Professional Documents
Culture Documents
VỆ SINH RUNG, TIẾNG ỒN TRONG LAO ĐỘNG QUÂN SỰ
VỆ SINH RUNG, TIẾNG ỒN TRONG LAO ĐỘNG QUÂN SỰ
Mục tiêu
- Trình bày được khái niệm về tiếng ồn và rung trong lao động quân sự.
- Phân tích được tác hại của tiếng ồn, rung tới cơ thể.
- Vận dụng được các biện pháp dự phòng tiếng ồn và rung.
Trong mọi thời điểm khi làm việc, mức áp âm cực đại (Max) không vượt quá 115 dBA.
2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA RUNG, TIẾNG ỒN TỚI CƠ THỂ
2.2.1. Ảnh hưởng của rung tới cơ thể
Con người có thể nhận các rung tại chỗ trong khi làm việc với các công cụ cầm tay
hoặc nhận các rung toàn thân khi phải lao động trên một nền rung động.
Tất cả các tế bào trong cơ thể đều thụ cảm được rung, nhưng các tín hiệu được truyền
lên thần kinh trung ương bằng đường thần kinh và đường xương. Rung kích thích một vài
cảm thụ thể và cơ quan cảm giác. Mỗi cơ quan cảm thụ chỉ nhận thức được một khoảng
tần số dao động riêng cơ quan tiền đình bị kích thích bởi rung ở tần số thấp rễ gây ra bệnh
say tàu xe.
Đặc biệt là xóc rễ gây ra những di động nội tạng và từ đó kích thích các nội cảm thụ
quan (intero recepteur) nguyên nhân của các rối loạn thần kinh thực vật và do đó rối loạn
tiết dịch dạ dày, nhu động ruột, biến đổi huyết áp.
Các ảnh hưởng của rung đối với cơ thể có thể được chia thành 2 loại:
a. Tác hại của rung cục bộ
Rung tác động lâu ngày dẫn đến rối loạn chức năng sinh lý và cuối cùng bệnh rung ở
những công nhân lao động với các dụng cụ cầm tay.
- Rối loạn về mạch máu và vận mạch
Hay xảy ra khi làm việc với các dụng cụ cầm tay. Đối với những công nhân này Seyring
(1930) đã chứng minh rằng rối loạn vận mạch ở công nhân có 2 - 3 năm tuổi nghề đạt tỷ lệ là
60%, 3 - 10 năm tuổi nghề là 83% và trên 10 năm là 91%.
Các mạch máu thường bị co thắt ở ngón tay cầm dụng cụ ở bàn tay phải, ngón út, ngón
nhẫn và ngón giữa. Nhiệt độ da của tay đau thường thấp hơn nhiệt độ da của tay lành.
Bệnh khởi đầu bằng triệu chứng mất màu da tại chỗ kèm theo tê cóng và mất cảm giác
ở một hay nhiều ngón tay. Mất màu da rất rõ sau khi ngâm tay vào nước lạnh. Tay đau buốt
và tê cóng là do các mạch máu bị co thắt gây thiếu máu cục bộ. Sau cơn thiếu máu cục bộ
thường có phản ứng giãn mạch ở các ngón tay tạo ra cảm giác nóng rát trở ngại cho cử
động.
- Rối loạn về cảm giác và nhiệt độ da
Hầu hết các bệnh nhân đều có các rối loạn về cảm giác da. Lúc đầu thường tăng cảm
giác sau đó giảm dần theo kiểu “đeo găng tay”, cảm giác đau, cảm giác sờ và cảm giác với
nhiệt độ. Giảm cảm giác có thể lan tới cả cẳng tay và cánh tay.
Ở những công nhân lâu ngày bị mắc bệnh nặng có khi mất cảm giác hoàn toàn ở đầu
ngón tay. Đối với những công nhân bị rung toàn thân thì mất cảm giác ở chân như người
đi bít tất. Cảm giác với rung có thể nghiên cứu bằng âm thoa C128. Một trong những chỉ số
đánh giá trạng thái của tuần hoàn ngoại vi là nhiệt độ da. Ở những bệnh nhân bị co mạch
thông thường thấy giảm nhiệt độ da ở ngón tay.
- Rối loạn ở hệ cơ
Trong bệnh rung ít nhiều đều thấy các tổn thương về cơ. Những điều kiện gây tổn
thương cơ là: căng cơ do dụng cụ nặng và tư thế gò bó, hay bị giật mạnh về phía sau. Với
những máy chạy bằng hơi nén bệnh nhân thường cảm thấy đau tức ở vai và các cơ gần bàn
tay, nắm tay thấy các điểm đau.
