You are on page 1of 181

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TRONG LĨNH
VỰC KINH DOANH THƯƠNG MẠI

SỐ
STT NỘI DUNG TÓM TẮT
TRANG
Bản án số: 03/2021/KDTM-ST ngày: 18/01/2021 Về việc tranh
chấp hợp đồng dịch vụ
(Hợp đồng khám sức khỏe cho nhân viên công ty)
Nội dung vụ án:
Ngày 05/7/2018, Công ty TNHH MTV Khám chữa bệnh Đa khoa PH
(gọi tắt Công ty PH) và Công ty TNHH Dịch vụ D (gọi tắt là Công ty D)
ký hợp đồng dịch vụ số 37/HĐKSK-CTPH.2018 về việc khám sức khỏe
cho nhân viên công ty D. Ngày 07/7/2018 việc khám sức khỏe đã được
Công ty PH thực hiện xong với tổng số tiền là 31.204.500 đồng. Ngày
09/7/2018 Công ty PH đã xuất hóa đơn GTGT số 0000650 cho Công ty
D, đã bàn giao hóa đơn có lập giấy xác nhận với Công ty D, đã thanh lý
hợp đồng, bảng tổng hợp kết quả khám sức khỏe cùng 71 sổ khám sức
khỏe định kỳ cho Công ty D theo đúng thỏa thuận hợp đồng. Công ty PH
nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng Công ty D chưa thanh toán tiền cho
Công ty PH theo thỏa thuận. Công ty PH khởi kiện yêu cầu Công ty D trả
cho Công ty PH số tiền gốc là 31.204.500 đồng và tiền lãi phát sinh chậm
trả theo mức lãi suất 0,83%/tháng tính từ ngày 10/8/2018 đến ngày
11/01/2021 là 7.510.923 đồng. Tổng cộng là 38.715.423 đồng
Nhận định của Tòa án:
1. - Đối với nợ gốc: Các bên thừa nhận nợ và Công ty D mong muốn được 01-05
chia khoản nợ trả trong 4 kỳ.Yêu cầu này của công ty D không được Công
ty PH chấp nhận. Công ty D thừa nhận nợ nên căn cứ quy định tại khoản
2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự đây là tính tiết không phải chứng minh.
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty PH buộc Công
ty D phải trả cho Công ty PH số tiền gốc 31.204.500 đồng.
- Đối với nợ lãi: Công ty PH yêu cầu Công ty D trả tiền lãi trên số tiền
chậm trả 31.204.500 đồng theo mức lãi suất 0,83%/tháng là thấp hơn mức
lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán.
Công ty PH yêu cầu tính lãi từ ngày 10/8/2018 đến ngày 11/01/2021 là
29 tháng. Xét yêu cầu của nguyên đơn tính tiền lãi làm tròn 29 tháng và
mức lãi suất 0,83%/tháng là có lợi hơn cho Công ty D nên Hội đồng xét
xử chấp nhận. Số tiền lãi tính đến ngày 11/01/2021 là 31.204.500 đồng x
0,83%/tháng x 29 tháng = 7.510.000 đồng. Tổng cộng gốc và lãi là
38.715.423 đồng.
Tòa án nhân dân quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Công ty TNHH MTV Khám chữa
bệnh Đa khoa PH. Buộc bị đơn Công ty TNHH Dịch vụ D có trách nhiệm
trả cho Công ty TNHH MTV Khám chữa bệnh Đa khoa PH số tiền là
38.715.423 đồng.
Bản án số: 12/2021/KDTM-PT Ngày 05-02-2021 V/v Tranh chấp
hợp đồng dịch vụ.
2. 06-16
(Hợp đồng dịch vụ xử lý nước thải)
Nội dung vụ án:
Ngày 01/9/2014, Công ty trách nhiệm hữu hạn R (sau đây gọi tắt là Công
ty R) và Công ty cổ phần P1 (sau đây gọi tắt là I) ký kết Hợp đồng dịch
vụ xử lý nước thải số 63/HĐ-XLNT (sau đây gọi tắt là Hợp đồng số 63),
kèm theo hợp đồng là Phụ lục 01 và 02. Theo đó, I sẽ xử lý nước thải của
Công ty R xả vào hệ thống xử lý nước thải của I đạt tiêu chuẩn trước khi
xả thải ra môi trường. Hợp đồng được thực hiện từ khi ký kết đến cuối
tháng 11/2017 thì Công ty R phát hiện I tính phí xử lý nước thải của năm
2017 sai quy định. Từ tháng 01 đến tháng 10/2017, I đã tính phí xử lý nước
thải vượt mức quy định số tiền 431.358.850 đồng. Ngày 09/8/2018, Công
ty R và I ký Phụ lục số 01, theo đó nâng giá cơ bản xử lý nước thải lên 7.677
đồng/m3. Công ty R thừa nhận giá trị pháp lý của Hợp đồng số 63 nhưng
không thừa nhận giá trị pháp lý của Phụ lục ngày 09/8/2018 kèm theo hợp
đồng này bởi vì Phụ lục này do ông K ký mà không được sự ủy quyền của
người đại diện theo pháp luật của Công ty. Công ty R yêu cầu I trả lại số
tiền phí xử lý nước thải đã thanh toán vượt mức trong năm 2017 là
431.358.850 đồng.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày
27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Tây Ninh đã
quyết định: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm
hữu hạn R về việc yêu cầu Công ty cổ phần P1 hoàn trả số tiền
431.358.850 đồng.
Ngày 08/9/2020, Công ty trách nhiệm hữu hạn R có đơn kháng cáo yêu
cầu cấp phúc thẩm giải quyết đưa UBND tỉnh Tây Ninh tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; đề nghị chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; chỉ chấp nhận một phần
yêu cầu phản tố của bị đơn về việc tính giá dịch vụ xử lý nước thải theo
chỉ tiêu COD, bác yêu cầu phản tố của bị đơn về việc chấm dứt thực hiện
Hợp đồng xử lý nước thải số 63/HĐ-XLNT và các Phụ lục kèm theo.
Nhận định của Tòa án:
- Ngày 01/9/2014, Công ty R (người ký là ông Wu Zhen Yu- Giám đốc)
và I ký kết hợp đồng dịch vụ xử lý nước thải số 63/HĐ-XLNT, kèm theo
hợp đồng là Phụ lục 01 và 02; các đương sự thống nhất thừa nhận giá trị
pháp lý của hợp đồng và 2 phụ lục kèm theo hợp đồng này. Thực tế 2 bên THCTT
THC
đã thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng đến tháng 10/2017 mà
không phát sinh tranh chấp. THC T
- Xét phụ lục hợp đồng, Công ty R kháng cáo cho rằng Phụ lục hợp đồng
số 01 là không có giá trị pháp lý do ông Chung Quốc K không có thẩm
quyền ký, Hội đồng xét xử xét thấy tại BL 107 ông Chung Quốc K được
giám đốc Công ty R ủy quyền ký hợp đồng kinh tế; Phụ lục hợp đồng là
một phần của hợp đồng và không thể tách rời hợp đồng nên việc ông K ký
Phụ lục hợp đồng đối với Hợp đồng số 63 là nằm trong phạm vi ủy quyền
của mình. Việc thỏa thuận điều chỉnh giá xử lý nước thải cơ bản lên 7.677
đồng/m3 phù hợp với Công văn số 1707/LS-XD-TC ngày 27/6/2018 của
liên sở Xây dựng- Tài chính về việc thỏa thuận giá dịch vụ thoát nước tại
nhà máy xử lý nước thải tập trung Khu công nghiệp T công suất 7.500
m3/ngày.đêm. Công ty R và I thỏa thuận điều chỉnh giá phù hợp với nhu
cầu thực tế, trên cơ sở tinh thần tự nguyện thỏa thuận, không trái quy định
của pháp luật. Ngoài ra, kể từ khi ký Phụ lục hợp đồng này, 2 bên đã tiến
hành tính phí theo giá mới, phía Công ty R không có văn bản nào phản
hồi về việc ông K không có thẩm quyền ký Phụ lục hợp đồng. Do đó, Phụ
lục hợp đồng trên là có giá trị pháp lý và không có căn cứ chấp nhận kháng
cáo này của Công ty R.
Tòa án nhân dân quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của của Công ty trách nhiệm hữu hạn R. Giữ
nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST
ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã T.
Bản án số 02/2021/KDTM-ST ngày 23/03/2021 Về việc tranh chấp
hợp đồng dịch vụ
(Hợp đồng dịch vụ bảo vệ )
Nội dung vụ án:
Công ty TNHH H (gọi tắt là Công ty H) và Công ty Công ty TNHH MTV
Dịch vụ bảo vệ - Vệ sĩ T (gọi tắt là Công ty T) có thỏa thuận thống nhất
ký kết các hợp đồng dịch vụ bảo vệ từ ngày 30/6/2017 đến ngày
14/9/2019, cụ thể gồm: Hợp đồng số 77/HĐBV ngày 14/9/2016, Hợp
đồng số 53/HĐBV ngày 14/9/2017, Hợp đồng số 53/HĐBV ngày
14/3/2018, Hợp đồng số 53/HĐBV ngày 14/9/2018, Hợp đồng số
40/HĐBV ngày 02/12/2017, và Hợp đồng số 40/HĐBV ngày 02/6/2018.
Tổng cộng phí dịch vụ bảo vệ là 345.600.000 đồng.
Tính đến ngày 04/11/2019, Công ty H đã thanh toán được số tiền
179.000.000 đồng, đến nay còn nợ lại số tiền 166.600.000 đồng. Nay,
3. Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ - Vệ sĩ T yêu cầu Công ty TNHH 17-22
H thanh toán số tiền phí dịch vụ bảo vệ còn nợ là 166.600.000 đồng.
Tòa án nhân dân nhận định:
Việc ký kết các hợp đồng trên giữa Công ty T và Công ty H được lập
thành văn bản, do người có thẩm quyền của hai Công ty đại diện ký kết,
sự thỏa thuận giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, tuân thủ các quy định
của pháp luật khi giao kết hợp đồng nên làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ giữa các bên. Quá trình thực hiện hợp đồng, bên Công ty T cho rằng
đã có cung cấp dịch vụ bảo vệ đảm bảo theo như thỏa thuận trong các
hợp đồng đã ký kết, nhưng Công ty H còn nợ dịch vụ bảo vệ số tiền
166.600.000 đồng. Về phía Công ty H có văn bản thừa nhận còn nợ Công
ty T 166.000.000 đồng, không có ý kiến hay tài liệu chứng cứ gì thể hiện
bên Công ty T không thực hiện đúng hợp đồng
Tòa án nhân dân tuyên:
Buộc Công ty TNHH H có trách nhiệm thanh toán số tiền nợ phí dịch vụ
bảo vệ 166.600.000 đồng.
Bản án số: 07/2021/KDTM-PT ngày 12 - 4 – 2021 Về việc tranh
chấp hợp đồng dịch vụ
(Hợp đồng dịch vụ giao nhận, vận chuyển hàng hóa)
Nội dung vụ án:
Ngày 18/4/2019 Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Con Ong (gọi tắt là
4. Công ty Con Ong ) và Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam 23-33
(gọi tắt là Công ty Gleeco) ký hợp đồng dịch vụ giao nhận, vận chuyển
hàng hóa số 1904005. Công ty Con ong đã cung ứng các dịch vụ cho Công
ty Gleeco từ tháng 5/2019 đến tháng 10/2019 (cụ thể vận chuyển hàng
hóa của Công ty Gleeco từ địa chỉ của Công ty Gleeco đến cảng và ngược
lại) theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Công ty Gleeco đã thanh toán
tiền cước dịch vụ đến hết tháng 7/2019 và chậm thanh toán số tiền của
Tháng 8+9+10/2019 liên quan tới 06 hóa đơn điện tử số 0018020,
0018021, 0020249, 0020250, 0022311 và 0022312 là 941.980.67 đồng
(trong đó phí dịch vụ là 889.837.756 đồng, phí chi trả hộ là 52.142.914
đồng. Ngày 10/10/2019 Công ty Gleeco đã trả cho Công ty Con ong
500.000.000 đồng. Nay Công ty Con Ong khởi kiện yêu cầu Công ty
Gleeco phải trả số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 15/8/2020 là
581.003.635 đồng, (trong đó nợ gốc là 539.531.199 đồng, nợ lãi là
41.472.436 đồng (lãi suất 0,03%/ngày)
- Tại Bản án số: 06/2020/KDTM-ST ngày 27/10/2020 của Tòa án nhân
dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã xử Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Con Ong, buộc: Công
ty TNHH May quốc tế Gleeco Việt Nam phải có nghĩa vụ thanh toán cho
Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Con Ong số tiền tính đến ngày 15
tháng 8 năm 2020 là 586.533.293 đồng, trong đó nợ gốc 539.531.199
đồng, nợ lãi 47.002.094 đồng
- Ngày 30/11/2020 Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam đã
có đơn kháng cáo toàn bộ đối với Bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm bác đơn khởi kiện.
Nhận định của Tòa án:
Việc ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, các điều
khoản của Hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và hai
bên đều thừa nhận. Quá trình thực hiện Hợp đồng, nguyên đơn đã cung
ứng các dịch vụ giao nhận hàng hóa cho bị đơn từ tháng 5 đến tháng
10/2019. Nguyên đơn đã chi trả phí dịch vụ (tiền cước dịch vụ và phí chi
trả hộ) cho bị đơn từ tháng 5/2019 đến tháng 10/2019. Từ tháng 5 đến
tháng 7/2019 bị đơn đã thanh toán xong. Số tiền phí dịch vụ của tháng
8,9,10/2019, nguyên đơn đã phát hành hóa đơn điện tử gửi tới bị đơn là
số 0018020 ngày 31/8/2019, 0018021 ngày 31/8/2019, 0020249 ngày
30/9/2019, 0020250 ngày 30/9/2019, 0022311 ngày 31/10/2019 và
0022312 ngày 31/10/2019; kèm bảng kê chi tiết thì số tiền Cước phí giao
nhận, vận chuyển, Phí chi hộ Công ty Gleeco phải trả cho nguyên đơn là
941.980.670 đồng (trong đó có 889.837.756 đồng là phí giao nhận, vận
chuyển, 52.142.914 đồng là phí chi trả hộ). Bị đơn xác nhận đã nhận được
các hóa đơn này và không có ý kiến về số tiền ghi trên các hóa đơn.
Trong quá trình tố tụng, nguyên đơn, bị đơn cùng xác nhận: Ngày
10/10/2019 bị đơn thanh toán cho nguyên đơn 500.000.000 đồng và được
trừ vào tiền nợ tháng 7/2019 là 97.550.529 đồng, còn lại 402.449.471
đồng trừ vào phí dịch vụ tháng 8/2019. Số tiền nợ còn lại của tháng
8+9+10/2019 bị đơn chưa thanh toán là 539.531.199 đồng (trong đó phí
dịch vụ là 487.388.285 đồng và phí chi trả hộ là 52.142.914 đồng).
- Số tiền lãi chậm trả tính từ ngày 01/11/2019 đến ngày 15/8/2020; cụ
thể: 41.472.436 đồng (của T8,9,10 với lãi suất thỏa thuận tại phiên tòa
sơ thẩm là 0,03%)
- Đối với các hóa đơn số 0018020, 0018021, 0020249 và 0020250 mà
nguyên đơn phát hàng sai theo quy định của Bộ tài chính; các hóa đơn
dịch vụ phí chi trả hộ tháng 10/2020 Công ty Gleeco chưa nhận được mà
chỉ nhận được bảng kê số tiền phí chi trả hộ của tháng 10/2019. Bảng kê
số tiền phí chi trả hộ của tháng 10/2019 là 11.350.000 đồng bị đơn đã
nhận được. Tại tòa cấp sơ thẩm nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ hóa đơn
phí trả hộ tháng 10/2019 phù hợp với số tiền ghi trong bảng kê.
Tòa án nhân dân quyết định:
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco
Việt Nam. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 06/2020/KDTM-ST ngày 27
tháng 10 năm 2020, Quyết định sửa chữa bổ sung Bản án sơ thẩm số
02/2020/QĐ-SCBSBA ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện An
Dương, thành phố Hải Phòng, cụ thể như sau: Buộc Công ty TNHH May
quốc tế Gleeco Việt Nam phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Cổ
phần Giao nhận Vận tải Con Ong số tiền tính đến ngày 15 tháng 8 năm
2020 là 581.003.635 đồng (Năm trăm tám mươi mốt triệu không trăm
không ba nghìn sáu trăm ba mươi lăm đồng), trong đó nợ gốc 539.531.199
đồng, nợ lãi 41.472.436 đồng.
Bản án số: 75/2021/KDTM-PT Ngày: 29/4/2021 Về việc tranh chấp
hợp đồng dịch vụ
(Hợp đồng dịch vụ thu, đòi bồi thường từ bên thứ ba)
Nội dung sự việc:
- Ngày 25/10/2010 Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T và Công ty
TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q (tên trước đây là Tổng
Công ty xăng dầu Q) đã ký kết Hợp đồng dịch vụ thu đòi bồi thường từ
người thứ ba số 009/MIPECORP-TMS/2010. Theo đó Công ty Xăng dầu
Q đã thuê Công ty Hàng hải T đòi bồi thường từ người thứ ba là Chủ tàu
Vinashin 1 đối với thiệt hại hàng hóa chở trên tàu Thiên Tân ALCI thuộc
phần trách nhiệm bồi thường của Chủ tàu Vinasshin 1 trong tai nạn đâm
va giữa tàu Vinashin 1 và tàu Thiên Tân ALCI ngày 12/4/2009.
- Ngày 15/12/2010 Công ty Hàng hải T và Công ty Xăng dầu Q tiếp tục
ký Phụ lục hợp đồng số 01-009/MIPECORP-TMS/2010. Theo đó Công
ty Xăng dầu Q tiếp tục thuê Công ty T đòi bồi thường từ người thứ ba là
Chủ tàu Thiên Tân ALCI đối với phần tổn thất hàng hóa thuộc trách nhiệm
bồi thường của Chủ tàu Thiên Tân ALCI.
5. Thực hiện hợp đồng, Công ty Hàng hải T đã nghiên cứu hồ sơ vụ việc, 34-45
khiếu nại các bên liên quan, soạn thảo đơn khởi kiện, tư vấn chuẩn bị hồ
sơ liên quan để Công ty Xăng dầu Q khởi kiện vụ án ra Tòa án, đồng thời
Công ty Hàng hải T cử người nhận ủy quyền của Công ty Xăng dầu Q để
tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân các cấp có thẩm quyền.
+ Ngày 05/12/2012, Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội đã ra
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên Tòa số:
25/2012/QĐST-DS; theo nội dung của Quyết định này thì Công ty TNHH
MTV vận tải Viễn dương Vinashin bồi thường cho Công ty Xăng dầu Q
số tiền là: 4.800.000.000 đồng.
+ Ngày 14/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố H ra bản án phúc thẩm
số 31/2015/KDTM-PT; theo nội dung của bản án này thì Công ty cổ phần
vận tải biển và thương mại Thiên Tân phải bồi thường cho Công ty Xăng
dầu Q số tiền là: 4.273.316.430 đồng.
Công ty Hàng hải T đã nhận 1.019.000.000 đồng sau ngày 17/09/2012.
Công ty Hàng hải T đã nhiều lần gửi văn bản đề nghị Công ty Xăng dầu
Q thanh toán phí dịch vụ nhưng cho đến nay Công ty Hàng hải T vẫn chưa
nhận được thanh toán. Đại diện nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc Công ty
Xăng dầu Q còn phải tiếp tục thanh toán tiền phí thu đòi bồi thường từ
bên thứ ba cho Công ty Hàng hải T là 2.156.660.750 đồng (1.680.000.000
đồng tương đương phí dịch vụ thu đòi là 35% tại QĐ số 25/2012/QĐST-
DS ngày 05/12/2012 của Tòa án nhân dân quận H và 1.495.660.750 đồng
tương đương phí dịch vụ thu đòi là 35% theo bản án số 31/2015/KDTM-
PT ngày 14/12/2015 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỷ lệ phí dịch vụ
được thỏa thuận trong hợp đồng).
- Bản án sơ thẩm số 41/2020/KDTM-ST ngày 07/12/2020 của Toà án
nhân dân quận H đã xử : Buộc Công ty TNHH một thành viên Tổng Công
ty xăng dầu Q phải thanh toán cho Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T
tổng số tiền là: 2.156.660.750 đồng (1.680.000.000 đồng tương đương
phí dịch vụ thu đòi là 35% tại QĐ số 25/2012/QĐST-DS ngày 05/12/2012
của Tòa án nhân dân quận H và 1.495.660.750 đồng tương đương phí
dịch vụ thu đòi là 35% theo bản án số 31/2015/KDTM-PT ngày
14/12/2015 của Tòa án nhân dân thành phố H).
- Sau khi Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm,
Công ty TNHH MTV Tổng công ty xăng dầu Q kháng cáo đối với Bản
án sơ thẩm với nội dung: đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ án sơ
thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Nhận định của Tòa án:
Theo hợp đồng và các phụ lục hợp đồng các bên đã ký thì nguyên đơn đã
thực hiện xong phần nghĩa vụ của mình nên yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn đòi bị đơn phải trả tiền dịch vụ là có căn cứ.
Việc bị đơn cho rằng tại khoản 2.1 Điều 2 của Hợp đồng 009/MIPECORP
– TMS/2010 ngày 25/10/2010 quy định: “ Phí dịch vụ thu đòi bồi thường
được tính theo nguyên tắc – không đòi được tiền không phải trả phí” và
do hiện nay bị đơn chưa thu được tiền từ Công ty Viễn dương Vinashin
và Công ty cổ phần vận tải biển và thương mại Thiên Tân nên chưa phát
sinh nghĩa vụ trả phí là không đúng và không có cơ sở chấp nhận bởi lẽ:
Căn cứ vào hợp đồng và các phụ lục hợp đồng mà nguyên đơn và bị đơn
ký với nhau thì nguyên đơn đã thực hiện các công việc cần thiết và đã
hoàn thành khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có
thẩm quyền.
Việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn là Tổng Công ty xăng dầu Q phải
trả nguyên đơn số tiền phí dịch vụ là 2.156.660.750 đồng theo hợp đồng
hai bên đã ký là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Tòa án nhân dân quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T.
Buộc Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q phải thanh
toán cho Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T tổng số tiền là:
2.156.660.750 đồng.
Bản án số: 15/2019/KDTM - ST Ngày: 19/02/2020 Về việc tranh chấp
hợp đồng dịch vụ bảo vệ
(Hợp đồng dịch vụ bảo vệ)
Nội dung vụ án:
6. 46-53
Ngày 22/10/2018, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ
sĩ TL (Sau đay viết tắt là Công ty TL) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn F
(Sau đay viết tắt là Công ty F) đã ký kết Hợp đồng dịch vụ bảo vệ số
0129/2018/BVTL. Tổng giá trị 01 tháng dự kiến là: 45.000 đồng x 24 giờ
x 05 vị trí x 30 ngày = 162.000.000 đồng giá trên chưa bao gồm thuế
VAT. Phí dịch vụ 04 ngày tết tính 300% phí các ngày lễ trong năm tính
200% . Thời hạn hợp đồng bắt đầu thực hiện kể từ ngày 22/10/2018 đến
hết ngày 21/01/2019.
- Công ty F đã thanh toán cho Công ty TL ngày 30/11/2018 Công ty F đã
thanh toán số tiền phí dịch vụ của tháng 10/2018 là: 59.400.000 đồng. Sau
đó Công ty F đã không thanh toán cho Công ty TL thêm nữa. Công ty TL
có tổng hợp hóa đơn và yêu cầu thanh toán nhưng Công ty F vẫn không
thanh toán. Công ty TL yêu cầu công ty F thanh toán phí dịch vụ tháng
10,11,12/2018 và tháng 01, 02/2019 mà Công ty F phải thanh toán cho
Công Ty TL tổng cộng là 540.540.000 đồng. Đã trả 59.400.000 đồng;
Còn nợ: 481.140.000 đồng và tiền phạt chậm thanh toán (tính đến hết
ngày 31/8/2019) là 50.067.000 đồng. Tổng cộng là: 531.207.000 đồng.
Kể từ ngày 01/9/2019, Công ty F còn tiếp tục phải chịu tiền phạt chậm
thanh toán trên số tiền phí dịch vụ 481.140.000 đồng theo mức 0,05%/01
ngày kể từ ngày 01/9/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ
481.140.000 đồng.
Nhận định của Tòa án:
Công ty F yêu cầu Công ty TL phải đảm trách về an ninh tại 05 vị trí trong
khuôn viên của Công ty F và việc trả phí cho việc bảo vệ căn cứ vào số
giờ làm việc của nhân viên bảo vệ chứ không phải căn cứ vào vị trí được
bảo vệ để tính phí dịch vụ như yêu cầu của Công ty TL. Căn cứ vào bảng
chấm công đối với các nhân viên bảo vệ của Công ty TL cử đến làm nhiệm
vụ thì phí dịch vụ chưa trả của các tháng 11, 12/2018 và các tháng 01,
02/2019 được tính lại như sau:
Tháng 11: Ca ngày 147 công (người), Ca đêm 62 công (người). Mỗi ca
12 giờ làm việc. Như vậy số tiền phải trả là: (147 + 62) x 12h x 45.000 =
112.860.000 đồng + 10% thuế VAT = 124.146.000 đồng.
Tháng 12: Ca ngày 111 công (người), Ca đêm 62 công (người). Mỗi ca
12 giờ làm việc. Như vậy số tiền phải trả là: (111 + 62) x 12h x 45.000 =
93.420.000 đồng + 10% thuế VAT = 102.764.000 đồng.
Tháng 01: Ca ngày 97 công (người), Ca đêm 62 công (người). Mỗi ca
12 giờ làm việc. Như vậy số tiền phải trả là: (97 + 62) x 12h x 45.000 =
84.780.000 đồng + 10% thuế VAT = 93.258.000 đồng.
Tháng 02: Ca ngày 52 công (người), Ca đêm 31 công (người). Mỗi ca
12 giờ làm việc.
Trong tháng này có 04 ngày nghỉ tết âm lịch gồm: Ngày 04/02/2019 có
02 người ca ngày, 02 người ca đêm; Ngày 05/02/2019 có 02 người ca này,
01 người ca đêm. Ngày 06/02/2019 có 02 người ca ngày, 01 người ca
đêm. Ngày 07/02/2019 có 02 người ca ngày, 01 người ca đêm. Tổng số
tiền phí dịch vụ của 04 ngày nghỉ tết là: 13 x 12 x 45.000 x 300% =
21.600.000 đồng + 10% thuế VAT = 23.700.000 đồng.Như vậy số tiền
phí dịch vụ phải trả của tháng 02/2019 là: (52 + 31 - 13) x 12h x 45.000
= 37.80.000 đồng + 10% thuế VAT = 41.580.000 đồng + 23.700.000 đồng
= 55.280.000 đồng.
Tổng số tiền phí dịch vụ chưa thanh toán là: 375.448.000 đồng.
- Sau khi Công ty F không thanh toán tiền phí dịch vụ của các tháng
11,12/2018 và 01,02/2019 Công ty TL không có ý kiến gì về việc chậm
thanh toán, nhưng vẫn cử người đến thực hiện nhiệm vụ đến hết ngày
20/02/2019. Mặt khác đến ngày 06/3/2019 Công ty TL mới gửi công văn
nhắc nợ lần 2, ngày 07/03/2019 thì Công ty F mới có công Văn trả lời.
Như vậy xác định trong suốt thời gian từ ngày 30/11/2018 đến hết ngày
06/3/2019 Công ty TL mặc nhiên đồng ý cho Công ty F chậm trả. Do đó
thời gian chậm trả được xác định là ngày 07/3/2019. Do đó tiền lãi chậm
trả tính từ ngày 07/3/2019 đến ngày 06/02/2020 là 375.448.000 đồng x
0,05%/ngày (tương đương 1,5%/tháng và tương đương 18%/năm) x 11
tháng = 61.949.000 đồng.
- Tổng số tiền Công ty F phải trả cho Công ty TL tính đến hết ngày
06/02/2020 là: 375.448.000 đồng + 61.949.000 đồng = 437.397.000
đồng.
Tòa án nhân dân quyết định:
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn F phải thanh toán cho Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL tổng số tiền tính đến
hết ngày 06/02/2019 là 437.397.000 đồng…
Bản án số: 05/2020/KDTM-ST Ngày: 05/5/2020 Về việc tranh chấp
hợp đồng cung ứng dịch vụ
(Hợp đồng cung ứng dịch vụ: cung cấp suất ăn)
Nội dung sự việc:
- Ngày 01/12/2015 DNTN LH (gọi tắt là doanh nghiệp LH) có ký hợp
đồng kinh tế số 01/HĐKT-YK/LH với Công ty TNHH may XH (gọi tắt
là công ty Xuân Hiếu) với nội dung: Doanh nghiệp LH cung cấp suất ăn
công nghiệp cho Công ty XH, mỗi xuất ăn có giá là 13.000 đồng (đã bao
gồm VAT). Trong qúa trình thực hiện hợp đồng, Doanh nghiệp LH đã
cung cấp suất ăn cho Công ty XH với tổng giá trị hợp đồng là
7.271.841.163 đồng, Công ty XH đã thanh toán cho Doanh nghiệp LH số
tiền là 5.590.000.000 đồng. Tháng 3 năm 2019 Doanh nghiệp LH và Công
ty XH đã có bản đối chiếu và xác nhận lại công nợ, Công ty XH còn phải
thanh toán số tiền 1.681.841.163 đồng thời hạn thanh toán chậm nhất
trước ngày 15/4/2019. Sau khi hai bên có bảng đối chiếu xác nhận công
nợ. Ngày 08/3/2019 Công ty XH đã thanh toán cho Doanh nghiệp LH số
7. tiền 50.000.000 đồng, số tiền còn lại đến nay chưa thanh toán. DNTN LH 54-58
yêu cầu Công ty XH phải trả số tiền gốc là 1.681.841.163 đồng và tiền lãi
tạm tính đến ngày 31/12/2019 là 260 ngày, mức lãi suất 12%/năm thành
tiền 141.426.234 đồng.
Tổng cộng: 1.773.267.397 đồng
Tòa án nhân dân nhận định:
Hợp đồng được các bên ký kết phù hợp với quy định của pháp luật hiện
hành nên phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Bị đơn Công ty XH không
tham gia tố tụng, xem như từ bỏ quyền chứng minh, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình tại phiên tòa. Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn về việc buộc bị đơn phải trả số tiền cung cấp suất ăn công nghiệp
chưa thanh toán là 1.681.841.163 đồng là có cơ sở chấp nhận. Về tiền lãi
DN LH yêu cầu rút lại tiền lãi nên HĐXX không xem xét.
Tòa án nhân dân quyết định:
… Buộc Công ty TNHH may XH có trách nhiệm trả cho bà NTT – Chủ
Doanh nghiệp tư nhân LH số tiền cung cấp suất ăn công nghiệp chưa
thanh toán là 1.681.841.163 đồng
Bản án số: 04/2020/KDTM-PT ngày 21-5-2020 Về việc tranh chấp
hợp đồng dịch vụ
(Hợp đồng dịch vụ về cung cấp, giám sát lắp đặt hệ thống quan trắc
chất lượng nước thải tự động)
Nội dung sự việc:
Ngày 17-8-2016, Công ty Cổ phần T1 ký kết hợp đồng số 10/HĐB-2016
về việc cung cấp, giám sát lắp đặt hệ thống quan trắc chất lượng nước thải
tự động với Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 (viết tắt là Công ty T2),
tổng giá trị của hợp đồng là 362.000.000 đồng, đã bao gồm thuế giá trị
gia tăng. Ngày 25-11-2016, đại diện theo pháp luật của 02 Công ty đã ký
kết biên bản nghiệm thu hoàn thành đưa vào sử dụng. Theo quy định tại
Điều 4 của hợp đồng thì Công ty T2 sẽ thanh toán cho Công ty T1 giá trị
còn lại của hợp đồng là 36.200.000 đồng trong vòng 10 ngày kể từ ngày
nghiệm thu hệ thống. Tuy nhiên, hai bên đã thống nhất sẽ giữ lại số tiền
36.200.000 đồng còn lại để đảm bảo bảo hành theo quy định hợp đồng.
Sau khi hết thời hạn bảo hành nêu trên nhưng Công ty T2 vẫn chưa thanh
toán số tiền còn lại là 36.200.000 đồng cho Công ty T1. Công ty T1 đã
nhiều lần gửi công văn đề nghị Công ty T2 thanh toán nhưng đến nay
Công ty T2 vẫn chưa thanh toán.
Đại diện Công ty T1 yêu cầu Công ty T2 thanh toán cho Công ty T1 các
khoản tiền như sau: số tiền 36.200.000 đồng; số tiền phạt do chậm trả là
2%/ tổng giá trị hợp đồng theo hợp đồng là 7.240.000 đồng; số tiền lãi
chậm trả tính từ ngày 05-12-2016 đến ngày 31-8-2019 theo lãi suất của
Ngân hàng Vietcombank là 36.200.000 đồng x 1.000 ngày x 6,8% : 365
8. = 6.744.110 đồng. Tổng cộng là 50.184.110 đồng. 59-65
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn rút 01 phần yêu cầu khởi kiện về
phạt vi phạm do chậm trả là 4.344.000 đồng, chỉ yêu cầu trả số tiền
2.896.000 đồng; tiền lãi chậm trả 6.744.110 đồng, chỉ còn yêu cầu trả số
tiền 4.828.782 đồng. Tổng cộng 7.724.782 đồng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/KDTM-ST ngày 03 tháng 12 năm
2019 của Tòa án nhân dân huyện T3, tỉnh T đã quyết định Công ty Trách
nhiệm hữu hạn T2 có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Cổ phần T1 số
tiền 43.924.782 đồng (36.200.000 đồng tiền HĐ + 2.896.000 đồng phạt
chậm trả + 4.828.782 đồng lãi chậm trả). Ngày 06-12-2019, Công ty T2
kháng cáo yêu cầu bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hủy
toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tòa án nhận định:
Tại phiên tòa phúc thẩm Công ty T2 cho rằng Công ty T1 vi phạm Điều
2 của hợp đồng, tuy nhiên Điều 2 hợp đồng chỉ thể hiện điều kiện kỹ thuật
của sản phẩm lắp đặt là “Đảm bảo các thiết bị đo đạc và quan trắc được
các thông số, chỉ tiêu ổn định, liên tục và tự động truyền dữ liệu về máy
tính” (bút lục 31). Tại biên bản nghiệm thu hoàn thành đưa vào sử dụng
(bút lục 05-06) thể hiện Công ty T1 đã lắp đặt đúng thiết bị ký kết và kết
quả hoạt đồng bình thường, ổn định; Công ty T2 cho rằng Công ty T1 có
trách nhiệm kết nối các thiết bị lắp đặt truyền dữ liệu về máy tính trung
tâm. Mặt khác, Công ty T2 cũng cho rằng 02 Công ty thỏa thuận miệng
Công ty T2 mua thiết bị lắp đặt, Công ty T1 sẽ cài đặt phầm mềm hiển thị
số liệu lên hệ thống đo và toàn bộ số liệu sẽ được kết nối với Sở Tài
nguyên môi trường nhưng Công ty T1 vẫn chưa thực hiện nhưng không
được Công ty T1 thừa nhận Công ty T2 không có cung cấp được chứng
cứ chứng minh lời trình bày trên là có cơ sở. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty T2 thanh toán
số tiền đợt 3 là 36.200.000đ, tiền phạt vi phạm hợp đồng là 2.896.000
đồng, tiền lãi là 4.828.782 đồng. Tổng cộng 43.924.782 đồng là phù hợp.
Tòa án nhân dân quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần T1 về tranh chấp “Hợp
đồng dịch vụ” đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2. Tổng cộng Công
ty Trách nhiệm hữu hạn T2 có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty Cổ phần
T1 số tiền 43.924.782 đồng.
Bản án số: 11/2020/KDTM-ST ngày: 23/ 06 /2020 Về tranh chấp hợp
đồng dịch vụ
(Hợp đồng dịch vụ vệ sinh tòa nhà)
Nội dung vụ án:
Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ và công ty Cổ phần Đầu tư
HD đã ký kết Hợp đồng cung cấp dịch vụ vệ sinh từ ngày 15/06/2018 đến
ngày 20/06/2019 số 06 HDDV TTT TD-DIN UN 6.2018 ký ngày
14/06/2018. Ngày 12/07/2019, hai bên đã tiến hành ký Biên bản đối chiếu
công nợ xác nhận số tiền Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ nợ
Công ty Cổ phần Đầu tư HD là 653.803.894 VNĐ.
Ngày 20 7 2019, Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ đã nhận Công
văn số 104 2019 CV-DIN UN đề ngày 19 7 2019 của Công ty Cổ phần
Đầu tư HD về việc yêu cầu thanh toán công nợ nhưng vẫn không được
thanh toán. Công ty Cổ phần Đầu Tư HD khởi kiện yêu cầu Công ty
TNHH trung tâm thương mại TĐ phải thanh toán một lần số tiền:
653.803.894 đồng tiền gốc và tiền lãi tính đến ngày 14/ 02/2020 là :
27.619.597 đồng
9. Tòa án nhận định: 66-75
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, các bên đều thống nhất xác nhận
giữa Công ty Cổ phần Đầu Tư HD và Công ty TNHH trung tâm thương
mại TĐ đã ký kết hợp đồng đồng ngày 14/6/2018 về việc duy trì dịch vụ
vệ sinh tại Toà nhà TTT TĐ Plaza. Căn cứ biên bản đối chiếu công nợ thì
Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ còn nợ Công ty Cổ phần Đầu
Tư HD số tiền là: 653.803.894 đồng. Ngoài ra tại biên bản hòa giải đại
diện theo ủy quyền thừa nhận Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ
còn nợ Công ty Cổ phần Đầu Tư HD số tiền là: 653.803.894 đồng.
Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn tự nguyện áp dụng lãi suất trong
trường hợp hai bên không có thỏa thuận là 8% năm, thời điểm tính lãi
được tính từ ngày đối chiếu công nợ.( từ ngày 12/7/2019 – 22/06/2020)
là 49.868.220 đồng là sự tự nguyện của nguyên đơn, không trái pháp luật.
Tòa án quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của Công ty Cổ phần Đầu tư HD: Buộc Công ty
TNHH trung tâm thương mại TĐ phải thanh toán cho Công ty Cổ phần
Đầu tư HD với tổng số tiền là 704.364.728 đồng bao gồm: 653.803.894
đồng tiền gốc và 49.868.220 đồng tiền lãi.
Bản án số: 34/2020/KDTM ST ngày: 30/9/2020 Về việc tranh chấp
hợp đồng Dịch vụ
10 76-80
(Hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ)
Nội dung sự việc:
Ngày 06/01/2010 Công ty TNHH PB và Công ty TNHH kinh doanh dịch
vụ bất động sản TN có ký hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ số
136/HĐBV/2010. Thời gian bắt đầu triển khai lực lượng bảo vệ là ngày
06/01/2010 là 02 vị trí 24/24 giờ và ngày 09/01/2010 là 01 vị trí 24/24
giờ. Phí dịch vụ tháng 01/2010 là 18.870.967 đồng, từ tháng 02/2010 phí
dịch vụ là 23.400.000 đồng. Đến ngày 04/3/2010 hai bên thỏa thuận ký
phụ lục hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ số 136/PLHDDBV01/2010 với
nội dung cụ thể như sau: Thay đổi số nhân viên bảo vệ còn lại 01 vị trí
24/24 và 01 ca 08 giờ kể từ ngày 04/3/2010. Phí bảo vệ 10.400.000
đồng/tháng bắt đầu từ 04/3/2010. Công ty PB đã thực hiện đúng theo hợp
đồng và phụ lục hợp đồng. Tính đến tháng 7/2010 phí dịch vụ tổng cộng
là 102.630.564 đồng, phía Công ty TN mới thanh toán 18.000.000 đồng
còn thiếu số tiền 84.630.564 đồng. Ngày 05/9/2011 Công ty PB khởi kiện
yêu cầu Tòa án buộc Công ty TN phải trả toàn bộ số tiền phí dịch vụ còn
thiếu là 84.630.564 đồng cùng với tiền lãi chậm trả tính đến ngày
31/8/2011 là 61.868.321 đồng. Tính đến ngày 30/9/2020 phải thanh toán
cho Công ty PB số tiền 162.067.530 đồng trong đó tiền phí dịch vụ còn
thiếu là 84.630.564 đồng và tiền lãi chậm thanh toán là 77.436.966 đồng.
Nhận định của Tòa án:
Xét Công ty PB và Công ty TN có ký hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ.
Hợp đồng do người đại diện theo pháp luật ký tên, đóng dấu công ty phù
hợp với qui định. Phía bị đơn đã được thông báo thụ lý nhưng không có
ý kiến phản đối chứng tỏ có giao dịch về hợp đồng dịch vụ bảo vệ và chưa
trả tiền thuê dịch vụ đúng như nguyên đơn trình bày. Nguyên đơn thừa
nhận đã nhận được 18.000.000 đồng phí bảo vệ tháng 01/2010 từ bị đơn,
số tiền bị đơn còn thiếu là 84.630.564 đồng. Xét hợp đồng ngày
06/01/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 04/3/2010 thì tháng 01/2010 phí
dịch vụ là 18.870.967 đồng, từ tháng 02/2010 phí dịch vụ là 23.400.000
đồng, từ tháng 3/2010 phí dịch vụ là 10.400.000 đồng chưa tính VAT.
Công ty PB cung cấp dịch vụ đầy đủ theo yêu cầu của bị đơn từ tháng
1/2010 đến 15/8/2010, hàng tháng đều gởi thông báo và hóa đơn tính tiền
cho Công ty TN nhưng không nhận được phản hồi về hóa đơn tính tiền
cũng như không nhận được tiền phí dịch vụ. Có cơ sở xác định bị đơn còn
thiếu nguyên đơn 84.630.564 đồng tiền phí dịch vụ. Nguyên đơn chỉ yêu
cầu trả lãi 9%/năm thấp hơn lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường
hiện nay là có lợi cho bị đơn nên chấp nhận.
Tòa án quyết định:
Chấp nhận yêu cầu thanh toán tiền phí dịch vụ của nguyên đơn Công ty
TNHH PB: Buộc Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN
thanh toán cho Công ty TNHH PB số tiền 162.067.530 đồng trong đó tiền
phí dịch vụ còn thiếu là 84.630.564 đồng và tiền lãi chậm thanh toán là
77.436.966 đồng...
Bản án số: 02/2019/KDTM-PT ngày: 03/5/2019 Về việc tranh chấp
hợp đồng dịch vụ
(Hợp đồng quản lý đường thủy nội địa số 4)
11 Nội dung vụ án: 81-88
Ngày 21/2/2012 Công ty số 4 và Chi nhánh Công ty cổ phần Cảng N giao
kết hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT, giá trị hợp đồng 3.800.000.000 đồng.
Ngày 7/11/2012 hai bên giao kết phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ với nội
dung điều chỉnh hợp đồng lên 7.563.614.000 đồng. Ngày 31/10/2013 ký
tiếp phụ lục HĐ số 02/PLHĐ về việc điều chỉnh giá trị hợp đồng lên
8.728.152.000 đồng. Ngày 30/6/2014 hai bên đối chiếu, xác nhận công
nợ phía Chi nhánh công ty N còn nợ Đoạn số 4 số tiền là 3.620.138.000
đồng. Nay Công ty số 4 yêu cầu Công ty cổ phần Cảng N trả nợ số tiền
3.620.138.000 đồng và lãi suất tính từ ngày 02/02/2017 đến ngày xét xử
với lãi suất 7,5%/ năm và tiếp tục trả lãi với mức lãi suất 7,5%/ năm cho
đến khi trả hết nợ.
Tại bản án số 06/2018/KDTM-ST ngày 18/9/2018 của Tòa án nhân dân
thành phố N, tỉnh Ninh Bình đã xử Buộc Công ty cổ phần cảng N trả cho
Công ty số 4 số tiền là: 4.062.850.000 đồng. Trong đó nợ gốc là:
3.620.138.000 đồng, nợ lãi là: 442.712.000 đồng.
- Ngày 26/9/2018 Công ty cổ phần cảng N có đơn kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm với lý do hợp đồng không có chữ ký của người có đủ thẩm
quyền, không có sự uỷ quyền của người có đủ thẩm quyền nên không đảm
bảo tính pháp lý; Hồ sơ thanh toán của nguyên đơn không đảm bảo điều
kiện để thanh toán theo quy định của pháp luật đối với nhà thầu phụ.
Tòa án nhận định:
Căn cứ hợp đồng kinh tế số 16/2011/HĐKT ngày 23/12/2011 giữa Ban
quản lý dự án đường sắt khu vực 1 (bên A) và Công ty N (bên B) ( Nay
là Công ty cổ phần cảng N) về việc đảm bảo giao thông đường thuỷ. Khi
ký hợp đồng bên B người nhận uỷ quyền là ông Nguyễn Thanh H, giám
đốc Chi nhánh Công ty N cùng ký hợp đồng (theo giấy uỷ quyền số
400/UQ-HĐKT ngày 19/12/2011 của Tổng giám đốc Công ty N ).
Ngày 21/02/2012 Chi nhánh Công ty N, người đại diện theo pháp luật là
ông Nguyễn Thanh H có ký hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT với Đoạn quản
lý số 4 ( nay là Công ty số 4) về việc Điều tiết khống chế đảm bảo an toàn
giao thông đường thuỷ khu vực thi công xây dựng mới cầu đường bộ Thị
Cầu, sửa chữa gia cố cải tạo cầu Thị Cầu. Giá trị hợp đồng là 3,8 tỷ đồng.
Ngày 7/12/2012 ký phụ lục hợp đồng số 01 lên 7.567.614.000 đồng. Ngày
31/10/2013 hai bên ký phụ lục hợp đồng lên 8.728.152.000đ đã bao gồm
thuế VAT. Quá trình thực hiện hợp đồng Đoạn quản lý số 4 đã thực hiện
đúng theo hợp đồng và công trình đã được nghiệm thu đưa vào hoạt động
từ năm 2013. Ngày 30/6/2014 hai bên đối chiếu công nợ phía Chi nhánh
Công ty N còn nợ Đoạn quản lý số 4 số tiền là 3.620.138.000 đồng
Chi nhánh Công ty N được thành lập theo Giấy CNĐKKD số 0116001059
do Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp lần đầu ngày
13/11/2008, là người được uỷ quyền của Công ty cổ phần cảng N thực
hiện hợp đồng kinh tế được ký kết giữa Ban quản lý dự án đường sắt 1 và
Công ty cổ phần cảng N. Quá trình thực hiện hợp đồng phía Công ty số 4
đã thực hiện đúng theo hợp đồng và công trình đã được nghiệm thu đưa
vào sử dụng, phía Ban quản lý dự án đường sắt 1 cũng đã trả hết số tiền
theo hợp đồng cho Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N, do vậy Công ty
cổ phần cảng N phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ cho Công ty
số 4.
Ông Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần cảng N đã chấp thuận báo cáo tài
chính Công ty cổ phần cảng N các năm 2012, 2013, 2014 do Cục thuế
tỉnh cung cấp cho Toà án. Do vậy toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Công ty số 4 đối với bị đơn là Công ty cổ phần cảng N là
đúng.
Tòa án quyết định:
Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2018/KDTM-ST ngày 18/9/2018 của
Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
Bản án số: 08/2019/KDTM-PT ngày 23-5-2019 về việc tranh chấp
hợp đồng dịch vụ pháp lý
(Hợp đồng dịch vụ pháp lý)
Nội dung vụ án:
- Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A (sau đây viết tắt là Công ty Luật
A) và Công ty Cổ phần Thương mại TP (sau đây viết tắt là Công ty TP)
ký kết Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017
và Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20-2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 .
-Thực hiện Hợp đồng DVPL số 10 Công ty Luật A tư vấn pháp luật, nhận
ủy quyền của Công ty TP tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân huyện An
Dương, thành phố Hải Phòng giải quyết tranh chấp Hợp đồng đối với ông
Lê Văn Yên. Công ty TP thanh toán cho Công ty Luật A thù lao cố
định là 10.000.000 đồng. Ngày 18/6/2018, Công ty Luật A nhận được văn
bản thông báo chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý. Ngày 23/6/2018, Công
ty Luật A có văn bản về việc Công ty TP vi phạm hợp đồng do đơn
phương chấm dứt hợp đồng và phải thanh toán số tiền bằng 45% thù lao
theo kết quả giải quyết công việc (đã bao gồm thuế giá trị gia tăng
(GTGT)) là: (45% x 287.397.855 đồng) + 10% x (45% x 287.397.855
đồng) = 142.261.938 đồng. (287.397.855 đồng là số tiền kết quả giải
quyết công việc)
- Thực hiện Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/HĐDV-MT ngày
12 15/6/2017, Công ty Luật A tư vấn pháp luật, nhận ủy quyền tham gia tố
tụng tại Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng giải quyết tranh 89-97
chấp Hợp đồng giao khoán giữa Công ty TP với Công ty Cổ phần Thương
mại và Đầu tư xây dựng Tt. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự số 01/2018/QĐST-KDTM ngày 25/01/2018 với nội dung: Buộc
Công ty Tt phải thanh toán 150.000.000 đồng trước ngày 31/5/2018,
thanh toán đợt 02 là 150.000.000 đồng trước ngày 31/8/2018. Tuy nhiên,
Công ty TP chưa thanh toán thù lao cố định là 15.000.000 đồng và thù lao
theo kết quả giải quyết công việc. Ngày 23/6/2018, Công ty Luật A có
Văn bản số 99/2018/CV-MT thông báo về việc vi phạm nghĩa vụ thanh
toán của Công ty TP theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/HĐDV-
MT ngày 15/6/2017 với số tiền là: Tiền thù lao cố định 15.000.000 đồng
+ Tiền thù lao giải quyết công việc (45% x 150.000.000 đồng) + Tiền thuế
GTGT (10% x 45% x 150.000.000 đồng) = 90.750.000 đồng.
- Tổng cộng, Công ty Luật A yêu cầu buộc Công ty TP phải thanh toán
tổng số tiền là 233.011.938 đồng theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số
10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017 và Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20-
2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 với phương pháp xác định nêu trên
Tại Bản án số 07/2018/KDTM-ST ngày 20/11/2018, Tòa án nhân dân
quận H quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn và buộc Công ty Cố phần Thương mại TP phải thanh toán cho Công
ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A số tiền thù lao của Hợp đồng dịch vụ pháp
lý số 20/2017/ HĐDV-MT ngày 15 tháng 6 tháng 2017 là
82.500.000đồng. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công
ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A đối với số tiền 150.511.000 đồng về việc
thanh toán thù lao giải quyết công việc theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số
10/2017/HĐDV-MT ngày 28 tháng 4 năm 2017 và tiền thuế giá trị gia
tăng của hai hợp đồng dịch vụ pháp lý nêu trên.
- Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 06/12/2018, nguyên đơn Công ty Luật A
kháng cáo một phần bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm: Buộc
bị đơn thanh toán tiền thuế GTGT tính trên số tiền thù lao cố định và thù
lao trên kết quả công việc phát sinh từ hợp đồng số 20/2017/HĐDV-MT
ngày 15/6/2017 là 8.250.000 đồng. Buộc bị đơn thanh toán số tiền
142.261.938 đồng phát sinh từ hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng
dịch vụ pháp lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017.
Nhận định của Tòa án:
- Đối với yêu cầu thanh toán tiền thuế GTGT tính trên số tiền thù lao cố
định và thù lao trên kết quả công việc: Thuế GTGT là một loại thuế gián
thu cho nên Công ty TP là người tiêu dùng dịch vụ pháp lý nên phải là
người phải chịu thuế. Công ty A là người có trách nhiệm nộp thuế cho
Nhà nước. Hơn nữa, theo thỏa thuận tại khoản 3 Điều 4 của Hợp đồng số
20/2017/HĐDV-MT số tiền thuế GTGT theo 02 Hóa đơn số 370 ngày
12/6/2018 và Hóa đơn số 349 ngày 22/7/2018 với số tiền là 8.250.000
đồng Công ty TP phải thanh toán cho Công ty Luật A là đúng nên kháng
cáo của nguyên đơn được chấp nhận.
- Đối với tiền thù lao: Công ty Luật A căn cứ trên số tiền 287.397.855
đồng theo như Đơn khởi kiện ngày 14/6/2017 đối với ông Lê Văn Yên để
tính số tiền số tiền thù lao kết quả công việc là không có cơ sở. Bởi lẽ; vì
đây chỉ là số tiền nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông Lê Văn Yên phải thanh
toán và chưa được Tòa án chấp nhận. Hơn nữa, tại Bản án số 04/2018/DS-
ST ngày 17/8/2018, Tòa án nhân dân huyện An Dương chỉ buộc ông Lê
Văn Yên phải trả Công ty TP số tiền 148.309.720 đồng và bản án đã có
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại ông Lê Văn Yên
chưa thanh toán được một khoản tiền nào cho Công ty TP. Như vậy, Công
ty TP chưa nhận được tiền từ ông Lê Văn Y và cũng không xác định được
số tiền mà Công TP nhận được từ ông Lê Văn Y theo như thỏa thuận tại
khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017
nên không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn.
Tòa án quyết định:
Sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 07/2018/KDTM- ST ngày
20 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hải
Phòng….Buộc Công ty Cổ phần Thương mại TP phải thanh toán cho
Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A số tiền 8.250.000 đồng thuế Giá trị
gia tăng theo 02 Hóa đơn Giá trị gia tăng.
Bản án số: 02/2019/KDTM-ST ngày: 14/6/2019 Về việc tranh chấp
hợp đồng dịch vụ- thử nghiệm.
(Hợp đồng về việc thử nghiệm xây dựng trong phòng và ngoài hiện
trường)
13 Nội dung sự việc: 98-103
Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp ủy quyền cho chi nhánh là
Trung tâm thử nghiệm và kiểm định chất lượng xây dựng BMC-DT (bên A)
ký hợp đồng số 03/HĐTN ngày 07/8/2015 với công ty cổ phần C 12 (bên
B) về việc thử nghiệm xây dựng trong phòng và ngoài hiện trường chỉ tiêu
vật liệu cho bê tông xi măng, vữa, thép, bu lông,…phục vụ thi công công
trình. Giá trị tạm tính 108.000.000 đồng, giá chưa bao gồm thuế VAT (bằng
60% tổng khối lượng theo đề cương thử nghiệm ngày 22/7/2015). Trong
suốt quá trình thực hiện thử nghiệm V L X D công trình, hai bên đã tiến
hành xác nhận khối lượng thực hiện và giá trị thử nghiệm để lập biên bản
đối chiếu chi tiết giá trị thực hiện qua các giai đoạn. Tổng giá trị bên A thực
hiện cho bên B là: 54.583.100 đồng. Bên B chưa thanh toán cho bên A bất
cứ số tiền nào trên giá trị đã thực hiện. Công ty cổ phần X L và V L X D
Đồng Tháp yêu cầu Công ty cổ phần C 12 phải thanh toán dứt điểm cho
Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp số tiền thực hiện thử nghiệm
là 54.583.100 đồng, lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo mức lãi suất
0,83%/tháng, từ ngày 25/5/2017 đến ngày 14/6/2019 là 10.903.155 đồng,
tổng cộng tiền nợ gốc và lãi là 65.486.200 đồng và trả lãi ở giai đoạn thi
hành án theo mức lãi 0,83%/tháng cho đến khi trả xong.
Tòa án nhân định:
- Xét yêu C khởi kiện của Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp về
việc yêu cầu Công ty cổ phần C 12 phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công
ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp số tiền thực hiện thử nghiệm, kiểm
tra chất lượng công trình là 54.583.100 đồng và lãi chậm thực hiện nghĩa
vụ thanh toán với mức lãi suất 0,83%/tháng, từ ngày 25/5/2017 (ngày liền
kề của ngày xuất hóa đơn) đến ngày 14/6/2019 (ngày xét xử sơ thẩm)
10.903.155 đồng thấy phù hợp bởi:Theo hợp đồng thử nghiệm số
03/HĐTN ngày 07/8/2015 và lời khai của đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn tại phiên tòa cho thấy giữa hai bên có giao dịch hợp đồng thử
nghiệm. Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp đã thực hiện phần
việc của mình xong theo hợp đồng đồng thời hai bên có tiến hành ký nghiệm
thu xác nhận khối lượng, giá trị hoàn thành. Tuy nhiên, cho đến nay Công
ty cổ phần C 12 không thực hiện hoàn trả là vi phạm nghĩa vụ thanh toán
trong hợp đồng quy định tại điều 85 Luật thương mại.
Tòa án quyết định:
Chấp nhận yêu C khởi kiện của Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng
Tháp. Buộc Công ty cổ phần C 12 phải có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ
phần X L và V L X D Đồng Tháp số tiền dịch vụ 54.583.100 đồng và lãi
10.903.155 đồng.Tổng cộng 65.486.255 đồng.
Bản án số: 01/2019/KDTM-ST ngày 18-6-2019 Về việc tranh chấp
hợp đồng cung ứng dịch vụ.
(Hợp đồng dịch vụ xếp dỡ, giao nhận, bảo quản hàng hoá xuất
nhập khẩu qua Cảng Hải Phòng)
Nội dung sự việc:
Ngày 01/02/2016, Công ty Cảng H, Công ty Cảng Hoàng D và Công ty
14 Nguyên H có ký hợp đồng số 0170.16/VP/HDN ngày 04/01/2016 và phụ
lục hợp đồng số 01/0170.16/VP/PLHĐ ngày 01/02/2016. Công ty Cảng 104-110
Hoàng D đã tiến hành cung cấp các dịch vụ xếp dỡ, giao nhận, bảo quản
hàng hoá cho Công ty Nguyên H theo hợp đồng đã ký. Quá trình thực
hiện hợp đồng, Công ty Nguyên H còn nợ Công ty Cảng Hoàng D số tiền
gốc là 98.158.580 đồng. Ngày 27/9/2017, Công ty Nguyên H ký xác nhận
nợ Công ty Cảng Hoàng D và cam kết thanh toán vào các tháng 10, 11,
12 năm 2017. Sau đó, Công ty Nguyên H đã trả được cho Công ty Cảng
Hoàng D số tiền 5.000.000 đồng, và còn nợ 93.158.580 đồng. Công ty
Cảng Hoàng D khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc Công ty Nguyên
H phải trả cho Công ty Cảng Hoàng D số tiền nợ tính đến ngày 31/12/2018
là 106.200.781 đồng. Trong đó: Tiền nợ gốc: 93.158.580 đồng theo các
(06) hóa đơn, tiền nợ lãi từ tháng 01 năm 2017 đến ngày 31/12/2018
là: 13.042.201 đồng
Tòa án nhận định:
Hợp đồng xếp dỡ, giao nhận, bảo quản hàng hóa nhập/xuất qua Cảng Hải
Phòng số 0170.16/VP/HDN ngày 04 tháng 01 năm 2016 tuân thủ các quy
định của pháp luật nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Quá
trình thực hiện hợp đồng, nguyên đơn thực hiện đúng các thỏa thuận trong
hợp đồng cũng như các công việc phát sinh theo cam kết cho bị đơn; nhưng
bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận, bị đơn còn nợ nguyên
đơn số tiền tính đến ngày 31/12/2017 là 98.158.580 đồng được thể hiện
tại Biên bản xác nhận nợ số 2537 ngày 31/12/2017. Ngày 06/4/2018, bị
đơn đã thanh toán trả cho nguyên đơn số tiền 5.000.000 đồng. Các tài
liệu thể hiện theo dõi công nợ do nguyên đơn xuất trình, bị đơn còn nợ
nguyên đơn tính đến ngày 18/6/2019 là 93.158.580 đồng kèm theo 06
hóa đơn chi tiết là có cơ sở. Về phần lãi nguyên đơn đã có đơn xin rút
nên không xét đến.
Tòa án quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành
viên Cảng Hoàng D: Buộc Công ty Cổ phần Thương mại và xuất nhập
khẩu Nguyên H phải trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành
viên Cảng Hoàng D theo Hợp đồng số 0170.16/VP/HDN ngày
04/01/2016 và Phụ lục hợp đồng số 01/0170.16/VP/PLHĐ ngày
01/02/2016 số tiền nợ gốc là 93.158.580 đồng.
Bản án số: 01/2019/KDTM-ST ngày: 24-9-2019 Về việc tranh chấp
hợp đồng cung ứng dịch vụ
(Hợp đồng dịch vụ về việc cung cấp, lắp đặt thiết bị bổ sung cho line
lọc nước cấp, hệ thống xử lý nước cấp công suất 30m3/giờ)
Nội dung vụ án:
Ngày 26/3/2018 Công ty TNHH MTV X và Công ty Tr ký hợp đồng kinh
tế không số và phụ lục hợp đồng số 01.03/HĐKT-2018 về cung ứng dịch
vụ. Công ty X là bên cung ứng dịch vụ về việc cung cấp, lắp đặt thiết bị bổ
sung cho line lọc nước cấp, hệ thống xử lý nước cấp công suất 30m3/giờ
phục vụ nhu cầu cấp nước sản xuất cho Công ty TNHH XNK Thủy sản Tr,
giá trị hợp đồng là 204.600.000 đồng, thời hạn bảo hành 01 năm, thanh toán
15 tiền 04 đợt. Sau khi ký kết, Công ty Tr đã chuyển khoản cho Công ty 111-115
TNHH MTV X 102.300.000 đồng. Ngày 12/4/2018 đã lắp đặt xong thiết
bị theo hợp đồng và được nghiệm thu, nhưng số tiền còn lại chưa thanh
toán. Công ty X yêu cầu Công ty Tr tiếp tục trả nợ gốc và không yêu cầu tiền
lãi.
Tòa án nhận định:
Việc ký kết hợp đồng cung cấp, lắp đặt thiết bị xử lý nước cấp giữa Công ty
TNHH MTV X với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr là thực
tế có xảy ra. Căn cứ vào biên bản làm việc ngày 01/4/2019 giữa Công ty
TNHH Một thành viên X và Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr
thể hiện số tiền Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr còn nợ Công
ty TNHH Một thành viên X số tiền 102.300.000 đồng (bút lục số 02). Việc
chậm thanh toán tiền của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty TNHH Một thành viên X nên Công
ty X khởi kiện là có căn cứ được chấp nhận toàn bộ.
Tòa án quyết định:
…Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu thủy sản Tr do ông
Trương Trung T giám đốc Công ty đại diện, phải thanh toán 102.300.000
đồng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên X do ông Dương
Thành M giám đốc Công ty đại diện.
Bản án số: 30/2019/KDTM -ST ngày: 27-11-2019 Về việc tranh chấp
hợp đồng cung ứng dịch vụ
(Hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ)
Nội dung vụ án:
Ngày 02/11/2018, Công ty B và Công ty I ký kết hợp đồng cung ứng dịch
vụ bảo vệ số 024/HĐ-BTL/2018, theo đó Công ty B sẽ cung ứng dịch vụ
bảo vệ cho Công ty I là 01 (một) vị trí bảo vệ làm việc 24h/24h gồm có
02 (hai) nhân viên luân phiên nhau. Thời hạn của hợp đồng tính từ ngày
02/11/2018 đến ngày Công ty I kết thúc thi công công trình và công ty I
phải thông báo. Ngày 28/12/2018, công ty I có thông báo là tại công trình
xảy ra mất 02 (hai) máy laptop và cho rằng đây là trách nhiệm của công
ty B. Hai bên không hợp tác giải quyết nên xảy ra tranh chấp. Ngày
18/01/2019, ông T là chỉ huy trưởng công trình của công ty I điện thoại
trực tiếp cho ông D xuống công trình rút hết bảo vệ khỏi công trình. Nay
Công ty B yêu cầu:
- Công ty I thanh toán tiền phí dịch vụ từ tháng 12/2018 đến ngày
18/01/2019 là: 23.709.678 đồng + phạt vi phạm hợp đồng do chậm trả
01%/ngày đến ngày 30/10/2019 với số tiền là: 58.558.066 đồng
+ bồi thường là 45.000.000 đồng do chấm dứt HĐ trước thời hạn Nhận
định của Tòa án:
16 - Đối với phí dịch vụ còn thiếu: T là người đại diện theo ủy quyền của bị 116-130
đơn thừa nhận Công ty Cổ phần I vẫn chưa thanh toán phí dịch vụ bảo vệ
cho Công ty bảo vệ B từ ngày 01/12/2018 đến ngày 18/01/2019 ( 01 tháng
18 ngày) với số tiền là: 23.709.678 đồng.
- Đối với tiền phạt 1%/ngày do chậm thanh toán: quy định của pháp luật
quy dinh ve phat
chỉ cho phép các bên được phạt vi phạm không vượt quá 8% của giá trị vi pham hop
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm nhưng ở đây các bên lại thỏa thuận dong =/= dich vu
mức phạt 1%/ngày tương ứng với phí dịch vụ thanh toán trễ hạn. Thỏa thanh toan tre
thuận này không phù hợp với quy định của pháp luật. han

