You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

ĐỀ TÀI:

Làm rõ quan điểm: “Điều kiện vật chất thay đổi thì sớm muộn
tư tưởng tinh thần cũng thay đổi theo.”

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Linh


Mã số sinh viên : 28206700960
Lớp : PHI 150 G
Giáo viên hướng dẫn: Trịnh Đình Thanh

Đà Nẵng, ngày 23 tháng 09 năm 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC..............................................................................................................................2
I. VẬT CHẤT.................................................................................................................2
1. Định nghĩa về vật chất.................................................................................................2
2. Các đặc tính của vật chất.............................................................................................2
II. Ý THỨC ....................................................................................................................2
1. Ý thức .........................................................................................................................3
2. Các đặc tính của ý thức...............................................................................................3
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ
Ý THỨC .........................................................................................................................5
I. VẬT CHẤT QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC........................................................................5
II. Ý THỨC TÁC ĐỘNG LẠI VẬT CHẤT...................................................................5
CHƯƠNG III. LÀM RÕ QUAN ĐIỂM “ĐIỀU KIỆN VẬT CHẤT THAY ĐỔI THÌ
SỚM MUỘN TƯ TƯỞNG, TINH THẦN CŨNG THAY ĐỔI THEO”........................6
KẾT LUẬN.....................................................................................................................8
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................9
LỜI MỞ ĐẦU
Để chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới, những thành phần của công
cuộc đổi mới của nước ta trong thời gian qua đã tạo ra thế và lực mới, cả trong và
ngoài nước. Hiện đại hóa đó được tạo ra do nhiều chủ đề cần thiết cho công nghiệp
hóa. Các mối quan hệ giữa quốc gia chúng ta và các quốc gia trên toàn cầu ngày càng
mở rộng. Khả năng duy trì độc lập tự chủ và hợp tác với các quốc gia khác nhau ngày
càng tăng. Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội được thúc đẩy bởi
cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng nhanh. Tất cả các quốc gia đều có cơ hội
phát triển. Tuy nhiên, các nước phát triển chậm và đang phát triển phải đối mặt với
những kỹ thuật để làm cho các nước phát triển có ưu tiên thế nào về vốn công nghệ thị
trường. Do điểm xuất phát của nước ta quá thấp và phải đi lên từ môi trường trường
cạnh tranh nghiêm trọng, nguy cơ hỏa táng về kinh tế so với nhiều quốc gia trong khu
vực vẫn là một tri thức lớn và nghiêm trọng.
Trong điều kiện đó, cũng như xu hướng phát triển của thời đại. Công cuộc đổi
mới toàn diện của quốc gia, trong đó đổi mới kinh tế là một phần quan trọng, phải tiếp
tục được đảng và nhà nước ta tiến hành và thúc đẩy. Đổi mớichính trị và đổi mới kinh
tế gắn liền với nhau, vì chúng rất quan trọng với nhau. Do đó, hiểu được mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta áp dụng nó vào các mối quan hệ kinh tế
và chính trị của đất nước, hỗ trợ quá trình phát triển nền kinh tế của chúng ta.
Sau một thời gian nghiên cứu và học tập, với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy

giáo, em đã chọn đề tài " điều kiện vật chất thay đổi thì sớm muộn tư tưởng tinh thần
cũng thay đổi theo ". Bài viết sẽ có nhiều thiếu sót do thời hạn chế và kiến thức của
tôi. Vì vậy, tôi mong muốn sự giúp đỡ của thầy giáo và tất cả các bạn đọc.

