
thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà
chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn
vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng,
không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.
Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó
là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản
thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

3.3. Bình luận tác hại của lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo (nếu
cần)

- Ðối với bản thân người có lối sống đó: dần dần sẽ bị tha hóa, ích kỉ, thực
dụng, giả dối, suy thoái nhân cách, đánh mất danh dự, lòng tự trọng.: tham nhũng, hối
lộ, gây ra những tệ nạn xã hội. Bị mọi người coi thường xa lánh.

- Ðối với cộng đồng: mất đoàn kết, hiểu lầm, mâu thuẫn, tranh giành, hãm hại
nhau, kìm hãm sự phát triển.

- Cách phòng tránh: Sống yêu thương nhân hậu vị tha, mạnh dạn dũng cảm đấu
tranh với biểu hiện tiêu cực, giả dối, bảo vệ người tốt.

Đề bài tham khảo thêm số 1

"Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng
thịt được nữa, không thể được!

Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!

Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư?
Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên
trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho
xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị
gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút
hình thù gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không
nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn
giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!"
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Ngữ văn 12, Tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr.149)

Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba thể hiện trong đoạn
trích trên. Từ đó, hãy nêu giá trị nhân văn cao cả được tác giả gửi gắm qua vở
kịch.

Gợi ý

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích

2. Khát vọng của nhân vật Trương Ba:

- Khát vọng được thoát ra khỏi nghịch cảnh, không phải sống nhờ trong thân xác anh
hàng thịt:

+ Trương Ba nhận ra mình đang bị tha hoá, nhiểu khi phải thoả hiệp với những
đòi hỏi xác - thịt, không giữ được bản tính cao khiết như trước đây.

+ Ông luôn bị dằn vặt, day dứt bởi chính nghịch cảnh phải sống “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”.

- Khát vọng được sống là chính mình:

+ Khi đối thoại với Đế Thích, Trương Ba thể hiện ý nguyện của mình: Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn - thể xác và linh hồn hòa hợp

+ Lời thoại cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của Hồn Trương Ba. Từ chỗ
đánh giá phiến diện về thân xác con người, Trương Ba đã có cái nhìn đúng đắn về sự
hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

+ Khao khát mãnh liệt, cháy bỏng “là tôi toàn vẹn” của Hồn Trương Ba còn
cho thấy nhân cách cao đẹp của Hồn Trương Ba. Nhân vật đã không còn chấp nhận
chung đụng với cái thô lỗ tầm thường, dung tục và để nó sai khiến, mà muốn được trở
về sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có.

3. Đánh giá

* Nghệ thuật:

- Nghệ thuật xây dựng mâu thuẫn kịch: chặt chẽ, logic, hợp lý. Các chi tiết,
hành động kịch nối tiếp nhau, đẩy mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh cao, tạo nên kịch tính
vô cùng căng thẳng, hấp dẫn.

- Nghệ thuật diễn tả tâm lý nhân vật: thông qua ngôn ngữ, hành động kịch, tác
giả đã thể hiện tâm trạng phức tạp của nhân vật Hồn Trương Ba.

- Ngôn ngữ kịch: giản dị, sáng rõ, đặc biệt rất giàu tính triết lý.
* Ý nghĩa:

- Khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba: Sống là chính mình, không chấp
nhận lối sống gửi, sống nhờ. Biết đấu tranh chống lại sự dung tục, tầm thường để giữ
gìn nhân cách. Khát vọng đó đã làm sáng lên nhân cách tốt đẹp, cao cả của nhân vật
Hồn Trương Ba.

- Đoạn trích góp phần thể hiện tài năng và phong cách nghệ thuật của Lưu
Quang Vũ.

* Nhận xét về giá trị nhân văn cao cả qua vở kịch: Sự sống thật sự có ý nghĩa khi
con người được sống tự nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con
người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân
cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Đề bài tham khảo thêm số 2

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:

“Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được.
Tôi muốn là tôi toàn vẹn.

Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư?
Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên
trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho
xứng với danh vị Ngọc Hoàng.Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông.Ông đã bị
gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút
hình thù gì của ông đâu!

Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện
không nên, đằng này cái thân tôi cũng phải sống nhờ vào anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ
đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!

Đế Thích: (không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?

Hồn Trương Ba: Ông từng nói: Nếu thân thể người chết còn nguyên vẹn, ông
có thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, (chỉ vào người mình) thân thể anh hàng
thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta
được sống lại với thân xác này.

Đế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần
hồn tầm thường của anh hàng thịt ?

Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận
được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị vợ anh
ta nữa…chị ta thật đáng thương!”
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn 12, trang
149, NXBGD)

Chỉ ra sự khác biệt trong quan niệm sống của Trương Ba và Đế Thích.Từ
đó anh/chị hãy bình luận ngắn gọn về khát vọng được sống là chính mình.

Gợi ý

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích

2. So sánh quan điểm của hai nhân vật qua đoạn trích.

- Giải thích quan điểm: cách nhìn về cuộc sống (mục đích, ý nghĩa, lí do…sự sống của
con người). Quan điểm đúng thể hiện lập trường, đạo đức, vốn sống, văn hóa và sự
tiến bộ, tích cực trong cuộc sống. Quan điểm sai lệch biểu hiện lối sống tiêu cực, hành
động sai trái, tạo cơ hội cho kẻ xấu làm điều ác, hãm hại người tốt…

- Hoàn cảnh của Trương Ba: Bất đắc dĩ phải sống trong thân xác hàng thịt, dần dần
Trương Ba bị nhiễm nhiều thói xấu của xác hàng thịt, làm người thân đau khổ, bản
thân ông bế tắc tuyệt vọng.

- Quan điểm của Trương Ba:

+ Không chấp nhận lối sống : bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Đó là lối sống
giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho chính mình. Điều đó chứng tỏ
Trương Ba đã dũng cảm đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống
không phải là mình, chiến thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân,
không chịu lùi bước trước xác hàng thịt.

+ Khát vọng được sống là mình: trọn vẹn cả linh hồn và thể xác. Đó mới thực sự là
sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho mọi người.

+ Phê phán Đế Thích nghĩ đơn giản, sống quan liêu hời hợt: Chỉ cần cho tôi sống
nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết. Đối với Trương Ba, sống không được
là mình mà phải nhờ vả, mượn thân xác người khác chẳng qua là sự tồn tại, vô hồn,
không ý nghĩa.

+ Dám từ bỏ những thứ không phải của mình để trả lại sự sống cho anh hàng thịt.
Trương Ba không chỉ cao thượng mà rất nhân hậu vị tha.

=>Quan điểm của Trương Ba không chấp nhận cuộc sống giả tạo, gượng ép,chắp vá,
vô nghĩa. Trương Ba có lòng tự trọng, sống cao thượng, khao khát sống là chính mình
trọn vẹn thể xác và linh hồn. Đó là lối sống đẹp đẽ, đáng trân trọng của những người
hiểu rõ mục đích ý nghĩa của cuộc sống.