- Đối với yêu cầu bồi thường số tiền 45.000.000 đồng: qua kết luận giám
định đã chứng tỏ công ty bảo vệ B đã có hành vi gian dối, không trung
thực, đã tạo dựng thêm chứng cứ để khởi kiện. Công ty bảo vệ B khởi
kiện yêu cầu Công ty I phải bồi thường số tiền 45.000.000 đồng do công
chi phat vi pham
ty I đơn phương chấm dứt hợp đồng là không có cơ sở để chấp nhận. hop dong & phi
Tòa án quyết định: dich vu con thieu
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
dịch vụ bảo vệ B: Buộc Công ty Cổ phần I phải thanh toán: 23.709.678
đồng (phí dịch vụ còn thiếu) và: 1.896.774 đồng (phạt vi phạm hợp đồng
do chậm thanh toán). Tổng cộng là: 25.606.452 đồng
- Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Cổ phần I tự nguyện trả tiền lãi do
chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán phí dịch vụ bảo vệ với số tiền là:
3.162.396 đồng(Ba triệu, một trăm sáu mươi hai ngàn, ba trăm chín mươi
sáu đồng).
Bản án số: 07/2018/KDTM-ST ngày 27/02/2018 Về việc tranh chấp
Hợp đồng cung ứng dịch vụ - Hợp đồng gia công
(Hợp đồng lắp đặt điện bệnh viện, Hợp đồng cung ứng vật tư bệnh
viện)
Nội dung vụ án:
Năm 2015, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M thuê công ty Trách nhiệm
hữu hạn Xây dựng Điện P thi công hạng mục điện, nước Ủy ban nhân dân
xã T, huyện S. Ngày 26/02/2016 và 29/02/2016, Công ty Trách nhiệm
hữu hạn Xây dựng Điện P và công ty Trách nhiệm hữu hạn M đã thỏa
thuận ký hợp đồng số 2602/2016/HĐTC/CTY TNHH M-CTY ĐIỆN P
và hợp đồng số 2902/2016/HĐTC/CTY TNHH M-CTY ĐIỆN P về lắp
đặt điện và cung ứng vật tư điện Bệnh viện đa khoa P. Quá trình thực hiện
hợp đồng, công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P và công ty
Trách nhiệm hữu hạn M có quyết toán công nợ với nhau, công ty Trách
nhiệm hữu hạn M còn nợ công ty Trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện
P số tiền vật tư là 48.142.000 đồng. Tiền nhân công là 55.000.000
đồng. Tổng cộng 103.142.000 đồng, công ty Trách nhiệm hữu hạn M
không thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên ngày 21/4/2017, Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P khởi kiện đến tòa án yêu cầu công ty
Trách nhiệm hữu hạn M có nghĩa vụ trả cho công ty Trách nhiệm hữu hạn
17 Xây dựng Điện P số tiền 103.142.000 đồng và lãi suất phát sinh từ tháng 131-138
02/2016 theo lãi suất quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định là
9.900.000 đồng.
Tòa án nhận định:
Tuy nhiên, tại phiên tòa hai bên xác nhận nợ nên ông D đại diện theo pháp
luật của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P trình bày ông
biết hiện nay Công ty Trách nhiệm hữu hạn M đang gặp khó khăn về tài
chính nên ông cũng đồng ý giảm một phần tiền trong số tiền nhân công
23.142.080 đồng, không yêu cầu tiền lãi cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn M. Đối với ý kiến của nguyên đơn đồng ý giảm một phần số tiền cho
bị đơn là có lợi cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn M nên Hội đồng xét xử
xem xét chấp nhận.
Tổng cộng đối với hai khoản tiền theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
được chấp nhận nên Công ty Trách nhiệm hữu hạn M phải có trách nhiệm
thanh toán số tiền còn nợ vật tư, trang thiết bị và tiền nhân công cho phía
nguyên đơn là 80.000.000 đồng
Tòa án quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Xây dựng Điện P đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn M. Buộc Công ty
Trách nhiệm hữu hạn M có trách nhiệm trả cho Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Xây dựng Điện P số tiền 80.000.000 đồng
Bản án số: 02/2018/KDTM-ST ngày 05-11-2018 Về tranh chấp hợp
đồng cung ứng dịch vụ vận chuyển
18 (Hợp đồng dịch vụ vận chuyển và nâng hạ hàng hóa) 139-144
Nội dung vụ án:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn K (sau đây gọi tắt là K) có thực hiện dịch
vụ vận chuyển và nâng hạ hàng hóa theo yêu cầu của Công ty Cổ phần U
(sau đây gọi tắt là U). Việc thực hiện dịch vụ vận chuyển và nâng hạ hàng
hóa không được hai bên lập thành Hợp đồng mà chỉ thực hiện theo yêu
cầu bằng lời nói của công ty U. Sau khi thực hiện dịch vụ cho U theo yêu
cầu của U, K đã xuất các hóa đơn theo từng lần thực hiện dịch vụ, khối
lượng công việc K đã thực hiện cho U tổng giá trị là: 113.677.763 đồng
Sau khi K xuất các hóa đơn theo từng lần vận chuyển thì U vẫn không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Nay K yêu cầu U phải thanh toán tổng số
tiền là 200.273.538 đồng. Trong đó: số tiền thù lao dịch vụ chậm trả là
113.677.763 đồng và tiền lãi chậm trả tiền tạm tính đến ngày 31/8/2018
là 86.595.775 đồng
Nhận định của Tòa án:
- Đối với yêu cầu trả tiền dịch vụ: Các tài liệu đã thu thập được tại Cơ
quan Công an thành phố Phủ Lý xác định hợp đồng dịch vụ vận chuyển
hàng hóa xác lập giữa K và U vào năm 2013, 2014 là có thật, hoàn toàn
tự nguyện. Quá trình thực hiện hợp đồng thì K đã thực hiện đúng hợp
đồng ký kết là vận chuyển và nâng hạ hàng hóa, đồng thời cung cấp hóa
đơn chứng từ đầy đủ phù hợp. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Kđối với
khoản tiền dịch vụ mà U chưa trả là 113.677.763 đồng (tương ứng với
bốn hóa đơn đã xuất trình tại Tòa) được HĐXX chấp nhận.
- Đối với yêu cầu đòi tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán của
K: hợp đồng không thỏa thuận về trường hợp phát sinh lãi do chậm trả,
tuy nhiên, qua thu thập thông tin các liên ngân hàng. HĐXX nhận thấy lãi
suất chậm trả trung bình trên thị trường liên ngân hàng theo quy định tại
Điều 306 Luật Thương mại trong vụ án này được xác định là:
9,583x150%=14,3745%/năm (tức là 1,1979%/tháng). Xác định tổng số
tiền lãi chậm trả của bốn hóa đơn tính đến ngày xét xử sơ thẩm
(05/11/2018) là: 79.050.234 đồng.
Tòa án quyết định:
….Buộc Công ty Cổ phần U phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn K
tổng số tiền là 192.727.997 đồng (làm tròn thành 192.728.000đ). Trong
đó trả tiền thù lao dịch vụ phải thanh toán là 113.677.763 đồng, tiền lãi
do chậm thanh toán tính đến hết ngày 05/11/2018 là 79.050.234đồng và
tính tiếp lãi chậm trả theo lãi suất trung bình trên thị trường đối với số tiền
113.677.763đ đến khi án có hiệu lực pháp luật.

Bản án số: 06/2017/KDTM-ST Ngày 31-8-2017 Về việc tranh chấp


về hợp đồng cung ứng dịch vụ.
(Hợp đồng giao nhận thầu lắp đặt băng tải xiên)
Nội dung vụ án:
Ngày 08/9/2008, Công ty Cổ phần Dịch vụ Công nghiệp L (nay là Công
ty Cổ phần Dịch vụ D, gọi tắt là Công ty M1) và Công ty Cổ phần C (gọi
19 tắt là Công ty C) đã ký Hợp đồng giao nhận thầu lắp đặt số 145-151
0809/2008/HĐKT/CCIM - Li.Mis có nội dung Công ty M1 nhận thầu phụ
thực hiện phần việc “lắp đặt thiết bị băng tải xiên” thuộc gói thầu số 21.2,
Dự án nhà máy Xi măng T1 theo thiết kế của nhà thầu FCB – Cộng hòa
Ph trong phạm vi công việc của Hợp đồng số 37/2007/DAXM - CCIM
năm 2007 và Phụ lục hợp đồng số 03 năm 2008 ký giữa Ban quản lý dự
án nhà máy Xi măng T1 và Công ty C. Sau khi ký kết hợp đồng, Công ty
C đã có văn bản ủy quyền cho Công ty M1 thực hiện việc giao nhận thiết
bị, làm các thủ tục về điện, nước và các vấn đề liên quan tại công trường
trực tiếp với chủ đầu tư. Sau khi thực hiện HĐ Công ty M1 đã lập bảng
quyết toán khối lượng thi công thực tế, với tổng chi phí xây dựng là
987.680.826 đồng, hai bên xác định giá trị thanh toán đợt 1 bằng 70% giá
trị thực hiện là 691.376.578 đồng. Căn cứ vào hồ sơ thanh toán khối lượng
hoàn thành do Công ty M1, Công ty C đã lập bảng đề nghị chủ đầu tư là
Ban quản lý dự án nhà máy Xi măng T1 thanh toán toàn bộ giá trị mà
Công ty M1 đã thi công. Ngày 03 tháng 9 năm 2009, Công ty M1 cũng
đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng thanh toán giá trị khối lượng hoàn thành
đợt 1, cho Công ty C có giá trị là 987.680.826 đồng. Giá trị xây lắp trên,
Công ty C mới thanh toán cho Công ty M1 số tiền 390.000.000 đồng; số
tiền còn lại là 597.680.826 đồng. Trong đơn khởi kiện, Công ty M1 đề
nghị Tòa án buộc Công ty C phải trả cho công ty M1 số tiền nợ gốc
597.680.826 đồng và số lãi phát sinh do chậm thanh toán kể từ ngày 20
tháng 02 năm 2010 đến ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất trung bình
của ba ngân hàng thương mại.
Tòa án nhận định:
- Hợp đồng do những người có đủ thẩm quyền ký kết, không trái quy định
của pháp luật, không vi phạm điều cấm nên là cơ sở để các bên thực hiện
- Về số nợ gốc: Công ty M1 đã lập hồ sơ thanh toán ghi nhận chi phí xây
dựng là 987.680.826 đồng, giá trị thanh toán đợt 1 là 691.376.578 đồng;
hồ sơ này đã được đại diện Công ty C ký tên đóng dấu xác nhận khối
lượng. Công ty M1 đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng ghi nhận khối lượng,
trị giá xây dựng. Công ty C mới chỉ chuyển trả được cho công ty M1 số
tiền 390.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa,
Công ty M1 đã rút một phần yêu cầu khởi kiện, Công ty M1 chỉ yêu cầu
Công ty C phải thanh toán cho Công ty M1 70% giá trị xây lắp các bên
đã xác định là 691.376.578 đồng. Do Công ty C đã chuyển trả cho Công
ty M1 390.000.000 đồng. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số
tiền còn nợ lại theo giá trị thanh toán đợt 1 là 301.376.578 đồng
(691.376.578 đồng - 390.000.000 đồng) là có căn cứ chấp nhận. Việc
Công ty C xác nhận nợ nhưng có quan điểm không đồng ý trả nợ là không
có cơ sở.
- Về số nợ lãi phát sinh: Công ty M1 đã được Công ty C ủy quyền làm
việc trực tiếp với chủ đầu tư và đã thực hiện việc bàn giao các hạng mục
do Công ty M1 thi công cho chủ đầu tư vào các ngày 18 và 20 tháng 02
năm 2009. Như vậy ngày 18 và 20 tháng 02 năm 2009 cũng được coi là
ngày Công ty M1 đã bàn giao các hạng mục cho Công ty C. Sau khi hết
thời hạn bảo hành 12 tháng (từ ngày 20 tháng 02 năm 2010 trở đi), việc
Công ty C chậm thanh toán đã làm xâm hại đến quyền lợi của Công ty
M1 nên theo quy định, Công ty M1 có quyền yêu cầu trả lãi là có căn cứ.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm, Công ty C đã quá hạn thanh toán cho Công
ty M1 là 07 năm 06 tháng 11 ngày, tương đương 2646 ngày.
Lãi suất quá hạn trung bình tại thời điểm xét xử là 12,95%/năm .Do vậy
số lãi phát sinh Công ty C phải trả cho Công ty M1 là: 282.928.202 đồng
(301.376.578 đồng x 12,95%/năm x năm/365 ngày x 2646 ngày). Tổng
cộng số tiền Công ty C phải trả cho Công ty M1 là 584.304.780 đồng.
Tòa án quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc Công ty Cổ phần C
phải trả cho Công ty Cổ phần Dịch vụ D số tiền 584.304.780 đồng (Trong
đó, nợ gốc: 301.376.578 đồng; nợ lãi phát sinh: 282.928.202 đồng).
Bản án số: 13/2017/KDTM- ST ngày: 12 - 12 – 2017 Về việc tranh
chấp Hợp đồng dịch vụ sửa chữa
(Hợp đồng dịch vụ sửa chữa)
Nội dung vụ án:
Ngày 15/9/2014, Chi nhánh công ty DTVT thuộc Tổng công ty VTT (Từ
đây gọi là Nguyên đơn) và Công ty TNHH dịch vụ vận tải H (Từ đây gọi
là Bị đơn) có ký kết và thực hiện Hợp đồng số: 14 - 67/KHKTVT về việc
sửa chữa tàu. Giá trị hợp đồng tạm tính là 256.469.931 đồng. Sau khi ký
hợp đồng và triển khai công việc, ngày 25/11/2014, hai bên lập biên bản
nghiệm thu khối lượng hoàn thành và bàn giao xuất xưởng, đưa phương
tiện vào sử dụng. Hai bên lập Biên bản thanh lý Hợp đồng số: 14 -
67/TL/KHKTVT, ghi rõ: Tổng giá trị hợp đồng Nguyên đơn đã thực hiện
là 248.491.191 đồng. Ngày 02/01/2015 và ngày 10/3/2015, hai bên đã lập
biên bản đối chiếu công nợ, số tiền 255.782.791 đồng. Số tiền đối chiếu
công nợ này có 7.291.600 đồng là tiền Bị đơn nợ chưa thanh toán khi sửa
chữa tàu của hợp đồng trước đó.
Ngày 18/3/2015 Bị đơn đã thanh toán cho Nguyên đơn số tiền 80.000.000
đồng. Số tiền gốc còn nợ lại là 175.782.791 đồng. Đến nay Nguyên đơn
khởi kiện vụ án yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Bị đơn phải thanh toán
trả Nguyên đơn tiền nợ chưa thanh toán đối với Hợp đồng dịch vụ sửa
chữa tàu đẩy và 04 sà lan trên, cụ thể: Nợ gốc: 175.782.791 đồng; nợ lãi
(Từ ngày 19/3/2015 đến ngày 12/12/2017) là 76.904.971 đồng. Tổng
cộng là: 252.687.762 đồng.
20 Tòa án nhận định: 152-158
- Hợp đồng được các bên ký kết dựa trên sự thảo thuận, tự nguyện phù
hợp với quy định pháp luật nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Nguyên đơn đã thực hiện nghĩa vụ của mình bằng việc thực hiện công
việc sửa chữa theo đúng nội dung hợp đồng ký kết giữa các bên. Ngày
04/11/2014 các bên đã lập bảng tổng hợp Quyết toán sửa chữa 01 tàu
đẩy và 04 sà lan. Ngày 25/11/2014, hai bên lập biên bản nghiệm thu khối
lượng hoàn thành, Biên bản thanh lý Hợp đồng ghi rõ: Tổng giá trị hợp
đồng Nguyên đơn đã thực hiện là 248.491.191 đồng. Nhưng Bị đơn không
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn như đã thỏa thuận
trong hợp đồng dịch vụ sửa chữa đã ký, ngày 18/3/2015 mới thanh toán
cho Nguyên đơn số tiền 80.000.000 đồng.
- Về số tiền nợ hợp đồng: Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện
của Bị đơn là ông Nguyễn Công H có quan điểm Bị đơn và Nguyên đơn
chưa thực hiện việc đối chiếu công nợ và quyết toán Hợp đồng nên Bị đơn
không biết còn nợ Nguyên đơn số tiền gốc cụ thể là bao nhiêu. Quan điểm
này của Bị đơn là không có cơ sở chấp nhận vì, tại biên bản thanh lý hợp
đồng (BL 28) có chữ ký của các bên đã thể hiện tổng giá trị Hợp đồng,
biên bản đối chiếu công nợ ngày 02/01/2015 và ngày 10/3/2015 (BL 02,
53), có chữ ký của các bên. Tại mục VI của Hợp đồng số 14 - 67
KHKTVT được ký kết vào ngày 15/9/2014 giữa các bên thể hiện. Do đó,
yêu cầu của Nguyên đơn về việc trả số tiền nợ gốc là: 175.782.791 đồng
là có căn cứ nên được chấp nhận.
- Về lãi suất:
Nguyên đơn yêu cầu tính nợ lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình
liên ngân hàng, với mức lãi suất trong hạn 10,5%/năm, mức lãi suất nợ
quá hạn trung bình 15,75%/năm là có cơ sở, phù hợp với thời điểm hiện
tại (theo văn bản của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam - chi
nhánh Quảng Ninh và Ngân hàng TMCP Đông Á - Chi nhánh Quảng
Ninh). Do đó, Nguyên đơn yêu cầu tính nợ lãi theo mức lãi suất nợ quá
hạn trung bình liên ngân hàng là có căn cứ chấp nhận.
Tòa án quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Tổng công ty VTT đối với
Công ty TNHH dịch vụ vận tải H: buộc bị đơn Công ty TNHH dịch vụ
vận tải H phải có nghĩa vụ trả cho Tổng công ty VTT nợ gốc, nợ lãi là:
Tổng cộng: 252.687.762 đồng.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN NK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ CT

Bản án số: 03/2021/KDTM-ST


Ngày: 18/01/2021
V/v Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NK
- Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mỹ T
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Nguyễn Thị Thanh H
2. Bà Đỗ Thị Lệ H
Thư ký ghi biên bản phiên tòa: Bà Võ An T – Thư ký Tòa án nhân
dân quận NK.
Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận NK, tiến
hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số
46/2020/TLST- KDTM ngày 05/10/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch
vụ”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 905/2020/QĐST-KDTM ngày
30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV Khám chữa bệnh Đa khoa PH
Địa chỉ: 140, Nguyễn An Ninh, P. Tân An, Q. NK, TP. CT.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Hồ Thế P – Có mặt
Địa chỉ: 310/14A1, đường 30/4, P. Hưng Lợi, Q. NK, TP. CT.
(Văn bản ủy quyền ngày 28/12/2020)
Bị đơn: Công ty TNHH Dịch vụ D
Địa chỉ: 212, Nguyễn Văn Cừ, P. An Khánh, Q. NK, TP. CT.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Huỳnh Thị Thu N – Có mặt
(Văn bản ủy quyền ngày 18/01/2021)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 05/7/2018, Công ty TNHH MTV Khám chữa bệnh Đa khoa PH (gọi
tắt Công ty PH) và Công ty TNHH Dịch vụ D (gọi tắt là Công ty D) ký hợp đồng
dịch vụ số 37/HĐKSK-CTPH.2018 về việc khám sức khỏe cho nhân viên công
ty
D. Ngày 07/7/2018 việc khám sức khỏe đã được Công ty PH thực hiện xong
với

1 / 158
tổng số tiền là 31.204.500 đồng. Ngày 09/7/2018 Công ty PH đã xuất hóa đơn
GTGT số 0000650 cho Công ty D, đã bàn giao hóa đơn có lập giấy xác nhận với
Công ty D, đã thanh lý hợp đồng, bảng tổng hợp kết quả khám sức khỏe cùng 71
sổ khám sức khỏe định kỳ cho Công ty D theo đúng thỏa thuận hợp đồng. Công
ty PH nhiều lần yêu cầu thanh toán nhưng Công ty D chưa thanh toán tiền cho
Công ty PH theo thỏa thuận. Nay Công ty PH khởi kiện yêu cầu Công ty D trả
cho Công ty PH số tiền gốc là 31.204.500 đồng và tiền lãi phát sinh chậm trả
theo mức lãi suất 0,83%/tháng tính từ ngày 10/8/2018 đến ngày 11/01/2021 là
7.510.923 đồng. Tổng cộng là 38.715.423 đồng. Tại phiên tòa, đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Ngày 05/7/2018 Công ty D và Công ty PH có ký kết hợp đồng dịch vụ khám
chữa bệnh. Ngày 08/7/2018, Công ty D và Công ty PH có tiến hành thanh lý hợp
đồng về việc khám sức khỏe 71 nhân viên, số tiền 31.204.500 đồng. Công ty PH
đã xuất hóa đơn cho Công ty D ngày 09/7/2018. Tại thời điểm đó Công ty D xảy
ra việc bàn giao giữa kế toán cũ và mới nên có thiếu sót việc treo công nợ khách
hàng để thanh toán và thất thoát lưu giữ chứng từ. Đến thời điểm hiện tại Công ty
D gặp nhiều khó khăn do bị giảm hàng loạt đơn hàng nên không có tiền thanh toán
1 lần cho Công ty PH. Tại phiên hòa giải Công ty D đề nghị phương án trả Công
ty PH chia 04 đợt thanh toán, 01 đợt cách 01 tháng tính từ cuối tháng 11 năm 2020.
Tại phiên tòa, đại diện bị đơn thừa nhận số tiền gốc và lãi theo trình bày
của đại diện Công ty PH. Do Công ty D gặp khó khăn về tài chính nên đề nghị
Công ty PH cho Công ty D thanh toán nợ gốc theo phương án chia thành 04 kỳ
thanh toán, kỳ đầu là tháng 01/2021 và xin không trả số tiền lãi 7.510.923 đồng
cho Công ty PH.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định.
[1] Xét về thủ tục tố tụng:
- Về quan hệ pháp luật: Công ty PH khởi kiện yêu cầu Công ty D thanh
toán tiền theo thỏa thuận hợp đồng dịch vụ, các bên có đăng ký kinh doanh và
mục đích lợi nhuận. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng dịch
vụ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 30,
điểm b

2 / 158
khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân
sự 2015.
[2] Xét về nội dung:
Đối với nợ gốc: Công ty PH khởi kiện yêu cầu Công ty D thanh toán số
tiền còn nợ theo hợp đồng dịch vụ số 37/HĐKSK-CTPH.2018 ngày 05/7/2018.
Công ty PH thực hiện xong việc khám sức khỏe cho nhân viên Công ty D vào
ngày 07/7/2018 với tổng số tiền là 31.204.500 đồng. Ngày 09/7/2018 Công ty
PH đã xuất hóa đơn GTGT số 0000650 cho Công ty D, đã bàn giao hóa đơn có
lập giấy xác nhận với Công ty D, đã thanh lý hợp đồng, bảng tổng hợp kết quả
khám sức khỏe cùng 71 sổ khám sức khỏe định kỳ cho Công ty D theo đúng thỏa
thuận hợp đồng nhưng Công ty D chưa thanh toán. Đại diện Công ty D thống
nhất với Công ty PH về nội dung hợp đồng, giá trị hợp đồng và thừa nhận Công
ty PH đã thực hiện xong việc khám sức khỏe, đã giao bảng tổng hợp kết quả
khám sức khỏe, 71 sổ khám sức khỏe định kỳ và xuất hóa đơn GTGT cho Công
ty D. Công ty D thừa nhận nợ và lý do chưa thanh toán cho Công ty PH là tình
hình tài chính Công ty khó khăn nên chưa trả nợ gốc và lãi cho Công ty PH.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty D đưa ra phương án trả nợ chia thành
04 đợt thanh toán, mỗi đợt cách 01 tháng tính từ cuối tháng 11/2020. Tại phiên
tòa, Công ty D yêu cầu được chia thành 04 kỳ thanh toán, kỳ đầu là tháng 01/2021
đối với số nợ gốc. Yêu cầu này của công ty D không được Công ty PH chấp nhận.
Công ty D thừa nhận nợ nên căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng
dân sự đây là tính tiết không phải chứng minh. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Công ty PH buộc Công ty D phải trả cho Công ty PH số tiền gốc
31.204.500 đồng.
Đối với nợ lãi: Công ty PH yêu cầu Công ty D trả lãi với mức lãi suất
0,83%/tháng tính từ ngày 10/8/2018 đến ngày 11/01/2021. Tại phiên tòa Công
ty D xin Công ty PH không tính lãi. Yêu cầu này của công ty D không được Công
ty PH chấp nhận. Căn cứ hợp đồng dịch vụ số 37/HĐKSK-CTPH.2018 ngày
05/7/2018 được ký kết giữa hai bên thì Công ty D đã vi phạm nghĩa vụ thanh
toán. Căn cứ Điều 306 Luật thương mại 2005 quy định:“Bên vi phạm hợp đồng
chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí
hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền
chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh
toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác”.

3 / 158
Tại phiên tòa, đại diện Công ty PH yêu cầu Công ty D trả tiền lãi trên số tiền
chậm trả 31.204.500 đồng theo mức lãi suất 0,83%/tháng là thấp hơn mức lãi suất
nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán. Công ty PH yêu cầu
tính lãi từ ngày 10/8/2018 đến ngày 11/01/2021 là 29 tháng. Xét yêu cầu của
nguyên đơn tính tiền lãi làm tròn 29 tháng và mức lãi suất 0,83%/tháng là có lợi
hơn cho Công ty D nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Số tiền lãi tính đến ngày
11/01/2021 là 31.204.500 đồng x 0,83%/tháng x 29 tháng = 7.510.000 đồng. Tổng
cộng gốc và lãi là 38.715.423 đồng.
[3] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí theo
quy định là 3.000.000 đồng. Nguyên đơn được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã
nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng:
- Khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 36, điểm a
khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
- Điều 306 Luật thương mại 2005.
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Công ty TNHH MTV Khám chữa
bệnh Đa khoa PH. Buộc bị đơn Công ty TNHH Dịch vụ D có trách nhiệm trả cho
Công ty TNHH MTV Khám chữa bệnh Đa khoa PH số tiền là 38.715.423 đồng.
Kể từ khi nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án bị đơn không thanh toán
thì còn phải trả lãi suất chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường
tại thời điểm thi hành án đối với số tiền chưa thi hành án xong.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Bị đơn phải chịu án phí theo quy định là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).
Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí 3.000.000 đồng theo biên
lai thu số 002700 ngày 17/6/2020 đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận
NK, thành phố CT.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

4 / 158
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- Đương sự;
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP. CT;
- VKSND quận NK;
- Chi cục THADS quận NK;
- Lưu HS.

Nguyễn Thị Mỹ T

5 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH TÂY NINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
—————————— ——————————————————

Bản án số: 12/2021/KDTM-PT


Ngày 05-02-2021
V/v Tranh chấp hợp đồng dịch
vụ.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH


- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Tuấn Vũ
Các Thẩm phán: Bà Dương Thúy Hằng
Bà Lê Thị Thu Trang
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thị Kiều Trang là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnhTây Ninh tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Trần An - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 01 và 05 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2020/TLPT-KDTM
ngày 08 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 27
tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 08/2020/QĐ-PT ngày 09
tháng12 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn R;
Địa chỉ: Đường số 8, Khu công nghiệp T, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Young Tae C, sinh năm 1956. Chức
danh: Chủ tịch Công ty, là người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Chung Quốc K, sinh năm 1968- Có mặt.
Chức danh: Giám đốc.
(Theo Văn bản ủy quyền ngày 14/6/2019).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Võ Thanh K1
và ông Phạm Văn S là Luật sư công tác tại Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn L
thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
Cùng địa chỉ: Tầng 1, Tòa nhà P, số 52 Đ, phường B, Quận 1, Thành phố H.

6 / 158
- Bị đơn: Công ty cổ phần P1.
Địa chỉ: Đường số 12, Khu công nghiệp T, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Tạ Quốc Dũng, sinh năm 1971 – Có mặt.
Chức danh: Tổng Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Văn Hải
là Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H, hiện đang công tác tại Công ty cổ
phần P1 – Có mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn- Công ty trách nhiệm hữu hạn R.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 27/11/2019 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa
án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Chung Quốc K trình bày:
Ngày 01/9/2014, Công ty trách nhiệm hữu hạn R (sau đây gọi tắt là Công ty
R) và Công ty cổ phần P1 (sau đây gọi tắt là I) ký kết Hợp đồng dịch vụ xử lý
nước thải số 63/HĐ-XLNT (sau đây gọi tắt là Hợp đồng số 63), kèm theo hợp
đồng là Phụ lục 01 và 02. Theo đó, I sẽ xử lý nước thải của Công ty R xả vào hệ
thống xử lý nước thải của I đạt tiêu chuẩn trước khi xả thải ra môi trường. Mỗi
tháng I đến Công ty R lấy mẫu nước thải đi kiểm tra, sau đó sẽ gửi Thông báo phí
xử lý nước thải và hóa đơn cho Công ty R và Công ty R thanh toán phí bằng hình
thức chuyển khoản. Hợp đồng được thực hiện từ khi ký kết đến cuối tháng
11/2017 thì Công ty R phát hiện I tính phí xử lý nước thải của năm 2017 sai quy
định nhưng vì tin tưởng I nên Công ty R không kiểm tra mà vẫn thanh toán phí xử
lý nước thải đầy đủ. Cụ thể, I đã không căn cứ vào chỉ tiêu COD để tính phí xử lý
nước thải mà căn cứ vào các chỉ tiêu khác như amoni, xianua, cu,… là không đúng
theo Hợp đồng số 63 và các quy định của pháp luật. Từ tháng 01 đến tháng
10/2017, I đã tính phí xử lý nước thải vượt mức quy định số tiền 431.358.850
đồng. Ngày 09/8/2018, Công ty R và I ký Phụ lục số 01, theo đó nâng giá cơ bản
xử lý nước thải lên 7.677 đồng/m3. Công ty R thừa nhận giá trị pháp lý của Hợp
đồng số 63 nhưng không thừa nhận giá trị pháp lý của Phụ lục ngày 09/8/2018
kèm theo hợp đồng này bởi vì Phụ lục này do ông K ký mà không được sự ủy
quyền của người đại diện theo pháp luật của Công ty.
Nay Công ty R yêu cầu I trả lại số tiền phí xử lý nước thải đã thanh toán vượt
mức trong năm 2017 là 431.358.850 đồng.
Về yêu cầu phản tố của I: Công ty R thừa nhận chưa thanh toán phí xử lý nước
thải các tháng 11/2017, tháng 01/2018, tháng 3/2018, tháng 6/2019, tháng 7/2019,
tháng 9/2019 và tháng 12/2019 cho I do I tính phí không đúng. Công ty R chỉ đồng
ý thanh toán khi I tính phí theo giá cơ bản là 7.677 đồng/m3, cụ thể Công ty R đồng
ý thanh toán phí xử lý nước thải cho I các tháng 11/2017, tháng 01/2018, tháng
3- 2018, tháng 6/2019, tháng 7/2019, tháng 9/2019 và tháng 12/2019 tổng số tiền
là 129.345.954 đồng.

7 / 158
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo pháp
luật của bị đơn ông Tạ Quốc Dũng trình bày:
I đã tính đúng phí xử lý nước thải của Công ty R theo Hợp đồng số 63 đã ký
kết và các Phụ lục kèm theo đúng theo các quy định của pháp luật. Do đó yêu cầu
khởi kiện của Công ty R là không có căn cứ nên I không đồng ý trả tiền theo yêu
cầu của Công ty R. Ngày 23/4/2020, I đã đưa ra yêu cầu phản tố đối với Công ty
R, cụ thể I yêu cầu Công ty R phải thanh toán tiền phí xử lý nước thải của tháng
11/2017 là 87.499.360 đồng, tháng 01/2018 là 44.577.000 đồng, tháng 3/2018 là
35.776.000 đồng, tháng 6/2019 là 179.253.864 đồng, tháng 7/2019 là 27.170.944
đồng, tháng 9/2019 là 182.997.148 đồng và tháng 12/2019 là 605.254.680 đồng,
tổng cộng là 1.162.528.996 đồng; đồng thời yêu cầu chấm dứt Hợp đồng số 63 và
các Phụ lục kèm theo kể từ ngày Tòa án xét xử sơ thẩm, Công ty trách nhiệm hữu
hạn R phải thanh toán phí xử lý nước thải phát sinh theo hợp đồng đến khi chấm
dứt hợp đồng. Tuy nhiên, do quy trình lấy mẫu nước thải của tháng 9/2019 không
đảm bảo nên I đồng ý tính phí xử lý nước thải của tháng 9/2019 theo giá cơ bản
là 19.891.107 đồng. Tổng cộng, số tiền phí xử lý nước thải Công ty R còn phải
thanh toán cho I là 999.422.955 đồng.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 27
tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Tây Ninh đã quyết định:
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều
35 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 74, 310, 311 của Luật Thương mại; khoản
3, khoản 5 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn R về
việc yêu cầu Công ty cổ phần P1 hoàn trả số tiền 431.358.850 (Bốn trăm ba mươi
mốt triệu ba trăm năm mươi tám nghìn tám trăm năm mươi) đồng.
2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần P1.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn R có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty cổ
phần P1 số tiền 999.422.955 (Chín trăm chín mươi chín triệu bốn trăm hai mươi
hai nghìn chín trăm năm mươi lăm) đồng.
Đình chỉ thực hiện Hợp đồng dịch vụ xử lý nước thải số 63/HĐ-XLNT và các
Phụ lục kèm theo kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Công ty trách nhiệm hữu hạn R còn
phải thanh toán tiền phí xử lý nước thải phát sinh theo Hợp đồng cho Công ty cổ
phần P1 cho đến ngày đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và
quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 08/9/2020, Công ty trách nhiệm hữu hạn R có đơn kháng cáo yêu cầu cấp
phúc thẩm giải quyết đưa UBND tỉnh Tây Ninh tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi

8 / 158
kiện của nguyên đơn; chỉ chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc
tính giá dịch vụ xử lý nước thải theo chỉ tiêu COD, bác yêu cầu phản tố của bị đơn
về việc chấm dứt thực hiện Hợp đồng xử lý nước thải số 63/HĐ-XLNT và các Phụ
lục kèm theo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn luật sư Võ Thanh K1
trình bày: Giá dịch vụ thoát nước, phí xử lý nước thải phải chịu sự quản lý của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền, không phải giá mua bán do các bên thỏa thuận. Cơ
quan nhà nước phải có văn bản chấp nhận sự thỏa thuận đó, vụ án này là Công văn
số 1707/LS-XD-TC, ngày 27/6/2018 của Liên sở Xây dựng– Tài chính tỉnh Tây
Ninh, nhưng văn bản này chỉ quy định về việc tăng mức mức giá từ 6.500 lên 7.677
đồng/m3, chỉ tiêu để xác định hệ số K thì chỉ có chỉ tiêu COD; không có văn bản
nào quy định về các chất như cu, xianua…. Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
được toàn diện, tôi đã yêu cầu đưa UBND tỉnh Tây Ninh tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng cấp sơ thẩm không đồng
ý; nếu cấp phúc thẩm xem xét là không cần thiết thì cũng phải có văn bản thể hiện
ý kiến của UBND tỉnh Tây Ninh. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xác định I tính
sai phí xử lý nước thải, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn, chấp nhận 1 phần yêu cầu phản tố, yêu cầu chấm dứt Hợp đồng số 63 và các
Phụ lục kèm theo là không có căn cứ vì Công ty R không thực hiện việc gì vi phạm
hợp đồng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn luật sư Phạm Văn S
trình bày: Công ty R sẽ thanh toán đủ tiền phí khi I có đủ căn cứ chứng minh là họ
tính đúng bởi Hợp đồng số 63 và các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng chỉ
nhắc về hàm lượng COD trong cách tính phí chứ không đề cập đến những hàm
lượng chất khác.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Luật sư Nguyễn Văn Hải
trình bày: Nghị định 80/2014/NĐ-CP ngày 06/8/2014 của Chính phủ thay thế cho
Nghị định 88/2007/NĐ-CP quy định về nguyên tắc chung về xử lý nước thải, người
gây ô nhiễm phải trả tiền xử lý ô nhiễm, chính Công ty R gây ô nhiễm thì phải trả
phí, từ trước đến nay công ty này chưa bị cơ quan quản lý nhà nước nào xử phạt
về việc xử lý nước thải là do chúng tôi đã xử lý nước đúng tiêu chuẩn. COD chỉ
là 1 trong các chỉ tiêu xác định hàm lượng nước thải, quy chuẩn QCVN: 40 gồm
COD và 33 chỉ tiêu khác. Việc Công ty R xả thải không đúng quy định và không
thanh nước chi phí xử lý nước thải trong nhiều tháng là đã vi phạm nghĩa vụ cơ
bản của hợp đồng nên yêu cầu đình chỉ Hợp đồng số 63 và các Phụ lục kèm theo.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành của người tham gia tố
tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
Công ty R cho rằng Phụ lục 01 ngày 09/8/2018, không có giá trị vì người ký là

9 / 158
ông Chung Quốc K không được người đại diện theo pháp luật ủy quyền ký Phụ lục
này. Tuy nhiên, I cung cấp giấy ủy quyền có hiệu lực từ ngày 05/7/2018 đến hết
ngày 04/7/2019, thể hiện ông K được toàn quyền quyết định và ký kết các hợp đồng
dịch vụ (BL 107 -106). Do đó Phụ lục này là có hiệu lực.
- Về cách tính phí xử lý nước thải:
Về việc thực hiện quy định khoản 3 Điều 41 Nghị định số 80/2014/NĐ-CP,
ngày 06/8/2014 của Chính phủ, I cũng đã gửi văn bản đến Sở Xây dựng tỉnh Tây
Ninh và được Liên Sở Xây dựng– Tài chính ban hành Công văn số 1707/LS-XD-
TC, ngày 27/6/2018 trong đó quy định: Công ty phải thoả thuận với các chủ đầu
tư trong khu công nghiệp về giá dịch vụ thoát nước…
Hàng tháng, I đều có gửi văn bản thông báo phí nước thải cho Công ty R nhưng
Công ty R không có ý kiến gì về phí nước thải không đúng quy định và trả phí theo
quy định của Hợp đồng. Do đó yêu cầu của Công ty R về việc yêu cầu I trả lại số
tiền phí xử lý nước thải từ tháng 01 đến tháng 10/2017 đã thanh toán vượt mức là
431.358.850 đồng là không có căn cứ chấp nhận.
Trong Hợp đồng số 63 có quy định rõ tại mục 3.1 Điều 3 về chất lượng nước
thải của nguyên đơn phải đạt QCVN 40:2011/BTNMT cột B trước khi xả vào điểm
đầu nối của bị đơn. kết quả xử lý nước thải của nguyên đơn có nồng độ các chất
gây ô nhiễm như amoni, xianua, cu... vượt tiêu chuẩn cột B. Chính vì vậy, việc bị
đơn phải xử lý nước thải của nguyên đơn không đạt tiêu chuẩn đã thỏa thuận làm
phát sinh thêm chi phí của bị đơn. Ngoài ra, trường hợp này các bên thỏa thuận tính
phí theo Phụ lục 02 đính kèm Hợp đồng số 63 và Phụ lục ngày 09/8/2018, trong
đó có quy định cách tính phí xử lý nước thải theo các chỉ tiêu khác ngoài chỉ tiêu
COD. Hợp đồng và Phụ lục đã được hai bên ký kết và có hiệu lực, chính vì vậy
việc I căn cứ vào Hợp đồng số 63 và các Phụ lục kèm theo để tính phí xử lý nước
thải là đúng quy định.
- Về yêu cầu phản tố của bị đơn: Xét phí xử lý nước thải của các tháng 11/2017,
tháng 01/2018, tháng 3/2018 I đã tính đúng theo quy định của Hợp đồng số 63 và
các Phụ lục kèm theo nên có căn cứ chấp nhận. Phí xử lý nước thải của tháng 6/2019
và tháng 7/2019 I đã căn cứ vào kết quả phân tích nước thải của trung tâm do Công
ty R yêu cầu để tính phí theo quy định của Hợp đồng số 63 và các Phụ lục kèm theo
nên có căn cứ chấp nhận.
Riêng tháng 9/2019, Công ty R đồng ý thanh toán phí xử lý nước thải cho I theo
giá thành cơ bản là 7.677 đồng/m3 và I cũng đồng ý tính phí xử lý nước thải của
tháng 9/2019 theo giá cơ bản là: 2.59l m3 x 7.677 đồng/m3 = 19.891.107 đồng.
Đối với phí xử lý nước thải tháng 12/2019: I chọn tính phí xử lý nước thải theo
kết quả phân tích của QUATEST 3 là có căn cứ bởi đây là đơn vị do các bên thỏa
thuận lựa chọn theo Hợp đồng số 63, ngoài ra QUATEST 3 là đơn vị tiến hành
phân tích nước thải của nguyên đơn từ khi ký kết hợp đồng và phía nguyên đơn
cũng không có khiếu nại gì đối với kết quả phân tích nước thải của QUATEST 3.
Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc yêu cầu nguyên đơn trả tiền

10 / 158
phí xử lý nước thải của tháng 12/2019 là 605.254.680 đồng.
Do đó cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của I về việc yêu cầu
Công ty R thanh toán phí xử lý nước thải tổng cộng là 999.422.955 đồng, theo quy
định tại Điều 311 của Luật Thương Mại là đúng quy định.
- Đối với yêu cầu của bị đơn về việc đình chỉ thực hiện Hợp đồng số 63:
Căn cứ vào Điều 9 của Hợp đồng số 63 (BL 112) và Điều 310 của Luật Thương
mại và kết quả xét nghiệm nước thải một số tháng của Công ty R không đạt QCVN
40:2011/BTNMT cột B trước khi xả vào hệ thống của I như thỏa thuận trong Hợp
đồng số 63 và việc Công ty R không thanh toán phí xử lý nước thải cho I là vi phạm
cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nên cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu đình chỉ thực hiện
Hợp đồng số 63 và các Phụ lục kèm theo là có căn cứ.
Mặt khác, Hợp đồng số 63 căn cứ Nghị định số 88/2007/NĐ-CP đã hết hiệu lực
nhưng các bên chưa thay thế hợp đồng mới. Vì vậy, nếu các bên thương lượng
thống nhất tiếp tục thực hiện hợp đồng dịch vụ thì sẽ ký lại hợp đồng mới theo Nghị
định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06/8/2014.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng
cáo của Công ty R; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên, xét thấy:
[1] Về tố tụng: Ngày 08/9/2020 Công ty trách nhiệm hữu hạn R có đơn
kháng cáo với bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày
27/8/2020 của Tòa án nhân dân thị xã T, do đó kháng cáo của Công ty trách nhiệm
hữu hạn R là hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn R về việc cần đưa
UBND tỉnh Tây Ninh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan thấy rằng: Tại Quyết định số 40/2016/QĐ-UBND ngày 27/10/2016
của UBND tỉnh Tây Ninh về việc Ban hành Quy định phân công trách nhiệm và
phân cấp quản lý về quản lý thoát nước và xử lý nước thải trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh thể hiện nội dung:
“Sở Xây dựng tham mưu giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với hoạt động thoát nước và xử lý nước thải…”
“Sở Tài chính phối hợp với Sở Xây dựng thẩm định và trình UBND tỉnh phê
duyệt giá dịch vụ thoát nước…Phối hợp với Sở Xây dựng và Ban Quản lý Khu
kinh tế tỉnh và các đơn vị liên quan cho ý kiến thỏa thuận về giá dịch vụ thoát nước
trong khu công nghiệp để các chủ đầu tư kinh doanh, phát triển hạ tầng khu công
nghiệp làm cơ sở quyết định về mức giá theo quy định.”
Tại Công văn số 1707/LS-XD-TC ngày 27/6/2018 của liên sở Xây dựng-Tài
Chính về việc thỏa thuận giá dịch vụ thoát nước tại nhà máy xử lý nước thải tập

11 / 158
trung khu công nghiệp T công suất 7.500 m3/ngày.đêm đã thể hiện ý kiến của cơ
quan chuyên môn được UBND tỉnh phân quyền quản lý, việc lấy ý kiến và đưa của
UBND tỉnh Tây Ninh vào tham gia tố tụng trong vụ án là không cần thiết.
[2] Ngày 01/9/2014, Công ty R (người ký là ông Wu Zhen Yu- Giám đốc) và I
ký kết hợp đồng dịch vụ xử lý nước thải số 63/HĐ-XLNT, kèm theo hợp đồng là
Phụ lục 01 và 02; các đương sự thống nhất thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng
và 2 phụ lục kèm theo hợp đồng này. Thực tế 2 bên đã thực hiện đúng các điều
khoản trong hợp đồng đến tháng 10/2017 mà không phát sinh tranh chấp.
[3] Ngày 09/8/2018, Công ty R và I phụ lục hợp đồng số 01; nội dung của Phụ
lục hợp đồng này thỏa thuận nâng giá xử lý nước thải cơ bản lên 7.677 đồng/m3 và
điều chỉnh cách tính phí nước thải theo Phụ lục 02. Công ty R kháng cáo cho rằng
Phụ lục hợp đồng số 01 là không có giá trị pháp lý do ông Chung Quốc K không
có thẩm quyền ký, Hội đồng xét xử xét thấy tại BL 107 ông Chung Quốc K được
giám đốc Công ty R ủy quyền ký hợp đồng kinh tế; Phụ lục hợp đồng là một phần
của hợp đồng và không thể tách rời hợp đồng nên việc ông K ký Phụ lục hợp đồng
đối với Hợp đồng số 63 là nằm trong phạm vi ủy quyền của mình. Việc thỏa thuận
điều chỉnh giá xử lý nước thải cơ bản lên 7.677 đồng/m3 phù hợp với Công văn số
1707/LS-XD-TC ngày 27/6/2018 của liên sở Xây dựng- Tài chính về việc thỏa
thuận giá dịch vụ thoát nước tại nhà máy xử lý nước thải tập trung Khu công nghiệp
T công suất 7.500 m3/ngày.đêm. Công ty R và I thỏa thuận điều chỉnh giá phù hợp
với nhu cầu thực tế, trên cơ sở tinh thần tự nguyện thỏa thuận, không trái quy định
của pháp luật. Ngoài ra, kể từ khi ký Phụ lục hợp đồng này, 2 bên đã tiến hành tính
phí theo giá mới, phía Công ty R không có văn bản nào phản hồi về việc ông K
không có thẩm quyền ký Phụ lục hợp đồng. Do đó, Phụ lục hợp đồng trên là có giá
trị pháp lý và không có căn cứ chấp nhận kháng cáo này của Công ty R.
[4] Xét kháng cáo của Công ty R về cách tính phí nước thải, thấy rằng:
Nội dung Hợp đồng số 63 tại Mục 3.1 Điều 3 về chất lượng nước thải của
nguyên đơn phải đạt QCVN 40:2011/BTNMT cột B trước khi xả vào điểm đấu nối
của bị đơn. Tại Phụ lục 01 thể hiện về giá trị C của các thông số ô nhiễm trong
nước thải công nghiệp trong đó có các thông số về COD, thủy ngân, chì, đồng,
amoni … căn cứ vào Phụ lục 02 cách tính phí nước thải là F= Q x V x K, trong đó:
F là tổng tiền xử lý nước thải (chưa bao gồm VAT 10%)
Q là lượng nước thải tính trong tháng của bên A
V là đơn giá xử lý 1 m3 nước thải
K là hệ số điều chỉnh phụ thuộc vào hàm lượng chất gây ô nhiễm trong nước
thải.
Như vậy, hệ số K sẽ thay đổi tùy thuộc vào hàm lượng những chất gây ô nhiễm
có trong nguồn nước thải mà phía nguyên đơn yêu cầu bị đơn xử lý.
Tại mục 3.3 của hợp đồng quy định phí xử lý nước thải sẽ thay đổi hàng năm…
Bên B có thông báo thay đổi gửi cho bên A biết. Thực tế chứng minh bên B đã có

12 / 158
gửi cho bên A những thông báo tính phí nước thải có thể hiện về những chất mà
bên A vượt quá mức cho phép cần được tính phí thêm. Từ tháng 11/2017 bên A
trình bày có nhận được thông báo tính phí của I nhưng vì tin tưởng nên vẫn thanh
toán tiền xử lý nước thải và không có ý kiến phản hồi.
Tại Mục 3.4 của Hợp đồng quy định: “Trường hợp nước thải của bên A có
thành phần và nồng độ vượt tiêu chuẩn cam kết, ảnh hưởng đến sự vận hành bình
thường của hệ thống xử lý nước thải tập trung của Bên B, phí xử lý nước thải sẽ
tính theo phụ lục 02 đính kèm”.
Phụ lục 02 ngày 09/8/2018 (BL 24) điều chỉnh về cách tính phí là phù hợp Công
văn số 1707/LS-XD-TC ngày 27/6/2018 của liên sở Xây dựng- Tài chính. Phụ lục
này thể hiện thỏa thuận của các bên “Đối với các chỉ tiêu khác ngoài chỉ tiêu COD
vượt cột B theo QCVN 40:2011/BTNMT thì căn cứ theo kết quả xét nghiệm mẫu
nước thải hàng tháng và áp dụng hệ số K = Cvc /Ctc
Trong đó: Cvc: nồng độ các chỉ tiêu vượt QCVN 40:2011/BTNMT
Ctc : nồng độ các chỉ tiêu theo QCVN 40:2011/BTNMT
Các bên thống nhất chất lượng nước thải của Công ty R phải đạt cột B trước
khi vào đầu nối của I, I sẽ xử lý nước thải đạt cột A (phụ lục 01), theo tiêu chuẩn
QCVN 40:2011/BTNMT (quy chuẩn này gồm COD và 33 chỉ tiêu khác).
Mặc dù Công văn số 1707/LS-XD-TC ngày 27/6/2018 của liên sở Xây dựng-
Tài chính không điều chỉnh về cách tính phí đối với nồng độ các chất vượt QCVN
40:2011/BTNMT. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy các chất như chì, thủy ngân,
xianua…là những chất độc, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người
và môi trường; việc xử lý những chất này tốn nhiều thời gian và chi phí nhưng I chỉ
tính phí xử lý nước thải bằng giá cơ bản là có lợi cho Công ty R và phù hợp. Do đó
không có căn cứ chấp nhận lời nại của Công ty R về cách tính phí. Tòa án cấp sơ
thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty R với số tiền 431.358.850
đồng là có căn cứ.
[5] Đối với kháng cáo chỉ chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, Hội
đồng xét xử xét thấy: Công ty R thừa nhận chưa thanh toán phí xử lý nước thải của
các tháng như trình bày của I do có tranh chấp trong cách tính phí. Như phân tích
ở trên thì cách tính phí nước thải của I là hoàn toàn phù hợp với Hợp đồng số 63,
các Phụ lục hợp đồng và quy định của pháp luật.
Xét phí xử lý nước thải của các tháng 11/2017, tháng 01/2018, tháng 3/2018 I
đã tính đúng theo quy định của Hợp đồng số 63 và các Phụ lục kèm theo, cách tính
phí như giai đoạn từ khi ký hợp đồng đến tháng 11/2017, Royal vẫn thanh toán phí
nước thải theo như thông báo của I nên có căn cứ chấp nhận.
Phí xử lý nước thải của tháng 6/2019 và tháng 7/2019 I đã căn cứ vào kết quả
phân tích nước thải của trung tâm do Công ty R yêu cầu để tính phí theo quy định
của Hợp đồng số 63 và các Phụ lục kèm theo nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu phản
tố của I về việc yêu cầu Công ty R thanh toán phí xử lý nước thải của các tháng

13 / 158
11/2017 là 87.499.360 đồng, tháng 01/2018 là 44.577.000 đồng, tháng 3/2018 là
35.776.000 đồng, tháng 6/2019 là 179.253.864 đồng, tháng 7/2019 là 27.170.944
đồng; phí xử lý nước thải tháng 9/2019 các bên thống nhất tính giá cơ bản là
19.891.107 đồng nên cần ghi nhận. Riêng đối với phí xử lý nước thải tháng 12/2019
các bên có tranh chấp về hàm lượng Xianua trong nước; chỉ tiêu tổng Xianua theo
kết quả phân tích của QUATEST 3 vượt QCVN 40:2011/BTNMT cột B 30 lần,
trong khi theo kết quả phân tích của Công ty P2 thì các chỉ tiêu đều đạt. Xét thấy
QUATEST 3 là đơn vị được các bên thống nhất lựa chọn để phân tích hàm lượng
chất gây ô nhiễm trong nước từ khi các bên ký kết hợp đồng, suốt quá trình thực
hiện hợp đồng Công ty R không có ý kiến khiếu nại đối với kết quả phân tích của
QUATEST 3 nên chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc yêu cầu nguyên đơn trả
tiền phí xử lý nước thải của tháng 12/2019 là 605.254.680 đồng; tổng cộng bị đơn
phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền là 999.422.955 đồng, theo quy định tại Điều
311 của Luật Thương mại là có căn cứ chấp nhận.
[6] Đối với yêu cầu kháng cáo việc chấm dứt thực hiện Hợp đồng số 63 và các
Phụ lục kèm theo, hội đồng xét xử xét thấy: Các bên không thỏa thuận thời gian
chấm dứt hợp đồng cũng không thỏa thuận những điều khoản chấm dứt hợp đồng
nên cần xem xét việc các bên thực hiện nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận. Qua kết
quả xét nghiệm nước thải một số tháng của Công ty R không đạt QCVN
40:2011/BTNMT cột B trước khi xả vào hệ thống của I như thỏa thuận trong Hợp
đồng số 63 và việc Công ty R không thanh toán phí xử lý nước thải cho I là vi phạm
cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Ngoài ra, Hợp đồng số 63 căn cứ Nghị định số
88/2007/NĐ-CP đã hết hiệu lực nhưng các bên chưa thay thế hợp đồng mới nên
cấp sơ thẩm tuyên bố đình chỉ thực hiện Hợp đồng số 63 và các Phụ lục kèm theo
theo quy định tại Điều 310 của Luật Thương mại là có căn cứ chấp nhận.
Từ những phân tích trên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của Công ty R,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[7] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Công ty R phải chịu
2.000.000 đồng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 74, 310 và 311
của Luật Thương mại; Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của của Công ty trách nhiệm hữu hạn R.
Giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST
ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã T.

