Professional Documents
Culture Documents
Bất Bình Đẳng Trong Công Việc, Thu Nhập
Bất Bình Đẳng Trong Công Việc, Thu Nhập
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở phụ nữ là 76,8% cũng là tỷ lệ khá cao có thể bị hiểu nhầm là một chỉ báo
về mức độ bất bình đẳng giới tương đối thấp trong tham gia lực lượng lao động khi tỷ lệ này ở nam giới cũng
chỉ ở mức 81,9%. Thực tế vấn đề cấp thiết của sự bất bình đẳng ở đây là vị thế, thu nhập của công việc.
Các thực trạng được biểu hiện qua các dấu hiệu sau:
Trong các vùng kinh tế, sự chênh lệch giữa tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2019 ở nam và nữ cao nhất
là vùng Đồng bằng sông Cửu Long khi tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ là 66,1%, nam là 83,8%
(chênh lệch 17,7 điểm phần trăm.). Trung du và miền núi phía Bắc có mức chênh lệch thấp nhất cả nước là 3,5
điểm phần trăm khi các tỷ lệ tương ứng lần lượt là 84,5% và 88%.
+ Phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với nhiều bất bình đẳng có tính chất dai dẳng do vị thế việc làm có sự khác
biệt tương đối rõ ràng giữa nam và nữ và bất bình đẳng công việc không được trả công trong lao động gia đình.
Nếu xem xét riêng 2 nhóm của việc làm dễ bị tổn thương (lao động tự làm và lao động gia đình), chúng ta có
thể nhận thấy rằng lao động tự làm ở nam giới và nữ giới của Việt Nam là tương đương nhau. Tuy nhiên, phụ
nữ có nguy cơ trở thành lao động gia đình cao hơn gấp đôi so với nam giới. Năm 2019, 2/3 lao động gia đình ở
Việt Nam là phụ nữ (5 triệu lao động gia đình là nữ). Họ chiếm gần 1/4 việc làm của phụ nữ nông thôn (17,6
triệu lao động nữ nông thôn), so với chỉ 2,7 triệu lao động gia đình là nam giới, chiếm 13% của tổng số việc
làm của nam giới ở nông thôn (19,5 triệu).
+ Lao động gia đình không được trả công ở nam giới là 9,2%, con số này ở nữ giới cao gấp hơn 2 lần, 19,4%
trong năm 2019. Tỷ lệ nữ làm công ăn lương tăng từ 37,9% trong năm 2017 lên 43% trong năm 2019, số liệu
này cho thấy tính khả thi của mục tiêu đề ra tại chỉ tiêu 1, mục tiêu 2 của Chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới giai đoạn 2021-2030 đề ra “tăng tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương lên đạt 50% vào năm 2025 và
khoảng 60% vào năm 2030”. Chỉ tiêu 2 mục tiêu 2 của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới cũng đề ra
“Giảm tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống
dưới 30% vào năm 2025 và dưới 25% vào năm 2030”. Hiện tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp có
xu hướng giảm dần nhưng vẫn chiếm đến 35,9% ở nữ giới và 33,2% ở nam giới trong năm 2019
4 lao động nam có việc làm thì có 1 người đã qua đào tạo (tỷ lệ 25%), ở nữ giới thì cứ 5 lao động có việc làm
thì mới có 1 người đã qua đào tạo (tỷ lệ 20%). Tỷ lệ này đặc biệt thấp với lao động nữ thuộc khu vực nông
thôn (chỉ đạt 12,3% năm 2019) chỉ bằng gần 1/3 tỷ lệ của khu vực thành thị (36,3%). Nhằm thúc đẩy việc thực
hiện được Chỉ tiêu 2 mục tiêu 2 của Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới đề ra “Giảm tỷ trọng lao động nữ
làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm xuống dưới 30% vào năm 2025 và
dưới 25% vào năm 2030”. Các nguồn lực dành cho đào tạo, dạy nghề vẫn cần được ưu tiên nhiều hơn cho khu
vực nông thôn, đặc biệt là nữ tại khu vực nông thôn. Theo vùng kinh tế, Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ lao
động nữ đang làm việc đã qua đào tạo thấp nhất là 11,9%, tiếp đến là Tây Nguyên 13,6%, Trung du và miền
núi phía Bắc 15,9%, Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung là 18,4%, Đông Nam Bộ 25,1% và cao nhất là
Đồng bằng sông Hồng với tỷ lệ 27,8%.
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/11/binh-dang-gioi-trong-lao-dong-va-tiep-can-
viec-lam-quan-ly-doanh-nghiep/
http://tapchimattran.vn/the-gioi/phu-nu-va-van-de-binh-dang-gioi-o-cac-vi-tri-lanh-dao-44732.html
https://luatminhkhue.vn/bat-binh-dang-gioi-ve-thu-nhap-cua-nguoi-lao-dong-o-viet-nam-va-mot-so-goi-y-
giai-phap-chinh-sach.aspx#:~:text=S%E1%BB%B1%20b%E1%BA%A5t%20b%C3%ACnh
%20%C4%91%E1%BA%B3ng%20gi%E1%BB%9Bi,c%C3%A1c%20c%E1%BB%99ng%20s%E1%BB
%B1%2C%202006).