- Quan điểm của Đế Thích:


+ Không ai được sống là mình, trên trời dưới đất đều sống kiểu bên trong một đằng,
bên ngoài một nẻo: Tôi, ông và cả Ngọc hoàng cũng vậy. Đó là sự thật phải chấp nhận
không nên thay đổi, phủ nhận.

+ Chỉ cần thể xác được sống lại cho linh hồn trú ngụ còn thể xác và linh hồn không
thống nhất không quan trọng. Vì vậy hãy cố gắng chập nhận và sống chung với hoàn
cảnh đó. Đó là quan điểm sống hời hợt, vô cảm.

- Nhận xét hai quan điểm sống:

+ Trương Ba đúng đắn, tích cực, coi trọng sự sống thực sự là mình còn Đế Thích sai
lầm, quan liêu chỉ coi trọng sự tồn tại còn sống được là mình không cần quan tâm.

+ Quan điểm của Trương Ba thể hiện tư tưởng chủ đề của vở kịch và cũng là thông
điệp của nhà văn đến mọi người: Hãy sống là mình, trọn vẹn thống nhất thể xác và
linh hồn. Nếu không chỉ là sự tồn tại vô nghĩa, tạo cơ hội cho kẻ xấu lợi dụng, cái ác
hoành hành.

+ Nhà văn phê phán lối sống giả tạo, lối sống hời hợt, chắp vá, gượng ép hoặc quá đề
cao nhu cầu vật chất hơn tinh thần, tinh thần hơn vật chất đang diễn ra phổ biến, trở
thành trào lưu đáng báo động trong xã hội.

3. Đánh giá

- Nghệ thuật: từ một tình huống trong truyện cổ dân gian, nhà văn đã sử dụng sáng
tạo thành xung đột kịch gay gắt căng thẳng; ngôn ngữ kịch giản dị, có sức khái quát
cao, thể hiện rõ xung đột kịch và tích cách nhân vật. Tính chất triết lí từ hai nhân vật
có quan điểm sống trái ngược nhau làm nên thành công của vở kịch. Mâu thuẫn được
giải quyết.

- Bình luận khát vọng được sống là chính mình: Trương Ba không chấp nhận sống
chung với sự tầm thường giả dối của người khác, ông muốn được sống thuận theo lẽ
tự nhiên: trọn vẹn là mình hòa hợp linh hồn thể xác. Từ đó, tác giả muốn nhắn nhủ
mỗi người chúng ta phải trang bị tri thức, kĩ năng, luôn chủ động, linh hoạt trước
những biến đổi của cuộc sống. Cần giữ vững cá tính, phong cách của bản thân, sống
hòa nhập nhưng không hòa tan, sống theo cá tính, phong cách riêng nhưng không lập
dị khác thường, con người sẽ có được hạnh phúc thực sự.

Đoạn số 4:

Đế Thích: Ông Trương Ba... (đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì lòng quí mến
ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng... Nhưng còn ông... rốt cuộc ông
muốn nhập vào thân thể ai?

Hồn Trương Ba: (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ... (nói chậm và khẽ) Tôi
không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan
thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn ông được sống.

Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ
càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một
việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để
tôi chết hẳn...

Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào...

Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có
những cái giá đắt quá, không thể trả được... Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến
quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại
thanh thản, trong sáng như xưa...

Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại
một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự
ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.

Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng
sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những
người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào
con đường ngay thẳng được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có
lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.

(Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba,da hàng thịt,Ngữ văn 12,

tập Hai, NXB Giáo dục - 2008, tr.151-152)‌‌

‌Cảm‌‌nhận‌‌của‌‌anh/chị‌‌về‌‌nhân‌‌vật‌‌Hồn‌‌Trương‌‌Ba‌‌trong‌‌đoạn‌‌trích‌‌trên.‌
‌ ừ‌‌đó,‌‌nhận‌‌xét‌‌chiều‌‌sâu‌‌triết‌‌lí‌‌về‌‌con‌‌người‌‌của‌‌‌Lưu‌‌Quang‌‌Vũ.‌
T

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu đoạn trích:

Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ đã dựng lên
các cuộc đối thoại để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng buộc
phải giải quyết. Từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một
cách sâu sắc, thấm thía. Trong đó, cuộc đối thoại này giữa hồn Trương Ba và Đế
Thích thuộc cảnh VII, gần màn kết vở kịch cũng là một đoạn thoại đáng chú ý.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Giới thiệu về hồn Trương Ba
Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có
tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị
bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm
trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn.
Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh
hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất
nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn
bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương
Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của
bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán
chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba
với Đế Thích là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt và người thân.
Trong cuộc đối thoại với giữa hồn và xác, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn
Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là
mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba
phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người
thua cuộc. Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân, bi kịch của hồn
Trương Ba càng trở nên đau đớn hơn khi ông nhận ra việc sống trong xác hàng thịt
khiến ông không chỉ bị người thân xa lánh mà còn làm khổ những người ông yêu
thương nhất.

2. Đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích

Việc sống nhờ trong thân xác hàng thịt khiến bi kịch của Trương Ba lên đến
đỉnh điểm khiến ông thể chịu đựng thêm được nữa nên gọi Đế Thích xuống nhờ giúp
đỡ. Trương Ba kiên quyết chọn cái chết nhưng Đế Thích thuyết phục Trương Ba nếu
sống trong thân xác anh hàng thịt quá phiền toái thì ông sẽ giúp hồn Trương Ba được
sống trong xác của cu Tị vừa mới chết. Nhưng Trương Ba vẫn kiên quyết chối từ và
đề nghị nhường mạng sống của mình cho cu Tị. Hồn Trương Ba đã hình dung ra
những “nghịch cảnh” khi phải sống trong thân xác một đứa trẻ, đã ý thức rõ về tình
cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày
càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung
nấu của nhân vật trước khi đi đến quyết định. Cuộc trò chuyện sau đó giữa hồn
Trương Ba với Đế Thích có vai trò quyết định trong việc giải quyết mâu thuẫn kịch.
Đoạn thoại cũng trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ
sống và cái chết, về cả những triết lí nhân sinh.

Đế Thích vì yêu mến, trân trọng Trương Ba nên luôn mong muốn
Trương Ba được sống và tìm mọi cách để giúp Trương Ba. Ngay cả khi Trương Ba
xin cho cu Tị được sống, Đế Thích sau một hồi đắn đo, suy nghĩ vẫn cố gắng đáp ứng
“Vì lòng quí mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù có bị phạt nặng... Nhưng còn ông...
rốt cuộc ông muốn nhập vào thân thể ai?”. Lời nói này cho thấy Đế Thích sẽ vừa để
cho cu Tị được sống vừa cho Trương Ba cơ hội tự lựa chọn thân xác mà mình muốn
trú ngụ. Đế Thích quyết tâm thuyết phục, thậm chí sẵn sàng chịu phạt để giúp hồn
Trương Ba được sống. Ông phân tích cho Trương Ba thấy “Việc ông phải chết chỉ là
một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa bằng cách làm cho hồn ông
được sống” và khẳng định “Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào..”.