14 / 158
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn R về
việc yêu cầu Công ty cổ phần P1 hoàn trả số tiền 431.358.850 (Bốn trăm ba mươi
mốt triệu ba trăm năm mươi tám nghìn tám trăm năm mươi) đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần P1.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn R có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty cổ
phần P1 số tiền 999.422.955 (Chín trăm chín mươi chín triệu bốn trăm hai mươi
hai nghìn chín trăm năm mươi lăm) đồng.
Kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành
án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự.
3. Đình chỉ thực hiện hợp đồng dịch vụ xử lý nước thải số 63/HĐ-XLNT và các
Phụ lục kèm theo kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Công ty trách nhiệm hữu hạn R còn
phải thanh toán tiền phí xử lý nước thải phát sinh theo Hợp đồng cho Công ty cổ
phần P1 cho đến ngày đình chỉ thực hiện hợp đồng.
4. Về án phí:
- Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty trách nhiệm hữu hạn R phải
chịu 21.254.354 đồng và án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm do yêu cầu phản
tố của Công ty cổ phần P1 được chấp nhận là 41.982.689 đồng. Tổng cộng tiền án
phí kinh doanh thương mại sơ thẩm Công ty trách nhiệm hữu hạn R phải chịu là
63.237.043 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.628.000
đồng theo biên lai thu số 0017876 ngày 14 tháng 01 năm 2020 của Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã T, tỉnh Tây Ninh; Công ty trách nhiệm hữu hạn R còn phải
nộp số tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 52.609.000 (Năm mươi hai
triệu sáu trăm lẻ chín nghìn) đồng- làm tròn số.
Công ty cổ phần P1 không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả cho Công ty cổ phần P1 số tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại sơ
thẩm đã nộp là 13.146.000 (Mười ba triệu một trăm bốn mươi sáu nghìn) đồng theo
biên lai thu số 0018042 ngày 23 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự
thị xã T, tỉnh Tây Ninh.
- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty trách nhiệm hữu hạn R
phải chịu 2.000.000 (Hai triệu) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền 2.000.000
đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0014520 ngày 08 tháng 9 năm 2020
của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Tây Ninh; Ghi nhận đã nộp xong.
Trường hợp quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi

15 / 158
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


-VKSND. TTN;
-Phòng KTNV.TAT;
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
-TAND tx;
-Chi cục THADS tx;
-Những người tham gia tố tụng;
-Lưu hồ sơ vụ án; (đã ký)
-Lưu tập án.

Trần Tuấn Vũ

16 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN THÁP MƯỜI Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐỒNG THÁP

Bản án số: 02/2021/KDTM-ST


Ngày 23/3/2021
“Về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁP MƯỜI

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Thanh Tuấn.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lê Văn Vững.
Ông Mai Văn Thanh.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hồ Thị Mỹ Linh - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Tháp Mười.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười tham gia phiên
tòa: Ông Trần Rin Ca - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười
xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 11/2020/TLST-
KDTM ngày 13 tháng 11 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 15/2021/QĐXXST-KDTM ngày 19
tháng 01 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2021/QĐST-KDTM ngày 04
tháng 02 năm 2021 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 84/2021/QĐST-KDTM
ngày 04 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ - Vệ sĩ T.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Phước L – Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn N – Chức vụ: Phó Giám
đốc.
Cùng địa chỉ: Số 104 T, Phường 4, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Bị đơn: Công ty TNHH H.
Địa chỉ trụ sở: Khóm 2, thị trấn M, huyện T, Đồng Tháp.

T.TUẤN.
17 / 158
Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Vũ N – Chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Công ty: Bà Dương Hồng
P, sinh năm 1975 (Văn bản ủy quyền đề ngày 15/01/2021). Địa chỉ liên lạc:
Khóm 2, thị trấn M, huyện T, Đồng Tháp.
(Ông Trần Văn N có mặt. Bà Dương Hồng P vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Nguyên đơn Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ - Vệ sĩ T trình bày:


Công ty TNHH H (gọi tắt là Công ty H) và Công ty Công ty TNHH MTV
Dịch vụ bảo vệ - Vệ sĩ T (gọi tắt là Công ty T) có thỏa thuận thống nhất ký kết
các hợp đồng dịch vụ bảo vệ từ ngày 30/6/2017 đến ngày 14/9/2019, cụ thể gồm:
Hợp đồng số 77/HĐBV ngày 14/9/2016, Hợp đồng số 53/HĐBV ngày 14/9/2017,
Hợp đồng số 53/HĐBV ngày 14/3/2018, Hợp đồng số 53/HĐBV ngày 14/9/2018,
Hợp đồng số 40/HĐBV ngày 02/12/2017, và Hợp đồng số 40/HĐBV ngày
02/6/2018. Tổng cộng phí dịch vụ bảo vệ là 345.600.000 đồng.
Tính đến ngày 04/11/2019, Công ty H đã thanh toán được số tiền
179.000.000 đồng, đến nay còn nợ lại số tiền 166.600.000 đồng. Mặc dù Công ty
T đã nhiều lần nhắc nhở nhưng Công ty H vẫn chưa thanh toán số tiền nợ còn lại.

Nay, Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ - Vệ sĩ T yêu cầu Công ty


TNHH H thanh toán số tiền phí dịch vụ bảo vệ còn nợ là 166.600.000 đồng.

Theo Văn bản nộp tại Tòa án nhân dân huyện Tháp Mười vào ngày
15/3/2021, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà Dương Hồng P trình
bày:

Bà P xác nhận hiện Công ty H còn nợ Công ty T dịch vụ bảo vệ số tiền


166.000.000 đồng. Thời gian qua vì lý do đại dịch Covid 19 nên hiện Công ty H
đang trong hoàn cảnh rất khó khăn. Trường phải đóng cửa liên tục để tránh dịch,
đã hơn một năm qua các hoạt động kinh doanh Giáo dục gần như tê liệt. Đối với
số tiền nợ trên Công ty H cam kết sau khi đại dịch qua đi, kinh doanh đi vào hoạt
động ổn định, sẽ thực hiện trả nợ dần cho Công ty T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp Mười phát biểu ý kiến:

18 / 158
Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Tòa án nhân dân
huyện Tháp Mười nhận Đơn khởi kiện vào ngày 31/7/2020 nhưng đến ngày
13/11/2020 mới thụ lý vụ án là chậm theo quy định của pháp luật. Trong quá trình
giải quyết vụ án, Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội
đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc
xét xử sơ thẩm vụ án.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự. Riêng bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do tại các phiên
họp công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử là chưa chấp hành nghiêm quy định
pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận theo yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét thấy các bên đương sự đều có
đăng ký kinh doanh và ký kết hợp đồng với nhau cùng vì mục đích lợi nhuận nên
xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại. Căn cứ vào nội dung yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan
hệ pháp luật đang tranh chấp giữa các bên là “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp kinh doanh thương mại về hợp
đồng dịch vụ giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy
định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn có địa chỉ trụ sở tại
thị trấn M, huyện T nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện
Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a
khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về tố tụng: Bà Dương Hồng P là người đại diện theo ủy quyền đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt mà không vì sự kiện bất khả kháng hay
trở ngại khách quan; Do đó, căn cứ vào Điều 227 Hội đồng xét xử tiến hành

19 / 158
xét xử vắng mặt Bà P.
[4] Về nội dung:
[4.1] Xét các Hợp đồng dịch vụ bảo vệ, cụ thể: Hợp đồng số 77/HĐBV
ngày 14/9/2016, Hợp đồng số 53/HĐBV ngày 14/9/2017, Hợp đồng số 53/HĐBV
ngày 14/3/2018, Hợp đồng số 53/HĐBV ngày 14/9/2018, Hợp đồng số 40/HĐBV
ngày 02/12/2017, và Hợp đồng số 40/HĐBV ngày 02/6/2018.
Việc ký kết các hợp đồng trên giữa Công ty T và Công ty H được lập thành
văn bản, do người có thẩm quyền của hai Công ty đại diện ký kết, sự thỏa thuận
giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật khi giao
kết hợp đồng nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
[4.2] Quá trình thực hiện hợp đồng, bên Công ty T cho rằng đã có cung
cấp dịch vụ bảo vệ đảm bảo theo như thỏa thuận trong các hợp đồng đã ký kết,
nhưng Công ty H còn nợ dịch vụ bảo vệ số tiền 166.600.000 đồng. Về phía Công
ty H có văn bản thừa nhận còn nợ Công ty T 166.000.000 đồng, không có ý kiến
hay tài liệu chứng cứ gì thể hiện bên Công ty T không thực hiện đúng hợp đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy, căn cứ vào các Hóa đơn giá trị gia tăng thể hiện
từ 30/6/2017 đến ngày 10/9/2019 thì tổng phí dịch vụ bảo vệ Công ty H có trách
nhiệm thanh toán cho Công ty T là 345.600.000 đồng, Công ty T xác định tính
đến nay Công ty H đã trả được 06 lần tổng số tiền 179.000.000 đồng. Về phía
Công ty H thừa nhận còn nợ 166.000.000 đồng nhưng không cung cấp được tài
liệu chứng cứ chứng minh đã có trả phí dịch vụ bảo vệ cho Công ty T nhiều hơn
số tiền 179.000.000 đồng.
Do đó, căn cứ Điều 85 Luật Thương mại Hội đồng xét xử chấp nhận yêu
cầu của Công ty T về việc yêu cầu Công ty H thanh toán số tiền phí dịch vụ
166.600.000 đồng.

Điều 85 Luật Thương mại quy định:

“Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng có các nghĩa vụ sau đây:
1. Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng”.

[4.3] Đối với việc bị đơn đề nghị được trả dần số tiền nợ trên là thuộc giai
đoạn thỏa thuận thi hành án, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

20 / 158
[5] Xét thấy tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tháp
Mười đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở như đã
phân tích trên.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp
nhận nên Công ty TNHH H phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm số
tiền là 8.330.000 đồng (Tám triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng).
Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 74, Điều 85, Điều 86, Điều 87 Luật Thương mại;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016


của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ
- Vệ sĩ T.
Buộc Công ty TNHH H có trách nhiệm thanh toán số tiền nợ phí dịch vụ
bảo vệ 166.600.000 đồng (Một trăm sáu mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án mà bên phải thi hành án chưa thi
hành xong thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi bằng 50% mức lãi suất theo quy
định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian chưa
thi hành án đến khi thi hành xong.

Án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty TNHH H phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm số tiền
8.330.000 đồng (Tám triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng). Hoàn trả cho Công ty
TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ - Vệ sĩ T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
4.165.00 đồng (Bốn triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai thu
số 0011258 ngày 24/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tháp Mười.

21 / 158
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời
hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự vắng mặt tại phiên
tòa thì thời hạn này được tính từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và
9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- Tòa án tỉnh Đồng Tháp; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đồng Tháp;
- VKSND huyện T;
- Chi cục THADS huyện T;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ (ML).

Phạm Thanh Tuấn

22 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 07/2021/KDTM-PT


Ngày 12 - 4 - 2021
V/v tranh chấp hợp đồng dịch vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lương Thị Hải Hà
Các Thẩm phán:
Bà: Bùi Thị Thúy Hà
Ông Nguyễn Văn Dương
- Thư ký phiên tòa: Ông Hoàng Việt Thắng - Thư ký Toà án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng: Bà Ngô Kiều
Dâng - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 45/2020/TLPT-KDTM ngày 30 tháng
12 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ;
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2020/KDTM-ST ngày 27
tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 35/2021/QĐ-PT ngày
26 tháng 02 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐ-PT ngày 24
tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 57/2021/QĐ-PT ngày 05 tháng
4 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Con Ong; địa chỉ: Số
39B T, Phường 4, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lương Thu T - Trợ lý Chủ
tịch Hội đồng quản trị, (Giấy ủy quyền ngày 27/02/2021 của Tổng Giám đốc công
ty), có mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam; địa chỉ: Thôn L,
xã A, huyện D, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

23 / 158
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Nguyễn Thị Thúy P – Kế toán công
ty, (Văn bản ủy quyền ngày 10/4/2021 của Tổng Giám đốc), có mặt.
- Người kháng cáo: Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tóm tắt nội dung bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:
Trong đơn khởi kiện ngày 17 tháng 4 năm 2020 và trong quá trình giải quyết
vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngày 18/4/2019 Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Con Ong (gọi tắt là
Công ty Con Ong ) và Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam (gọi tắt là
Công ty Gleeco) ký hợp đồng dịch vụ giao nhận, vận chuyển hàng hóa số 1904005
(gọi tắt là Hợp đồng dịch vụ), theo nội dung Hợp đồng dịch vụ: Công ty Con Ong
sẽ giao nhận, vận chuyển hàng hóa và thực hiện các dịch vụ theo yêu cầu của Công
ty Gleeco đối với từng lô hàng và Công ty Gleeco phải thanh toán cho Công ty
Con Ong trong vòng 60 ngày cho tất cả các khoản phí dịch vụ đã phát sinh trong
tháng trước đó.
Quá trình thực hiện hợp đồng:
Công ty Con ong đã cung ứng các dịch vụ cho Công ty Gleeco từ tháng
5/2019 đến tháng 10/2019 (cụ thể vận chuyển hàng hóa của Công ty Gleeco từ địa
chỉ của Công ty Gleeco đến cảng và ngược lại) theo đúng thỏa thuận trong hợp
đồng;
Công ty Gleeco đã thanh toán tiền cước dịch vụ đến hết tháng 7/2019 và
chậm thanh toán số tiền của Tháng 8+9+10/2019 liên quan tới 06 hóa đơn điện tử
số 0018020, 0018021, 0020249, 0020250, 0022311 và 0022312 là là 941.980.670
đồng (trong đó phí dịch vụ là 889.837.756 đồng, phí chi trả hộ là 52.142.914 đồng),
cụ thể số tiền nợ của các tháng như sau:
- Tháng 8/2019 nợ 463.024.303 đồng,
- Tháng 9/2019 nợ 372.041.166 đồng
- Tháng 10/2019 nợ 106.915.201 đồng
Ngày 10/10/2019 Công ty Gleeco đã trả cho Công ty Con ong 500.000.000
đồng được trừ vào nợ tháng 7/2019 là 97.550.529 đồng, còn lại 402.449.471 đồng
trừ vào phí dịch vụ tháng 8 nên phí dịch vụ tháng 8/2019 Công ty Gleeco còn nợ
Công ty Con Ong là 37.120.109 đồng. Như vậy, Công ty Gleeco còn nợ Công ty
Con Ong số tiền của các tháng 8+9+10/2019 là 539.531.199đồng( trong đó phí
dịch vụ là 487.388.285 đồng và phí chi trả hộ là 52.142.914 đồng). Theo quy định
của Hợp đồng dịch vụ:

24 / 158
Đối với tiền phí dịch vụ có hóa đơn điện tử và kèm theo danh mục các chi
phí dịch vụ đã cung cấp trong từng tháng thì Công ty Con Ong trực tiếp cung cấp
cho Công ty Gleeco;
Các khoản chi trả hộ là các loại phí Công ty Gleeco phải thanh toán cho bên
thứ ba nhưng để thuận tiện cho việc xuất nhập khẩu hàng hóa của Công ty Gleeco,
hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng là Công ty Con Ong sẽ trả hộ cho Công ty
Gleeco sau đó Công ty Gleeco sẽ trả lại cho Công ty Con Ong theo từng tháng
cùng với việc trả tiền phí dịch vụ.
Các hóa đơn điện tử tháng 8+9+10/2019 Công ty Con Ong đã phát hành ghi
nội dung theo yêu cầu của Công ty Gleeco và theo đúng quy định, sau khi nhận
được các hóa đơn này Công ty Gleeco không thắc mắc gì mà mãi đến tháng
01/2020 mới trả lại và yêu cầu Công ty Con Ong phát hành lại nên Công ty Con
Ong không đồng ý với yêu cầu này của Công ty Gleeco.
Trong thời gian thực hiện hợp đồng Công ty Gleeco thường xuyên chậm trả
tiền theo Hợp đồng dịch vụ đã ký nên Công ty Con Ong đã giữ 3 lô hàng xuất khẩu
của Công ty Gleeco và việc giữ hàng này cũng được thỏa thuận trong hợp đồng
mà không phải thông báo trước cho Công ty Gleeco.
Theo thỏa thuận của Hợp đồng dịch vụ, Công ty Gleeco phải thanh toán cho
Công ty Con Ong trong vòng 60 ngày cho tất cả các khoản phí dịch vụ (bao gồm
các khoản chi trả hộ) đã phát sinh trong tháng trước đó, cụ thể:
- Nợ tháng 8/2019 thanh toán trong thời gian từ ngày 01/9/2019 đến ngày
31/10/2019, bị quá hạn từ ngày 01/11/2019;
- Nợ tháng 9 thanh toán trong thời gian từ ngày 01/10/2019 đến 30/11/2019,
quá hạn từ ngày 01/12/2019;
- Nợ tháng 10 thanh toán trong thời hạn từ ngày 01/11/2019 đến ngày
31/12/2019, quá hạn từ ngày 01/01/2020.
Công ty Con Ong đã nhiều lần yêu cầu Công ty Gleeco trả nhưng Công ty
Gleeco không thực hiện. Theo thỏa thuận của hai bên nếu chậm thanh toán nợ
Công ty Gleeco còn phải chịu tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất 0,07%/ngày
tương ứng với thời gian chậm trả, nhưng mức lãi suất này cao so với quy định của
pháp luật nên Công ty Con Ong thay đổi mức lãi suất tính lãi chậm trả theo mức
lãi suất nợ quá hạn trung bình của ba ngân hàng mà Tòa án đã thu thập là
0,03%/ngày, cụ thể số tiền lãi chậm trả từ ngày 01/11/2019 tính đến ngày
15/8/2020 Công ty Gleeco phải trả Công ty Con Ong theo số tiền lãi của từng
tháng như sau:
Số tiền nợ tháng 8/2019 là 60.754.832 đồng, tiền lãi tính từ ngày 01/11/2019
đến ngày 15/8/2020 là 289 ngày bằng: 60.754.832đồng x 289 ngày x 0,03% =
5.251.838 đồng.

25 / 158
Số tiền nợ tháng 9/2019 là 372.041.166 đồng, tiền lãi tính từ ngày
01/12/2019 đến ngày 15/8/2020 là 259 ngày bằng: 372.041.166đồng x 259 ngày x
0,03% = 28.907.599 đồng.
Số tiền nợ tháng 10/2019 là 106.915.201 đồng, tiền lãi tính từ ngày
01/01/2020 đến ngày 15/8/2020 là 228 ngày bằng: 106.915.201 đồng x 228 ngày
x 0,03% = 7.313.000 đồng. Tổng số tiền lãi là 41.472.436 đồng.
Nay Công ty Con Ong khởi kiện yêu cầu Công ty Gleeco phải trả số tiền nợ
gốc và lãi tính đến ngày 15/8/2020 là 581.003.635 đồng, (trong đó nợ gốc là
539.531.199 đồng, nợ lãi là 41.472.436đồng và yêu cầu Công ty Gleeco trả lãi
phát sinh từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm đối với số tiền lãi chậm trả
theo mức lãi suất 0,03%/ngày trên số tiền chậm thanh toán cho đến khi trả xong
nợ. Số tiền lãi chậm trả từ ngày 16/8/2020 đến ngày 27/10/2020 Công ty Con Ong
không yêu cầu Công ty Gleeco trả.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty Gleeco có quan điểm như sau:
Công ty Gleeco và Công ty Con Ong có ký Hợp đồng dịch vụ số 1904005
ngày 18/4/2019 như lời khai của nguyên đơn. Số tiền 539.531.199 đồng Công ty
Gleeco chưa thanh toán cho Công ty Con Ong vì:
- Công ty Con Ong đã tự ý giữa 3 lô hàng xuất của Công ty Gleeco mà
không có thông báo trước bằng văn bản đã vi phạm quy định tại Điều 7.1 trong
Hợp đồng dịch vụ hai bên đã ký dẫn đến Công ty Gleeco bị khách hàng phạt
13.805,6USD, từ chối cung cấp các đơn hàng tiếp theo, công nhân không có việc
làm,
- Các hóa đơn số 0018020, 0018021, 0020249 và 0020250 (Hóa đơn điện
tử của tháng 8+9/2019) Công ty Con Ong phát hàng sai theo quy định của pháp
luật. Đối với các hóa đơn dịch vụ và phí chi trả hộ tháng 10/2020 Công ty Gleeco
chưa nhận được mà chỉ nhận được bảng kê số tiền phí dịch vụ và phí chi trả hộ của
tháng 10/2019.
I. Giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm:
Với nội dung như trên, tại Bản án số: 06/2020/KDTM-ST ngày 27/10/2020
của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã căn cứ vào:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2
Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 513, 515, 519 của Bộ luật Dân sự
năm 2015; các điều 74, 78, 85 và 306 của Luật Thương mại; Điều 11, điểm a khoản
1 Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Điều 6, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án

26 / 158
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải
Con Ong, buộc: Công ty TNHH May quốc tế Gleeco Việt Nam phải có nghĩa vụ
thanh toán cho Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Con Ong số tiền tính đến ngày
15 tháng 8 năm 2020 là 586.533.293 đồng (Năm trăm tám mươi sáu triệu năm
trăm ba mươi ba nghìn hai trăm chín mươi ba đồng), trong đó nợ gốc
539.531.199đồng, nợ lãi 47.002.094 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất 0,03%/ngày tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Về án phí: Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam phải chịu
27.461.332 đồng (Hai mươi bẩy triệu bốn trăm sáu mươi mốt nghìn ba trăm ba
mươi hai đồng) tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà
nước. Trả lại cho Công ty Con Ong số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 13.338.000đ
tại Biên lai thu số 0012604 ngày 26/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
An Dương, thành phố Hải Phòng.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản
án được niêm yết.
II. Nội dung kháng cáo:
Ngày 30/11/2020 Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam đã có đơn
kháng cáo toàn bộ đối với Bản án sơ thẩm số 06/2020/KDTM-ST ngày 27 tháng
10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác đơn khởi kiện của Ngân hàng và cho rằng: Bản án
sơ thẩm không khách quan và nhận thấy có sự khác biệt kết luận giữa hợp đồng
của Công ty Gleeco và Công ty Con Ong.
III. Tại Tòa án cấp phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố phát biểu quan điểm giải quyết
vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương
mại

27 / 158
sơ thẩm số 06/2020/KDTM – ST ngày 27/10/2020 và Quyết định sửa chữa bổ sung
Bản án sơ thẩm số 02/2020/QĐ-SCBSBA ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân
huyện An Dương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH
May Quốc tế Gleeco Việt Nam, việc giải quyết xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và
ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
tòa.
- Về tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:
Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp hợp đồng tín dụng phát
sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại, bị đơn có địa chỉ trụ sở tại thôn Thắng
Lợi, xã An Hưng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng nên vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng theo quy
định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do vụ án có kháng cáo nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Đơn kháng cáo của Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam có
nội dung phù hợp quy định tại Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự; thực hiện trong
thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 273 và đã nộp tiền tạm ứng án phí theo quy
định tại Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận để đưa ra xét xử
phúc thẩm.
- Về nội dung:
[3] Xét kháng cáo của Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt Nam:
[3.1] Hiệu lực của Hợp đồng dịch vụ giao nhận, vận chuyển hàng số 1904005
ngày 18/4/2019;
Công ty Con Ong và Công ty Gleeco là hai doanh nghiệp có đủ tư cách pháp
nhân và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam. Người đại diện
theo pháp luật của hai công ty trực tiếp ký, đóng dấu pháp nhân vào Hợp đồng. Việc
ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, các điều khoản của Hợp
đồng phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và hai bên đều thừa nhận phù
hợp với quy định tại các điều 122, 123, 124, 141 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều
24 Luật thương mại năm 2005 nên đã có hiệu lực và thi hành đối với các bên.
[3.2] Quá trình thực hiện Hợp đồng, nguyên đơn đã cung ứng các dịch vụ
giao nhận hàng hóa cho bị đơn từ tháng 5 đến tháng 10/2019;

28 / 158
Theo thỏa thuận, tại Điều 5 của Hợp đồng có quy định về Phí dịch vụ:
5.1 “ Cước phí giao nhận, vận chuyển:
a, Cước phí vận chuyển chi tiết sẽ được Công ty Con ong thông báo cho Công
ty Gleeco bằng văn bản hoặc bằng thư điện tử dựa trên yêu cầu cụ thể của khách
hàng.
b, Công ty Gleeco coi như chấp nhận báo phí của Công ty Con ong nếu Công
ty Gleeco gửi thông báo về việc chấp thuận đó bằng văn bản hoặc bằng thư điện tử
hoặc chỉ thị yêu cầu Công ty Con ong thực hiện dịch vụ hoặc để cho Công ty Con
ong thực hiện dịch vụ.
….”
5.2 “ Phí chi hộ:
Nếu không có thỏa thuận khác, Công ty Gleeco đồng ý thanh toán cho Công
ty Con ong tất cả các khoản chi phí mà Công ty Con ong đã trả thay cho Công ty
Gleeco bao gồm và không giới hạn...”
Với thỏa thuận trên, nguyên đơn đã chi trả phí dịch vụ (tiền cước dịch vụ và
phí chi trả hộ) cho bị đơn từ tháng 5/2019 đến tháng 10/2019. Từ tháng 5 đến tháng
7/2019 bị đơn đã thanh toán xong.
Số tiền phí dịch vụ của tháng 8,9,10/2019, nguyên đơn đã phát hành hóa đơn
điện tử gửi tới bị đơn là số 0018020 ngày 31/8/2019, 0018021 ngày 31/8/2019,
0020249 ngày 30/9/2019, 0020250 ngày 30/9/2019, 0022311 ngày 31/10/2019 và
0022312 ngày 31/10/2019; kèm bảng kê chi tiết thì số tiền Cước phí giao nhận, vận
chuyển, Phí chi hộ Công ty Gleeco phải trả cho nguyên đơn là 941.980.670 đồng
(trong đó có 889.837.756 đồng là phí giao nhận, vận chuyển, 52.142.914 đồng là
phí chi trả hộ). Bị đơn xác nhận đã nhận được các hóa đơn này và không có ý kiến
về số tiền ghi trên các hóa đơn.
Trong quá trình tố tụng, nguyên đơn, bị đơn cùng xác nhận: Ngày
10/10/2019 bị đơn thanh toán cho nguyên đơn 500.000.000 đồng và được trừ vào
tiền nợ tháng 7/2019 là 97.550.529 đồng, còn lại 402.449.471 đồng trừ vào phí
dịch vụ tháng 8/2019. Số tiền nợ còn lại của tháng 8+9+10/2019 bị đơn chưa thanh
toán là 539.531.199 đồng (trong đó phí dịch vụ là 487.388.285 đồng và phí chi trả
hộ là 52.142.914 đồng). Vì vậy nguyên đơn khởi kiện bị đơn phải trả số tiền này
là hoàn toàn có căn cứ.
[3.3] Về thời hạn phát sinh số tiền lãi chậm thanh toán:
Tại Điều 6.1 của Hợp đồng cung ứng mà hai bên đã thỏa thuận:
“a, Công ty Gleeco phải thanh toán cho Công ty Con Ong trong vòng 60
ngày cho tất cả các khoản phí dịch vụ (bao gồm các khoản chi trả hộ) đã phát sinh
trong tháng trước đó…

29 / 158
b. Trường hợp Công ty Gleeco thanh toán không đầy đủ và đúng hạn như
nêu tại Điều 6.1(a) ở trên khách hàng phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả …”.
Với thỏa thuận trên thì nguyên đơn được quyền tính lãi đối với bị đơn với
thời gian được tính của tháng 8/2019 là ngày 01/11/2019, tháng 9/2019 là ngày
01/12/2019, tháng 10/2019 là ngày 01/01/2020. Nguyên đơn yêu cầu tính lãi
chậm thanh toán: từ 01/11/2019 đến ngày 15/8/2020 và kể từ ngày tiếp theo của
ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong nợ, không yêu cầu tính lãi từ
ngày 16/8/2020 đến ngày 27/10/2020 như Tòa cấp sơ thẩm đã xem xét và chấp
nhận là có căn cứ.
[3.4] Về mức lãi suất:
Tại mục b điểm 6.1 Điều 6 Hợp đồng dịch vụ hai bên thỏa thuận:
“Trường hợp khách hàng thanh toán không đầy đủ và đúng hạn như nêu tại
Điều 6.1 (a) ở trên, khách hàng phải trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất
0,07%/ngày, ứng với thời gian chậm trả.”
Tại Điều 306 Luật Thương mại quy định:“Trường hợp bên vi phạm hợp
đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi
phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số
tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm
thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác”.
Trong trường hợp này nguyên đơn và bị đơn đã có thỏa thuận khác về lãi
chậm trả là 0,07%/ngày, tương ứng với thời gian chậm trả. Tuy nhiên trong quá
trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm đã chấp nhận sự thay đổi mức lãi suất
của nguyên đơn từ 0,07%/ngày xuống 0,03%/ngày tương ứng với mức lãi suất nợ
quá hạn trung bình của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam và Ngân hàng TMCP Ngoại
thương Việt Nam là phù hợp với quy định của pháp luật, không vượt quá thỏa
thuận như trong Hợp đồng mà hai bên đã ký và không làm ảnh hưởng đến quyền
lợi của các bên nhưng chỉ được tính đến ngày xét xử sơ thẩm.
[3.5] Số tiền lãi chậm trả tính từ ngày 01/11/2019 đến ngày 15/8/2020; cụ
thể:
Nợ tháng 8/2019 là: 60.574.832đ x 289 ngày x 0,03% = 5.251. 838đ
Nợ tháng 9/2019 là: 372.041.166đ x 259 ngày x 0,03% = 28.907.599đ
Nợ tháng 10/2019 là: 106.915.201đ x 228 ngày x 0,03% = 7.313.000đ
Tổng: 41.472.436 đồng.
[4] Xét các lý do bị đơn đưa ra để chưa thanh toán số tiền 539.531.199
đồng nợ gốc cho nguyên đơn:

30 / 158
[4.1] Nguyên đơn đã tự ý giữa 3 lô hàng xuất của bị đơn mà không có
thông báo trước bằng văn bản đã vi phạm quy định tại Điều 7.1 trong Hợp đồng
dịch vụ hai bên đã ký dẫn đến bị đơn bị khách hàng phạt 13.805,6USD, từ chối
cung cấp các đơn hàng tiếp theo, công nhân không có việc làm;
Tại khoản 7.1 Điều 7 của Hợp đồng quy định: “Nếu Công ty Con Ong
không nhận đầy đủ, đúng hạn các khoản chi phí theo quy định tại Điều 6 của
Hợp đồng, Công ty Con Ong có quyền lưu giữ hàng hóa và thông báo bằng văn
bản cho khách hàng”. Với thỏa thuận này, nguyên đơn thực hiện đúng như đã
thỏa thuận trong hợp đồng.
[4.2] Các hóa đơn số 0018020, 0018021, 0020249 và 0020250 mà nguyên
đơn phát hàng sai theo quy định của Bộ tài chính;
Xét thấy, trong hợp đồng không có thỏa thuận nào đề cập đến: Trường hợp
nếu phát hành sai mẫu hóa đơn thì bị đơn không phải thanh toán tiền hàng cho
nguyên đơn; bị đơn không chỉ ra các hóa đơn nêu trên sai ở chỗ nào; trên hóa đơn
thể hiện đầy đủ chi tiết các tiêu chí như tên hàng hóa, dịch vụ, đơn vị tính, số
lượng, đơn giá hàng hóa, thành tiền… đúng như quy định tại khoản 3 Điều 3 của
Thông tư số 32/2011/TT-BTC của Bộ Tài Chính quy định về hóa đơn điện tử;
các hóa đơn nêu trên bị đơn đã được nhận và không có ý kiến về số tiền phải
thanh toán ghi trên hóa đơn.
[4.3] Đối với các hóa đơn dịch vụ phí chi trả hộ tháng 10/2020 Công ty
Gleeco chưa nhận được mà chỉ nhận được bảng kê số tiền phí chi trả hộ của tháng
10/2019;
Bảng kê số tiền phí chi trả hộ của tháng 10/2019 là 11.350.000 đồng bị đơn
đã nhận được. Tại tòa cấp sơ thẩm nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ hóa đơn phí
trả hộ tháng 10/2019 phù hợp với số tiền ghi trong bảng kê.
Như vậy, những lý do bị đơn đưa ra như đã phân tích ở trên là không có
cơ sở chấp nhận.
[5] Về việc tuyên lãi suất thi hành án:
Đối với phần lãi suất thi hành án trong bản án sơ thẩm đã tuyên: “Kể từ
ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất 0,03%/ngày tương ứng với thời gian chậm trả” là không đúng với
điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “ Đối với trường hợp
chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả
lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi
hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất của các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp
với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết
định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015”.

31 / 158
Trong vụ án này số tiền còn phải thi hành án bao gồm cả tiền gốc và tiền
lãi, lãi suất theo thỏa thuận của các bên là 0,07%/ngày. Tòa cấp sơ thẩm đã chấp
nhận theo yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn tiếp tục trả lãi với mức lãi suất
0,03%/ ngày cho đến khi trả xong là không vượt quá mức lãi suất theo quy định
của pháp luật và có lợi cho bị đơn. Nên cần chấp nhận và giữ nguyên án sơ thẩm.
[6] Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do bản án kinh doanh thương
mại sơ thẩm được giữ nguyên nên bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại
phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều
308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao;
Căn cứ các điều 513, 515, 519 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các điều 74,
78, 85 và 306 của Luật Thương mại năm 2005;
Điều 6, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH May Quốc tế Gleeco Việt
Nam. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 06/2020/KDTM-ST ngày 27 tháng 10 năm
2020, Quyết định sửa chữa bổ sung Bản án sơ thẩm số 02/2020/QĐ-SCBSBA ngày
17/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, cụ thể
như sau:
1. Buộc Công ty TNHH May quốc tế Gleeco Việt Nam phải có nghĩa vụ
thanh toán cho Công ty Cổ phần Giao nhận Vận tải Con Ong số tiền tính đến ngày
15 tháng 8 năm 2020 là 581.003.635 đồng (Năm trăm tám mươi mốt triệu không
trăm không ba nghìn sáu trăm ba mươi lăm đồng), trong đó nợ gốc 539.531.199
đồng, nợ lãi 41.472.436 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong,
bị đơn còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất là 0,03%/ngày tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Về án phí:
- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bị đơn phải chịu 27.240.145
đồng (Hai mươi bẩy triệu hai trăm bốn mươi nghìn một trăm bốn mươi lăm đồng).
Trả lại nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 13.338.000đ theo Biên lai thu

32 / 158
số 0012604 ngày 26/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương,
thành phố Hải Phòng.
- Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Bị đơn phải chịu 2.000.000đ
(hai triệu đồng). Số tiền này bị đơn đã nộp đủ theo Biên lai thu tạm ứng tiền án
phí, lệ phí tòa án số 0012929 ngày 07/12/2020 của Chi cục Thi hành án huyện An
Dương, thành phố Hải Phòng.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều
2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND huyện An Dương; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND thành phố Hải Phòng;
- Chi cục THADS huyện An Dương;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, hồ sơ vụ án, TKT

Lương Thị Hải Hà

33 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 75/2021/KDTM-PT


Ngày: 29/4/2021
V/v: Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

NHÂNDANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Hoàng Minh Thành
Các thẩm phán: Bà: Ngô Tuyết Băng
Bà: Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Thư ký phiên tòa: Bà: Đỗ Thị Hạnh-Thẩm tra viên Toà án nhân dân Thành phố
Hà Nội
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên toà:
Ông Trần Văn Lừng-Kiểm sát viên.
Ngày 29/4/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm
công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 56/2021/TLPT-KDTM ngày
05/3/2021 về việc Tranh chấp Hợp đồng dịch vụ. Do bản án kinh doanh thương mại
sơ thẩm số 41/2020/ KDTM-ST ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân quận H, thành
phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2021/QĐ-PT ngày 23/3/2021của
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội và Quyết định hoãn phiên tòa số 201/2021/QĐ-
PT ngày 20/4/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T

Địa chỉ trụ sở tại: P303 B3 - 101 L, phường L, quận Đ, thành phố H; Người đại diện

theo pháp luật: Bà Phan Thị Thu H – Tổng Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền:

Ông Ngô Quốc B, sinh năm 1975 (có mặt).

34 / 158
Địa chỉ liên hệ tại: P615 Tòa nhà 133, ngõ 131 T, phường T, quận Đ, thành
phố H.

- Bị đơn: Công ty TNHH MTV Tổng công ty xăng dầu Q; Địa chỉ trụ sở: Số
33B P, phường P, quận H, H
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trọng U – Tổng Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Tiến H, sinh năm 1971; ông
Nguyễn Thành T, sinh năm 1980 (có mặt).
Cùng có địa chỉ liện hệ tại: số 33B P, phường P, quận H, thành phố H.

Luật sư bảo vệ quyền và lượi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Hồ Sỹ H –
Công ty Luật TNHH LHD thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (có mặt).

Người kháng cáo:Công ty TNHH MTV Tổng công ty xăng dầu Q

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/9/2017 và đơn khởi kiện bổ sung ngày
18/9/2018 và tại các biên bản ghi lời khai, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn trình bày:
Ngày 25/10/2010 Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T (viết tắt là Công ty
Hàng hải T) và Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q (tên trước
đây là Tổng Công ty xăng dầu Q) (viết tắt là Công ty Xăng dầu Q) đã ký kết Hợp
đồng dịch vụ thu đòi bồi thường từ người thứ ba số 009/MIPECORP-TMS/2010.
Theo đó Công ty Xăng dầu Q đã thuê Công ty Hàng hải T đòi bồi thường từ người
thứ ba là Chủ tàu Vinashin 1 đối với thiệt hại hàng hóa chở trên tàu Thiên Tân ALCI
thuộc phần trách nhiệm bồi thường của Chủ tàu Vinasshin 1 trong tai nạn đâm va
giữa tàu Vinashin 1 và tàu Thiên Tân ALCI ngày 12/4/2009.

Ngày 15/12/2010 Công ty Hàng hải Tvà Công ty Xăng dầu Q tiếp tục ký Phụ
lục hợp đồng số 01-009/MIPECORP-TMS/2010. Theo đó Công ty Xăng dầu Q tiếp
tục thuê Công ty T đòi bồi thường từ người thứ ba là Chủ tàu Thiên Tân ALCI đối
với phần tổn thất hàng hóa thuộc trách nhiệm bồi thường của Chủ tàu Thiên Tân
ALCI.
Thực hiện hợp đồng, Công ty Hàng hải T đã nghiên cứu hồ sơ vụ việc, khiếu
nại các bên liên quan, soạn thảo đơn khởi kiện, tư vấn chuẩn bị hồ sơ liên quan để
Công ty Xăng dầu Q khởi kiện vụ án ra Tòa án, đồng thời Công ty Hàng hải T cử
người nhận ủy

35 / 158
quyền của Công ty Xăng dầu Q để tham gia tố tụng tại Tòa án nhân dân các cấp có
thẩm quyền.

+ Ngày 05/12/2012, Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội đã ra Quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên Tòa số: 25/2012/QĐST-
DS; theo nội dung của Quyết định này thì Công ty TNHH MTV vận tải Viễn dương
Vinashin bồi thường cho Công ty Xăng dầu Q số tiền là: 4.800.000.000 đồng.

+ Ngày 14/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố H ra bản án phúc thẩm số
31/2015/KDTM-PT; theo nội dung của bản án này thì Công ty cổ phần vận tải biển
và thương mại Thiên Tân phải bồi thường cho Công ty Xăng dầu Q số tiền là:
4.273.316.430 đồng.

Căn cứ Hợp đồng dịch vụ thu đòi bồi thường từ người thứ ba số:
009/MIPECORP – TMS/2010 ngày 25/10/2010 và phụ lục hợp đồng số 01-
009/MIPECORP-TMS/2010 ngày 15/12/2010 ký giữa hai bên thì tỷ lệ phí dịch vụ
được tính như sau:

Nếu tỷ lệ thu đòi được dưới 60% thì phí dịch vụ là 25% Nếu tỷ lệ thu đòi được

từ 60 % - 79% thì phí dịch vụ là 30%

Nếu tỷ lệ thu đòi được từ 80 % - 100% thì phí dịch vụ là 35%

Thời gian thanh toán: Trong vòng 15 ngày kể từ thời điểm xảy ra một trong hai
điều kiện dưới đây, tùy theo điều kiện nào đến trước: Điều kiện thứ nhất: Bên thứ
ba chấp nhận bồi thường và khoản tiền bồi thường được chuyển thành công vào tài
khoản của Bên A (Bên A trong hợp đồng là Công ty Xăng dầu Q); Điều kiện thứ
hai: Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được Tòa án có thẩm quyền đưa ra.

Sau khi có bản án, quyết định của Tòa án nhân dân quận H và Tòa án nhân
dân thành phố H, Công ty Hàng hải T đã nhiều lần gửi văn bản đề nghị Công ty
Xăng dầu Q thanh toán phí dịch vụ nhưng cho đến nay Công ty Hàng hải T vẫn chưa
nhận được thanh toán từ Công ty Xăng dầu Q

Như vậy: Căn cứ tính số tiền yêu cầu thanh toán như sau:

Theo nội dung Quyết định số 25/2012/QĐST-DS ngày 05/12/2012 của Tòa
án nhân dân quận H thì: Số tiền Công ty Xăng dầu Q yêu cầu Công ty TNHH MTV
Vận tải viễn dương Vinashin bồi thường thiệt hại là: 4.289.651.488 đồng và
tiền lãi là:

36 / 158
1.029.516.357 đồng, tổng cộng là: 5.319.167.845 đồng. Tòa án quận H đã chấp nhận
buộc Công ty TNHH MTV Vận tải viễn dương Vinashin phải bồi thường cho Công
ty Xăng dầu Q số tiền là: 4.800.000.000 đồng. Vậy tỷ lệ thu đòi được là 90,23 %.
Căn cứ hợp đồng số 009/MIPECORP – TMS/2010 thì phí dịch vụ thu đòi là 35%
tương đương với số tiền là: 1.680.000.000 đồng.

Theo bản án số 31/2015/KDTM-PT ngày 14/12/2015 của Tòa án nhân dân


thành phố H thì: Số tiền Công ty Xăng dầu Q yêu cầu Công ty cổ phần vận tải biển
và thương mại Thiên Tân bồi thường trị giá hàng hóa tổn thất là: 3.441.366.164 đồng
và tiền lãi là 1.866.128.000 đồng, tổng cộng: 5.307.494.164 đồng. Tòa án nhân dân
thành phố H đã chấp nhận buộc Công ty cổ phần vận tải biển và thương mại Thiên
Tân phải bồi thường cho Công ty Xăng dầu Q là: 4.273.316.430 đồng. Vậy tỷ lệ thu
đòi được là: 80.51%. Căn cứ hợp đồng dịch vụ số 009/MIPECORP – TMS/2010 thì
phí dịch vụ thu đòi là 35% tương đương với số tiền là: 1.495.660.750 đồng.

Tổng cộng phí dịch vụ thu đòi mà Công ty xăng dầu Q phải trả cho nguyên
đơn là: 3.175.660.750 đồng.

Ngày 17/9/2012 Tổng Công ty Xăng dầu Q và Công ty Hàng hải T đã ký phụ
lục hợp đồng số 03-009/MIPECORP-TMS/2012. Theo đó thì Công ty Xăng dầu Q
tạm ứng 10% cho Công ty Hàng hải T và Công ty Xăng dầu Q đã chuyển khoản cho
Hàng hải Ttrong vòng 10 ngày kể từ ngày ký phụ lục hợp đồng với tổng số tiền là :
1.019.000.000 đồng. Số tiền này Công ty Hàng hải T đã nhận được và đã sử dụng
để làm chi phí thực hiện việc khởi kiện ở giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm.

Nay Công ty Hàng hải Ttự nguyện trừ đi số tiền đã nhận tạm ứng này là:
(3.175.660.750 đồng - 1.019.000.000 đồng) = 2.156.660.750 đồng.

Đại diện nguyên đơn đề nghị Tòa án buộc Công ty Xăng dầu Q còn phải tiếp
tục thanh toán tiền phí thu đòi bồi thường từ bên thứ ba cho Công ty Hàng hải T là
2.156.660.750 đồng.

Về tiền lãi do chậm thanh toán: Đại diện nguyên đơn tự nguyện xin rút yêu cầu
đối với tiền lãi chậm thanh toán.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn – ông Nguyễn Thành T trình bày:

Xác nhận việc giữa hai công ty có ký kết Hợp đồng dịch vụ thu đòi bồi thường
từ người thứ ba số 009/MIPECORP-TMS/2010 ngày 25/10/2010 và Phụ lục số 01-

37 / 158
009/MIPECORP-TMS/2010 ngày 15/12/2010. Theo đó Công ty Xăng dầu Q thuê
Công ty Hàng hải Tđòi bồi thường thiệt hại của Công ty Xăng dầu Q đối với các đơn
vị vận tải là Chủ tàu Vinashin 1 và Chủ tàu Thiên Tân ALCI.

Công ty Hàng hải Tđã căn cứ theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự tại phiên tòa số 25/2012/QĐST-DS ngày 05/12/2012 của Tòa án nhân dân
quận H và Bản án phúc thẩm số 31/2015/KDTM-PT ngày 14/12/2015 của Tòa án
nhân dân thành phố H để yêu cầu đòi Công ty Xăng dầu Q tổng số tiền phí dịch vụ là
3.175.660.751 đồng, đại diện bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn vì:

Căn cứ Điều 2.1 Hợp đồng dịch vụ số 009/MIPECORP-TMS/2010 xác định


việc tính phí dịch vụ thu đòi bồi thường theo nguyên tắc: “không đòi được tiền không
phải trả phí”. Do vậy, để có căn cứ chứng minh quyền yêu cầu thanh toán của nguyên
đơn, đề nghị nguyên đơn xuất trình các tài liệu chứng minh việc Công ty Xăng dầu Q
đã nhận được tiền bồi thường thiệt hại của Bên có nghĩa vụ theo các Bản án và Quyết
định của Tòa án như nội dung mà nguyên đơn đã nêu, đồng thời đề nghị đại diện
nguyên đơn xuất trình tài liệu làm căn cứ để tính số phí phải trả vì trong hợp đồng đã
quy định rõ nếu thu được dưới 60% thì phí là 25%, thu được từ 60% - 79% phí là
30%, thu được 80% - 100% thì phí là 35%.

Ngoài ra bị đơn còn đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn theo hướng đình chỉ trả lại đơn khởi kiện và đề nghị Tòa
án xác minh thời điểm nộp đơn khởi kiện cho đến khi có Thông báo thụ lý vụ án.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn xin rút toàn bộ yêu cầu tính lãi
chậm thanh toán đối với bị đơn.
Bản án sơ thẩm số 41/2020/KDTM-ST ngày 07/12/2020 của Toà án nhân
dân quận H đã xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải Tđối với
Tổng Công ty xăng dầu Q theo hợp đồng số 009/MIPECORP-TMS/2010 ngày
25/10/2010.
Buộc Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q phải thanh
toán cho Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải Ttổng số tiền là: 2.156.660.750 đồng
(Hai tỷ, một trăm năm mươi sáu triệu, sáu trăm sáu mươi nghìn, bẩy trăm năm mươi
đồng).
Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật, Công ty Hàng hải Tcó đơn yêu cầu thi hành
án mà Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q không thanh toán
hoặc

38 / 158
thanh toán không đầy đủ số tiền phải thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu khoản
tiền lãi tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm, Công ty
TNHH MTV Tổng công ty xăng dầu Q kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm với nội
dung: đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại cấp phúc thẩm và tại phiên tòa hôm nay
Đại diện nguyên đơn: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các lời khai, chứng cứ đã
cung cấp tại Tòa án cấp sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện bị đơn: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bầy: Tòa án cấp sơ
thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tụng tố tụng khi xác định ngày khởi kiện của nguyên
đơn là ngày 04/10/2017 là sai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bị đơn.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời hiệu khởi kiện của nguyên đơn vẫn còn (kể
từ ngày 30/12/2015 đến ngày 04/10/2017) là sai vì theo bị đơn Tòa án cấp sơ thẩm
phải xác định ngày quyền và lợi ích của nguyên đơn bị xâm phạm là thời điểm sau 15
ngày kể từ ngày Tòa án nhân dân quận H ban hành Quyết định số 25 ngày 05/12/2012
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định là ngày 30/12/2015 (sau 15 ngày kể từ ngày
Tòa án nhân dân thành phố H ban hành bản án phúc thẩm số 31/2015). Đồng thời,
trong trường hợp này phải xác định ngày khởi kiện của nguyên đơn là ngày nộp đơn
khởi kiện bổ sung (ngày 18/9/2018) nên căn cứ Điều 319 Luật Thương mại thì thời
hiệu khởi kiện đã hết.
Việc ký kết hợp đồng dịch vụ thu đòi bồi thường người thứ ba giữa nguyên đơn
và bị đơn xuất phát từ việc các chủ tàu Vinashin 1 và chủ tàu Thiên Tân không có
khả năng thanh toán tiền bồi thường cho bị đơn. Do đó nguyên đơn phải tiến hành
việc thu đòi bồi thường với bên thứ ba là Công ty bảo hiểm của các chủ tàu Vinashin
1 và chủ tàu Thiên Tân mới đúng.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bầy luận cứ:
Căn cứ vào hợp đồng số 009/MIPECORP-TMS/2010 ngày 25/10/2010 và các
phụ lục hợp đồng đã ký giữa nguyên đơn và bị đơn thì không có căn cứ xác định
nghĩa

39 / 158
vụ của bị đơn đới với nguyên đơn. Sau khi hai bên ký hợp đồng và phụ lục hợp đồng,
Công ty T (nguyên đơn) chưa thu được tiền cho bị đơn. Lẽ ra nguyên đơn phải tiến
hành việc thu đòi bồi thường với bên thứ ba là Công ty bảo hiểm của các chủ tàu
Vinashin 1 và chủ tàu Thiên Tân mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời hiệu
khởi kiện của nguyên đơn vẫn còn (kể từ ngày 30/12/2015 đến ngày 04/10/2017) là
sai vì theo bị đơn Tòa án cấp sơ thẩm phải xác định ngày quyền và lợi ích của nguyên
đơn bị xâm phạm là thời điểm sau 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhân dân quận H ban
hành Quyết định số 25 ngày 05/12/2012 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định là
ngày 30/12/2015 (sau 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhân dân thành phố H ban hành bản
án phúc thẩm số 31/2015). Trong trường hợp này phải xác định ngày khởi kiện của
nguyên đơn là ngày nộp đơn khởi kiện bổ sung (ngày 18/9/2018). Vì vậy, toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của Công ty T đã hết thời hiệu khởi kiện. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận kháng của bị đơn, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích nội dung vụ án đã phát biểu ý kiến như
sau:
Đơn kháng cáo trong thời hạn, các đương sự kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí
phúc thẩm là hợp lệ.
Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi
xét xử đúng quy định pháp luật.
Về các nội dung kháng cáo: Xét việc các bên ký kết Hợp đồng dịch vụ giữa
nguyên đơn và bị đơn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với qui định Bộ luật
dân sự. Do đó xác định Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp và có hiệu lực thi hành. Do bị
đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn khởi kiện là có căn cứ. Xác định
nguyên đơn khởi kiện trong thời hiệu khởi kiện. Kháng cáo của bị đơn không phù hợp
với hợp đồng hai bên đã ký.
Từ phân tích nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
bị
đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu do các bên đương sự cung cấp và Tòa án thu
thập được trong quá trình tố tụng, sau khi đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa.
Căn cứ vào kết quả hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

40 / 158
1. Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của bị đơn được làm trong thời hạn luật định và đã đóng tiền tạm
ứng án phí theo quy định pháp luật.
Toà án đã tống đạt hợp lệ Quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và các
văn bản tố tụng cho tất cả các đương sự trong vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm có đại
diện nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của bị đơn.
* Về quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T và
Tổng công ty xăng dầu Q phát sinh từ hợp đồng dịch vụ số 009/MIPECORP-
TMS/2010 ngày 25/10/2010 nên được xác định là tranh chấp hợp đồng dịch vụ theo
quy định pháp luật.
* Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là Tổng công ty xăng dầu Q có địa chỉ trụ
sở: Số 33B P, phường P, quận H, thành phố H. Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản
1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật Tố tụng Dân sự thì Tòa án nhân dân quận
H, thành phố Hà Nội thụ lý, giải quyết sơ thẩm là đúng thẩm quyền.Tòa án cấp sơ thẩm
đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp
luật.
* Về quyền khởi kiện, chủ thể khởi kiện:Phù hợp với quy định tại Điều 186 Bộ
luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
2. Về nội dung kháng cáo:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, lời trình bầy của các đương sự tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
Về việc bị đơn cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xác định thời hiệu khởi kiện vẫn
còn là sai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Hội
đồng xét xử xét thấy:
Ngày 05/12/2012 Tòa án nhân dân quận H ra Quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự số 25/2012/QĐST-DS và Ngày 14/12/2015, Tòa án nhân dân
thành phố H ra bản án phúc thẩm số 31/2015/KDTM-PT. Như vậy ngày 05/12/2012
Tòa án quận H ra quyết định nêu trên thì Công ty Hàng hải Tmới thực hiện được một
phần của Hợp đồng dịch vụ. Ngày 14/12/2015 Tòa án nhân dân thành phố H ra Bản án
số 31/2015/KDTM-PT thì công việc theo Hợp đồng dịch vụ số 009/MIPECORP-
TMS/2010 ngày 25/10/2010 và Phụ lục Hợp đồng số 01-009 giữa nguyên đơn và bị
đơn mới hoàn thành. Tại khoản 2.4 Điều 2 của Hợp đồng quy định về thời gian thanh
toán là: “trong thời hạn 15 ngày kể từ thời điểm xảy ra một trong hai điều kiện dưới
đây tùy

41 / 158
theo điều kiện nào đến trước: Bên thứ ba chấp nhận bồi thường và khoản tiền bồi
thường được chuyển thành công vào tài khoản của Bên A (Bên A trong hợp đồng là
Công ty Xăng dầu Q); Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được Tòa án có thẩm
quyền đưa ra”. Như vậy trong hạn 15 ngày kể từ ngày 14/12/2015 Công ty Xăng dầu
Q phải thực hiện việc thanh toán phí dịch vụ. Đến ngày 30/12/2015 Công ty Xăng dầu
Q không trả phí dịch vụ là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Ngày 18/9/2017 Công ty Hàng
hải Tcó đơn khởi kiện và đến ngày 04/10/2017 Tòa án nhân dân quận H nhận được đơn
khởi kiện của nguyên đơn (là 01 năm 09 tháng 04 ngày còn trong thời hiệu khởi kiện).
Việc bị đơn cho rằng không có tài liệu nào để chứng minh Tòa án nhân dân quận H,
thành phố Hà Nội nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn vào tháng 10 năm 2017.
Tòa án cấp phúc thẩm thấy tuy không có tài liệu về việc nhận đơn khởi kiện nào năm
2017. Tuy nhiên, trong các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện để chứng minh tư cách
pháp lý của nguyên đơn khởi kiện có bản sao công chứng lập tháng 10/2017. Hợp đồng
số 009/MIPECORP-TMS/2010 ngày 25/10/2010 và Phụ lục số 01-009/MIPECORP-
TMS/2010 ngày 15/12/2010 được công chứng vào tháng 10/2017 nên có cơ sở để xác
định thời điểm nguyên đơn khởi kiện là tháng 10/2017. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút
kinh nghiệm khi để đơn khởi kiện lâu mới thụ lý vụ án. Việc bị đơn cho rằng thời hiệu
khởi kiện đã hết và yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu để đình chỉ giải quyết vụ án theo
quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là không đúng,
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của bị đơn là có căn cứ, đúng với
quy định pháp luật.

Theo hợp đồng và các phụ lục hợp đồng các bên đã ký thì nguyên đơn đã thực
hiện xong phần nghĩa vụ của mình nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi bị đơn
phải trả tiền dịch vụ là có căn cứ.
Việc bị đơn cho rằng tại khoản 2.1 Điều 2 của Hợp đồng 009/MIPECORP –
TMS/2010 ngày 25/10/2010 quy định: “ Phí dịch vụ thu đòi bồi thường được tính theo
nguyên tắc – không đòi được tiền không phải trả phí” và do hiện nay bị đơn chưa thu
được tiền từ Công ty Viễn dương Vinashin và Công ty cổ phần vận tải biển và thương
mại Thiên Tân nên chưa phát sinh nghĩa vụ trả phí là không đúng và không có cơ sở
chấp nhận bởi lẽ: Căn cứ vào hợp đồng và các phụ lục hợp đồng mà nguyên đơn và bị
đơn ký với nhau thì nguyên đơn đã thực hiện các công việc cần thiết và đã hoàn thành
khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền. Đồng thời,
bị đơn không yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự quận H, Hà Nội thi hành đối với
Quyết định số 25. Điều này được thể hiện tại Công văn số 153/CV-THADS ngày
03/11/2020

42 / 158
của Chi cục thi hành án dân sự quận H và biên bản đối chiếu công nợ ngày 10/01/2014
giữa Công ty Xăng dầu Q và Công ty Vinashin thể hiện sau khi có Quyết định số 25
Công ty Xăng dầu Q đã tự gặp gỡ làm việc với Công ty Vinashin và Công ty Vinashin
đã trả cho Công ty xăng dầu Q số tiền là 150.000.000 đồng, số tiền còn lại tính đến
ngày 31/12/2013 Công ty Vinashin còn nợ Công ty Xăng dầu Q là 4.650.000.000 đồng.
Tại Công văn số 35/CCTHADS ngày 14/02/2020 Chi cục thi hành án dân sự quận Ngô
Quyền, thành phố H cho biết đã ra Quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án tại
Bản án số 31/2015KDTM-PT ngày 14/12/2015 vì lý do Công ty Thiên Tân đã không
còn hoạt động, bỏ địa chỉ và không có tài sản gì để thi hành.

