Professional Documents
Culture Documents
Các chỉ tiêu ôtô trên đường. Chỉ tiêu lực phanh ở bánh xe thường được dùng
để đánh giá hiệu quả phanh khi thử ôtô trên bệ thử.
đánh giá
•Như vậy trong thực tế thường dùng một trong 3 chỉ tiêu để
đánh giá hiệu quả phanh là quãng đường phanh hoặc gia tốc chậm
dần khi phanh ở bánh xe. Còn chỉ tiêu thời gian phanh chỉ dùng
phanh quả phanh của ôtô chỉ cần dùng một trong các chỉ tiêu ấy. Để đánh
giá tính ổn định hướng của ôtô khi phanh người ta dùng chỉ tiêu
góc lệch β khi phanh hoặc quy định hành lang cho phép mà cuối
quá trình phanh ôtô phải nằm trong hành lang đó.
Nước Quãng đường Gia tốc chậm dần Lực phanh
phanh
Cực đại Trung bình
Nga + +
Đức + +
đánh
Áo +
Bỉ + +
Đan Mạch +
giá phanh Ý
Mỹ
+
+ + +
Nhật Bản
+
+ +
Các thí nghiệm đánh giá
chất lượng phanh ô tô trên
đường và trên băng thử
Thí nghiệm
phanh ô tô
trên đường
Các chế độ thử phanh
• Trong điều kiện nghiên cứu, thiết kế, chế tạo việc thử phanh
được tiến hành ở 3 chế độ như sau:
+Chế độ 0: Chế độ thử phanh nguội, nghĩa là thử phanh khi nhiệt
độ trống phanh nhỏ hơn 100oC.
+Chế độ I: Chế độ thử phanh nóng, nghĩa là thử phanh được rà
nhiều lần cho đến khi nhiệt độ trống phanh lớn hơn 100oC rồi
mới đem thử.
+Chế độ II: Chế độ thử phanh trên đường dốc dài, trống phanh
nóng trong thời gian dài.
• Sở dĩ phải thử phanh ở chế độ I và II là vì khi trống phanh bị
nóng thì hệ số ma sát giữa má phanh và trống phanh bị giảm
nhiều, do đó hiệu quả của phanh sẽ kém đi.
Tiêu chuẩn về chất lượng phanh
•Tiêu chuẩn hiệu quả phanh của ô tô khi thử trên đường đối với trường hợp nghiên cứu, thiết kế
chế tạo được trình bày ở bảng 7.2, khi thử thì ô tô ở trạng thái đầy tải.
•Tiêu chuẩn về ổn định hướng của ôtô khi phanh trong điều kiện nghiên cứu khoa học, thiết kế
chế tạo là trục dọc của ôtô không lệch quá 80 so với hướng trục dọc lúc bắt đầu phanh hoặc cuối
quá trình phanh thì ôtô vẫn nằm trong hành lang cho phép là 3,5m
•Trong điều kiện sử dụng thì hệ thống phanh được kiểm tra định kỳ bằng cách thử ở chế độ
phanh nguội (chế độ 0) với tiêu chuẩn cụ thể được trình bày ở bảng 7.3. Tiêu chuẩn này được Bộ
Giao thông vận tải Việt Nam ban hành năm 1995. Khi thử thì cho xe ôtô ở trạng thái không tải
chạy trên đường nhựa khô nằm ngang ở vận tốc bắt đầu phanh là 8,33m/s (30km/h), nếu đạt
tiêu chuẩn ở bảng 7.3 thì cho phép lưu hành trên đường
M1 – Ôtô chở khách không quá 8 chỗ ngồi,
không kể người lái
M2 – Ôtô chở khách hơn 8 chỗ ngồi, không
kể người lái, trọng lượng toàn bộ ≤ 5 tấn
•Đo gia tốc chậm dần khi phanh: Phương pháp tiến hành
- Người lái cho xe chạy với vận tốc như trong bảng 7.2. tức là : Đối với xe tải: 40 70 km/h. Đối với
xe khách: 60- 80 km/h. Đo với gia tốc kế loại con lắc thì ta tiến hành gắn các núm cao su 3 của
con lắc vào mặt phẳng của vỏ ô tô, và phải lắp đặt sao cho con lắc nằm ở vị trí thẳng đứng và kim
chỉ lúc đầu đúng vào vạch 0. Giảm tốc kế loại con lắc cho phép đo gia tốc chậm dần cực đại khi
phanh. Đo với gia tốc kế loại thủy ngân khi có giảm gia tốc thì thủy ngân ở bình 1(hình 7.3) sẽ di
chuyển từ ống này sang ống kia và làmdịch chuyển mức chất lỏng ở các ống nghiêng. Giản tốc kế
thủy ngân cho phép đo gia tốc chậm dần cực đại khi phanh (số chỉ trên ống 3) hoặc đo gia tốc
của ôtô theo số chỉ trên ống 2
Cấu tạo giảm tốc hình con lắc
•Đo gia tốc chậm dần khi phanh: Dụng cụ thí nghiệm
- Giảm tốc kế hình con lắc có kết cấu đơn giản, nó gồm con lắc 1
được treo trong 1 vỏ hộp kín bằng nhựa 2. Khi phanh do có lực
quán tính làm cho con lắc nghiêng đi một góc và kim chỉ của gia tốc
kế cũng nghiêng theo. Gia tốc ngày càng lớn thì con lắc nghiêng
càng nhiều. Trên vỏ nhựa 2 có thang chia độ để chỉ gia tốc m/s2 .