Ấy thế nhưng dù Đế Thích có cố gắng giúp đỡ, thuyết phục thế nào thì hồn
Trương Ba vẫn kiên quyết lựa chọn cái chết. Trương Ba phản bác lại quan niệm “sai
đã sửa” của Đế Thích, vì theo ông “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá
gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù
lại bằng một việc đúng khác”. Và việc đúng đắn nhất lúc này chính là cứu lấy linh
hồn ngây thơ, trong sáng của cu Tị. Còn Trương Ba đã chết rồi thì hãy để cho ông
chết hẳn, không chắp vá vì sự chắp vá chỉ càng thêm vênh lệch và bi kịch. Dẫu Đế
Thích có cố thuyết phục, cảnh báo Trương Ba về việc ông sẽ biến mất hoàn toàn “Ông
sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi
đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa” nhưng hồn
Trương Ba vẫn đi đến khẳng định chấp nhận cái chết vì dẫu ông có ham sống thì
“sống thế này, còn khổ hơn là cái chết”. Sống trong thân xác kẻ khác ông đau khổ,
vợ, con, cháu ông đau khổ và con hư thì ông lấy tư cách gì để dạy bảo con… Hồn
Trương Ba còn đặt ngược lại vấn đề rồi đi đến kết luận: “Cuộc sống giả tạo này có lợi
cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng,
chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc”. Bằng những trải nghiệm đầy đau khổ khi sống trong xác
hàng thịt và đã nhận thức được đúng đắn về tình cảnh của mình nên hồn Trương Ba đã
kiên định sự lựa chọn của mình. Và khi đã can đảm lựa chọn và kiên định với lựa
chọn ấy, hồn Trương Ba lại thấy mình trở về là Trương Ba của ngày xưa, là một ông
Trương Ba có tâm hồn trong sạch, thanh cao. Ông đã thoát khỏi bi kịch của chính
mình để tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn.

Qua diễn biến của đoạn thoại, chúng ta có thể cảm nhận được những mâu thuẫn
trái ngược trong quan niệm sống của hồn Trương Ba và Đế Thích. Quan điểm của
Trương Ba là không chấp nhận lối sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Bởi
đó là lối sống giả dối, gây đau khổ cho người thân, gây phiền toái cho chính mình. Vì
thế, Trương Ba đã dũng cảm đối diện với hoàn cảnh nghiệt ngã, dám từ bỏ cuộc sống
không phải là mình, chiến thắng sự hèn nhát tầm thường, yếu đuối của bản thân,
không chịu lùi bước trước xác hàng thịt. Với Trương Ba được sống là mình trọn vẹn
cả linh hồn và thể xác mới thực sự là sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc và đem lại hạnh
phúc cho mọi người. Còn Ðế Thích nghĩ đơn giản, quan liêu và hời hợt khi cho rằng
cái sai của Nam Tào, Bắc Đẩu khi bắt chết nhầm Trương Ba là có thể sửa chữa được
và đã được sửa. Thậm chí Đế Thích còn cho rằng chỉ cần có thể xác cho linh hồn trú
ngụ còn việc thể xác và linh hồn không thống nhất không quan trọng. Vậy quan điểm
của Ðế Thích không coi trọng sự sống thực sự mà chỉ coi trọng sự tồn tại. Đế Thích
cho rằng sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo không nguy hại gì cho ai, vì vậy
hãy cố gắng chấp nhận và sống chung với hoàn cảnh đó. Đế Thích còn sai lầm ở chỗ
vì tính háo danh, muốn “người trên trời, dưới đất mới biết tôi cao cờ như thế nào” nên
Đế Thích mới chắp vá và gượng ép cho Hồn Trương Ba nhập vào xác hàng thịt tạo
nên nỗi thống khổ cho Trương Ba và những người thân. Cũng vì ích kỉ, háo danh mà
Đế Thích quyết phạm thêm một sai lầm khác là định cho Hồn Trương Ba nhập vào
xác cu Tị. Bởi vậy, có thể nhận thấy mâu thuẫn giữa quan niệm của hồn Trương Ba và
Đế Thích, cơ hội mà Đế Thích tạo ra cho Trương Ba trong đoạn thoại chính là một
sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Nhà văn tạo ra mâu thuẫn và tình huống ấy
chính là để một lần nữa đặt hồn Trương Ba vào thử thách, nhấn mạnh thêm sự lựa
chọn kiên định, sáng suốt của hồn Trương Ba.
3. Đánh giá

3.1. Nghệ thuật:

Màn đối thoại thể hiện sự xung đột quyết liệt, căng thẳng và kịch tính căng ra
trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ
sinh động, giọng điệu biến hoá, lời thoại vừa hướng nội vừa hướng ngoại, thấm đẫm
triết lí nhân sinh. Hành động kịch góp phần quan trọng thể hiện tính cách nhân vật.
Cách giải quyết xung đột kịch bất ngờ và đậm chất nhân văn. Đoạn thoại cũng góp
phần thể hiện những đặc trưng thể loại kịch: mâu thuẫn phát triển từ “đỉnh điểm” đi
đến “mở nút”.
3.2. Đánh giá về sự lựa chọn của Trương Ba và ý nghĩa của đoạn thoại

Một triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính
anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con
người hoàn thiện và rất đúng đắn giống như lựa chọn của hồn Trương Ba trong đoạn
trích. Việc Trương Ba từ chối các cơ hội được sống mà Đế Thích đưa ra và chọn cái
chết là một sự lựa chọn đầy nhân văn, thể hiện nhiều ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
* Đây là sự lựa chọn nhân văn

Quyết định dứt khoát xin tiên cờ Đế Thích cho mình được chết là kết quả của
một quá trình nhận thức tỉnh táo, sáng suốt. Trong trang sách hay trên sân khấu, lời lẽ
của Hồn Trương Ba đều làm xúc động lòng người bởi nó rất nhân văn. Nhân văn ở
chỗ:

+ Lựa chọn ấy xuất phát từ khát vọng sống cao đẹp, khát vọng được sống đúng
là mình mình toàn vẹn cả tâm hồn và thể xác.