Trong bệnh rung thường thấy co cơ ở mô cái và mô út. Các cơ liên cốt và các cơ cẳng
tay ít bị tổn thương hơn. Các cơ cánh tay và cơ vùng vai thường không bị teo.
- Tổn thương xương khớp
Thường gặp là viêm khớp khuỷu tay. Ít thấy viêm ở xương vai hoặc khớp xương cổ
tay. Khi bị viêm khớp bệnh nhân cũng thấy đau giống như trong bệnh thấp khớp thông
thường. Các tổn thương của xương khi chụp X-quang thể hiện sớm và khá rõ mặc dù tay
vẫn cử động được bình thường.
Các tổn thương phát hiện được khi chụp X-quang bao gồm: thoái hoá xương, các xương
nhỏ được tạo ra từ cá mảnh vụn và gây bị xương hoá. Thoái hoá xương biểu hiện bằng các
hốc nhỏ, ở trên phim có hình bằng đầu đinh ghim hay bằng hạt đậu thường thấy ở xương
cả hoặc xương bán nguyệt. Trên phim còn thấy các mảnh xương nhỏ tạo thành các dị vật
ở khớp. Hiện tượng xương hoá của gân biểu hiện bằng lồi xương và gai xương ở chỗ bám
tận của gân. Hiện tượng hoại tử xương bán nguyệt thường được gọi với danh từ là
Kienbeck, hình dạng của xương biến đổi, bẹt ra và kéo dài hoặc nhỏ đi, trên phim XQ thấy
những đốm nhỏ biểu hiện thoái hoá. Những tổn thương có thể lan sang các xương lân cận
vùng cổ tay.
Bệnh Kienbeck có thể xuất hiện sau một chấn thương hoặc âm ỉ trong một thời gian
dài.
- Rối loạn của hệ thần kinh và nội tiết
Bệnh rung thường có những rối loạn của hệ thần kinh trung ương biểu hiện bằng hội
chứng suy nhược thần kinh. Bệnh nhân thấy nhức đầu, khó ngủ, chóng mệt mỏi, dễ bị kích
động, chảy nước mắt. Những biểu hiện này thường gặp ở phụ nữ, đặc biệt là ở những người
có thể địa thần kinh yếu sẵn.
Điện não đồ của bệnh nhân rung không thấy có thay đổi gì đặc biệt. Sóng an pha có thể
bị hạ thấp hoặc mất hẳn và thấy sóng bê ta phổ biến ở tất cả các đạo trình.
Các tác giả gần đây cho rằng rung có thể làm rối loạn mối liên hệ giữa hệ thống võng
mạc nội môi với các trung khu thần kinh, mặt khác cũng tác động gây “stress” kinh diễn
với cơ thể tác động vào hệ thống tuyến yên - tuyến thượng thận.
Hội chứng não trung gian đặc trưng bằng sự lan toả của các rối loạn về thần kinh vận
mạch ra toàn bộ cơ thể ở các chi, ở cơ tim và ở não.
Đặc biệt bằng Iốt phóng xạ nhận thấy bệnh rung làm tăng hoạt động của tuyến giáp.
Ở phụ nữ làm việc với rung toàn thân thấy có các rối loạn kinh nguyệt, kinh ít và đau
dạ con.
b. Tác hại của rung toàn thân
Rung toàn bộ cơ thể thường tác hại tới công nhân lái xe vận tải, công nhân các nhà máy
đúc cấu kiện bê tông dùng cho kiến trúc, công nhân nông nghiệp, lâm nghiệp, bộ đội thiết
giáp...
Trong khi lao động công nhân có thể bị rung thẳng, ngang, nghiêng hoặc phức hợp. Để
giữ cho cơ thể được cân bằng, phải duy trì một tư thế nhất định. Vì vậy dễ gây ra mệt mỏi
vì rung tác động đến nhiều chức phận của cơ thể. Rung mạnh làm di động các cơ quan
vùng ổ bụng và vùng chậu hông, kích thích các nội cảm thụ quan, gây ra đau ở vùng bụng,
dưới mạng sườn phải và ở vùng ngực.
Rung làm tăng chuyển hoá. Theo V.A.Ugơlốp (1935) tiêu hao năng lượng đi ô tô trên
đường xấu tăng tới trên 50%. Nhịp tim, tần số hô hấp cũng tăng theo, huyết áp cũng thay
đổi. Người ta cũng đã nhận thấy những sự thay đổi phản xạ tạm thời thí dụ phản xạ gân
xương tay, cảm giác ở da thay đổi. Rung còn làm ảnh hưởng đến giới hạn của thị trường,
tăng tính kích thích của bộ phận tiền đình. Tác động của rung lên toàn bộ cơ thể và trước
hết là hệ thần kinh làm xuất hiện các triệu chứng như nhức đầu, chóng mặt, run tay, có khi
nôn mửa.
