You are on page 1of 7

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN “CHẢY MÁU CHẤT XÁM”

Hiện tượng “chảy máu chất xám”:


Là sự di chuyển ra nước ngoài làm việc của những người có tay nghề cao, có chuyên môn
và học thức từ đất nước, khu vực này sang đất nước,khu vực khác. Nói chung là sự thât thoát
nguồn nhân lực cho một đất nước, khu vực hay cụ thề cũng có thể ở quy mô nhỏ là một tổ chức
hay công ty.

Ở hầu hết mọi nơi trên thế giới,


hiện tượng “chảy máu chất xám”
là một hiện tượng được nhiều
người, trong chính quyền cũng
như ngoài xã hội, đặc biệt quan
tâm.  Ngay các quốc gia tiền tiến
Tây Âu và Canada thỉnh thoảng
cũng bộc lộ nhiều lo lắng về chất
xám của họ di cư sang Mỹ.  Và
chính ở Mỹ, trong vài năm gần
đây, do hậu quả những luật lệ cấm
đoán một số đề tài nghiên cứu
sinh y học tại nước này, cũng bị
thất thoát nhiều khoa học gia sang
Anh.  Tuy nhiên, cho đến nay, sự
chảy máu chất xám trầm trọng
nhất vẫn là từ các quốc gia nghèo, kém phát triển Á, Phi, Mỹ La Tinh (và mới đây là Đông Âu)
sang các quốc gia giàu, đã phát triển, ở Tây Âu và Bắc Mỹ.

    Để có một chính sách đúng đắn đối với hiện tượng này, và cụ thể hơn là để cá nhân chất xám
có những quyết định sáng suốt cho tương lai bản thân và gia đình, những lý do thường viện dẫn
để giải thích cái “không tốt”, hoặc “tốt”, của sự chảy máu chất xám, cũng như những phản luận,
cần được khám định cặn kẽ và khách quan.

Ngày nay, hầu như ai lưu tâm đến phát triển kinh tế đều nói đến vấn đề chảy máu chất xám. Sự
thật là, cho đến gần đây, phần lớn hiểu biết về vấn đề này đều có tính khẩu truyền, căn cứ trên
lượng số liệu tương đối hiếm hoi, và nhất là chưa có một khung phân tích tổng thể một khoa học
và chính xác. Rất may, trong vài năm nay, một số nghiên cứu quy mô đã bắt đầu xuất hiện. Có
nhiều nguyên nhân cho việc đáng mừng này. Một là, với sự đóng góp rõ rệt của kiều dân vào
thành tựu kinh tế của nhiều nước (cụ thể là Trung Quốc và Ấn Độ), nhiều người cho rằng hiện
tượng “chảy mấu chất xám” (brain drain) không còn đơn giản như xưa, và hiện tượng “tuần hoàn
chất xám” (brain circulation), thậm chí hiện tượng “tăng thu chất xám” (brain gain), cũng cần
được chú ý. Hai là, nhờ toàn cầu hoá, các luồng chảy xuyên quốc gia của hàng hóa, vốn, và bây
giờ là người, trở nên thông thoáng hơn. Vậy mà, so với trình độ hiểu biết về luân lưu hang hóa và
vốn, thì hiểu biết về luân lưu con người (nhất là chất xám) còn quá thấp, cần phải nỗ lực để biết
rõ hơn. Đặc biệt sự luân lưu chất xám nên được phân tích trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu,
chú ý đến chính sách của những nước giàu nhằm thu hút một số loại chất xám, và ảnh hưởng
khác nhau trên các quốc gia mất chất xám. Ba là, nhờ vào lượng thông tin ngày càng phong phú,
phương pháp phân tích kinh tế ngày càng tinh tế, chúng ta hiểu biết nhiều hơn về hiện tượng thay

máu chất xám, phân tích và đánh giá hiện tượng này có thể khoa học hơn, dễ dàng hơn.