+ Đặc biệt, sự lựa chọn của ông không chỉ giải thoát được nghịch cảnh mà
còn cho thấy Trương Ba là người nhân hậu, luôn biết nghĩ cho người khác. Ông hiểu
rằng chỉ khi ông “chết hẳn”, ông mới tìm lại được sự thanh thản, trong sáng cho tâm
hồn; những người thân cũng sẽ không còn phải khổ vì ông; người con cả của ông sẽ
có cơ hội trở lại con đường ngay thẳng. Ông sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình cũng
để cho cụ Tị được sống, để chị Lụa không phải khóc vì thương nhớ con. Từ đó, vở
kịch thắp lên ngọn lửa ấm áp của tình người, khẳng định lẽ sống cao đẹp của con
người là cần phải biết quan tâm đến người khác, nhất là những người có hoàn cảnh
đáng thương. Rõ ràng ở đây nhà văn đã đề cao lối sống vị tha, cao thượng và ở khía
cạnh này chúng ta thấy tư tưởng của nhà văn dù tiến bộ và mới mẻ đến đâu vẫn có sự
bắt rễ sâu và hoàn toàn thống nhất với truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.

* Đoạn đối thoại thể hiện quan niệm, triết lí về đời sống và con người
Qua màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích, tác giả gửi gắm nhiều thông
điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về
cuộc sống và con người:
Với sự lựa chọn đầy nhân văn của Trương Ba, Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm
vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Cuộc
sống của con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống đúng là mình, hài hòa giữa
linh hồn và thể xác. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vô
nghĩa. Và không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
Ngược lại, khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì
đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì
thể xác chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Thông điệp nữa ở đây là với con người
được sống là điều may mắn nhưng sống thế nào cho thật ý nghĩa mới là điều quan
trọng. Và sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình quả thực là điều
không hề dễ dàng.
Cũng thông qua sự lựa chọn của hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đề cao, ca
ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh với cái dung tục, giả tạo để
bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp tự nhiên và để hoàn thiện nhân cách vươn tới
sự cao khiết về linh hồn và khỏe mạnh về thể xác. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ
cũng được bộc lộ ở đây.
Qua đoạn thoại, tác giả Lưu Quang Vũ còn muốn nói đến một chuẩn mực trong
đánh giá về con người là con người trong mối quan hệ với những người xung quanh.
Con người sống không chỉ nghĩ đến mình mà còn phải biết sống vì người khác để tâm
hồn mình thanh thản và để cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Hơn nữa, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự
vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn trích nói riêng,
Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc
bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm
thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như
Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm
thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà
chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn
vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng,
không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.
Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó
là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản
thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Lưu Quang Vũ còn thể hiện cảm hứng thế sự, thể hiện một triết lí đầy sâu sắc
trước cuộc đời rằng thần thánh cũng sai lầm, nhưng có những việc sai có thể sửa được
những có những việc càng sửa càng sai. Bởi vậy trước những sai lầm, thất bại trong
cuộc sống con người cần biết tỉnh táo để nhận thức về sai lầm của mình, từ đó có thể
sửa chữa hay thay vào đó bằng một việc làm đúng để cho xã hội ngày cảng trở nên tốt
đẹp hơn.
Đoạn số 5:

Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?


(Giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện)

Trương Ba: Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa
nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con
dao bà giẫy cỏ… Không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà
ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu.
(Dưới một gốc cây, hiện lên cu Tị và cái Gái)

Cái Gái: (Tay cầm một trái na) Cây na này, ông nội tớ trồng đấy. Quả to mà
ngon lắm. Ta ăn chung nhé!

(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na
vùi xuống đất.)

Cu Tị: Cậu làm gì thế?

Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối
nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…

(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ,

Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr.153)

Phân tích đoạn trích trên, từ đó rút ra thông điệp được Lưu Quang Vũ gửi
gắm qua vở kịch.

I. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung

- Giới thiệu đoạn trích:

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” thể hiện rõ những đặc trưng thể loại kịch: mâu
thuẫn phát triển từ “đỉnh điểm” đi đến “mở nút” và cuối cùng là đoạn kết. Và đoạn kết
trong vở kịch là vĩ thanh có đầy sức ngân vang, lay động lòng người.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Giới thiệu về vở kịch

Trương Ba là một ông lão làm vườn 60 tuổi, có tài đánh cờ, giỏi làm vườn, có
tâm hồn thanh cao trong sạch. Do sự sơ xuất, tắc trách Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông bị
bắt chết nhầm. Sự sửa sai của Nam Tào, Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm
trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn.
Con người vốn là một tổng thể thống nhất, vậy mà Trương Ba lại phải trú nhờ linh
hồn minh trong thân xác của người khác, bi kịch hồn này, xác nọ “bên trong một
đằng, bên ngoài một nẻo”. Sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn Trương Ba gặp rất
nhiều phiền toái, phải sống, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn
bè, cả những người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Bản thân Trương
Ba cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của
bản thân ông… Những điều đó làm Trương Ba vô cùng đau khổ. Ông đau đớn, chán
chường trước cuộc sống không thật là mình. Trước cuộc đối thoại của hồn Trương Ba
với Đế Thích là màn đối thoại của hồn Trương Ba với xác hàng thịt và người thân.
Trong cuộc đối thoại với giữa hồn và xác, xác hàng thịt đã lấn lướt, sỉ nhục hồn
Trương Ba làm hồn Trương Ba vốn đã rất đau khổ, bức bối vì sống không phải là
mình càng trở nên đau khổ và bế tắc hơn. Kết thúc cuộc đối thoại, hồn Trương Ba
phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng và trở thành người
thua cuộc. Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân, bi kịch của hồn
Trương Ba càng trở nên đau đớn hơn khi ông nhận ra việc sống trong xác hàng thịt
khiến ông không chỉ bị người thân xa lánh mà còn làm khổ những người ông yêu
thương nhất. Việc sống nhờ trong thân xác hàng thịt khiến bi kịch của Trương Ba lên
đến đỉnh điểm khiến ông thể chịu đựng thêm được nữa nên gọi Đế Thích xuống nhờ
giúp đỡ. Trương Ba kiên quyết chọn cái chết nhưng Đế Thích thuyết phục Trương Ba
nếu sống trong thân xác anh hàng thịt quá phiền toái thì ông sẽ giúp hồn Trương Ba
được sống trong xác của cu Tị vừa mới chết. Nhưng Trương Ba vẫn kiên quyết chối từ
và đề nghị nhường mạng sống của mình cho cu Tị để được “là tôi toàn vẹn”. Từ đây
mà dẫn đến đoạn kết của tác phẩm.

1.2. Giới thiệu về kết thúc vở kịch

Đoạn kết những vở kịch được trình diễn, phần kết kịch bao giờ cũng là phần
đáng mong chờ và thường để lại dư vang trong tâm khảm người đọc, người xem.
Người đọc, người xem kịch có thể đã thấy những cái kết bi phẫn, đau thương, có cái
kết hào hùng, hoành tráng … Còn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ
lại đem đến một cái kết đầy chất thơ, dịu nhẹ và trong trẻo. vừa có ý nghĩa giải quyết
xung đột kịch vừa nêu bật tư tưởng tình cảm của người tác giả,

2. Phân tích đoạn kết

Đoạn kết có thể chia thành hai phân cảnh là cảnh hồn Trương Ba hiện lên giữa
màu xanh cây vườn để trò chuyện với vợ và cảnh cái Gái cùng cu Tị ăn trái na rồi gieo
hạt ở trong vườn.

