Professional Documents
Culture Documents
Con Người
Con Người
1. Con người - một thực thể “sinh vật - xã hội - tinh thần”
- Tiền đề đầu tiên của sự tồn tại người là sự sống của thể
xác. Thể xác của con người trước hết là vật thể của giới tự
nhiên.
- Trong thể xác “khả tử” của con người luôn có những nhu
cầu tự nhiên (ăn, uống, ngủ, nghỉ, duy trì nòi giống, tự
vệ…), mà thiếu những cái này thì con người không thể tồn
tại được; và chịu sự tác động của những quy luật vật lý,
hóa học, sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường,
di truyền và biến dị, sự tiến hóa…) giống như những sinh
vật khác.
I. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1. Con người - một thực thể “sinh vật - xã hội - tinh thần”
1. Con người - một thực thể “sinh vật - xã hội - tinh thần”
- Cấu trúc “sinh vật - xã hội” cùng quá trình lao động và
ngôn ngữ mà con người phản ánh một cách tích cực, sáng
tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc của mình và trên
cơ sở đó hình thành nên ý thức.
Ý thức là hiện thực tinh thần, gắn liền với sự sống và cái
chết của thể xác con người, được “vật chất hóa” dưới dạng
ngôn ngữ, biểu tượng, khái niệm, phạm trù…
→ Trong cơ thể con người (ngoài những nhu cầu và những
quy luật sinh học, xã hội) còn những nhu cầu và những quy
luật tinh thần.
I. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1. Con người - một thực thể “sinh vật - xã hội - tinh thần”
→ Con người là một thực thể “sinh vật - xã hội - tinh thần”,
sự tác động của ba hệ thống nhu cầu (nhu cầu sinh học, nhu
cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật (quy
luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần); hệ thống
nhu cầu xã hội và quy luật xã hội giữ vị trí trung tâm và có
vai trò quyết định.
Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật có vị trí, vai trò và tác
dụng của mình trong sự tồn tại và phát triển của con người;
chúng tham gia vào việc quy định bản chất của con người.
I. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Trong quá trình lao động sản xuất, con người bộc lộ hai
loại quan hệ cơ bản mang tính khách quan: Quan hệ của
con người với giới tự nhiên được thể hiện ở lực lượng sản
xuất, quan hệ giữa con người với con người được thể hiện
ở quan hệ sản xuất.
- Khi ra đời, con người không thể tự chọn cho mình những
quan hệ, phải gia nhập ngay vào quan hệ đã có, phải trở
thành “cái mang những mối quan hệ xã hội ấy”.
→ Trong đời sống thực tiễn, con người không bộc lộ như là
thực thể sinh vật, mà là thực thể xã hội.
I. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
- Trong khi tuyệt đối hóa lợi nhuận, mãnh lực đồng tiền và
sùng bái hàng hóa, CNTB làm cho mọi quan hệ của con
người tan biến sau “lợi ích lạnh lùng”, mọi tình cảm nhấn
chìm “trong làn nước băng giá của sự tính toán ích kỷ”.
→ Sự tha hóa trở thành phổ biến; các nhà tư bản không
khống chế được bản thân mình và những sản phẩm của xã
hội.
→ Họ cũng trở thành nạn nhân và không thể tự giải phóng
được mình.
→ Sự “tha hóa con người” do hoạt động của chính con
người tạo ra; bằng chính hoạt động tích cực của mình, con
người có thể xóa bỏ được sự “tha hóa” của mình.
I. CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Cá nhân
Cá nhân
- Trong XH có GC, mỗi giai cấp đều do các cá nhân –
thành viên của GC – hợp thành.
Mỗi cá nhân trong một giai cấp, mang bản chất chung
của con người, mang bản chất một giai cấp nhất định; có
những đặc điểm riêng làm cho cá nhân này không giống cá
nhân khác.
- Phân biệt cá nhân với cá thể người. Một con người mới
lọt lòng chưa có ý thức, chưa có những quan hệ xã hội thật
sự, chưa thể gọi là một cá nhân.
Con người có ý thức, có thế giới nội tâm riêng, có những
quan hệ xã hội riêng, mới trở thành một cá nhân đúng
nghĩa khái niệm này.
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Xã hội
Xã hội
- XH phân chia thành các giai cấp đối kháng, giữa cá nhân
và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu thuẫn sâu sắc
Con người thuộc giai cấp bị bóc lột, như nô lệ, nông nô,
vô sản thiếu những điều kiện xã hội để trở thành những cá
nhân thật sự.