1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT
VÀ Ý THỨC.
I. VẬT CHẤT
1. Định nghĩa về vật chất
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về vật chất và vật chất là một phạm vi rất phức
tạp. Nhưng theo Lênin định nghĩa “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Khi Lênin định nghĩa "Vật chất là một phạm trù triết học", ông muốn nhấn mạnh
rằng vật chất là một khái niệm rộng lớn và không giới hạn. Ông cũng muốn phân biệt
vật chất với tư cách là một phạm trù triết học được sáng tạo Về mặt triết học, vật chất
không có những đặc điểm cụ thể có thể cảm nhận được. Định nghĩa vật chất này đồng
nhất vật chất với hình thức biểu hiện dụng cụ thể của nó, giải quyết những khái niệm
siêu hình của chủ nghĩa duy vật trước đây. Định nghĩa vật chất của Lênin phân biệt
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan, cũng như thuyết không thể biết.
Lênin cũng nói rằng mặc dù cảm giác giác sao chép lại mô tả vật chất, nhưng vật
chất vẫn tồn tại. Theo đó, Lênin ủng hộ tính chất thứ nhất của vật chất và vai trò quyết
định của nó theo ý thức. Tuy nhiên, ông cũng ủng hộ phương pháp và khả năng nhận
thức thế giới khách quan của con người. Điều này không chỉ phân biệt chủ nghĩa duy
vật với chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết, mà còn phân biệt nhị nguyên luận
với chủ nghĩa duy vật.
2. Các đặc tính của vật chất.
- Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thông qua vận động.
- Không có vận động ngoài vật chất và không có vật chất không có vận động;
- Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
- Không gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể
và là hình thức tồn tại của vật chất.
 Tính thống nhất vật chất của thế giới.
Theo chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần có trước, chịu trách nhiệm về các
quyết định vật chất. Do đó, họ tin rằng tinh thần là trung tâm của thế giới. Trong khi
đó, chủ nghĩa duy vật biện hộ cho rằng tính chất của thế giới là nguồn gốc chính của
sự kiện nhất. Theo triết học Mác-Lênin, thế giới vật chất là duy nhất và không có thế
giới tinh thần. Thế giới thần kinh của ma quỷ có thể được tìm thấy ở các vị trí bên trên,
bên dưới hoặc bên trong thế giới vật chất. Người ta nói rằng các bộ phận của thế giới
là những loại vật chất cụ thể, có liên hệ vật chất hệ thống nhất với nhau, chẳng hạn
như liên hệ về lịch sử phát triển và cơ cấu tổ chức. Ngoài ra, chúng ta phải luôn trả lời
các thủ thuật luật khách quan của thế giới vật chất. Do đó, thế giới vật chất chỉ là
những quá trình vật chất đang thay đổi và chuyển hóa lẫn nhau và nó vĩnh viễn, vô
hạn, vô tận, là nguyên nhân và là kết quả của nhau.
II. Ý THỨC .

2
1. Ý thức .
Các lập luận khác nhau về ý thức giống như vật chất. Theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật, quan thức là sản phẩm của vật chất và là sự phản ánh thế giới khách
quan vào tâm trí của con người thông qua ngôn ngữ và lao động. Mác nhấn mạnh rằng
tinh thần hoặc ý thức được chuyển vào bộ óc của con người và thay đổi ở đó.
Ý thức là một hiện tõm lớ xã hội phức tạp bao gồm ý thức, tri thức, tìm cảm và ý
chí; quan trọng nhất là tri thức tồn tại.
Vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với nhau trong
quá trình nhận thức của con người và cải biến thế giới tự nhiên, nên tri thức là phương
thức tồn tại của ý thức. Tính năng động của ý thứctăng lên khi tri thức của con người
tiến sâu vào bản chất sự vật và cải tiến sự vật có hiệu quả hơn. Nhấn mạnh rằng tri
thức là yếu tố quan trọng nhất và quan trọng nhất. Điều này phản quan điểm coi tri
thức chỉ là cảm xúc, niềm tin hay ý chí. Nhưng việc nhấn mạnh yếu tố tri thức không
có nghĩa là phủ nhận hoặc coi nhẹ các yếu tố tình cảm chí.
Ý thức tự động là một thành phần quan trọng của ý thức. Theo chủ nghĩa duy
tâm, tự ý thức có thể được tìm thấy trong các cá nhân và là biểu hiện của quan hệ xã
hội. Tự ý thức, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, là ý thức hướng về nhận thức bản
thân mình thông qua mối quan hệ với thế giới bên ngoài.
Mặc dù đó là một biểu tượng hiện tại, nhưng vô thức liên quan đến các hoạt
động xảy ra ngoài phạm vi của ý thức. Hai loại vô thức khác nhau: Loại thứ nhất bao
gồm các hành vi chưa được ý thức của con người; loại thứ hai bao gồm các hành vi đã
được ý thức trước đó nhưng đã trở thành thói quen và có thể diễn ra "tự động" bên
ngoài sự chỉ đạo của ý thức. Nhiều phạm vi hoạt động của kẻ lừa đảo bị ảnh hưởng bởi
vô thức.
2. Các đặc tính của ý thức.
 Nguồn gốc tự nhiên.
Một số hình thức của nó bao gồm phản ánh vật lý, sinh lý, hóa học và tâm lý
cũng như phản ánh năng động và sáng tạo. Chúng được phân loại từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao.
Nói về phản ánh vật lý, hóa học, trước tiên. Đây là loại đơn giản nhất của vật
chất vô sinh. Nó được chứng minh bằng sự thay đổi cơ lý hóa khi những vật chất này
tác động trở lại với nhau. Quá trình tác động này dẫn đến sự thay đổi về cấu hình, vị trí
và tính chất hóa lý. Đây là sự phản ánh không định hướng của vật chất tác động.
Tính kích thích, tính cảm ứng và tính phản xạ ánh sáng sinh học trong giới hữu
sinh. Nó thay đổi để phù hợp với sự thay đổi của thế giới quan. Trong quá trình tiến
trình hóa này, bộ óc con người là sản phẩm tinh vi nhất trong tự nhiên. Việc phản ánh
thế giới quan được nâng lên một mức độ mới. Khi ý thức trở thành một phần của quá
trình xã hội mạnh mẽ của loài người.
 Nguồn gốc xã hội.