2.1. Cảnh 1: Trương Ba hiện giữa màu xanh cây vườn để trò chuyện với vợ

* Mô tả và phân tích cảnh 1:

Cảnh một của đoạn kết diễn ra trong khung cảnh một khu vườn lung linh ánh
sáng. Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa
cuống quít vuốt ve con… Sự ra đi của Trương Ba đã mang lại sự sống mới cho cu Tị.
Chị Lụa đang đớn đau tột độ vì tưởng chừng như sắp tuột mất đứa con yêu dấu khỏi
tay mình, nay nó lại trở về khỏe mạnh vui cười quấn quít ngay cạnh bên. Niềm hạnh
lớn lao vô cùng mà Trương Ba mang lại cho hai mẹ con mang ý nghĩa rất thiêng liêng
và cao cả.

Trong khung cảnh ấy văng vẳng bên tai lời gọi của vợ Trương Ba. Người vợ ấy
là một phụ nữ hiền hậu, đảm đang, bà đã từng mất lòng tin về người chồng bà yêu
thương khi hồn Trương Ba trú ngụ và tha hóa trong xác hàng thịt. Giờ đây, sau khi
Trương Ba lựa chọn cái chết để được trở về là chính mình, giải thoát mình và người
thân khỏi bi kịch thì hình ảnh người chồng nhân hậu, hiền từ lại trở về trong lòng
người vợ yêu thương. Người vợ gọi chồng: “Ông ở đâu? Ông ở đâu?”. Tiếng gọi
thân thương ấy giống như những lần Trương Ba đi làm vườn, chiều chiều vợ gọi vào
quây quần bên nồi cơm mới thổi. Cảnh tượng ấy thật đẹp đẽ, ấm áp xiết bao. Trương
Ba vẫn là “ông Trương Ba làm vườn” của những ngày xưa ấy, để lại thật nhiều kỉ
niệm trong tim người còn sống trên đời. Bóng Trương Ba chập chờn xuất hiện giữa
màu xanh cây vườn. Hình ảnh Trương Ba trước sau vẫn vậy, vẫn gắn chặt với khu
vườn xanh non mơn mởn, với bao trái ngọt hoa thơm, với những điều bình dị, mộc mà
mà nặng nghĩa nặng tình. Lời đáp của Trương Ba thật chân tình, da diết, chan chứa
tình yêu thương vốn có trong con người nhân hậu này: “Tôi đây bà ạ”. Chưa bao giờ
Trương Ba ngừng yêu thương người vợ bao dung của mình, có chăng là vì sống trong
xác hành thịt nên Trương Ba khác đi trong mắt bao người chứ thực sự lòng Trương Ba
vẫn trước sau như một, không hề đổi thay. Trương Ba chết thật! Thể xác Trương Ba
đã tan rã tự bao giờ trong lòng đất quê hương. Nhưng hồn Trương Ba vẫn sống, hình
bóng Trương Ba không vĩnh viễn mất đi mà hóa thân vào các sự vật thân thương,
được mọi người nâng niu, trân trọng. Trương Ba “vẫn ở liền” ngay bên người vợ của
mình. Trên cái bậc cửa nhà có bóng hình Trương Ba dõi mắt theo cái Gái, theo những
người thân thuộc. Trương Ba trong ánh lửa bập bùng gian bếp mỗi lúc vợ nấu cơm.
Ánh lửa của yêu thương, chắt chiu, ánh lửa của sự sống vĩnh hằng không bao giờ dập
tắt, Trương Ba hóa thân vào chiếc cầu ao quê nhà, trong cái cơi đựng trầu tình nghĩa
vợ bưng ra mỗi khi có khách đến thăm. Trương Ba đã sống trong nghĩa tình cao quý,
trong những điều tốt đẹp của cuộc đời. “Không phải mượn thân ai cả”, Trương Ba
đang tồn tại với linh hồn độc lập, sống là chính mình, yêu thương và nhận lại thương
yêu. Một cuộc ra đi thanh thản, Trương Ba vẫn tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những
người thân thuộc của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.

* Ý nghĩa cảnh 1:

Trương Ba chấp nhận cái chết nhường lại cơ hội sống cho cu Tị thể hiện một
vẻ đẹp đạo đức ở con người ông, ấy là vẻ đẹp của tấm lòng cao thượng, bao dung, biết
sống vì người khác. Lời thủ thỉ chuyện trò của Trương Ba với người vợ đã nói lên một
chân lý của cuộc đời rằng: Cuộc sống của con người không chỉ là sự tồn tại sinh học
như ta nhìn thấy bên ngoài mà sự sống của tâm hồn mới là bất diệt. Con người phải
sống như thế nào để cuộc đời mình thực sự có ý nghĩa, trọn vẹn giá trị nhân sinh và
trở nên tốt đẹp trong suy nghĩ của những người xung quanh mới thực sự quan trọng.
Bởi vì, vẻ đẹp tâm hồn sẽ trường tồn dài lâu, bất tử so với sự tồn tại của thể xác.

2.2. Cảnh 2: Cu Tị và cái Gái ăn na trong vườn

* Mô tả và phân tích cảnh 2:


Ở cảnh thứ hai của đoạn kết, trong khu vườn lung linh ánh sáng, Cu Tị cùng ăn
trái na với cái Gái trong vườn. Trong câu chuyện của hai đứa trẻ có bóng dáng Trương
Ba, có tình yêu thương, kính trọng của cái Gái với người ông mà nó hết lòng yêu quí.
Cái Gái kể về cây na “Cây na này, ông nội tớ trồng đấy! Quả to mà ngon lắm! Ta ăn
chung nhé!”. Cây na với quả to và ngon là biểu tượng của những điều tốt đẹp mà
Trương Ba để lại trên cuộc đời. Đôi bạn ăn chung quả na tượng trưng cho sự sẻ chia,
đồng cảm, đó là những bài học vô cùng cao quý mà có lẽ chính Trương Ba đã dạy đứa
cháu mà ông yêu thương. Lời thoại cho thấy trong kí ức của đứa cháu gái, ông nội vẫn
hiền hậu, nghĩa tình và thân thương như ngày nào. Cái Gái sau đó đã gieo hạt na “Cho
nó mọc thành cây mới”, để nó “nối nhau mà lớn lên mãi mãi” như lời dặn dung dị mà
đầy ý nghĩa tốt đẹp của người ông đã mất.