Thân của gia tốc kế có các núm cao su 3 hình côn để gắn gia tốc kế
vào mặt phẳng của vỏ ôtô mà chúng ta muốn đo gia tốc. Khi ấn
mạnh các núm cao su hình côn 3 vào bề mặt phẳng của ôtô thì dưới
núm cao su sẽ là chân không, do đó ở phía ngoài của núm cao su sẽ
có áp suất khí trời ép các núm cao su miết chặt vào mặt phẳng của
ôtô, nhờ vậy mà giảm tốc kế được gắn chặt vào thân ôtô.
Cấu tạo giảm tốc kế loại thủy ngân
•Đo gia tốc chậm dần khi phanh: Dụng cụ thí nghiệm
- Nó gồm bởi những ống thông nhau ở dưới có chứa thủy ngân và phía trên
có chứa chất lỏng có mầu. Các ống thủy tinh được đặt trong một vỏ hộp có
mặt kính và đặt trên ô tô ở tư thế nằm nghiêng. Khi có giảm tốc thì thủy
ngân ở bình 1 sẽ di chuyển từ ống này sang ống kia và làm dịch chuyển mức
chất lỏng ở các ống nghiêng. Sự dịch chuyển chất lỏng càng nhiều khi giảm
tốc càng lớn. Dịch chuyển chất lỏng trên ống 3 chỉ giảm tốc và trên ống này
có thang đo đến 8 m/s2 . Ống 2 dùng để đo gia tốc và trên ống này cũng có
thang đo kháctheo m/s2 . Tiết diện của ống 2 nhỏ hơn tiết diện của ống 3.Ở
phía dưới của bình thông nhau 1 có thần eo lại (tiết diện nhỏ đi) với mục đích
giảm chấn khi khối thủy ngân dịch chuyển. Bình dự trữ 5 nhằm mục đích
giảm ảnh hưởng của sự thay đổi nhiệt độ. Hai ống 2 và 3 được thông với
nhau bằng một ống rất nhỏ 4 để khi ô tô không hoàn toàn nằm trên mặt
phẳng ngang thì chất lỏng có mầu vẫn nằm ở mức ngang nhau tương ứng
với vạch số 0.
- Giảm tốc kế loại thủy ngân cho phép đo gia tốc chậm dần cực đại khi phanh
(chỉ số trên ống 3) hoặc đo gia tốc của ô tô (thí dụ khi khởi động hoặc khi
chạy với gia tốc) theo chỉ số trên ống 2.
Phương pháp tiến hành và dụng cụ thí nghiệm phanh ô tô trên
đường
II. Thí
Ngoài ra bệ thử còn cho phép đo thời gian chậm tác dụng của
dẫn động phanh ở từng bánh xe
• Bệ thử con lăn (Hình 7.5) hiện nay được dùng nhiều, nó có ưu
điểm là chiếm diện tích bé, chế độ ổn định, và có thể tiến
nghiệm hành thử ở bất cứ thời tiết nào vì bệ thử được đặt trong
phòng. Khi thử phanh trên bệ trong kiểm tra định kỳ thì tổng
lực phanh ở các bánh xe phải lớn hơn hoặc bằng 50% trọng
phanh trên
lượng của ô tô và độ sai lệch lực phanh trên cùng một trục
không được vượt quá 20% so với lực phanh lớn nhất ở trên
trục đó.
bệ thử • Để giảm tiêu hao công suất trong kiểm tra phanh định kỳ (vì
kiểm tra phanh định kỳ được tiến hành đại trà cho tất cả ôtô
lưu hành trong sử dụng và số lượng này rất lớn) thì tốc độ
tiếp tuyến của các con lăn (tương ứng với tốc độ chuyển
động tịnh tiến của ôtô) thường có giá trị thấp từ 4 ÷ 6 km/h.
II. Thí nghiệm phanh trên bệ thử
• Phương pháp tiến hành:
• Kiểm tra các dụng cụ thí nghiệm trước khi tiến hành thí nghiệm. Người lái cho xe vào bệ thử, khi
đó bánh xe sẽ được đặt lên con lăn 2. Tiến hành khởi động động cơ điện 3, khi đó động cơ điện
dẫn động các con lăn 2 và qua ma sát làm quay các bánh xe ô tô 1.
• Khi có hiệu lệnh của người điều khiển, người lái xe tiến hành đạp bàn đạp phanh. Khi phanh thì
các bánh xe sẽ cản trở sự quay của các con lăn 2, do đó sinh ra mô men phản lực được đo bằng
các lực kế 4. Mô men phản lực tỷ lệ thuận với mô men phanh sinh ra trên bánh xe.
• Ta tiến hành đo lần lượt lực phanh cho các bánh xe.
• Khi thử phanh trên bệ trong kiểm tra định kỳ thì tổng lực phanh ở các bánh xe phải lớn hơn hoặc
bằng 50% trọng lượng của ô tô và có độ sai lệch lực phanh trên cùng một trục không được vượt
quá 20% so với lực phanh lớn nhất ở trên trục đó
Dụng cụ thí nghiệm
• Bệ thử con lăn là thiết bị dùng để thí
nghiệm phanh (hình 7.5). Bệ thử gồm có
động cơ điện 3 dẫn động các con lăn 2 bộ
phận đo lực 4. Bề mặt con lăn có các gân
hoặc có độ nhám đảm bảo hệ số bám
giữa con lăn và lốp xe không nhỏ hơn
0,65 ÷ 0,70. Loại bệ thử này được dùng
nhiều trong kiểm tra phanh định kỳ
THE END