Professional Documents
Culture Documents
CHỦ ĐỂ 10 - CÁC PHONG CÁCH QUẢN TRỊ
CHỦ ĐỂ 10 - CÁC PHONG CÁCH QUẢN TRỊ
Hình 1.2. Bốn hệ thống phong cách Quản trị theo Liker
Likert đã nhận thấy rằng các nhà quản trị áp dụng cách tiếp cận theo hệ thống 4
vào các hoạt động của mình đã thu được thành công lớn nhất với tư cách là người chỉ
huy. Hơn thế nữa ông lưu ý rằng các bộ phận và các công ty được quản lý bằng cách
tiếp cận theo hệ thống 4 đã có kết quả tốt nhất trong việc đặt ra các mục tiêu và đạt
được chúng và nói chung hiệu quả hơn. Ông cho rằng sự thành công này chủ yếu là do
phạm vi tham gia trong quản lý và phạm vi mà trong đó cách thực hành hỗ trợ cấp
dưới duy trì.
3. Ô bàn cờ quản trị
Một trong những cách tiếp cận được biết đến nhiều nhất để thể hiện các phong
cách lãnh đạo là ô bàn cờ quản trị do Robert Blake và Jane Mouton đề xuất vào
năm 1954. Dựa trên nghiên cứu về tầm quan trọng của mối quan tâm của nhà quản
trị đối với cả vấn đề sản xuất lẫn con người, Blake và Mouton đã tìm ra giải pháp
để thể hiện mối quan tâm đó. Ô bàn cờ quản trị đã được sử dụng như là một
phương tiện huấn luyện quản lý và để xác định những cách phối hợp khác nhau của
các phong cách lãnh đạo.
Ô bàn cờ có 2 chiều, quan tâm tới con người và quan tâm tới sản xuất. Theo các
tác giả, khái niệm ‘quan tâm tới’ nhằm diễn đạt việc các nhà quản trị quan tâm như
thế nào đối với sản xuất (công việc) hay đối với con người.
Sự quan tâm tới sản xuất bao gồm các thái độ của nhà quản trị đối với những
vấn đề như chất lượng của các quyết định, các dịch vụ tham mưu, hiệu quả công
tác và khối lượng sản phẩm.
Sự quan tâm tới con người bao gồm những yếu tố như mức độ của sự cam kết
cá nhân đối với việc đạt được mục tiêu, duy trì lòng tự trọng của nhân viên, việc
giao trách nhiệm dựa trên cơ sở sự tin cậy hơn là sự phục tùng, việc chuẩn bị các
điều kiện làm việc tốt, duy trì sự thoả mãn các mối quan hệ giữa con người.
Blake và Mouton thừa nhận bốn phong cách cực đoan cơ bản:
- Phong cách 1.1: các nhà quản trị quan tâm rất ít đến con người và sản xuất, và
tham gia tối thiểu trong công việc của họ, xét theo mọi ý nghĩa và mục đích. Họ bỏ
mặc công việc, dẫm chân tại chỗ và hành động như những người báo tin đem các
thông tin từ cấp trên xuống cho cấp dưới.
- Phong cách 9.9: là những người thể hiện trong các hành động của họ sự hiến
dâng cao nhất có thể được cho cả con người lẫn sản xuất. Họ là các ‘nhà quản lý đồng
đội’thực sự có khả năng nối kết được các nhu cầu sản xuất của một cơ sở với các nhu
cầu cá nhân.
- Phong cách 1.9: các nhà quản lý rất ít hoặc không quan tâm gì cả đến sản xuất
khuyến khích một môi trường trong đó mỗi người đều thoải mái, thân ái và hạnh phúc,
không ai quan tâm đến việc đem hết cố gắng phối hợp để thực hiện các mục tiêu của
cơ sở.
- Phong cách 9.1: cách nhà quản lý chỉ quan tâm đến việc triển khai một hoạt
động có hiệu quả, họ có ít hoặc không quan tâm đến con người và họ hoàn toàn
chuyên quyền trong phong cách lãnh đạo của họ.
Bằng cách sử dụng bốn phong cách cực đoan đó, mọi kỹ thuật, cách tiếp cận
hay phong cách quản lý đều có thể đặt được vào một chỗ nào đó trong ô bàn cờ. Rõ
ràng các nhà quản lý theo phong cách 5.5 quan tâm vừa phải đối với sản xuấtvà đối với
con người. Họ nhận được một mức tinh thần và sản xuất thích hợp, nhưng không nỗi
bật. Họ không đặt các mục tiêu quá cao và có thái độ khá rộng lượng đối với con
người. Ô bàn cờ quản trị là giải pháp hữu ích để xác định và phân loại các phong cách
quản trị khác nhau.
Nhiều nghiên cứu khác đã cho rằng phong cách lãnh đạo của nhà quản trị còn
cần phải thích ứng với các tình huống cụ thể. Họ coi lãnh đạo bao gồm hàng loạt
phong cách từ phong cách tập trung cao vào thủ trưởng đến kiểu tập trung cao vào cấp
dưới. Nó thay đổi theo mức quyền hạn mà một nhà lãnh đạo trao cho cấp dưới. Họ cho
rằng một phong cách lãnh đạo tốt phải phù hợp với các điều kiện tình huống và các cá
nhân.