Tác động của rung tích luỹ lại gây ra bệnh say tàu xe nhất là đối với người dễ mẫn cảm
với rung thì đi xe lửa cũng bị.
Tình trạng say tàu xe thường thể hiện bằng: người khó chịu mệt mỏi, chóng mặt, da tái,
ra mồ hôi và nước dãi nhiều, buồn nôn và nôn. Nếu không bị xóc nữa những rối loạn trên
mất đi rất nhanh.
Nếu công nhân bị tác động do làm việc trên một nền rung, các biểu hiện lâm sàng chủ
yếu là viêm đa đây thần kinh kèm theo rối loạn thần kinh thực vật.
Bệnh nhân cảm thấy đau chân, mệt mỏi chân, giảm cảm giác ở chân, nhiệt độ da ở bàn
chân giảm, mạch ở bàn chân đập yếu, co thắt mao mạch ở ngón chân, bên cạnh những triệu
chứng này người ta còn thấy có rối loạn ở hệ thần kinh trung ương như chóng mặt, khó
ngủ, mệt mỏi toàn thân, thay đổi tính tình. Ở các thể nặng hơn còn xuất hiện rối loạn tiền
đình, chóng mặt và nhức đầu tăng hơn. Rối loạn các phản xạ gân, run các ngón tay. Trong
những trường hợp nặng còn thấy tổn thương ở hệ thần kinh trung ương kèm theo hội chứng
não trung gian, các tổn thương ở điện não đồ như giảm hoặc mất hẳn sóng an pha và rối
loạn thần kinh vận mạch lan rộng ra toàn cơ thể.
c. Chẩn đoán bệnh rung (xem thêm Giáo trình Nội khoa dã chiến)
Hiện nay, rung được đưa vào là một trong những bệnh nghề nghiệp (bệnh rung chuyển).
Trong bệnh rung một vấn đề khó khăn là bệnh nhân thường kêu nhiều về cảm giác chủ
quan nhưng các triệu chứng thực thể lại có rất ít. Vì vậy phải áp dụng một số xét nghiệm
giúp cho chẩn đoán.
- Điều tra kỹ về vệ sinh lao động.
Ghi rõ các đặc trưng và cường độ của rung như tần số biên độ, tốc độ gia tốc, và đối
chiếu chúng với mức độ cho phép. Cũng cần phải biết loại công cụ lao động và tư thế lao
động của công nhân, sức nặng của công cụ, công cụ chạy hơi hay chạy điện. Các yếu tố
của môi trường lao động cũng còn phải được nêu lên như nóng, lạnh, tiếng ồn, bụi và các
khí độc. Ngoài ra cũng cần phải biết rõ thời gian tiếp xúc trong ngày với rung và tuổi nghề
của công nhân.
- Cảm giác đối với rung
Có thể dùng máy đo cảm ứng đối với rung. Nếu không có máy có thể dùng âm thoa
đặc biệt là âm thoa C128 để tạo rung. Đầu ngón tay là nơi nhận cảm giác rung tinh tế nhất.
Chúng ta so sánh thời gian nhận thức rung giữa tay lành và tay đau, giữa ngón người lành
và ngón người đau với một cường độ rung nhất định. Nên kết hợp cảm giác nghiên cứu
nhận biết, nóng lạnh và đau.
- Soi mao mạch
Dùng kính hiển vi thực thể dùng soi mao mạch M 70A (Liên xô) soi ngón tay đeo nhẫn,
ở phía da sát móng, nhỏ một giọt dầu là trên chỗ soi. Tay để thoải mái tự nhiên. Nên soi ở
trong phòng có nhiệt độ mát mẻ. Khi soi chú ý đến số lượng mao mạch trong vi trường,
màu sắc và hình thể của động mạch và tĩnh mạch, độ cong của mao mạch và tốc độ máu
chảy. Ở người lành da có màu hồng nhạt, lòng mao mạch có màu hồng hoặc đỏ. Mao mạch
nằm song song đối mặt về phía tĩnh mạch có thể có 2 - 3 đường gấp khúc, máu chảy nhanh
và đều đặn.
Ở người bệnh, mao mạch quăn queo, động mạch bị gấp hẹp nhiều. Nền da đục khó
phân biệt với mạch máu.
- Đo nhiệt độ ở da bàn tay và bàn chân
So sánh nhiệt độ da tay lành với tay đau, có thể dùng biện pháp ngâm lạnh để theo dõi
nhiệt độ da. Cho bệnh nhân mỗi tay cầm một nhiệt kế chính xác ghi đều nhiệt độ trong 15
phút. Nhúng hai bàn tay vào nước (5 – 10oC) trong 3 phút. Sau đó lại theo dõi nhiệt độ da.