3
Ý thức là kết quả của xã hội và văn hóa và được hình thành thông qua các tương
tác giữa con người và môi trường sống của họ. Yếu tố lao động, ngôn ngữ và các quan
hệ xã hội đặc trưng cho kết quả của quá trình phát triển. Nhưng quá trình hình thành ý
kiến yêu cầu ảnh hưởng của con người lên thực tế.
Thực tế là con người có thể ảnh hưởng đến mọi thứ xung quanh họ thông qua lao
động của họ. Họ xem xét các đặc điểm, kết cấu và các quy định về vận động của các
đối tượng đó. Những hiện tượng xảy ra ảnh hưởng đến tâm trí con người và hỗ trợ sự
phát triển của ý thức.
Ngôn ngữ và các mối quan hệ xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển của ý thức.
Ngôn ngữ cho phép con người thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của họ và chia sẻ chúng
với mọi người. Tuy nhiên, các quan hệ xã hội cho phép mọi người học hỏi nhau và
tương tác với các thành viên của xã hội.
Con người đã ảnh hưởng đến thực tế và tạo ra các hiện tượng thông qua lao
động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Những hiện tượng này sau đó ảnh hưởng đến
bộ óc con người và hình thành ý thức. Ý thức được cấu hình thành công qua các tương
tác phức tạp giữa con người và môi trường xung quanh của họ.
 Bản chất của ý thức.
“Ý thức chỉ đơn thuần là vật chất được đưa vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi trong đó ” Karl Marx khẳng định . Tự chủ, sáng tạo và tính xã hội là những
đặc điểm của ý thức.
- Tính tự chủ: Bộ não con người có thể tiếp thu nội dung giống nhau, nhưng lại
sinh ra nhiều chiều hướng suy nghĩ khác nhau. Nó là một cá thể độc lập, thuộc phạm
vi chủ quan. Nên ý thức gần như mang hình ảnh tinh thần, nó có định hướng, có lựa
chọn dựa vào cơ sở vật chất.
- Tính sáng tạo: Biểu hiện ở dạng vật chất di chuyển vào não bộ con người và cải
biến thành cái tinh thần. Nó được thể hiện rất phong phú, đa dạng và trừu tượng hoá,
dựa trên cái đã có sẵn để tạo ra một cái mới chất lượng hơn, phát triển hơn về sự vật,
hiện tượng và con người.
- Tính xã hội: Ý thức trong bất kì tình huống nào đều là sự phản ánh và chính
thực tiễn xã hội, còn gọi là thế giới khách quan của con người, tạo ra một sự phản ánh
phức tạp, năng động, sáng tạo, tư duy và phát triển hơn.
Ý thức là sản phẩm tồn tại của xã hội. Nó bắt nguồn từ xã hội, hình thành do nhu
cầu tiến bộ và cải thiện chất lượng cuộc sống. Trải qua các thời kỳ phát triển từ đồ đá
đến phát minh các khoa học hiện đại, tiên tiến.
Ví dụ : Từ thời kỳ tiền sử, một loài vượn đã tiến hoá thành con người. Và để
sống sót, từ việc ăn trái cây, người ta đã biết tạo ra lửa, biết canh tác để có lương thực
và tạo ra các công cụ phục vụ lao động. Và đó là kết quả, thành tựu của hoạt động vật
chất có tính xã hội của con người. Những yếu tố trên góp phần đưa ý thức trở thành
dấu mốc tinh thần trong sự phát triển tự nhiên của lịch sử nhân loại. Vậy nguồn gốc
hình thành ý thức là gì?