Có thể hình dung ảnh hưởng của chảy máu chất xám như truyền qua bốn “kênh”:

(1) Một là, chính “kì vọng” đi ra nước ngoài cũng đã có ảnh hưởng đến nhiều người trong nước
(nhất là giới trẻ), dù rốt cục họ có đi hay không. Người ta không cần phải thật sự di cư mới có
ảnh hưởng đến nước gốc. Kì vọng ra nước ngoài học tập, nghiên cứu, làm ăn, sẽ thúc đẩy giới trẻ
trong nước năng nổ trau giồi thêm giáo dục, tay nghề, và do đó ảnh hưởng tốt cho xã hội và kinh
tế của nước họ. Ảnh hưởng này thường được gọi là hiệu ứng “thu thêm chất xám” (brain gain).
Một ví dụ cụ thể: chính giấc mơ sang Mỹ làm việc ở “thung lũng Silicon” đã thúc đẩy giới trẻ Ấn
Độ đi vào tin học, đưa đến sự phát triển công nghiệp phần mềm ở quốc gia này.

Hiển nhiên, không phải hi vọng “xuất ngoại” của bất cứ ai bao giờ cũng thành sự thật, nhưng sự
cố gắng của họ sẽ có lợi cho xã hội. Như vậy, cơ hội di cư ra nức ngoài sẽ tăng thêm động lực
đầu tư vào giáo dục. Theo vài nghiên cứu, hiệu ứng này khá lớn cho những quốc gia (như Trung
Quốc và Ấn Độ ) đông dân (trên 30 triệu) và tương đối không quá nghèo. Ngoài ra, cũng nên
thấy rằng các thể chế và chính sách trong một nước cũng có thể bị ảnh hưởng bởi sự kiện là
người dân có thể ra nước ngoài lao động, sinh sống, chẳng hạn như nhà nước phải nghĩ đến
những biện pháp để giữ lại nhũng người có tài.

Song, nhìn kĩ hơn, cường độ của hiệu ứng “thu them chất xám” cũng tùy thuộc vào mức độ và
tiêu chuẩn gạn lọc của các nước phát triển trong chính sách cho nhập cư của họ. Sự gạn lọc ấy
càng tinh vi thì hiệu ứng này càng thấp vì ít người sẽ nuôi hi vọng sang các nước phát triển sinh
sống. Vài nghiên cứu cũng cho thấy lắm khi triển vọng du học lại có ảnh hưởng ngược lại (thành
ra xấu), vì nó có thể làm nhiều người ít trau giồi trí thức của mình hơn. Chẳng hạn như con cháu
các gia đình khá giả, biết chắc rằng cha mẹ sẽ gửi mình đi ngoại quốc, có thể bỏ bê học tập trong
nước. Tương tự, cũng có người sẽ đợi khi sang nước tiên tiến mới bắt đầu học hành, do đó không
gây hiệu ứng “thu thêm chất xám” nào cho quốc gia sinh quán của họ.

(2) Hai là, sự “vắng mặt” của chất xám sẽ có ảnh hưởng không tốt cho quốc gia gốc của họ. Đây
là hậu quả mà từ lâu ai cũng biết. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây có phát hiện nhiều chi
tiết mới, chẳng hạn như ảnh hưởng khác nhau của các loại chất xám, ngoài việc gây thiếu hụt
trong “thị trường đầu vào”. Sự thất thoát của những người có tay nghề cao, nhất là những cá
nhân nhiều khả năng tổ chức và điều hành, sẽ gây thương tổn đặc biệt nặng nề cho các nước
nghèo, hơn hẳn sự thất thoát của những loại chất xám khác. Sự di cư của những người có kinh
nghiệm quản lí bệnh viện, chủ nhiệm khoa ở các đại học, các bác sĩ, y tá, và nhà giáo, từ các
quốc gia chậm tiến là nguyên do chính khiến các nước này không thoát ra được cái bẫy nghèo
khổ. Nhiều phân tích khác thì cho rằng không phải sự thất thoát của những chuyên gia đã gây
thiệt hại nặng nề như vậy, nhưng là sự thất thoát của giai cấp trưng lưu.