Nếu nhiệt độ da tăng nhanh khoảng 15 - 20 phút sau phục hồi hoàn toàn, có khi còn cao
hơn nhiệt độ ban đầu, thì chứng tỏ là khả năng bù trừ tốt. Ở các thể bệnh nặng và tiến triển
lâu ngày thì thời gian phục hồi lâu hơn (khoảng 40 phút), ở tay đau khi ngâm lạnh sẽ xuất
hiện các điểm trắng mất màu ở ngón tay và bàn tay.
- Chụp XQ để phát hiện tổn thương về xương khớp.
d. Điều trị bệnh rung nghề nghiệp (xem thêm sách Nội khoa dã chiến).
2.2.2. Ảnh hưởng của tiếng ồn tới cơ thể
a. Ảnh hưởng toàn thân
Tiế ng ồ n ảnh hưởng nghiêm tro ̣ng không chỉ đến đôi tai mà còn đến toàn thân. Tiế ng
ồ n có thể gây căng thẳ ng và làm tăng nguy cơ bị cơn đau tim.
Tiế ng ồ n có thể làm tăng huyế t áp ngay cả khi đang ngủ. Tiế ng ồ n máy bay, tiế ng ngáy
của bạn đời hay mô ̣t khu dân cư ồn ào là những nguyên nhân gây ra các bê ̣nh liên quan đế n
tăng huyế t áp. Bên ca ̣nh những tác đô ̣ng trực tiế p đế n sức khỏe, mô ̣t số nhà nghiên cứu cho
rằ ng tiế ng ồ n cũng ảnh hưởng đế n tinh thầ n và chức năng nhâ ̣n thức.
Tuy nhiên khi đề cập tới tác hại của tiếng ồn, người ta tập trung vào các tác hại tại chỗ.
b. Tác hại tại chỗ của tiếng ồn
- Giảm sức nghe
Khi tiếp xúc với tiếng ồn có thể dẫn đến giảm sức nghe (hearing loss).
Có hai loại giảm sức nghe:
+ Giảm sức nghe dẫn truyền (conductive hearing loss)
+ Giảm sức nghe thần kinh (neural hearing loss).
Giảm sức nghe dẫn truyền do sự phá vỡ, di lệch màng nhĩ, các xương ở tai giữa. Điều
này có thể do các sóng âm thanh tác động đột ngột lên tai như tiếng nổ hoặc thổi mạnh vào
tai ngoài. Kết quả là sự phá huỷ cơ học đối với tai giữa và làm lệch xương bàn đạp dẫn đến
sự giảm sức nghe có thể một phần hoặc toàn bộ; tạm thời hoặc vĩnh viễn (Kryter 1985).
Tiếp xúc với ồn lâu ngày là nguyên nhân giảm sức nghe do phá huỷ thần kinh thính
giác hay còn gọi là giảm sức nghe thần kinh (neural hearing loss). Trong trường hợp này
thì cường độ, tần số và thời gian tiếp xúc phải được xem xét. Ví dụ tiếp xúc với tiếng ồn ở
mức 130 dBA trong một thời gian ngắn có thể làm các tế bào lông ở cơ quan Corti bị sưng
tấy, nếu tiếp xúc lâu thì các tế bào này bị phá huỷ. Sự thay đổi này thường diễn ra ở một
phần của cơ quan Corti, nơi thu nhận tín hiệu ở những tần số nhất định (cao). Việc tổn
thương các tế bào lông của cơ quan Corti là một quá trình không hồi phục và sức nghe sẽ
bị giảm vĩnh viễn. Tuy nhiên nếu tiếp xúc với ồn trong một thời gian ngắn thì có thể chỉ
xảy ra sưng tấy tạm thời các tế bào này, các tế bào có thể hồi phục được và chỉ gây giảm
sức nghe tạm thời, được gọi là thay đổi ngưỡng tạm thời (Ward 1976).
- Theo Kryter (1975), Ward (1973) thì có mối quan hệ rất mật thiết giữa điếc tạm thời
và điếc vĩnh viễn. Các tác giả rút ra một số kết luận như sau:
+ Ồn khoảng 80 – 90 dBA chỉ gây thay đổi nhẹ ngưỡng nghe (khoảng 8 -10 dBA), nếu
ồn trên 100 dBA, ngưỡng nghe tăng 50 - 60dBA,
+ Thay đổi ngưỡng nghe tạm thời tỷ lệ thuận với thời gian ồn. Ví dụ tiếp xúc với ồn
100dBA trong 10 phút làm thay đổi ngưỡng nghe 16dBA, sau 100 phút thì sự thay đổi này
là 32dBA,
+ Thời gian phục hồi trở về bình thường cũng tỷ lệ với cường độ và thời gian tiếp
xúc với ồn. Thời gian phục hồi kéo dài hơn thời gian tiếp xúc với ồn khoảng 10%,
+ Xen kẽ giữa ồn và một giai đoạn yên tĩnh sẽ làm giảm sự giảm ngưỡng nghe tạm
thời.