* Ý nghĩa của cảnh 2:

Dấu chấm lửng giữa dòng được đặt cuối tác phẩm như rót vào lòng người
những nỗi niềm thương nhớ, và cũng là sự đồng tình, đồng thuận với sự lựa chọn của
hồn Trương Ba. Nếu như lúc trước, cái Gái nhất quyết không chịu nhận Trương Ba
bên trong cái xác anh hàng thịt, thậm chí nó còn tỏ rõ thái độ căm ghét, xua đuổi ông.
Thì giờ đây khi Trương Ba đã chấp nhận cái chết để trở về là chính mình, nó lại thể
hiện sự thương yêu như nó đã yêu thương ông nội trước đây. Điều ấy một lần nữa nói
lên chân lý của cuộc sống: Chỉ khi được sống làm chính mình, cuộc sống mới có ý
nghĩa trọn vẹn. Không thể nào sống nương nhờ vào kẻ khác, vào những thứ không
phải của chính mình.

Việc Trương Ba nhường mạng sống cho cu Tị là thuận theo tự nhiên, giống
như một chiếc lá vàng rụng xuống để mầm non mọc lên.Trương Ba chọn cái chết vì
ông tin và muốn khẳng định những điều tốt đẹp sẽ còn mãi trên đời. Hạt na mà cái Gái
gieo xuống chính là những điều tốt đẹp mà Trương Ba để lại cho cuộc đời. Những cây
sẽ nối nhau mà lớn khôn mãi mãi cũng giống như cái đẹp sẽ tồn tại mãi trong cuộc
đời. Trương Ba chết là để gieo mầm cho cái đẹp, cái thiện mãi sinh sôi, nảy nở giữa
cõi đời. Ông không chỉ để lại những ký ức tốt đẹp mà còn là một tấm gương đạo đức
sáng ngời cho con cháu, gieo vào lòng thế hệ sau những tư tưởng tốt đẹp để những giá
trị tốt đẹp ấy tồn tại mãi về sau này.

3. Đánh giá

Như vậy, hai phân cảnh kết thúc của vở kịch khẳng định một chân lý rằng con
người ta không thể sống mà hồn một đằng, xác một nẻo được. Sống hoàn toàn, sống
thật sự chỉ khi giữa xác và hồn có sự thống nhất biện chứng với nhau. Được sống làm
người nhưng được sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo
đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người đc sống tự nhiên,
hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản
thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị về
tinh thần cao quý.

Trương Ba chết là để cuộc đời trở về với đúng quy luật tự nhiên. Ông chết
nhưng đó cũng chính là một cách để được trở về đúng là mình, được "sống" một cách
thực sự. Khi sống trong xác hàng thịt ông bi người thân xa lánh. Khi chết ông được
trở về là chính mình, là một người chồng, người cha, người ông hiền lành, sống trong
sạch, thanh cao, giỏi chơi cờ, khéo léo và được người thân trân trọng, yêu quý như
trước. Kết thúc ấy thể hiện chiến thắng của cái chân, thiện, mĩ, của các giá trị nhân
văn trong cuộc đời. Trương Ba chết cả hồn lẫn xác, cát bụi trở về với cát bụi nhưng
ông nhận được kết thúc có hậu, ông vẫn cao khiết và trở nên bất tử trong lòng người
thân.

Đoạn kết trong một vở kịch thương có vai trò mở nút nhưng đoạn kết trong tác
phẩm này không chỉ thế mà còn là một khúc ca trữ tình, vừa có tính gợi mở, vừa thấm
đẫm chất thơ và thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc. Với kết thúc như một bài ca ca ngợi
sự sống, ca ngợi những điều tốt đẹp mà con người luôn vươn tới, Lưu Quang Vũ đã
khắc sâu trong lòng chúng ta bài học của sự sống, của đạo đức và nhân cách, học được
ý nghĩa của sự sống và cái chết khiến chúng ta tràn đầy niềm tin vào sự bất tử của cái
đẹp, tin rằng cái đẹp sẽ mãi tồn tại, sinh sôi giữa cuộc đời. “Tác phẩm chân chính
không chấm dứt ở trang cuối cùng”, mà sẽ còn lưu đọng mãi, gợi mở những ý nghĩa
sâu xa trong lòng độc giả. Kết thúc “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt” của nhà viết kịch
nổi tiếng Lưu Quang Vũ là một kết thúc tác phẩm như thế.

4. Liên hệ

Đoạn kết vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã để lại âm vang ngọt ngào
trong tâm hồn bao người. Rõ ràng khát vọng được sống là chính mình, không vay
mượn giả tạo, không cố tạo ra cái vỏ bọc cho mình để rồi chết đi trong hình hài của
một bản sao dị dạng. Trong cuộc sống, có đôi lần ta ước mình giống một ai đó mà ta
thần tượng, ta buồn bã, chán nản cho thực tại của ta rồi đổ lỗi cho số kiếp an bày.
Nhưng ta quên rằng được sống là mình mới thực sự đáng quý. Mỗi người là một sắc
màu, một mảnh ghép của cuộc đời. Mỗi người đem lại cho đời một ý nghĩa, hương sắc
riêng biệt để khu vườn thêm muôn vẻ muôn màu. Đừng bao giờ để phai nhạt sắc
hương mình rồi khoác lên mình sắc hương người mà mình vừa vay mượn. Có con ốc
mượn hồn nào mà không chịu đớn đau?

Tham khảo thêm cách đánh giá khác về đoạn kết

* Nghệ thuật

Có thể nói, đây là một đoạn kết giàu chất thơ với ngôn từ tha thiết, thấm đẫm
tình cảm và có dư ba bởi những hình ảnh tượng trưng về sự sống nảy nở ( “ vườn cây
rung rinh ánh sáng, hai đứa trẻ cùng ăn quả na rồi gieo hạt na xuống đất cho nó mọc
thành cây mới). Đó là khúc ca trữ tình ca ngợi sự sống, ca ngợi những giá trị nhân văn
mà con người luôn phải vươn tới và gìn giữ.

* Đoạn kết góp phần thể hiện thông điệp của vở kịch:

+ Lưu Quang Vũ muốn phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc
bấy giờ: con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật
chất chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu thô thiển.
+ Lấy cớ tâm hồn là quý đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo
thích đáng đến sinh hoạt vật chất không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan
niệm cách sống trên đều cực đoan đáng phê phán.

+ Tình trạng con người phải sống giả không dám và cũng không được sống là
bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

- Qua màn kết, tác giả gửi gắm thông điệp về cuộc sống: sự sống thật sự có ý
nghĩa khi con người được sống tự nhiên,hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

- Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung
tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý. Không chỉ
phục sinh lại những giá trị tốt đẹp của bản thân, Trương Ba còn trở nên bất tử trong
suy nghĩ của tất cả những người thân bằng tình cảm nhớ thương, yêu quý.