4. Phong cách lãnh đạo của Fiedler
Theo Fiedler, phong cách lãnh đạo được coi như một yếu tố bẩm sinh và do đó,
rất khó thay đổi. Có hai phong cách lãnh đạo chính:
(1) Phong cách lãnh đạo định hướng vào quan hệ.
(2) phong cách lãnh đạo định hướng vào nhiệm vụ.
(1) - Phong cách lãnh đạo định hướng vào quan hệ là nhà lãnh đạo có phong
cách tương tự như phong cách lãnh đạo chú trng tới con người. Nhà lãnh đạo theo
phong cách này luôn quan tâm tới nhân viên, chú trọng vào các mối quan hệ con
người, nhạy cảm với những biến đổi tình cảm cùa nhân viên và tạo điều kiện cho
nhân viên tham gia ra quyết định.
(2) - Phong cách lãnh đạo định hướng vào nhiệm vụ là nhà lãnh đạo có phong
cách tương tự như phong cách lãnh đạo chú trọng tới công việc. Nhà lành đạo có
phong cách này luôn chú trọng vào giám sát chặt chẽ những người dưới quyền,
quan tâm tới cấu trúc công việc. Ông ta là người không quan tâm đến các môi quan
hệ con người trong công việc, mà chì muôn công việc được hoàn thành và không
quan tâm đến suy nghĩ của nhân viên về phong cách lãnh đạo cùa ông ta.
4.1. Các biến số tình huống
Fiedler cho rằng hiệu quả cùa phong cách lãnh đạo phụ thuộc vào tinh huống,
mức độ thuận lợi hay bất lợi của tình huống được xác định dựa trên ba biến sô:
1) Các mối quan hệ giữa nhà lãnh đạo và nhân viên.
2) Cấu trúc cùa công việc.
3) Quyền hạn chính thức của nhà lãnh đạo.
4.1.1 - Các mối quan hệ giữa nhà lãnh đạo và nhân viên xác định mức độ mà nhà
lãnh đạo được nhóm chấp nhận. Đây là yếu tố quan trọng nhất, quyết định tính hiệu
quả của nhà lãnh đạo.
Một nhà lãnh đạo có mối quan hệ tốt với nhân viên dưới quyền và có đủ khả
năng, năng lực chuyên môn có thể không phải phụ thuộc nhiều vào quyền lực
chinh thức trong khi tiến hành công việc. Ngược lại, nếu nhà lãnh đạo không được
nhân viên kinh phục, thì phải dựa vào quyền lực chính thức, quyền ép buộc... đế
thúc ép mi người làm việc.
Như vậy, nếu mối quan hệ này tốt thì sẽ rất dê dàng cho nhà lãnh đạo trong việc
chi huy và tổ chức cấp dưới thực hiện công việc. Nếu mối quan hệ này xấu thi nhà
lãnh đạo sẽ gặp nhiều khó khăn trong công việc cùa mình.
4.1.2 – Cấu trúc của công việc là mức độ cụ thề hóa công việc. Cấu trúc của công
việc thể hiện trên các phương diện:
(1) Mức độ tiêu chuẩn hóa về thành tích cần đạt tói có rõ ràng chưa?
(2) Cách thức để tiên hành công việc có cụ thể và rõ ràng không?
(3) Quy trình thủ tục hoạt động chuẩn của cõng việc đã được xác lập chưa.
(4) Công việc có đòi hòi cao vé tinh sáng tạo không?
Những công việc hàng ngày thường được xác định cụ thể và rõ ràng về mức
thành tích, cách thức tiến hành, trình tự và không có những yêu cầu cao về tính
sáng tạo. Trái lại, những cõng việc phức tạp vả lâu dài thì thường có rất nhiều giải
pháp để thực hiện chúng. Do đó, không thể có nhưng chỉ dẫn rõ ràng hay chi đơn
thuần dựa vào kinh nghiệm đề thực hiện chúng, mà đòi hòi phải có tính sáng tạo
cao và xác lập nhưng quy trình riêng cho từng công việc.
4.1.3 - Quyền lực chính thức của nhà lãnh đạo là quyền hạn do chức vụ mà nhà
lãnh đạo đảm nhiệm mang lại, bao gồm phạm vi, mức độ mà nhà lãnh đạo thực thi
quyền đưa ra các mệnh lệnh, quyền yêu cầu người khác tuân thủ (ép buộc) và quyền
thưởng phạt.
4.2 - Những hạn chế cùa mô hình lãnh đạo Fiedler
Mô hình lãnh dạo Fiedler có những hạn chế như sau:
(1) Các biến số tình huống là rất phức tạp và khó xác định. Việc đo lường các mối
quan hệ giữa nhà lãnh đao và cấp dưới, cấu trúc của nhiệm vu và quyền lực chính
thức rất khó đàm bảo tính khách quan.
(2) Mô hình không đê cập tới những điểm đác trưng của nhân viên như: kỹ năng, tay
nghé, trình độ chuyên môn...