Cũng phải nói đến ảnh hưởng trên chính những người ra đi. Đáng ngạc nhiên là cho đến nay ảnh
hưởng này tương đối ít được biết một cách cặn kẽ (ngoài khẳng định chung chung là, tất nhiên,
đời sống của họ hẳn là khấm khá hơn, nếu không thì họ đã không đi!). Vài nghiên cứu vừa xuất
hiện đã cho nhiều thông tin mới về ảnh hưởng này. Chẳng hạn như một khảo sát gần đây cho
thấy chất xám nhập cư vào Mỹ đã tạo thêm công ăn việc làm cho người Mỹ (và nâng cao thu
nhập trong một số công nghiệp), không phải lấy việc của dân Mỹ như trước đây nhiều người vẫn
nghĩ.

(3) Ba là, ảnh hưởng của cộng đồng kiều dân: Đây là ảnh hưởng từ xa của người đang sinh sống
ở nước ngoài đối với quốc gia gốc của họ. Ngoài những ảnh hưởng về thương mại, đầu tư, kiều
hối, và kiến thức, một người sống xa xứ mà thành đạt cũng giúp hạ thấp những rào cản kinh
doanh quốc tế qua vai trò “trung gian uy tín” tức là cho các đối tác quốc tế hiểu biết thêm về dân
tộc họ, và những cơ hội làm ăn ở quê hương họ, và ngược lại, giúp đồng bào trong nước họ biết
về nước ngoài. Nói cách hoa mỹ, cộng đồng kiều dân là rất quan trọng trong tiến trình giúp nước
họ hội nhập vào mạng lưới sản xuất toàn cầu và thương mại quốc tế.

Theo một báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì đúng là kiều hối có trực tiếp giúp đỡ các nước
chậm tiến giảm nghèo, và là một nguồn ngoại tệ quan trọng, song ảnh hưởng rộng hơn thì khá
phức tạp, và tùy tùng nước. Ở Guatemala, chẳng hạn, đa số gia đình nhận kiều hối dùng tiền đó
để giáo dục con em hơn là tiêu dùng. Nhưng ở Mexico thì mức độ giáo dục của con cái những
gia đình có thân nhân ở Mỹ thì lại thấp hơn con cái những gia đình khác, có lẽ vì các gia đình có
người di dân nghĩ rằng rồi con cái họ cũng sẽ sang Mỹ làm lao động chân tay, mà những việc đó
thì đâu cần trình độ giáo dục cao!

(4) Bốn là kênh “hồi hương”. Đó là ảnh hưởng của kiều dân hồi hương sau nhiều năm sinh cơ
lập nghiệp ở nước ngoài, với tay nghề cao hơn, mạng lưới xã hội rộng hơn, và tài sản nhiều hơn.
Bây giờ họ có nhiều khả năng đóng góp hơn cho quê hương họ.

Chính sách
Như đã nói ở trên, các nước đã phát triển (cụ thể là Mỹ, Anh, Canada, Australia) không chỉ thụ
động đón nhận chất xám tìm đến với họ, nhưng đa số còn có những chính sách tích cực thu hút
chất xám để (a) bù lấp thiếu hụt chất xám của chính họ, và (b) tăng thế cạnh tranh của họ trên
thương trường quốc tế. Cụ thể, các nghiên cứu gần đây cho thấy mức độ chảy máu chất xám tùy
thuộc vào chín sách của các nước tiên tiến (mà chất xám muốn đến) không kém gì vào điều kiện
sinh sống ở quốc gia gốc. Nói cách khác, chính sách của các nước đang thất thoát chất xám phải
trực diện với sự thật là có một nỗ lực cố tình thu hút chất xám (nhất là trong một số ngành nghề
nhất định, cụ thể là y khoa và tin học) của các nước đã phát triển.