4
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC .
I. VẬT CHẤT QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC
- Thứ nhất: vật chất quyết định nguồn gốc ý thức
Vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất tồn tại tại khách quan. Ý thức
nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Sẽ không có ý thức nếu không có vật chất trong
tự nhiên và vật chất trong xã hội; do đó, ý thức là thuộc tính, là sản phẩm của vật chất
và chịu trách nhiệm đưa ra quyết định.
- Thứ 2: vật chất quyết định nội dung ý thức.
Lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung có ý thức phản ánh, tức
là thế giới khách quan, chủ yếu là hoạt động có tính xã hội. "Ý thức không bao giờ có
thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại của ý thức". Ý thức chỉ là mô tả khách quan của thế
giới. Động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của tư duy, ý
thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội đến văn minh, hiện đại
là sự phát triển của hoạt động thực tiễn, cả về chiềuchiều rộng và chiều sâu.
- Thứ ba: Vật chất quyết định bản chất ý thức.
Trong bản chất của ý thức, phản ánh và sáng tạo là hai đặc điểm chính. Tuy
nhiên, sự phản ánh của con người là phản ánh tích cực và tự giác thông qua thực tiễn
hơn là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc "áo ánh tâm lý" như con vật. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng khác với chủ nghĩa duy vật cũ, chủ nghĩa duy vật cũ coi thế giới vật chấtlà
nơi con người hoạt động thực sự. Chủ nghĩa duy vật cũ coi thế giới vật chất là những
sự vật hoặc hiện tượng cảm tính. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất cải biến thế
giới của con người và là cơ sở để hình thành và phát triển ý thức, trong đó ý thức của
con người vừa phản ánh, vừasáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản
ánh.
II. Ý THỨC TÁC ĐỘNG LẠI VẬT CHẤT.
- Đầu tiên, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất trong đầu óc con người, nhưng
khi nó ra đời, ý thức có "đời sống" riêng, phát triển và không hợp lệ thuộc một cách
máy móc vào vật chất. Đây là lý do tại sao ý thứccó tính độc lập tương đối. Ý thức
tương đối độc lập khi ra đời và ảnh hưởng đến thế giới vật chất. Sự thay đổi của ý thức
có thể diễn ra nhanh hoặc chậm, đi song hành với thực tế, nhưng thông thường thì nó
thay đổi chậm hơn so với sự thay đổi của thế giới vật chất.
- Thứ hai, ý thức phải ảnh hưởng đến vật chất thông qua hành động của kẻ lừa
đảo. Ý thức có khả năng thay đổi điều kiện vật chất và thậm chí chí tạo ra "thiên nhiên
thứ hai" để hỗ trợ cuộc sống của con người. Ý thức bản thân cũng không thể thay đổi
được. Trên cơ sở hiểu biết về thế giới khách quan và các quy định của luật khách quan,
vấn đề người ra các mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để đạt
được những mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là khi ý thức tiến bộ xâm nhập vào quần
chúng nhân dân, lực lượng vật chất chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn.