Hội đồng xét xử sau khi xem xét số tiền dịch vụ mà bị đơn phải trả trong vụ án
này thấy rằng: Sau khi ký hợp đồng dịch vụ nêu trên, Công ty Hàng hải Tđã tiến hành
các công việc theo hợp đồng đã ký giữa hai bên. Kết quả: Ngày 05/12/2012, Tòa án
nhân dân quận H, thành phố Hà Nội đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự số 25/2012/QĐST-DS, theo đó thì Công ty Vinashin bồi thường cho Tổng
Công ty Xăng dầu Q số tiền là: 4.800.000.000 đồng.

Ngày 14/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố H ra bản án phúc thẩm số
31/2015/KDTM-PT theo đó thì Công ty cổ phần vận tải biển và thương mại Thiên Tân
phải bồi thường cho Tổng Công ty Xăng dầu Q số tiền là 4.273.316.430 đồng. Căn cứ
Điều 2 của Hợp đồng dịch vụ số: 009/MIPECORP – TMS/2010 ngày 25/10/2010 và
phụ lục hợp đồng số 01ngày 15/12/2010 thì phí dịch vụ Tổng Công ty Xăng dầu Q phải
thanh toán cho Công ty Hàng hải Tđược tính theo tỷ lệ số tiền thu đòi được như sau:

Theo nội dung Quyết định số 25/2012/QĐST-DS ngày 05/12/2012 của Tòa án
nhân dân quận H thì tỷ lệ thu đòi được là 4.800.000.000 đồng : 5.319.167.845 đồng x
100 = 90,23%. Vì vậy phí dịch vụ thu đòi là 35% số tiền thu đòi được tương đương
35% x 4.800.000.000 đồng = 1.680.000.000 đồng.

Theo bản án số 31/2015/KDTM-PT ngày 14/12/2015 của Tòa án nhân dân thành
phố H thì tỷ lệ thu đòi được là: 4.273.316.430 đồng : 5.307.494.164 đồng x 100 =
80.51%. Vì vậy, phí dịch vụ thu đòi là 35%; số tiền thu đòi được tương đương: 35% x
4.273.316.430 đồng = 1.495.660.750 đồng.

Tổng cộng phí dịch vụ thu đòi mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn là
2.156.660.750 đồng (sau khi đã trừ đi số tiền bị đơn đã tạm ứng cho nguyên đơn theo
phụ lục hợp đồng số 03 ngày 17/9/2012 là 1.019.000.000 đồng).
Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn là Tổng Công ty xăng dầu Q phải

43 / 158
trả nguyên đơn số tiền phí dịch vụ là 2.156.660.750 đồng theo hợp đồng hai bên đã ký
là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Từ những phân tích nêu trên nên không có cơ
sở chấp nhận kháng cáo Tổng công ty xăng dầu Q. Tuy nhiên, lãi suất chậm thanh toán
của bị đơn ở khi thi hành án không đúng quy định pháp luật nên phải sửa.

Luận cứ của Luật sư bảo vệ quyền và nghĩa vụ của bị đơn có 03 nội dung trùng
với kháng cáo của bị đơn đã được Hội đồng xét xử phân tích nên không nêu lại.

Kết luận của vị đại diện Viện Kiểm Sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa
phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét
xử.
Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:
- Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 38, Khoản 2 Điều 148, khoản 2
điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 518; khoản 2 Điều 520; Điều 524 Bộ luật Dân sự năm 2005;

- Điều 87; Điều 319 Luật Thương mại năm 2005;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban


thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí tòa án.

Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 41/2020/KDTM-ST ngày


07/12/2020 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội.
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải Tđối với Công
ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q theo hợp đồng số 009/MIPECORP-
TMS/2010 ngày 25/10/2010 và phụ lục hợp đồng số 01- 009/MIPECORP-TMS/2010
ngày 15/12/2010.

1. Buộc Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q phải thanh toán
cho Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải Ttổng số tiền là: 2.156.660.750 đồng (Hai tỷ, một
trăm năm mươi sáu triệu, sáu trăm sáu mươi nghìn, bẩy trăm năm mươi đồng). Kể từ khi
án có hiệu lực pháp luật, Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải T có đơn yêu cầu thi hành án

44 / 158
mà Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q không thanh toán hoặc
thanh toán không đầy đủ số tiền phải thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền
lãi theo khoản 2 Điều 468 tương ứng với số tiền chưa thi hành án và thời gian chậm thi
hành án.

2.Về án phí:
Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q phải chịu án phí kinh
doanh thương mại sơ thẩm là 75.133.000 đồng (bẩy mươi lăm triệu, một trăm ba mươi
ba nghìn đồng). Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty xăng dầu Q không phải
chịu 2.000.000 (hai triệu) đồng tiền án phí phúc thẩm. Trả lại Công ty TNHH một thành
viên Tổng Công ty xăng dầu Q 2.000.000 (hai triệu) đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp tại biên lai số 0018156 ngày 29/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận H,
thành phố Hà Nội

Trả lại Công ty TNHH Dịch vụ Hàng hải Tsố tiền tạm ứng án phí đã nộp là
47.800.00 đồng (bốn mươi bẩy triệu, tám trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo
biên lai số 0002939 ngày 29/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận H.

Trường hợp quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 29/4/2021

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM ,


. THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- VKSND T/p Hà Nội;
- TAND quận H;
- Chi cục THADS quận H;
- Các đương sự; Hoàng Minh Thành
- Hồ sơ vụ án;
- Lưu VP.

45 / 158
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
HUYỆN ĐÔNG ANH
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bản án số: 15/2019/KDTM - ST


Ngày: 19/02/2020
V/v: Tranh chấp hợp đồng Dịch vụ bảo
vệ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Phi Hùng.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Nguyễn Thị Giang.
2. Ông Phạm Mạnh Hà.
- Thư ký phiên tòa: Ông Hoàng Minh Anh - Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội tham gia
phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thúy Nga - Kiểm sát viên.

Ngày 19 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh,
Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý
số: 65/2019/TLST - KDTM ngày 01 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp
đồng Dịch vụ Bảo vệ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST -
KDTM ngày 04 tháng 02 năm 2020; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL.
Địa chỉ trụ sở: Số 11 Ngõ 107 T, phường T, quận C, Thành phố Hà Nội. Người
đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Công K - Tổng giám đốc.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Huy S - Trưởng
phòng nghiệp vụ Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL (Theo Giấy uỷ quyền
ngày 24/5/2019 của ông Nguyễn Công K).
2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn F
Địa chỉ trụ sở: Khu 5 thị trấn Phố Mới, huyện Q, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Jeon C - Tổng giám đốc.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chi nhánh Công ty Trách nhiệm
hữu hạn F.
Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thanh V - Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan: Bà Nguyễn Thanh H - Kế toán trưởng Công ty Trách nhiệm hữu hạn F (theo
văn bản ngày 05/8/2019 của ông Jeon C).
Có mặt ông S và bà H.

46 / 158
NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 22/10/2018, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL
(Sau đay viết tắt là Công ty TL) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn F (Sau đay viết tắt
là Công ty F) đã ký kết Hợp đồng dịch vụ bảo vệ số 0129/2018/BVTL. Theo hợp
đồng này thì Công ty TL nhận cung cấp dịch vụ bảo vệ theo yêu cầu của Công ty F
để giữ gìn trật tự an ninh và bảo vệ tài sản của Công ty F tại thôn K, xã N, huyện Đ,
Thành phố Hà Nội.
Thời gian làm việc: Đảm bảo an ninh và tài sản cho Công ty F tại 05 vị trí, với thời
gian là 24/24 giờ từ thứ hai đến chủ nhật cũng như tất cả các ngày lễ tết.
Nhiệm vụ cụ thể của Công ty TL là đảm bảo an ninh tại khu vực bảo vệ; xử lý sự cố
xảy ra trong phạm vi đảm trách; sắp xếp, trông giữ xe của cán bộ công nhân viên trong
công ty và khách ra vào nhà máy; ngăn chặn các trường hợp cản trở đến việc xuất/nhập
hàng hóa của nhà máy; đảm bảo an ninh thông thoáng tại khu vực cổng chính của nhà
máy; bắt giữ và lập biên bản báo cáo với Cơ quan Công an các trường hợp đột nhập,
phá hoại tài sản, uy hiếp cán bộ công nhân viên trong nhà máy; kiểm tra thường xuyên
các thiết bị, phương tiện chữa cháy tại chỗ. Nếu xảy ra các tình huống khẩn cấp thì
thông báo ngay cho Công ty F được biết để kịp thời xử lý.
Giá trị hợp đồng và phương thức thanh toán:
- Giá dịch vụ mà Công ty F phải trả cho Công ty TL là 45.000 đồng/01giờ/01
nhân viên.
- Tổng giá trị 01 tháng dự kiến là: 45.000 đồng x 24 giờ x 05 vị trí x 30 ngày
= 162.000.000 đồng
- Giá trên chưa bao gồm thuế VAT
- Phí dịch vụ 04 ngày tết tính 300%
- Phí các ngày lễ trong năm tính 200% bao gồm các ngày 01/01, 10/3 âm lịch,
30/4, 01/5 và 02/9.
Hình thức thanh toán:
- Hàng tháng vào ngày cuối tháng, Công ty TL xuất hóa đơn và Công ty F sẽ
thanh toán phí dịch vụ 01 lần bằng hình thức tiền mặt hoặc chuyển khoản từ 01 ngày
đến 05 ngày kể từ ngày nhận được hóa đơn thanh toán của Công ty TL, các tháng tiếp
theo không thay đổi trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
- Sau 15 ngày, kể từ ngày nhận được hóa đơn do Công ty TL phát hành, nếu
Công ty F chưa thanh toán phí dịch vụ mà không có sự đồng ý của Công ty TL thì
Công ty F phải chịu lãi suất 0,05%/01 ngày x tổng số tiền chậm trả.
- Thời hạn chậm trả tối đa là 10 ngày, nếu không thực hiện đúng thì Công
ty TL có quyền đơn phương rút khỏi mục tiêu mà không chịu bất cứ chế tài nào.
- Thời hạn hợp đồng bắt đầu thực hiện kể từ ngày 22/10/2018 đến hết ngày
21/01/2019.
Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty TL đã thực hiện đúng và đầy đủ như những điều
khoản mà các bên đã thỏa thuận tại Hợp đồng và Công ty F đã thanh toán cho Công ty
TL các lần như sau:

47 / 158
- Ngày 30/11/2018 Công ty F đã thanh toán số tiền phí dịch vụ của tháng
10/2018 là: 59.400.000 đồng.
- Ngày 30/11/2018, Công ty TL xuất hóa đơn số 626 với số tiền: 178.200.000
đồng, là phí dịch vụ của tháng 11/2018;
- Ngày 31/12/2018, Công ty TL xuất hóa đơn số 661 với số tiền: 127.710.000
đồng, là phí dịch vụ tháng 12/2018;
- Ngày 31/01/2019, Công ty TL xuất hóa đơn số 691 với số tiền: 95.040.000
đồng, là phí dịch vụ tháng 01/2019;
- Ngày 28/02/2019 Công ty TL xuất hóa đơn số 718 với số tiền: 80.190.000
đồng là phí dịch vụ tháng 02/2019.
Sau khi Công ty TL xuất hóa đơn ngày 30/11/2018 thì Công ty F đã không thanh
toán cho Công ty TL thêm đồng nào nữa, nhưng do thời hạn hợp đồng không dài nên
Công ty TL vẫn thực hiện đầy đủ công việc và trách nhiệm như đã ký với Công ty F
và hy vọng sau khi kết thúc hợp đồng thì Công ty F sẽ thanh toán cho Công ty TL
một lần.
Vì vậy sau mỗi tháng, Công ty TL đều xuất hóa đơn gửi cho Công ty F để kiểm tra
đối chiếu và Công ty F cũng không có bất kỳ ý kiến gì.
Tuy nhiên sau khi kết thúc toàn bộ hợp đồng, Công ty TL có tổng hợp hóa đơn và
yêu cầu thanh toán nhưng Công ty F vẫn không thanh toán. Cụ thể như sau:
- Ngày 18/02/2019, Công ty TL có Công văn lần 1 số 07 gửi Công ty F yêu cầu
thanh toán phí dịch vụ bảo vệ và phạt chậm thanh toán;
- Ngày 06/3/2019, Công ty TL có Công văn lần 2 số 08 gửi Công ty Finetech
yêu cầu thanh toán phí dịch vụ bảo vệ và phạt chậm thanh toán;
- Ngày 07/3/2019 Công ty F có công văn số 03 gừi Công ty TL với nội dung
không đồng ý với gia trị phí bảo vệ mà Công ty TL đã xuất hóa đơn vào các tháng
11, 12/2018 và các tháng 01, 02/2019;
- Ngày 03/4/2019 Công ty F có văn bản gửi Công ty TL với nội dung đề nghị cử
người đến trụ sở chi nhánh của Công ty F ở thôn K, xã N để giải quyết xong phí dịch
vụ các tháng 11, 12/2018 và tháng 01,02/2019.
Tuy nhiên đến đúng ngày giờ trên, khi Công ty TL đến thì nhân viên của Công
ty F nói không có ai ở Công ty, nên buổi làm việc không thực hiện được.
- Ngày 02/5/2019 Công ty TL có văn bản thông báo cho Công ty F tổng tiền phí
dịch vụ và tiền phạt chậm thanh toán và đề nghị Công ty F thanh toán tiền phí dịch
vụ.
Ngoài việc thông báo bằng văn bản, Công ty TL đã nhiều lần liên lạc với Công
ty F qua điện thoại dưới hình thức gọi điện và nhắn tin nhưng Công ty F vẫn không
thanh toán và cũng không đưa ra được tài liệu chứng cứ về việc Công ty TL vi phạm
hợp đồng dịch vụ hoặc tổng hợp sai số tiền phải thanh toán.

Như vậy phí dịch vụ tháng 10,11,12/2018 và tháng 01, 02/2019 mà Công ty F phải
thanh toán cho Công Ty TL tổng cộng là 540.540.000 đồng. Đã trả 59.400.000 đồng;
Còn nợ: 481.140.000 đồng.
Nay Công ty TL khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đông Anh
giải quyết:

48 / 158
- Buộc Công ty Công ty F phải thanh toán tổng số tiền phí dịch vụ còn nợ là
481.140.000 đồng và tiền phạt chậm thanh toán (tính đến hết ngày 31/8/2019) là
50.067.000 đồng. Tổng cộng là: 531.207.000 đồng;
- Kể từ ngày 01/9/2019, Công ty F còn tiếp tục phải chịu tiền phạt chậm thanh
toán trên số tiền phí dịch vụ 481.140.000 đồng theo mức 0,05%/01 ngày kể từ ngày
01/9/2019 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ 481.140.000 đồng.
[2] Quan điểm của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ lien quan:
Bà H trình bày: không nhất trí với số tiền mà Công ty TL đưa ra vì không đúng
với thực tế việc Công ty TL điều động nhân viên đến làm việc.
Công ty F thống kê và có bản chấm công đối với các nhân viên bảo vệ được cử
đến làm nhiệm vụ tại Công ty F như sau:
- Tháng 10/2018 Công ty TL điều động ca ngày 05 người, ca đêm 05 người;
- Tháng 11/2018 Công ty Thăng Long điều động ca ngày 05 người, ca đêm 05
người;
- Tháng 12/2018 Công ty TL điều động ca ngày 05 người, ca đêm 02 người;
- Tháng 01/2019 Công ty TL điều động ca ngày 02 người, ca đêm 02 người;
- Tháng 02/2019 Công ty TL điều động ca ngày 03 người, ca đêm 02 người.
Công ty F đã thanh toán xong cho Công ty TL toàn bộ phí dịch vụ tháng
10/2018. Do Công ty TL cử người đến làm việc không dung số lượng yêu cầu ban
đầu, mắt khác Công ty TL yêu cầu Công ty F trả phí dịch vụ theo vị trí được bảo vệ
theo hợp đồng nên hai bên chưa thống nhất được cách thức thanh toán, do vậy Công
ty F chưa thanh toán tiền phí dịch vụ cho Công ty TL.
Sau khi có con số cụ thể thì Công ty F sẽ thanh toán 01 lần cho Công ty TL và
đồng ý thanh toán số tiền chậm trả trên số phí dịch vụ thực tế còn nợ.
[3] Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh phát
biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự của người tham gia tố
tụng, của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TL.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án; căn cứ kết quả thẩm tra chứng
cứ tại phiên tòa; căn cứ việc hỏi tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận công khai tại
phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL (Sau đây viết tắt là Công
ty TL) có đăng ký kinh doanh số 0104606437do Sở Kế hoạch đầu tư Thành phố Hà Nội
cấp ngày 28/4/2010, địa chỉ trụ sở tại: Số 11 ngõ 107 phố T, phường T, quận C, Thành
phố Hà Nội do ông Nguyễn Công K – Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật;
Bị đơn là Công ty Trách nhiệm hữu hạn F (Sau đây viết tắt là Công ty F). Địa chỉ trụ sử:
Khu 5, thị trấn phố Mới, huyện Q, tỉnh B. Người đại diện theo pháp luật: Ông Jeon C -
Tổng giám đốc;

49 / 158
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chi nhánh Công ty F, có đăng ký kinh doanh
số 2300761305 – 001, địa chỉ trụ sở: Thôn K, xã N, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; Người
đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thanh V - Giám Đốc điều hành đã ký kết hợp đồng
dịch vụ bảo vệ ngày 20/10/2018.
Như vậy, các bên đều đủ tư cách và có quyền ký kết, thực hiện các hợp đồng kinh
doanh thương mại và tham gia tố tụng để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng
đã ký kết. Tòa án nhân dân huyện Đông Anh thụ lý và giải quyết vụ án là có căn cứ và phù
hợp quy định tại Điều 30, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn:
Tại các bản giải trình, các chứng từ hóa đơn Công ty TL và Công ty F đã giao nộp tại
phiên tòa cũng như phần trình bày của người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn tại
phiên tòa thể hiện:
- Tháng 10/2018 có 10 ngày làm việc và số tiền phí dịch vụ là: 10 ngày x 05 vị
trí x 24h x 45.000.000 đồng = 54.000.000 đồng + 10% thuế VAT = 54.000.000 đồng.
đã thanh toán.
- Tháng 11/2018 có 30 ngày làm việc và số tiền phí dịch vụ là: 30 ngày x 05 vị
trí x 24h x 45.000.000 đồng = 162.000.000 đồng + 10% thuế VAT = 178.000.000
đồng. Ngày 30/11/2018 Công ty TL đã xuất hóa đơn và có đề nghị thanh toán.
- Tháng 12/2018: Từ ngày 01/12/2018 đến 12/12/2018 có 12 ngày làm việc và
số tiền phí dịch vụ là: 12 ngày x 05 vị trí x 24h x 45.000.000 đồng = 64.800.000
đồng. Từ ngày 13/12/2018 đến 31/12/2018 có 19 này làm việc và số tiền phí dịch vụ
là: 19 ngày x 2.5 vị trí x 24h x 45.000.000 đồng = 51.300.000 đồng. Tổng cộng là
116.100.000 đồng + 10% thuế VAT = 127.710.000. Ngày 31/12/2018 Công ty TL
đã xuất hóa đơn và có đề nghị thanh toán.
- Tháng 01/2019 có 31 ngày làm việc và số tiền phí dịch vụ là: 30 ngày x 05 vị
trí x 24h x 45.000.000 đồng = 162.000.000 đồng + 10% thuế VAT = 178.000.000
đồng. Ngày 31/01/2018 Công ty TL đã xuất hóa đơn và có đề nghị thanh toán.
- Tháng 02/2018:
Từ ngày 01/02/2019 đến 18/02/2019 có 18 ngày làm việc và số tiền phí dịch vụ
là: 18 ngày x 2.5 vị trí x 24h x 45.000.000 đồng = 48.600.000 đồng.
Từ ngày 19/02/2019 đến 20/02/2019 có 02 này làm việc và số tiền phí dịch vụ
là: 02 ngày x 1 vị trí x 24h x 45.000.000 đồng = 2.160.000 đồng.
Ngày 21/02/2019 có 01 ngày làm việc và tiền phí dịch vụ là: 01 ngày x 1 vị trí
x 12h x 45.000.000 đồng = 540.000 đồng.
04 ngày tết âm lịch x 2.2 vị trí x 24h x 45.000 x200% = 21.600.000 đồng.

Tổng cộng là 72.900.000 đồng + 10% thuế VAT = 80.190.000. Ngày 28/02/2019
Công ty TL đã xuất hóa đơn và có đề nghị thanh toán.
Tổng số tiền phí dịch vụ bảo vệ của các tháng: 10,11,12/2018 và các tháng
01,02/2019 Công ty F phải thanh toán là 540.540.000 đồng.

50 / 158
Công ty F đã trả tiền phí dịch vụ bảo vệ của tháng 10/2018 là 59.400.000 đồng,
còn phải trả tiền phí dịch vụ bảo vệ của các tháng còn lại là 481.140.000 đồng và
tiền phạt chậm trả là
62.336.000 đồng.
Xét thấy: Tại điểm 1.2 Điều 1 của hợp đồng dịch vụ bảo vệ, các bên đã thỏa thuận:
“Thời gian làm việc: Đảm bảo an ninh và tài sản cho Bên A tại 05 vị trí, với thời gian
là 24/24 giờ từ thứ hai đến chủ nhật cũng như tất cả các ngày lễ tết”. Tại điểm 4.1 Điều
4 của Hợp đồngnêu trên các bên thỏa thuận về giá trị hợp đồng và phương thức thanh
toán như sau: “Giá dịch vụ mà Bên A phải trả cho Bên B là:
45.000 đồng/01 giờ/01 nhân viên; Phí dịch vụ ngày tết tính bằng 300%”. Tại điểm
4.2 Điều 4 các bên thỏa thuận: “sau 15 ngày kể từ ngày nhận được hóa đơn do
bên B phát hành, nếu Bên A chưa thanh toán cho bên B phí dịch vụ mà không có sự
đồng ý của bên B thì bên A phải chịu lãi suất chậm thanh toán là 0,05%/ngày/số tiên
chậm trả”.
Như vậy Công ty F yêu cầu Công ty TL phải đảm trách về an ninh tại 05 vị trí
trong khuôn viên của Công ty F và việc trả phí cho việc bảo vệ căn cứ vào số giờ làm
việc của nhân viên bảo vệ chứ không phải căn cứ vào vị trí được bảo vệ để tính phí
dịch vụ như yêu cầu của Công ty TL.
Căn cứ vào bảng chấm công đối với các nhân viên bảo vệ của Công ty TL cử
đến làm nhiệm vụ thì phí dịch vụ chưa trả của các tháng 11, 12/2018 và các tháng
01, 02/2019 được tính lại như sau:
- Tháng 11: Ca ngày 147 công (người), Ca đêm 62 công (người). Mỗi ca 12 giờ
làm việc. Như vậy số tiền phải trả là: (147 + 62) x 12h x 45.000 = 112.860.000 đồng +
10% thuế VAT = 124.146.000 đồng.
- Tháng 12: Ca ngày 111 công (người), Ca đêm 62 công (người). Mỗi ca 12 giờ
làm việc. Như vậy số tiền phải trả là: (111 + 62) x 12h x 45.000 = 93.420.000 đồng
+ 10% thuế VAT = 102.764.000 đồng.
- Tháng 01: Ca ngày 97 công (người), Ca đêm 62 công (người). Mỗi ca 12 giờ
làm việc. Như vậy số tiền phải trả là: (97 + 62) x 12h x 45.000 = 84.780.000 đồng
+ 10% thuế VAT = 93.258.000 đồng.
- Tháng 02: Ca ngày 52 công (người), Ca đêm 31 công (người). Mỗi ca 12 giờ
làm việc.
Trong tháng này có 04 ngày nghỉ tết âm lịch gồm: Ngày 04/02/2019 có 02 người
ca ngày, 02 người ca đêm; Ngày 05/02/2019 có 02 người ca này, 01 người ca đêm.
Ngày 06/02/2019 có 02 người ca ngày, 01 người ca đêm. Ngày 07/02/2019 có 02 người
ca ngày, 01 người ca đêm. Tổng số tiền phí dịch vụ của 04 ngày nghỉ tết là: 13 x 12 x
45.000 x 300% = 21.600.000 đồng + 10% thuế VAT = 23.700.000
đồng.
Như vậy số tiền phí dịch vụ phải trả của tháng 02/2019 là: (52 + 31 - 13) x 12h x 45.000
= 37.80.000 đồng + 10% thuế VAT = 41.580.000 đồng + 23.700.000 đồng = 55.280.000
đồng.
Tổng số tiền phí dịch vụ chưa thanh toán là: 124.146.000 đồng + 102.764.000 đồng +
93.258.000 đồng + 55.280.000 đồng = 375.448.000 đồng.

51 / 158
Sau khi Công ty F không thanh toán tiền phí dịch vụ của các tháng 11,12/2018 và
01,02/2019 Công ty TL không có ý kiến gì về việc chậm thanh toán, nhưng vẫn cử người
đến thực hiện nhiệm vụ đến hết ngày 20/02/2019. Mặt khác đến ngày 06/3/2019 Công ty
TL mới gửi công văn nhắc nợ lần 2, ngày 07/03/2019 thì Công ty F mới có công Văn trả
lời.

Như vậy xác định trong suốt thời gian từ ngày 30/11/2018 đến hết ngày 06/3/2019 Công
ty TL mặc nhiên đồng ý cho Công ty F chậm trả. Do đó thời gian chậm trả được xác định
là ngày 07/3/2019.
Do đó tiền lãi chậm trả tính từ ngày 07/3/2019 đến ngày 06/02/2020 là 375.448.000
đồng x 0,05%/ngày (tương đương 1,5%/tháng và tương đương 18%/năm) x 11 tháng =
61.949.000 đồng.
Tổng số tiền Công ty Fphải trả cho Công ty TL tính đến hết ngày 06/02/2020 là:
375.448.000 đồng + 61.949.000 đồng = 437.397.000 (bốn trăm ba mươi bảy triệu, ba
trăm chín mươi bảy nghìn) đồng.
Kể từ ngày 07/02/2020 đến khi Công ty F trả hết các khoản nợ thì Công ty F còn phải
chịu khoản tiền lãi chậm trả phát sinh trên số nợ gốc (375.448.000 đồng) chưa trả.
[4] Về án phí kinh doanh thương mại:
- Công ty F phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là: 20.000.000
đồng + 4% x (437.397.000 đồng - 400.000.000 đồng) = 21.456.000 (hai
mươi mốt triệu, bốn trăm lăm mươi sáu nghìn) đồng.
- Trả lại cho Công ty TL số tiền tạm ứng án phí 12.000.000 (mười hai triệu) đồng đã nộp
theo biên lai thu tiền số AA/2017/0008630 ngày 24/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Đông Anh.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:
- Điều 513; Điều 518; Điều 519 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Điều 85; Điều 86; Điều 306 Luật Thương mại.
- Khoản 1 Điều 30; Điểm b khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 144; Điều 147;
khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280 Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015.
-Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Xử:

52 / 158
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ
Bảo vệ và Vệ sĩ TL đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn F.
2. Xác nhận Công ty Trách nhiệm hữu hạn F còn nợ Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL, tổng số tiền tính đến hết ngày 06/02/2020 là 437.397.000
(bốn trăm ba mươi bảy triệu, ba trăm chín mươi bảy nghìn) đồng. Trong đó: Phí dịch vụ
bảo vệ là: 375.448.000 đồng; Tiền lãi chậm trả là :
61.949.00 đồng.
3. Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn F phải thanh toán cho Công ty Trách nhiệm
hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL tổng số tiền tính đến hết ngày 06/02/2019 là
437.397.000 (bốn trăm ba mươi bảy triệu, ba trăm chín mươi bảy nghìn) đồng.
Kể từ ngày 07/02/2020 cho đến khi trả hết các khoản nợ Công ty Trách nhiệm hữu
hạn F còn phải chịu tiền lãi chậm thanh toán phát sinh trên số tiền cho 375.448.000 đồng
chưa trả với mức lãi suất 0,05%/ngày theo thỏa thuận của hợp đồng dịch vụ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
5. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn F phải chịu án phí sơ thẩm là 21.456.000 (hai mươi
mốt triệu, bốn trăm lăm mươi sáu nghìn) đồng.
- Hoàn trả Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL số tiền tạm ứng
án phí là 12.000.000 (mười hai triệu) đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số
AA/2017/0008630 ngày 24/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.
6. Về quyền kháng cáo:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ và Vệ sĩ TL; Công ty Trách nhiệm hữu
hạn F và chi nhánh Công ty Trách nhiệm hữu hạn F có quyền kháng cáo trong hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- VKSND Đông Anh; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP. Hà Nội;
- THADS huyện Đông Anh;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Phi Hùng

53 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ THUẬN AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BÌNH DƯƠNG

Bản án số: 05/2020/KDTM-ST


Ngày: 05/5/2020
V/v: Tranh chấp hợp đồng
cung ứng dịch vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có :


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Vũ Thị Nhâm
Các hội thẩm nhân dân:
1. Bà Trần Ngọc Phương
2. Bà Nguyễn Ngọc Hồng
- Thư ký phiên tòa: Lê Thị Ngọc – Thư ký Tòa án nhân dân thành phố
Thuận An, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình
Dương tham gia phiên tòa: Ông Bùi Văn Hiền – Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thuận
An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại sơ
thẩm thụlý số 46/2019/TLST-KDTM ngày 04 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh
chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
04/2020/QĐXXST- KDTM ngày 30 tháng 3 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa
số 04/2020/QĐST- KDTM ngày 17/4/2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà NTT – Chủ DNTN LH; trụ sở: 32A khu phố 1B, phường
AP, thành phố TA, tỉnh BD.
Người đại diện hợp pháp: Ông NTT1, sinh năm 1975; địa chỉ: 28/11 khu phố
ĐB, phƣờng ĐH, thành phố DA, tỉnh BD (theo văn bản ủy quyền ngày
15/7/2019), có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty TNHH may XH; trụ sở: Khu phố BĐ1, phường BH, thành
phố TA, tỉnh BD.
Người đại diện hợp pháp: Ông KDH, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên
kiêm Tổng giám đốc (là người đại diện theo pháp luật), vắng mặt.
NHẬN THẤY
- Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tố tụng người đại diện hợp pháp
của nguyên đơn là ông NTT1 bày: Ngày 01/12/2015 DNTN LH (gọi tắt là doanh

54 / 158
nghiệp LH) có ký hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT-YK/LH với Công ty TNHH may
XH (gọi tắt là công ty Xuân Hiếu) với nội dung như sau: Doanh nghiệp LH cung
cấp suất ăn công nghiệp cho Công ty XH, mỗi xuất ăn có giá là 13.000 đồng (đã
bao gồm VAT). Về số lượng và phần ăn do phía Công ty XH cung cấp số liệu mỗi
ngày theo số lượng người làm việc thực tế trong ca làm việc bằng hình thức điện
thoại, thời gian thanh toán sau 60 ngày kể từ ngày phát hành hóa đơn. Trong qua
trình thực hiện hợp đồng, Doanh nghiệp LH đã cung cấp suất ăn cho Công ty XH
với tổng giá trị hợp đồng là 7.271.841.163 đồng (bảy tỷ hai trăm bảy mƣơi mốt
triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba đồng) và Công ty XH
đã thanh toán cho Doanh nghiệp LH số tiền là 5.590.000.000 đồng (Năm tỷ năm
trăm chín mươi triệu đồng), số tiền còn phải thanh toán là 1.681.841.163 đồng
(một tỷ sáu trăm tám mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu
mƣơi ba đồng). Tháng 3 năm 2019 Doanh nghiệp LH và Công ty XH đã có bản
đối chiếu và xác nhận lại công nợ. Theo đó, Công ty XH còn phải thanh toán cho
Doanh nghiệp LH đến ngày 31/3/2019 với số tiền 1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu
trăm tám mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba
đồng), thời hạn thanh toán chậm nhất trước ngày 15/4/2019. Sau khi hai bên có
bảng đối chiếu xác nhận công nợ. Ngày 08/3/2019 Công ty XH đã thanh toán cho
Doanh nghiệp LH số tiền 50.000.000 đồng (năm mƣơi triệu đồng), số tiền còn lại
đến nay chưa thanh toán. Yêu cầu Công ty XH phải trả số tiền gốc là 1.681.841.163
đồng (một tỷ sáu trăm tám mƣơi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm
sáu mươi ba đồng) và tiền lãi tạm tính đến ngày 31/12/2019 là 260 ngày, mức lãi
suất 12%/năm thành tiền 141.426.234 đồng. Tổng cộng: 1.773.267.397 đồng (một
tỷ bảy trăm bảy mươi ba triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn ba trăm chín mươi bảy
đồng).
Ngày 21/4/2020 người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có yêu cầu xin rút
một phần yêu cầu khởi kiện, rút lại yêu cầu trả tiền lãi, chỉ yêu cầu Công ty XH
phải trả số tiền gốc là 1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu trăm tám mươi mốt triệu
tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba đồng).
- Bị đơn Công ty TNHH may XH không có văn bản trình bày ý kiến và không
tham gia tố tụng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An phát biểu về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, thư ký, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý
vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định
của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về nội dung vụ án: Bà NTT – Chủ Doanh nghiệp tư
nhân LH và Công ty TNHH may Xuân Hiếu có ký hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT-
YK/LH với Công ty TNHH may XH với nội dung như sau: Doanh nghiệp LH
cung cấp suất ăn công nghiệp cho Công ty XH, mỗi xuất ăn có giá là 13.000 đồng
(đã bao gồm VAT). Về số lượng và phần ăn do phía Công ty XH cung cấp số liệu
mỗi ngày theo số lượng người làm việc thực tế trong ca làm việc bằng hình thức
điện thoại, thời gian thanh toán sau 60 ngày kể từ ngày phát hành hóa đơn, tại biên
bản đối chiếu công nợ ngày 31/3/2019 Công ty XH còn nợ với số tiền
1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu trăm tám mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt
nghìn một trăm sáu mươi ba đồng), thời hạn thanh toán chậm nhất trước ngày

55 / 158
15/4/2019. Sau khi hai bên có bảng đối chiếu xác nhận công nợ. Ngày 08/3/2019
Công ty XH đã thanh toán cho Doanh nghiệp LH số tiền 50.000.000 đồng (năm
mươi triệu đồng), số tiền còn lại đến nay chưa thanh toán. Vì vậy, căn cứĐiều 85
và Điều 306 Luật thương mại; Điều 513 và Điều 515 Bộ luật dân sự yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận. Riêng phần tính lãi chậm thanh toán
nguyên đơn tự nguyện rút đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ phần yêu cầu này.

XÉT THẤY
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Công ty TNHH may XH có trụ sở tại
khu phố BĐ1, phường BH, thành phố TA, tỉnh BD, theo quy định tại Khoản 1
Điều 30, Điểm b Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì
thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh
Bình Dương.
[2] Về quan hệ pháp luật: Bà NTT – Chủ Doanh nghiệp tư nhân LH khởi kiện
yêu cầu Công ty TNHH may XH phải trả số tiền doanh nghiệp LH cung cấp suất
ăn công nghiệp chưa thanh toán 1.681.841.163 đồng, khoản tiền lãi 141.426.234
đồng, tổng cộng: 1.773.267.397 đồng. Như vậy, quan hệ pháp luật trong vụ án được
xác định là “Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ” theo quy định tại Khoản 1
Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 74 Luật thương mại.
[3] Về tố tụng: Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn yêu cầu giải
quyết vắng mặt và bị đơn Công ty TNHH may XH đã được Tòa án triệu tập hợp
lệ nhưng vẫn vắng mặt. Do vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự
theo quyđịnh tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Về nội dung:
[4.1] Ngày 01/12/2015 Doanh nghiệp tư nhân LH (gọi tắt là doanh nghiệp
LLH) có ký hợp đồng kinh tế số 01/HĐKT-YK/LH với Công ty TNHH may XH
(gọi tắt là công ty XH) với nội dung như sau: Doanh nghiệp LH cung cấp suất ăn
công nghiệp cho Công ty XH, mỗi xuất ăn có giá là 13.000 đồng (đã bao gồm
VAT). Về số lượng và phần ăn do phía Công ty XH cung cấp số liệu mỗi ngày
theo số lượng người làmviệc thực tế trong ca làm việc bằng hình thức điện thoại,
thời gian thanh toán sau 60 ngày kể từ ngày phát hành hóa đơn. Trong qua trình
thực hiện hợp đồng, Doanh nghiệp LH đã cung cấp suất ăn cho Công ty XH với
tổng giá trị hợp đồng là 7.271.841.163 đồng (bảy tỷ hai trăm bảy mươi mốt triệu
tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba đồng) và Công ty XH đã thanh
toán cho Doanh nghiệp LH số tiền là 5.590.000.000 đồng (Năm tỷ năm trăm chín
mươi triệu đồng), số tiền còn phải thanh toán là 1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu
trăm tám mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba
đồng). Tháng 3 năm 2019 Doanh nghiệp LH và Công ty XH đã có bản đối chiếu và
xác nhận lại công nợ. Theo đó, Công ty XH còn phải thanh toán cho Doanh nghiệp
LH đến ngày 31/3/2019 với số tiền 1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu trăm tám mươi
mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba đồng), thời hạn

56 / 158
thanh toán chậm nhất trước ngày 15/4/2019. Sau khi hai bên có bảng đối chiếu xác
nhận công nợ. Ngày 08/3/2019 Công ty XH đã thanh toán cho Doanh nghiệp LH
số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), số tiền còn lại 1.631.841.163 đồng
(một tỷ sáu trăm ba mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu
mươi ba đồng) đến nay chưa thanh toán.
Bị đơn Công ty XH không tham gia tố tụng, xem như từ bỏ quyền chứng
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa.
Do đó, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả số tiền
cung cấp suất ăn công nghiệp chưa thanh toán là 1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu
trăm tám mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba
đồng) là có cơ sở chấp nhận.
[4.2] Việc Công ty XH không thực hiện nghĩa vụ thanh toán là vi phạm Điều
4 hợp đồng cung cấp suất ăn công nghiệp số 01/HĐKT-YK/LH ngày 02/5/2015;
Điều 50 Luật thương mại; Điều 440 Bộ luật dân sự nên Công ty XH phải có trách
nhiệm trả tiền lãi theo quy định tại Điều 306 Luật thương mại. Quá trình tố tụng,
ngày 21/4/2020 ngƣời đại diện hợp pháp của nguyên đơn người đại diện hợp pháp
của nguyên đơn có yêu cầu xin rút lại tiền lãi, chỉ yêu cầu Công ty XH phải trả số
tiền gốc là 1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu trăm tám mƣơi mốt triệu tám trăm bốn
mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba đồng), do đó Hội đồng xét xử ghi nhận sẽ
đình chỉ đối với yêu cầu tính tiền lãi này.
Như vậy, Công ty XH phải trả cho bà NTT – Chủ Doanh nghiệp tư nhân LH
số tiền cung cấp suất ăn công nghiệp chưa thanh toán 1.681.841.163 đồng (một tỷ
sáu trăm tám mươi mốt triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba
đồng).
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn đối với bị đơn.
[5] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp với quy định của
pháp luật và có cơ sở chấp nhận
[6] Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Bị đơn Công ty TNHH may XH
phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 30; Điều 35; Điều 39; các Điều 91; 92; 144, 147, 228,
266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 440 Bộ luật dân sự;
Căn cứ các Điều 50; Điều 74 Luật thương mại;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà
án.

57 / 158
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà NTT – Chủ Doanh nghiệp tư
nhân LH đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn may XH về việc yêu cầu
tính tiền lãi là 141.426.234 đồng theo hợp đồng số 01/HĐKT-YK/LH ngày
02/5/2015.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà NTT – Chủ
Doanh nghiệp tư nhân LH đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn may XH
về việc Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn may XH có trách nhiệm trả cho bà NTT
– Chủ Doanh nghiệp tư nhân LH số tiền cung cấp suất ăn công nghiệp chưa thanh
toán là 1.681.841.163 đồng (một tỷ sáu trăm tám mươi mốt triệu tám trăm bốn
mươi mốt nghìn một trăm sáu mươi ba đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nếu người phải
thi hành án không thanh toán số tiền trên cho người được thi hành án thì hàng tháng
người phải thi hành án còn phải trả cho ngƣời được thi hành án số tiền lãi theo mức
lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với
thời hạn và số tiền chậm trả.
3. Về án phí:
Công ty trách nhiệm hữu hạn may XH phải chịu 62.455.234 đồng (sáu mươi
hai triệu bốn trăm năm mươi lăm nghìn hai trăm ba mươi bốn đồng) án phí kinh
doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà NTT – Chủ Doanh nghiệp tư nhân LH số tiền tạm ứng án
phí đã nộp là 31.167.172 đồng (ba mươi mốt triệu một trăm sáu mươi bảy nghìn
một trăm bảy mươi hai đồng) theo biên lai thu tiền số 0036542 ngày 28/11/2019
của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình
Dương.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
ngày kể từ ngày nhận đueợc bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- TAND tỉnh Bình Dƣơng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND thành phố Thuận An;
- Chi cục THADS thành phố Thuận An;
- Các đƣơng sự;
- Lƣu HS, VP.

Vũ Thị Nhâm

58 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH T Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
—————————— ——————————————————

Bản án số: 04/2020/KDTM-PT


Ngày 21-5-2020
V/v: Tranh chấp hợp đồng dịch vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH T


- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Phượng
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị An Tiên
Ông Lâm Văn Be
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thị Kiều Trang là Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh T.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnhT tham gia phiên tòa: Bà Huỳnh Thị
Mộng Thúy - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 và 21 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2020/TLPT-KDTM ngày 19 tháng
02 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ.
Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 03 tháng 12 năm 2019
của Tòa án nhân dân huyện T3, tỉnh T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2020/QĐPT-KDTM ngày 23 tháng
3 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần T1.
Địa chỉ: Phòng 1901, Tòa nhà Saigon Trade Center, số 37, đường Tôn Đức
Thắng, phường B1, Quận 1, Thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Trung– giám
đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Văn L, sinh năm 1979;
địa chỉ: Số 2/21, đường số 49, phường B2, Quận 2, Thành phố H và ông Đào Ngọc
T7, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 747, đường Đ1, phường P, Quận 9, Thành phố H,
(theo văn bản ủy quyền ký ngày 09-9-2019), ông L vắng mặt, ông T7 có mặt.
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2.
Địa chỉ: Ấp T4, xã T5, huyện T3, tỉnh T.

59 / 158
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Vũ Văn Th– Chủ tịch Hội đồng
thành viên kiêm Tổng giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Dương Thành T6, sinh năm
1978; địa chỉ: Tổ 10, ấp 2, xã S, huyện T3, tỉnh T (văn bản ủy quyền ký ngày 15-10-
2019), có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Ngọc Tr
- Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Hai thành viên trở lên V, thuộc đoàn Luật sư tỉnh
Đ, có mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn -Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 09-9-2019 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ
án, người đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần T1 (sau đây được gọi tắt là
Công ty T1) là ông Lê Văn L và ông Đào Ngọc T7 trình bày:
Ngày 17-8-2016, Công ty Cổ phần T1 ký kết hợp đồng số 10/HĐB-2016 về
việc cung cấp, giám sát lắp đặt hệ thống quan trắc chất lượng nước thải tự động với
Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 (viết tắt là Công ty T2), tổng giá trị của hợp đồng là
362.000.000 đồng, đã bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Hình thức thanh toán của hợp đồng được chia làm 03 đợt, cụ thể:
Đợt 1: Thanh toán 40% giá trị hợp đồng, tương ứng số tiền là 144.800.000 đồng,
thanh toán trong vòng 10 ngày sau khi ký hợp đồng.
Đợt 2: Thanh toán 50% giá trị hợp đồng, tương ứng số tiền là 181.000.000 đồng,
thanh toán trong vòng 10 ngày sau khi thiết bị được bàn giao đến hiện trường.
Đợt 3: Thanh toán giá trị còn lại của hợp đồng, tương ứng số tiền là
36.200.000 đồng, thanh toán trong vòng 10 ngày sau khi nghiệm thu hệ thống. Công
ty T2 đã thanh toán đầy đủ các đợt 1 và đợt 2.
Ngày 25-11-2016, đại diện theo pháp luật của 02 Công ty đã ký kết biên bản
nghiệm thu hoàn thành đưa vào sử dụng. Theo quy định tại Điều 4 của hợp đồng thì
Công ty T2 sẽ thanh toán cho Công ty T1 giá trị còn lại của hợp đồng là 36.200.000
đồng trong vòng 10 ngày kể từ ngày nghiệm thu hệ thống. Tuy nhiên, hai bên đã thống
nhất sẽ giữ lại số tiền 36.200.000 đồng còn lại để đảm bảo bảo hành theo quy định
hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 3 của hợp đồng thì “Cam kết bảo hành trong thời hạn
12 tháng kề từ ngày ký nghiệm thu đưa vào sử dụng”. Do vậy, thời hạn bảo hành sẽ
bắt đầu từ ngày 25-11-2016 đến hết ngày 24-11-2017. Sau khi hết thời hạn bảo hành
nêu trên nhưng Công ty T2 vẫn chưa thanh toán số tiền còn lại là
36.200.000 đồng cho Công ty T1. Công ty T1 đã nhiều lần gửi công văn đề nghị Công
ty T2 thanh toán nhưng đến nay Công ty T2 vẫn chưa thanh toán.
Nay đại diện Công ty T1 yêu cầu Công ty T2 thanh toán cho Công ty T1 các
khoản tiền như sau: 10% giá trị hợp đồng với số tiền 36.200.000 đồng; số tiền phạt do
chậm trả là 2%/ tổng giá trị hợp đồng theo quy định tại mục 5.2 Điều 5 của hợp đồng

60 / 158
là 362.000.000 đồng x 2% = 7.240.000 đồng; số tiền lãi chậm trả tính từ ngày 05-12-
2016 đến ngày 31-8-2019 theo lãi suất của Ngân hàng Vietcombank là 36.200.000
đồng x 1.000 ngày x 6,8% : 365 = 6.744.110 đồng. Tổng cộng là 50.184.110 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn rút 01 phần yêu cầu khởi kiện về phạt vi
phạm do chậm trả là 4.344.000 đồng, chỉ yêu cầu trả số tiền 2.896.000 đồng; tiền lãi
chậm trả 6.744.110 đồng, chỉ còn yêu cầu trả số tiền 4.828.782 đồng. Tổng cộng
7.724.782 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của Công ty T2,
ông Dương Thành T6 trình bày:
Công ty T2 có ký hợp đồng số 10/HĐB-2016 về việc cung cấp, giám sát lắp đặt
hệ thống quan trắc chất lượng nước thải tự động với Công ty T1 như đại diện Công ty
T1 trình bày. Hiện nay Công ty T2 chưa thanh toán 10% giá trị hợp đồng với số tiền
36.200.000 đồng cho Công ty T1 vì lý do theo hợp đồng số 10/HĐB-2016 thì Công
ty T1 chưa kết nối được việc truyền dữ liệu của đồng hồ đo lưu lượng nước thải và
chưa đảm bảo các thiết bị đo đạc và quan trắc được các thông số, chỉ tiêu ổn định, liên
tục và tự động truyền dữ liệu về máy tính trung tâm. Công ty T2 đã nhiều lần liên hệ
với nhân viên kỹ thuật của Công ty T1 nhưng nhân viên kỹ thuật thay đổi rất nhiều
người và vẫn chưa thực hiện. Ngoài ra, 02 giám đốc Công ty T2 là ông Vũ Văn Th và
giám đốc Công ty T1 là ông Nguyễn Thái B có thỏa thuận miệng là Công ty T2 sẽ
cung cấp đồng hồ đo lưu lượng nước và phía Công ty T1 sẽ cài đặt phần mềm hiển thị
số liệu lên hệ thống đo và toàn bộ số liệu sẽ được kết nối về Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh T nhưng đến nay Công ty T1 vẫn chưa thực hiện. Nay Công ty T1 không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty T2.
Mặc khác, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu
khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết vụ án, lý do đã hết thời hiệu
khởi kiện.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/KDTM-ST ngày 03 tháng 12 năm 2019
của Tòa án nhân dân huyện T3, tỉnh T đã quyết định:
Căn cứ các Điều 518, 524 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 301, 306 của
Luật Thương Mại.
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần T1 về tranh chấp “Hợp
đồng dịch vụ” đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 thanh toán cho Công ty Cổ phần T1
10% giá trị hợp đồng kinh tế số 10/HĐB-2016, ngày 17-8-2016 với số tiền
36.200.00 đồng.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 thanh toán cho Công ty Cổ phần T1
số tiền phạt do chậm trả là 2.896.000 đồng.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 thanh toán cho Công ty Cổ phần T1
số tiền lãi chậm trả là 4.828.782 đồng.
Tổng cộng Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 có nghĩa vụ thanh toán cho Công
ty Cổ phần T1 số tiền 43.924.782 đồng.

61 / 158
+ Đình chỉ một phần yêu cầu của Công ty Cổ phần T1 yêu cầu Công ty Trách
nhiệm hữu hạn T2 trả thêm số tiền 6.259.328 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm trả quyền kháng
cáo của đương sự theo quy định pháp luật
Ngày 06-12-2019, Công ty T2 kháng cáo yêu cầu bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm xét xử và tuyên án ngày 03-12-2019 của
Tòa án Nhân dân huyện T3 để giải quyết lại theo trình tự thủ tục sơ thẩm.
Tại phiên Tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình
bày:
Tại Điều 2 của hợp đồng các bên thỏa thuận đảm bảo các thiết bị đo đạc
và quan trắc được các thông số, chỉ tiêu ổn định, liên tục và tự đồng truyền dữ liệu về
máy tính trung tâm cho đến nay Công ty T1 vẫn chưa thực hiện đúng theo Điều 2 của
hợp đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm thủ tục tố tụng cụ thể gồm: 02 Công ty trình
bày mâu thuẫn về việc thỏa thuận kết nối dữ liệu nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa triệu
tập ông Nguyễn Thái B để làm rõ. Vụ án giữa Công ty T1 và Công ty T2 thẩm phán
giải quyết không đúng thẩm phán được phân công. Thẩm phán Lê Đức Dũng được
phân công giải quyết vụ án giữa Công ty T2 và Công ty T1, 02 vụ án chưa được nhập
lại giải quyết chung nhưng thẩm phán cùng lúc ký giấy triệu tập tham gia phiên tòa
của 02 vụ án. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét thẩm định tại chỗ đối với
hệ thống Trạm quan trắc chất lượng nước thải. Ngoài ra, Công ty T2 yêu cầu áp dụng
thời hiệu khởi kiện vì ngày 25- 11-2016, 02 Công ty ký biên bản nghiệm thu trong
thời hạn 10 ngày thanh toán số tiền còn lại, không có biên bản đối chiếu công nợ,
không có công văn xin gia hạn thanh toán nên đến ngày khởi kiện là đã hết thời hiệu
khởi kiện. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân
sự, hủy bản án sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T:
- Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử, Thẩm phán và Thư ký phiên tòa đã thực
hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành của những người
tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Công ty T1 khởi kiện yêu cầu Công ty T2 thanh toán số
tiền 50.184.110 đồng, tại phiên tòa đại diện nguyên đơn yêu cầu đối với tiền phạt
chậm trả chỉ còn là 4.828.782 đồng, tiền phạt vi phạm là 2.896.000 đồng, tổng số tiền
yêu cầu Công ty T2 trả còn lại là 43.924.782 đồng, xét thấy đây là trường hợp thay
đổi yêu cầu khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định đây là trường hợp rút 01 phần
yêu cầu khởi kiện là chưa chính xác. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của Công ty T2 sửa bản án sơ thẩm như nhận định trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận công khai tại phiên Toà, Hội đồng xét xử
nhận định:

62 / 158
Xét kháng cáo của Công ty T2 thì thấy rằng:
[1] Về thời hiệu khởi kiện: Công ty T2 yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện 02
năm tính từ ngày 02 bên ký biên bản nghiệm thu là 25-11-2016 thì thấy rằng theo Điều
03 của hợp đồng thể hiện thời hạn bảo hành các thiết bị lắp đặt là 12 tháng kể từ ngày
nghiệm thu. Ngày 18-09-2019, Công ty T1 khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án vẫn
còn theo quy định tại Điều 319 Luật Thương mại.
[2] Xét thấy, Công ty T2 cho rằng cùng một lúc thẩm phán ký giấy triệu tập
tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm của 02 vụ án tranh chấp hợp đồng dịch vụ giữa
Công ty T1 và Công ty T2, Công ty T2 với Công ty T1 là vi phạm thủ tục tố tụng thì
thấy rằng việc triệu tập người tham gia phiên tòa, phiên họp là nhiệm vụ, quyền hạn
của thẩm phán theo quy định tại Điều 48 Bộ Luật Tố tụng dân sự nên việc Công ty T2
cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng là không có căn cứ chấp nhận.
Mặt khác, Công ty T2 cho rằng thẩm phán giải quyết và xét xử không đúng thì thấy
rằng theo Quyết định phân công thẩm phán (bút lục số 43a) thì thẩm phán xét xử cũng
là thẩm phán giải quyết nên không có căn cứ chấp nhận lời trình bày của bị đơn.
[3] Quá trình giải quyết vụ án, Công ty T2 cho rằng Tòa án sơ thẩm không tiến
hành thẩm định tại chỗ và không đưa ông Nguyễn Thái B là giảm đốc Công ty T1 vào
tham gia tố tụng thì thấy rằng Công ty T1 đã tiến hành lắp đặt Trạm quan trắc chất
lượng nước thải theo hợp đồng ký kết. Ngày 25-11- 2016, 02 Công ty ký kết biên bản
nghiệm thu hoàn thành việc đưa vào sử dụng thể hiện nội dung “Sau khi kiểm tra, bàn
giao các thiết bị đúng số lượng, chủng loại, trạm hoạt động bình thường, cho kết quả
ổn định, có tính tương quan về số liệu giữa các thông số quan trắc. Các linh kiện, vật
tư, tiêu hao được đóng gói, bảo quản theo đúng quy định trong hợp đồng kinh tế”.
Thời gian bảo hành kết thúc ngày 25-11-2017, trong thời gian bảo hành Công ty T2
không chứng minh có xảy ra tranh chấp. Do đó việc Công ty T2 yêu cầu thẩm định tại
chỗ là không cần thiết. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là phù hợp với Điều 101
Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Xét thấy, Công ty T2 cho rằng Công ty T1 vi phạm Điều 2 của hợp đồng,
tuy nhiên Điều 2 hợp đồng chỉ thể hiện điều kiện kỹ thuật của sản phẩm lắp đặt là
“Đảm bảo các thiết bị đo đạc và quan trắc được các thông số, chỉ tiêu ổn định, liên tục
và tự động truyền dữ liệu về máy tính” (bút lục 31). Tại biên bản nghiệm thu hoàn
thành đưa vào sử dụng (bút lục 05-06) thể hiện Công ty T1 đã lắp đặt đúng thiết bị ký
kết và kết quả hoạt đồng bình thường, ổn định; Công ty T2 cho rằng Công ty T1 có
trách nhiệm kết nối các thiết bị lắp đặt truyền dữ liệu về máy tính trung tâm. Mặt khác,
Công ty T2 cũng cho rằng 02 Công ty thỏa thuận miệng Công ty T2 mua thiết bị lắp
đặt, Công ty T1 sẽ cài đặt phầm mềm hiển thị số liệu lên hệ thống đo và toàn bộ số
liệu sẽ được kết nối với Sở Tài nguyên môi trường nhưng Công ty T1 vẫn chưa thực
hiện nhưng không được Công ty T1 thừa nhận Công ty T2 không có cung cấp được
chứng cứ chứng minh lời trình bày trên là có cơ sở. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc Công ty T2 thanh toán số tiền đợt 3 là
36.200.000đ, tiền phạt vi phạm hợp đồng là 2.896.000 đồng, tiền lãi là 4.828.782 đồng.
Tổng cộng 43.924.782 đồng là phù hợp.
[5] Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ đối với số tiền

63 / 158
6.259.328 đồng và các đương sự không kháng cáo nên Hội đồng xét xử không xem
xét, tuy nhiên hậu quả của việc đình chỉ được xác định theo quy định tại Điều 218 của
Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm xác định lãi suất chậm trả chưa
phù hợp với quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự nên điều chỉnh tại
cấp phúc thẩm.
Từ những phân tích trên, không chấp nhận kháng cáo của Công ty T2, giữ
nguyên bản án sơ thẩm có điều chỉnh như nhận định trên.
[6] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của Công ty T2 không được chấp nhận
nên công ty phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 29, Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 518, 524 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 301, 306 của
Luật Thương Mại; Điều 147, Điều 148, 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần T1 về tranh chấp “Hợp
đồng dịch vụ” đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 thanh toán cho Công ty Cổ phần T1
10% giá trị hợp đồng kinh tế số 10/HĐB-2016, ngày 17-8-2016 với số tiền
36.200.00 (ba mươi sáu triệu, hai trăm nghìn) đồng.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 thanh toán cho Công ty Cổ phần T1
số tiền phạt do chậm trả là 2.896.000 (hai triệu, tám trăm chín mươi sáu nghìn) đồng.
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 thanh toán cho Công ty Cổ phần T1
số tiền lãi chậm trả là 4.828.782 (bốn triệu, tám trăm hai mươi tám nghìn, bảy trăm
tám mươi hai) đồng.
Tổng cộng Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 có nghĩa vụ thanh toán cho Công
ty Cổ phần T1 số tiền 43.924.782 (bốn mươi ba triệu, chín trăm hai mươi bốn nghìn,
bảy trăm tám mươi hai) đồng.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu của Công ty Cổ phần T1 yêu cầu Công ty Trách
nhiệm hữu hạn T2 trả thêm số tiền 6.259.328 (sáu triệu, hai trăm năm mươi chín nghìn,
ba trăm hai mươi tám) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
3. Về án phí kinh doanh thương mại:
- Án phí sơ thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 phải chịu 3.000.000 đồng

64 / 158
(ba triệu đồng) án phí sơ thẩm.
Công ty Cổ phần T1 không phải chịu án phí sơ thẩm; hoàn trả cho Công ty Cổ
phần T1 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên
lai thu số 0015858, ngày 23-9-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T3, tỉnh T.
- Án phí phúc thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn T2 phải chịu
3.000.000 đồng nhưng được khấu trừ 3.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí Công ty đã
nộp theo biên lai thu số 0000104 ngày 06-12-2019 và biên lai số 0000371 ngày 12-
02-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T3, tỉnh T.
Trường hợp quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành
án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM


- VKSND. TTN; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Phòng KTNV.TAT;
- TAND huyện;
- Chi cục THADS huyện;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu tập án.
Nguyễn Thị Thúy Phượng

65 / 158
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN HM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ X
Bản án số: 11/2020/KDTM-ST
Ngày: 23/ 06 /2020
V/v: “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HM

Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Nhg – Thẩm phán
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Trần Thị Mh
2. Bà Nguyễn Thị Doãn Th
HM. Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Minh Ng - Thư ký Tòa án nhân dân quận
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận HM tham gia phiên tòa:Bà Nguyễn Thị
Cẩm A - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 06 năm 2020 tại Tòa án nhân dân Quận HM, thành phố X xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2019 T T-KDT ngày 20 tháng 12 năm 2019
về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
08/2020 QĐXX ngày 29 tháng 05 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Cp đầu tư HD
Trụ sở: ố 32 C1 tập thể viện 19 8, phường MD, quận CG, thành phố X.
Đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng iên B – Giám đốc
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị T – Chức vụ kế toán Công ty CP đầu tư
HD. (Có mặt)
2. Bị đơn: Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ
Trụ sở: ố 461 phố TĐ, phường TM, quận HM, X.
Đại diện theo pháp luật: Ông Mai Anh C – Chức vụ: Giám đốc
Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị – Chức vụ kế toán Công ty TNHH
trung tâm thương mại TĐ. (Có mặt)

66 / 158
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 23 tháng 9 năm 2019 và các lời khai trong
quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Công ty Cổ phần Đầu Tư HD và Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ đã


ký kết hợp đồng đồng kinh tế số: 06 HĐDV TTT TĐ-DIN UN 6.2018 ngày
14 6 2018 về việc duy trì dịch vụ vệ sinh tại Toà nhà TTT TĐ Plaza, số 416 TĐ,
Phường TM, Quận HM, X.
Kể từ khi Hợp đồng được ký kết, Công ty Cổ phần Đầu Tư HD luôn đảm bảo
chất lượng dịch vụ và gửi đầy đủ Hồ sơ thanh toán hợp lệ cho Công ty TNHH trung
tâm thương mại TĐ khi có phát sinh. Thời điểm từ tháng 11 2018 đến nay, Công ty
TNHH trung tâm thương mại TĐ dừng việc thanh toán phí dịch vụ cho Công ty Cổ
phần Đầu Tư HD.