Như vậy, có thể xếp các chính sách đối với vấn đề chảy máu chất xám làm bốn loại: “hạn
chế”, “đền bù”, “sáng tạo”, và “móc nối” .

1. Về hạn chế, nhiều tác giả cho rằng một chính sách di cư cân đối (giữa các ngành nghề, từ các
quốc gia khác nhau) sẽ là công bình và tốt cho phát triển chung. (Hiện nay các nước giàu thu hút
chất xám trình độ cao, thậm chí chỉ trong một số ngành nghề nhất định, và không hồ hởi với các
loại hạng lao động khác). Các nước giàu phải cương quyết không “câu” những chất xám (chẳng
hạn như bác sĩ, y tá) mà sự ra di của họ sẽ gây thiệt hại vô cùng cho các quốc gia mà mức độ
phát triển đang là thấp nhất.

2. Nếu không hạn chế được sự thất thoát chất xám thì cũng phải có cách đền bù cho nhũng người
ở lại. Có trách nhiệm đền bù có thể là chính phủ các nước giàu, các công ty những nước giàu
đang dùng chất xám, hoặc do chính người có chất xám sau khi đã ra nước ngoài.

3. Về mặt “sáng tạo” thì các nước giàu phải đầu tư nhiều hơn để gây dựng chất xám cho công
dân họ. (Chính sự thiếu hụt chất xám bản xứ là lí do họ cần chất xám ở các nước nghèo để lấp
vào lỗ hổng!). Về phía các nước nghèo, với tiên đoán rằng người có học lực càng cao thì càng
nhiều khả năng đi khỏi nước, chính phủ nên bắt buộc các người này phải đóng góp nhiều hơn để
trang trải phí tổn đào tạo, giáo dục họ. Các nước đang phát triển cũng phải nâng cấp nền giáo dục
của họ, đơn giản là vì chính hệ thống giáo dục yếu kém của họ đã “xua đuổi , các nhà giáo dục
tài ba của họ ra nước ngoài.

4. Về mặt “mạng lưới xã hội” : các nước gốc phải có những chính sách nhằm bảo tồn liên lạc
giữa người đã ra đi và đất nước quê hương. Tất nhiên, các chính sách này cũng phải gồm những
biện pháp khuyến khích chất xám hồi hương. Cả nước gốc lẫn nước thu nhận phải làm dễ dàng
việc xuất nhập cảnh của kiều dân, gửi kiều hối, và đầu tư Theo đa số người nghiên cứu vấn đề
này, các chính phủ nên tạo động lực cho người muốn trở về hơn là gây thêm rào cản cho người
muốn ra đi.

Chảy máu chất xám “không tốt” hay “tốt”

Ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, hiện tượng “chảy máu chất xám” (từ nước này sang nước khác)
là một hiện tượng được nhiều người, trong chính quyền cũng như ngoài xã hội, đặc biệt quan
tâm. Ngay các quốc gia tiên tiến Tây Âu và Canada thỉnh thoảng cũng bộc lộ nhiều lo lắng về
chất xám của họ di cư sang Mỹ. Và chính ở Mỹ, trong vài năm gần đây, do hậu quả những luật lệ
cấm đoán một số đề tài nghiên cứu sinh y học tại nước này, cũng bị thất thoát nhiều khoa học gia
sang Anh. Tuy nhiên, cho đến nay, sự chảy máu chất xám trầm trọng nhất vẫn là từ các quốc gia
nghèo, kém phát triển Á, Phi, Mỹ La tinh (và mới đây là Đông Âu) sang các quốc gia giàu đã
phát triển, ở Tây âu và Bắc Mỹ.

