You are on page 1of 8

VẤN ĐỀ 4: HẬU QUẢ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

Tóm tắt bản án:

1. Bản án số 133/2017/DSPT ngày 15/5/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội:
Vợ chồng ông Văn bà Tằm có một khu đất ở diện tích 350m 2 giáp quốc lộ 47 đã được
UBND huyện Đông Sơn cấp giấy CNQSDĐ. Năm 2008, con trai ông là anh Dậu hỏi mượn
trích lục đất của ông bà để thế chấp vay vốn làm ăn. Nhưng lợi dụng lúc bà Tằm đi vắng
cùng việc không đọc kĩ, anh Dậu đã lừa dối để ông Văn ký và ký thay cả bà Tằm vào các
hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án xác định đây là
trường hợp giao dịch bị kí kết do nhầm lẫn, lừa dối và bà Tằm cũng không phải là người kí
tên nên các hợp đồng này vô hiệu. Hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu này là hủy giấy
CNQSDĐ của anh Dậu và ông Văn, bà Tằm có quyền liên hệ với UBND xã Đông Tân và
UBND thành phố Thanh Hóa để làm thủ tục cấp lại giấy CNQSDĐ cho ông bà.
2. Quyết định giám đốc thẩm số 26/2013/KDTM-GDT ngày 13-8-2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Xét thấy, đây là vụ án liên quan đến bồi thường hợp đồng dân sự, với phía nguyên đơn là
Công ty Orange khởi kiện bị đơn là Công ty Phú Mỹ. Vào ngày 15/06/2007, cả hai bên
Công ty đều có ký kết hợp đồng dịch vụ triển khai dự án xây dựng công trình. Đến ngày
20/09/2007, Công ty Orange đã hoàn tất và bàn giao bản vẽ cho Công ty Phú Mỹ, nhưng,
phía nguyên đơn không nhận được phản hồi, cho nên có thể xem là phía bị đơn đồng ý mà
không khiếu nại. Tuy nhiên, Công ty Phú Mỹ lại không tiếp tục thực hiện việc thanh toán
lần 3 cho nên Công ty Orange khởi kiện. Phân tích về vụ án, trong hợp đồng dịch vụ có đề
cập Công ty Orange đă ký kết và thực hiện hợp đồng khi không có “Giấy phép thầu”. Vậy
nên, xét về thủ tục, giấy phép Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm chưa điều tra rõ mà đã
cho quyết định buộc Công ty Phú Mỹ thanh toán toàn bộ số tiền xây dựng cho Công ty
Orange. Ngoài ra, còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, còn thiếu nhiều cơ sở dữ liệu và
thông tin xác nhận. Cho nên, Tòa án nhân dân tối cao quyết định hủy hai bản án và giao lại
để xét xử sơ thẩm vụ án.
3. Quyết định số 75/2012/DS-GDT ngày 23/02/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao:
Theo đơn khởi kiện ngày 27/8/2009 của ông Nguyễn Văn Sanh đối với bị đơn là anh Dư và
chị Chúc về việc chuyển nhượng cho ông 100m 2 đất thổ cư. Thủ tục hai bên kí có xác nhận
của trưởng thôn. Nhưng vợ chông anh Dư không chấp nhận hợp đồng chuyển nhượng. Tại
tòa án phúc thẩm cho rằng giao dịch dân sự vô hiệu (về hình thức và nội dung). Ông Sanh
khiếu nại bản án phúc thẩm, sau khi xem xét thì Tòa cho rằng vợ chồng anh Dư là người có
lỗi chứ không phải ông Sanh do đó vợ chồng anh Dư phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Câu 1: Giao dịch dân sự vô hiệu có làm thay đổi quyền và nghĩa vụ các bên hay
không?