Đến ngày 14 06 2019, Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ gửi công văn
số 41 2019 thông báo về việc ngừng sử dụng dịch vụ vệ sinh của HD từ ngày
21 06 2019 và làm thủ tục thanh lý hợp đồng. HD đã nhiều lần gửi công văn yêu cầu
thanh toán. Đồng thời cử cán bộ đến liên hệ làm việc trực tiếp với Công ty TNHH
Trung tâm thương mại TĐ nhưng đến thời điểm này Công ty TNHH Trung tâm
thương mại TĐ vẫn chưa thanh toán tiền.

Phí dịch vụ Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ chưa thanh toán tới ngày
21 6 2019 là 653.803.893 đồng. ãi suất chậm thanh toán đến 14 02 2020 là :

27.619.597 đồng.Tổng giá trị chưa thanh toán: 681.423.490 đồng.

Nay Công ty Cổ phần Đầu Tư HD yêu cầu Công ty TNHH trung tâm thương
mại TĐ phải thanh toán một lần cho Công ty Cổ phần Đầu tư HD số tiền: 653.803.894
đồng tiền gốc và tiền lãi tính đến ngày 14 02 2020 là : 27.619.597 đồng

Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty Cổ phần Đầu Tư HD không còn yêu
cầu nào khác và c ng không sữa đổi, bổ sung hay rút yêu cầu khởi kiện.
Trong ản tự khai ngày 06 tháng 1 năm 2020 các lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn trình bày:

67 / 158
Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ và công ty Cổ phần Đầu tư HD đã
ký kết Hợp đồng cung cấp dịch vụ vệ sinh từ ngày 15 06 2018 đến ngày 20 06 2019
số 06 HDDV TTT TD-DIN UN 6.2018 ký ngày 14 06 2018.
Ngày 12 07 2019, hai bên đã tiến hành ký Biên bản đối chiếu công nợ xác
nhận số tiền Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ nợ Công ty Cổ phần Đầu tư
HD là 653.803.894 VNĐ.
Ngày 20 7 2019, Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ đã nhận Công
văn số 104 2019 CV-DIN UN đề ngày 19 7 2019 của Công ty Cổ phần Đầu tư HD
về việc yêu cầu thanh toán công nợ.

Ngày 26 07 2019, Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ có gửi Công văn
số 58 2019 TĐ-CV về việc cam kết thanh toán dần khoản nợ hàng tháng từ 20 triệu
đến 50 triệu đồng do Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ đang gặp khó khăn
về tài chính, chưa thu xếp được nguồn tiền để chi trả công nợ
Tuy nhiên, ngày 27 07 2019, Công ty Cổ phần Đầu tư HD gửi mail thông báo
về việc đã gửi Đơn khởi kiện đề ngày 25 07 2019 kiện Công ty TNHH Trung tâm
thương mại TĐ tới các cơ quan, đài báo vu cáo Công ty TNHH Trung tâm thương
mại TĐ trốn tránh trách nhiệm, có dấu hiệu lừa đảo. Việc đưa đơn khởi kiện của
Công ty Cổ phần Đầu tư HD tới các cơ quan, đài báo là không đúng sự thật, vu cáo
Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ trốn tránh trách nhiệm, lừa đảo gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ. Công
ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ đã rất mất công đi giải trình giải thích với
UBND Quận HM, Chi cục thuế HM.
Việc gửi Đơn khởi kiện này là vi phạm điều 7.2: Giải quyết tranh chấp của
Hợp đồng dịch vụ đã ký giữa hai bên.
Ngày 20/08/2019, Công ty Cổ phần Đầu tư HD gửi công văn số 110 2019 CV-
DIN UN về việc thanh toán công nợ và đơn khởi kiện.
Qua trao đổi giữa kế toán hai bên, Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ
đã yêu cầu Công ty Cổ phần Đầu tư HD rút đơn khởi kiện, gửi đính chính xin lỗi tới
các đối tác liên quan của Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ mà Công ty Cổ
phần Đầu tư HD gửi đơn khởi kiện.

Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ xác nhận còn nợ Công ty Cổ phần
Đầu tư HD là 653.803.894 VNĐ.

68 / 158
Đối với khoản lãi tiền lãi Công ty Cổ phần Đầu tư HD tính đối với Công ty
TNHH Trung tâm thương mại TĐ là 27.619.597 đồng. (Tính đến ngày 14 02/2020)
thì Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ đề nghị Tòa án căn cứ trên quy định
của pháp luật để giải quyết.

Đến thời điểm hiện tại, Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ tuy còn
gặp khó khăn về tài chính nhưng vẫn cố gắng thu xếp nguồn tiền để chi trả dần công
nợ cho Công ty Cổ phần Đầu tư HD. Nay Công ty TNHH Trung tâm thương mại
TĐ xin thanh toán dần mỗi tháng: từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng tháng
kể từ 05 2020 cho đến khi kết thúc công nợ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ
không có yêu cầu phản tố.
Tại phiên tòa : Nguyên đơn Công ty Cổ phần Đầu tư HD vẫn giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ thanh toán:
653.803.894 đồng và số tiền lãi là:49.868.220 đồng. Đại diện hợp pháp của nguyên
đơn có ý kiến bổ sung, trong đơn khởi kiện nguyên đơn tạm tính tiền lãi phát sinh
tính đến ngày 23 tháng 9 năm 2019 là 14.543.519 đồng và đến biên bản hòa giải này
14.2.2020 tiền lãi tính đến ngày 14/02/2020 là: 27.619.597 đồng. Nay nguyên đơn
xác định lại tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử là ngày 23 06 2020 là
49.868.220 đồng, với công thức: Tiền lãi (đồng) = (công nợ x số ngày quá hạn x lãi
suất) 365 ngày.
Đại diện bị đơn vẫn giữ nguyên ý kiến như trên Công ty TNHH Trung tâm
thương mại TĐ còn nợ Công ty Cổ phần Đầu tư HD số tiền là 653.803.894 đồng.
Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ hiện nay do khó khăn khó khăn về tài
chính xin thanh toán dần mỗi tháng: từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng tháng
cho đến khi kết thúc công nợ.
Đối với khoản lãi tiền lãi Công ty Cổ phần Đầu tư HD tính đối với Công ty
TNHH Trung tâm thương mại TĐ là 49.868.220 đồng thì Công ty TNHH Trung tâm
thương mại TĐ không đồng ý vì Công ty Cổ phần Đầu tư HD đưa tin tới các cơ
quan, đài báo là không đúng sự thật, vu cáo Công ty TNHH Trung tâm thương mại
TĐ trốn tránh trách nhiệm, lừa đảo gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Công
ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ nên việc chưa thanh toán cho Công ty Cổ phần
Đầu tư HD là vì Công ty Cổ phần Đầu tư HD phải gửi đính chính xin lỗi tới các đối
tác liên quan của Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ thì Công ty TNHH
Trung tâm thương mại TĐ mới thanh toán. Nên Công ty TNHH Trung tâm thương

69 / 158
mại TĐ chỉ đồng ý thanh toán số tiền gốc là: 653.803.894 đồng và không đồng ý
thanh toán lãi.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận HM tham gia phiên tòa phát biểu:
1. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử:
Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi xét xử thấy
rằng:
Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định về nhiệm vụ quyền hạn của thẩm phán
quy định tại Điều 48, Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Thụ lý vụ án đúng
thẩm quyền, xác định đúng tư cách tố tụng của đương sự; tiến hành thu thập chứng
cứ, tống đạt các thông báo và Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự và Viện
kiểm sát đúng thời hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại Chương XIV
về phiên tòa sơ thẩm của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
2. Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ
án c ng như tại phiên tòa hôm nay, đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại Điều
71, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
3. Về nội dung: Hợp đồng dịch vụ số 06 HĐDV TTT -DIN UN 6.2018 ngày
14 6 2018 và Phụ lục Hợp đồng số 01,02,03 đính kèm Hợp đồng số
06 HĐDV TTT -DIN UN 6.2018 được ký kết giữa Công ty cổ phần đầu tư HD và
Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ về việc thực hiện Hợp đồng dịch vụ vệ
sinh, thời gian cung cấp dịch vụ từ ngày 12 6 2018 đến ngày 11 8 2019. Khi ký Hợp
đồng hai bên đều có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nội dung Hợp đồng không vi
phạm điều cấm của pháp luật, hai bên ký kết Hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, hình
thức và nội dung của Hợp đồng phù hợp quy định của pháp luật nên có hiệu lực thi
hành với các bên.
Về thực hiện Hợp đồng:
Công ty cổ phần đầu tư HD và Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ xác
nhận sau khi ký kết Hợp đồng Công ty cổ phần đầu tư HD luôn đảm bảo chất lượng
dịch vụ và gửi đầy đủ hồ sơ thanh toán hợp lệ cho Công ty TNHH Trung tâm TĐ.
Công ty TNHH Trung tâm TĐ có thanh toán chi phí dịch vụ đến tháng 10 2018. Từ
thời điểm tháng 11 2018 đến hôm nay ngày 23 6 2020, Công ty TNHH Trung tâm
thương mại TĐ chưa thanh toán chi phí còn lại trong Hợp đồng đã ký cho Công ty
cổ phần đầu tư HD. Ngày 30 6 2019, Công ty cổ phần đầu tư HD và Công ty TNHH
Trung tâm thương mại TĐ ký biên bản thanh lý Hợp đồng, giá trị quyết toán Công

70 / 158
ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ chưa thanh toán phí dịch vụ tháng 11,12,2018
và các tháng từ 01 đến 06 2019 với tổng số tiền là 653.803.894 đồng.
Ngày 12 7 2019, Công ty cổ phần đầu tư HD và Công ty TNHH Trung tâm
thương mại TĐ có biên bản đối chiếu công nợ về phí dịch vụ từ tháng 12.2018 đến
tháng 06 2019, Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ còn phải thanh toán cho
Công ty cổ phần đầu tư HD số tiền là 653.803.894 đồng.
Về phần lãi suất mà Công ty cổ phần HD đề nghị:
Theo quy định tại điểm 3.8 Điều 3 Phí dịch vụ và phương thức thanh toán:“
trong trường hợp có sự vi phạm nghĩa vụ thanh toán từ 20 ngày so với thời hạn thanh
toán được quy định trong hợp đồng này, bên vi phạm có nghĩa vụ thanh toán cho
bên bị vi phạm phần lãi suất của tất cả các khoản nợ tồn đọng tính từ ngày đến hạn
thanh toán cho đến ngày chính thức trả theo lãi suất quá hạn do ngân hàng nhà
nước Việt Nam quy định tại thời điểm thanh toán.
Căn cứ theo Điều 306 uật thương mại 2005:“trường hợp bên vi phạm hợp
đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí
hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền
chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh
toán tương ứng với thời gian chậm trả,trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Như vậy, đề nghị về phần lãi suất của Công ty cổ phần HD là có căn cứ.
Đề xuất đường lối giải quyết:
Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư HD đối với
Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ.
Buộc Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ phải thanh toán phí dịch vụ
cho Công ty cổ phần đầu tư HD là 653.803.894 đồng và lãi suất chậm trả tính đến
ngày xét xử.
Về án phí: Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ phải chịu án phí theo
quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân là có cơ sở chấp nhận
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra chứng
cứ tại phiên tòa, sau phần hỏi và tranh luận Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:

[1]. Về pháp luật tố tụng:


Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong vụ tranh chấp, yêu cầu khởi

71 / 158
kiện và quy định của pháp luật để kh ng định loại quan hệ tranh chấp là tranh chấp
về hợp đồng dịch vụ được xác lập giữa hai tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có
mục đích lợi nhuận.
Xét, bị đơn có trụ sở tại số 461 phố TĐ, phường TM, quận HM, X nên thẩm
quyền giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận HM,
thành phố X được quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a
khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, các bên đều thống nhất xác nhận
giữa Công ty Cổ phần Đầu Tư HD và Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ đã
ký kết hợp đồng đồng kinh tế số 06 HĐDV TTT TĐ-DIN UN 6.2018 ngày 14
6 2018 về việc duy trì dịch vụ vệ sinh tại Toà nhà TTT TĐ Plaza, số 416 TĐ, Phường
TM, Quận HM, X. Căn cứ biên bản đối chiếu công nợ giữa Công ty Cổ phần Đầu
Tư HD và Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ ngày 12 tháng 07 năm 2019 thì
Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ còn nợ Công ty Cổ phần Đầu Tư HD số
tiền là: 653.803.894 đồng. Ngoài các tài liệu chứng cứ nêu trên, tại các biên bản hòa
giải đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị đều thừa nhận Công ty TNHH trung
tâm thương mại TĐ còn nợ Công ty Cổ phần Đầu Tư HD số tiền là: 653.803.894
đồng.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét có cơ sở kết luận:

Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ còn nợ Công ty Cổ phần Đầu Tư
HD số tiền là: 653.803.894 đồng nên yêu cầu khởi kiện của nợ Công ty Cổ phần
Đầu Tư HD là có cơ sở chấp nhận. Công ty Cổ phần Đầu Tư HD yêu cầu Công ty
TNHH trung tâm thương mại TĐ trả tiền lãi phát sinh kể từ thời điểm xác nhận đối
chiếu công nợ ngày 12 tháng 07 năm 2019 đến ngày 23/06/2020 là
49.868.220 đồng
Như phân tích trên, xét có căn cứ buộc Công ty TNHH trung tâm thương
mại TĐ trả số tiền Công ty Cổ phần Đầu Tư HD số tiền là: 653.803.894 đồng. Xét
tại Công ty Cổ phần Đầu Tư HD số tiền là: 653.803.894 đồng hai bên cùng ký xác
nhận công nợ, đến thời điểm xét Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ vẫn chưa
trả khoản nợ gốc nên căn cứ Điều 306 luật Thương mại 2006 quy định “Trường hợp
bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch
vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu trả tiền lãi
trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời

72 / 158
điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác” thì yêu cầu trả tiền lãi do chậm thanh toán
của Công ty Cổ phần Đầu Tư HD là có cơ sở để chấp nhận. Xét thời điểm tính lãi
và mức lãi suất áp dụng, tại biên bản biên bản đối chiếu công nợ giữa Công ty Cổ
phần Đầu Tư HD và Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ ngày 12 tháng 07
năm 2019 nên thời điểm tính lãi được tính từ ngày đối chiếu công nợ.
Tòa án nhân dân quận HM đã gửi công văn Ngân hàng T CP ngoại thương
Việt Nam – chi nhánh Nam X, Ngân hàng nông nghiệp và phát triến nông thôn Việt
Nam chi nhánh HM, Ngân hàng thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam – chi
nhánh HM đề nghị các ngân hàng trên cung cấp cho Tòa án lãi xuất quá hạn của
các ngân hàng tính đến tháng 4 năm 2020. Tại công văn số 2199 ngày 15.4.2020 thì
mức lãi xuất quá hạn áp dụng của ngân hàng Ngân hàng T CP Công thương Việt
Nam là 9.5% X 150%. Tại công văn số 378A ngày 12.5.2020 thì mức lãi xuất quá
hạn áp dụng của Ngân hàng T CP ngoại thương Việt Nam là 8.5% X 150%; Tại
công văn số 72 ngày 18.3.2020 thì mức lãi xuất quá hạn áp dụng của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triến nông thôn Việt Nam là 9 % X 150%.
Tuy nhiên tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn tự nguyện áp dụng lãi suất trong
trường hợp hai bên không có thỏa thuận là 8% năm, thời điểm tính lãi được tính từ
ngày đối chiếu công nợ. Căn cứ Điều 357 Bộ luật dân sự 2015 thấp hơn mức lãi
suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời
gian chậm trả theo quy định tại Điều 306 luật Thương mại và thời gian tính lãi từ
ngày 12 7 2019 đến 22 06 2020) là 49.868.220 đồng là sự tự nguyện của nguyên
đơn, không trái pháp luật. Như vậy, tổng số tiền Công ty TNHH trung tâm thương
mại TĐ phải trả cho Công ty Cổ phần Đầu Tư HD là 704.364.728 đồng (Bảy trăm
linh tư triệu ba trăm sáu mươi tư nghìn bảy trăm hai mươi tám) đồng trong đó tiền
gốc: 653.803.894 đồng và 49.868.220 đồng tiền lãi.
Đối với việc kiện Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ nêu là Công ty
Cổ phần đầu tư HD gửi đơn đến tới các cơ quan, đài báo vu cáo Công ty TNHH
Trung tâm thương mại TĐ gây ảnh hưởng đến uy tín của Công ty TNHH Trung tâm
thương mại TĐ. Nếu Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ thấy có thiệt hại
ảnh hưởng đến công ty. Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ có thể khởi kiện
một vụ kiện Dân sự khác.
2.4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326 2016 UBTVQH14 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án. Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ phải chịu án phí

73 / 158
trên số tiền 703.672.114 đồng là 32.146.884 đồng. Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí
là 22.500.000 đồng cho Công ty Cổ phần Đầu Tư HD đã nộp theo biên lai thu tiền
tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: 0005038 ngày 18 tháng 12 năm 2019 của Chi Cục
thi hành án dân sự QuậnHM, thành phố X.
2.5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy
định tại Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ Điều 513; Điều 519; Điều 429; điều 357; điều 466; điều 468 BLDS
2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 306 uật Thương mại năm 2006;
Căn cứ án lệ số 09 2016 A được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 17 10 2016 và công bố theo Quyết định số 698 QĐ-CA ngày
17/10/2016;
Căn cứ Nghị quyết số 326 2016 UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Căn cứ uật thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của Công ty Cổ phần Đầu tư HD:


Buộc Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ phải thanh toán cho Công ty
Cổ phần Đầu tư HD với tổng số tiền là 704.364.728 đồng (Bảy trăm linh tư triệu ba
trăm sáu mươi tư nghìn bảy trăm hai mươi tám) đồng bao gồm: 653.803.894 đồng
tiền gốc và 49.868.220 đồng tiền lãi.
Về án phí: Công ty TNHH trung tâm thương mại TĐ phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm là 32.146.884 đồng (Ba mươi hai triệu một trăm bốn mươi sáu nghìn
tám trăm tám mươi tư đồng). Hoàn lại số tiền tạm ứng án phí là 22.500.000 đồng
(Hai mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng) cho Công ty Cổ phần Đầu tư HD đã nộp
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0005038 ngày 18 tháng 12
năm 2019 của Chi Cục thi hành án dân sự Quận HM.

74 / 158
Về nghĩa vụ thi hành án
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khỉ
thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn
trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 uật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cư ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 uật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành
án dân sự.
Về quyền háng cáo:
Công ty Cổ phần Đầu tư HD và Công ty TNHH Trung tâm thương mại TĐ
mà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nơi nhận TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- TAND TP.X; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN
- VKSND Q. HM; TÒA
- Chi côc THADS
Q. HM;
- Đương sự;
- Lưu hå s¬./.

Ph Thị Nhg

75 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 34/2020/KDTM ST


Ngày: 30/9/2020
V/v: “ Tranh chấp hợp đồng
Dịch vụ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thúy Hòa
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Danh Cư
2. Bà Thái Thục Hiền
-Thư ký phiên tòa: Bà Lê Ngọc Diểm, thư ký Tòa án nhân dân Quận 8,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Ngô Thị Kim Sinh - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án thụ lý số 27/2012/TLST-KDTM ngày 24 tháng
5 năm 2012 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 200/2020/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn
phiên tòa số 151 /2020/QĐ-HPT ngày 10/9/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH PB
Địa chỉ: 295 đường N, phường T, quận P, Thành phố H. Địa chỉ liên lạc:
108/11 đường M, Phường C, quận B, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông A; Địa chỉ: 1073/41
đường N, Phường D, quận B, Thành phố H; Địa chỉ liên lạc: 89-91 (lầu 1, phòng
21) đường ND, phường BN, Quận E, Thành phố H theo văn bản ủy quyền ngày
07/11/2011.
( Có mặt)
Bị đơn: Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN.
Địa chỉ: 017 Lô I, chung cư F, Phường H, Quận Y, Thành phố H .
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông LA, sinh năm 1973;
Địa chỉ: 243/40 HD, Phường H, Quận G, Thành phố H.
(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

76 / 158
Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn có người đại diện theo ủy
quyền ông Ngô Trọng Hoàng trình bày: Vào ngày 06/01/2010 Công ty TNHH PB
và Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN có ký hợp đồng cung cấp
dịch vụ bảo vệ số 136/HĐBV/2010 với nội dung cụ thể như sau:
- Công ty TNHH PB nhận cung cấp cho Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ
bất động sản TN số nhân viên bảo vệ với số lượng 03 vị trí 24/24 giờ bao gồm cả
ngày lễ, tết và ngày nghỉ (thứ bảy và chủ nhật). Thời gian bắt đầu triển khai lực
lượng bảo vệ là ngày 06/01/2010 là 02 vị trí 24/24 giờ và ngày 09/01/2010 là 01 vị
trí 24/24 giờ. Địa điểm bảo vệ: Nhà hàng hải sản Trung Hoa, địa chỉ số 117 Lạc
Long Quân, phường X, Quận XX, Thành phố H; Phí dịch vụ tháng 01/2010 là
18.870.967 đồng, từ tháng 02/2010 phí dịch vụ là 23.400.000 đồng. Phí này chưa
bao gồm 10% thuế VAT.
- Đến ngày 04/3/2010 hai bên thỏa thuận ký phụ lục hợp đồng cung cấp dịch
vụ bảo vệ số 136/PLHDDBV01/2010 với nội dung cụ thể như sau: Thay đổi số
nhân viên bảo vệ còn lại 01 vị trí 24/24 và 01 ca 08 giờ kể từ ngày 04/3/2010. Phí
bảo vệ
10.400.000 đồng/ tháng bắt đầu từ 04/3/2010. Phí này chưa bao gồm thuế VAT.
- Phí dịch vụ sẽ được trả vào ngày 25 hàng tháng, nếu trả trễ hạn sẽ phải chịu
lãi suất 0,15% ngày trên tổng số tiền chậm trả.
Công ty TNHH PB đã thực hiện đúng theo hợp đồng và phụ lục hợp đồng về
việc cung cấp lực lượng bảo vệ. Tính đến tháng 7/2010 phí dịch vụ tổng cộng là
102.630.564 đồng, phía Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN mới
thanh toán 18.000.000 đồng còn thiếu số tiền 84.630.564 đồng. Nguyên đơn đã gởi
văn bản số 178/2010/CV-PTGĐ ngày 07/7/2010 và 179/2010/CV-PTGĐ ngày
03/8/2010 đến Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN để yêu cầu
thanh toán công nợ nhưng phía bị đơn không trả lời và cũng không thanh toán tiền.
Đến ngày 15/8/2010 phía nguyên đơn đã chấm dứt hợp đồng bảo vệ cho Công ty
TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN vì không nhận được tiền thanh toán
theo thỏa thuận. Ngày 05/9/2011 Công ty TNHH PB khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN phải trả toàn bộ số tiền phí
dịch vụ còn thiếu là 84.630.564 đồng cùng với tiền lãi chậm trả tính đến ngày
31/8/2011 là
61.868.321 đồng. Tính đến ngày 30/9/2020 bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn
số tiền 162.067.530 đồng trong đó tiền phí dịch vụ còn thiếu là 84.630.564 đồng và
tiền lãi chậm thanh toán là 77.436.966 đồng. Nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi chậm
thanh toán là 9%/năm trên số tiền còn thiếu với thời gian 122 tháng.
Bị đơn Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN vắng mặt nên
không thu được lời khai cũng như không hòa giải được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 phát biểu ý kiến: Tòa án nhân dân
Quận 8 thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng quy định pháp luật. Thẩm
phán, Hội đồng xét xử tuân thủ pháp luật không vi phạm Tố tụng. Về nội dung đề
nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

77 / 158
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định :
[1].Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:
Xét Công ty TNHH PB khởi kiện tranh chấp hợp đồng dịch vụ với Công ty
TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN,các bên có đăng ký kinh doanh và đều
có mục đích lợi nhuận nên đây tranh chấp về kinh doanh thương mại. Bị đơn có trụ
sở tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, nên theo qui định của các Điều 30; Điều
35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân Quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh
[ 2]. Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN đã được tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải nhưng đều vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 207 Bộ
luật Tố tụng dân sự vụ án này thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.
Bị đơn Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2
Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định
xử vắng mặt bị đơn.

[3].Về các yêu cầu của các đương sự:


Xét Công ty TNHH PB và Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản
TN có ký hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ. Hợp đồng do người đại diện theo pháp
luật ký tên, đóng dấu công ty phù hợp với qui định về giao dịch dân sự qui định tại
Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005. Hai bên có thỏa thuận thời gian, địa điểm, phí
dịch vụ cụ thể. Phía nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cung cấp dịch vụ bảo
vệ từ tháng 01-2010 đến 15/8/2010. Nguyên đơn đã gởi thông báo về yêu cầu trả
tiền thuê dịch vụ và thời hạn ngưng cung cấp dịch vụ là 15/8/2010. Phía bị đơn đã
được thông báo thụ lý nhưng không có ý kiến phản đối chứng tỏ có giao dịch về
hợp đồng dịch vụ bảo vệ và chưa trả tiền thuê dịch vụ đúng như nguyên đơn trình
bày. Nguyên đơn thừa nhận đã nhận được 18.000.000 đồng phí bảo vệ tháng
01/2010 từ bị đơn, số tiền bị đơn còn thiếu là 84.630.564 đồng. Xét các bên không
tranh chấp về dịch vụ do Công ty TNHH PB cung cấp mà chỉ tranh chấp về phí dịch
vụ Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN phải trả. Xét hợp đồng ngày
06/01/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 04/3/2010 thì tháng 01/2010 phí dịch vụ là
18.870.967 đồng, từ tháng 02/2010 phí dịch vụ là 23.400.000 đồng, từ tháng
3/2010 phí dịch vụ là 10.400.000 đồng chưa tính VAT. Công ty TNHH PB cung
cấp dịch vụ đầy đủ theo yêu cầu của bị đơn từ tháng 1/2010 đến 15/8/2010, hàng
tháng đều gởi thông báo và hóa đơn tính tiền cho Công ty TNHH kinh doanh dịch
vụ bất động sản TN nhưng không nhận được phản hồi về hóa đơn tính tiền cũng
như không nhận được tiền phí dịch vụ. Có cơ sở xác định bị đơn còn thiếu nguyên
đơn 84.630.564 đồng tiền phí dịch vụ.

78 / 158
Theo hợp đồng nếu thanh toán không đầy đủ thì phải chịu phạt 0,15%/ngày
trên số tiền chậm trả, theo Điều 306 luật thương mại năm 2005 quy định về quyền
yêu cầu tiền lãi do chậm thanh toán như sau “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng
chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp
lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm
trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán
tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Nguyên đơn chỉ yêu cầu trả lãi 9%/năm thấp hơn lãi suất nợ quá hạn trung bình trên
thị trường hiện nay là có lợi cho bị đơn nên chấp nhận.
Để đảm bảo quyền lợi của bên được thi hành án cần áp Điều 306 Luật
Thương mại năm 2005 để tính lãi suất trong thời gian chưa thi hành án tính từ thời
điểm có đơn yêu cầu Thi hành án của bên được thi hành án.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm :
Xét yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí
dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn; nguyên đơn không phải chịu
án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại tiền tạm ứng án phí theo quy định tại Điều
147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Các Điều 30, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 207, khoản 2 Điều 227
và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015;
- Các Điều 122, Điều 388 của Bộ luật dân sự năm 2005;
- Điều 74, Điều 85, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005;
- Luật Thi hành án dân sự;
- Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án ;
- Nghị Quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án Nhân dân Tối cao.
Tuyên xử :
1. Chấp nhận yêu cầu thanh toán tiền phí dịch vụ của nguyên đơn Công ty
TNHH PB:
Buộc Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN thanh toán cho
Công ty TNHH PB số tiền 162.067.530 (Một trăm sáu mươi hai triệu không trăm
sáu mươi bảy nghìn năm trăm ba mươi) đồng trong đó tiền phí dịch vụ còn thiếu

84.630.564 đồng và tiền lãi chậm thanh toán là 77.436.966 đồng ngay sau khi bản
án có hiệu lực Pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty TNHH PB nếu Công
ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN không thực hiện đúng nghĩa vụ trả
tiền, thì hàng tháng Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn

79 / 158
trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm
trả.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty TNHH kinh doanh dịch vụ bất động sản TN phải chịu là 8.103.376
(Tám triệu một trăm lẻ ba ngàn ba trăm bảy mươi sáu) đồng.
Công ty TNHH PB không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được trả lại
số
tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.663.000 đồng theo biên lai thu tiền số
AA/2011/00166 ngày 18/5/2012 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8 Thành
phố Hồ Chí Minh.
Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3.Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
4. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính kể từ
ngày nhận được hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- TAND TP.HCM; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- VKSND Q8;
- THADS Q8;
- Các đương sự;
- Lưu VP, hồ sơ (…)
Lê Thúy Hòa

80 / 158
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH NINH BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 02/2019/KDTM -PT


Ngày: 03/5/2019.
V/v: Tranh chấp hợp đồng dịch
vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Phạm Văn Khôi.
Các thẩm phán: - Ông Đinh Huy Lưỡng.
- Ông Nguyễn Tử Lượng.
- Thư ký phiên toà: Bà Phạm Thị Lan – Thẩm tra viên Toà án nhân dân tỉnh
Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình tham gia phiên tòa: Bà
Bùi Thị Thúy - Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 04/2018/TLPT- KDTM
ngày 03 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ.
Do bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 06/2018/KDTM-ST ngày
18/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 01/2019/QĐPT-KDTM ngày
01 tháng 3 năm 2019, Quyết định hoãn phiên toà số 01/2019/QĐPT-KDTM ngày 28
tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty số 4.
Địa chỉ: Đường H, phường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Hải T, chức vụ: Chủ tịch HĐQT.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Xuân S, sinh năm 1979, văn bản
uỷ quyền ngày 26/2/2019.
Địa chỉ: Số 27, ngách 39, ngõ 250, đường Kim Giang, tổ 27, phường Đại Kim,
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
2. Bị đơn: Công ty cổ phần cảng N ( chuyển đổi từ Công ty V).
Địa chỉ: đường H, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Mạnh H, chức vụ: Chủ tịch
HĐQT.
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị Minh H, Địa chỉ: số 36A,
Nguyễn Lương B, Ô Chợ Dừa, quận Đ, Thành phố Hà Nội và Bà Dương Thị T, Địa
chỉ: Số 8, ngách 25/245, đường Nguyễn Công T, phố N, phường T, thành phố N, tỉnh
Ninh Bình. Văn bản uỷ quyền ngày 26/9/2018.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thanh H.

81 / 158
Địa chỉ: Phòng 312, nhà K5, đô thị Việt H, phường Giang B, quận L, Thành phố
Hà Nội.
Tại phiên tòa: Có mặt ông Nguyễn Xuân S, bà Nguyễn Thị Minh H, ông Nguyễn
Thanh H. Vắng mặt ông Dương Hải T, ông Nguyễn Mạnh H, bà Dương Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn trình bày: Ngày 21/2/2012 Công ty số 4 (và
Chi nhánh Công ty cổ phần Cảng N giao kết hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT với nội
dung: Đoạn quản lý đường thủy nội địa số 4 nhận thực hiện công tác “ Điều tiết, khống
chế, đảm bảo giao thông đường thủy khu vực thi công xây dựng cầu đường bộ thị cầu
sửa chữa, gia cố, cải tạo cầu Thị Cầu”, giá trị hợp đồng 3.800.000.000 đồng; Ngày
7/11/2012 hai bên giao kết phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ với nội dung điều chỉnh
hợp đồng lên 7.563.614.000 đồng ( bảy tỷ năm trăm sáu mươi ba triệu sáu trăm mười
bốn nghìn đồng chẵn); Ngày 31/10/2013 hai bên giao kết phụ lục hợp đồng số
02/PLHĐ về việc điều chỉnh giá trị hợp đồng lên 8.728.152.000 đồng (tám tỷ bảy
trăm hai mươi tám triệu một trăm năm mươi hai nghìn đồng chẵn) (đã bao gồm thuế
VAT ). Quá trình thực hiện hợp đồng đoạn quản lý đường thủy nội địa số 4 thực hiện
đúng các điều khoản trong hợp đồng cũng như phụ lục hợp đồng mà hai bên ký kết.
Ngày 30/6/2014 hai bên đối chiếu, xác nhận công nợ phía Chi nhánh công ty N còn
nợ Đoạn số 4 số tiền là 3.620.138.000 đồng (Ba tỷ sáu trăm hai mươi triệu một trăm
ba mươi tám nghìn đồng chẵn). Sau khi đối chiếu công nợ Chi nhánh Công ty cổ phần
Cảng N và Công ty cổ phần Cảng N không trả nợ, nay Công ty số 4 yêu cầu Công ty
cổ phần Cảng N trả nợ số tiền 3.620.138.000 đồng (Ba tỷ sáu trăm hai mươi triệu một
trăm ba mươi tám nghìn đồng chẵn) và lãi suất tính từ ngày 02/02/2017 (ngày
6/1/2017 tiền chủ đầu tư trả hết cho Công ty cổ phần Cảng N) đến ngày xét xử với lãi
suất 7,5%/ năm và tiếp tục trả lãi với mức lãi suất 7,5%/ năm cho đến khi trả hết nợ.
* Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn là bà Nguyễn Thị Minh H và bà
Dương Thị T trong các bản khai và tại phiên tòa trình bày: Giấy ủy quyền số 400 ngày
19/12/2011 của Công ty cổ phần Cảng N chỉ ủy quyền cho ông Nguyễn Thanh H ký
kết hợp đồng với Ban quản lý dự án đường sắt khu vực 1 không ủy quyền cho ông H
ký hợp đồng với các nhà thầu phụ. Việc ông H ký hợp đồng kinh tế số 02 ngày
21/2/2012 và hai phụ lục hợp đồng với Công ty số 4 không được ủy quyền của Công
ty cổ phần Cảng N là sai ông H tự giải quyết Công ty không chịu trách nhiệm với hợp
đồng này. Việc Công ty số 4 và ông Nguyễn Thanh H thi công phải có chứng từ hợp
pháp công ty mới có trách nhiệm thanh toán ( Phải có biên bản nghiệm thu có chữ ký
của bên tư vấn giám sát). Về báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Cảng N khi Công
ty có nhiều Chi nhánh: Theo cách quản lý trước đây của nhà nước báo cáo tài chính
của công ty mang tính tổng hợp, không chi tiết có phân cấp phân quyền. Để biết báo
cáo đúng hay sai thi đoàn thanh tra kiểm toán khi phát hiện sai phạm thì phải xuất
toán, chi nhánh chịu trách nhiệm. Báo cáo tài chính hàng quý, hàng năm của Chi

82 / 158
nhánh Công ty cổ phần Cảng N cung cấp cho Công ty cổ phần Cảng N để công ty
tổng hợp vào báo cáo tài chính của công ty. Báo cáo tài chính của Chi nhánh Công ty
cổ phần Cảng N gửi lên Công ty cổ phần Cảng N không có chi tiết không có biên bản
nghiệm thu.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Thanh H là trình bày:
Tại văn bản ủy quyền số 400 ngày 19/12/2011 của Công ty cổ phần Cảng N, Công ty
cổ phần Cảng N đã ký hợp đồng số 16 ngày 23/12/2011 với Ban quản lý đường sắt
khu vực 1 để thi công Cầu Thị Cầu. Do yêu cầu tiến độ thi công Công ty cổ phần
Cảng N đã ký hợp đồng số 02 ngày 21/2/2012 với Công ty số 4, ngày 7/11/2012 hai
bên ký phụ lục hợp đồng số 01; ngày 31/10/2013 hai bên ký phụ lục hợp đồng số 02.
Khối lượng công trình Cầu đường bộ Thị Cầu và sửa chữa Cầu Thị Cầu là
12.366.879.000 đồng đến ngày 30/6/2014 hai bên đối chiếu công nợ Chi nhánh Công
ty cổ phần cảng N thi công khối lượng có giá trị là 8.728.152.000 đồng (tám tỷ bảy
trăm hai mươi tám triệu một trăm năm mươi hai nghìn đồng chẵn). Ban quản lý dự án
đường sắt khu vực 1 đã chuyển trả cho Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N tính đến
hết năm 2013( Năm nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng) là:
Lần 1: ngày 31/8/2012 chuyển trả nợ 1.900.000 đồng ( Một triệu chín trăm nghìn
đồng) thể hiện trong báo cáo tài chính của mã số 131 báo cáo B01- DN năm 2012.
Lần 2: Ngày 01/7/2013 chuyển 2.289.100.000 đồng ( Hai tỷ hai trăm tám mươi
chín triệu một trăm nghìn đồng chẵn) trong báo cáo tài chính mã số 131 báo cáo tài
chính năm 2013.
Lần 3: Ngày 18/10/2013 chuyển khác 5.033.379.000 đồng ( Năm tỷ không trăm
ba mươi ba triệu ba trăm bảy mươi chín nghìn đồng ) trong báo cáo tài chính mã số
131 báo cáo tài chính năm 2013.
Chi nhánh Công ty cổ phần Cảng N đã chi trả cho Công ty số 4 là bốn lần cụ
thể:
Lần 1: Ngày 27/12/2012 chi trả 950.000.000 đồng ( Chín trăm năm mươi
triệu đồng chẵn) mã số 312 báo cáo BO1-DN năm 2012.
Lần 2: Ngày 29/7/2013 chi trả 1.000.000.000 đồng ( Một tỷ đồng chẵn) mã số
312 báo cáo BO1-DN năm 2013.
Lần 3: Ngày 8/8/2013 chi trả 1.000.000.000 đồng ( Một tỷ đồng chẵn) mã số
312 báo cáo BO1-DN năm 2013.
Lần 4: Ngày 14/10/2013 chi trả 2.050.000.000 đồng ( Hai tỷ không trăm năm
mươi triệu đồng chẵn) mã số 312 báo cáo BO1-DN năm 2013.
Nhiều lần Công ty số 4 làm văn bản lên Công ty cổ phần cảng N đề nghị trả nợ
cho Công ty số 4 nhưng không được đáp ứng đến ngày 6/1/2017 Ban quản lý đường
sắt khu vực 1 đã chuyển trả hết nợ công trình Cầu đường bộ Thị Cầu là:
12.366.879.00 đồng trong đó có 3.620.138.000 đồng của công trình Cầu Thị Cầu
mà Công ty số 4 thi công và chưa được trả nợ.
Việc ký hợp đồng với nhà thầu phụ Chi nhánh đã báo cáo Công ty và trong báo
cáo tài chính năm 2012 và năm 2013 toàn bộ số tiền Ban quản lý dự án đường sắt khu

83 / 158
vực 1 chi trả cho Chi nhánh Công ty cổ phần Cảng N và Chi nhánh Công ty cổ phần
cảng N chi trả cho Công ty số 4 thể hiện trong báo cáo tài chính năm 2012 và năm
2013 và được Công ty cổ phần cảng N tổng hợp vào báo cáo tài chính của Công ty cổ
phần cảng N.
Công trình cầu Thị Cầu cả Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N thi công và Công
ty số 4 thi công nên khi nghiệm thu khối lượng hoàn thành của Công ty số 4 thành
phần không có tư vấn giám sát. Tư vấn giám sát tham gia nghiệm thu giai đoạn sau
khi có sự tham gia của chủ đầu tư là Ban quản lý dự án đường sắt khu vực 1 ( nghiệm
thu toàn bộ khối lượng của Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N và Công ty số 4). Hồ
sơ quyết toán công trình Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N đã bàn giao cho Công ty
cổ phần cảng N ba bộ hồ sơ chủ dự án là Ban quản lý dự án đường sắt khu vực 1 lưu
trữ. Năm 2013 công trình hoàn thành đưa vào sử dụng các chứng từ quyết toán đã
được lưu trữ.
Tại bản án số 06/2018/KDTM-ST ngày 18/9/2018 của Tòa án nhân dân thành
phố N, tỉnh Ninh Bình đã căn cứ vào các Điều 30, 35, 39 106, 147, Điều 273 Bộ luật
tố tụng dân sự 2015; Điều 89 Bộ luật dân sự; Các Điều 74,75,78, 82, 85, 83, 86, 87
và án lệ số 09/2016/AL của Tòa án nhân dân Tối cao; Điều 306 Luật thương mại;
Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao; Điều 6; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326 /2016/ UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Điều 26 luật thi hành án dân sự.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty số 4 đối với Công ty cổ
phần cảng N.
1. Buộc Công ty cổ phần cảng N trả cho Công ty số 4 số tiền là: 4.062.850.000
đồng ( Bốn tỷ không trăm sáu mươi hai triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng chẵn).
Trong đó nợ gốc là: 3.620.138.000 đồng( Ba tỷ sáu trăm hai mươi triệu một trăm ba
mươi tám nghìn đồng), nợ lãi là: 442.712.000 đồng ( Bốn trăm bốn mươi hai triệu bảy
trăm mười hai nghìn đồng chẵn).
Kể từ ngày 19/9/2018 Công ty cổ phần cảng N còn phải trả nợ lãi cho Công ty
số 4 tiền lãi với mức lãi suất 7,5% /năm trên số nợ gốc là 3.620.138.000 đồng ( Ba tỷ
sáu trăm hai mươi triệu một trăm ba mươi tám nghìn đồng) cho đến khi thi hành xong.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Buộc Công ty cổ phần cảng N nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm số
tiền là: 112.062.000 đồng ( Một trăm mười hai triệu không trăm sáu mươi hai nghìn
đồng chẵn).
- Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho Công ty số 4 là 52.200.000 đồng ( năm mươi
hai triệu hai trăm nghìn đồng chẵn) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
AA/2016/0000819 ngày 5/12/2017 của Chi cục Thi hành án thành phố N, tỉnh Ninh
Bình.
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định
của pháp luật.

84 / 158
Ngày 26/9/2018 Công ty cổ phần cảng N có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm số 06/2018/KDTM-ST ngày 18/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh
Ninh Bình với lý do hợp đồng không có chữ ký của người có đủ thẩm quyền, không
có sự uỷ quyền của người có đủ thẩm quyền nên không đảm bảo tính pháp lý; Hồ sơ
thanh toán của nguyên đơn không đảm bảo điều kiện để thanh toán theo quy định của
pháp luật đối với nhà thầu phụ.
Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị Minh H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị trả
cho nguyên đơn 60% khoản tiền nợ gốc, nếu không đồng ý thì ông Nguyễn Thanh H
phải có thanh toán cho nguyên đơn và bị đơn sẽ thanh toán lại cho ông H khi ông H
cung cấp đầy đủ hồ sơ thanh toán theo quy định.
Ông Nguyễn Xuân S có quan điểm: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
không nhất trí với quan điểm thanh toán 60% khoản nợ gốc như quan điểm của bị
đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông Nguyễn Thanh H có quan điểm: Không chấp nhận ý kiến của bà H, đề nghị
toà cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình phát biểu ý kiến của Viện kiểm
sát về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp
luật của người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự. Về đường lối giải quyết: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản
1 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Bác yêu cầu
kháng cáo của Công ty cổ phần cảng N, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2018/KDTM-
ST ngày 18/9/2018 của Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình. Về án phí phúc
thẩm: Công ty cổ phần cảng N phải nộp 2.000.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án
phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý
kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình về đường lối giải quyết vụ án. Hội
đồng xét xử nhận định:
[1]. Đơn kháng cáo của Công ty cổ phần cảng N nằm trong hạn luật định, đã
thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của người kháng cáo theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự nên được đưa ra xem xét tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay.
[2]. Xét yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần cảng N, Hội đồng xét xử xét
thấy: Căn cứ hợp đồng kinh tế số 16/2011/HĐKT ngày 23/12/2011 giữa Ban quản lý
dự án đường sắt khu vực 1 (bên A) và Công ty N (bên B) ( Nay là Công ty cổ phần
cảng N) về việc đảm bảo giao thông đường thuỷ: Xây dựng mới 2 cầu đường bộ Tam
Bạc và Thị Cầu; Sửa chữa gia cố cải tạo 2 cầu chung (Tam Bạc và Thị cầu) thuộc công
trình xây dựng mới 3 cầu theo lệnh khẩn cấp: Đồng Nai, Tam Bạc, Thị Cầu. Khi ký
hợp đồng bên B người nhận uỷ quyền là ông Nguyễn Thanh H, giám đốc Chi nhánh
Công ty N cùng ký hợp đồng (theo giấy uỷ quyền số 400/UQ-HĐKT ngày 19/12/2011

85 / 158
của Tổng giám đốc Công ty N ).
Ngày 21/02/2012 Chi nhánh Công ty N, người đại diện theo pháp luật là ông
Nguyễn Thanh H có ký hợp đồng kinh tế số 02/HĐKT với Đoạn quản lý số 4 ( nay
là Công ty số 4) về việc Điều tiết khống chế đảm bảo an toàn giao thông đường thuỷ
khu vực thi công xây dựng mới cầu đường bộ Thị Cầu, sửa chữa gia cố cải tạo cầu
Thị Cầu. Giá trị hợp đồng là 3,8 tỷ đồng; Ngày 7/12/2012 hai bên ký phụ lục hợp
đồng số 01 điều chỉnh hợp đồng lên 7.567.614.000đ; Ngày 31/10/2013 hai bên ký
phụ lục hợp đồng lên 8.728.152.000đ đã bao gồm thuế VAT. Quá trình thực hiện hợp
đồng Đoạn quản lý số 4 đã thực hiện đúng theo hợp đồng và công trình đã được
nghiệm thu đưa vào hoạt động từ năm 2013. Số tiền Ban quản lý dự án đường sắt khu
vực 1 chuyển cho Chi nhánh Công ty N 3 lần với tổng số tiền là 9.222.479.000đồng,
Chi nhánh đã chuyển trả cho nguyên đơn 4 lần với tổng số tiền là 5.000.000.000đồng,
ngày 30/6/2014 hai bên đối chiếu công nợ phía Chi nhánh Công ty N còn nợ Đoạn
quản lý số 4 số tiền là 3.620.138.000đ.
Chi nhánh Công ty N được thành lập theo Giấy CNĐKKD số 0116001059 do
Sở kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp lần đầu ngày 13/11/2008, là người được
uỷ quyền của Công ty cổ phần cảng N thực hiện hợp đồng kinh tế được ký kết giữa
Ban quản lý dự án đường sắt 1 và Công ty cổ phần cảng N, tại Điều 1.5 của hợp đồng
HĐKT số 16/2011/HĐKT có ghi định nghĩa nhà thầu phụ là nhà thầu ký hợp đồng với
bên B để thực hiện 1 phần công việc của bên B và được Đường sắt Việt Nam ra văn
bản số 547/ĐS-DAAT ngày 29/3/2012 về việc bổ sung nhà thầu phụ là Đoạn quản lý
số 4 được tham gia thi công đảm bảo an toàn giao thông đường thuỷ công trình cầu
thị Cầu, do vậy việc ký kết hợp đồng kinh tế giữa Chi nhánh công ty cổ phần cảng N
với Công ty số 4 để thực hiện một phần trong công trình ký kết với Ban quản lý dự án
đường sắt khu vực 1là đúng pháp luật.
Quá trình thực hiện hợp đồng phía Công ty số 4 đã thực hiện đúng theo hợp
đồng và công trình đã được nghiệm thu đưa vào sử dụng, phía Ban quản lý dự án
đường sắt 1 cũng đã trả hết số tiền theo hợp đồng cho Chi nhánh Công ty cổ phần cảng
N, do vậy Công ty cổ phần cảng N phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ cho
Công ty số 4, theo quy định tại Điều 45 Luật doanh nghiệp quy định: “ Chi nhánh là
đơn vị phụ thuộc của Doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần
chức năng của Doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền..”; cũng tại
khoản 6 Điều 84 Bộ luật dân sự quy định: “ Pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự
phát sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh xác lập, thực hiện”. Toàn bộ việc ký kết
hợp đồng, thanh toán, đối chiếu công nợ giữa Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N với
Công ty số 4 đều được Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N báo cáo với Công ty cổ
phần cảng N và trong báo cáo tài chính năm 2012, 2013 số tiền chuyển đến chuyển trả
đều được thể hiện được tổng hợp vào báo cáo tài chính của Công ty cổ phần cảng N.
Cục thuế tỉnh Ninh bình đã cung cấp cho Toà án báo cáo tài chính Công ty cổ phần
cảng N từ các năm 2012 đến năm 2017. Ông Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần cảng
N đã chấp thuận báo cáo tài chính Công ty cổ phần cảng N các năm 2012, 2013, 2014
do Cục thuế tỉnh cung cấp cho Toà án. Do vậy toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Công ty số 4 đối với bị đơn là Công ty cổ phần cảng N là đúng.
Về số tiền mà Công ty cổ phần cảng N còn phải thanh toán: Căn cứ vào biên bản
đối chiếu công nợ ngày 30/6/2014 giữa Công ty số 4 và Chi nhánh Công ty cổ phần
cảng N, hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi ký hợp đồng phía Công ty số 4 đã thực hiện

86 / 158
công việc theo đúng hợp đồng, công trình đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng,
Công ty số 4 đã cùng Chi nhánh công ty cổ phần cảng N ký hồ sơ thanh toán lần 1,
lần 2 kèm theo ( bảng xác định giá trị khối lượng công việc hoàn thành theo hợp đồng
để nghiệm thu thanh toán, biên bản nghiệm thu hoàn thành giai đoạn thi công và biểu
chi tiết nghiệm thu khối lượng hoàn thành), số tiền mà Ban quản lý dự án đường sắt 1
đã chuyển trả đầy đủ cho Chi nhánh công ty cổ phần cảng N trong đó có khoản tiền
mà Chi nhánh công ty cổ phần cảng N còn nợ Công ty số 4 nên Công ty cổ phần cảng
N phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Công ty số 4 số tiền gốc còn thiếu theo đúng
biên bản đối chiếu công nợ là có căn cứ, đúng pháp luật.
Về số tiền lãi theo yêu cầu khởi kiện của Công ty số 4 với theo mức lãi xuất
7,5%/năm, thời gian kể từ sau ngày Ban quản lý dự án đường sắt 1 chuyển trả hết tiền
cho Chi nhánh Công ty cổ phần cảng N ( ngày 02/02/2017), số tiền là 442.712.000
đồng là có căn cứ đúng theo quy định tại Điều 306 Luật thương mại nên được Toà cấp
sơ thẩm chấp nhận là đúng.
Từ những căn cứ trên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy Toà án sơ thẩm đã
xem xét, đánh giá đúng, đầy đủ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ra bản án đúng
pháp luật, tại phiên toà hôm nay Công ty cổ phần cảng N không đưa ra được chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của Công ty cổ phần cảng N; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không
được chấp nhận nên Công ty cổ phần cảng N phải chịu số tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản
1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: Không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của Công ty cổ phần cảng N.
Xử: Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2018/KDTM-ST ngày 18/9/2018 của
Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
1. Buộc Công ty cổ phần cảng N trả cho Công ty số 4 số tiền là: 4.062.850.000
đồng ( Bốn tỷ không trăm sáu mươi hai triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng chẵn).
Trong đó nợ gốc là: 3.620.138.000 đồng( Ba tỷ sáu trăm hai mươi triệu một trăm ba
mươi tám nghìn đồng), nợ lãi là: 442.712.000 đồng ( Bốn trăm bốn mươi hai triệu bảy
trăm mười hai nghìn đồng chẵn).
Kể từ ngày 19/9/2018 Công ty cổ phần cảng N còn phải trả nợ lãi cho Công ty
số 4 tiền lãi với mức lãi suất 7,5% / năm trên số nợ gốc là 3.620.138.000 đồng ( Ba tỷ
sáu trăm hai mươi triệu một trăm ba mươi tám nghìn đồng) cho đến khi thi hành xong.
2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Buộc Công ty cổ phần cảng N nộp án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm của
số tiền là: 112.062.000 đồng ( Một trăm mười hai triệu không trăm sáu mươi hai nghìn
đồng chẵn).

87 / 158
- Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho Công ty số 4 là 52.200.000 đồng ( năm mươi
hai triệu hai trăm nghìn đồng chẵn) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
AA/2016/0000819 ngày 5/12/2017 của chi cục Thi hành án thành phố N, tỉnh Ninh
Bình.
- Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Công ty cổ phần cảng N phải nộp
số tiền là 2.000.000đ ( Hai triệu đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
2.000.000đ theo biên lai thu số AA/2018/0000935 ngày 02/10/2018 của Chi cục thi
hành án dân sự thành phố N, tỉnh Ninh Bình.
Trường hợp bản án, quyết định thi hành án được quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án được quy định tại các Điều 6,7 Luật
thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày 03 tháng 5 năm 2019.

Nơi nhận: TM/HỘI ĐỒNG XÉT XỬ


- TAND Tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Ninh Bình;
- Phòng KTNV-THA;
- Cục Thi hành án DS tỉnh NB;
-TAND tp N;
-Chi cục THADS tp N;
- Các đương sự;
- Lưu. Phạm Văn Khôi

88 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Độc lập - Tự do - hạnh phúc

Bản án số: 08/2019/KDTM-PT


Ngày 23-5-2019
V/v tranh chấp hợp đồng dịch vụ
pháp lý

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Dương
Các Thẩm phán: Bà Trần Thu Hương
Bà Vũ Thị Thu Hà
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Hấn – Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng: Bà Ngô Kiều
Dâng - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2019/TLPT-KDTM ngày 18 tháng
02 năm 2019 về việc tranh chấp hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Do Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 07/2018/KDTM-ST ngày 20
tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng bị kháng
cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1536/2019/QĐ-PT ngày


17 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 1830 /2019/QĐ-PT ngày 15
tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A; địa chỉ: Tầng 4 Tòa
nhà H, số 102 TT, phường TL, quận Đ, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: Ông Lê Đình V (Chức vụ
Giám đốc Công ty). Có mặt
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

1. Ông Hoàng Đức P; vắng mặt

2. Ông Vũ Văn K; có mặt

89 / 158
Cùng là nhân viên Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A (Được ủy quyền
theo văn bản ủy quyền số 09/2018/UQ-MT ngày 06/7/2018).
- Bị đơn: Công ty Cổ phần Thương mại TP; địa chỉ: Số 171 đường C 2,
phường H, quận H, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Trịnh Văn T – Chức vụ Phó
Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại TP (Được ủy quyền theo văn bản ủy quyền
số 25/2019/UQ ngày 25/3/2019); Có mặt
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo Đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án đại diện nguyên đơn
trình bày: Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A (sau đây viết tắt là Công ty Luật
A) và Công ty Cổ phần Thương mại TP (sau đây viết tắt là Công ty TP) ký kết Hợp
đồng dịch vụ pháp lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017 và Hợp đồng dịch vụ
pháp lý số 20-2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 có nội dung cơ bản giống nhau đó
là: Công ty TP thuê Công ty Luật A tư vấn pháp luật, cử người đại diện theo ủy
quyền hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong việc giải quyết tranh chấp hợp
đồng đối với cá nhân, pháp nhân chưa thanh toán tiền cho Công ty TP. Công ty TP
thanh toán thù lao cố định ngay sau khi ký kết hợp đồng và sẽ thanh toán cho Công
ty Luật A thù lao theo kết quả giải quyết công việc được tính bằng 45% số tiền mà
Công ty TP thực tế được thanh toán. Trường hợp Công ty TP đơn phương chấm dứt
hợp đồng dịch vụ pháp lý khi không được sự đồng ý của Công ty Luật A, thì Công
ty TP phải thanh toán cho Công ty Luật A số tiền bằng thù lao giải quyết công việc.
Thực hiện Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày
28/4/2017, Công ty Luật A tư vấn pháp luật, nhận ủy quyền của Công ty TP tham
gia tố tụng tại Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng giải quyết
tranh chấp Hợp đồng cung cấp, gia công lắp đặt toàn bộ cửa gỗ chò chỉ đối với ông
Lê Văn Yên. Công ty TP thanh toán cho Công ty Luật A thù lao cố định là
10.000.000 đồng. Ngày 18/6/2018, Công ty Luật A nhận được văn bản số
05/2018/CV-TA ngày 14/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện An Dương về việc
Công ty TP có Văn bản số 41/2018/CV-TP ngày 18/5/2018 thông báo chấm dứt
hợp đồng dịch vụ pháp lý với Công ty Luật A. Ngày 23/6/2018, Công ty Luật A có
Văn bản số 99/2018/CV-MT về việc Công ty TP vi phạm hợp đồng do đơn phương
chấm dứt hợp đồng và phải thanh toán số tiền bằng 45% thù lao theo kết quả giải
quyết công việc (đã bao gồm thuế giá trị gia tăng (GTGT)) là: (45% x 287.397.855
đồng) + 10% x (45% x 287.397.855 đồng) = 142.261.938 đồng. Bị đơn không chấp
nhận Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 17/8/2018 của Tòa án nhân
dân huyện A tuyên buộc ông Lê Văn Y phải thanh toán cho Công ty TP
148.309.720 đồng và tiền lãi chậm thi hành án theo khoản 2 Điều 357 của Bộ luật

90 / 158
Dân sự, mà phải căn cứ số tiền 287.397.855 đồng theo Đơn khởi kiện ngày
14/6/2017 của Công ty TP gửi đến Tòa án nhân dân huyện A.
Thực hiện Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017,
Công ty Luật A tư vấn pháp luật, nhận ủy quyền của Công ty TP tham gia tố tụng
tại Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng giải quyết tranh chấp Hợp đồng
giao khoán số 16-3/HĐGK ngày 16/3/2011 giữa Công ty TP với Công ty Cổ phần
Thương mại và Đầu tư xây dựng Tt (sau đây viết tắt là Công ty Trường Thành).
Công ty Luật A phân công chuyên viên nghiên cứu, tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng là người đại diện theo ủy quyền của Công ty TP. Tòa án nhân dân quận H ra
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 01/2018/QĐST-KDTM
ngày 25/01/2018 với nội dung: Buộc Công ty Tt phải thanh toán 150.000.000 đồng
trước ngày 31/5/2018, thanh toán đợt 02 là 150.000.000 đồng trước ngày 31/8/2018.
Sau đó, Công ty Ttđã thanh toán số tiền đợt 1 là 150.000.000 đồng. Các ngày
12/6/2018, ngày 21/6/2018, Công ty Luật A có Văn bản số 87/2018/CV-MT, Văn
bản số 95/ 2018/CV-MT đều yêu cầu Công ty TP phải thanh toán tiền thù lao. Tuy
nhiên, Công ty TP chưa thanh toán thù lao cố định là 15.000.000 đồng và thù lao
theo kết quả giải quyết công việc. Ngày 23/6/2018, Công ty Luật A có Văn bản số
99/2018/CV-MT thông báo về việc vi phạm nghĩa vụ thanh toán của Công ty TP
theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 với số tiền
là: Tiền thù lao cố định 15.000.000 đồng + Tiền thù lao giải quyết công việc (45%
x 150.000.000 đồng) + Tiền thuế GTGT (10% x 45% x 150.000.000 đồng) =
90.750.000 đồng.
Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, Công ty Luật A yêu cầu buộc Công ty
TP phải thanh toán tổng số tiền là 233.011.938 đồng theo Hợp đồng dịch vụ pháp
lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017 và Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20-
2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 với phương pháp xác định nêu trên. Công ty Luật
A sẽ khởi kiện buộc Công ty TP thanh toán tiền thù lao giải quyết công việc và tiền
thuế GTGT, trong trường hợp Công ty TP tiếp tục thanh toán số tiền cụ thể trong
số tiền 150.000.000 đồng chưa thanh toán cho Công ty TP.
Tại các bản tự khai, biên bản các phiên họp trong quá trình giải quyết vụ án
và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn là anh Trịnh Văn Tú trình bày:
Bị đơn thừa nhận nội dung, quá trình thực hiện các Hợp đồng dịch vụ pháp lý số
10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017, Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/
HĐDV-MT ngày 15/6/2017 như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đã trình
bày nêu trên. Bị đơn thừa nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tiền
thù lao của Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 do
Công ty TP nhận được số tiền 150.000.000 đồng của Công ty Tt gồm: Tiền thù lao
cố định là 15.000.000 đồng và tiền thù lao giải quyết công việc là: 45% x
150.000.000 đồng. Do gặp khó khăn về tài chính, phải sử dụng số tiền của Công

91 / 158
ty Tt thanh toán để trả nợ, nên bị đơn sẽ thanh toán nhiều lần cho nguyên đơn. Tuy
nhiên, bị đơn không chấp nhận thanh toán các yêu cầu khác của nguyên đơn vì thực
tế chưa được thanh toán từ ông Lê Văn Y và trách nhiệm của Công ty Luật A thiếu
mẫn cán tư vấn dịch vụ pháp lý, thực tế thi hành án việc chậm thanh toán. Bị đơn
phải đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý đối với Hợp đồng dịch vụ
pháp lý số 20/2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 vì thực trạng khó khăn kinh tế
không thể thi hành án đối với ông Lê Văn Yên. Mặt khác, Tòa án nhân dân huyện
An Dương, thành phố Hải Phòng giải quyết, xét xử vắng mặt ông Lê Văn Yên theo
quy định của pháp luật là nội dung tư vấn pháp lý không đầy đủ cho bị đơn. Công
ty Luật A thông báo bằng miệng về việc Công ty TP phải chịu thanh toán thù lao
giải quyết công việc kể cả trong trường hợp không thu hồi được nợ là không thể
chấp nhận được.
Tại Bản án số 07/2018/KDTM-ST ngày 20/11/2018, Tòa án nhân dân quận
H quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 142, 143, 144, 145, 146, 147, 148; 74, 75,
76, 78, 79, 80, 81, 82, 85, 86 và 87 của Luật Thương mại năm 2005; Điều 428,
515, 516, 517, 518, 519 và 520 của Bộ luật Dân sự; Điều 21, 26 và 28 của Luật Luật
sư năm 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012; khoản
2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc Công ty
Cố phần Thương mại TP phải thanh toán cho Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn
A số tiền thù lao của Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/ HĐDV-MT ngày 15
tháng 6 tháng 2017 là 82.500.000đồng.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Luật Trách nhiệm
hữu hạn A đối với số tiền 150.511.000đồng về việc thanh toán thù lao giải quyết
công việc theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28 tháng 4
năm 2017 và tiền thuế giá trị gia tăng của hai hợp đồng dịch vụ pháp lý nêu trên.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án sau khi bản
án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong tất cả khoản tiền
chưa thanh toán, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 306 của
Luật Thương mại tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo và quyền, nghĩa
vụ thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 06/12/2018, nguyên đơn Công ty Luật A kháng
cáo một phần bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm:
- Buộc bị đơn thanh toán tiền thuế GTGT tính trên số tiền thù lao cố định và

92 / 158
thù lao trên kết quả công việc phát sinh từ hợp đồng số 20/2017/HĐDV-MT ngày
15/6/2017 là 8.250.000 đồng.
- Buộc bị đơn thanh toán số tiền 142.261.938đ phát sinh từ hành vi đơn
phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày
28/4/2017.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Đại diện của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện, nội dung kháng cáo và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Đại diện của nguyên đơn trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận
việc Công ty Luật A yêu cầu Công ty TP phải thanh toán tiền thuế GTGT theo Hợp
đồng số 20/2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 là không có căn cứ và trái quy định
của pháp luật. Mặt khác, theo Điều 3 của Hợp đồng hai Công ty đã có thỏa thuận là
các khoản chi phí, thù lao chưa bao gồm thuế GTGT. Như vậy, khoản tiền thù lao
cố định 15.000.000đ và phần trăm kết quả công việc 67.500.000đ là chưa bao gồm
thuế GTGT. Theo quy định của Luật Thuế GTGT thì Công ty TP là người tiêu dùng
dịch vụ nên phải có trách nhiệm chi trả và Công ty A sẽ là người nộp thuế.
Công ty TP đã có hành vi đơn phương chấp dứt Hợp đồng số
10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017 là hoàn toàn có lỗi theo quy định tại khoản 3,
5 Điều 428 Bộ luật Dân sự. Theo thỏa thuận tại khoản 3 Điều 4 của Hợp đồng quy
định đối với trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng thì Công ty TP phải có
trách nhiệm thanh toán một khoản thù lao là 45% của số tiền đã nhận được hoặc có
thể nhận được. Trong thời gian thực hiện hợp đồng, Công ty A đã làm rất nhiều
công việc. Do vậy, hoàn toàn có đủ căn cứ để Công ty A yêu cầu Công ty TP phải
thanh toán khoản tiền thù lao bằng 45% theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Hợp
đồng cụ thể là bằng 142.261.938đ. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn
bộ nội dung kháng cáo của nguyên đơn.
Đại diện của bị đơn trình bày: Không đồng ý với nội dung kháng cáo của
nguyên đơn vì nguyên đơn phải là người nộp thuế cho Nhà nước. Đối với việc chấm
dứt Hợp đồng số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017 thì phía bị đơn đã có thông
báo với nguyên đơn và trong quá trình thực hiện hợp đồng thì nguyên đơn cũng
thiếu mẫn cán, thiếu trách nhiệm. Hơn nữa, đến thời điểm hiện tại thì bị đơn chưa
nhận được một khoản tiền nào từ phía ông Yên. Nguyên đơn yêu cầu thanh toán
khoản tiền thù lao bằng 45% trong trường hợp này là hoàn toàn vô lý. Do vậy, đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và giữ
nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân phát biểu ý kiến: Từ khi thụ lý đến trước
thời điểm tuyên án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia
tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về đường lối giải
quyết vụ án: Đối với tiền thuế GTGT thì do Công ty A chưa thực hiện việc nộp thuế

93 / 158
thay cho Công ty TP nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của
Công ty A. Đến thời điểm hiện tại chưa xác định được số tiền thực tế mà phía Công
ty TP nhận được từ ông Yên nên không có căn cứ để chấp nhận nội dụng kháng cáo
của Công ty A. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm theo quy định
tại khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát
nhân dân, Hội đồng xét xử nhận định:
- Xét các nội dung kháng cáo:
[1]. Đối với yêu cầu thanh toán tiền thuế GTGT tính trên số tiền thù lao cố
định và thù lao trên kết quả công việc phát sinh từ hợp đồng số 20/2017/HĐDV-
MT ngày 15/6/2017 của Công ty Luật A, nhận thấy; ngày 12/6/2018 và ngày
22/7/2018, Công ty Luật A xuất hóa đơn GTGT số 370 và số 349 cho Công ty TP
với số tiền thuế GTGT của 02 hóa đơn là 8.250.000 đồng.
[1.1]. Theo Điều 2 Luật Thuế GTGT quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế
tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng.” Điều 3 Luật Thuế GTGT quy định: “Hàng hóa, dịch
vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu
thuế giá trị gia tăng..” và Điều 4 Luật Thuế GTGT quy định: “Người nộp thuế giá
trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
giá trị gia tăng...” Như vậy, Thuế GTGT là một loại thuế gián thu cho nên Công ty
TP là người tiêu dùng dịch vụ pháp lý nên phải là người phải chịu thuế. Công ty A
là người có trách nhiệm nộp thuế cho Nhà nước.
[1.2]. Hơn nữa, theo thỏa thuận tại khoản 3 Điều 4 của Hợp đồng số
20/2017/HĐDV-MT ngày 15/6/2017 quy định: “Các khoản chi phí, thù lao nêu tại
Điều 4 chưa bao gồm 10% thuế GTGT”. Do vậy, số tiền thuế GTGT theo 02 Hóa
đơn số 370 ngày 12/6/2018 và Hóa đơn số 349 ngày 22/7/2018 với số tiền là
8.250.000 đồng Công ty TP phải thanh toán cho Công ty Luật A là đúng nên kháng
cáo của nguyên đơn được chấp nhận.
[2]. Đối với yêu cầu buộc Công ty TP phải thanh toán số tiền 142.261.938đ
phát sinh từ hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý số
10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017, nhận thấy; Ngày 18/5/2018, Công ty TP có
văn bản thông báo về việc chấm dứt hợp đồng dịch vụ pháp lý với Công ty Luật A
gửi Tòa án nhân dân huyện An Dương.
[2.1]. Theo quy định tại đoạn 3 khoản 3 Điều 4 của Hợp đồng số
10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017 các bên thỏa thuận: “Trường hợp Hợp đồng
bị chấm dứt do Bên A (Công ty TP) đơn phương chấm dứt hợp đồng khi không được

94 / 158
sự đồng ý của Bên B (Công ty Luật A), làm cho Bên B không thể tiếp tục thực hiện
được công việc, thì Bên A có trách nhiệm thanh toán cho Bên B một khoản thù lao
là 45% theo quy định tại khoản 2 Điều 4 hợp đồng này đối với số tiền hoặc giá trị
tài sản quy ra tiền Công ty TP đã nhận được hoặc có thể nhận được”.
[2.2]. Theo khoản 2 Điều 4 quy định: “Trường hợp Bên B tư vấn, đại diện cho
Bên A đàm phán, tham gia tố tụng, thi hành án làm cho Bên A thu được một phần
hoặc toàn bộ khoản tiền từ việc giải quyết tranh chấp với ông Lê Văn Yên thì Bên A
sẽ thanh toán 45% của số tiền nợ gốc, tiền lãi, tiền bồi thường thiệt hại, hoặc các
khoản tiền khác (nếu Bên B nhận được) từ ông Lê Văn Yên hoặc bên thứ ba có liên
quan thanh toán.”
[2.3]. Và theo đoạn 1 khoản 3 Điều 4 quy định: “Thù lao theo kết quả giải
quyết việc được thanh toán ngay sau khi Bên A nhận được tiền từ ông Lê Văn Yên
hoặc bên thứ ba liên quan thanh toán.”
[2.4]. Công ty Luật A căn cứ trên số tiền 287.397.855 đồng theo như Đơn
khởi kiện ngày 14/6/2017 đối với ông Lê Văn Yên để tính số tiền số tiền thù lao kết
quả công việc là không có cơ sở. Bởi lẽ; vì đây chỉ là số tiền nguyên đơn yêu cầu
bị đơn ông Lê Văn Yên phải thanh toán và chưa được Tòa án chấp nhận. Hơn nữa,
tại Bản án số 04/2018/DS-ST ngày 17/8/2018, Tòa án nhân dân huyện An Dương
chỉ buộc ông Lê Văn Yên phải trả Công ty TP số tiền 148.309.720 đồng và bản án
đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại ông Lê Văn Yên chưa
thanh toán được một khoản tiền nào cho Công ty TP. Như vậy, Công ty TP chưa
nhận được tiền từ ông Lê Văn Y và cũng không xác định được số tiền mà Công TP
nhận được từ ông Lê Văn Y theo như thỏa thuận tại khoản 2 Điều 4 của Hợp đồng
số 10/2017/HĐDV-MT ngày 28/4/2017 nên không có căn cứ để chấp nhận nội dung
kháng cáo của nguyên đơn.
[3]. Về án phí:
[3.1]. Án phí sơ thẩm: Công ty TP phải chịu án phí đối với số tiền phải trả
cho Công ty Luật A là 90.750.000 đồng. Công ty Luật A phải chịu án phí đối với
số tiền không được Tòa án chấp nhận là 142.261.938 đồng theo quy định tại khoản
1 Điều 147 BLTTDS.
[3.2]. Án phí phúc thẩm: Do Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng
cáo nên người kháng cáo là Công ty Luật A không phải chịu án phí phúc thẩm theo
quy định tại khoản 2 Điều 148 BLTTDS.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 2, Điều 3 và Điều 4 của Luật thuế Giá trị gia tăng;

95 / 158
Căn cứ vào các điều 142, 143, 144, 145, 146, 147, 148; 74, 75, 76, 78, 79,
80, 81, 82, 85, 86 và 87 của Luật Thương mại năm 2005;
Căn cứ vào các Điều 428, 515, 516, 517, 518, 519 và Điều 520 của Bộ luật
Dân sự;
Căn cứ vào các điều 21, 26 và 28 của Luật Luật sư năm 2006, Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012; Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử: Sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 07/2018/KDTM-
ST ngày 20 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng.
1. Buộc Công ty Cổ phần Thương mại TP phải thanh toán cho Công ty Luật
Trách nhiệm hữu hạn A số tiền thù lao của Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 20/2017/
HĐDV-MT ngày 15 tháng 6 tháng 2017 là 82.500.000 đồng (Tám mươi hai triệu,
lăm trăm nghìn đồng).
2. Buộc Công ty Cổ phần Thương mại TP phải thanh toán cho Công ty Luật
Trách nhiệm hữu hạn A số tiền 8.250.000 đồng (Tám triệu hai trăm lăm mươi nghìn
đồng) thuế Giá trị gia tăng theo 02 Hóa đơn Giá trị gia tăng số 0000349 ngày 22
tháng 7 năm 2017 và Hóa đơn Giá trị gia tăng số 0000370 ngày 12 tháng 6 năm
2018.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án sau khi bản
án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong tất cả khoản tiền
chưa thanh toán, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 306 của
Luật Thương mại tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Luật Trách
nhiệm hữu hạn A đối với số tiền 142.261.938 đồng (Một trăm bốn mươi hai triệu,
hai trăm sáu mươi mốt nghìn, chín trăm ba tám đồng) về việc thanh toán thù lao
giải quyết công việc theo Hợp đồng dịch vụ pháp lý số 10/2017/HĐDV-MT ngày
28 tháng 4 năm 2017.
4. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Công ty Cổ phần Thương mại TP phải chịu 4.537.500đ
(Bốn triệu, lăm trăm ba mươi bẩy nghìn, lăm trăm đồng) án phí sơ thẩm. Công ty
Luật Trách nhiệm hữu hạn A phải chịu 7.113.000 đồng (Bẩy triệu, một trăm mười
ba nghìn đồng) án phí sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 5.825.000 đồng (Năm
triệu, tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số
0007909 ngày 05/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận H, thành phố Hải
Phòng. Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A phải chịu 1.288.000 đồng (Một triệu,
hai trăm tám mươi tám nghìn đồng).

96 / 158
- Án phí phúc thẩm: Trả lại cho Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn A số tiền
2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm số 0008032, ngày 19/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận H, thành
phố Hải Phòng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tai các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự./.

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Vũ Thị Thu Hà Trần Thu Hương Nguyễn Văn Dương

97 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN CAO LÃNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH ĐỒNG THÁP

Bản án số: 02/2019/KDTM-ST


Ngày: 14/6/2019
V/v “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ-
thử nghiệm”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP


- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán-Chủ toạ phiên toà: Ông Châu Văn Sang
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Phạm P Tâm
2. Bà Hồ Thị Mai Hương
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Thanh Tú - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Trong ngày 14 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao
Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2019/TLST-KDTM ngày 09
tháng 01 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ - Thử nghiệm”, theo
Quyết định hoãn phiên tòa số: 48/2019/QĐST-KDTM ngày 28/5/2019, giữa các
đương sự:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần X L và V L X D Đ T; Đại diện theo pháp


luật: Ông Nguyễn Hữu P - Chức vụ: Tổng giám đốc; Địa chỉ: số 03, T Đ T, phường
1, TP. C L, ĐT.
* Đại diện theo ủy quyền của ông P là anh Huỳnh N E, sinh năm 1978.
Địa chỉ: tổ 12, ấp A L, xã A B, huyện C L, tỉnh Đ T.

Bị đơn: Công ty cổ phần C 12; Đại diện theo pháp luật: Ông Đào T N
– Chức vụ: Giám đốc. Địa chỉ: số 483 Nguyễn V L, P. P Đ, Quận L B, H N.
*Ông N ủy quyền cho ông Lê X H. Địa chỉ: số 288, Phạm V H, phường 5,
quận T B, thành phố H C M.
(anh N E có mặt, anh H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp - đại diện theo

98 / 158
ủy quyền là anh Huỳnh N E trình bày: Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp
ủy quyền cho chi nhánh là Trung tâm thử nghiệm và kiểm định chất lượng xây dựng
BMC-DT (bên A) ký hợp đồng số 03/HĐTN ngày 07/8/2015 với công ty cổ phần C
12 (bên B) về việc thử nghiệm xây dựng trong phòng và ngoài hiện trường chỉ tiêu
vật liệu cho bê tông xi măng, vữa, thép, bu lông,…phục vụ thi công công trình: C
Nguyễn V T – thuộc dự án phát triển cơ sở hạ tầng đồng bằng sông Cửu Long, xã
Phương Trà, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Nội dung các công việc phù hợp với
các yêu C thiết kế, tiêu chuẩn kỹ thuật của dự án,…cũng như các tiêu chuẩn nhà
nước hiện hành.
Giá trị hợp đồng: được tính bằng khối lượng thử nghiệm nhân (x) với phụ
lục đơn giá thử nghiệm kèm theo hợp đồng, giá trị tạm tính 108.000.000 đồng, giá
chưa bao gồm thuế VAT (bằng 60% tổng khối lượng theo đề cương thử nghiệm
ngày 22/7/2015).
Thời gian thực hiện hợp đồng: theo tiến độ công trình.
Thanh toán: Vào ngày 30 hàng tháng hai bên tiến hành xác nhận khối lượng
thử nghiệm làm cơ sở nghiệm thu thanh toán. Trong vòng 10 ngày kể từ ngày xác
nhận khối lượng thử nghiệm, bên A lập hồ sơ thanh toán và chuyển cho bên B, bên
B sẽ làm thủ tục thanh toán ngay cho bên A. Hồ sơ đề nghị thanh toán gồm: văn
bản đề nghị thanh toán, bảng tính khối lượng giá trị thanh toán được hai bên xác
nhận, hóa đơn VAT. Trong suốt quá trình thực hiện thử nghiệm V L X D công trình,
hai bên đã tiến hành xác nhận khối lượng thực hiện và giá trị thử nghiệm để lập biên
bản đối chiếu chi tiết giá trị thực hiện qua các giai đoạn. Tổng giá trị bên A thực
hiện cho bên B là: 54.583.100 đồng. Bên B chưa thanh toán cho bên A bất cứ số tiền
nào trên giá trị đã thực hiện. Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp đã nhiều
lần yêu C công ty cổ phần C 12 thanh toán phần giá trị để hai bên tiến hành thanh lý
hợp đồng. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay công ty cổ phần C 12 không thực hiện
thanh toán số nợ cho công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp theo cam kết,
điều này đã vi phạm nghiêm trọng điều khoản thanh toán trong hợp đồng, những
thỏa thuận và cam kết giữa hai bên trong quá trình thực hiện công việc. Nay Công ty
cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp yêu C Công ty cổ phần C 12 phải thanh toán
dứt điểm cho Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp số tiền thực hiện thử
nghiệm là 54.583.100 đồng (năm mươi bốn triệu, năm trăm tám mươi ba ngàn, một
trăm đồng), lãi chậm thực hiện nghĩa vụ theo mức lãi suất 0,83%/tháng, từ ngày
25/5/2017 đến ngày 14/6/2019 là 10.903.155 đồng, tổng cộng tiền nợ gốc và lãi là
65.486.200 đồng và trả lãi ở giai đoạn thi hành án theo mức lãi 0,83%/tháng cho
đến khi trả xong. Ngoài yêu C trên, công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp
không yêu C hay trình bày gì thêm.
Đối với bị đơn là Công ty cổ phần C 12 đã được tống đạt thông báo thụ lý

99 / 158
vụ án, thông báo hòa giải và triệu tập xét xử hợp lệ nhưng không có văn bản ý
kiến, không tham gia hòa giải và không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm.
* Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:
- Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp:
+ Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh Đồng Tháp BMC –
Trung tâm thử nghiệm và kiểm định chất lượng XD BMC - DT (bản sao);
+ Giấy ủy quyền số 01/GUQ-TTTN ngày 09/3/2015 của Trung tâm thử
nghiệm và kiểm định chất lượng XD BMC - DT (bản chính);
+ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần X L và V L X
D Đồng Tháp (bản sao);
+ Giấy xác nhận về việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp công ty
cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp (bản sao);
+ Quyết định về việc bổ nhiệm Tổng giám đốc công ty cổ phần X L và V
L X D Đồng Tháp (bản chính);
+ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần C 12 (bản
chính);
+ Thông báo về việc thay đổi mẫu dấu doanh nghiệp số 05/TB-CT ngày
23/6/2017 của công ty cổ phần C 12 (bản chính);
+ Giấy xác nhận về việc thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp công ty cổ
phần C 12 (bản chính);
+ Hợp đồng thử nghiệm số 03/HĐTN ngày 07/8/2015 (bản sao);
+ Văn bản về việc thông báo thanh toán công nợ số 42/TTTN ngày
28/9/2017 (bản sao);
+ Văn bản về việc thông báo thanh toán công nợ số 50/TTTN ngày
02/11/2017 (bản sao);
+ Văn bản về việc thông báo thanh toán công nợ số 59/TTTN ngày
13/12/2017 (bản sao);
+ Bảng báo giá thử nghiệm ngày 17/7/2015, hóa đơn giá trị gia tăng, biên
bản xác nhận khối lượng thực hiện và giá trị thử nghiệm 25/4/2016, 10/10/2016,
11/11/2016, 06/01/2016 và 12/11/2015 (photo).
- Tài liệu, chứng cứ do bị đơn cung cấp:
+ Giấy ủy quyền số 78/UQ-GĐ ngày 21/02/2019 (bản chính);
+ Đơn đề nghị về việc gia hạn nộp văn bản ý kiến đối với yêu C khởi kiện
của nguyên đơn ngày 31/01/2019 (bản chính);
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật, xét thấy: Căn cứ vào yêu C khởi kiện của Công

100 / 158
ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp về việc yêu C Công ty cổ phần C 12 phải
có nghĩa vụ thanh toán tiền thực hiện thử nghiệm, kiểm tra chất lượng công trình
là 54.583.100 đồng (năm mươi bốn triệu, năm trăm tám mươi ba ngàn, một trăm
đồng), và lãi chậm thực hiện nghĩa vụ, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hợp đồng dịch vụ - Thử nghiệm”
theo quy định tại Điều 74 của Luật thương mại.
[2] Về thẩm quyền giải quyết, xét thấy: Tranh chấp hợp đồng dịch vụ -
Thử nghiệm, kiểm tra chất lượng công trình giữa các đương sự theo quy định tại
Điều 74 của Luật thương mại và tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục
đích lợi nhuận; đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm
nay nguyên đơn xác định yêu C Tòa án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án
nên tranh chấp hợp đồng dịch vụ - Thử nghiệm giữa các đương sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh theo quy định tại khoản 1
Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng
dân sự.
[3] Về thời hiệu khởi kiện, xét thấy: vụ kiện vẫn còn trong thời hiệu khởi
kiện theo quy định tại Điều 319 Luật thương mại.
[4] Đối với bị đơn là Công ty cổ phần C 12 đã được triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
phiên tòa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[5] Xét yêu C khởi kiện của Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp
về việc yêu C Công ty cổ phần C 12 phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty cổ
phần X L và V L X D Đồng Tháp số tiền thực hiện thử nghiệm, kiểm tra chất lượng
công trình là 54.583.100đ (năm mươi bốn triệu, năm trăm tám mươi ba ngàn, một
trăm đồng) và lãi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán với mức lãi suất 0,83%/tháng,
từ ngày 25/5/2017 (ngày liền kề của ngày xuất hóa đơn) đến ngày 14/6/2019 (ngày
xét xử sơ thẩm) 10.903.155 đồng thấy phù hợp bởi: Theo hợp đồng thử nghiệm số
03/HĐTN ngày 07/8/2015 và lời khai của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
tại phiên tòa cho thấy giữa hai bên có giao dịch hợp đồng thử nghiệm bê tông xi
măng, vữa, thép, bu long… khi xây dựng C Nguyễn V T. Công ty cổ phần X L và
V L X D Đồng Tháp đã thực hiện phần việc của mình xong theo hợp đồng đồng thời
hai bên có tiến hành ký nghiệm thu xác nhận khối lượng, giá trị hoàn thành 05 lần
vào các ngày 12/11/2015; ngày 25/4/2016; ngày 10/10/2016, ngày 11/11/2016 và
ngày 06/01/2016 làm căn cứ thanh toán. Tuy nhiên, từ khi phía Công ty cổ phần X L
và V L X D Đồng Tháp xuất hóa đơn cho đến nay Công ty cổ phần C 12 không thực
hiện hoàn trả là vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng quy định tại điều 85
Luật thương mại. Ngoài ra, trong điều khoản thanh toán hai bên cũng thỏa thuận mốc

101 / 158
thời gian thanh toán là thanh toán ngay khi bên Công ty cổ phần X L và V L X D
Đồng Tháp hoàn thành hồ sơ thanh toán. Ngày 24/5/2017 Công ty cổ phần X L và
V L X D Đồng Tháp hoàn thành hồ sơ thanh toán nhưng không nhận được hoàn trả
từ bên Công ty C 12 vì vậy Công ty CP C 12 phải trả lãi chậm thực hiện nghĩa vụ
tính từ ngày 25/4/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm và mức lãi mà bên nguyên đơn yêu
C 0,83%/tháng thấy phù hợp với điều 306 Luật thương mại nên chấp nhận phần tiền
lãi mà nguyên đơn yêu cầu .

[6] Vậy Công ty cổ phần C 12 phải có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần
X L và V L X D Đồng Tháp số tiền dịch vụ thử nghiệm là 54.583.100 đồng và lãi
10.903.155 đồng; Tổng cộng 65.486.200 đồng

[7] Về án phí: Do chấp nhận yêu C của Công ty cổ phần X L và V L X D


Đồng Tháp nên Công ty cổ phần C 12 phải chịu án phí kinh doanh, thương mại sơ
thẩm. Và số tiền án phí được tính như sau:
54.583.100 đồng + lãi 10.903.155 đồng = 65.486.255 đồng x 5% =
3.274.300 đồng.

Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 và 9 Điều 3, Điều 74, khoản 1 Điều 85, 306, 319 của
Luật thương mại; Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 30, điểm b
khoản 1 Điều 35, điểm g khoản 1 Điều 40, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227
của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:
- Chấp nhận yêu C khởi kiện của Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng
Tháp.
- Buộc Công ty cổ phần C 12 phải có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần X
L và V L X D Đồng Tháp số tiền dịch vụ 54.583.100 đồng và lãi 10.903.155 đồng;
Tổng cộng 65.486.255 đồng (Sáu mươi lăm triệu, bốn trăm tám mươi sáu nghìn,
hai trăm năm mươi lăm đồng)
- Trường hợp bên thanh toán chậm thanh toán còn phải trả tiền lãi trên số
tiền chậm trả đó theo mức lãi suất 0,83%/tháng cho đến thi hành xong bản án.

102 / 158
- Về án phí: Công ty cổ phần C 12 phải chịu 3.274.300 đồng tiền án phí kinh
doanh thương mại sơ thẩm.
+ Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp không phải chịu án phí
kinh doanh thương mại sơ thẩm. Công ty cổ phần X L và V L X D Đồng Tháp
được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.600.000 đồng theo biên lai số
0006104 ngày 04/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh.
- Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười
lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu
C thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- Các đương sự; Thẩm phán-Chủ toạ phiên tòa
- VKS HCL;
- CCTHADS HCL;
- Lưu.

Châu Văn Sang

103 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN NGÔ QUYỀN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Bản án số: 01/2019/KDTM-ST


Ngày 18-6-2019
V/v: tranh chấp hợp đồng cung
ứng dịch vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Bích Phượng
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Hồng Đại
Ông Phạm Duy Phong
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh - Thư ký Toà án nhân dân
quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải
Phòng tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Hằng - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành
phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 33/2018/TLST- KDTM
ngày 17 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ xếp dỡ
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 184/2019/QĐXXST-KDTM ngày 06 tháng
5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 239/2019/QĐST- KDTM ngày 29 tháng
5 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cảng Hoàng
D; địa chỉ trụ sở: Đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
+ Bà Cao Mai L; chức vụ: Phó Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên Cảng Hoàng D, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Giấy
ủy quyền số 50/UQ-CHD ngày 08/01/2019); có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Công ty Cổ phần Thương mại và xuất nhập khẩu Nguyên H; địa
chỉ trụ sở: Đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng.

104 / 158
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Hải Phong; địa chỉ: Đường
L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng, là người đại diện theo pháp luật của bị
đơn (Giám đốc Công ty Cổ phần Thương mại và xuất nhập khẩu Nguyên H); vắng
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 8 năm 2018, bản tự khai và trong quá
trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngày 04/01/2016, Công ty Cổ phần Cảng H (gọi tắt là Công ty Cảng Hải
Phòng) và Công ty Cổ phần Thương mại và xuất nhập khẩu Nguyên H (gọi tắt là
Công ty Nguyên H) có ký hợp đồng số 0170.16/VP/HDN về các dịch vụ xếp dỡ,
giao nhận, bảo quản hàng hoá xuất nhập khẩu qua Cảng Hải Phòng năm 2016. Ngày
18/01/2016, Công ty Cổ phần Cảng H ban hành quyết định số 140/QĐ- CHP về việc
thành lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cảng Hoàng D (gọi tắt là
Công ty Cảng Hoàng D) thuộc Công ty Cổ phần Cảng H.
Ngày 01/02/2016, Công ty Cảng H, Công ty Cảng Hoàng D và Công ty
Nguyên H có ký hợp đồng số 0170.16/VP/HDN ngày 04/01/2016 và phụ lục hợp
đồng số 01/0170.16/VP/PLHĐ ngày 01/02/2016. Theo đó, năm 2016, Công ty Cảng
Hoàng D đã tiến hành cung cấp các dịch vụ xếp dỡ, giao nhận, bảo quản hàng hoá
cho Công ty Nguyên H theo hợp đồng đã ký. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công
ty Nguyên H còn nợ Công ty Cảng Hoàng D số tiền gốc là
98.158.580 đồng.
Ngày 27/9/2017, Công ty Nguyên H ký xác nhận nợ Công ty Cảng Hoàng D
và cam kết thanh toán vào các tháng 10, 11, 12 năm 2017. Do không thực hiện theo
thỏa thuận được, nên ngày 31/12/2017, Công ty Nguyên H tiếp tục ký biên bản xác
nhận nợ Công ty Cảng Hoàng D số tiền là 98.158.580 đồng. Sau đó, Công ty Nguyên
H đã trả được cho Công ty Cảng Hoàng D số tiền 5.000.000 đồng, và còn nợ
93.158.580 đồng. Từ năm 2017 đến nay, Công ty Cảng Hoàng D đã nhiều lần yêu
cầu trả nợ, nhưng Công ty Nguyên H vẫn không thanh toán khoản tiền nợ trên.
Vì vậy, Công ty Cảng Hoàng D khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc
Công ty Nguyên H phải trả cho Công ty Cảng Hoàng D số tiền nợ tính đến ngày
31/12/2018 theo Hợp đồng số 0170.16/VP/HDN ngày 04/01/2016 và phụ lục hợp
đồng số 01/0170.16/VP/PLHĐ ngày 01/02/2016 là 106.200.781 (một trăm linh sáu
triệu, hai trăm nghìn, bảy trăm tám mươi mốt) đồng. Trong đó:
- Tiền nợ gốc: 93.158.580 đồng theo các (06) hóa đơn số 0006797 ngày
30/11/2016, số 0006799 ngày 30/11/2016, số 0006885 ngày 30/11/2016, số
0006959 ngày 30/11/2016, số 0007256 ngày 20/12/2016, số 0007276 ngày
21/12/2016;

105 / 158
- Tiền nợ lãi từ tháng 01 năm 2017 đến ngày 31/12/2018 là: 13.042.201 đồng

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập và tống đạt hợp lệ các văn bản tố
tụng cho Công ty Nguyên H. Nhưng người đại diện hợp pháp của Công ty Nguyên
H không hợp tác, không đến Tòa án làm việc theo Giấy triệu tập, nên Tòa án không
ghi được lời khai của Công ty Nguyên H và không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa:
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt
và giữ nguyên ý kiến yêu cầu bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền nợ
gốc 93.158.580 đồng theo Hợp đồng các bên đã ký; và rút một phần yêu cầu khởi
kiện đối với số tiền lãi 13.042.201 đồng theo đơn đề nghị trước khi Tòa án có Quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa:
- Về tố tụng: Trong quá trình từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như việc chấp hành pháp
luật của nguyên đơn đều tuân thủ trình tự thủ tục, bảo đảm đúng theo quy định của
pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đúng nghĩa vụ, không có mặt theo giấy triệu tập
của Tòa án.
- Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, điểm a khoản 1 Điều 203, điểm a, b khoản
2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 273 của Bộ luật Tố
tụng
dân sự; căn cứ các điều 116, 117, 274, 275, 280, 514, 515, 517, 518, 519 của
Bộ luật Dân sự; căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho
nguyên đơn số tiền nợ gốc 93.158.580 đồng; đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả số tiền nợ lãi 13.042.201
đồng; bị đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; các
đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà
và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
+ Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

106 / 158
[1] Đây là tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán phát sinh từ
hợp đồng Hợp đồng xếp dỡ, giao nhận, bảo quản hàng hóa nhập/xuất qua Cảng
Hải Phòng giữa Công ty Cảng Hải Phòng và Công ty Nguyên H. Bị đơn có trụ
sở tại đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng nên thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền theo quy định tại khoản 1 Điều
30; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
[2] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được các văn bản tố tụng
khác cho bị đơn với lý do bị đơn không còn hoạt động tại địa chỉ trên. Như vậy,
bị đơn thay đổi địa chỉ trụ sở nhưng không báo, không công bố công khai địa chỉ
trụ sở với nguyên đơn và Tòa án biết để liên lạc. Do đó, bị đơn thuộc trường hợp
được coi là cố tình giấu địa chỉ theo quy định tại khoản 1 Điều 79; điểm b khoản
2 Điều 277 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành
phố Hải Phòng vẫn tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung là phù hợp với
hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP
ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
+ Về thời hạn giải quyết vụ án:
[3] Ngày 17 tháng 12 năm 2018, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành
phố Hải Phòng thụ lý vụ án. Ngày 15 tháng 3 năm 2019, Tòa án ra Quyết định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án, kể từ ngày 18/3/2019. Ngày 05 tháng 4 năm 2019,
Tòa án ra Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án. Đến ngày 06 tháng 5 năm 2019,
Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải
quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều
203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về sự vắng mặt của nguyên đơn, bị đơn:
[4] Nguyên đơn Công ty Cảng Hoàng D có đơn đề nghị Tòa án xử vắng
mặt. Vì vậy, Toà án xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[5] Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
184/2019/QĐXXST-KDTM ngày 06 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn
phiên tòa số 239/2019/QĐST-KDTM ngày 29 tháng 5 năm 2019 nhưng bị đơn,
người đại diện hợp pháp của bị đơn đều vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án
xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều
228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung:

107 / 158
+ Xét tính hợp pháp của hợp đồng:
[6] Hợp đồng xếp dỡ, giao nhận, bảo quản hàng hóa nhập/xuất qua Cảng
Hải Phòng số 0170.16/VP/HDN ngày 04 tháng 01 năm 2016 về các dịch vụ xếp
dỡ, giao nhận, bảo quản hàng hoá xuất nhập khẩu qua Cảng Hải Phòng được ký
giữa nguyên đơn và bị đơn tuân thủ các quy định của pháp luật khi giao kết, nội
dung hợp đồng không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội nên hợp đồng
là hợp pháp theo quy định tại các điều 116, 117, 514, 515, 517, 518 của Bộ luật
Dân sự năm 2015. Do vậy, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên và các
bên phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng.
+ Xét việc thực hiện hợp đồng và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
khoản tiền nợ gốc:
[7] Quá trình thực hiện hợp đồng, nguyên đơn thực hiện đúng các thỏa thuận
trong hợp đồng cũng như các công việc phát sinh theo cam kết cho bị đơn; nhưng
bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận, bị đơn còn nợ nguyên đơn số
tiền tính đến ngày 31/12/2017 là 98.158.580 đồng được thể hiện tại Biên bản xác
nhận nợ số 2537 ngày 31/12/2017. Ngày 06/4/2018, bị đơn đã thanh toán trả cho
nguyên đơn số tiền 5.000.000 đồng. Các tài liệu thể hiện theo dõi công nợ do
nguyên đơn xuất trình, bị đơn còn nợ nguyên đơn tính đến ngày 18/6/2019 là
93.158.580 đồng kèm theo 06 hóa đơn chi tiết là có cơ sở. Như vậy, việc Công
ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cảng Hoàng D yêu cầu Công ty Cổ phần
Thương mại và xuất nhập khẩu Nguyên H phải trả khoản tiền nợ gốc
93.158.580 đồng theo hợp đồng các bên đã giao kết là có căn cứ chấp nhận theo
quy định tại các điều 274, 275, 280, 519 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
+ Xét yêu cầu của nguyên đơn về khoản tiền nợ lãi do chậm thanh toán tiền
nợ gốc:
[8] Tại phiên tòa, nguyên đơn vắng mặt nhưng đã có đơn trước khi Tòa án
có Quyết định đưa vụ án ra xét xử về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với
bị đơn về khoản tiền nợ lãi 13.042.201 đồng. Hội đồng xét xử xét việc rút một phần
yêu cầu khởi kiện trên của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy
định của pháp luật nên cần đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn về
khoản tiền lãi 13.042.201 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[9] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy: Cần chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ
gốc theo Hợp đồng số 0170.16/VP/HDN ngày 04/01/2016 và Phụ lục hợp đồng số
01/0170.16/VP/PLHĐ ngày 01/02/2016 là 93.158.580 đồng; đình chỉ yêu cầu khởi

108 / 158
kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về khoản tiền lãi do chậm thanh toán tiền nợ
gốc với số tiền là 13.042.201 đồng.
+ Về án phí:
[10] Theo quy định tại khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Công ty Nguyên H phải nộp án phí dân
sự sơ thẩm là 4.657.929 đồng (bốn triệu, sáu trăm năm mươi bảy nghìn, chín trăm
hai chín) đồng. Trả lại cho Công ty Cảng Hoàng D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
2.560.000 (hai triệu, năm trăm sáu mươi nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0015506 ngày 14/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự
quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
+ Về quyền kháng cáo:
[11] Đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, điểm a khoản 1 Điều 203, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3
Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các điều 116, 117, 274, 275, 280, 514, 515, 517, 518, 519 của
Bộ luật Dân sự;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên Cảng Hoàng D:
Buộc Công ty Cổ phần Thương mại và xuất nhập khẩu Nguyên H phải trả
cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cảng Hoàng D theo Hợp đồng
số 0170.16/VP/HDN ngày 04/01/2016 và Phụ lục hợp đồng số
01/0170.16/VP/PLHĐ ngày 01/02/2016 số tiền nợ gốc là 93.158.580 (chín mươi ba
triệu, một trăm năm mươi tám nghìn, năm trăm tám mươi) đồng .
2. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm
hữu hạn Một thành viên Cảng Hoàng D về việc buộc Công ty Cổ phần Thương mại
và xuất nhập khẩu Nguyên H phải trả tiền lãi do chậm thanh toán tiền nợ gốc từ

109 / 158
tháng 01 năm 2017 đến ngày 18/6/2019 là 13.042.201 (mười ba triệu, không trăm
bốn mươi hai nghìn, hai trăm linh một) đồng.
3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất 10%
(mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015) tương ứng
với thời gian chưa thi hành án.
4. Về án phí sơ thẩm:
Công ty Cổ phần Thương mại và xuất nhập khẩu Nguyên H phải nộp án
phí dân sự sơ thẩm là 4.657.929 (bốn triệu, sáu trăm năm mươi bảy nghìn, chín
trăm hai chín) đồng.
Trả lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cảng Hoàng D
số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.560.000 (hai triệu, năm trăm sáu mươi nghìn)
đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015506 ngày 14/12/2018
của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cảng Hoàng D; Công ty
Cổ phần Thương mại và xuất nhập khẩu Nguyên H vắng mặt được quyền kháng
cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày
niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- VKSND quận Ngô Quyền; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi cục THADS quận Ngô
Quyền;
- Đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.

Nguyễn Bích Phượng

110 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN NĂM CĂN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH CÀ MAU

Bản án số: 01/2019/KDTM-ST


Ngày: 24-9-2019
V/v: Tranh chấp hợp đồng
cung ứng dịch vụ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Đính.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Như Học.
2. Ông Nguyễn Quốc Thống.
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Thành Công là Thư Ký Tòa án nhân dân
huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.
Trong ngày 24 tháng 09 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn,
tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2019/TLST-KDTM ngày
24 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp “Hợp đồng cung ứng dịch vụ” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-KDTM ngày 19 tháng 8 năm 2019 và
Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST-KDTM ngày 06/9/2019, giữa:
Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên X (viết tắt: Công
ty TNHH MTV X).
Địa chỉ trụ sở chính: Số 099 ấp V, xã C, thị xã T, tỉnh An Giang.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Dương Thành M, Giám đốc
Công ty là người đại diện theo pháp luật (có đơn xin vắng).
Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu thủy sản Tr (Viết tắt:
Công ty Tr).
Địa chỉ trụ sở chính: Ấp K, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trương Trung T, Giám đốc Công
ty là người đại diện theo pháp luật (vắng mặt).

111 / 158
NỘI DUNG VỤ ÁN:

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/5/2019 và sửa chữa bổ sung ngày 17/6/2019
và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện Nguyên đơnCông ty TNHH
MTV X, người đại diện theopháp luật ông Dương Thành M trình bày yêu cầu khởi
kiện:
Ngày 26 tháng 3 năm 2018 Công ty TNHH MTV X và Công ty Tr có trụ sở
tại ấp K, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau ký hợp đồng kinh tế không số và phụ lục
hợp đồng số 01.03/HĐKT-2018 về cung ứng dịch vụ. Công ty X là bên cung ứng
dịch vụ về việc cung cấp, lắp đặt thiết bị bổ sung cho line lọc nước cấp, hệ thống
xử lý nước cấp công suất 30m3/giờ phục vụ nhu cầu cấp nước sản xuất cho Công ty
TNHH XNK Thủy sản Tr, giá trị hợp đồng là 204.600.000 đồng, thời hạn bảo hành
01 năm, thanh toán tiền 04 đợt.
Đợt 1, ngay khi ký hợp đồng ngày 29/3/2018 Công ty Tr chuyển 50% giá trị
hợp đồng cho Công ty TNHH MTV X với số tiền 102.300.000 đồng;
Đợt 2, sau khi tập kết đủ thiết bị, lắp đặt hoàn thành và chuẩn bị vận hành
line lọc thanh toán tiếp 25% là 51.150.000 đồng;
Đợt 3, khi kết quả mẫu đạt hai bên tiến hành nghiệm thu thanh lý hợp đồng,
bên Công ty Tr nhận được hóa đơn BTC 100% tổng giá trị hợp đồng thì thanh toán
tiếp 20% bằng 40.920.000 đồng;
Đợt 4, hết thời hạn bảo hành sẽ thanh toán dứt điểm 5% còn lại là
10.230.00 đồng.
Sau khi ký kết, Công ty Tr đã chuyển khoản cho Công ty TNHH MTV X
102.300.000 đồng.
Ngày 12/4/2018 đã lắp đặt xong thiết bị theo hợp đồng và được nghiệm thu,
nhưng số tiền còn lại chưa thanh toán. Nay yêu cầu tiếp tục thanh toán số tiền còn
lại, về lãi suất không yêu cầu.
Bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr, do ông Trương Trung T
giám đốc Công ty đại diện theo pháp luật: Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý
vụ án, hết thời hạn pháp luật quy định bị đơn không có văn bản trả lời về vụ việc;
Tòa án tống đạt thông báo phiên họp, phiên hòa giải 02 lần nhưng đương sự không
có mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt nên không có ý kiến khác.

112 / 158
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Xét quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên X khởi kiện Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập
khẩu thủy sản Tr về thanh toán tiền còn nợ trong hợp đồng cung ứng dịch vụ. Đây
là tranh chấp giữa tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận được quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn có trụ sở
tại huyện Năm Căn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Năm
Căn theo quy định Điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý là
đúng thẩm quyền.
[2] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn Công ty TNHH MTV X do ông Dương Thành M giám đốc Công
ty đại diện theo pháp luật, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, yêu cầu của đương sự
phù hợp với khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận.
Bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr, do ông Trương Trung T
giám đốc Công ty đại diện theo pháp luật, Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần
thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng
dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn là có căn cứ.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu thanh toán tiền còn nợ:
Xét hợp đồng cung ứng dịch vụ: Căn cứ vào chứng cứ do nguyên đơn cung
cấp có cơ sở xác định: Ngày 26 tháng 3 năm 2018 Công ty TNHH MTV X với Công
ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr có giao kết hợp đồng về việc cung cấp, lắp
đặt thiết bị xử lý nước cấp, giá trị hợp đồng là 204.600.000 đồng. Hợp đồng do
nguyên đơn cung cấp chỉ có bên cung ứng dịch vụ là Công ty TNHH MTV X ký.
Tuy nhiên, theo trình bày của nguyên đơn là sau khi gửi hợp đồng cho bên bị đơn
thì phía bên bị đơn chuyển 50% giá trị hợp đồng là 102.300.000 đồng cho nguyên
đơn. Căn cứ vào giấy báo có ngày 29/3/2018 của Ngân hàng Thương mại cổ phần Á
Châu chi nhánh An Giang thể hiện Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr có
chuyển tiền cho Công ty TNHH MTV X, nội dung: Tiền lắp đặt thiết bị xử lý nước
cấp. Như vậy, có cơ sở khẳng định việc ký kết hợp đồng cung cấp, lắp đặt thiết bị xử
lý nước cấp giữa Công ty TNHH MTV X với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy
sản Tr là thực tế có xảy ra.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Công ty TNHH Một thành viên X yêu
cầu Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr thanh toán số tiền còn nợ trong

113 / 158
hợp đồng cung ứng dịch vụ 102.300.000 đồng. Thấy rằng:
- Căn cứ vào biên bản làm việc ngày 01/4/2019 giữa Công ty TNHH Một thành
viên X và Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr thể hiện số tiền Công ty
TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr còn nợ Công ty TNHH Một thành viên X số tiền
102.300.000 đồng (bút lục số 02);
- Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, nhưng phía bị đơn
không có ý kiến phản đối về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Việc chậm thanh toán tiền của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty TNHH Một thành viên X nên Công ty X
khởi kiện là có căn cứ được chấp nhận toàn bộ.
Buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr do ông Trương Trung T
làm giám đốc Công ty có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH Một thành
viên X do ông Dương Thành M giám đốc Công ty đại diện số tiền 102.300.000 đồng.
Kể từ ngày Công ty TNHH MTV X có đơn yêu cầu thi hành án Công ty
TNHH Xuất nhập khẩu thủy sản Tr chậm thanh toán tiền còn phải trả lãi trên số
tiền chậm thanh toán, mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân
sự.
Về lãi suất: Nguyên đơn không đặt ra yêu cầu nên không xem xét.
[4]. Về án phí: Án phí kinh doanh thương mại có giá ngạch, yêu cầu của
nguyên đơn được chấp nhận, bị đơn Công ty Tr phải chịu án phí kinh doanh
thương mại sơ thẩm có giá ngạch 5% = 5.115.000 đồng, Công ty X có nộp tạm ứng
án phí được nhận lại toàn bộ.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào: điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 513, Điều 519 của Bộ luật dân sự; Điều 319 của Luật thương
mại; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Một
thành viên X do ông Dương Thành M giám đốc Công ty đại diện, về việc khởi

114 / 158
kiện yêu cầu thanh toán tiền cung ứng dịch vụ còn nợ.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Xuất nhập khẩu thủy sản Tr do ông
Trương Trung T giám đốc Công ty đại diện, phải thanh toán 102.300.000 đồng
cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên X do ông Dương Thành M giám
đốc Công ty đại diện.
Kể từ ngày Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên X do ông Dương
Thành M giám đốc Công ty đại diện có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp Công
ty trách nhiệm hữu hạn xuất nhập khẩu thủy sản Tr do ông Trương Trung T giám
đốc Công ty đại diện chậm thanh toán tiền thì còn phải chịu lãi suất chậm thi hành
án trên số tiền chậm thi hành, lãi suất theo quy định khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân
sự.
- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Công ty trách nhiệm hữu hạn
Xuất nhập khẩu thủy sản Tr do ông Trương Trung T giám đốc đại diện phải chịu
án phí có giá ngạch là 5.115.000 đồng.
Công ty TNHH Một thành viên X do ông Dương Thành M giám đốc Công
ty đại diện được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.588.000 đồng theo biên
lai thu tiền số 0006752 ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau.
“Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.
- Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẤM


- Đương sự; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Tòa án tỉnh Cà Mau; (Đã ký)
- VKSND huyện Năm Căn;
- Chi cục THA DS huyện Năm Căn;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.

Nguyễn Ngọc Đính

115 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 30/2019/KDTM -ST


Ngày: 27-11-2019
V/v: Tranh chấp hợp đồng cung ứng
dịch vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn
Các Hội thẩm nhân dân:
- Bà Nguyễn Thị Lưu Ly
- Bà Võ Ngọc Thúy
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Mỹ Quí – Thư ký Tòa án nhân dân Quận 6,
Thành phố Hồ Chí Minh
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Mai Hương– Kiểm sát viên
Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 16/2019/TLST- KDTM
ngày 30 tháng 5 năm 2019 về “ Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 470/2019/QĐXXST- KDTM ngày 15 tháng
10 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B, địa chỉ: 750
đường A, phường M, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là: Ông Nguyễn Duy N; sinh năm:
1976; địa chỉ: 235/34 đường C, Phường B, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; địa
chỉ liên lạc: 130 đường số 47, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh ( theo
văn bản ủy quyền ngày 10 tháng 6 năm 2019) (có mặt).
- Bị đơn: Công ty Cổ phần I; địa chỉ: tầng 3, số 559 đường K, phường N,
quận Đ, Thành phố Hà Nội
Người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của bị đơn: Ông Trương Thanh T,
sinh năm: 1983; địa chỉ: nhà số 608-CT3- KĐT D, tổ 6, phường T, quận N, Thành
phố Hà Nội (có mặt); ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1982; địa chỉ: CH 1936 Tòa
HH2B L, H, Quận M, Thành phố Hà Nội (theo văn bản ủy quyền số
1706/2019/UQ-GĐ ngày 17/6/2019) (ông Nguyễn Văn T có đơn xin xét xử vắng
mặt).