Một người bị tổn thương thần kinh thính giác thì đầu tiên là giảm sức nghe ở tần số cao
(4000Hz). Sau đó khó nghe giọng phụ nữ nhưng vẫn dễ nghe giọng nam giới. Một người
bị giảm sức nghe thì sớm bắt đầu nói to và có giọng đơn âm vì tác động điều chỉnh của sức
nghe bị thay đổi. Vì các âm thấp dễ nghe hơn các âm cao, nên điều đó gây khó khăn cho
người khác để hiểu được ngôn ngữ từ/câu mà người bị giảm sức nghe nói. Ngược lại, ở
người bị điếc dẫn truyền sẽ than phiền rằng lời người khác nói không đủ nghe. Khi hiểu rõ
cơ chế ngôn ngữ người bị giảm sức nghe do sóng âm cao, đột ngột tác động chúng ta có
thể giúp họ tăng sức nghe bằng các phương tiện trợ giúp (máy trợ thính).
Như trên đã nói sự phá huỷ đầu tiên và cần lưu ý nhất do ồn quá mức là giảm sức nghe
ở tần số 4000Hz. Tuy nhiên các đáp ứng của từng cá nhân đối với tiếng ồn rất khác nhau.
Tương tự, giảm sức nghe cũng có thể xảy ra do tuổi cao. Sự giảm ngưỡng nghe này lớn
nhất ở dải tần cao và ở nam lớn hơn nữ (Grandjean 1986). Ở tần số 3000Hz sự giảm sức
nghe theo tuổi như sau:
* Ở độ tuổi 50 tuổi sức nghe giảm 10dBA
* Ở độ tuổi 60 tuổi sức nghe giảm 25dBA
* Ở độ tuổi 70 tuổi sức nghe giảm 35dBA
Trên sơ đồ âm học điếc tuổi già hoàn toàn khác điếc nghề nghiệp, ở đó giảm sức nghe
tăng dần cùng với tần số và ở tần số cao nhất sẽ cho thấy sự giảm sức nghe lớn nhất. Đỉnh
chữ “V” ở tần số 4000Hz không phải là bằng chứng của điếc tuổi già.
Ở những công nhân cao tuổi có sự giảm sức nghe phối hợp giữa điếc nghề nghiệp và
điếc tuổi già do đó rất khó phân biệt.
Ngoài ra giảm sức nghe còn do các viêm nhiễm ở tai, một số bệnh (Sởi, các bệnh hệ
thống...), và có thể do cảm lạnh thông thường. Helander (1992) cho rằng điếc tuổi già có
thể do hiệu ứng tích luỹ của các lần cảm lạnh trong cuộc sống. Các lây nhiễm do các loại
vi rút có thể phá vỡ các tế bào thần kinh thính giác.
- Nguy cơ giảm sức nghe:
Từ những bằng chứng mối quan hệ giữa tiếp xúc với ồn và tần số mà sức nghe giảm
người ta có thể dự đoán nguy cơ gây điếc ở các nhà máy.
Bảng 2.2. Nguy cơ giảm sức nghe, tỷ lệ % sẽ tăng vài dBA theo tuổi
(theo Grandjean. E 1986)
Thời gian tiếp xúc (năm)
Leq (dBA) 5 10 20
% % %
80 0 0 0
90 4 10 16
100 12 29 42
110 26 55 78
Mục tiêu
- Trình bày được khái niệm về bụi, cách phân loại bụi.
- Phân tích được tác hại của bụi đối với cơ thể.
- Vận dụng các biện pháp dự phòng tác hại của bụi trong lao động quân sự.
Bụi là một yếu tố gây ô nhiễm môi trường không khí, có hại tới sức khỏe cộng đồng và
bệnh tật đối với người lao động. Ô nhiễm bụi có hàm lượng lớn và độc hại vẫn khá phổ
biến trong một số ngành sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải, khai thác đá và lao động
quân sự. Trong chiến tranh, đối phương có thể sử dụng làm vũ khí sát thương hàng loạt (vũ
khí hạt nhân - bụi phóng xạ, vũ khí vi sinh vật, hoá học hay vũ khí NBC...).
