You are on page 1of 7

1) THỰC TRẠNG TRÊN THẾ GIỚI

a. Thực trạng năm 2020 :


Thực trang bình đẳng giới trên thế giới :
Theo Báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu 2020 (Global Gender Gap Report
2020), thế giới cần đến 257 năm để có thể hoàn toàn loại bỏ sự chênh lệch về mặt
kinh tế giữa hai giới. Chỉ có 55% phụ nữ từ 15-64 tuổi tham gia vào lực lượng
lao động trong khi nam giới chiếm đến 78% và đặc biệt, ở vị trí lãnh đạo cấp
cao trên toàn cầu, phụ nữ chiếm ít hơn một phần ba (khoảng 29%). Một con
số đáng chú ý đã chỉ ra hiện nay có đến 72 quốc gia không cho phép phụ nữ mở tài
khoản ngân hàng hoặc lấy tín dụng.
Nghiên cứu về bình đẳng giới tiến hành trên bốn cơ sở rộng lớn là sự tham gia và
các cơ hội kinh tế, trình độ học vấn, trao quyền chính trị, sức khỏe và đời sống,
theo đó trung bình trong năm 2020 :
Lĩnh Vực Năm 2020 Năm 2023

Sức Khỏe Và Đời Sống. đạt 96%


Phụ nữ và trẻ em gái
thường có ít cơ hội tiếp cận
dịch vụ chăm sóc sức khỏe
hơn nam giới, đặc biệt là ở
các nước nghèo và khu vực
nông thôn. Điều này dẫn
đến việc phụ nữ và trẻ em
gái có nguy cơ mắc các
bệnh tật cao hơn và có tỷ lệ
tử vong cao hơn.Theo số
liệu của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO), tỷ lệ phụ nữ
có thai được khám thai ít
nhất 4 lần trong thai kỳ ở
các nước kém phát triển chỉ
đạt 55%, thấp hơn so với
mức 83% ở các nước phát
triển. Tỷ lệ phụ nữ sinh đẻ
tại cơ sở y tế ở các nước
kém phát triển chỉ đạt 64%,
thấp hơn so với mức 92% ở
các nước phát triển.

Trình Độ Học Vấn . Cụ thể, trong lĩnh vực đạt 95,2%.


giáo dục, tỷ lệ biết chữ
của nữ giới (từ 15 tuổi trở
lên) những năm qua luôn
thấp hơn nam giới từ 1 -
4%. Đặc biệt tại các
trường Đại học, Cao đẳng,
giảng viên nữ thường có
học hàm, học vị thấp hơn
nhiều so với giảng viên
nam.

Sự Tham Gia Và Các Cơ chỉ có 55% phụ nữ từ 15- đạt 60,1%


Hội Kinh Tế. 64 tuổi tham gia vào lực
lượng lao động trong khi
nam giới chiếm đến 78%.
Ở vị trí lãnh đạo cấp cao
trên toàn cầu, phụ nữ
chiếm ít hơn một phần ba
(khoảng 29%). Một con
số đáng chú ý đã chỉ ra
hiện nay có đến 72 quốc
gia không cho phép phụ
nữ mở tài khoản ngân
hàng hoặc lấy tín dụng.

Trao Quyền Chính Trị Hiện 20 quốc gia có phụ Đạt 22.1%.
nữ làm nguyên thủ quốc
gia và chính phủ. Từ ngày
1/1/2020, 6,6% nguyên
thủ quốc gia được bầu là
phụ nữ (10/152) và 6,2%
nữ lãnh đạo chính phủ
(12/193).
Hãng tin CNN trích dẫn kết quả báo cáo công bố ngày 21/6 cho thấy điểm số
khoảng cách giới tính cho 146 quốc gia năm 2023 là 68,4% - chỉ tăng nhẹ
0,3% so với năm 2022. Nếu xem xét 102 quốc gia được đề cập liên tục từ năm
2006 đến năm 2023, điểm số của năm 2023 là 68,6%, tương đương với mức
tăng 4,1% khiêm tốn kể từ ấn bản đầu tiên của báo cáo được công bố năm
2006.
 Với những số liệu trên thì việc thu hẹp khoảng cách bình đẳng giới trên thế
giới được đánh giá là “ tiến bộ chậm chạp” và các dấu hiệu trượt dốc của tỷ
lệ bình đẳng trong các lĩnh vực như kinh tế tạo ra một “trường hợp khẩn cấp
đòi hỏi hành động đổi mới và phối hợp”.
2) Thực trạng ở Việt Nam :
Việt Nam hiện xếp hạng 72 trong danh sách này với tiến độ bình đẳng giới
đạt 71,1%. Về từng chỉ số cụ thể, Việt Nam xếp hạng 31 với tiến độ 74,9%
trong lĩnh vực kinh tế, hạng 89 trong lĩnh vực giáo dục với tiến độ 98,5%,
hạng 144 trong lĩnh vực y tế với tiến độ 94,6% và hạng 89 trong lĩnh vực
chính trị với tiến độ 16,6%.