116 / 158
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/5/2019, bản tự khai, các biên bản hòa giải và
tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ
bảo vệ B (sau đây viết tắt là Công ty B) do ông Nguyễn Duy N đại diện theo ủy
quyền trình bày:
Công ty cổ phần I (sau đây viết tắt là Công ty I) có nhu cầu thuê bảo vệ trông
coi dự án nhà máy Nyan Kids Đ tại lô E đường số 5 khu công nghiệp L, xã B, thị
xã L, tỉnh Đ. Vì vậy, ngày 02/11/2018, Công ty B và Công ty I ký kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ bảo vệ số 024/HĐ-BTL/2018, theo đó Công ty B sẽ cung ứng
dịch vụ bảo vệ cho Công ty I là 01 (một) vị trí bảo vệ làm việc 24h/24h gồm có
02 (hai) nhân viên luân phiên nhau. Vị trí bảo vệ là bảo vệ tại cổng chính của công
trình. Nhiệm vụ bảo vệ là giữ gìn an ninh trật tự; kiểm soát người ra vào công
trình; tài sản của công trình nhưng phải có biên bản bàn giao tài sản kèm theo.
Thời hạn của hợp đồng tính từ ngày 02/11/2018 đến ngày Công ty I kết thúc thi
công công trình và công ty I phải thông báo trước cho công ty B ít nhất là 30 ngày.
Trong trường hợp còn 15 (mười lăm) ngày trước khi kết thúc thi công công trình
mà công ty I vẫn sử dụng bảo vệ của công ty B thì hai bên sẽ gặp nhau thỏa thuận
để gia hạn hợp đồng. Nếu công ty I không thông báo trước bằng văn bản về việc
chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ thì hợp đồng sẽ mặc nhiên được tiếp
tục thực hiện.
Trong suốt thời gian bảo vệ công trình, bảo vệ của công ty B đã làm đúng
nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, vào ngày 28/12/2018, công ty I có thông báo là
tại công trình xảy ra mất 02 (hai) máy laptop và cho rằng đây là trách nhiệm của
công ty B. Việc mất mát tài sản không thuộc trách nhiệm của công ty B vì trong
hợp đồng có quy định bảo vệ của Công ty B chỉ có trách nhiệm bảo vệ tại cổng
chính của công trình và không có trách nhiệm bảo vệ toàn bộ tài sản của công
trình. Trong hợp đồng có quy định bên công ty B chỉ có trách nhiệm bảo vệ những
tài sản nào đã được bàn giao bằng biên bản. Trong quá trình bảo vệ công trình
công ty I không lập biên bản bàn giao tài sản cụ thể nên bảo vệ chỉ thực hiện kiểm
sát tài sản khi ra khỏi công trình theo phiếu xuất kho của thủ kho công ty I. Chính
từ việc mất tài sản này mà hai công ty đã xảy ra mâu thuẫn.
Sáng ngày 18/01/2019, ông Nguyễn Văn T là chỉ huy trưởng công trình của
công ty I điện thoại trực tiếp cho ông Cao Đức D xuống công trình bàn bạc về
việc rút hết bảo vệ khỏi công trình. Chính vì vậy ông Cao Đức D đã chuẩn bị sẵn
nội dung của ba biên bản làm việc. Một biên bản làm việc viết tay, một biên bản
làm việc có nội dung như bị đơn cung cấp và một biên bản làm việc có nội dung
mà nguyên đơn cung cấp. Ông Cao Đức D trực tiếp xuống làm việc với ông
Nguyễn Văn T là chỉ huy trưởng công trường. Mặc dù biết ông Nguyễn Văn T
không phải là người đại diện theo pháp luật của công ty I và cũng không có giấy
ủy quyền cho buổi làm việc ngày 18/01/2019 nhưng ông Nguyễn Văn T là người
được quyền quyết định mọi vấn đề ở công trường vì khi công ty B bàn giao bảo
vệ cho công ty I thì ông Nguyễn Văn T cũng là người tiếp nhận nhân viên bảo vệ.
Ông Nguyễn Văn T cũng chính là người đuổi bảo vệ của công ty B ra khỏi công
trường và có sự

117 / 158
chứng kiến của người lao động tại công trình và nhân viên bảo vệ của công ty
TNHH Dịch vụ Bảo vệ L.
Tại buổi làm việc ngày 18/01/2019, biên bản làm việc viết tay không được
hai bên chấp nhận nên đã hủy bỏ. Đối với biên bản làm việc do bị đơn cung cấp,
sau khi ký tên ông Cao Đức D thấy không đầy đủ nội dung cũng như về mặt pháp
lý nên hai bên thống nhất hủy bỏ biên bản làm việc này và hai bên thống nhất sử
dụng biên bản làm việc cuối cùng do chúng tôi cung cấp có chữ ký sống của cả
hai bên. Tại biên bản này ông Nguyễn Văn T đại diện cho công ty I tự ý đơn
phương chấm dứt hợp đồng và tự nguyện bồi thường toàn bộ thời hạn còn lại của
hợp đồng cho công ty B. Sau khi ký xong biên bản làm việc, công ty B đã rút toàn
bộ bảo vệ ra khỏi công trường.
Sau buổi làm việc ngày 18/01/2019, công ty B có gửi cho công ty I Thông
báo số 002/TBVPHĐ-BTL/2019 ngày 18/01/2019 về việc yêu cầu công ty I thanh
toán tiền phí dịch vụ còn thiếu, tiền bồi thường phí dịch vụ theo thỏa thuận do đơn
phương chấm dứt hợp đồng và tiền phạt mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Ngày 04/3/2019, công ty B tiếp tục gửi cho công ty I thông báo số 003/TBVPHĐ-
BTL/2019 trả lời về việc mất hai máy laptop không thuộc trách nhiệm của công
ty B đồng thời yêu cầu công ty I bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Nay Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ B yêu cầu như sau:
- Yêu cầu Công ty cổ phần I thanh toán cho Công ty B tiền phí dịch vụ bảo
vệ còn thiếu từ tháng 12/2018 đến ngày 18/01/2019 là 01 tháng 18 ngày với số
tiền là: 23.709.678 đồng (Hai mươi ba triệu, bảy trăm lẻ chín ngàn, sáu trăm bảy
mươi tám đồng);
- Công ty B chỉ yêu cầu Công ty I trả tiền phạt vi phạm hợp đồng do chậm
thanh toán phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu là 01%/ngày đến ngày 30/10/2019 với số
tiền là: 58.558.066 đồng (Năm mươi tám triệu, năm trăm năm mươi tám ngàn,
không trăm sáu mươi sáu đồng);
-Yêu cầu bồi thường là 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng) theo
Hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ số 024/HĐ-BTL/2018 ngày 02/11/2018 do
công ty I tự ý chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc Công ty cổ phần I yêu cầu Công
ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ B thanh toán cho Công ty cổ phần I tổng
số tiền là 144.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng), bao gồm
45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng) là tiền bồi thường do Công ty TNHH
Dịch vụ Bảo vệ B tự ý chấm dứt hợp đồng và 99.000.000 đồng (chín mươi chín
triệu đồng) là chi phí mà Công ty cổ phần I thuê người trông giữ, bảo quản tài sản
ngày và đêm cho phần việc mà Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ B đã tự ý rút khỏi
công trình tính từ ngày 18/01/2019 đến hết tháng 4/2019 thì Công ty Trách nhiệm
hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ B không chấp nhận.
Bị đơn – Công ty cổ phần I do ông Trương Thanh T là người đại diện theo
ủy quyền trình bày:

118 / 158
Ngày 02/11/2018, Công ty cổ phần I và công ty B có ký hợp đồng cung ứng
dịch vụ bảo vệ số 024/HĐ-BTL/2018 với nội dung là công ty I thuê dịch vụ bảo
vệ của công ty B để duy trì an ninh trật tự và bảo đảm an toàn tài sản, vật tư, hàng
hóa, thiết bị của công ty I tại dự án nhà máy Nyan Kids Đ tại lô E đường số 5 khu
công nghiệp L, xã B, thị xã L, tỉnh Đ. Theo đó, công ty B sẽ cử 02 (hai) nhân viên
bảo vệ đến công trình làm việc 24/24 và bảo vệ toàn bộ công trình. Nhiệm vụ của
bảo vệ là bảo vệ toàn bộ tài sản của công trình.
Vào lúc 06 giờ 00 ngày 28/12/2018, xảy ra sự cố mất tài sản ở công trình.
Tài sản bị mất là 02 chiếc máy tính xách tay (hiệu Toshiba và hiệu HP), trị giá
khoảng
40.000.000 đồng. Sau khi phát hiện mất tài sản cán bộ công ty I đã thông báo với
người có trách nhiệm của công ty B để phối hợp giải quyết.
Vì công ty B không có thiện chí hợp tác để khắc phục hậu quả và còn đưa ra
những lý do thiếu căn cứ nhằm mục đích chối bỏ trách nhiệm. Vì vậy, ông Nguyễn
Văn T là chỉ huy trưởng công trường đã tự ý đề nghị công ty B rút toàn bộ bảo vệ
ra khỏi công trình, tạm dừng việc bảo vệ để hai bên giải quyết về vấn đề mất tài
sản. Việc làm của ông Nguyễn Văn T chưa được sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật của công ty I.
Vào ngày 18/01/2019, công ty B do ông Cao Đức D đại diện đã đến công
trình của công ty I làm việc với ông Nguyễn Văn T. Ông T và ông D đã thỏa thuận
rút bảo vệ khỏi công trường và có lập biên bản là công ty B đồng ý rút toàn bộ bảo
vệ tại công trình và bàn giao lại tài sản cho công trình của công ty I. Hai bên chỉ
ký một biên bản làm việc duy nhất với nội dung như biên bản làm việc mà bị đơn
cung cấp cho Tòa án.
Đối với biên bản làm việc ngày 18/01/2019 mà nguyên đơn cung cấp cho
Tòa án, ông thừa nhận chữ ký trong biên bản này là của ông Nguyễn Văn T nhưng
nội dung trong biên bản làm việc này không đúng với nội dung của biên bản làm
việc mà bị đơn cung cấp cho Tòa án, có sự chèn dòng trong biên bản. Mặc khác
ông Nguyễn Văn T là người không có thẩm quyền đứng ra giải quyết tranh chấp
cũng như đơn phương chấm dứt hợp đồng nên nội dung làm việc trong biên bản
làm việc ngày 18/01/2019 giữa ông D và ông T là không có giá trị. Phía công ty I
chưa có bất kỳ thông báo nào yêu cầu công ty B rút toàn bộ bảo vệ khỏi công
trình. Việc công ty B tự ý rút toàn bộ bảo vệ khỏi công trình là đã tự ý đơn phương
chấm dứt hợp đồng. Ngày 18/01/2019 công ty B rút toàn bộ bảo vệ khỏi công
trình thì ông T có thông báo cho công ty I biết việc này. Ngày 19/01/2019, công
ty I phát hành Thông báo không số ngày 19/01/2019 thông báo về sự việc mất cắp
tại công trình và nội dung công tác bảo vệ đồng thời đề nghị công ty B có trách
nhiệm đền bù việc mất tài sản và ngừng cung cấp dịch vụ bảo vệ để giải quyết vấn
đề mất tài sản.
Sau đó công ty I có nhận được thông báo số 002/TBVPHĐ-BTL/2019 ngày
18/01/2019 và thông báo số 003/TBVPHĐ-BTL/2019 ngày 04/3/2019 của công
ty B yêu cầu công ty I thanh toán tiền phí dịch vụ còn thiếu, tiền bồi thường phí
dịch vụ theo thỏa thuận do đơn phương chấm dứt hợp đồng và tiền phạt mà hai
bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, do hai công ty chưa giải quyết xong

119 / 158
về vấn đề mất mát tài sản nên công ty I không có ý kiến đối với hai thông báo trên
của công ty B.
Ngày 16/01/2019, công ty I đã ký kết hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ
bảo vệ số 1138/01/2019-HĐBV với công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ L với thời
gian thực hiện là từ ngày 20/01/2019. Mục đích công ty I ký thêm hợp đồng bảo
vệ với công ty bảo vệ L là do công ty I không còn tin tưởng nhân viên bảo vệ của
công ty B nữa. Mặt khác do công trình bắt đầu đi vào xây dựng rất nhiều hạng
mục cần phải bảo vệ nên Công ty I thuê thêm một đơn vị bảo vệ nữa để bảo vệ
công trình. Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ B thì
công ty I có ý kiến như sau:
- Công ty cổ phần I đồng ý thanh toán cho Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ B
phí dịch vụ bảo vệ mà công ty I chưa thanh toán cho công ty B là 01 tháng 18 ngày
với số tiền là 23.709.678 đồng
- Đối với yêu cầu Công ty cổ phần I phải thanh toán tiền phạt 01%/ngày do
chậm thanh toán thì yêu cầu này là không phù hợp với quy định của pháp luật.
Công ty I chỉ đồng ý trả tiền phạt vi phạm đối với số tiền thuê dịch vụ bảo vụ còn
thiếu theo quy định của pháp luật là 8% trên phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu
- Công ty cổ phần I không đồng ý bồi thường cho Công ty TNHH Dịch vụ
bảo vệ B với số tiền là 45.000.000 đồng vì công ty I không đơn phương chấm dứt
hợp đồng. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng là do phía công ty B.
Tại phiên tòa hôm nay, Công ty I tự nguyện hỗ trợ trả thêm tiền lãi do chậm
thanh toán tiền phí dịch vụ cho Công ty B từ ngày 19/01/2019 đến ngày xét xử sơ
thẩm với mức lãi suất theo quy định của pháp luật.
Đối với yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần I:
- Công ty Cổ phần I xin rút lại một phần yêu cầu phản tố không yêu cầu Công
ty B phải bồi thường số tiền 99.000.000 đồng (chín mươi chín triệu đồng) là tiền
phí dịch vụ mà công ty I phải thuê bảo vệ để bảo vệ công trình từ ngày 20/01/2019
đến hết tháng 4/2019.
- Yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ B bồi thường cho
Công ty cổ phần I số tiền 45.000.000 đồng ( Bốn mươi lăm triệu đồng) do Công
ty TNHH Dịch vụ Bảo vệ B tự ý chấm dứt hợp đồng trước thời hạn.
Tại bản tự khai đề ngày 18/10/2019 ông Nguyễn Văn T là người đại diện
theo ủy quyền của Công ty I trình bày:
Ông và ông Trương Thanh T được Công ty I ủy quyền đại diện cho Công
ty I tham gia tố tụng để giải quyết tranh chấp với Công ty B tại Tòa án nhân dân
Quận 6. Trong quá trình giải quyết vụ án thì ông Trương Thanh T đại diện cho
công ty I đã có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông
hoàn toàn thống nhất với toàn bộ ý kiến và lời trình bày của ông Trương Thanh T.
Tuy nhiên, ông chỉ trình bày thêm về việc liên quan đến biên bản làm việc
ngày 18/01/2019 ông là người đã ký tên trên biên bản làm việc ngày 18/01/2019
với người đại diện của Công ty B như sau :

120 / 158
Tháng 10 năm 2018 ông được Công ty I giao nhiệm vụ quản lý Công trình
tạm thời một số công việc tại dự án Công trình nhà máy Nyan Kids Đ, có địa chỉ
tại : Lô E, đường số 5, KCN L, xã B, Thị xã L, tỉnh Đ. Ngày 02/11/2018, giữa
Công ty I và Công ty B có ký hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ. Nội dung hợp
đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ giữa hai bên như thế nào thì ông không được biết.
Công ty I có giao cho ông ký biên bản bàn giao tài sản và nhân viên bảo vệ, ngoài
ra không có chỉ đạo nào khác.

Vào lúc 6h00 ngày 28 tháng 12 năm 2018 khi trở lại làm việc, nhân viên
Công ty I phát hiện việc mất cắp tài sản trên công trình. Tài sản bị mất là 02 chiếc
máy tính xách tay (01 máy hiệu TOSHIBA và 01 máy hiệu HP), trị giá khoảng
40.000.000đồng (bốn mươi triệu đồng). Ngay sau khi phát hiện việc mất tài sản,
ông đã thông báo về Công ty I và Giám đốc công ty có chỉ đạo liên hệ và thông báo
với người có trách nhiệm của Công ty B để phối hợp giải quyết. Nhận được chỉ đạo
từ Ban giám đốc ông đã liên hệ và thông báo đến Công ty B vụ việc trên. Vào lúc
10h30 ngày 28/12/2018 đại điện Công ty B, do ông Huỳnh Anh T làm đại diện đã
đến Văn phòng ban điều hành công trình công ty để làm việc (không có giấy ủy
quyền). Tại biên bản làm việc cùng ngày, do cả hai bên đều không có giấy ủy quyền
để làm việc nên ông và ông Huỳnh Anh T thống nhất chỉ lập biên bản ghi nhận việc
mất cắp tài sản và đề xuất các hướng giải quyết khắc phục hậu quả. Sau khi lập
biên bản hiện trường, ông đã báo cáo về Ban lãnh đạo công ty I biết sự việc.

Ngày 18/01/2019, Công ty B đã cử 01 cán bộ (không có giấy ủy quyền) đến Công


trình của công ty chúng tôi làm việc (sau này ông mới biết người đến làm việc là
Giám đốc công ty B). Khi xuống làm việc, ông này giới thiệu ông là cán bộ giám
sát do công ty cử xuống lập biên bản làm việc về việc bàn giao tài sản. Cứ nghĩ sự
việc Công ty B cử đại diện xuống như lần trước nên ông và ông này có ký vào biên
bản làm việc đã soạn sẵn từ trước do ông này mang xuống có nội dung giống nhau
đề cập đến việc bàn giao tài sản. Ông này cũng nói với ông là chỉ ghi nhận sự việc
và về báo lại công ty. Lúc đó trên biên bản có đánh máy sẵn nội dung và giữa các
dòng đều có khoảng cách rất rộng. Lúc ký tên ông có sơ suất là không gạch bỏ
những khoảng cách rộng giữa các dòng trên văn bản. Sau khi ký xong biên bản làm
việc tiếp thu ý kiến, ông này cũng đã tự ý rút toàn bộ bảo vệ ra khỏi công trình và
viết thêm vào dưới phần chữ ký trong biên bản làm việc là rút toàn bộ bảo vệ từ
15h ngày 18/1/2019, mỗi bên đều giữ một biên bản làm việc. Bên Công ty bảo vệ
B giữ bản chính, còn bên ông thì giữ bản photo nhưng phần ký tên thì là chữ ký
sống của cả hai bên. Biên bản này Công ty I đã cung cấp cho Tòa án.
Tối ngày 18/01/2019, sau khi công ty B rút bảo vệ khỏi công trình, ông đã
báo cáo sự việc cho Ban lãnh đạo Công ty I biết và Công ty I đã cử bảo vệ khác
xuống công trình bảo vệ.

121 / 158
Ngày 22/01/2019, ông được Công ty cổ phần I thông báo là phía Công ty B
có gửi công văn số 002/TBVPHĐ-BTL/2019 đề ngày 18/01/2019 về việc cho rằng
Công ty Incon tự ý chấm dứt hợp đồng và chấp nhận bồi thường thiệt hại dựa trên
biên bản làm việc do ông ký. Ông rất bất ngờ về sự việc này. Ông xin khẳng định:
1. Giữa ông và Công ty B không ký bất kỳ biên bản làm việc nào có nội
dung tự ý chấm dứt hợp đồng và bồi thường thiệt hại như Công ty bảo vệ B cung
cấp.
2. Giữa ông và đại diện công ty bảo vệ B chỉ có duy nhất 01 biên bản làm
việc ngày 18/01/2019 với nội dung bàn giao toàn bộ tài sản và các nội dung công
việc, chứ không hề có bất cứ thỏa thuận nào về việc chấm dứt hợp đồng hoặc bồi
thường thiệt hại;
Ông chỉ là người được giao quản lý tạm thời trên công trình, không phải
người đại diện pháp luật Công ty và ông cũng chưa được Công ty Cổ phần I ủy
quyền cho ông để giải quyết việc chấm dứt hợp đồng với công ty B nên ông hoàn
toàn không có thẩm quyền để quyết định việc chấm dứt hợp đồng hoặc bồi thường
thiệt hại. Vấn đề này thuộc trách nhiệm của người đại diện pháp luật của 2 bên công
ty.
Biên bản làm việc ngày 18/01/2019 mà Công ty B cung cấp cho Tòa án có
nội dung thể hiện Công ty cổ phần I tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng và đồng
ý bồi thường hợp đồng cho Công ty B thì biên bản này sau khi đem về Công ty B
đã tự ý chèn thêm các dòng vào. Do vậy biên bản này là giả mạo.
Nay Công ty TNHH bảo vệ B căn cứ vào biên bản làm việc ngày 18/01/2019
có các nội dung được công ty B chèn thêm vào để khởi kiện là không có căn cứ.
Việc rút bảo vệ khỏi công trường ngày 18/01/2019 là do tự ý của công ty B và công
ty B đã tự đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo vệ mà hai bên đã ký kết. Ông xin
khẳng định lại là Công ty Cổ phần I chưa có văn bản ủy quyền nào ủy quyền cho
ông để thay mặt Công ty cổ phần I đứng ra giải quyết bất kỳ công việc nào với
Công ty B kể từ khi có sự việc mất mát tài sản tại Công trình nhà máy Nyan Kids
Đ.
Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần I đề nghị
Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc nguyên đơn cho rằng
công ty Cổ phần I tự ý đơn phương chấm dứt hợp đồng và phải bồi thường số tiền
45.000.000đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm
phán và của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc
chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: các đương sự đã chấp hành đúng
các quy định của pháp luật. Việc đưa vụ án ra xét xử đúng theo quy định của pháp
luật.

122 / 158
- Về nội dung giải quyết vụ án: Công ty cổ phần I có nhu cầu thuê bảo vệ trông
coi dự án nhà máy Nyan Kids Đ tại lô E đường số 5 khu công nghiệp L, xã B, thị
xã L, tỉnh Đ. Vì vậy, ngày 02/11/2018, Công ty B và Công ty I ký kết hợp đồng
cung ứng dịch vụ bảo vệ số 024/HĐ-BTL/2018. Ngày 18/01/2019 ông Nguyễn Văn
T là chỉ huy trưởng công trình nhà máy Nyan kids Đ cùng với ông Cao Đức D là
giám đốc công ty B đã ký biên bản làm việc về việc bàn giao tài sản và nội dung
công việc . Sau đó vào lúc 15 giờ cùng ngày thì Công ty B đã rút bảo vệ khỏi công
trình nhà máy Nyan Kids Đ. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tiền phí
dịch vụ bảo vệ Công ty I chưa thanh toán từ tháng 12/2018 đến ngày 18/01/2019
với số tiền là 23.709.678 đồng. đối với số tiền phí dịch vụ này thì đại diện bị đơn
cũng thừa nhận là chưa thanh toán cho nguyên đơn. Vì vậy, nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu bị đơn phải thanh toán phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu là 23.709.678 đồng là
có cơ sở chấp nhận.
Đối với yêu cầu công ty I phải trả tiền phạt vi phạm hợp đồng là 1%/ngày trên
phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu. Việc thỏa thuận này là chưa phù hợp với quy định tại
Điều 301 Luật Thương mại. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Luật
Thương mại để giải quyết đối với khoản tiền phạt vi phạm này.
Đối với yêu cầu công ty I phải bồi thường số tiền 45.000.000 đồng (Bốn mươi
lăm triệu đồng) do tự ý chấm dứt hợp đồng bảo vệ trước thời hạn. Nhận thấy trong
thời gian bảo vệ tại công trình thì xảy ra việc mất mát tài sản của Công ty I nhưng
Công ty B không có thiện chí giải quyết việc mất mát tài sản. Đồng thời, tại kết
luận giám định số 3828/C09B ngày 19/9/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại
Thành phố Hồ Chí Minh kết luận biên bản làm việc ngày 18/01/2019 mà nguyên
đơn cung cấp có những dòng được tạo lập thêm. Như vậy, nguyên đơn đã không
trung thực trong việc cung cấp chứng cứ. Đồng thời ông Nguyễn Văn T chưa được
công ty I ủy quyền để giải quyết công việc liên quan đến hợp đồng bảo vệ số
024/HĐ-BTL/2018 với công ty B. Do vậy, nay công ty B yêu cầu công ty I phải
bồi thường số tiền 45.000.000 đồng là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
Tại phiên tòa hôm nay bị đơn rút một phần yêu cầu phản tố không yêu cầu
Công ty B phải bồi thường 99.000.000 đồng tiền công ty I thuê bảo vệ từ ngày
19/01/2019 đến tháng 4/2019. Việc rút một phần yêu cầu phản tố này của bị đơn là
hoàn toàn tự nguyện. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ một
phần yêu cầu phản tố của bị đơn.
Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn đồng ý trả tiền lãi
chậm thanh toán trên số tiền dịch vụ bảo vệ còn thiếu.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu nguyên đơn phải bồi thường
số tiền 45.000.000 đồng. Nhận thấy, ngày 16/01/2019 bị đơn đã ký hợp đồng dịch vụ
bảo vệ với công ty bảo vệ L, ngày 19/01/2019 đã ban hành thông báo không số có nội
dung đề nghị công ty B ngừng cung cấp dịch vụ bảo vệ trước ngày 20/01/2019 mặc
dù thông báo này được gửi sau ngày 20/01/2019 nhưng cho thấy ý thức chủ quan của
công ty I đã muốn chấm dứt hợp đồng bảo vệ với công ty B. Do vậy, Công ty I yêu
cầu công ty B bồi thường 45.000.000 đồng là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét
xử không chấp nhận một phần phản tố của bị đơn.

123 / 158
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án:


Công ty B khởi kiện Công ty I về tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ
số: 024/HĐ-BTL/2018 ngày 02/11/2018 đây là tranh chấp về hợp đồng cung ứng dịch
vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35. Tại Điều 8 của hợp
đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ số : 024/HĐ-BTL/2018 ngày 02/11/2018 các bên thỏa
thuận “ …nếu việc thương lượng không thành thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án
nhân dân có thẩm quyền nơi có trụ sở chính của bên B tại Thành phố Hồ Chí Minh để
giải quyết …”. Như vậy, trụ sở chính của bên B theo hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo
vệ số : 024/HĐ-BTL/2018 ngày 02/11/2018 là Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ B có
trụ sở chính tại Quận 6. Do vậy, căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 6.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
a/ Đối với phí dịch vụ bảo vệ mà công ty cổ phần I còn thiếu của tháng 12/2018
và phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu từ ngày 01/01/2019 đến ngày 18/01/2019 với tổng số
tiền là: 23.709.678 đồng (Hai mươi ba triệu, bảy trăm lẻ chín ngàn, sáu trăm bảy mươi
tám đồng).
Hội đồng xét xử xét thấy, ông Trương Thanh T là người đại diện theo ủy quyền
của bị đơn thừa nhận Công ty Cổ phần I vẫn chưa thanh toán phí dịch vụ bảo vệ cho
Công ty bảo vệ B từ ngày 01/12/2018 đến ngày 18/01/2019 ( 01 tháng 18 ngày) với
số tiền là: 23.709.678 đồng. Nay công ty I đồng ý thanh toán số tiền phí dịch vụ bảo
vệ còn thiếu trên cho Công ty bảo vệ B. Như vậy, Công ty B khởi kiện yêu cầu Công
ty I phải thanh toán phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu từ 01/12/2018 đến ngày 18/01/2019
với số tiền là: 23.709.678 đồng(Hai mươi ba triệu, bảy trăm lẻ chín ngàn, sáu trăm bảy
mươi tám đồng) là hoàn toàn có cơ sở để chấp nhận.
b/ Đối với yêu cầu trả tiền phạt vi phạm hợp đồng do chậm thanh toán phí dịch vụ
bảo vệ với số tiền là: 58.558.066 đồng (Năm mươi tám triệu, năm trăm năm mươi tám
ngàn, không trăm sáu mươi sáu đồng).
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đều xác nhận
khi ký hợp đồng hai bên có thỏa thuận điều khoản phạt vi phạm trên. Ông Nguyễn
Duy N đại diện cho bị đơn xác định đây là điều khoản phạt vi phạm được áp dụng khi
một bên vi phạm hợp đồng. Công ty I không thanh toán phí dịch vụ đúng theo quy
định trong hợp đồng là đã vi phạm hợp đồng và việc hai bên thỏa thuận phạt vi phạm
1%/ngày là do hai bên tự nguyện thỏa thuận khi ký kết hợp đồng nên các bên phải
thực hiện. Ông Nguyễn Duy N cũng xác định Công ty bảo vệ B yêu cầu công ty I trả
tiền phạt vi phạm hợp đồng vì thanh toán phí bảo vệ dịch vụ không đúng hạn chứ
không phải là yêu cầu tính tiền lãi chậm trả do chậm thanh toán phí dịch vụ bảo vệ.
Ông Trương Anh T là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn thì cho rằng mặc
dù trên hợp đồng hai bên có thỏa thuận mức phạt vi phạm do chậm thanh toán phí
dịch vụ bảo vệ. Tuy nhiên, việc thỏa thuận mức phạt vi phạm này là không phù hợp
với quy định của Luật Thương mại. Công ty I chỉ đồng ý trả tiền phạt vi phạm là 8%
trên phần nghĩa vụ hợp đồng vi phạm. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tính lại mức
phạt.

124 / 158
Hội đồng xét xử xét thấy, theo quy định tại Điều 300 Luật Thương mại quy định
“ Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt vi
phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận…” và tại Điều 301 quy định về
mức phạt vi phạm như sau “ Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng
mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không
vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm…”. Theo thỏa thuận của các
bên tại Điều 12 của hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ số: 024/HĐ-BTL/2018 ngày
01/11/2018 thì hai bên có thỏa thuận“ Trường hợp bên A thanh toán phí dịch vụ bảo
vệ không đúng hạn theo hợp đồng này thì bên A tự nguyện chịu phạt 1% tương ứng
với phí dịch vụ bảo vệ cho mỗi một ngày quá hạn kể cả các ngày chậm thanh toán
của từng tháng…”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật Thương mại quy định về nguyên tắc
tự do, tự nguyện, thỏa thuận trong hoạt động thương mại thì “ Các bên có quyền tự
do thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật…để xác lập các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hoạt động thương mại”. Như vậy, theo quy định của pháp luật
chỉ cho phép các bên được phạt vi phạm không vượt quá 8% của giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm nhưng ở đây các bên lại thỏa thuận mức phạt 1%/ngày tương
ứng với phí dịch vụ thanh toán trễ hạn. Thỏa thuận này không phù hợp với quy định
của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện bị đơn đồng ý trả tiền phạt vi phạm là
8% của phần giá trị phí dịch vụ thuê bảo vệ còn thiếu
Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ điều chỉnh lại mức phạt cho phù hợp với quy định
của pháp luật là 8% của phần giá trị phí dịch vụ thuê bảo vệ còn thiếu. Tổng phí dịch
vụ thuệ bảo vệ mà Công ty I chưa thanh toán cho công ty bảo vệ B là: 23.709.678
đồng(Hai mươi ba triệu, bảy trăm lẻ chín ngàn, sáu trăm bảy mươi tám đồng). Số tiền
phạt vi phạm công ty I phải trả cho công ty B là:
23.709.678đ x 8% = 1.896.774 đồng (Một triệu, tám trăm chín mươi sáu ngàn, bảy
trăm bảy mươi bốn đồng).
Như vậy, Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần đối với yêu cầu khởi kiện của
Công ty bảo vệ B về việc yêu cầu công ty I phải thanh toán số tiền phạt vi phạm do
chậm thanh toán phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu là: 1.896.774 đồng(Một triệu, tám trăm
chín mươi sáu ngàn, bảy trăm bảy mươi bốn đồng).
c/ Tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có bổ sung
thêm yêu cầu khởi kiện là yêu cầu Công ty I phải trả tiền lãi do chậm thanh toán phí
dịch vụ bảo vệ còn thiếu theo thỏa thuận trong hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ mà
hai bên đã ký kết. Hội đồng xét xử xét thấy, tại đơn khởi kiện ngày 20/5/2019 công ty
B không có yêu cầu Công ty I phải trả tiền lãi do chậm thanh toán phí dịch vụ bảo vệ
còn thiếu. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bổ sung thêm yêu cầu này là vượt quá
phạm vi khởi kiện nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu bổ sung này theo quy
định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay ông Trương Thanh T là người đại diện theo
ủy quyền của bị đơn tự nguyện trả tiền lãi do chậm thanh toán tiền phí dịch vụ bảo vệ
tính từ ngày 19/01/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất quy định của Luật
thương mại. Xét thấy, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cũng đồng ý với
sự tự nguyện này của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn. Đồng thời đây là sự tự
nguyện của bị đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại thì tiền lãi trên số tiền chậm trả

125 / 158
theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng
với thời gian chậm trả.
Tại công văn số 0783/NHNoHCM-KHNV ngày 08/10/2019 của Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh cung
cấp lãi suất cho vay trung, dài hạn là: 10,00%/năm. Lãi suất nợ quá hạn
=150% lãi suất cho vay trong hạn.
Tại công văn số 7032/HCM-TH ngày 10/10/2019 của Ngân hàng TMCP ngoại
thương Việt Nam- Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh cung cấp lãi suất trung, dài hạn là:
11,10%/năm. Lãi suất nợ quá hạn =150% lãi suất cho vay trong hạn.
Tại công văn số 3403/CNTPHCM-KHTH ngày 22/10/2019 của Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam- chi nhánh TP.Hồ Chí Minh cung cấp mức lãi suất
trung, dài hạn là 10,50%/năm. Lãi suất nợ quá hạn =150% lãi suất cho vay trong hạn.
Như vậy, mức lãi suất trung bình là: 10.53%/năm tương đương 0.87%/tháng.
Lãi suất quá hạn trung bình là: 0.87%/tháng x150% = 1.3%/tháng.
Như vậy, tiền lãi chậm thanh toán phí dịch vụ bảo vệ mà Công ty I tự nguyện
trả cho công ty B từ ngày 19/01/2019 đến ngày 27/11/2019 ( 10,26 tháng) là:
23.709.678 đồng x 1.3%/tháng x10,26 tháng = 3.162.396 đồng (Ba triệu, một
trăm sáu mươi hai ngàn, ba trăm chín mươi sáu đồng).
d/ Đối với yêu cầu bồi thường số tiền 45.000.000 đồng do Công ty I đơn
phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ bảo vệ số 024/HĐ-BTL/2018 ngày
02/11/2018.
Nguyên đơn căn cứ vào biên bản làm việc vào lúc 14 giờ 40 phút ngày 18/01/2019
giữa ông Nguyễn Văn T là chỉ huy trưởng công trình nhà máy Nyal Kids Đ với ông
Cao Đức D giám đốc công ty B (biên bản do nguyên đơn cung cấp tại bút lục 130)
thể hiện nội dung ông Nguyễn Văn T đại diện cho công ty cổ phần I tự ý đơn phương
chấm dứt hợp đồng trước thời hạn với bên Công ty bảo vệ B và công ty I đồng ý bồi
thường toàn bộ thời hạn còn lại của hợp đồng cho công ty bảo vệ B. Đồng thời ông
Nguyễn Duy N đại diện cho nguyên đơn trình bày trong quá trình thực hiện hợp đồng
thì công ty B chỉ làm việc với ông Nguyễn Văn T và việc công ty B rút bảo vệ khỏi
công trình là theo ý kiến của ông T.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Trương Thanh T và ông Nguyễn Văn T là
người đại diện theo ủy quyền của công ty I, đồng thời ông Nguyễn Văn T cũng là
người trực tiếp ký biên bản làm việc ngày 18/01/2019 với ông Cao Đức D có cung
cấp cho Tòa án một biên bản làm việc vào lúc 14 giờ 40 phút ngày 18/01/2019 là bản
photo nhưng có chữ ký sống tên của ông Nguyễn Văn T và chữ ký, dòng chữ viết của
ông Cao Đức D về việc rút toàn bộ bảo vệ từ 15h ngày 18/01/2019 (bút lục 129). Ông
Nguyễn Văn T đại diện cho công ty I cho rằng chỉ có một biên bản làm việc duy nhất
giữa ông và ông Cao Đức D ngày 18/01/2019 vào lúc 14 giờ 40 phút với nội dung là
bàn giao tài sản và nội dung công việc hoàn toàn không có nội dung nói về việc công
ty I đơn phương chấm dứt hợp đồng và tự nguyện bồi thường. Biên bản làm việc mà
nguyên đơn cung cấp cho Tòa án là giả tạo chứng cứ đã có sự chèn dòng vào biên
bản.
Do biên bản làm việc ngày 18/01/2019 bị đơn cung cấp thì trong văn bản không
có một số nội dung được thể hiện như trong biên bản làm việc ngày 18/1/2019 của

126 / 158
nguyên đơn cung cấp. Vì vậy, Tòa án đã tiến hành trưng cầu giám định biên bản làm
việc ngày 18/01/2019 của nguyên đơn cung cấp (được ký hiệu là A) xem có sự chèn
thêm dòng hay không. Tại kết luận giám định số 3828/C09B ngày 19/9/2019 của Phân
viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: các nội dung: “ tự ý
đơn phương chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ trước thời hạn với bên B”;
“ từ lúc 15 giờ 00 phút ngày 18 tháng 01 năm 2019”; “ an toàn tuyệt đối. Bên A
không có bất kỳ văn bản phản ánh gì về chất lượng dịch vụ bảo vệ của bên B”; “ là
vì tôn trọng khách hàng chứ hoàn toàn không có nghĩa là sự thỏa thuận chấm dứt hợp
đồng”; “ Bên A đồng ý tự nguyện bồi thường toàn bộ thời gian còn lại của hợp đồng
cho bên B và bên A sẽ tự chịu mọi trách nhiệm trước bên B và pháp luật về việc đã
ngang nhiên tự ý đơn phương chấm dứt Hợp đồng trước thời hạn với bên B” là được
tạo lập thêm so với nội dung còn lại “ Biên bản làm việc” đề ngày 18 tháng 01 năm
2019 (ký hiệu A).
Tòa án đã công khai kết luận giám định trên cho cả đại diện nguyên đơn và đại
diện của bị đơn tiếp cận. Nhưng người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không
có ý kiến phản đối gì đối với kết luận giám định của Phân viện khoa học hình sự tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời tại phiên tòa ông Nguyễn Duy N đại diện cho
nguyên đơn còn cho rằng nguyên đơn cũng không cần sử dụng đến biên bản làm việc
ngày 18/01/2019 mà nguyên đơn cung cấp chỉ cần dựa vào việc theo yêu cầu của ông
Nguyễn Văn T yêu cầu bên công ty B phải bàn giao ngay tài sản và nội dung công
việc cùng với việc đuổi bảo vệ khỏi công trình là đủ chứng cứ chứng minh công ty I
tự ý chấm dứt hợp đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy, qua kết luận giám định đã chứng tỏ công ty bảo vệ B
đã có hành vi gian dối, không trung thực, đã tạo dựng thêm chứng cứ để khởi kiện.
Đây là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, là một pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực
thương mại điều quan trọng nhất đó là sự trung thực nhưng Công ty bảo vệ B đã không
trung thực trong việc cung cấp chứng cứ. Vì vậy, Hội đồng xét xử đề nghị Công ty
bảo vệ B nghiêm túc rút kinh nghiệm và biên bản làm việc ngày 18/01/2019 do công
ty bảo vệ B cung cấp không được xem là chứng cứ.
Như vậy, cho đến ngày 18/01/2019 thì Công ty I chưa phát hành bất kỳ một
thông báo nào đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo vệ trước thời hạn với công ty bảo
vệ B và đồng thời cũng không có văn bản nào yêu cầu Công ty bảo vệ B rút toàn bộ
bảo vệ tại Công trình nhà máy Nyan Kids Đ. Công ty I cũng không có văn bản nào
ủy quyền cho ông Nguyễn Văn T là nhân viên của công ty I được đại diện cho Công
ty I đứng ra giải quyết công việc chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ trước
thời hạn với công ty bảo vệ B. Như vậy, Công ty bảo vệ B chỉ căn cứ vào buổi làm
việc với ông Nguyễn Văn T và theo ý kiến của ông T là bàn giao tài sản và các nội
dung công việc sau cho cho rút toàn bộ bảo vệ khỏi công trình nhà máy Nyan Kids Đ
là hoàn toàn vi phạm khi thực hiện hợp đồng. Do vậy, Công ty bảo vệ B khởi kiện
yêu cầu Công ty I phải bồi thường số tiền 45.000.000 đồng do công ty I đơn phương
chấm dứt hợp đồng là không có cơ sở để chấp nhận.
[3] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn
a/ Tại phiên tòa hôm nay ông Trương Thanh T là người đại diện theo ủy quyền
của Công ty cổ phần I rút một phần yêu cầu phản tố không yêu cầu Công ty B phải
bồi thường 99.000.000 đồng tiền công ty I thuê bảo vệ từ ngày 19/01/2019 đến tháng
4/2019. Việc rút một phần yêu cầu phản tố này của bị đơn là hoàn toàn tự nguyện. Vì

127 / 158
vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn theo
quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.
b/ Căn cứ vào hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ bảo vệ số 1138/01/2019-
HĐBV ngày 16/01/2019 được ký kết giữa Công ty Cổ phần I và Công ty TNHH Dịch
vụ bảo vệ L đã thể hiện ngày 16/01/2019 thì Công ty I thuê Công ty TNHH Dịch vụ
bảo vệ L cung cấp dịch vụ bảo vệ tại địa chỉ công trình nhà máy Nyan Kids Đ bắt đầu
từ ngày 20/01/2019. Điều này cho thấy mặc dù đến thời điểm ngày 18/01/2019 Công
ty I chưa có văn bản chính thức nào yêu cầu Công ty bảo vệ B phải rút bảo vệ ra khỏi
địa điểm được bảo vệ và đề nghị chấm dứt hợp đồng bảo vệ với Công ty bảo vệ B
nhưng vào ngày 16/01/2019 thì công ty I đã ký hợp đồng dịch vụ bảo vệ với công ty
bảo vệ L, điều này thể hiện rõ ý chí chủ quan của công ty I đã muốn dừng việc cung
cấp dịch vụ bảo vệ từ Công ty bảo vệ B và điều này cũng được thể hiện rõ tại Thông
báo ngày 19/01/2019 của công ty I gửi công ty bảo vệ B đề nghị Công ty bảo vệ B dừng
cung cấp dịch vụ trước ngày 20/01/2019.
Tại phiên tòa thì ông Trương Thanh T đại diện cho bị đơn cũng thừa nhận là công
ty I không còn tin tưởng nhân viên bảo vệ của công ty B nữa. Như vậy, nhìn sự việc
một cách khách quan thì vấn đề chính để dẫn đến việc hai bên không tiếp tục thực hiện
hợp đồng bảo vệ với nhau nữa là xuất phát từ việc mất mát tài sản trên công trình và
hai bên chưa có cách giải quyết ổn thỏa. Từ đó, dẫn đến việc mỗi bên có cách giải quyết
vấn đề khác nhau về cả hai đều muốn chấm dứt hợp đồng nhưng mỗi bên lựa chọn cách
giải quyết khác nhau mà không có sự trao đổi, thống nhất với nhau. Như vậy, đây là
lỗi của hai bên và điều này cũng thể hiện việc công ty bảo vệ B rút bảo vệ khỏi công
trình xảy ra sau hai ngày công ty I ký hợp đồng bảo vệ với công ty TNHH Dịch vụ bảo
vệ L.
Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, đối với yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần I
về việc yêu cầu Công ty bảo vệ B phải bồi thường số tiền 45.000.000 đồng (Bốn mươi
lăm triệu đồng) do công ty bảo vệ B tự ý chấm dứt hợp đồng là hoàn toàn không có cơ
sở đề chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án công ty I có yêu cầu
Tòa án tiến hành trưng cầu giám định biên bản làm việc ngày 18/01/2019 do Công ty
bảo vệ B cung cấp và kết quả là biên bản làm việc ngày 18/01/2019 của nguyên đơn có
sự tạo lập thêm nội dung. Theo phiếu thu số 05 ngày 18/11/2019 của Phân viện khoa
học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh thì chi phí giám định là 1.500.000 đồng
. Kết quả giám định chứng minh yêu cầu giám định của bị đơn là có căn cứ vì vậy căn
cứ vào Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự Công ty bảo vệ B phải nộp toàn bộ chi phí giám
định. Công ty I đã tạm ứng toàn bộ chi phí giám định vì vậy Công ty bảo vệ B phải trả
lại cho Công ty I số tiền chi phí giám định là 1.500.000đ (Một triệu, năm trăm ngàn
đồng)
Về án phí:
- Công ty bảo vệ B phải nộp án phí trên phần yêu cầu không được chấp nhận
gồm: 45.000.000 đồng (tiền công ty I bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng) +
56.661.292 đồng (một phần tiền phạt vi phạm do chậm thanh toán phí dịch vụ bảo vệ)
45.000.000 đồng + 56.661.292 đồng = 101.661.292 đồng x 5% = 5.083.064
đồng
- Công ty I phải nộp án phí trên số tiền 45.000.000 đồng không được chấp

128 / 158
nhận là: 3.000.000 đồng
Ngoài ra, Công ty I phải nộp thêm 3.000.000đồng tiền án phí trên số tiền phải thanh
toán phí dịch vụ bảo vệ và tiền phạt vi phạm cho công ty B
Tổng cộng số tiền án phí Công ty I phải nộp là: 6.000.00đ (Sáu triệu đồng)
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39;
Điều 160,161,228, 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 11,74,78,85, 300,
301,306 Luật Thương mại, Điều 357,468 Bộ luật dân sự 2015; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
I/ Chấp nhận một yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo
vệ B
1/ Buộc Công ty Cổ phần I phải thanh toán phí dịch vụ bảo vệ còn thiếu từ tháng
12/2018 đến ngày 18/01/2019 cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B với
số tiền là: 23.709.678 đồng (Hai mươi ba triệu, bảy trăm lẻ chín ngàn, sáu trăm bảy mươi
tám đồng) và tiền phạt vi phạm hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ chậm thanh toán phí dịch
vụ bảo vệ là: 1.896.774 đồng (Một triệu, tám trăm chín mươi sáu ngàn, bảy trăm bảy
mươi bốn đồng). Tổng cộng là: 25.606.452 đồng (Hai mươi lăm triệu, sáu trăm lẻ sáu
ngàn, bốn trăm năm mươi hai đồng).
2/ Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Cổ phần I tự nguyện trả tiền lãi do chậm
thực hiện nghĩa vụ thanh toán phí dịch vụ bảo vệ với số tiền là: 3.162.396 đồng(Ba triệu,
một trăm sáu mươi hai ngàn, ba trăm chín mươi sáu đồng).
- Thời gian thanh toán: Thanh toán làm một lần kể từ khi bản án có hiệu lực
pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi
hành án xong, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
II/ Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn
dịch vụ bảo vệ B về những yêu cầu sau:
1/ Không chấp nhận về việc yêu cầu Công ty Cổ phần I phải bồi thường do đơn
phương chấm dứt hợp đồng dịch vụ bảo vệ trước thời hạn với số tiền là: 45.000.000
đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng)
2/ Không chấp nhận về việc yêu cầu Công ty Cổ phần I phải trả số tiền phạt vi phạm
hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ chậm thanh toán phí dịch vụ bảo vệ với số tiền chênh
lệch không được chấp nhận là: 56.661.292 đồng (Năm mươi sáu triệu, sáu trăm sáu mươi
mốt ngàn, hai trăm chín mươi hai đồng).
III/ Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc không yêu cầu Công
ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ bảo vệ B phải bồi thường 99.000.000 đồng (Chín mươi

129 / 158
chín triệu đồng) tiền công ty Cổ phần I thuê bảo vệ trông coi công trình nhà máy Nyan
Kids Đồng Nai từ ngày 19/01/2019 đến tháng 4/2019.
IV/ Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần I về việc yêu
cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B phải bồi thường số tiền 45.000.000
đồng (Bốn mươi lăm triệu đồng) do Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B tự ý
chấm dứt hợp đồng bảo vệ trước hạn.
V/ Về chi phí tố tụng: Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B có trách nhiệm
trả lại cho Công ty Cổ phần I tiền chi phí giám định là 1.500.000 đồng (Một triệu năm
trăm ngàn đồng).
VI/ Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B phải nộp án phí là: 5.083.064đ
(Năm triệu, không trăm tám mươi ba ngàn, không trăm sáu mươi bốn đồng) được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000 đồng ( Ba triệu đồng) theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí số 0011203 ngày 30/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn dịch vụ bảo vệ B còn phải nộp thêm tiền án phí là: 2.083.064
đồng (Hai triệu, không trăm tám mươi ba ngàn, không trăm sáu mươi bốn đồng).
- Công ty Cổ phần I phải nộp án phí là: 6.000.000đ (Sáu triệu đồng) được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là: 3.600.000đ (Ba triệu sáu trăm ngàn đồng)
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0011374 ngày 08/7/2018 của Chi cục Thi hành
án dân sự Quận 6. Công ty Cổ phần I còn phải nộp thêm tiền án phí là: 2.400.000 đồng
(Hai triệu bốn trăm ngàn đồng)
VII/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án
VIII/ Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự.

Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM


- Đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Viện kiểm sát nhân dân Quận 6
- Chi cục Thi hành án dân sự (đã ký và đóng dấu)
Quận 6
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.

Nguyễn Thị Thanh Nhàn

130 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 07/2018/KDTM-ST
Ngày 27/02/2018
V/v tranh chấp: “ Hợp đồng cung
ứng dịch vụ - Hợp đồng gia công”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Ngọc Thúy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Phạm Ngọc Nguyên
2. Ông Phạm Thành Ngôn
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Bé Thu – Thư ký Tòa án
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Mỹ Duyên - Kiểm sát viên

Ngày 27 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số
48/2017/TLST–KDTM ngày 08 tháng 6 năm 2017, về việc tranh chấp: “Hợp đồng
cung ứng dịch vụ - Hợp đồng gia công”
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-KDTM ngày
03/01/2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Xây Dựng Điện P
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn D – Chức vụ Chủ tịch hội
đồng thành viên kiêm giám đốc (Có mặt)
Trụ sở chính: ấp H2, xã M, huyện P, tỉnh G.
Địa chỉ liên lạc: khóm P, phường Q, thành phố X, tỉnh G.
2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm Hữu hạn M
Đại diện theo pháp luật: Ông Lê Quốc M - Chức vụ: Giám đốc công ty
TNHH M.
Địa chỉ: phường K, thành phố X, tỉnh G (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Phần trình bày của ông Trần Văn D đại diện theo pháp luật của nguyên
đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P: Công ty trách nhiệm hữu
hạn Xây Dựng Điện P và Công ty trách nhiệm hữu hạn M có ký các hợp đồng cụ
thể:
131 / 158
+ Hợp đồng số 2602/2016/HĐTC/CTY TNHH M – CTY ĐIỆN P CÔNG
TRÌNH: Lắp đặt điện bệnh viện đa khoa P ngày 26/02/2016 là hợp đồng thi công
lắp đặt Công ty trách nhiệm hữu hạn M đã thi công lắp đế ổ cắm, đế công tắc, tủ
điện, đóng nẹp, đi dây và lắp thiết bị ổ cắm, công tắc, CB, tủ điện phòng được 2
tầng trên tổng số là 3 tầng. Căn cứ theo hợp đồng thì Công ty trách nhiệm hữu
hạn Xây Dựng Điện P phải được tính công ít nhất là 50% giá trị hợp đồng
tức là 35.000.000 đồng và công ty trách nhiệm hữu hạn M chỉ ứng cho Công ty
trách nhiệm hữu hạn Xây Dựng Điện P số tiền 7.500.000 đồng.
+ Hợp đồng số 2902/2016/HĐTC/CTY TNHH M – CTY ĐIỆN P HẠNG
MỤC: Cung ứng vật tư điện bệnh viện đa khoa P ngày 29/02/2016 là hợp đồng
cung cấp vật tư với tổng giá trị là 63.488.000 đồng (Sáu mươi ba triệu bốn trăm
tám mươi tám nghìn đồng), Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P đã
hoàn chỉnh hầu hết các hạng mục theo thỏa thuận trong hợp đồng trừ giá trị một
hạng mục còn thiếu với giá trị là 78.000 đồng (Bảy mươi tám nghìn đồng), thực
tế cung cấp là 63.410.000 đồng (Sáu mươi ba triệu bốn trăm mười nghìn đồng).
Từ tháng 2/2016, Công ty trách nhiệm hữu hạn M vi phạm trong việc thanh
toán tiền mua hàng và cam kết trong vòng 03 tuần sẽ thanh toán tiền mua hàng ở
bệnh viện P với số tiền 63.410.000 đồng (Sáu mươi ba triệu bốn trăm mười nghìn
đồng), nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn M chỉ hứa mà không thực hiện.
Tổng cộng hai công trình thực hiện bệnh viện P, Công ty trách nhiệm hữu hạn
M còn nợ Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây Dựng Điện P số tiền 90.910.000
đồng.
Ngoài ra, Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây Dựng Điện P và Công ty trách
nhiệm hữu hạn M có thỏa thuận cung cấp vật tư và thi công lắp đặt công trình Ủy
ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh G nhưng không làm hợp đồng với tổng giá trị
vật tư và nhân công là 77.232.080 đồng (Bảy mươi bảy triệu hai trăm ba mươi
hai nghìn không trăm tám mươi đồng). Từ tháng 4/2016 đến nay Công ty trách
nhiệm hữu hạn M chỉ thanh toán được một phần, còn nợ lại số tiền 12.232.080
đồng (Mười hai triệu hai trăm ba mươi hai nghìn không trăm tám mươi đồng)
chưa thanh toán.
Tại phiên tòa, ông D là người đại diện cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây
dựng Điện P xác định lại yêu cầu khởi kiện ông đồng ý giảm số tiền 23.142.048
đồng trong tổng số tiền nợ vật tư, nhân công 103.142.080 đồng (Một trăm lẻ ba
triệu một trăm bốn mươi hai nghìn không trăm tám mươi đồng) cho Công ty trách
nhiệm hữu hạn M, chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Công ty trách nhiệm hữu
hạn M có trách nhiệm thanh toán số tiền còn nợ cho Công ty trách nhiệm hữu hạn
Xây Dựng Điện P với tổng số tiền: 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng) và
không yêu cầu tính lãi.

* Phần trình bày của bị đơn Công ty TNHH M vắng mặt nhưng có ý kiến
trình bày ngày 27/8/2017 và ngày 12/9/2017 thể hiện nội dung:
Theo hợp đồng số 2602/2016/HĐTC/ CTY TNHH – CTY ĐIỆN P, ngày
26/02/2016 nội dung thi công lắp đặt thiết bị điện BVĐK P, đơn giá trong hợp
đồng là đơn giá lắp đặt hoàn chỉnh theo chi tiết từng thiết bị. Tuy nhiên trong quá
trình thi công Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P chỉ thi công được

132 / 158
phần đóng nẹp và đi dây một số phòng tầng trệt và lầu 1 rồi tự ý bỏ ngang không
tiếp tục thi công làm ảnh hưởng đến tiến độ vi phạm mục 2 điều VI của hợp đồng
vì thế Công ty trách nhiệm hữu hạn M không có trách nhiệm phải thanh toán theo
hợp đồng và yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P hoàn trả tiền
tạm ứng hợp đồng.
Theo hợp đồng số 2902/2016/HĐTC/CTY TNHH M- CTY ĐIỆN P ngày
29/02/2016 cung cấp vật tư điện Bệnh viện đa khoa huyện P. Đồng thời căn cứ
bảng quyết toán đối chiếu công nợ số 08/BGĐ-16 giữa Công ty trách nhiệm hữu
hạn M và Công ty trách nhiệm hữu hạn Điện P thì phần vật tư của cả 02 công
trình Bệnh viện đa khoa P và Ủy ban nhân dân xã T tổng nợ Công ty trách nhiệm
hữu hạn M còn nợ Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P là 48.142.000
đồng, phần tiền nhân công lắp đặt thiết bị điện của công trình Ủy ban nhân
dân xã T 12.000.000 đồng, không đồng ý thanh toán phần 8.000.000 đồng tiền
nhân công lắp đặt ống và nhà vệ sinh với lý do: Công ty trách nhiệm hữu hạn xây
dựng Điện P thi công sai kỹ thuật dẫn đến tràn bồn nước gây hư hại hệ thống
laphông và sơn tường của công trình nên Công ty trách nhiệm hữu hạn M phải
tốn tiền chi phí khắc phục sửa chữa. Công ty trách nhiệm hữu hạn M thống nhất
tổng số nợ còn lại của Công ty trách nhiệm hữu hạn M với Công ty trách nhiệm
hữu hạn xây dựng Điện P là 60.142.000 đồng (Sáu mươi triệu một trăm bốn
mươi hai nghìn đồng) và yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P
xuất hóa đơn GTGT phần vật tư của công trình Ủy ban nhân dân xã T là
57.232.000 đồng.
Tại phiên tòa, ông D đại diện theo pháp luật của nguyên đơn rút lại một phần
yêu cầu khởi kiện đối với số tiền nợ vật tư, nhân công 23.142.048 đồng, tiền lãi
suất phát sinh từ tháng 02/2016 theo lãi suất quá hạn do ngân hàng nhà nước quy
định là 9.900.000 đồng và không yêu cầu tính lãi, chỉ xác định yêu cầu khởi kiện
buộc bị đơn có trách nhiệm thanh toán số tiền nợ vật tư, tiền nhân công 80.000.000
đồng (Tám mươi triệu đồng), không đồng ý với trình bày của bị đơn chỉ còn nợ
với số tiền 60.142.000 đồng (Sáu mươi triệu một trăm bốn mươi hai nghìn đồng)
và yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P xuất hóa đơn GTGT
phần vật tư của công trình Ủy ban nhân dân xã T là 57.232.000 đồng.
Bị đơn không có yêu cầu phản tố và vắng mặt tại phiên tòa nhưng có ý kiến
trình bày phía bị đơn chỉ thừa nhận tổng số nợ còn lại của Công ty trách nhiệm
hữu hạn M với Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P là 60.142.000 đồng
(Sáu mươi triệu một trăm bốn mươi hai nghìn đồng) và yêu cầu Công ty trách
nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P xuất hóa đơn GTGT phần vật tư của công trình
Ủy ban nhân dân xã T là 57.232.000 đồng.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát
biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký
phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi
thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định
của bộ luật tố tụng dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm
hữu hạn xây dựng Điện P đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn M, buộc bị đơn có
trách nhiệm thanh toán số tiền 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng)

133 / 158
cho nguyên đơn. Tại phiên tòa, nguyên đơn không yêu cầu tính lãi suất phát sinh
từ tháng 02/2016 theo lãi suất quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định là
9.900.000 đồng và lãi suất phát sinh tiếp theo nên đình chỉ đối với yêu cầu tính lãi
của Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P. Đồng thời, lưu ý đối với việc
Tòa án để thời gian đưa vụ án ra xét xử là chưa thực hiện đúng theo quy định tại
khoản 1 Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Công ty TNHH M mặc dù được tòa án tiến
hành tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng Công ty TNHH M vẫn
không tham dự phiên tòa nên vụ án được tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, ông D là người đại diện theo pháp luật của Công ty trách
nhiệm hữu hạn xây dựng Điện P rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền
nợ vật tư, nhân công 23.142.048 đồng, tiền lãi suất phát sinh từ tháng 02/2016
theo lãi suất quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định là 9.900.000 đồng và không
yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố
tụng dân sự để đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu
hạn xây dựng Điện P đối với số tiền nợ vật tư, nhân công 23.142.048 đồng và yêu
cầu tính lãi.
[2] Về thẩm quyền: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P yêu
cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn M phải có trách nhiệm trả số tiền còn nợ tiền
vật tư, nhân công là 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng). Đây là tranh chấp
phát sinh trong kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có kinh doanh với
nhau và đều có mục đích lợi nhuận theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố
tụng dân sự. Đồng thời, trụ sở của Công ty Trách nhiệm hữu hạn M tại phường
K, thành phố X, tỉnh G nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
thành phố Long Xuyên theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều
39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án: Năm 2015, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M thuê
công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P thi công hạng mục điện, nước Ủy
ban nhân dân xã T, huyện S. Đến ngày 26/02/2016 và 29/02/2016, Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P và công ty Trách nhiệm hữu hạn M đã thỏa thuận
ký hợp đồng số 2602/2016/HĐTC/CTY TNHH M-CTY ĐIỆN P và hợp đồng số
2902/2016/HĐTC/CTY TNHH M-CTY ĐIỆN P về lắp đặt điện và cung ứng vật
tư điện Bệnh viện đa khoa P. Quá trình thực hiện hợp đồng, công ty Trách nhiệm
hữu hạn Xây dựng Điện P và công ty Trách nhiệm hữu hạn M có quyết toán công
nợ với nhau.