Con người không thể khẳng định cá nhân mình trên cơ sở
làm chủ hoạt động lao động, những thành quả lao động
của mình.
Các thành viên giai cấp thống trị, là những con người có
đặc quyền, đặc lợi được khẳng định với tư cách cá nhân và
trở thành kiểu cá nhân đặc trưng của thời đại (chẳng hạn
cá nhân phong kiến, cá nhân tư sản,…).
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Xã hội
- CNTB làm cho con người bị tha hóa.
Kết quả hoạt động của con người (người công nhân),
biến thành một lực lượng thoát ra khỏi con người, xa lạ
với con người, thống trị lại con người, đó là tư bản.
Các điều kiện lao động của người công nhân đối lập lại
người công nhân.
Trong những điều kiện đó, tự do của người lao động chỉ
mang tính hình thức, cá nhân con người không thể có sự
phát triển hài hòa và toàn diện.
Điều kiện sống, làm việc của công nhân càng tồi tệ hơn
khi họ mất việc làm; càng không thể khẳng định mình với
tư cách cá nhân.
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Xã hội
Khi nào các đối kháng giai cấp toàn xã hội đã bị loại bỏ,
người lao động thực sự làm chủ các điều kiện vật chất, trở
thành người lao động tự do. Và cá nhân người lao động,
với tư cách con người mới được khẳng định.
- CNXH không “thủ tiêu cá nhân, tạo những điều kiện xã
hội cần thiết cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân,
làm cho mỗi cá nhân phát huy cao độ năng lực của mình,
bản sắc của mình trong cuộc sống riêng tư cũng như trong
xây dựng một xã hội mới nhân bản, công bằng, văn minh,
một xã hội trong đó lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội không
đối lập nhau mà thống nhất với nhau, là tiền đề và điều
kiện của nhau.
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI
Xã hội
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
cần tránh hai thái độ cực đoan:
- Chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối
lập với xã hội; đòi hỏi thỏa mãn yêu cầu cá nhân không
phù hợp với lợi ích, điều kiện chung của XH; đòi hỏi xã
hội mà không thực hiện nghĩa vụ đối với XH.
- Chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân.
Quan niệm sai lầm về lợi ích xã hội, về chủ nghĩa tập thể,
là tư tưởng của chủ nghĩa bình quân dẫn đến thiếu sự
quan tâm thiết thực lợi ích cá nhân, coi nhẹ việc hình
thành và phát huy bản sắc cá nhân, tài năng cá nhân, xem
thường các nguyện vọng, tâm tư, ý kiến của cá nhân.
Không thấy sự phát triển của một XH là do kết quả đóng
góp tích cực sáng tạo của mọi cá nhân trong xã hội đó.
III. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ
NHÂN TRONG LỊCH SỬ
Khái niệm
- Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích
căn bản, gồm những thành phần, tầng lớp, giai cấp, liên
kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ
chức hay đảng phái; nhằm giải quyết những vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản.
Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp
bức, bóc lộ, đối kháng với nhân dân.
Những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ
xã hội thông qua hoạt động của mình.
III. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ
NHÂN TRONG LỊCH SỬ
Khái niệm
- Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật,…
- Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là
những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của
quần chúng nhân dân tạo nên.
- Lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:
Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế, thời đại trên cơ sở
những QLKQ của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành
động cách mạng.
Tổ chức lực lượng, giáo dục, thuyết phục quần chúng,
thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm
hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
III. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ
NHÂN TRONG LỊCH SỬ
Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
- Tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ.
Không có PTCM, các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội
của quần chúng nhân dân; thì không thể xuất hiện lãnh tụ.
Những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, là
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào
quần chúng.
- Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục
đích và lợi ích của mình.
Sự thống nhất về các mục tiêu, hành động của cách mạng
giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi
ích quy định.
III. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ
NHÂN TRONG LỊCH SỬ
Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế,
là cơ sở của sản xuất tinh thần:
- Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sản
xuất vật chất, CMXH, đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự
nghiệp phát triển văn học, nghệ thuật, khoa học,…
- Những nền văn học nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn
học nghệ thuật dân gian.
- Trong xã hội có giai cấp, quần chúng lao động không có
điều kiện nghiên cứu khoa học; vẫn có các nhà khoa học
tài năng xuất thân từ quần chúng lao động.
Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là sự khái quát
thực tiễn lao động sản xuất chế ngự thiên nhiên và đấu
tranh xã hội của quần chúng nhân dân.
III. VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ
NHÂN TRONG LỊCH SỬ
Vai trò của lãnh tụ