Theo báo cáo nhận định, Việt Nam đang "từng bước tiến tới bình đẳng giới"
trong khi thăng 11 hạng so với báo cáo năm 2022 thông qua sự gia tăng chỉ
số Trao quyền Chính trị từ ngưỡng 13,5% của năm 2022 lên 16,6% trong
năm 2023 nhờ có sự xuất hiện của các bộ trưởng là nữ.

Việt Nam cũng ghi nhận sự bình đẳng hoàn toàn về tỷ lệ phụ nữ làm công
nhân kỹ thuật và phụ nữ kiếm được 81,4% thu nhập kiếm được ước tính của
nam giới. Tuy nhiên, tỷ số giới tính khi sinh - số bé trai trên 100 bé gái trong
tổng số trẻ sinh ra - đang ở mức rất thấp, thể hiện sự mất cân bằng giới tính
và là nguyên nhân khiến chỉ số Sức khỏe và Tỷ lệ sống của Việt Nam thuộc
hàng thấp nhất trên thế giới.
1. Mục tiêu 1. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị.
Ban Dân tộc tỉnh hiện có 30 cán bộ, công chức và người lao động, trong đó
11 người là cán bộ nữ chiếm 36,6%, 04 đồng chí là phó trưởng phòng chiếm
30,7%, 01 đồng chí tham gia cấp ủy chi bộ, 01 cán bộ nữ là Chủ tịch Hội chữ
thập đỏ, 01 đồng chí tham gia BCH công đoàn cơ quan, 100% cán bộ nữ có
trình độ đại học.
Ban Dân tộc luôn quan tâm đến công tác cán bộ nữ, giới thiệu, quy hoạch
cán bộ nữ vào các vị trí lãnh đạo quản lý của cơ quan, từng bước nâng cao
vai trò, vị thế của cán bộ nữ.
2. Mục tiêu 2. Bình đẳng giới kinh tế, lao động.
Cơ quan thực hiện tốt công tác Bình đẳng giới đối với cán bộ, công chức nữ
trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao, phù hợp với năng lực, sở
trường của từng cán bộ nữ, để tạo điều kiện cho cán bộ nữ hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Thực hiện chế độ tiền lương và chính sách khác đối với
cán bộ, công chức nữ đúng quy định của Nhà nước.
3.Mục tiêu 3. Trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo
lực trên cơ sở giới.
Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật hôn nhân và gia đình,
phòng chống bạo lực gia đinh cho cán bộ, công chức cơ quan, tổ chức gặp
mặt, tọa đàm nhân ngày gia đình Việt Nam, tổ chức tốt các hoạt động nhân
ngày 8/3 và 20/10 cho cán bộ, công chức nữ.

4. Mục tiêu 4. Trong lĩnh vực y tế.


Công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho cán bộ, công chức nữ
luôn được cơ quan quan tâm, thực hiện đúng quy định của nhà nước. Vận
động cán bộ, công chức thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình và vệ sinh an
toàn thực phẩm.
5. Mục tiêu 5. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo.
Công tác đào tạo, tập huấn cho cán bộ, công chức nữ được tăng cường, nhất
là tập huấn về lĩnh vực công tác dân tộc và chính sách dân tộc, giúp cho cán
bộ, công chức nữ hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao. Trong
năm đã có 20 lượt cán bộ, công chức nữ được đi tập huấn chuyên môn,
nghiệp vụ.
Đánh giá chung và bình đẳng giới năm 2023
Công tác Bình đẳng giới được cơ quan chỉ đạo sát sao, lồng ghép vào các
hoạt động của cơ quan, thường xuyên quan tâm đến chế độ, chính sách cho
cán bộ, công chức nữ, qua đó đã nâng cao vai trò, vị thế, tầm quan trọng của
cán bộ, công chức nữ trong cơ quan.
Công tác tuyển dụng, đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm đối với cán bộ, công
chức nữ ngày càng được quan tâm, góp phần nâng cao tỷ lệ cán bộ, công
chức nữ giữ vị trí lãnh đạo quản lý, cấp ủy và các đoàn thể quần chúng.
Thường xuyên quan tâm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp đối
với cán bộ, công chức nữ cơ quan.

NĂM 2020: BÁO CÁO TỔNG KẾT .


Trong lĩnh vực chính trị :
Số lượng và tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng (gồm Thị xã, cấp xã) nhiệm kỳ
2015 - 2020: 62/303 chiếm tỷ lệ 20,46%.
Tổng số nữ cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có
31 nữ, chiếm tỷ lệ 19,25 %. Trong đó:
+ Ban Thường vụ Thị ủy (là nữ): 02 người.
+ Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và tương đương (là nữ): 12 người.
+ Cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp xã (là nữ): 17 người.
Chất lượng đội ngũ cán bộ nữ giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý
+ Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ: 02 người; Đại học: 29 người
Trong lĩnh vực lao động và việc làm:
Hiện nay, các doanh nghiệp, dịch vụ, làng nghề phát triển tạo công ăn việc
làm cho hàng trăm lao động, trong đó lao động nữ chiếm ưu thế trong các ngành
và lĩnh vực như: dệt may, đan lát, dịch vụ thương mại, nông nghiệp … Tính đến
cuối năm 2020, số người trong độ tuổi lao động trên địa bàn thị xã 65.135 người,
trong đó: nữ 28.455 người, chiếm tỷ lệ 43,69%; số lao động làm việc trong các
doanh nghiệp 4.613 người, trong đó: nữ 1.990 người, chiếm tỷ lệ 43,14%. Tỷ lệ
thất nghiệp trên địa bàn 1,04%.
Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt ở khu
vực nông thôn được chú trọng, trong năm giải quyết việc làm cho 900 lao động nữ
chiếm tỷ lệ 52,9 % trên tổng số lao động được giải quyết việc làm mới; 79 lao
động nữ được đào tạo nghề theo Quyết định 1956/QĐ-TTg, chiếm tỷ lệ 59,4%.
Sau khi học nghề có khoảng 80% lao động đã qua đào tạo nghề thuộc nhóm kỹ
thuật và dịch vụ được các trung tâm giới thiệu tìm được việc làm hoặc tự tạo việc
làm, hầu hết 100% lao động đã qua đào tạo thuộc nhóm nghề nông nghiệp đã ứng
dụng các kiến thức đã học phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp tại địa phương.

Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo:


Tỷ lệ giữa nam và nữ kể cả cán bộ, viên chức và học sinh trong từng cấp
học, bậc học là tương đương nhau. Đây là ngành mà tỷ lệ cán bộ nữ chiếm khá
đông và ngày càng tăng. Số cán bộ, giáo viên của ngành giáo dục toàn thị xã là
1.730 người, trong đó có 1.363 nữ chiếm tỷ lệ 78,78%.
Tỷ lệ đi học mẫu giáo đúng tuổi (3 - 5 tuổi): 88,28%.
Tỷ lệ đi học tiểu học đúng tuổi: 100%.
Tỷ lệ đi học trung học cơ sở đúng tuổi: 95,47%
Trong lĩnh vực y tế:
Hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực
y tế đã giúp thai phụ biết được giới tính của thai nhi bằng phương pháp siêu âm.
Tuy nhiên hiện nay, tư duy “trọng nam hơn nữ” vẫn còn tồn tại trong nhận thức
của nhiều người dân nên dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ngày
càng cao, tỷ lệ bé trai được sinh ra nhiều hơn bé gái. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên
1,07%.
Năm 2011: 109 trẻ trai/100 trẻ gái;
năm 2012: 110 trẻ trai/100 trẻ gái;
năm 2013: 107 trẻ trai/100 trẻ gái;
năm 2014: 115 trẻ trai/100 trẻ gái;
năm 2015: 110 trẻ trai/100 trẻ gái;
năm 2016: 114 trẻ trai/100 trẻ gái;
năm 2017: 119 trẻ trai/100 trẻ gái;
năm 2018: 114 trẻ trai/100 trẻ gái,
năm 2019: 112 trẻ trai/100 trẻ gái,
năm 2020: 111 trẻ trai/100 trẻ gái

You might also like