Professional Documents
Culture Documents
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau
* Gợi ý:
* Chỉ với bốn câu thơ tám chữ và bằng vài nét phác họa nhà thơ đã vẽ ra trước
mắt người đọc một bức tranh mùa thu thôn quê đẹp, giản dị, và đầy hấp dẫn:
- Mựa thu bắt đầu với gió heo may mang theo hơi lạnh của đất trời tỏa ra không
gian bao trùm lên vạn vật, có lẽ chẳng ở đâu có cái se lạnh ấy ngoài mùa thu đất
Bắc, cái gió mà từ lâu vẫn được coi là hồn thu Bắc Bộ.
- Nghệ thuật nhân hóa “bờ tre buồn”, đã gợi ra hình ảnh bờ tre như một sinh thể
có linh hồn biết cảm nhận những biến chuyển của thiên nhiên đất trời từ hạ sang
thu nên đã mang một nỗi buồn xao xác.
- Mùa thu thường gợi sự tàn phai thế nhưng trong bức tranh thu này sự tàn phai
ấy được nữ thi sĩ thể hiện qua hình ảnh của ao bèo tàn lụi vừa gần gũi, quen
thuộc lại vừa dân dã. Ao bèo là hình ảnh đẹp của muà hè nhưng khi sang thu đã
tàn lụi, song trong sự tàn lụi ấy, nhà thơ lại phát hiện ra vẻ đẹp mới của thiên
nhiên mùa thu đó là ao thu với làn nước trong veo in bóng mây khiến cho người
đọc liên tưởng tới một sự hòa quyện của mây và nước - một bức tranh thủy mặc
tuyệt đẹp.
- Hay nhất vẫn là hai câu thơ cuối: Đọc hai câu thơ ta thấy choáng ngợp trước
một cảnh tràn đầy sắc vàng của hoa mướp, của nắng và cả của chuồn chuồn
nữa, mỗi màu vàng đều mang một đặc trưng riêng vậy mà khi kết hợp với nhau
lại trở nên tuyệt tác đến vậy.
+ Hoa mướp không phải là loài hoa cao sang nó chỉ là loài hoa mộc mạc, đơn sơ
gần gũi với hình ảnh nông thôn Việt Nam vào mùa hè, được tác giả đưa vào
trong thơ nó trở nên gần gũi, nhuần nhụy và đằm thắm, tinh tế.
+ Hình ảnh con chuồn chuồn được nhân hóa mang tâm trạng như con người:
ngẩn ngơ như tiếc nuối một cái gì đó đã qua. tài liệu của Nhung tây
* Nghệ thuật: Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa ‘tre buồn”, “chuồn
chuồn ngẩn ngơ” và những từ láy: “xao xác, rải rác, ngẩn ngơ” đã bộc lộ được
thần thái của sự vật vừa nhẹ nhàng man mác vừa làm say lòng người.
* Từ vẻ đẹp thiên nhiên mùa thu ta thấy được tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ
trước thởi khắc giao mùa của đất trời từ đó gửi gắm tâm trạng buồn man mác
trước cuộc đời. Qua khổ thơ ta càng thêm yêu vẻ đẹp của quê hương mình.
Cảm nhận về bài thơ “Tháng ba” của Duy Hậu
“Tháng ba sấm gọi mưa rào
Hoa gạo xòe lửa nhóm vào trời xuân
Cây xoan ốm dậy xanh mầm
Cóc đau trở dạ nằm vào góc ao”
Bài làm
Thiên nhiên vốn là đề tài quen thuộc, một nguồn cảm hứng bất tận trong
giới nghệ sĩ nói chung và các nhà thơ nói riêng. Cũng giống như các đồng
nghiệp của mình nhà thơ Duy Hậu luôn hướng ngòi bút của mình vào thiên
nhiên tươi đẹp mà tiêu biểu là bài thơ “Tháng ba”:
“Tháng ba sấm gọi mưa rào
Hoa gạo xòe lửa nhóm vào trời xuân
Cây xoan ốm dậy xanh mầm
Cóc đau trở dạ nằm vào góc ao”
Với thể thơ lục bát truyền thống, ngôn ngữ giản dị. Duy Hậu đã dệt lên
bức tranh cảnh vật trong tiết trời “Tháng ba”. Thật sinh động “Sấm, mưa rào”
vốn là những hiện tượng thiên nhiên bình thường song dưới con mắt tinh tế và
câu văn giàu cảm xúc, cùng nghệ thuật nhân hóa khiến cho thiên nhiên trở lên
trở lên có linh hồn “ Sấm gọi mưa”. Bức tranh thiên nhiên tháng ba dường như
càng đẹp hơn, sinh động hơn bởi sự góp mặt của những bông hoa gạo rực rỡ .
Mỗi bông hoa được tác giả ví như ngọn lửa vào trời xuân để xua đi cái lạnh lẽo
mở ra cuộc sống đầy ấm áp sức sống mùa xuân. Sau mùa đông buốt giá dưới cái
nắng dịu tháng 3 không chỉ có hoa gạo mới bùng lên ngọn lửa đó mà cây xoan
cùng e ấp vươn những mầm xanh non đón ánh mặt trời sau trận “ốm” của mùa
đông. Ngay cả những chú cóc cũng được ngòi bút của Duy Hậu miêu tả rất đặc
trưng “cóc đau trở dạ nằm vào góc ao để chuẩn bị cho kỳ sinh nở.
Với bài thơ “tháng ba” của Duy Hậu không những thành công về nội dung
mà còn thành công về mặt nghệ thuật. Xuyên suốt bài thơ là nghệ thuật nhân
hóa rất đắt cùng với những từ ngữ miêu tả hoạt động trạng thái như “gọi”, ”xòe
lửa”, “ốm dậy” ,”đau”,”trở dạ”...như đã thổi linh hồn vào tất cả các sự vật trong
bài, làm cho sự vật thêm sinh động, sự thành công của bài thơ có sự góp mặt
của những từ ngữ tượng hình, tượng thanh đặc sắc trong con mắt tinh tế, ngòi
bút nhạy cảm của Duy Hậu.
Chắc rằng phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết mới viết được
những vần thơ tuyệt đẹp như vậy. Nó như đòn bẩy khơi gợi tình yêu thiên nhiên
những cảnh đẹp bình dị trong mỗi thế hệ người đọc chúng ta.
Cảm nhận về đoạn thơ sau
“Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm
Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui
Bà nhìn như hạt cau phơi
Cháu cười: quả chuối vàng tươi ngoài vườn
Bố nhớ khi vượt Trường Sơn
Trăng như cánh võng chập chờn trong mây”
(Trăng của mọi người - Lê Hồng Thiện)
Bài làm
Ai mà chả yêu trăng, nhưng với mỗi người trăng lại khác. Nhà thơ Lê
Hồng Thiện đã giúp chúng ta hiểu thêm về trăng qua cách cảm nhận của mỗi
người:
“Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm
Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui
Bà nhìn như hạt cau phơi
Cháu cười: quả chuối vàng tươi ngoài vườn
Bố nhớ khi vượt Trường Sơn
Trăng như cánh võng chập chờn trong mây”
Đọc bài thơ ta như thấy cả gia đình đầm ấm xum họp dưới ánh trăng ngần
và nhâm nhi chén trà sau bữa cơm vui vẻ. trăng của mỗi người là hoàn toàn
khác nhau. Tác giả khéo léo sử dụng nghệ thuật so sánh: “Trăng như lưỡi liềm,
thuyền cong mui, hạt cau phơi, quả chuối, chiếc võng Trường sơn… Thông qua
các hình ảnh này ta thấy rõ được cuộc sống, hoàn cảnh của người lao động. Mẹ
vất vả tần tảo trên cánh đồng sớm khuya nên trăng của mẹ là niềm gặt bao ước
mơ, hạnh phúc cho gia đình, còn với ông trăng như lá buồm cong cong đong
đưa trên song rẽ. Trăng của bà là hạt cau phơi no nắng còn thoảng hương thơm
và qua con mắt của bé ngây thơ nhìn trăng như quả chuối vàng tươi ngoài vườn.
Bố bao năm vất vả với cây sung với trăng trong đêm hành quân lặng lẽ, vì vậy
trăng của bố là cánh võng Trường Sơn. Tác giả dung những động từ: “bảo, rằng,
nhìn, cười, nhứ…” giúp ta hình dung ra cuộc bàn luận sôi nổi về trăng, gợi cuộc
sống, gợi bao khao khát và gợi đầy kỉ niệm mênh mang.
Cảm ơn nhà thơ Lê Hồng Thiện đã mang đến cho em một bài thơ thật hay
và xúc động, qua bài thơ giúp em thêm yêu thiên nhiên, yêu trăng hơn khiến
cuộc sống con người càng phong phú.
Đề 6: Cảm nhận về vẻ đẹp của thiên nhiên mùa thu trong đoạn thơ sau:
“ Gió may nổi bờ tre buồn xao xác
Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay”
(Sang thu – Anh Thơ)
Bài làm
Mùa thu luôn là đề tài, nguồn cảm hứng quen thuộc của thơ ca. Trong
kho tang văn học dân tộc ta đã từng biết đến mùa thu trong veo trong thơ
Nguyễn Khuyến , thu ngơ ngác của Lưu Trọng Lư, dạt dào và đượm buồn trong
thơ Xuân Diệu. Và ta bắt gặp một bài thơ đượm buồn qua bài thơ trên:
“ Gió may nổi bờ tre buồn xao xác
Trên ao bèo tàn lụi nước trong mây
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay”
Chỉ với bốn câu thơ tám chữ và bằng vài nét phác họa, nhà thơ đã vẽ ra
trước mắt người đọc một bức tranh mùa thu thôn quê đẹp, giản dị và hấp dẫn.
Mùa thu bắt đầu với gió heo may mang theo hơi lạnh của đất trời tỏa ra
không gian bao la bao trùm lên vạn vật. Có lẽ chẳng ở đâu có cái se lạnh ấy
ngoài mùa thu đất bắc, cái gió mà từ lâu vẫn được coi là hồn thu bắc bộ. Nghệ
thuật nhân hóa “bờ tre buồn” đã gợi ra hình ảnh bờ tre như một sinh thể, có linh
hồn biết cảm nhận những chuyển biến của thiên nhiên đất trời từ hạ sang thu
nên đã mang một nỗi buồn xao xác.
Mùa thu thường gợi sự tán phai, héo úa, vì thế trong bức tranh thu này sự tàn
phai ấy được một nữ thi sĩ được thể hiện qua hình ảnh ao bèo tàn lụi vừa gần
gũi, vừa thân thuộc lại vô cùng đân dã. Ao bèo là hình ảnh đẹp của mùa hè khi
sang thu đã tàn lụi, song trong sự tàn lụi ấy nhà thơ lại phát hiện ra vẻ đẹp mới
của thiên nhiên mùa thu đó là ao thu với nước trong veo in trên bong mây khiến
cho người đọc liên tưởng tới sự hòa quện giữa mây và nước – một bức tranh
thủy mặc tuyệt đẹp.
Hay nhất vẫn là hai câu thơ cuối: Đọc hai câu thơ ta thấy choáng ngợp trước
một cảnh trí đầy sắc vàng của nắng, của hoa mướp, và cả chuồn chuồn nữa,
mỗi màu vàng đều có một đặc trưng riêng. Vậy mà khi kết hợp với nhau lại trở
lên tuyệt tác đến vậy?
Hoa mướp không phải là loài hoa cao sang nó chỉ là loài hoa mộc mạc, đơn
sơ gần gũi với hình ảnh nông thôn Việt Nam vào mùa hè được tác giả đưa vào
trong thơ khiến nó trở lên gần gũi, nhuần nhụy, đằm thắm tinh tế.
Hình ảnh con chuồn chuồn được nhân hóa mang tâm trạng ngẩn ngơ như tiếc
nuối một cái gì đó đã qua. Bài thơ thành công bởi các biện pháp nghệ thuật nhân
hóa: “ tre buồn, chuồn chuồn nhớ nắng, ngẩn ngơ” và các từ láy “xao xác, rải
rác, ngẩn ngơ” đã bộc lộ được thần thái của sự vật, vừa nhẹ nhàng man mác,vừa
làm say đắm lòng người.
Từ vẻ đẹp của thiên nhiên mùa thu ta thấy tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ
trước thời khắc giao mùa của đất trời từ đó gửi gắm tâm trạng buồn, man mác
làm say lòng người. Qua khổ thơ ta càng thêm yêu quê hương đất nước mình.
Đề 1: Hãy kể lại truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh với vai kể là Sơn Tinh
( Kể sự việc)
a.Mở bài: Sơn Tinh tự giới thiệu về bản thân và mối thù truyền kiếp với Thủy
Tinh
b. Thân bài:
- Hồi đó, ở vùng đất Phong Châu, có một người con gái nổi tiếng xinh đẹp,
hiền dịu tên là Mị Nương, con gái Vua Hùng. Nghe tin vua Hùng kén rể, ta
vội vàng đến cầu hôn.
- Đến nơi, thấy cảnh tượng gì? Thấy những ai?
- Ngoài ta, còn có ai đến cầu hôn Mị nương. Lai lịch, tài năng, dung mạo của
người đó
- Vua Hùng yêu cầu ta và Thủy Tinh trổ tài
- Ta trổ tài gì? Cảnh vật đổi thay như thế nào? Thái độ của nhà vua và quần
thần khi đó? Ánh mắt của Thủy Tinh nhìn ta khi đó? (Cần kể rõ thái độ, tâm
trạng của ta trước, trong và sau khi trổ tài)
- Đến lượt Thủy Tinh: trổ tài gì? Cảnh vật đổi thay như thế nào?Thái độ của
nhà vua và quần thần khi đó? Thái độ, vẻ mặt của Thủy Tinh khi đó?
- Nhà vua nói gì rồi bàn bạc với các lạc hầu để điều kiện gì để chọn rể? Tâm
trạng, nét mặt của ta và Thuỷ Tinh khi đó.
- Ta trở về chuẩn bị như thế nào?
- Sáng sớm ta đem lẽ vật đến rước Mị Nương về
- Đang đi đến nửa đường thì nghe tiếng thét của Thủy Tinh… Ta sai quân
bảo vệ Mị Nương rồi đáp trả Thủy Tinh như thế nào?
- Đội quân của Thủy Tinh gồm những con vật nào? Thủy Tinh làm gì? Quân
của hắn làm gì để đánh ta? Cảnh tượng ngập lụt diễn ra như thế nào?
- Đội quân của ta gồm những con vật nào? Ta làm gì? Quân của ta làm gì để
đánh trả Thủy Tinh?
- Cuộc giao chiến diễn ra bao lâu? Như thế nào? Kết quả của cuộc chiến?
c.Kết bài: Mối thù truyền kiếp giữa ta và Thủy Tinh
*Hướng dẫn về nhà: Dựa vào dàn bài, làm đề 3,4 vào vở bài tập
Đề 4: Trong giấc mơ, em gặp chàng dũng sĩ Thạch Sanh. Hãy kể lại cuộc
gặp gỡ giữa em với chàng.
a, Mở bài:
- Tình huống gặp gỡ: Tối thứ 7, ngồi đọc truyện cổ tích Thạch Sanh, em ngủ
thiếp đi lúc nào không hay. Trong giấc mơ, chàng Thạch Sanh xuất hiện...
b, Thân bài:
* Khung cảnh gặp gỡ: túp lều, dưới gốc đa cổ thụ ...
* Ngoại hình:
- Chàng hiện lên như thế nào? (Miêu tả ngoại hình: thân hình, gương mặt, ăn
mặc, đôi mắt, đôi vai, cánh tay,...)
- Trang phục, trang bị: cởi trần, đóng khố, đầu chít khăn, ngang lưng giắt một
chiếc rìu.
- Hành động: Trên vai vác một bố củi lớn, chàng bước đi mạnh mẽ, nhẹ nhàng.
Ở chàng toát lên vẻ đẹp khoẻ mạnh, hùng dũng khác thường
* Cuộc trò chuyện:
- Em và chàng chào hỏi, giới thiệu ...
- Trò chuyện:
+ Tại sao chàng lại có sức khoẻ phi thường như vậy?
+ Ai dạy chàng mọi phép thần thông?
(HS dựa vào văn bản Thạch Sanh để trả lời)
+ Trong những chiến công của chàng, chiến công nào chàng lập được khó khăn
nhất?
+ TS trả lời rồi kể lại một chiến công
+ Chàng vui nhất khi lập được chiến công nào? Vì sao?
+ Bị Lí Thông lừa nhiều lần, chàng có oán giận mẹ con hắn không? Tại sao lại
tha bổng cho mẹ con hắn? (Nghĩ đến tình anh em, mẹ con...)
Suy nghĩa của em: Chàng thật là người tài giỏi, dũng cảm song cũng thật nhân
hậu, bao dung.
+ Nghe kể nàng đã cưới công chúa và lên làm vua, sao giờ chàng lại ở gốc đa
này?
( ở triều đình, ta rất nhớ quê hương, nơi ta sinh ra, sống những ngày nghèo khổ.
Mấy năm nay đất nước yên bình, thịnh vượng, ta tranh thủ trở lại chốn này ít
hôm để thăm viếng mộ mẹ cha, sống lại những ngày tháng cũ)
Suy nghĩ của em: Chàng thật là người con hiếu thảo, nghĩa tình với cha mẹ, quê
hương.
- Em xin chànd cho nghe một bản nhạc, chàng đem đàn thần ra gảy, tiếng đàn
vang lên ngân nga...
c, Kết bài: Tỉnh dậy...
- Hiểu thêm về vẻ đẹp của chàng dũng sỹ Thạch Sanh, yêu thêm những trang cổ
tích...
Đề 5: Đến thăm đền Hùng nhân ngày giỗ tổ, em đã được gặp các vị vua
Hùng. Hãy kể lại cuộc gặp gỡ đó.
a, Mở bài: Nêu hoàn cảnh gặp gỡ
Được cùng gia đình đến thăm đền Hùng nhân ngày giỗ Tổ. Đêm đó, em nghỉ
lại đền để sáng sớm hôm sau dự lễ dâng hương. Sau một ngày mệt mỏi, em ngủ
thiếp đi lúc nào không hay. Trong giấc mơ, em gặp các vua Hùng (Vua Hùng
thứ mấy? Trong truyền thuyết nào?)
b, Thân bài:
* Khung cảnh gặp gỡ: tại đền : Miêu tả cảnh đền lúc nửa đêm (tượng, mùi
nhang khói, ánh sáng mờ ảo của nhứng ngọn nến,...)
* Vua Hùng hiện lên như thế nào?
- Miêu tả ngoại hình (cao lớn, uy nghi, giọng nói sang sảng, trang phục: áo màu
vàng, in hình rồng, đầu đội mũ dát vàng, bước đi khoan thai,...). Ở ngài toát lên
vẻ uy nghi lạ thường
* Cuộc trò chuyện:
- Chào hỏi, giới thiệu
- Cuộc trò chuyện (chọn vua Hùng nào thì cuộc trò chuyện xoay quanh nội
dung liên quan đến truyền thuyết đó). Ví dụ, gặp và trò chuyện với vua Hùng
thứ 6, trong truyền thuyết Thánh Gióng.
- Thưa ngài, khi đó đất nước có giặc ngoại xâm, lực lượng của ta giặc như thế
nào a?
- Sức giặc mạnh như chẻ tre, còn sức ta còn non yếu lắm. Lương thực thì ít, vũ
khí chưa kịp chuẩn bị đủ, quân sĩ cũng chưa giỏi. Tình thế rất nguy hiểm
- Thế khi đó, tâm trạng ngài thế nào ạ?
- Ta ăn không ngon, ngủ không yên, lòng dạ như lửa đốt. Một mặt ta đốc thúc
tướng lĩnh ra sức luyện tập, chuẩn bị quân lương, một mặt cho sứ giả đi khắp
nơi tìm người tài ra cứu nước.
- Nhưng sao ngài lại biết ở làng Gióng có người tài ạ?
- Một đêm ta nằm mộng, thấy Ngọc Hoàng phán bảo rằng tướng nhà trời đang ở
làng Gióng đó, sao còn lo không dẹp được giặc Ân. Tỉnh dậy, ta sung sướng vô
cùng, vội sai ngay sứ giả đến đó. Quả là tướng nhà trời, chỉ một trận đã phá tan
quân giặc.
- Sau khi dẹp tan giặc Ân, tráng sĩ làng Gióng bay về trời có phải không ngài?
- Phải. Nghe tin thắng trận, ta vui mừng đích thân cùng triều thần đi đón tráng
sĩ, nhưng khi đến chân núi Sóc thì chỉ thấy một bộ giáp sắt bỏ lại. Nhìn lên phía
đỉnh núi thấy bòng tráng sĩ cưỡi ngựa bay vút lên mây. Rồi cả người lẫn ngựa
lẫn trong vầng hào quang dần dần biến mất. Ta biết, vị tướng đã về trời theo
lênh Ngọc Hoàng.
- Vậy ngài đã làm gì để tưởng nhớ công ơn vị tướng này ạ?
- Ta cho dân lập đền thờ ngay tại quê nhà, hàng năm dân làng đều mở hội để
tưởng nhớ công ơn của tráng sĩ. Lễ hội đó vẫn duy trì đến tận bây giờ đó cháu.
-Thế cháu đã đến làng Gióng bao giờ chưa?
- Cháu đến rồi ạ. Cháu đến dự lễ hội làng Gióng vào tháng 4 âm lịch. Ở đấy, có
nhiều điều lạ lắm ngài ạ. Mảnh đất nơi ấy chỗ nào cũng thấy hồ ao, tre thì thân
vàng óng, lại có cả một cái làng có cái tên là làng Cháy.
- Đấy chính là những vết tích của cuộc chiến năm ấy đấy cháu ạ. Những ao hồ
liên tiếp chính là chân ngựa sắt, tre ngả màu vàng óng là do bị ngựa phun lửa
đấy. Ngựa phun lửa còn làm cháy cả một làng nên bây giờ người ta gọi đó là
làng Cháy đấy.
3, Kết bài: Tỉnh dậy: Câu chuyện đang vui vẻ thì bỗng có tiếng mẹ gọi...
- Hiểu thêm công lao của cha ông...
BÀI MẪU THAM KHẢO
Ta là Mị Nương, con gái vua Hùng thứ mười tám. Vì chỉ có một mình ta nên
vua cha rất mực yêu thương. Ta cũng không phụ lòng người, không làm điều gì
khiến cha phải buồn. Thấy ta đã đến tuổi lấy chồng, lại xinh đẹp, nết na, vua cha
muốn kén cho ta một người chồng thật xứng đáng.
Hồi ấy, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một chàng là Sơn Tinh tướng mạo phi
thường. Chàng là thần núi Tản Viên nổi tiếng tài đức một vùng.Trông chàng
thật hùng dũng, oai phong. Chàng mặc bộ áo giáp, đầu đội chiếc mũ miện vàng
chói lọi, chân đi hài đỏ, bước đi nhanh nhẹn. Chàng cúi xuống lạy cha ta rồi xin
được trổ tài. Chàng vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía
tây, phía tây mọc lên những dãy núi đồi. Tiếng reo hò ca ngợi không ngớt. Ta
quay sang cha ta thấy cha ta gật đầu tỏ vẻ hài lòng. Đến lượt chàng thứ hai trổ
tài. Chàng này là Thủy Tinh, chúa vùng nước thẳm. Chàng này cũng hùng dũng
không kém. Chàng mặc bộ quần áo được dệt bằng những chiếc vảy cá rất to và
cứng, đi theo sau chàng là những thần cua, thần cá. Chàng vung tay cất tiếng gọi
oang oang. Bỗng đâu, một luồng gió mạnh thổi tới, rồi mây đen ùn ùn kéo đến,
mưa rơi xuống ào ào. Trổ tài xong chàng cũng lạy cha ta. Vua cha thấy hai
người cùng xứng đáng, không biết chọn ai. Vua cha hỏi ý ta. Ta cũng lắc đầu
nhưng thực tình ta thấy mình có cảm tình với Sơn Tinh nhiều hơn Thủy Tinh,
dù rằng cả hai chàng cùng ngang sức ngang tài. Vua cha không biết chọn ai, từ
chối ai bèn cho vời Lạc hầu, Lạc tướng tới để bàn bạc. Sau đó vua cha phán:
“Hai ngươi đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một cô con gái. Thôi thì ngày mai, ai
đem sính lễ đến trước, ta sẽ gả con gái cho”.
Hai chàng bèn hỏi sính lễ gồm những gì? Cha ta nói sính lễ bao gồm: “Một
trăm ván cơm nếp, một trăm nẹp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa
chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”. Thấy cha ta ra lễ vật như vậy, ta cũng hơi lo
vì kiếm đâu ra được những vật kì quặc như thế. Nhưng rồi ta lại nghĩ khác “
Chắc vua cha cũng ưng Sơn Tinh hơn nên ra lễ vật ở trên rừng cho chàng dễ
kiếm, còn ở dưới biển kiếm đâu ra voi, gà, ngựa…”. Nghĩ thế ta cũng an lòng.
Quả nhiên sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước rước ta về núi. Đang
đi đến nửa đường, bỗng ta nghe thấy một tiếng thét kinh hoàng ở phía đằng sau.
Theo lời một người lính hầu thì Thủy Tinh đem sính lễ đến sau, không lấy được
ta nên đuổi theo để đánh Sơn Tinh. Ta vội báo cho Sơn Tinh biết. Tiếng thét
vọng lại gần và Thủy Tinh xuất hiện. Ta nhìn hắn với đôi mắt đầy căm thù và
tức giận. Không lẽ nào một con người như hắn lại có những hành động vô lý ấy.
Lúc đến cầu hôn ta, tưởng hắn cũng là người tử tế, ai ngờ… Quả đúng là một
con người, nhỏ nhen, ích kỉ. Trận đánh giữa hắn và Sơn Tinh diễn ra rất ác liệt.
Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành giông bão rung chuyển cả đất trời.Tay
hắn vung lên, hạ xuống, miệng thét gầm: “Sơn Tinh, trả Mị Nương cho ta!”.
Giông bão cuồn cuộn trôi nhà cửa, ruộng đồng. Ta ngồi trong kiệu chứng kiến
cảnh đánh nhau, mong sao Sơn Tinh thắng. Thủy Tinh dâng nước đánh Sơn
Tinh. Nước ngập nhà cửa, ruộng đồng, ta tưởng như thành Phong Châu đang
nổi lênh đênh trên mặt nước. Ta lo cho vua cha, thần dân và còn lo cho cả chồng
ta nữa. Khủng khiếp quá chừng! Ta chưa thấy trận đánh nào to và dữ dội như
thế này. Gió thét ào ào. Mưa trút như thác chảy. Chồng ta, nét mặt bình thản,
bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi ngăn chặn dòng nước của Thủy Tinh. Chàng
đứng trên núi cao ra lệnh cho quân lính đưa ta về nhà để tránh tai nạn. Trên
đường về, ta thấy nước của Thủy Tinh càng dâng mạnh bao nhiêu thì núi của
Sơn Tinh ngày càng dâng cao bấy nhiêu. Điều đó cũng làm cho ta thêm hi vọng
về chiến thắng của chồng. Và sự thật đúng như vậy, Thủy Tinh đuối sức, đành
rút quân về.
Từ đó, oán nặng thù sâu, Thủy Tinh thường dâng nước đánh vợ chồng ta. Vào
những ngày ấy, ta lại lo cho nhân dân bị lũ lụt và mong chồng chiến thắng kẻ
thù, mang lại bình yên cho mọi người dân. Đáp lại lòng mong mỏi của ta, chồng
ta luôn giành thắng lợi. Vì vậy, Thủy Tinh đánh chán, đánh chê nhưng đành rút
quân về trong nỗi nhục ê chề không thể xóa nổi