Vì vậy việc học tập nâng cao kiến thức về tác hại của bụi đối với cơ thể là rất cần thiết
đối với ngành Y tế dự phòng.
2.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI
2.1.1. Khái niệm
Bụi là những hạt rắn có kích thước rất nhỏ lơ lửng trong không khí, nói cách khác bụi
là một dạng khí dung (aerosol) có các hạt phân tán rắn.
Theo TCVN 5966: 2009 (ISO 4225-1994): bụi là những hạt chất rắn nhỏ, thông thường
là những hạt có kích thước nhỏ hơn 75 µm, tự lắng xuống do trọng lượng của chúng nhưng
vẫn có thể lơ lửng một thời gian.
2.1.2. Sự hình thành bụi
- Nghiền nát cơ học các vật rắn (xay, nghiền, khoan, nổ) là cơ chế phát sinh bụi rất phổ
biến, gọi là khí dung phân tán.
- Ngưng tụ các hạt rắn trong không khí (hàn điện, đúc đồng) tạo nên các hơi kim loại
bốc lên gặp oxy tạo thành các oxyt kim loại, gọi là khí dung ngưng kết.
- Thiêu cháy nguyên liệu không hoàn toàn: khói, bồ hóng... được tạo ra trong các ngành
công nghiệp nung luyện và giao thông vận tải.
2.1.3. Phân loại bụi
a. Theo tính chất nguồn gốc
- Bụi hữu cơ: bụi gạo, bột, gỗ, bông...
- Bụi vô cơ:
+ Bụi khoáng chất: than, đất đá, thạch anh..
+ Bụi kim loại: sắt, đồng, chì, kẽm...
- Bụi có cấu tạo phức tạp: nhựa nhân tạo, chất dẻo...
b. Phân loại theo kích thước
- Bụi mắt thường nhận thấy được: có đường kính trên10 m, dễ lắng xuống, bụi này
không vào được phế nang.
- Bụi hiển vi có đường kính 0,25 - 10m vào sâu tận phế nang và giữ lại ở phổi.
- Bụi siêu hiển vi có đường kính dưới 0,25m (nhìn bằng hiển vi điện tử).
- Loại bụi có đường kính 10-100m không thể lơ lửng lâu được trong không khí, chúng
lắng xuống theo định luật NiuTơn, loại này chiếm 4,7% các hạt bụi.
- Loại bụi có đường kính 1 - 10, được giữ trong không khí và lắng xuống chậm hơn.
- Loại bụi có đường kính dưới 0,1, trong thực tế không bao giờ lắng xuống, chúng
luôn luôn chuyển động Brown và chỉ lắng xuống khi chúng kết hợp với nhau thành hạt có
kích thước lớn hơn.
Các loại bụi được sinh ra trong sản xuất thường có đường kính dưới 10, nhiều nhất là
5. Nếu có gió, loại bụi này càng tồn tại lâu trong không khí và càng tăng nguy cơ xâm
nhập vào phổi và gây hại tới cơ thể.
c. Phân loại theo tính chất xâm nhập vào đường hô hấp
- Đặc điểm về kích thước khí phế quản của cơ thể:
Phế quản gốc: 50 mm.
Phế quản trung gian: 20 – 5 mm.
Phế quản thùy: 20 – 50 mm.
Phế quản dưới phân thùy: 10 – 20 mm.
Phế quản tận: 5 – 10 mm.
Phế nang: < 0,3 mm.
- Vị trí xâm nhập vào đường hô hấp (theo Burstein) có 5 loại:
Bụi: > 50 giữ lại ở mũi, khí quản, phế quản lớn.
Bụi: 20 - 50 giữ lại ở phế quản thùy và phân thùy.
Bụi: 10 - 20 giữ lại ở phế quản nhỏ.
Bụi: 5 - 10 giữ lại ở các nhánh phế quản tận cùng.
Bụi: 0,1 - 5 giữ lại ở phế nang.
Mũi: loại được bụi trên 10 µm
Sơ đồ 2.2: Kích thước các hạt bụi có thể xâm nhập vào đường hô hấp
2.2. CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH TÁC HẠI CỦA BỤI ĐỐI VỚI CƠ THỂ
2.2.1. Độ phân tán
Phụ thuộc vào kích thước, bụi càng nhỏ càng khó lắng xuống và càng có độ phân tán
lớn. Bụi có tỉ trọng cao lắng nhanh hơn bụi có tỉ trọng thấp. Bụi hữu cơ có hình dạng dài
nên lắng chậm, lơ lửng lâu trong không khí.
