Professional Documents
Culture Documents
M C Tiêu 5
M C Tiêu 5
trẻ em gái.
Năm 2015, Chương trình Nghị sự 2030 với 17 mục tiêu phát triển bền vững
(17 SDGs) đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua .Trong đó, bình
đẳng giới đã được nhắc đến là mục tiêu thứ 5 (SDG 5) trong 17 mục tiêu đó.
1. Thực hiện cải cách để cung cấp cho phụ nữ quyền bình đẳng đối với
các nguồn lực kinh tế, cũng như quyền tiếp cận quyền sở hữu kiểm soát
đất đai và các hình thức tài sản, dịch vụ tài chính, thừa kế và tài nguyên
thiên nhiên khác theo luật pháp quốc gia
2. Tăng cường sử dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông, để thúc đẩy việc trao quyền cho phụ nữ
3. Áp dụng và tăng cường các chính sách hợp lý và luật pháp có thể thi
hành để thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em
gái ở mọi cấp
Mới đây nhất, ngày 03 tháng 3 năm 2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 28/NQ-CP về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 –
2030 với mục tiêu tổng quát là tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều
kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất
nước.
THỰC TRẠNG
Thế giới:
- Theo Báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu 2020 (Global Gender Gap
Report 2020), thế giới cần đến 257 năm để có thể hoàn toàn loại bỏ sự
chênh lệch về mặt kinh tế giữa hai giới. Chỉ có 55% phụ nữ từ 15-64 tuổi
tham gia vào lực lượng lao động trong khi nam giới chiếm đến 78% và
đặc biệt, ở vị trí lãnh đạo cấp cao trên toàn cầu, phụ nữ chiếm ít hơn
một phần ba (khoảng 29%). Một con số đáng chú ý đã chỉ ra hiện nay có
đến 72 quốc gia không cho phép phụ nữ mở tài khoản ngân hàng hoặc lấy
tín dụng.
Với những số liệu trên thì việc thu hẹp khoảng cách bình đẳng giới trên
thế giới được đánh giá là “ tiến bộ chậm chạp” và các dấu hiệu trượt
dốc của tỷ lệ bình đẳng trong các lĩnh vực như kinh tế tạo ra một
“trường hợp khẩn cấp đòi hỏi hành động đổi mới và phối hợp”.
Việt Nam:
*một số năm trước
- Trong lĩnh vực chính trị :
Số lượng và tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng (gồm Thị xã, cấp xã) nhiệm kỳ
2015 - 2020: 62/303 chiếm tỷ lệ 20,46%.
- Trong lĩnh vực lao động việc làm :
Tính đến cuối năm 2020, số người trong độ tuổi lao động trên địa bàn thị
xã 65.135 người, trong đó: nữ 28.455 người, chiếm tỷ lệ 43,69%; số lao
động làm việc trong các doanh nghiệp 4.613 người, trong đó: nữ 1.990
người, chiếm tỷ lệ 43,14%. Tỷ lệ thất nghiệp trên địa bàn 1,04%.
Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt ở khu
vực nông thôn được chú trọng, trong năm giải quyết việc làm cho 900 lao
động nữ chiếm tỷ lệ 52,9 % trên tổng số lao động được giải quyết việc làm
mới; 79 lao động nữ được đào tạo nghề theo Quyết định 1956/QĐ-TTg,
chiếm tỷ lệ 59,4%.
Sau khi học nghề có khoảng 80% lao động đã qua đào tạo nghề thuộc
nhóm kỹ thuật và dịch vụ được các trung tâm giới thiệu tìm được việc làm
hoặc tự tạo việc làm, hầu hết 100% lao động đã qua đào tạo thuộc nhóm
nghề nông nghiệp đã ứng dụng các kiến thức đã học phục vụ cho việc sản
xuất nông nghiệp tại địa phương.
- Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
Tỷ lệ giữa nam và nữ kể cả cán bộ, viên chức và học sinh trong từng cấp
học, bậc học là tương đương nhau. Đây là ngành mà tỷ lệ cán bộ nữ chiếm
khá đông và ngày càng tăng. Số cán bộ, giáo viên của ngành giáo dục toàn thị
xã là 1.730 người, trong đó có 1.363 nữ chiếm tỷ lệ 78,78%.
Tỷ lệ đi học mẫu giáo đúng tuổi (3 - 5 tuổi): 88,28%.
Tỷ lệ đi học tiểu học đúng tuổi: 100%.
Tỷ lệ đi học trung học cơ sở đúng tuổi: 95,47%
Trong lĩnh vực y tế:
Hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực
y tế đã giúp thai phụ biết được giới tính của thai nhi bằng phương pháp siêu
âm.
Tuy nhiên hiện nay, tư duy “trọng nam hơn nữ” vẫn còn tồn tại trong nhận
thức của nhiều người dân nên dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi
sinh ngày càng cao, tỷ lệ bé trai được sinh ra nhiều hơn bé gái. Tỷ lệ gia tăng
dân số tự nhiên 1,07%.
* năm 2023
Việt Nam hiện xếp hạng 72 trong danh sách này với tiến độ bình đẳng giới
đạt 71,1%. Về từng chỉ số cụ thể, Việt Nam xếp hạng 31 với tiến độ 74,9%
trong lĩnh vực kinh tế, hạng 89 trong lĩnh vực giáo dục với tiến độ 98,5%,
hạng 144 trong lĩnh vực y tế với tiến độ 94,6% và hạng 89 trong lĩnh vực
chính trị với tiến độ 16,6%.
Việt Nam đang "từng bước tiến tới bình đẳng giới" trong khi thăng 11 hạng so
với báo cáo năm 2022 thông qua sự gia tăng chỉ số Trao quyền Chính trị từ
ngưỡng 13,5% của năm 2022 lên 16,6% trong năm 2023 nhờ có sự xuất hiện
của các bộ trưởng là nữ.
Việt Nam cũng ghi nhận sự bình đẳng hoàn toàn về tỷ lệ phụ nữ làm công
nhân kỹ thuật và phụ nữ kiếm được 81,4% thu nhập kiếm được ước tính của
nam giới.
tỷ số giới tính khi sinh - số bé trai trên 100 bé gái trong tổng số trẻ sinh ra -
đang ở mức rất thấp, thể hiện sự mất cân bằng giới tính và là nguyên nhân
khiến chỉ số Sức khỏe và Tỷ lệ sống của Việt Nam thuộc hàng thấp nhất trên
thế giới.
Định kiến giới: Định kiến giới là những quan niệm, suy nghĩ sai lệch
về vai trò, vị trí của nam và nữ trong xã hội. Định kiến giới đã tồn tại từ
lâu đời và ăn sâu vào nhận thức của nhiều người, dẫn đến sự phân biệt
đối xử với phụ nữ trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thiếu sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo: Phụ nữ chiếm
tỷ lệ thấp trong các vị trí lãnh đạo của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, doanh nghiệp. Điều này khiến cho tiếng nói của phụ nữ chưa được
thể hiện đầy đủ trong các quyết sách của xã hội.
Thiếu cơ chế bảo vệ quyền của phụ nữ: Ở nhiều quốc gia, các cơ chế
bảo vệ quyền của phụ nữ chưa được hoàn thiện, khiến cho phụ nữ dễ bị
bạo lực, xâm hại và phân biệt đối xử.
Ví dụ: Phụ nữ ở Iran phải tuân thủ luật Sharia hà khắc, bao gồm: