Professional Documents
Culture Documents
Rối loạn nhân cách
Rối loạn nhân cách
Khái niệm:
Rối loạn nhân cách là các rối loạn sự hình
thành tính cách và xu hứơng hành vi của
một cá nhân gắn liền với một sự đảo lộn lớn
về mặt cá nhân và xã hội.
Rối loạn nhân cách là một bệnh tâm thần
ranh giới, biểu hiện bằng những nét tính nết
bệnh lý đặc biệt, nhân cách mất thăng bằng,
rối loạn sự thích nghi của cá nhân với môi
trường và các mối quan hệ bình thường với
những người xung quanh
Rối loạn nhân cách thường phát triển ở lứa tuổi vị
thành niên và tuổi thanh niên, vì thế cho nên người ta
không chẩn đoán rối loạn nhân cách ở trước tuổi 16 –
17 tuổi.
Tỉ lệ RLNC ở nhiều nuớc trên thế giới khoảng 2,3%
Theo điều tra, ở Việt Nam là 02 - 0,5% dân số
http://www.bvtttw1.gov.vn
Căn nguyên
• Những đặc điểm của rối loạn nhân cách ổn định kéo
dài, dai dẳng và không khu trú vào các giai đoạn của
b một bệnh tâm thần biệt định
• Những rối loạn tâm lý nhân cách đã dẫn đến sự đau khổ sâu sắc về
mặt cá nhân, nhưng xuất hiện muộn hơn trong quá trình tiến triển
e của bệnh
• Rối loạn nhân cách không giảm sút trí năng và không làm giảm các
hoạt động nghề nghiệp và xã hội. Có thể đánh giá nhân cách bằng
f sử dụng một số test tâm lý, ví dụ MMPI
Các thể lâm sàng
Có xu hướng khép kín, ít cởi mở, tách rời thực tế, mất khả
năng cảm nhận về sự thích thú. Cảm xúc lạnh nhạt hoặc mất
khả năng thể hiện tình cảm với người khác, thu hẹp các mối
quan hệ với người khác, thường người ta gọi là những người
gàn, người lập dị và khó hiểu
BN rối loạn nhân cách dạng phân liệt thích sống một mình,
không có quan hệ bạn bè và thậm chí ít có sự giao tiếp với
người thân, thường lạnh lùng xa lánh, ít bộc lộ cảm xúc
Các thể lâm sàng Rối loạn nhân cách chống xã hội (F60.2)
Xuất hiện từ trước tuổi 15 và đến tuổi vị thành niên, biểu hiện
HV nói dối, trốn nhà, ăn trộm, đánh nhau và kích động mà không
tỏ ra hối lỗi. Ở trường học, trẻ hay chốn học, bỏ giờ học không lý
do hoặc xúc phạm giáo viên và thường là trung tâm gây rối trong
lớp học. BN thường bỏ học dở chừng và lạm dụng, nghiện chất
như rượu, ma tuý
Hoạt động đặc trưng của hành vi chống đối xã hội như: đánh
nhau, trộm cắp, thường xuyên phạm pháp và bị bắt nhiều lần
đưa vào các bệnh viên chuyên khoa tâm thần điều trị bắt buộc
do chưa đủ tuổi vị thành niên.
Bệnh khởi phát ở tuổi thành niên, RLCX không ổn định nằm ở
ranh giới giữa suy nhược và loạn thần. Các đặc điểm nổi bật là
không ổn định về cảm xúc, khí sắc, hành vi và các mối quan hệ
về bản thân.
Rối loạn nhân cách phụ thuộc có hai đặc điểm chi
phối mọi hành vi của bệnh nhân như sau
+ Mất khả năng đưa ra đáp ứng mà phụ thuộc vào
quyết định của người khác
+ Luôn cần sự giúp đỡ của người khác, phụ thuộc
vào người khác
Trong điều kiện được bảo vệ, họ có thể làm rất tốt
các chức năng xã hội và công việc khác nhưng khi
không có người bảo vệ thì họ bị mất khả năng hoạt
động xã hội nghiêm trọng
Tiêu chuẩn phân loại các rối loạn nhân cách
Tỉ lệ phổ biến các dạng rối loạn nhân cách
Điều trị rối loạn nhân cách
Trong việc điều trị rối loạn nhân cách phải sử dụng cơ chế bù trừ
thích hợp, sử dụng liệu pháp tâm lý, giáo dục, lao động cùng với
các thuốc điều trị triệu trứng kích động, lo âu hoặc trầm cảm
Liệu pháp tâm lý: cá nhân, nhóm, phân tích
Điều trị tại cộng đồng: thảo luận nhóm bn với sự giúp đỡ của
cộng đồng
Điều trị bằng hoá dược: tùy từng thể mà sử dụng các thuốc hợp
lý; ví dụ: thuốc chống loạn thần: risperidol 4-6 mg/ngày,
olanzapine 5mg/ngày, chống trầm cảm: Elavil: 50 – 70mg/ngày,
fluoxetine 20mg/ngày…
Đánh giá người bệnh có tiềm năng bị RLNC