134 / 158
Theo đó, công ty Trách nhiệm hữu hạn M còn nợ công ty Trách nhiệm hữu hạn
xây dựng Điện P số tiền vật tư là 48.142.000 đồng. Tiền nhân công là
55.000.000 đồng. Tổng cộng 103.142.000 đồng, công ty Trách nhiệm hữu hạn M
không thực hiện nghĩa vụ trả tiền nên ngày 21/4/2017, Công ty Trách nhiệm hữu
hạn Xây dựng Điện P khởi kiện đến tòa án yêu cầu công ty Trách nhiệm hữu hạn
M có nghĩa vụ trả cho công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P số tiền
103.142.000 đồng và lãi suất phát sinh từ tháng 02/2016 theo lãi suất quá hạn do
ngân hàng nhà nước quy định là 9.900.000 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy, đại
diện theo pháp luật của nguyên đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng
Điện P tại phiên tòa xác định rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với tiền nợ
vật tư, nhân công 23.142.048 đồng, tiền lãi suất phát sinh từ tháng 02/2016 theo
lãi suất quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định là 9.900.000 đồng và không yêu
cầu tính lãi, chỉ yêu cầu trả tiền nợ vật tư, nhân công còn lại số tiền là 80.000.000
đồng (Tám mươi triệu đồng).
Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do phía nguyên đơn cung
cấp thể hiện, đối với khoản tiền còn nợ và phía bị đơn cũng thừa nhận việc ký kết
hợp đồng nên các bên có thỏa thuận việc thực hiện thi công các công trình là có
thật việc thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật nên được công nhận.
Các bên không thống nhất đối với số tiền công cũng như tiền còn nợ lại từ việc
thực hiện hợp đồng thi công công trình, ông D đại diện theo pháp luật của nguyên
đơn xác định theo hợp đồng số 2602, ngày 26/02/2016 nội dung thi công lắp đặt
thiết bị điện Bệnh viện Đa khoa P, đơn giá trong hợp đồng là đơn giá lắp đặt hoàn
chỉnh theo chi tiết thiết bị Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây Dựng Điện P phải
được tính công ít nhất là 50% giá trị hợp đồng tức là 35.000.000 đồng nhưng Công
ty Trách nhiệm hữu hạn M chỉ ứng cho công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây Dựng
Điện P số tiền 7.500.000 đồng, còn phía bị đơn có văn bản trình bày ý kiến cho
rằng theo hợp đồng số 2602, ngày 26/02/2016 nội dung thi công lắp đặt thiết bị
điện Bệnh viện Đa khoa P, đơn giá trong hợp đồng là đơn giá lắp đặt hoàn chỉnh
theo chi tiết thiết bị nhưng công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P chỉ thi
công phần đóng nẹp và đi dây một số tầng trệt và lầu 1 rồi tự ý bỏ ngang làm ảnh
hưởng đến tiến độ nên Công tyTrách nhiệm hữu hạn M không có trách nhiệm
thanh toán theo hợp đồng và yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng
Điện P hoàn trả tiền tạm ứng hợp đồng.
Đối với hợp đồng số 2602, ngày 26/02/2016 nội dung cung cấp vật tư điện
Bệnh viện Đa khoa P với tổng giá trị là 63.488.000 đồng (Sáu mươi ba triệu bốn
trăm tám mươi tám nghìn đồng), công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây Dựng Điện P
đã hoàn chỉnh hầu hết các hạng mục theo thỏa thuận trong hợp đồng trừ giá trị
một hạng mục còn thiếu với giá trị là 78.000 đồng (Bảy mươi tám nghìn đồng),
thực tế cung cấp là 63.410.000 đồng (Sáu mươi ba triệu bốn trăm mười nghìn
đồng). Ngoài ra, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây Dựng Điện P và Công ty
Trách nhiệm hữu hạn M có thỏa thuận cung cấp vật tư và thi công lắp đặt công
trình Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh G nhưng không làm hợp đồng với tổng
giá trị vật tư và nhân công là 77.232.080 đồng (Bảy mươi bảy triệu hai trăm ba
mươi hai nghìn không trăm tám mươi đồng). Từ tháng 4/2016 đến nay Công ty
Trách nhiệm hữu hạn M chỉ thanh toán được một phần, còn nợ lại số tiền

135 / 158
12.232.080 đồng (Mười hai triệu hai trăm ba mươi hai nghìn không trăm tám
mươi đồng) chưa thanh toán. Bị đơn Công ty M thống nhất còn nợ công ty Trách
nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P 48.142.000đ, tiền nhân công lắp đặt thiết bị điện
công trình UBND xã T 12.000.000đ. Tổng cộng 60.142.000 đồng. Không đồng ý
thanh toán 8.000.000 đồng tiền nhân công lắp đặt ống và nhà vệ sinh vì công ty
Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P thi công sai kỹ thuật dẫn đến tràn bồn
nước, gây hư hại hệ thống laphông và sơn tường nên Công ty M phải tốn tiền khắc
phục. Yêu cầu công ty Điện P xuất hóa đơn GTGT của công trình Ủy ban nhân
dân xã T là 57.232.000 đồng
Hội đồng xét xử nhận thấy, giữa công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng
Điện P và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng M thống nhất số tiền còn nợ
vật tư là 48.142.000 đồng. Do, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M vi phạm nghĩa
vụ thanh toán tiền nên Hội đồng xét xử căn cứ vào 92 của bộ luật tố tụng dân sự
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P
khởi kiện đối với số tiền này là có căn cứ.
Riêng đối với tiền nhân công và tiền vật tư trang thiết bị thực hiện theo các
hạng mục tại hợp đồng do các bên thỏa thuận, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M
cho rằng Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P thực hiện không đúng
hợp đồng, nên chỉ đồng ý thanh toán 12.000.000 đồng trên tổng số tiền 20.000.000
đồng tiền nhân công thực hiện công trình của Ủy ban nhân dân xã T, không đồng
ý số tiền nhân công 35.000.000 đồng của công trình Bện viện Đa khoa P. Nhận
thấy, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M cho rằng Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Xây dựng Điện P thực hiện không đúng hợp đồng nhưng Công ty Trách nhiệm
hữu hạn M không có chứng cứ chứng minh. Sau khi quyết toán công nợ, phía
Công ty Trách nhiệm hữu hạn M vẫn không đối chiếu tiền nhân công và quá trình
tòa án giải quyết vụ án, công ty Trách nhiệm hữu hạn M cũng không cung cấp
chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ, Công ty Trách
nhiệm hữu hạn M chỉ cung cấp bản tự khai, không tham gia các phiên hòa giải,
đối chất. Do đó, việc Công ty Trách nhiệm hữu hạn M không chấp nhận trả số tiền
nhân công và các khoản tiền vật tư còn lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây
dựng Điện P là không có căn cứ. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền nhân công và thiết bị vật tư còn lại
là 55.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa ông D đại diện theo pháp luật của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P trình bày ông biết hiện nay Công
ty Trách nhiệm hữu hạn M đang gặp khó khăn về tài chính nên ông cũng đồng ý
giảm một phần tiền trong số tiền nhân công thêm 23.142.080 đồng cho Công ty
Trách nhiệm hữu hạn M, đối với ý kiến của nguyên đơn đồng ý giảm một phần số
tiền cho bị đơn là có lợi cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn M nên Hội đồng xét
xử xem xét chấp nhận.
Tổng cộng đối với hai khoản tiền theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
được chấp nhận nên Công ty Trách nhiệm hữu hạn M phải có trách nhiệm thanh
toán số tiền còn nợ vật tư, trang thiết bị và tiền nhân công cho phía nguyên đơn là
80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng)
Riêng, đối với yêu cầu của bị đơn với nội dung công ty Trách nhiệm hữu hạn
Xây dựng Điện P sẽ xuất hóa đơn GTGT cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn M

136 / 158
xuất hóa đơn GTGT của công trình Ủy ban nhân dân xã T là 57.232.000 đồng.
Do, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M không có yêu cầu phản tố và phần yêu cầu
này nằm ngoài yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử không xem
xét giải quyết. Trường hợp, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M có phát sinh tranh
chấp sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[9] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P không phải chịu án phí sơ
thẩm nên được nhận lại tiền tạm ứng án phí công ty đã nộp là 2.578.552 đồng (Hai
triệu năm trăm bảy mươi tám nghìn năm trăm năm mươi hai đồng) theo biên lai
thu số 0015537 ngày 07/6/2017 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Long
Xuyên.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn M phải chịu tiền án phí kinh doanh thương
mại sơ thẩm theo quy định.
Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
+ Điều 385, Điều 386, Điều 388, Điều 518, Điều 519, Điều 520, Điều 542, Điều
547, Điều 551 và Điều 552 Bộ luật Dân sự;
+ Điều 74, Điều 78, Điều 79, Điều 85, Điều 87, Điều 178, Điều 179, Điều
180, Điều 181, Điều 182, Điều 183, Điều 292, Điều 297 Luật thương mại;
+ Khoản 1 Điều 39, Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 143,
khoản 1 Điều 146, khoản 1 Điều 147, Điều 150, Điều 186, khoản 1 Điều 227,
khoản 1 Điều 228, Điều 240, khoản 2 Điều 244, khoản 1 Điều 271, Điều 273, Điều
278 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây
dựng Điện P đối với Công ty Trách nhiệm hữu hạn M
1.1. Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn M có trách nhiệm trả cho Công ty Trách
nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P số tiền 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng).
1.2. Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải
thi hành án không thi hành khoản tiền nêu trên, thì hàng tháng còn phải trả lãi theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng
với số tiền và thời gian chưa thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các
khoản tiền.
2/- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây
dựng Điện P đối với tiền nợ vật tư, nhân công 23.142.048 đồng (Hai mươi ba triệu
một trăm bốn mươi hai nghìn không trăm bốn mươi tám đồng), tiền lãi suất phát
sinh từ tháng 02/2016 theo lãi suất quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định là
9.900.000 đồng và không yêu cầu không tính lãi suất.
3/- Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:
3.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P không phải chịu án phí sơ
thẩm nên được nhận lại tiền tạm ứng án phí công ty đã nộp là 2.578.552 đồng (Hai

137 / 158
triệu năm trăm bảy mươi tám nghìn năm trăm năm mươi hai đồng) theo biên lai thu
số 0015537 ngày 07/6/2017 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Long Xuyên.
3.2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn M phải nộp tiền án phí sơ thẩm với số tiền là
4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long
Xuyên.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Điện P được quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng, Công ty Trách nhiệm hữu hạn M được
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết tại địa phương nơi cư ngụ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G giải
quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành
án dân sự./.
(Đã giải thích Điều 26 Luật Thi hành án dân sự)

Nơi nhận:
- Các đương sự “ Để thi hành”; TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- VKSND.TPLX; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- TAND.An Giang;
- Lưu: hồ sơ;VP.

Trịnh Ngọc Thúy

138 / 158
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ PHỦ LÝ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH HÀ NAM

Bản án số: 02/2018/KDTM-ST


Ngày 05-11-2018.
V/v “Tranh chấp hợp đồng
cung ứng dịch vụ vận chuyển”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ – TỈNH HÀ NAM

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:Bà Nguyễn Thị Mai Oanh.
Hội thẩm nhân dân:Ông Vũ Ngọc Thi và bà Nguyễn Thị Chương.
- Thư ký phiên tòa:Bà Trần Thị Chính – Là Thẩm tra viên Toà án nhân dân
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam tham
gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thúy Tình - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2018/TLST-KDTM ngày
12 tháng 01 năm 2018 về tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ vận chuyển theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/QĐXXST-KDTM ngày 11 tháng 4 năm
2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2018/QĐST-KDTM ngày 08 tháng 5 năm
2018, giữa các đương sự; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 02/2018/QĐST-
KDTM ngày 07 tháng 6 năm 2018; Quyết định tạm đình chỉ số 01/2018/QĐST-
KDTM ngày 05 tháng 7 năm 2018; Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số
01/2018/QĐST-KDTM ngày 26 tháng 9 năm 2018 và Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 06/2018/QĐXXST-KDTM ngày 01 tháng 10 năm 2018; Quyết định hoãn
phiên tòa số 05/2018/QĐST-KDTM ngày 18/10/2018 giữa:
* Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn K.
Địa chỉ trụ sở: Số 51, Y, phường 2, quận T, thành ph.
Đại diện theo pháp luật: Ông M - Chức vụ: Tổng Giám đốc. Hợp đồng ủy
quyền ngày 04/9/2017).
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Huy Q - Chức vụ: Giám đốc điều hành.
Đại diện theo ủy quyền lại: Công ty luật Hợp Danh IN (Hợp đồng ủy quyền
ngày 06/9/2017).
Địa chỉ trụ sở: Số 24, ngõ 463 phố Đ, phường V, quận B, thành phố H Người
đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Văn T; Chức vụ: Giám đốc.

139 / 158
Người đại diện theo ủy quyền lại: Bà Lê Thị Kim A, sinh năm 1991 và bà
Cao Thị Tuyết N, sinh năm 1994; cùng địa chỉ: Số nhà 24, ngõ 463 phố Đ, phường
V, quận B, thành phố H. (Hợp đồng ủy quyền ngày 25/01/2018).
* Bị đơn: Công ty Cổ phần U.
Địa chỉ trụ sở: Cụm Công nghiệp K, xã K, thành phố P, tỉnh Hà Nam.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T; Chức vụ: Giám đốc.
(Phiên toà có mặt bà Nh, bà A; Vắng mặt bị đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, các lời khai của đại diện theo ủy quyền lại của nguyên
đơn và các tài liệu chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án thì nội dung vụ án
như sau:
Cuối năm 2013 Công ty Trách nhiệm hữu hạn K (sau đây gọi tắt là K) có thực
hiện dịch vụ vận chuyển và nâng hạ hàng hóa theo yêu cầu của Công ty Cổ phần
U (sau đây gọi tắt là U). Việc thực hiện dịch vụ vận chuyển và nâng hạ hàng hóa
(còn gọi là dịch vụ logistics, phiên âm sang tiếng Việt là lo-gi-stic) không được hai
bên lập thành Hợp đồng mà chỉ thực hiện theo yêu cầu bằng lời nói của công ty U.
Sau khi thực hiện dịch vụ cho U theo yêu cầu của U, K đã xuất các hóa đơn
theo từng lần thực hiện dịch vụ, Cụ thể như sau:
- Ngày 31/12/2013, Kixuất 02 hóa đơn cho U có tổng giá trị là: 107.082.450đ
(một trăm linh bảy triệu không trăm tám mươi hai nghìn bốn trăm năm mươi đồng).
Trong đó:
+ Hóa đơn số 0005267 có giá trị là: 48.222.000đ (bốn mươi tám triệu, hai
trăm hai mươi hai nghìn đồng).
+ Hóa đơn số 0005273 có giá trị là :58.860.450đ (năm mươi tám triệu, tám
trăm sáu mươi nghìn, bốn trăm năm mươi đồng).
- Ngày 28/02/2014, K xuất 02 hóa đơn cho U với tổng giá trị là 6.595.313đ
(sáu triệu, năm trăm chín mươi lăm nghìn, ba trăm mười ba đồng).
+ Hóa đơn số 0006340 có giá trị là: 4.062.713đ (bốn triệu không trăm sáu
mươi hai nghìn bảy trăm mười ba đồng).
+ Hóa đơn số 0006341 có giá trị là: 2.532.600đ (hai triệu, năm trăm ba mươi
hai nghìn, sáu trăm đồng).
Như vậy, khối lượng công việc Kđã thực hiện cho U theo dịch vụ logisticscó
tổng giá trị là: 113.677.763đ (một trăm mười ba triệu, sáu trăm bảy mươi bảy nghìn,
bảy trăm sáu mươi ba đồng).
Sau khi Kxuất các hóa đơn theo từng lần vận chuyển thì U vẫn không thực
hiện nghĩa vụ thanh toán cho Ktheo khối lượng công việc đã thực hiện. K đã yêu
cầu rất nhiều lần nhưng U vẫn không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.
Nay K yêu cầu U phải thanh toán tổng số tiền là 200.273.538đ.Trong đó: số
tiền thù lao dịch vụ chậm trả là 113.677.763đ (một trăm mười ba triệu, sáu trăm
bảy mươi bảy nghìn, bảy trăm sáu mươi ba đồng) và tiền lãi chậm trả tiền tạm tính
đến ngày 31/8/2018 là 86.595.775đ (tám mươi sáu triệu, năm trăm chín mươi lăm
nghìn, bảy trăm bảy mươi lăm đồng).

140 / 158
Tổng cộng 200.273.538đ. Ngoài ra U còn có nghĩa vụ thanh toán cho K khoản tiền
lãi tính đến hết ngày hoàn thành nghĩa vụ trả tiền.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn
bản tố tụng của Tòa án cho bị đơn theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn đều
vắng mặt không lý do.
- Tại phiên tòa hôm nay: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện đối với số tiền dịch vụ mà U chưa thanh toán là
113.677.763đ và thay đổi một phần yêu cầu về tính lãi chậm trả. Đề nghị Tòa án
áp dụng khoản 1 Điều 74, Điều 306 Luật thương mại năm 2005 và án lệ số
09/2016/AL ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về xác định lãi suất trung bình trên thị trường…... Buộc U phải thanh toán cho
Kintetsu số tiền chậm thanh toán là113.677.763đ lãi chậm thanh toán tính từ ngày
tiếp theo của ngày xuất hóa đơn đến hết ngày 05/11/2018 và tính tiếp tiền lãi đến
khi thanh toán xong nghĩa vụviệc tính tiền lãi chậm trả do Tòa án quyết định theo
quy định của pháp luật.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự gồm nguyên đơn
và bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Phía
nguyên đơn thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đại diện theo pháp luật của bị đơn chưa thực hiện đúng
các quy định tại khoản 16 Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Đề nghị Hội đồng xét xửáp dụng Điều 30 Điều 35, 147, 227 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015; Điều 74, 82, 306 Luật thương mại năm 2005; Điều 351,
357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97.2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của K.
Buộc U phải có trách nhiệm thanh toán cho K số tiền dịch vụ chưatrả là
113.677.763đ và số tiền lãi chậm trả theo quy định của pháp luật. Án phí sơ thẩm:
Công ty U phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án.
Hội đồng xét xử (HĐXX), thấy:
[1] Về thẩm quyền: Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 thì quan hệ pháp luật tranh chấp kinh doanh thương
mại trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh
Hà Nam theo trình tự sơ thẩm.

141 / 158
[2] Về tố tụng: U là bị đơn trong vụ kiện đã được Tòa án tống đạt hợp lệ và
niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa; Quyết định
tạm ngừng phiên tòa; Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án; Quyết định tiếp
tục giải quyết vụ án và các Giấy triệu tập phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt
không có lý do. Do đó việc xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa là phù hợp với quy
định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về nội dung: Xét hợp đồng dịch vụ vận chuyển hàng hóa giữa Kvà U thì
thấy: các tài liệu đã thu thập được tại Cơ quan Công an thành phố Phủ Lý khi cơ
quan này làm việc với Giám đốc của U năm 2017 thì các hóa đơn mà K xuất trình
với Tòa án phù hợp và được U xác nhận là đúng thể hiện tại văn bản “sổ chi tiết
công nợ” của U nộp tại Công an thành phố Phủ Lý năm 2017. Như vậy hợp đồng
dịch vụ vận chuyển hàng hóa xác lập giữa K và U vào năm 2013, 2014 là có thật,
hoàn toàn tự nguyện. Giao dịch thương mại giữa các pháp nhân đảm bảo trình tự,
thủ tục theo quy định tại khoản 1 Điều 74, Điều 233 (dịch vụ logistics) của Luật
Thương mại năm 2005 nên được pháp luật bảo vệ. Quá trình thực hiện hợp đồng
thì K đã thực hiện đúng hợp đồng ký kết là vận chuyển và nâng hạ hàng hóa, đồng
thời cung cấp hóa đơn chứng từ đầy đủ phù hợp với Điều 74 Luật Thương mại,
nhưng bên U đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền cung ứng dịch vụ theoquy định
tại khoản 1 Điều 85, Điều 87 (về nghĩa vụ của khách hàng đối với bên nhận cung
ứng dịch vụ thanh toán); khoản 6 Điều 236 của Luật Thương mại. Do đó, yêu cầu
khởi kiện của Kđối với khoản tiền dịch vụ mà U chưa trả là 113.677.763đ (tương
ứng với bốn hóa đơn đã xuất trình tại Tòa) được HĐXX chấp nhận.
Đối với yêu cầu đòi tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán của K,
HĐXX thấy: Mặc dù hợp đồng giữa hai bên không có thỏa thuận về tiền lãi khi
một bên vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, căn cứ Điều 306 Luật thương mại và cách
tính lãi suất trung bình trên thị trường được hướng dẫn tại án lệ số 09/2016 án lệ
ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì yêu cầu của
Kintetsu đòi tiền lãi do việc chậm thanh toán từ phía U được HĐXX chấp nhận cụ
thể như sau:

Căn cứ tài liệu do Tòa thu thập và đương sự cung cấp: tại thời điểm hiện tại,
lãi suất cho vay của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển mức thấp nhất là 7,5% và mức
cao nhất là 11,5%; Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mức cho vay thấp nhất là
8% và mức cao nhất là 10,5%; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam mức cho vay thấp nhất là 9,5% và mức cao nhất là 10,5%. Như vậy lãi
suất trung bình trên thị trường của ít nhất ba Ngân hàng nói trên xấp xỉ là
9,583%/năm. Lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Ngân hàng, các
Tổ chức tín dụng lãi suất chậm trả = 150% lãi suất năm. Do đó lãi suất chậm trả
trung bình trên thị trường liên ngân hàng theo quy định tại Điều 306 Luật Thương
mại trong vụ án này được xác định là: 9,583x150%=14,3745%/năm (tức là
1,1979%/tháng).

142 / 158
Căn cứ cách tính thời hạn quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 đối với hai
hóa đơn mà K đã phát hành ngày 31/12/2013 thì thời điểm tính lãi chậm trả được
tính từ ngày01/01/2014 đến hết ngày 05/11/2018 là 58 tháng 05 ngày x
14,3745%/năm= 74.398.958đ (lãi của 58 tháng) + 213.790đ (lãi của 05 ngày) =
74.612.748đ.
Đối với hai hóa đơn mà K đã phát hành ngày28/02/2014 thì thời điểm tính
lãi được tính từ ngày 01/3/2014 đến hết ngày 05/11/2018 là 56 tháng 05 ngày x
14,3745%/năm = 4.424.294đ (lãi của 56 tháng) + 13.192đ (lãi của 05 ngày) =
4.437.486đ
Tổng số tiền lãi chậm trả của bốn hóa đơn tính đến ngày xét xử sơ thẩm
(05/11/2018) là: 79.050.234đ.
Tổng số tiền U phải thanh toán cả tiền thùlaodịch vụ và lãi do chậm trả tiền
(tính đến hết ngày 05/11/2018) là: 113.677.763 + 79.050.234 = 192.727.997đ.
(làm tròn thành 192.728.000đ).
Đối với yêu cầu tính của K tính lãi cho đến khi trả xong toàn bộ nghĩa vụ
thanh toán, đối chiếu với quy định của Điều 306 Luật thương mại năm 2005 là có
căn cứ và được Hội đồng xét xử chấp nhận cụ thể: Kề từ ngày tiếp theo của ngày
xét xử sơ thẩm đến khi án có hiệu lực pháp luật tiền lãi của số tiền thù lao dịch vụ
chậm trả vẫn phải chịu lãi suất trung bình trên thị trường cho đến khi án có hiệu
lực pháp luật. Kể từ khi án có hiệu lực và người có quyền yêu cầu thi hán án thì
tiền lãi chậm thanh toán thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự năm 2015.
[4] Về án phí:
- Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số
97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.Yêu cầu khởi kiện của K được chấp nhận nên Kkhông phải nộp án phí.
- Bị đơn là U phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự thực hiện theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1Điều 74; khoản 1 Điều 85; Điều 87; khoản 6 Điều 233;
Điều 236; Điều 306 Luật thương mại; Khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều
35;khoản 1 Điều 39; Các Điều 147; 227; 228; 271; 273; 280 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
- Áp dụng án lệ số 09/2016/AL ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường…...công bố theo quyết định số 698/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao ngày 17/10/2016.
- Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội.

143 / 158
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kvề việc
“Tranh chấp hợp đồng cung ứng dịch vụ vận chuyển” đối với Công ty Cổ phần U.
2/ Buộc Công ty Cổ phần U phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn K
tổng số tiền là 192.727.997đ (làm tròn thành 192.728.000đ). Trong đó trả tiền thù
lao dịch vụ phải thanh toán là 113.677.763đ, tiền lãi do chậm thanh toán tính đến
hết ngày 05/11/2018 là79.050.234đ và tính tiếp lãi chậm trả theo lãi suất trung bình
trên thị trường đối với số tiền 113.677.763đ đến khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất
cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
tương ứng với số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tịa khoản 2 Điều
468 Bộ luật dân sự năm 2015.
3/ Án phí: Buộc Công ty Cổ phần U phải nộp 9.636.000đ.
Công ty trách nhiệm hữu hạn K không phải nộp án phí và được nhận lại số
tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2015A0000856 ngày 12/01/2018
tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.
Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của
pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. Hội đồng xét xử sơ thẩm
- TAND tỉnh Hà Nam; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- VKSND thành phố Phủ Lý;
- Chi cục thi hành án TP Phủ Lý;
- Các đương sự;
- Lưuhồ sơ
(Đã ký)

Nguyễn Thị Mai Oanh

144 / 158
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 06/2017/KDTM-ST


Ngày 31-8-2017
V/v tranh chấp về hợp đồng
cung ứng dịch vụ

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Trương Minh Huế
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Duy Tuân
Bà Nguyễn Thị Lợi
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Liên – Thư ký Tòa án nhân dân huyện
A, thành phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải
Phòng tham gia phiên toà: Bà Phạm Thị Mai Dung – Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 8 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, Tòa án
nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2015/TLST- KDTM
ngày 20 tháng 3 năm 2015 về việc: “Tranh chấp về hợp đồng cung ứng dịch vụ”
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2017/QĐXXST - KDTM ngày 15 tháng
8 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần Dịch vụ D
Địa chỉ: Tầng 5 - Tòa nhà 94.14 đường T, phường M, thành phố Đ, tỉnh Hải
Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Bùi Tú D1, sinh năm
1971; cư trú tại Số 18/85 Phạm N, thành phố Đ, tỉnh Hải Dương; Chức vụ: Kế toán
trưởng Công ty Cổ phần Dịch vụ D (Văn bản ủy quyền ngày 12 tháng 6 năm 2017);
có mặt.
- Bị đơn: Công ty Cổ phần C
Địa chỉ: Thôn Y, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Phạm Thị I, sinh năm 1987; cư
trú tại thôn G, xã Y1, huyện Y2, tỉnh Nam Định; Chức vụ: Phó phòng phụ trách

145 / 158
Phòng Kế toán - Hành chính tổng hợp, Công ty Cổ phần C (Văn bản ủy quyền
ngày 29 tháng 8 năm 2017); có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên
tòa, nguyên đơn Công ty Cổ phần Dịch vụ D do ông Bùi Tú D1 là người đại diện
theo ủy quyền trình bày:
Ngày 08 tháng 9 năm 2008, Công ty Cổ phần Dịch vụ Công nghiệp L (nay
là Công ty Cổ phần Dịch vụ D, gọi tắt là Công ty M1) và Công ty Cổ phần C (gọi
tắt là Công ty C) đã ký Hợp đồng giao nhận thầu lắp đặt số
0809/2008/HĐKT/CCIM - Li.Mis có nội dung Công ty M1 nhận thầu phụ thực
hiện phần việc “lắp đặt thiết bị băng tải xiên” thuộc gói thầu số 21.2, Dự án nhà
máy Xi măng T1 theo thiết kế của nhà thầu FCB – Cộng hòa Ph trong phạm vi công
việc của Hợp đồng số 37/2007/DAXM - CCIM năm 2007 và Phụ lục hợp đồng số
03 năm 2008 ký giữa Ban quản lý dự án nhà máy Xi măng T1 và Công ty C. Các
hạng mục lắp đặt gồm có: Lọc bụi (túi) BF1, 2, 3 (mã hiệu dự toán XLY.0058);
Quạt hút (mã hiệu dự toán XLY.0076); Quạt (mã hiệu dự toán XLY.0077); Băng
tải (mã hiệu dự toán XLY.0133) và Cửa đổ (mã hiệu dự toán XLY.0104). Sau khi
ký kết hợp đồng, Công ty C đã có văn bản ủy quyền cho Công ty M1 thực hiện việc
giao nhận thiết bị, làm các thủ tục về điện, nước và các vấn đề liên quan tại công
trường trực tiếp với chủ đầu tư (văn bản ủy quyền số 01 ngày 08 tháng 9 năm 2008).
Thực hiện hợp đồng đã ký kết giữa hai bên, Công ty M1 đã lắp đặt các thiết bị theo
nội dung hợp đồng, đảm bảo chất lượng, tiến độ của dự án; đã tiến hành bàn giao
các hạng mục do công ty M1 thi công cho Công ty C để bàn giao cho chủ đầu tư
đưa nhà máy vào hoạt động vào ngày 18 và 20 tháng 02 năm 2009. Công ty M1 đã
lập bảng quyết toán khối lượng thi công thực tế, với tổng chi phí xây dựng là
987.680.826 đồng, được Công ty C; hai bên xác định giá trị thanh toán đợt 1 bằng
70% giá trị thực hiện là 691.376.578 đồng. Căn cứ vào hồ sơ thanh toán khối lượng
hoàn thành do Công ty M1, Công ty C đã lập bảng đề nghị chủ đầu tư là Ban quản
lý dự án nhà máy Xi măng T1 thanh toán toàn bộ giá trị mà Công ty M1 đã thi công.
Ngày 03 tháng 9 năm 2009, Công ty M1 cũng đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng thanh
toán giá trị khối lượng hoàn thành đợt 1, gói thầu lắp đặt thiết bị 21.2 cho Công ty
C có giá trị là 987.680.826 đồng. Giá trị xây lắp trên, Công ty C mới thanh toán
cho Công ty M1 số tiền 390.000.000 đồng; số tiền còn lại là 597.680.826 đồng,
Công ty M1 đã nhiều lần có văn bản yêu cầu Công ty C phải thanh toán nhưng
Công ty C chỉ xác nhận về số nợ trên mà không chịu thanh toán cho Công ty M1.
Trong đơn khởi kiện, Công ty M1 đề nghị Tòa án buộc Công ty C phải trả
cho công ty M1 số tiền nợ gốc 597.680.826 đồng và số lãi phát sinh do chậm thanh
toán kể từ ngày 20 tháng 02 năm 2010 đến ngày xét xử sơ thẩm theo mức lãi suất
trung bình của ba ngân hàng thương mại.
Tại buổi hòa giải ngày 11 tháng 7 năm 2017 và tại phiên tòa, người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án

146 / 158
buộc Công ty C thanh toán số tiền còn nợ theo giá trị thanh toán bằng 70% giá trị
xây lắp mà Công ty M1 đã thực hiện là 301.376.578 đồng (691.376.578 đồng -
390.000.000 đồng) và số lãi phát sinh do chậm thanh toán theo mức lãi suất mức
lãi suất trung bình của ba ngân hàng thương mại kể từ ngày 20 tháng 02 năm 2010
đến ngày xét xử sơ thẩm là 282.928.202 đồng. Tổng cộng là 584.304.780 đồng.
Tại bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, những người đại
diện theo pháp luật và theo ủy quyền của bị đơn trình bày:
Công ty C và Công ty M1 có ký Hợp đồng giao nhận thầu lắp đặt số
0809/2008/HĐKT/CCIM - Li.Mis vào ngày 08 tháng 9 năm 2008 như đại diện
công ty M1 đã trình bày. Hợp đồng có nội dung Công ty M1 nhận thầu phụ thực
hiện phần việc “lắp đặt thiết bị băng tải xiên” thuộc gói thầu số 21.2, Dự án nhà
máy Xi măng T1 theo thiết kế của nhà thầu FCB - Cộng hòa Ph trong phạm vi công
việc của Hợp đồng số 37/2007/DAXM - CCIM năm 2007 và Phụ lục hợp đồng số
03 năm 2008 ký giữa Ban quản lý dự án nhà máy xi măng T1 và Công ty C. Các
hạng mục lắp đặt gồm có: Lọc bụi (túi) BF1, 2, 3 (mã hiệu dự toán XLY.0058);
Quạt hút (mã hiệu dự toán XLY.0076); Quạt (mã hiệu dự toán XLY.0077); Băng
tải (mã hiệu dự toán XLY.0133) và Cửa đổ (mã hiệu dự toán XLY.0104). Quá trình
thực hiện hợp đồng, Công ty M1 có lập bảng thanh toán khối lượng hoàn thành đợt
1 có tổng chi phí xây dựng được lập là 987.680.826 đồng; các bên thống nhất giá
trị thanh toán đợt 1 là 691.376.578 đồng. Căn cứ giá trị xây lắp do công ty M1 lập,
Công ty C đã đề nghị Chủ đầu tư là Ban quản lý dự án nhà máy xi măng T1 thanh
toán khối lượng công việc cho Công ty C. Giá trị 987.680.826 đồng mà Công ty
M1 đề nghị chỉ là giá trị tạm tính, không phải là giá trị làm căn cứ buộc Công ty C
phải thanh toán cho Công ty M1 vì hiện tại không có căn cứ để xác định giá trị xây
dựng mà công ty M1 đã thực hiện trong thực tế. Công ty C chất xác nhận công ty
M1 đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty C với giá trị xây lắp là 987.680.826
đồng vào ngày 03 tháng 9 năm 2009 và Công ty C đã trả cho Công ty M1 số tiền
390.000.000 đồng. Hiện tại trên sổ sách kế toán của Công ty C vẫn thể hiện Công
ty C nợ Công ty M1 số tiền 597.680.826 đồng nhưng số nợ này chỉ để nhằm theo
dõi các khoản phải thu, phải trả của Công ty C, không là cơ sở để xác định Công ty
C còn nợ Công ty M1 số tiền trên.
Việc Công ty M1 khởi kiện đề nghị Tòa án buộc Công ty C phải trả ho công
ty M1 số tiền trên và số lãi phát sinh do chậm thanh toán, Công ty C có quan điểm
xác nhận số nợ thực tế là 301.376.578 đồng (691.376.578 đồng - 390.000.000 đồng)
nhưng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Công ty M1 về số nợ gốc và số lãi
phát sinh mà Công ty M1 khởi kiện. Đề nghị Công ty M1 cung cấp các chứng từ
để xác định khối lượng thực tế Công ty M1 đã thi công làm cơ sở xác định giá trị
thanh toán.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và
tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã
chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

147 / 158
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Nguyên đơn. Buộc Công ty C phải trả cho Công ty M1 số tiền
584.304.780 đồng (Trong đó, nợ gốc: 301.376.578 đồng; nợ lãi phát sinh:
282.928.202 đồng).
Kể từ ngày xét xử sơ thẩm, Công ty M1 có đơn yêu cầu thi hành án, Công ty
C phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất nợ quá hạn
trung bình trên thị trường tương ứng với thời gian chậm trả.
Công ty C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho Công ty M1 số tiền
tạm ứng án phí dân sự đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


[1]. Về việc Tòa án không đưa Công ty Xi măng T2 tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trong quá trình giải quyết vụ án do
nguyên đơn có yêu cầu bị đơn phải thanh toán giá trị công trình có liên quan đến
phần công trình chưa được quyết toán hiện do Công ty Xi măng T2 đang quản lý
và vận hành nên Tòa án đã đưa Công ty Xi măng T2 vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên sau đó nguyên đơn đã
rút một phần yêu cầu khởi kiện nên Công ty Xi măng T2 không còn có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan nữa. Vì vậy, Tòa án đã không đưa Công ty Xi măng T2 vào
tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nữa.
[2]. Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án Kinh doanh thương mại: “Tranh chấp
Hợp đồng cung ứng dịch vụ” nên theo quy định tại Khoản 1, Điều 30 Bộ luật Tố
tụng Dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Công ty M1 và Công ty C đã ký Hợp đồng giao nhận thầu lắp đặt số
0809/2008/HĐKT/CCIM - Li.Mis ngày 08 tháng 9 năm 2008 có nội dung Công ty
M1 nhận thầu phụ thực hiện phần việc “lắp đặt thiết bị băng tải xiên” thuộc gói
thầu số 21.2, Dự án nhà máy Xi măng T1 theo thiết kế của nhà thầu FCB - Cộng
hòa Ph trong phạm vi công việc của Hợp đồng số 37/2007/DAXM-CCIM năm
2007 và Phụ lục hợp đồng số 03 năm 2008 ký giữa Ban quản lý dự án nhà máy xi
măng T1 và Công ty C. Các hạng mục lắp đặt gồm có: Lọc bụi ( túi ) BF1, 2, 3 (
mã hiệu dự toán XLY.0058 ); Quạt hút (mã hiệu dự toán XLY.0076); Quạt (mã
hiệu dự toán XLY.0077); Băng tải (mã hiệu dự toán XLY.0133) và Cửa đổ (mã
hiệu dự toán XLY.0104). Hợp đồng do những người có đủ thẩm quyền ký kết,
không trái quy định của pháp luật, không vi phạm điều cấm nên là cơ sở để các bên
thực hiện. Sau khi ký kết hợp đồng, Công ty C đã có văn bản ủy quyền cho Công
ty M1 thực hiện việc giao nhận thiết bị, làm các thủ tục về điện nước và các vấn đề
liên quan tại công trường trực tiếp với chủ đầu tư (Văn bản ủy quyền số 01 ngày
08 tháng 9 năm 2008). Thực hiện hợp đồng, Công ty M1 đã tiến hành lắp đặt các
hạng mục: Lọc bụi (túi) BF1, 2, 3 (mã hiệu dự toán XLY.0058); Quạt hút (mã hiệu
dự toán XLY.0076); Quạt (mã hiệu dự toán XLY.0077); Băng tải (mã hiệu dự toán
XLY.0133) và Cửa đổ (mã hiệu dự toán XLY.0104). Công ty M1 đã tiến hành bàn

148 / 158
giao cho Chủ đầu tư là Ban quản lý dự án nhà máy xi măng T1 các hạng mục trên
vào các ngày 18 tháng 02 năm 2009 và ngày 20 năm 02 năm 2009 để Chủ đầu tư
đưa Nhà máy vào hoạt động.
Về số nợ gốc: Công ty M1 đã lập hồ sơ thanh toán ghi nhận chi phí xây dựng
là 987.680.826 đồng, giá trị thanh toán đợt 1 là 691.376.578 đồng; hồ sơ này đã
được đại diện Công ty C ký tên đóng dấu xác nhận khối lượng. Giá trị 987.680.826
đồng cũng là cơ sở để Công ty C đề nghị Chủ đầu tư thanh toán giá trị xây dựng
cho Công ty C. Ngày 03 tháng 9 năm 2009, Công ty M1 đã xuất hóa đơn giá trị gia
tăng ghi nhận khối lượng, trị giá xây dựng là 987.680.826 đồng cho Công ty C;
công ty C mới chỉ chuyển trả được cho công ty M1 số tiền 390.000.000 đồng. Số
tiền còn lại Công ty C phải thanh toán cho Công ty M1 là 597.680.826 đồng. Trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Công ty M1 đã rút một phần yêu cầu
khởi kiện, Công ty M1 chỉ yêu cầu Công ty C phải thanh toán cho Công ty M1 70%
giá trị xây lắp các bên đã xác định là 691.376.578 đồng. Do Công ty C đã chuyển
trả cho Công ty M1 390.000.000 đồng. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả
số tiền còn nợ lại theo giá trị thanh toán đợt 1 là 301.376.578 đồng (691.376.578
đồng - 390.000.000 đồng) là có căn cứ chấp nhận. Việc Công ty C xác nhận nợ
nhưng có quan điểm không đồng ý trả nợ là không có cơ sở.
Về số nợ lãi phát sinh: Tại mục 7.3, Điều 7 của Hợp đồng giao nhận thầu lắp
đặt số 0809/2008/HĐKT/CCIM - Li.Mis ngày 08 tháng 9 năm 2008 các bên thỏa
thuận: “Trong vòng 30 ngày kể từ khi quyết toán hợp đồng được cấp có thẩm quyền
phê duyệt, Bên A sẽ thanh toán cho bên B tới 95% giá trị quyết toán. Giá trị còn lại
5% được dùng để thực hiện nghĩa vụ bảo hành công trình của bên B”; cũng tại Điều
5 của hợp đồng có nêu “Bên B có trách nhiệm bảo hành trong thời gian là 12 tháng
kể từ khi ký biên bản nghiệm thu bàn giao”. Công ty M1 đã được Công ty C ủy
quyền làm việc trực tiếp với chủ đầu tư và đã thực hiện việc bàn giao các hạng mục
do Công ty M1 thi công cho chủ đầu tư vào các ngày 18 và 20 tháng 02 năm 2009.
Như vậy ngày 18 và 20 tháng 02 năm 2009 cũng được coi là ngày Công ty M1 đã
bàn giao các hạng mục cho Công ty C. Sau khi hết thời hạn bảo hành 12 tháng (từ
ngày 20 tháng 02 năm 2010 trở đi), Công ty C phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ
giá trị Công ty M1 đã thi công theo nội dung hợp đồng đã ký; việc Công ty C chậm
thanh toán đã làm xâm hại đến quyền lợi của Công ty M1 nên theo quy định tại
Điều 306 Luật thương mại thì Công ty M1 có quyền yêu cầu trả lãi trên số tiền
chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương
ứng với thời gian chậm trả nên yêu cầu của Công ty M1 về việc buộc Công ty C
phải trả khoản tiền lãi phát sinh tính từ ngày 20 tháng 02 năm 2010 là có căn cứ.
Tính đến ngày xét xử sơ thẩm, Công ty C đã quá hạn thanh toán cho Công
ty M1 là 07 năm 06 tháng 11 ngày, tương đương 2646 ngày.

Lãi suất quá hạn trung bình tại thời điểm xét xử là 12,95%/năm (Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh An Dương Bắc Hải
Phòng: 12,03%/năm; Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hải

149 / 158
Phòng: 14,83%/năm; Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Hải
Phòng: 12%/năm).
Do vậy số lãi phát sinh Công ty C phải trả cho Công ty M1 là: 282.928.202
đồng (301.376.578 đồng x 12,95%/năm x năm/365 ngày x 2646 ngày). Tổng cộng
số tiền Công ty C phải trả cho Công ty M1 là 584.304.780 đồng.
[4]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Khoản 1 Điều 30; Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ Điều 290 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Căn cứ Điều 306 Luật Thương mại;
- Căn cứ Điều 6; Khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016,
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc Công ty Cổ phần C phải trả cho Công ty Cổ phần Dịch vụ D số tiền
584.304.780 đồng (Năm trăm tám mươi bốn triệu ba trăm linh bốn nghìn bẩy trăm
tám mươi đồng), (Trong đó, nợ gốc: 301.376.578 đồng; nợ lãi phát sinh:
282.928.202 đồng).
2. Về án phí: Công ty Cổ phần C phải chịu 27.372.188 đồng án phí dân sự
sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Trả lại cho Công ty Cổ phần Dịch vụ D số tiền 24.965.000 đồng tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai số 0013225 ngày 20 tháng 3 năm 2015 của Chi cục Thi
hành án Dân sự huyện An Dương.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn
trung bình trên thị trường tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.
Trường hợp bản án được thi hành án tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi
hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án.

150 / 158
Nơi nhận: T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND TP Hải Phòng; THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND huyện A;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện A;
- Đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.

Trương Minh Huế

151 / 158
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ H Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NINH

Bản án số: 13/2017/KDTM- ST


Ngày: 12 - 12 - 2017.
“V/v tranh chấp Hợp đồng dịch vụ
sửa chữa”.

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H - TỈNH QUẢNG NINH

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:


Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đạt.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Vũ Thị Thơ.
Bà Ngô Thị Sửu.
- Thư ký Toà án ghi biên bản phiên tòa: Ông Bùi Huy Cường - Thư ký Tòa
án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh tham gia
phiên toà: Bà Vũ Thị Cẩm Vân - Kiểm sát viên.
Trong ngày 12 tháng 12 năm 2017 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân
thành phố H, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:
19/2017/TLST- KDTM ngày 03 tháng 8 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
sửa chữa theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2017/QĐXXST- KDTM ngày
03 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Tổng công ty VTT.
Địa chỉ: Số 158, đường Nguyễn Văn Cừ, phường B, quận L, thành phố Hà
Nội.
* Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thủy Ng - Chức vụ: Chủ tịch
Hội đồng quản trị.
* Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H. Sinh năm 1966.
Chức vụ: Phó giám đốc chi nhánh Công ty DTVT.
Địa chỉ: Khu Kim Sen, phường K, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh. (Theo Văn
bản ủy quyền số 19/GUQ - HĐQT, ngày 05/5/2017).
Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Công ty TNHH dịch vụ vận tải H.

152 / 158
Địa chỉ: Số 133, đường Lê Thánh Tông, phường H, Tp. H, tỉnh Quảng Ninh.
* Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Công H. Sinh năm 1960 -
Chức vụ: Giám đốc.
* Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Quang Kh. Sinh năm 1990.
Nơi ĐKHKTT: Tiểu khu 32, TT Nông Trường Mộc Châu, huyện M, tỉnh S.
Nơi làm việc: Văn phòng Luật sư H - Tổ 18, khu 2, phường H, Tp. H, tỉnh
Quảng Ninh. (Theo Giấy ủy quyền ngày 08/11/2017).
Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:


Theo đơn khởi kiện đề ngày 11/4/2017, nguyên đơn Tổng công ty VTT, có
người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Văn H trình bày:
Ngày 15/9/2014, Chi nhánh công ty DTVT thuộc Tổng công ty VTT (Từ đây
gọi là Nguyên đơn) và Công ty TNHH dịch vụ vận tải H (Từ đây gọi là Bị đơn) có
ký kết và thực hiện Hợp đồng số: 14 - 67/KHKTVT về việc sửa chữa tàu, cụ thể:
Bị đơn thuê nguyên đơn sửa chữa 01 tàu đẩy QN 6668 và 04 sà lan QN (4766,
4767, 4768, 4769). Giá cả chủng loại vật tư, nhân công: Theo thỏa thuận chi tiết tại
hợp đồng. Giá trị hợp đồng tạm tính là 256.469.931đ (Hai trăm năm mươi sáu triệu
bốn trăm sáu mươi chín nghìn chín trăm ba mốt đồng). Tiến độ thi công: Nguyên
đơn thi công trong thời hạn 30 (Ba mươi) ngày làm việc, kể từ khi ký hợp đồng.
Phương thức thanh toán: Khi ký hợp đồng Bị đơn phải ứng trước cho Nguyên đơn
ít nhất 50% giá trị tạm tính của Hợp đồng. Số tiền còn lại Bị đơn phải thanh toán
cho Nguyên đơn ngay khi hai bên thống nhất khối lượng quyết toán và thanh lý
Hợp đồng trước khi Bị đơn lấy phương tiện đi khai thác. Hai bên cam kết: Thực
hiện đầy đủ các điều khoản đã ghi trong Hợp đồng. Bên nào vi phạm hay trì hoãn
gây thiệt hại, phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định hiện hành
của chế độ Hợp đồng kinh tế Nhà nước.
Quá trình thực hiện Hợp đồng: Sau khi ký hợp đồng và triển khai công việc,
ngày 04/11/2014 căn cứ vào khối lượng nghiệm thu và thực trạng tổ chức sản xuất,
hai bên đã tiến hành các thủ tục theo đúng quy định của Hợp đồng, cụ thể: Ngày
04/11/2014, hai bên lập bảng tổng hợp Quyết toán sửa chữa 01 tàu đẩy và 04 sà lan
với giá thành toàn bộ là 248.491.191đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm chín
mươi mốt nghìn một trăm chín mươi mốt đồng). Ngày 25/11/2014, hai bên lập biên
bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành và bàn giao xuất xưởng, đưa phương tiện
vào sử dụng, Nguyên đơn đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Bị đơn. Hai bên lập
Biên bản thanh lý Hợp đồng số: 14 - 67/TL/KHKTVT, ghi rõ: Tổng giá trị hợp
đồng Nguyên đơn đã thực hiện là 248.491.191 đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn
trăm chín mươi mốt nghìn một trăm chín mươi mốt đồng).
Ngày 02/01/2015 và ngày 10/3/2015, hai bên đã lập biên bản đối chiếu công
nợ, cụ thể: Bị đơn còn nợ Nguyên đơn số tiền 255.782.791 đ (Hai trăm năm mươi

153 / 158
lăm triệu bảy trăm tám mươi hai nghìn bảy trăm chín mươi mốt đồng). Khi đối
chiếu công nợ thì tổng số tiền là 255.782.791đ (Hai trăm năm mươi lăm triệu bảy
trăm tám mươi hai nghìn bảy trăm chín mươi mốt đồng), vì Bị đơn là khách hàng
thường xuyên của Nguyên đơn nên trong số tiền đối chiếu công nợ này có
7.291.600 đồng (255.782.791đ - 248.491.191đ = 7.291.600đ) là tiền Bị đơn nợ chưa
thanh toán khi sửa chữa tàu của hợp đồng trước đó.
Quá trình thanh toán: Sau khi đối chiếu công nợ, ngày 18/3/2015 Bị đơn đã
thanh toán cho Nguyên đơn số tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng). Số tiền gốc
còn nợ lại là 175.782.791 đồng. Nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu Bị đơn thanh
toán hết số tiền nợ còn lại nhưng Bị đơn đều không thanh toán. Đến nay Nguyên
đơn khởi kiện vụ án yêu cầu Tòa án giải quyết:
Buộc Bị đơn phải thanh toán trả Nguyên đơn tiền nợ chưa thanh toán đối với
Hợp đồng dịch vụ sửa chữa tàu đẩy và 04 sà lan trên, cụ thể: Nợ gốc: 175.782.791
đồng; nợ lãi tính theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình liên ngân hàng “Gồm:
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank); Ngân hàng đầu tư và
phát triển (BIDV); Ngân hàng Thương mại Cổ phần công thương Việt Nam
(Vietinbank)” với mức lãi suất trong hạn 10,5%/năm, mức lãi suất nợ quá hạn trung
bình 15,75%/năm, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả (Từ ngày 19/3/2015
đến ngày 12/12/2017) là 76.904.971đ (Bảy mươi sáu triệu chính trăm linh tư nghìn
chính trăm bảy mươi mốt đồng). Tổng cộng số tiền Bị đơn phải thanh toán là:
252.687.762đ (Hai trăm năm mươi hai triệu sáu trăm tám mươi bảy nghìn bảy trăm
sáu mươi hai đồng).
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Công ty TNHH dịch vụ vận tải H,
có người đại diện theo pháp luật là ông Nguyễn Công H đều trình bày và xác nhận:
Ngày 15/9/2014, Bị đơn và Nguyên đơn có ký Hợp đồng sửa chữa số số:
14- 67/KHKTVT về việc sửa chữa 01 tàu đẩy QN - 6668 và 04 sà lan QN (4766,
4767, 4768, 4769) như Nguyên đơn trình bày là đúng.
Bị đơn không đồng ý đối với yêu cầu của Nguyên đơn về việc buộc Bị đơn
phải thanh toán với tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi nêu trên, vì: Bị đơn chưa được đối
chiếu với Nguyên đơn về số lượng, chủng loại vật tư, chưa thực hiện việc quyết toán,
đối chiếu công nợ. Những tài liệu do Nguyên đơn cung cấp thì có một số văn bản
như Bản tổng hợp vật tư sửa chữa; Dự toán sửa chữa; Biên bản nghiệm thu phần phu
cát, doa, sơn tàu đẩy QN - 6668, sà lan QN - 4766, QN - 4769 thì các chữ ký của
kế toán công ty là bà Nguyễn Thị Phương Th bị giả mạo, không phải là chữ ký của
bà Nguyễn Thị Phương Th - Kế toán của Công ty TNHH dịch vụ vận tải H. Đây là
biểu hiện có dấu hiệu của gian lận thương mại tại Hợp đồng sửa chữa và dự toán đã
ký kết giữa các bên.
Trong Hợp đồng sửa chữa tàu đẩy đều không có thỏa thuận tính lãi suất nên
Nguyên đơn tính lãi suất đối với số tiền nợ thì Bị đơn không đồng ý.
Bị đơn và Nguyên đơn chưa thực hiện việc đối chiếu công nợ và quyết toán
Hợp đồng nên Bị đơn không biết còn nợ Nguyên đơn số tiền gốc cụ thể là bao nhiêu.
Do đó, Bị đơn không thể thực hiện được việc thanh toán hợp đồng sửa chữa tàu nói

154 / 158
trên.
Tại biên bản làm việc ngày 31/10/2017: “V/v đối chiếu tài liệu liên quan đến
Hợp đồng số 14- 67/KHKTVT- ký ngày 15/9/2014”, Bị đơn có quan điểm: Không
yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra làm rõ tài liệu có chữ ký của bà
kế toán Nguyễn Thị Phương Th; không yêu cầu giám định tài liệu có chữ ký của
bà Nguyễn Thị Phương Th trong Hợp đồng số 14 - 67/KHKTVT ký ngày 15/9/2014
trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh tham gia tố
tụng tại phiên tòa nêu quan điểm về việc tiến hành tố tụng và nội dung giải quyết
vụ án kinh doanh thương mại, khẳng định: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Về thẩm quyền: Xác
định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp và đúng tư cách tố tụng các đương sự tham
gia tố tụng, về thời hạn chuẩn bị xét xử và các thủ tục tố tụng khác. Nguyên đơn đã
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn
thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:


Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ váo kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
Xét Hợp đồng số 14 - 67 KHKTVT, V/v sửa chữa đoàn H 15 gồm 01 tàu đẩy
QN - 6668 + 04 sà lan QN (4766, 4767, 4768, 4769) được ký kết giữa Nguyên đơn
và Bị đơn vào ngày 15/9/2014 là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của
Bộ luật dân sự và Luật thương mại nên văn bản này có giá trị thực hiện.
Xét yêu cầu của Nguyên đơn về việc yêu cầu Bị đơn phải trả cho Nguyên
đơn số tiền nợ gốc, nợ lãi đối với số tiền sửa chữa đoàn H 15 gồm 01 tàu đẩy QN
6668 và 04 sà lan QN (4766, 4767, 4768, 4769) mà Bị đơn còn nợ, cụ thể: Nợ gốc:
175.782.791 đồng, nợ lãi tính theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình liên ngân
hàng (tính từ ngày 19/3/2015 đến ngày 12/12/2017) là 76.904.971 đồng (Bảy mươi
sáu triệu chính trăm linh tư nghìn chính trăm bảy mươi mốt đồng). Tổng cộng số
tiền Bị đơn phải thanh toán là: 252.687.762đ (Hai trăm năm mươi hai triệu sáu trăm
tám mươi bảy nghìn bảy trăm sáu mươi hai đồng), Hội đồng xét xử thấy rằng:
Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ sửa chữa đoàn H 15 gồm 01 tàu
đẩy QN - 6668 và 04 sà lan QN (4766, 4767, 4768, 4769), Nguyên đơn đã thực
hiện nghĩa vụ của mình bằng việc thực hiện công việc sửa chữa theo đúng nội dung
hợp đồng ký kết giữa các bên, cụ thể: Nguyên đơn đã thực hiện việc sửa chữa đoàn
tàu của Bị đơn theo đúng cam kết trong Hợp đồng đã ký. Ngày 04/11/2014 các bên
đã lập bảng tổng hợp Quyết toán sửa chữa 01 tàu đẩy và 04 sà lan. Ngày
25/11/2014, hai bên lập biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành, Biên bản thanh
lý Hợp đồng số:14 - 67/TL/KHKTVT, ghi rõ: Tổng giá trị hợp đồng Nguyên đơn
đã thực hiện là 248.491.191đ (Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm chín mươi mốt
nghìn một trăm chín mươi mốt đồng). Nguyên đơn đã bàn giao xuất xưởng, đưa

155 / 158
phương tiện vào sử dụng và đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Bị đơn. Nhưng Bị
đơn không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn như đã thỏa thuận
trong hợp đồng dịch vụ sửa chữa đã ký. Sau khi thanh lý Hợp đồng và đối chiếu
công nợ giữa các bên, ngày 18/3/2015 bị đơn mới thanh toán cho Nguyên đơn số
tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng). Sau đó Bị đơn không thanh toán cho
Nguyên đơn nữa, mặc dù Nguyên đơn đã thông báo, yêu cầu Bị đơn thanh toán
nhưng Bị đơn vẫn không đến thanh toán khoản tiền còn nợ cho Nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện của Bị đơn là ông Nguyễn
Công H có quan điểm Bị đơn và Nguyên đơn chưa thực hiện việc đối chiếu công nợ
và quyết toán Hợp đồng nên Bị đơn không biết còn nợ Nguyên đơn số tiền gốc cụ
thể là bao nhiêu. Quan điểm này của Bị đơn là không có cơ sở chấp nhận vì, tại biên
bản thanh lý hợp đồng (BL 28) có chữ ký của các bên đã thể hiện tổng giá trị Hợp
đồng là 248.491.191đ(Hai trăm bốn mươi tám triệu bốn trăm chín mươi mốt nghìn
một trăm chín mươi mốt đồng); Tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 02/01/2015
và ngày 10/3/2015 (BL 02, 53), có chữ ký của các bên, cụ thể: Bị đơn còn nợ
Nguyên đơn số tiền 255.782.791 đồng (Hai trăm năm mươi lăm triệu bảy trăm tám
mươi hai nghìn bảy trăm chín mươi mốt đồng).
Tại mục VI của Hợp đồng số 14 - 67 KHKTVT được ký kết vào ngày
15/9/2014 giữa các bên thể hiện:
“Khi Hợp đồng được ký kết bên A (Bị đơn) phải ứng trước cho bên B (Nguyên
đơn) ít nhất 50% giá trị tạm tính của hợp đồng. Số tiền còn lại bên A thanh toán
cho bên B ngay khi hai bên thống nhất khối lượng quyết toán và thanh lý hợp đồng
trước khi bên A lấy phương tiện đi khai thác”...
Bị đơn không thực hiện đúng thỏa thuận trong Hợp đồng sửa chữa, vi phạm
nghĩa vụ thanh toán. Do đó, yêu cầu của Nguyên đơn về việc buộc Bị đơn phải trả
cho Nguyên đơn số tiền nợ gốc là: 175.782.791đ (Một trăm bảy mươi lăm triệu bảy
trăm tám mươi hai nghìn bảy trăn chín mươi mốt đồng) là có căn cứ nên được chấp
nhận.
Xét việc tính lãi suất đối với số tiền dịch vụ sửa chữa đoàn H 15 gồm 01 tàu
đẩy và 04 sà lan QN (4766, 4767, 4768, 4769) Bị đơn còn nợ (175.782.791 đồng)
tính từ ngày 19/3/2015 đến ngày 12/12/2017 (Tính theo mức lãi suất nợ quá hạn
trung bình liên ngân hàng, với mức lãi suất trong hạn 10,5%/năm, mức lãi suất nợ
quá hạn trung bình 15,75%/năm) số tiền nợ lãi là 76.904.971 đồng, Hội đồng xét
xử thấy rằng:
Bị đơn đã vi phạm mục VI của Hợp đồng số 14 - 67 KHKTVT được ký kết
vào ngày 15/9/2014 giữa các bên, đó là vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên Nguyên
đơn yêu cầu tính lãi đối với số tiền chậm thực hiện nghĩa vụ là có cơ sở, phù hợp
với quy định tại Điều 306 của Luật thương mại. Nguyên đơn yêu cầu tính nợ lãi
theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình liên ngân hàng, với mức lãi suất trong hạn
10,5%/năm, mức lãi suất nợ quá hạn trung bình 15,75%/năm là có cơ sở, phù hợp
với thời điểm hiện tại, vì theo văn bản của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt
Nam - chi nhánh Quảng Ninh và Ngân hàng TMCP Đông Á - Chi nhánh Quảng

156 / 158
Ninh thì tại thời điểm hiện tại mức lãi suất trong hạn là 10,5%/năm, mức lãi suất
quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn (15,75%/năm). Do đó, Nguyên đơn yêu cầu
tính nợ lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình liên ngân hàng là có căn cứ chấp
nhận, nên buộc Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn số tiền nợ lãi: 175.782.791 đồng x
15,75% x 1000 ngày = 76.904.971 đồng (Bảy mươi sáu triệu chính trăm linh tư
nghìn chính trăm bảy mươi mốt đồng).
Như vậy, yêu cầu của Nguyên đơn tại phiên tòa kiện đòi bị đơn phải trả nợ
gốc, nợ lãi là phù hợp với các Điều 518 và Điều 524 - Bộ luật dân sự năm 2005 và
Điều 78, 85, 87 và 306 - Luật thương mại nên được chấp nhận. Buộc bị đơn Công
ty TNHH dịch vụ vận tải H phải có nghĩa vụ thanh toán trả nợ gốc, nợ lãi cho Tổng
công ty VTT với tổng số tiền là: 252.687.762 đồng (Hai trăm năm mươi hai triệu
sáu trăm tám mươi bảy nghìn bảy trăm sáu mươi hai đồng).
Về án phí: Bị đơn Công ty TNHH dịch vụ vận tải H phải nộp án phí kinh
doanh thương mại sơ thẩm của vụ án. Trả lại cho Nguyên đơn Tổng công ty VTT
số tiền tạm ứng án phí Nguyên đơn đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào:

+ Điều 30, Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 273 - Bộ luật TTDS
+ Điều 74, 85, 87 và 306 Luật thương mại;

+ Điều 518 và Điều 524 - Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 357 và 688 - Bộ
luật dân sự năm 2015;

+ Điều 26 - Luật Thi hành án dân sự; Điều 26 Nghị quyết số


326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Tổng công ty
VTT đối với Công ty TNHH dịch vụ vận tải H.

Buộc bị đơn Công ty TNHH dịch vụ vận tải H phải có nghĩa vụ trả cho
Tổng công ty VTT nợ gốc, nợ lãi của Hợp đồng số 14 - 67 KHKTVT V/v sửa
chữa đoàn H 15 gồm 01 tàu đẩy QN 6668 + 04 sà lan QN (4766, 4767, 4768,
4769), là:

- Nợ gốc: 175.782.791đ (Một trăm bảy mươi lăm triệu bảy trăm tám mươi
hai nghìn bảy trăn chín mươi mốt đồng).

157 / 158
- Nợ lãi: 76.904.971 đồng.
Tổng cộng: 252.687.762đ (Hai trăm năm mươi hai triệu sáu trăm tám mươi
bảy nghìn bảy trăm sáu mươi hai đồng).
Bản án có hiệu lực pháp luật, nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu
bị đơn chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời
gian chậm trả (Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại
khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015).
*Về án phí: Bị đơn Công ty TNHH dịch vụ vận tải H phải nộp 12.634.388
đồng (Mười hai triệu sáu trăm ba mươi bốn nghìn ba trăm tám mươi tám đồng) án
phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Trả lại cho Tổng công ty VTT toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
5.729.420 đồng (Năm triệu bảy trăm hai mươi chín nghìn bốn trăm hai mươi đồng)
theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001272 ngày 02/8/2017 tại
Chi cục thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt người đại diện theo ủy quyền của Nguyên
đơn; vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của bị đơn. Báo cho Nguyên đơn
biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày
tuyên án; báo cho Bị đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười
lăm ngày) kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại nơi
cư trú.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Viện kiểm sát nhân dân TP H;
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh;
- Chi cục thi hành án dân sự TP H;
- Các đương sự; (Đã ký)
- Lưu.

Nguyễn Văn Đạt

158 / 158

You might also like