2.2.2. Diện tích đặc hiệu
Là diện tích bề mặt của 1cm3 bụi. Khi nghiền nhỏ thành bụi, diện tích này tăng nhiều
lần. Diện tích đặc hiệu lớn thì khả năng xâm nhập vào cơ thể càng lớn, đặc biệt là bụi có
độc tính.
2.2.3. Độ hoà tan
- Bụi không độc thì tính hoà tan có lợi cho cơ thể và dễ thải ra ngoài.
- Bụi có chất độc thì chất độc ngấm nhanh vào máu.
2.2.4. Điện tích các hạt bụi
Những hạt bụi mang điện tích (ion âm hoặc dương) ảnh hưởng đến trao đổi ion ở màng
tế bào. Là nhân tố xúc tiến hiện tượng xơ hoá phổi thường gặp trong bệnh bụi phổi silic
nghề nghiệp
2.2.5. Tính phóng xạ
Thường gặp trong các vụ nổ nguyên tử, khai thác các loại quặng phóng xạ uran, thôri
và radi.
2.2.6. Hình dáng của bụi
Bụi dạng sợi thực vật (bông, đay, bụi asbest...) là những hạt bụi nhẵn, dài, kích thích tế
bào biểu mô của niêm mạc đường hô hấp gây viêm long, phì đại và viêm thoái hoá niêm
mạc, làm giảm chức năng lọc bụi của đường hô hấp trên. Bụi sợi dài khó thực bào. Bụi sợi
nhọn như sợi thủy tinh và sợi khoáng (amian) kích thích da gây ngứa.
2.3. TÁC HẠI CỦA BỤI ĐỐI VỚI CƠ THỂ
- Đường hô hấp: tổn thương, suy giảm chức năng đường hô hấp đến bệnh lý viêm phổi,
bụi phổi nghề nghiệp...
+ Gây viêm nhiễm đường hô hấp, thậm chí viêm phổi nói chung với tỷ lệ cao đối với
người tiếp xúc.
+ Tác dụng với đường hô hấp trên: các loại bụi sợi, bụi động vật và thực vật thường
kích thích, gây bệnh mũi họng…
+ Gây tăng số lượng đại thực bào từ máu đến phổi, nhưng không rõ rệt: bụi than, bụi
ôxit sắt.
+ Có tác dụng làm cho xơ hóa, tăng thực rõ rệt, gây bệnh phổi mạn. Bụi silic (SiO2) và
bụi amiăng… gây bệnh bụi phổi
+ Làm giảm tính chất miễn dịch của tổ chức phổi: bụi xỉ lò Thomas, bụi nhựa đường…
+ Gây ung thư phế quản và ung thư phổi: như crom và hợp chất hóa học của asen, các
carbuahydro…
- Mắt: viêm kết mạc, rách giác mạc do bụi đường, bụi xay xát lúa gạo, bụi nhựa đường...
- Da: viêm loét da do bụi vít các lỗ tuyến bài tiết của da.
- Toàn thân: sốc, dị ứng do bụi bông, bụi hoá chất, bụi kim loại và bụi phấn hoa.
- Bệnh phóng xạ: do bụi phóng xạ.
- Bệnh nhiễm trùng: do bụi vi sinh vật, vi khuẩn...
2.4. BỆNH BỤI PHỔI NGHỀ NGHIỆP VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG (xem
thêm tài liệu số 22)
2.4.1. Định nghĩa
Bệnh bụi phổi nghề nghiệp, là bệnh phổi ở người lao động do hít phải bụi trong quá
trình lao động, biểu hiện bằng tình trạng xơ hoá nhu mô phổi lan tỏa. Xơ hoá trong bệnh
bụi phổi là xơ hoá tiên phát do chính bụi gây ra. Cần phân biệt xơ hóa phổi do các bệnh
khác ở phổi.
2.4.2. Phân loại các bệnh phổi nghề nghiệp
Theo điều 3 Thông tư 15/2016/TT-BYT có 5 loại bệnh bụi phổi và 2 bệnh phổi nghề
nghiệp:
+ Bệnh bụi phổi silic nghề nghiệp là bệnh xơ hoá phổi tiến triển do hít phải bụi chứa
silic tự do (SiO2) trong quá trình lao động
+ Bệnh bụi phổi amiăng nghề nghiệp là bệnh xơ hoá phổi tiến triển do hít phải bụi chứa
amiăng trong quá trình lao động
+ Bệnh bụi phổi bông nghề nghiệp là bệnh phổi đặc trưng bởi co thắt phế quản do tiếp
xúc với bụi bông, đay, gai và lanh trong quá trình lao động.
+ Bệnh bụi phổi talc nghề nghiệp là bệnh xơ hóa phổi do hít phải bụi talc trong quá
trình lao động
+ Bệnh bụi phổi than nghề nghiệp là bệnh xơ hóa phổi do hít phải bụi than trong quá
trình lao động
+ Bệnh viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp.