Để có một chính sách đúng đắn đối với hiện tượng này, và cụ thể hơn là để cá nhân chất xám có
những quyết định sáng suốt cho tương lai bản thân và gia đình, những lý do thường viện dẫn để
giải thích cái “không tốt” , hoặc “tốt” , của sự chảy máu chất xám, cũng như những phản luận,
cần được khám định cặn kẽ và khách quan.

Một số phân tích ở việt nam và thế giới:

1. Phân tích nguyên nhân chảy máu chất xám ở các ngân hàng Việt Nam hiện nay
Trình độ Tổng

Nguyên nhân chảy Trung Cao Sau đại


Đại học
máu chất xám cấp đẳng học Theo
SL % SL % SL % SL % SL % tiến
hành
Thu nhập   100 6 60 68 54,0 2 33,3 76 52,8
điều
Cơ hội thăng tiến 2   8 80 70 55,6 4 66,7 84 58,3
tra
Cơ sở vật chất         8 6,3     8 5,6 của

Chưa đánh giá đúng tác


2 100 2 20 40 31,7 2 33,3 46 31,9 giả
khả năng

Môi trường làm việc


        40 31,7 4 66,7 44 30,6
chưa chuyên nghiệp

Cảm thấy không ổn


        2 1,6     2 1,4
định

Tổng 2 200 10 160 126 181 6 200 144 180,6

Nguyễn Văn Thùy đăng trên tạp chí công nghệ ngân hàng cho thấy nguyên nhân chảy máu chất
xám của ACB, tác giả điều tra trên 144 nhân viên tại ACB. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy:nguyên
nhân của việc chảy máu chất xám ở các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay là:
Thu nhập và chính sách trả lương: có 76/144 người,chiếm 52,8% cho rằng chính sách trả lương
chưa tương xứng với mức độ làm việc
Cơ hội thăng tiến: có 84/144 người,chiếm 58,3% cho rằng không có cơ hội thăng tiến ở ngân
hàng cũ
Chưa đánh giá đúng khả năng : có 46/144 người,chiếm 31,9% cho rằng khi họ không được nhìn
nhận sự đóng góp,không được đánh giá đúng năng lực thì họ dễ ngã lòng trước những lời mời
chào của những ngân hàng khác
Môi trường làm việc chưa chuyên nghiệp:có 44/144 người,chiếm 30,6% cho rằng do các ngân
hàng Việt Nam vẫn còn xem trọng tình cảm,quan hệ, mối quan hệ giữa mọi người có sự chia bè
phái, không tin tưởng  lẫn nhau, chính sách nhân sự của ngân hàng không rõ ràng.
Với kết quả điều tra ở trên thì các ngân hàng Việt Nam nói chung phải biết nắm bắt để có chính
sách dành cho nhân viên rõ ràng hơn,tạo điều kiện tốt hơn cho nhân viên làm việc,tránh tình
trạng chảy máu chất xám.
Cần nhanh chóng đưa ra các biện pháp để cải thiện nguồn nhân lực trong ngành ngân hàng nói
riên và tại các doanh nghiệp Việt nam noi chung.
2. Ở Trung Quốc
Theo nhận định của công ty tuyển dụng nhân sự Heidrick & Struggles, vào năm 2003 chỉ có
khoảng 20% - 30% các nhà quản trị cấp cao làm việc trong khoảng 2000 công ty tư nhân Trung
Quốc là được tuyển dụng từ những tập đoàn đa quốc gia, đến năm 2005, con số này là 60% -
70%.
Công ty tư vấn nhân sự Bo Le Associates ước tính, hiện nay một người ở vị trí quản trị cấp cao
tại công ty tư nhân Trung Quốc có thể kiếm được trung bình 300.000 USD/năm, chưa kể đến xe
hơi và nhà cửa, trong khi các nhà quản lý bậc trung với những kỹ năng tốt sẽ thu về khoảng
70.000 USD/năm.
Nhiều công ty còn đề ra chính sách tăng lương hàng năm ở vào khoảng 13% - 14% nhằm giữ
chân các nhân viên.

You might also like