Trả lời:
Khi giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu thì không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ của các bên, các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại Điều
131 BLDS 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
- Theo Điều 122 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được
quy định tại điều 117 của bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp bộ luật này có quy định
khác.”
- Ngoài ra có thể căn cứ thêm những trường hợp trong Điều 123 đến Điều 129 BLDS 2015.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
- Khi xác định được giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên tham gia có nghĩa vụ khôi phục
hiện trạng (như giao dịch dấn sự về quyền sử dụng đất thì phải trả lại nguyên dạng diện tích
đất), bên còn lại nếu nhận bằng hiện vật thì phải trả lại theo đúng giá trị ban đầu.
- Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật (như dịch vụ, cây trồng, công cải tạo…)
thì được tính bằng giá trị quy đổi thành tiền.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó.
- Trường hợp các bên tham gia trung thực không gian dối trong việc xác lập giao dịch dân
sự thì có quyền sử dụng số lợi tức có được từ tài sản gốc do giao dịch dân sự vô hiệu mà
không cần hoàn trả.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Chủ thể còn lại nếu có lỗi gian dối hay vi phạm những từ Điều 122 đến Điều 129 BLDS
2015 thì buộc phải bồi thường thiệt hại về mặt tinh thần lẫn thể chất; và phải bồi thường
toàn bộ kịp thời (Điều 585 BLDS 2015)
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do
bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
- Giao dịch dân sự liên quan đến quyền nhân thân như: quyền tác giả, hình ảnh cá nhân, uy
tín, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,... thì được quy định rõ ở Điều 592 BLDS 2015.

Câu 2: Trên cơ sở BLDS, khi xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì Công ty Phú Mỹ
có phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công
việc mà Công Ty Orange đã thực hiện không? Tại sao?

Trả lời:
Nếu xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho
Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã
thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải
buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối
lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi
suất do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.
Bởi vì khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng dịch vụ, nếu xác định Hợp đồng dịch vụ vô
hiệu thì phải buộc bên thuê dịch vụ phải thanh toán cho bên nhận dịch vụ phần giá trị tương
ứng với khối lượng công việc mà Công ty Oranger đã thực hiện và đã giao cho Công ty Phú
Mỹ bộ bản vẽ chi tiết của dự án và Công ty Phú Mỹ đã tiến hành xin giấy phép xây dựng và
đã thi công trên thực tế. Dựa vào khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 thì bản vẽ này là tài sản
“dịch vụ chất xám” nên không thể hoản trả như ban đầu dựa vào trị giá hoàn tiền để hoàn
trả. Bên nhận dịch vụ đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp đồng dịch vụ
là hợp pháp thì phải buộc bên thuê dịch vụ thanh toán cho bên nhận dịch vụ giá trị tương
ứng với khối lượng công việc mà bên nhận dịch vụ đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp
đồng mà bên thuê dịch vụ chưa thanh toán cùng tiền lãi do chậm thanh toán theo quy định
của pháp luật.
Căn cứ vào quy định sau tại BLDS 2015:
Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do
Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.
Điều 360. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ bồi thường thiệt, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Điều 361. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần .
2. Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài
sản, chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút.
3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể.

Câu 3: Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán về khối lượng công việc mà công ty
Orange đã thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Cụ thể, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã nhận định:
“…Nếu xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán
cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange
đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng. Còn nếu Hợp đồng dịch vụ là hợp pháp thì phải
buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối
lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng cùng tiền lãi
suất do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.”

Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán liên
quan đến khối lượng công việc mà công ty Orange đã xác lập khi xác định hợp đồng
vô hiệu.

Trả lời:
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán liên quan đến khối lượng công việc mà Công ty
Orange đã xác lập khi xác định hợp đồng vô hiệu là hợp lý. Nguyên nhân là vì:
Theo khoản 2 Điều 131 BLDS 2015 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.Trường hợp không
thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả”.
Trong trường hợp này nếu xác định Hợp đồng dịch vụ vô hiệu thì phải buộc Công ty Phú
Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị tương ứng với khối lượng công việc
mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại hợp đồng. Công ty Phú Mỹ chưa thanh
toán chi phí cho giao dịch này nên Công ty Phú Mỹ đã vi phạm mục 1 điều 15 trong hợp
đồng dịch vụ đã giao kết. Khối lượng công việc mà công ty Orange đã thực hiện không thể
khôi phục lại tình trạng ban đầu được do Công ty Phú Mỹ đã sử dụng một phần bộ bản vẽ
chi tiết của Công ty Orange để xin giấy phép xây dựng và tiến hành xây dựng trên thực tế
nên việc khôi phục lại tình trạng ban đầu bằng hoàn trả hiện vật là không thể nên buộc Công
ty Phú Mỹ phải hoàn trả lại giá trị được quy ra bằng tiền.