C. KẾT LUẬN CHUNG

“Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ
sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim mọi người”. Nếu mỗi con
người sinh ra để làm tròn nghĩa vụ ấy cho đến suốt cuộc đời thì Lưu Quang Vũ (1948
– 1988) nhà biên kịch lớn của nền văn học Việt Nam đã làm lên điều ấy bằng tác
phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Ông viết vở kịch có lẽ cũng là để trả lời cho câu
thơ mình dường như đã bỏ ngỏ “Có những lúc tâm hồn tôi rách nát /… Tôi biết làm
gì, tôi biết đi đâu?”. Tài năng xuất sắc của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ khiến vở kịch
có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc những thông điệp sâu sắc về cuộc sống.
Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội... đặt ra trong vở kịch luôn có ý
nghĩa với mọi người, mọi thời. Lưu Quang Vũ đã mãi mãi ra đi trong một tai nạn giao
thông đầy thương tâm. Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân
khấu kịch trường Việt Nam là không thể lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang
Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi
Lưu Quang Vũ thực sự không chết.

LIÊN HỆ MỞ RỘNG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC 12

1. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN

a. Liên hệ với thơ Lý Bạch (vẻ đẹp trữ tình sông Đà – bờ sông)

Với Nguyễn Tuân, sông Đà còn là một cố nhân. Bất ngờ gặp lại dòng sông sau
một chuyến đi rừng dài, nhà văn gợi lại cảm giác khi ta bất ngờ gặp lại những gì đã
quá xa, nhưng lại rất gần: tuổi thơ. Bởi ánh sáng hắt từ mặt sông sao mà “loang loáng
như trẻ con chiếu gương vào mắt”. Lúc đó, sông Đà đẹp như “màu nắng tháng 3
Đường Thi”: “Yên Hoa Tam Nguyệt há Dương Châu”. Câu thơ của Lý Bạch khi chia
tay Mạnh Hạo Nhiên bên dòng Trường Giang thuở nào. Nhưng trong khoảnh khắc
thần tiên của Lý Bạch – Mạnh Hạo Nhiên ấy, không thể tạo ra “tứ thú”, còn lúc này, là
khoảnh khắc hội ngộ giữa 2 người bạn đã quá thân quen: Nguyễn Tuân và sông Đà.
Câu văn của Nguyễn Tuân vẫn vậy, vẫn tri thức và rất uyên bác, miêu tả thiên nhiên
nhưng ẩn chứa biết bao cảm xúc của con người, mà muốn hiểu cho được thật chính
xác cũng chẳng dễ dàng gì. Còn chất thơ ở vẻ đẹp sông Đà, khi thì như “nỗi niềm cổ
tích”, lúc “lóe sáng ánh sáng tháng Đường thi”, lúc như “người tình nhân chưa từng
quen biết” và đáng mong chờ như nắng giòn tan sau kì mưa dầm tầm tã.

b. Liên hệ với Tràng Giang – Huy Cận (vẻ đẹp trữ tình – thả thuyền trôi trên
sông)

Không chỉ vậy ngược dòng sông của thời gian, Nguyễn Tuân còn khám phá ra
vẻ cổ kính, tĩnh lặng như từ ngàn năm trước của Đà giang. Nhà văn thả con thuyền
lững lờ chậm trôi trên dòng sông, không còn sóng to, núi đèo hiểm trở, thạch trận
giăng bố khắp nơi như ở đoạn đầu thác nữa mà mở ra trước mắt người đọc lúc này là
khung cảnh thiên nhiên hết sức thơ mộng và trữ tình. Dòng sông chảy trậm, hai bên bờ
dòng sông là những thảm cỏ gianh “nõn búp” đang nhú, là đàn hươu nhung cúi đầu ăn
cỏ đẫm sương đêm, là đàn cá dầm xanh quẫy đuôi vọt lên mặt nước, là mặt sông loang
loáng phản chiếu ánh mặt trời, là những tia lóe lên của những chiếc đuôi cá dưới ánh
mặt trời. Quãng sông này vẫn giữ nguyên được nét đẹp tự bao đời Lý, đời Trần, đời
Lê. Hai bên bờ sông không một bóng người, hoang sơ, vắng vẻ như một bờ tiền sử.
Những thi nhân thời trung đại khi xưa thường tránh xa cái xô bồ của cuộc sống, tìm
đến những nơi hoang sơ, vắng lặng để tĩnh tâm, giữ cho lòng mình trong sạch như
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng viết:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn, người đến chốn lao xao”

Thế nhưng, sang đến thời hiện đại, đọc bài “Tràng giang” của Huy Cận, ta lại thấy
được một thiên nhiên mênh mông, vắng lặng không một bóng người, cảm giác cô độc
bao trùm khắp không gian. Khi ấy, con người khao khát nhất là sự thấu hiểu, chia sẻ.
Vậy phải chăng, cái tĩnh lặng của dòng sông Đà đang chứa đựng cái cảm giác cổ tích
của lòng người khi trở về với thiên nhiên. Thế nhưng không, hoang sơ mà không
hoang vắng, ngược lại, Đà giang lại tràn đầy sức sống và tinh lực với những nõn búp
đang nhú, với đàn cá đầm xanh đang quẫy. Có thể nói, từ cách nhìn nhiều chiều về
con sông, Nguyễn Tuân đã tạo dấu ấn khó quên trong lòng người đọc về một con sông
độc đáo, đem đến một bức tranh thiên nhiên kỳ thú cho kho tàng văn học dân tộc. Như
câu nói “vẻ đẹp không phải ở đời má hồng của người thiếu nữ mà là con mắt của kẻ
sinh tình” diễn tả dòng sông đẹp nhường ấy, bằng đoạn văn tuyệt bút như vậy, mới
thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết của Nguyễn Tuân. Bởi chỉ có như
vậy, ông mới có thể có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông, về
giang sơn, gấm vóc của Tổ quốc mình, làm đẹp thêm cho linh hồn bức tranh thiên
nhiên của đất nước, quả là một nhà văn vừa có tài vừa có tâm.

c. So sánh với Huấn Cao ( phân tích hình tượng người lái đò)
● Giống:
- Cả 2 nhân vật đều được nhìn nhận dưới góc độ cái đẹp, chất nghệ
sĩ, họ đều xứng đáng được ngợi ca và tôn trọng
- Họ đều được xây dựng bởi những hình ảnh vô cùng phi thường,
phải đối diện với những tình huống, thử thách đầy khó khăn
● Khác:

HUẤN CAO NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Là con người đại diện cho quá khứ, của Là con người của thời đại, của công cuộc
một thời vang bóng xây dựng CNXH

Cái đẹp chống đối hiện thực Cái đẹp của lao động của sự nghiệp xây
dựng, cống hiến cho đất nước