5
- Thứ ba, vai trò của ý thức là giám sát hoạt động của con người. Nó có quyền
quyết định dữ liệu hoạt động của kẻ lừa đảo là đúng hay sai, và liệu họ đã thành công
hay không. Ý thức có thể dự đoán và tiên đoán thực hiện một cách chính xác và tạo ra
những lý luận định hướng đúng đắn. Khi những luận điểm này được truyền đạt cho
công chúng, chúng tôi sẽ khuyến khích mọi người sáng tạo và nâng cao sức mạnhvật
chất. Ngược lại, ý thức có thể ảnh hưởng tiêu cực khi nó mô tả sai lệch và lừa đảo thực tế.
- Thứ tư, vai trò của ý thức tăng lên cùng với sự phát triển của một xã hội. Điều
này đặc biệt đúng trong thời đại thông tin, kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, nơi ý thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tư tưởng
nhân văn và khoa học rất quan trọng đối với toàn cầu hóa.

CHƯƠNG III. LÀM RÕ QUAN ĐIỂM “ĐIỀU KIỆN VẬT CHẤT THAY
ĐỔI THÌ SỚM MUỘN TƯ TƯỞNG, TINH THẦN CŨNG THAY ĐỔI THEO”

Tư duy của con người được hình thành bởi những gì chúng ta trải nghiệm
và học hỏi trong cuộc sống của mình. Khi điều kiện xung quanh thay đổi, tư duy của
chúng ta cũng sẽ thay đổi để phù hợp với điều kiện mới đó. Điều này có nghĩa là khi
môi trường xung quanh của chúng ta thay đổi, chúng ta cũng sẽ thích nghi và thay đổi
để phù hợp với môi trường mới. Theo một bài báo trên [Psychology Today], “tư duy
của chúng ta được hình thành bởi những gì chúng ta trải nghiệm và học hỏi trong cuộc
sống của mình. Khi điều kiện xung quanh thay đổi, tư duy của chúng ta cũng sẽ thay
đổi để phù hợp với điều kiện mới đó.” Vì vậy, điều kiện vật chất có thể ảnh hưởng đến
tư duy của con người.
Ý thức là ý thức của con người nên nói về vai trò của nó. Trong thực tế, ý
thức tự nó không có khả năng trực tiếp thay đổi bất cứ điều gì. Con người phải thực
hiện các hoạt động vật chất nếu họ muốn thay đổi thực tế. Tuy nhiên, ý thức điều
khiển mọi hoạt động của kẻ lừa đảo, vì vậy vai trò của nó không phải trực tiếp tạo ra
hay thay đổi thế giới vật chất; thay vào đó, nó cung cấp cho con người kiến thức về
thực tế khách quan để học có thể xác minh mục tiêu mục tiêu, xây dựng kế hoạch,
hoàn thành mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với
vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự trở lại của ý thức đối với vật chất có thể diễn ra theo hai cách: tích cực hoặc
tiêu cực. Có ý thức có tác động tích cực đến thế giới nếu con người có nhận thức đúng,
tri thức khoa học, tình cảm cách mạng, nghị lực và ý chí. Hành động của con người
phù hợp với các quy định của khách quan, con người có năng lực vượt qua các thuật
toán trong quá trình thực hiện mục tiêu. Còn nếu ý thức của con người không phản ánh
đúng thực tế, bản chất và quy luật của khách quan, thì hướng hành động của con người
sẽ ngay lập tức lập tức đi ngược lại các quy luật của khách quan, hành động ấy sẽ có
tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.