Câu 5: Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công ty
Orange đã thực hiện như thế nào khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu? Nội
dung xử lý khác với trường hợp xác định hợp đồng vô hiệu như thế nào? Suy nghĩ của
anh chị về chủ đề này như thế nào?

Trả lời:
Hướng xử lý của Hội đồng thẩm phán đối với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã
thực hiện khi xác định hợp đồng dịch vụ không vô hiệu như sau: “Nếu Hợp đồng dịch vụ là
hợp pháp thì phải buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh toán cho Công ty Orange phần giá trị
tương ứng với khối lượng công việc mà Công ty Orange đã thực hiện theo thỏa thuận tại
hợp đồng cùng tiền lãi suất do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ vào hướng giải quyết mà Hội đồng Thẩm phán đưa ra giữa hợp đồng vô hiệu và hợp
đồng hợp pháp khác nhau ở chỗ nếu hợp đồng vô hiệu thì buộc Công ty Phú Mỹ phải thanh
toán khối lượng công việc tương ứng mà Công ty Orange đã thực hiện theo hợp đồng cùng
phần tiền lãi suất do chậm thanh toán do chậm thanh toán theo quy định của pháp luật.
Điểm khác biệt ở đây là Công ty Phú Mỹ phải thanh toán thêm phần tiền lãi theo quy định
của pháp luật.
- Suy nghĩ về chủ đề này:
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán ta có thể thấy được các Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập đủ tài liệu và chưa làm rõ các vấn đề tính hợp pháp của
hợp đồng mà đã xác định hợp đồng dịch vụ 15/06/2007 là hợp đồng hợp pháp là chưa thỏa
mãn. Từ bản án có thể cho thấy khi giải quyết các vụ án liên quan đến giao dịch dân sự, để
có đủ cơ sở giải quyết chính xác, đúng pháp luật thì Tòa án xác định hợp đồng dịch vụ vô
hiệu hay hợp pháp đều phải yêu cầu các bên đương sự cung cấp đủ tài liệu, chứng cứ để
chứng minh cũng như sử dụng các biện pháp thu thập chứng cứ khác để làm rõ các vấn đề
nêu trên.
Từ những hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán ta có thể thấy được Tòa án xử lý như
vậy là minh bạch, công bằng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ các bên thực hiện đúng pháp luật.
Theo Điều 120 BLDS 2015:
1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự
khi điều kiện có xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.
2. Trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được
do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó xảy ra;
trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện
xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra.
Trên thực tế Công ty Oranger đã giao bản vẽ và Công ty Phú Mỹ đã không có phản hồi về
việc báo cáo nên việc kiểm tra đã thông qua. Đồng nghĩa, Công ty Oranger đã thực hiện
xong nghĩa vụ của mình và Công ty Phú Mỹ phải có nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng.
Công ty Oranger có quyền yêu cầu Công ty Phú Mỹ thanh toán đúng hạn và bồi thường nếu
có vi phạm.

Câu 6: Trong quyết định số 75, vì sao Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao lại xác định
hợp đồng vô hiệu?

Trả lời:
Tòa án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu do xét thấy:
Khi ông Sanh yêu cầu phải hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng theo quy định của pháp luật
thì vợ chồng anh Dư, chị Chúc không thực hiện. Ngày 27/8/2009 ông Sanh có đơn khởi kiện
yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Ngày 18/10/2010
Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc đã có quyết định số 01/TA gia hạn để các bên thực hiện
quy định về hình thức của hợp đồng nhưng vợ chồng của anh Dư, chị Chúc cũng không
thực hiện. Trong trường hợp này lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tuyên bố hợp đồng vô hiệu,
trong khi đó Tòa án lại công nhận hợp đồng và giao cho ông Sanh quyền sử dụng đất, bác
đơn của anh Dư và chị Chúc. Ở cấp xét xử phúc thẩm, Tòa án Tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định
hợp đồng vô hiệu do vi phạm về cả nội dung lẫn hình thức. Do đó mà Tòa án nhân dân tối
cao quyết định xác định hợp đồng là vô hiệu và giao lại hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử
lại.

Câu 7: Suy nghĩ của anh/chị về việc Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định hợp
đồng vô hiệu trong quyết định trên?