Con người phi thường Con người bình thường

Là con người của nghệ thuật trước Cách Là con người của nghệ thuật sau Cách
mạng mạng
Dùng mẫu câu: Nếu … thì …

d. So sánh với sông Hương – Hoàng Phủ Ngọc Tường (đã có trong phần tác
phẩm phía dưới)
e. Liên hệ với Tây Tiến – Quang Dũng (sông Đà hung bạo)

Phối hợp với đá còn có đội quân sóng nước reo hò, làm thanh viện cho
đá tạo nên một bản giao hưởng của gió thác giữa một “trận nước vang trời
thanh la não bạt”. Ngay từ đầu, chưa đến thác những tiếng cuồng nộ của
nước đã gần lại mãi. Chúng như “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích” rồi
“giọng gằn mà chế nhạo”. Âm thanh man dại của thác ghềnh khiến ta liên
tưởng đến thiên nhiên trong “Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng: “Chiều
chiều oai linh thác gầm thét / Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

2. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG


a. So sánh với sông Đà – Nguyễn Tuân (đã có trong phần tác phẩm phía
dưới)

3. VỢ CHỒNG A PHỦ

a. So sánh với Chí Phèo – Nam Cao ( trước khi cởi trói cho A Phủ):

Hiện tai của A Phủ sao giống quá khứ của Mi quá, cả hai đều bị chà đạp, bị trói
bởi sợi dây của cường quyền và bạo ngược. Nếu năm xưa Mị của chúng ta chỉ biết
thương mình thì bây giờ Mị đã biết thương cả A Phủ, và cả những người cùng cảnh
ngộ với cô. Mị đã thấu hiểu khát khao được sống của họ: “Ngoài kia việc gì phải
chết”. Đó là một thứ tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim giàu lòng vị tha của cô.
Cảm xúc ấy khiến ta nhớ đến sự quan tâm, tình cảm chân thành mộc mạc của Thị Nở
dành cho Chí Phèo qua một bát cháo hành ấm nóng. Thậm chí, Mị không chỉ suy nghĩ
cho mình, cho A Phủ mà còn suy nghĩ về cả cha con thống lí Pá Tra – những kẻ đày
đọa, gây bi kịch cho cô, cho A Phủ, cho những người cùng cảnh ngộ. Thế nên một loạt
những chữ “nó”, “chúng nó”, “nó bắt trói”, “nó bắt mình chết”, “nó bắt trói đến chết”,
“chúng nó thật độc ác” vang lên những lời tuyên ấn và bị kết tội đanh thép. Chất chứa
trong đó còn là nỗi uất hận, căm hờn. Hãy nên nhớ rằng ngay cả khi Chí Phèo đâm
chết Bá Kiến ta cũng chưa một lần thấy Nam Cao miêu tả những suy nghĩ của Chí về
kẻ đã gây ra bi kịch đời anh, chưa một lần nói về Bá Kiến. Thế nên ta mới biết sự thay
đổi của Mị so với những nhân vật văn học ở thời kỳ trước không còn chỉ là tự phát mà
còn là tự giác.

b. So sánh với Tắt đèn – Ngô Tất Tố:

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” khép lại với hình ảnh trong bóng tối đêm mùa
đông khuya khoắt “trời tối bưng” “hơi gió thốc lên hạnh buốt”. Hình ảnh Mị và A
Phủ, người thì quật cường vùng lên chạy, người thì “vụt chạy ra”, “băng đi, lăn, chạy
xuống dưới lưng dốc” rồi hai người chẳng ai nói với ai câu gì, họ lẳng lặng nhịp
nhàng đỡ nhau chạy càng xa càng tốt khỏi Hồng Ngài. Cách kết thúc này làm ta liên
tưởng đến tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố, cũng là trời tối đen như mực,
y hệt cái tiền đồ, tương lai của chị Dậu. Nhưng nếu như “Tắt đèn” và các tác phẩm
văn học phê phán trước cách mạng thường kết thúc là bóng tối tượng trưng cho sự bế
tắc để lại xót xa cho các nhân vật đã gồng mình quẫy đạp phản kháng nhưng cuối
cùng họ cũng không sao thoát khỏi số phận bi thảm đời mình; thì đến với “Vợ chồng
A Phủ”, chúng ta lại có quyền đặt niềm tin vào một tương lai của A Phủ và Mị. Tương
lai của cả hai sẽ là sự sống, hạnh phúc tự do và hành động chạy thoát khỏi nhà thống
lý như cái lò xo bị dồn nén và gò bó bật tung ra. Kết thúc của “Vợ chồng A Phủ” mới
là lúc Mị và A Phủ bắt đầu cuộc đời mình, đây chúng là giá trị nhân đạo mới mẻ của
văn học sau cách mạng.

4. VỢ NHẶT

a. So sánh nhân vật Tràng với Chí Phèo – Nam Cao:

TRÀNG CHÍ PHÈO


Có sự thay đổi khi tìm thấy Từ bến mê đến bến tỉnh, khát
hạnh phúc, hi vọng vào tương khao làm người lương thiện,
Giống
lai nghĩ đến gia đình, cảm thấy muốn làm hài hòa với mọi
có trách nhiệm người, mong muốn hạnh phúc
➔ Vẻ đẹp của tâm hồn người nông dân Việt Nam chân chất,
lương thiện, mộc mạc
Có sự chủ động, biết mình Cô đơn, bị cự tuyệt quyền làm
phải làm gì, có sự ủng hộ và người, bị cả xã hội quay lưng,
nhận ra tình cảm của mọi bế tắc không tìm thấy lối thoát
Khác
người trong gia đình (bữa cơm “Ai cho tao lương thiện”
ngày đói thảm hại nhưng vui
vẻ)
➔ 2 xu hướng vận động của 2 giai đoạn văn học và “Nhà
văn phải là người thư ký trung thành của thời đại”

b. So sánh nhân vật Tràng với Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài và Chí Phèo – Nam
Cao) khi bình luận về sự thay đổi của Tràng vào sáng hôm sau:

Tràng là một chàng trai mộc mạc, suy nghĩ đơn giản, những tác động của ngoại
cảnh đã khiến anh thay đổi cảm xúc làm chúng ta nhớ đến Chí Phèo vào buổi sáng
hôm sau, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đã đánh thức cảm xúc rất đẹp
trong Chí, hay Mị trong đêm mùa xuân đã sống lại khát vọng tuổi trẻ trong những đêm
mùa xuân ở Hồng Ngài, Nó cho thấy rõ mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh,
khẳng định vẻ đẹp bên trong của mỗi con người. Có thể thấy rằng, dù là Nam Cao, Tô
Hoài, hay Kim Lân thì điểm chung giữa các nhà văn lớn là họ đều có sự thấu hiểu, yêu
thương cho chính nhân vật của họ, thấy được vẻ đẹp bên trong mỗi con người.

5. Liên hệ mở rông

You might also like