6
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có
thế quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Hai triết gia duy vật tiêu biểu là Mác và Lê nin chứng minh rằng bản chất
thếgiới là vật chất bao gồm cả điều kiện vật chất, tồn tại khách quan, có trước vàđộc
lập với tinh thần, ý thức. Thế giới tồn tại có nhiều dạng vật chất, có mối liênhệ gắn
bó cùng hòa hợp, kết cấu vật chất khác nhau nhưng chịu sự chi phối hài hòa theo quy
luật. Vật chất tồn tại không sinh ra, không mất đi mà chuyển hóa t ừ d ạ n g n à y s a n g
d ạ n g k h á c , v ĩ n h v i ễ n , v ô t ậ n v à đ ư ợ c n h ậ n t h ứ c , p h ả n á n h trong tinh
thần, ý thức con người. Triết học Mác – Lênin lý giải tinh thần, ý thức là thuộc tính
của một dạng vật chất sống, có tổ chức cao, là bộ óc con người. Tinh thần, ý thức nằm
trong con người, không thể tách rời con người, quá trình hoạt động phản ánh của tinh
thần, ý thức là kết quả hoạt động chủ động của con người.Mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể
tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.Theo Lê-nin thì vật
chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của c o n n g ư ờ i c h é p l ạ i , c h ụ p l ạ i , p h ả n á n h
l ạ i v à k h ô n g t ồ n t ạ i l ệ t h u ộ c v à o c ả m giác. Bên cạnh vật chất, ý thức là kết
quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý thức mang bản chất là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là sự phản ánh tích cực, tự giác,
chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua hoạt động thực
tiễn. Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Ta thấy
được mối liên hệ mật thiết đó qua quan điểm " Điều kiện vật chất thay đổi thì
sớm muộn tư tưởng, tinh thần cũng thayđổi theo." Điều kiện vật chất ở đây đang nói
đến là môi trường sống, là nơi hình hành các công cụ phương tiện để con người
nhận thức thế giới ngày càng tốt hơn. Còn Tư tưởng, tinh thần là những phương
diện đại diện cho ý thức của con người.
Ví dụ: Trong cuộc sống hàng ngày, nếu một người trải qua thành công hay thất
bại, sự thay đổi này có thể ảnh hưởng đến cách suy nghĩ và hành động của họ. Thành
công có thể làm cho người đó tự tin hơn, tăng khả năng đưa ra quyết định và tư duy
tích cực hơn. Ngược lại, thất bại có thể gây ra sự nghi ngờ, lo lắng và suy sụp tinh
thần.
Tương tự, khi xảy ra thay đổi trong môi trường xã hội, kinh tế, chính trị, con
người cũng có xu hướng thay đổi tư tưởng và quan điểm của mình để phản ánh các
tình hình mới. Sự tăng trưởng kinh tế, đổi mới công nghệ hay các biến đổi xã hội có
thể dẫn đến sự thay đổi trong tư duy và giá trị của con người. Điều này chứng tỏ rằng
sự phụ thuộc của tư tưởng tinh thần vào điều kiện vật chất là không thể tránh khỏi. Khi
các yếu tố vật chất thay đổi, tư tưởng tinh thần cũng sẽ thích nghi và thay đổi phù hợp
để đáp ứng với thực tế và tình huống mới.

7
KẾT LUẬN

Tóm lại, triết học của Marx và Lenin thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa vật chất
và tinh thần. Theo quan điểm này, khi điều kiện vật chất thay đổi, tư tưởng và tinh
thần con người cũng sẽ thay đổi để phản ánh những thay đổi đó. Điều này chỉ ra rằng
tư tưởng và tinh thần không tồn tại độc lập mà bị ảnh hưởng bởi môi trường và điều
kiện xã hội.
Hiểu rõ quan hệ này giúp chúng ta nhận thức rằng để thay đổi tư tưởng và tinh
thần của một cá nhân hoặc xã hội, chúng ta cần xem xét và can thiệp vào điều kiện vật
chất tương ứng. Chỉ thông qua thay đổi và cải thiện môi trường sống, hệ thống xã hội
và cung cấp các công cụ phù hợp, chúng ta mới có thể tạo ra sự thay đổi tích cực trong
tư tưởng và tinh thần con người.
Vậy nên, để nhận thức thế giới một cách hiệu quả hơn và thúc đẩy sự phát triển
của tư tưởng và tinh thần, chúng ta cần tập trung vào việc xây dựng một môi trường và
một hệ thống xã hội tốt hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu và phát triển của con người.

8
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Hải, L. N. (2023, 05 23). Luật Hùng Sơn. Retrieved from Luật Hùng Sơn:
https://luathungson.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc.html
Trang, L. (2023, 06 23). Luatviennam. Retrieved from Luatvietnam:
https://luatvietnam.vn/linh-vuc-khac/y-thuc-la-gi-ban-chat-cua-y-thuc-la-gi-883-94479-
article.html#demuc944791
Giáo trình Triết học Mác – Lênin
Studocu
Wikipedia

You might also like