Trả lời:
Việc Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu trong quyết định trên là
hoàn toàn hợp lý. Dựa theo thông tin từ quyết định số 75 thì Toà án nhân dân Huyện Yên
Lạc đã có Quyết định số 01/TA ngày 18/10/2010 gia hạn để các bên thực hiện quy định về
hình thức hợp đồng, nhưng vợ chồng anh Dư, chị Chúc vẫn không chịu hợp tác để hoàn
thiện về hình thức thủ tục của hợp đồng. Lẽ ra hợp đồng đã được tuyên vô hiệu ở Toà án
cấp sơ thẩm. Vì vậy, việc Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xác định hợp đồng vô hiệu
trong quyết định trên là hoàn toàn hợp lí.

Câu 8: Với thông tin trong Quyết định số 75 và pháp luật hiện hành, ông Sanh sẽ được
bồi thường thiệt hại bao nhiêu? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?

Trả lời:
Theo thông tin trong Quyết định số 75 thì hợp đồng vô hiệu là do lỗi của anh Dư và chị
Chúc không hợp tác để hoàn thiện các thủ tục về mặt hình thức của hợp đồng chứ không
phải do lỗi của ông Sanh.
Gồm có: 160.000.000 đồng (tương ứng giá trị hợp đồng là 82,051%), 100% thiệt hại trong
đó số tiền bồi thường do thiệt hại gây ra là: 660.450.000 đồng (trong bản án phúc thẩm là
330.225.000 đồng) và thanh toán giá trị sử dụng công trình trên đất là 163.000.000 đồng
(trong bản án phúc thẩm là 81.500.000 đồng). Do đó, tổng số tiền sẽ là 938.450.000 đồng.
Căn cứ vào khoản 2 và 4 Điều 131 BLDS 2015:
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả .
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường .
Trong trường hợp này anh Dư và chị Chúc không chịu hợp tác để hoàn thiện các thủ tục về
hình thức của hợp đồng chứ không phải lỗi của ông Sanh. Do đó anh Dư và chị Chúc phải
chịu bồi thường thiệt hại cho ông Sanh tương đương với phần giá trị hợp đồng đã thanh
toán. Ngoài ra có thể căn cứ vào các điều khoản sau trong BLDS 2015:
Điều 360: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
Điều 361: Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
Điều 419: Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng
Điều 585: Nguyên tắc bồi thường thiệt hại (khoản 1)

Câu 9: Trong Bản án số 133, Toà án quyết định huỷ giấy chứng nhận cấp cho anh Dậu
và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được
cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu
không? Vì sao?

Trả lời:
Trong Bản án số 133, Toà án quyết định huỷ giấy chứng nhận cấp cho anh Dậu và ghi nhận
cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất có là hệ quả của giao dịch dân sự vô hiệu.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 131 BLDS 2015: “Khi các bên giao dịch dân sự vô hiệu thì các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.”
Trên thực thế, diện tích đất 350m2 giáp với quốc lộ 47 là của vợ chồng ông Bùi Tiến Văn và
bà Nguyễn Thị Tằm. Năm 2008 vợ chồng ông Văn cho vợ chồng anh Dậu mượn trích lục
đất để thế chấp vay ngân hàng làm ăn. Lợi dụng bà Tằm đi vắng, anh Dậu lập sẵn hợp đồng
quyền sử dụng đất cho anh Dậu, anh Bình và anh Sinh mà không phải đi thế chấp ngân hàng
như đã nói. Do tin tưởng anh Dậu nên ông Văn không đọc kỹ hợp đồng và ký thay bà Tằm.
Sau quá trình giám định chữ ký thì nhận thấy không phải là cùng một người ký và viết ra.
Nên Toà án huỷ chứng nhận quyền cấp đất cho anh Dậu là điều có căn cứ. Việc giao dịch
dân sự đã bị Toà án tuyên bố vô hiệu dẫn đến vô hiệu hợp đồng tặng, cho giữa anh Dậu, anh
Bình, anh Sinh. Vì vậy, trong Bản án số 133, Toà án quyết định huỷ giấy chứng nhận cấp
cho anh Dậu và ghi nhận cho ông Văn, bà Tằm quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để
được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng như ban đầu trình bày trong bản án.

You might also like