(3) Mô hình cho rằng nhà lãnh đạo có đủ những kỹ năng cần thiết để tập hợp mọi nỗ
lực của nhãn viên. Song nếu nhà lãnh đạo thiếu những kỹ năng lãnh đạo cần thiết,
không được mọi người kính trọng hay tin tưởng, thì các biên số tình huống trở nên
vô nghĩa.
(4) Fiedler cho rằng, một nhà lãnh đạo có nhưng yếu tố bẩm sinh ổn định và không
thể dễ dàng thay đổi phong cách lãnh đạo của bản thân cho phù hợp với một tình
huống nào đó. Khi phong cách của nhã lãnh đạo và tình huống không phù hợp với
nhau, thì tinh huống cần được thay đổi cho phù hợp với phong cách của nhà lãnh
đạo. Tuy nhiên, đây là một nhận định không thực tế.
Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng mô hình ngầu nhiên cùa Fiedler là một
đóng góp rất to lớn về mặt phương pháp luận. Bởi nó đã vạch ra một hướng nghiên
cứu mới về lãnh đạo: cần xem xét kỹ lưỡng tình huống trước khi cô gắng tìm ra phong
cách lãnh đạo thích hợp. Do đó theo Fiedler. chúng ta không thể nhận định rằng một
nhà lãnh đạo nào đó là tốt hay xấu, mà chỉ có thể két luận là phong cách lãnh đạo đó
có phủ hợp với tình huống hay không. Phương án hiệu quả là nên chọn nhà lãnh đạo
có phong cách phủ hợp vói tình huống, trước khi đòi hỏi nhà quản trị thay đổi phong
cách lãnh đạo.
5. PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI
Trong những năm gần đây, nhiều nhà lãnh đạo Đông - Tây cho rằng ho sẽ phải
thực hiện nhiều thay đổi quan trọng trong cách thức quản lý công ty để tồn tại và phát
triển. Những thay đổi đó giúp hình thành một phong cách lãnh đạo mới được gọi là
phong cách lãnh đạo đối mới.
1 - Thúc dẩy tập thể nhân viên dưới quyền
Lãnh đạo đổi mới là lãnh đạo bằng cách thúc đẩy nhân viên thõng qua sự kích
thích các ý tưởng sáng tạo và các giá trị tinh thần của nhân viên, cũng như khuyến
khích sự tìm tòi những phương pháp mới để giải quyết vấn đề. Trong hệ thống thư bậc
nhu cầu của Maslow thì những nhu cầu này thuộc những nhu cầu bậc cao. Khi nhân
viên được thúc đẩy, họ cảm thấy tin cậy, khám phục, trang thành và kính trng nhà lãnh
đạo và sẽ nỗ lực nhiều hơn trong công việc. Nhà lãnh đạo có thể thúc đẩy cấp dưới
bằng cách giúp họ nhận thức rõ ràng vé tầm quan trọng, giá trị của những công việc và
tạo điều kiện cho h thỏa mãn những sở thích riêng trong doanh nghiệp.
2 - Thái độ của nhà lãnh dạo đổi mới
Dường như những đặc trưng về thái độ của các nhà lãnh đạo đồi mới đã được
các nhà nghiên cứu tái tạo từ các yếu tó bẩm sinh cùa lý thuyết lãnh đạo bầm sinh. Tuy
nhiên, đáy là sự phát triển mang tính kế thừa. Các nhà lãnh đạo đổi mói thành công có
những đặc trưng sau:
- Chính họ là tác nhân cùa sự đổi mới.
- Có thái độ chấp nhận sự thách thức và xử lý tốt mi rủi ro.
- Tin tưởng vào con người và nhạy cảm với các nhu cầu của cấp dưới.
- Có khả năng truyền thông hiệu quà và tin tưởng vào trực giác.
Những cá tính này kết hợp với các kỹ năng lãnh đạo cốt lõi (đã đề cập trong các
phẩn trước) sẽ đảm bảo cho sự thành công của các nhà lãnh đạo.
Ngoài ra, vượt lên trên tất cả là sự thể hiện một nhà lãnh đạo hành động. Các
nhà lãnh đạo đổi mới tiến hành những hoạt động góp phần thay đổi chiều hướng phát
triển của tổ chức. Những hoạt động này được coi là sự kết hợp giữa ba giai đoạn: (1)
nhận diện nhu cầu đối với sự thay đổi; (2) tạo tầm nhìn mới và (3) thể chế hóa sự thay
đổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Quản trị học – (Tác giả: TS. Nguyễn Thành Hội và TS. Phan Thăng), Biên
soạn: Nguyễn Hải Sản, NXB Thống kê 2005.
[2] Bài giảng Quản Trị Học – (Chủ biên: TS. GVC. Cảnh Chí Hoàng), Trường
ĐH Tài chính Marketing, Khoa quản trị kinh Doanh.
[3] Bài Giảng Nhập môn Quản Trị Học – (Giảng viên: Trần Thị Ái Cẩm), Thư
viện Đại Học Nha Trang, 2022.