+ Bệnh hen nghề nghiệp.
2.4.3. Bệnh bụi phổi silic (xem thêm tài liệu số 22)
Bệnh bụi phổi silic nghề nghiệp là bệnh xơ hoá phổi tiến triển do hít phải bụi chứa silic
tự do trong quá trình lao động.
a. Đặc điểm phát sinh bệnh
Bệnh bụi phổi do nhiễm bụi silic tự do là bệnh xơ hoá tiến triển nhu mô phổi và những
hạt xơ kích thước khác nhau ở hai phổi do chính bụi silic gây ra.
Bệnh bụi phổi silic được biết từ lâu, vào năm 400 - 300 trước công nguyên, Hyppocrates
đã quan sát thấy những người thợ mỏ thường chết sớm bởi những cơn khó thở, lúc đó ông
gọi là “cơn khó thở của những người thợ mỏ”.
Danh từ silicosis được dùng lần đầu tiên vào năm 1870 (Viscont). Bệnh này gặp ở công
nhân khai thác mỏ, tỷ lệ công nhân mắc bệnh này khá cao ở các nước công nghiệp phát
triển trên thế giới. Việt Nam cũng đã phát hiện thấy bệnh silicosis trong công nhân ở một
số nhà máy, xí nghiệp có bụi chứa SiO2, thường phát triển ở công nhân có tuổi nghề trên 5
năm có cường độ lao động thể lực nặng, đôi khi gặp ở tuổi nghề 3 năm.
b. Cơ chế bệnh sinh và đặc điểm bệnh lý
- Đặc điểm chung: từ viêm phế quản kiểu xuất tiết và co thắt phế quản làm cho sự thông
khí phổi kém, thiếu oxy huyết và gây xơ hoá phổi.
- Cơ chế sinh bệnh:
+ Thuyết theo tính chất cơ học: kích thích gây xơ hoá do những hạt bụi rắn cứng và
góc cạnh.
+ Thuyết theo tính chất hoá học: do SiO2 hoà tan trong dịch phân bào tạo thành axit
silic hợp thành phân tử polyme gây phản ứng xơ hoá
+ Thuyết do nhiễm khuẩn.
+ Thuyết theo tính chất dị ứng gây co thắt phế quản, khí quản.
+ Thuyết theo tính chất miễn dịch sinh học là được nhiều tác giả thừa nhận hơn cả.
Thuyết miễn dịch sinh học của tác giả người ý là Pernis và Vigliani (1950), được mô tả
như sau:
SiO2 + đại thực bào tế bào chết kháng nguyên (lipoprotein) kích thích cơ thể tạo
nên kháng thể và phản ứng giữa kháng nguyên – kháng thể sinh ra các nốt silicotic (chất
trong suốt hyalin), chính là xơ hoá phát triển, còn gọi là các u xơ phổi.
c. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
- Giai đoạn 1: các triệu chứng lâm sàng nghèo nàn và kín đáo, không có biểu hiện triệu
chứng rõ rệt:
+ Đau tức ngực, ho khan và khó thở nhẹ, khả năng lao động bình thường. Vì thế người
lao động và y tế dễ bỏ qua.
+ Tiếng tim phổi bình thường, chức năng hô hấp bình thường.
+ Chụp X quang phổi có những nốt silicotic nhỏ rải rác ở 2 trường phổi đường kính
1mm.
- Giai đoạn 2: các triệu chứng lâm sàng tăng lên và biểu hiện rõ rệt:
+ Đau ngực nhiều lên, ho nhiều có đờm, khó thở khi lao động và khả năng lao động bắt
đầu giảm.
+ Nghe phổi thấy có rì rào phế nang giảm, đôi chỗ có rên khô và rên ướt, gõ vùng liên
bả vai thấy đục.
+ Hình ảnh X quang: tâm thất phải có thể to hơn bình thường, phổi bị xơ hoá tràn lan,
rốn phổi to đậm, nhiều nốt silicotic rải rác quá nửa phổi; chức năng hô hấp giảm.
+ Trong máu: oxy (O2) giảm, CO2 tăng.
- Giai đoạn 3: sức khỏe suy sụp.
+ Đau ngực thường xuyên, ho có nhiều đờm, khó thở cả khi ngồi; chức năng hô hấp
giảm sút.
+ Khám phổi có tiếng cọ phế mạc; gõ phổi có chỗ đục, chỗ trong (phổi bàn cờ).
+ Điện tâm đồ thay đổi.
+ X quang: các nốt, các hạt silicose tràn lan khắp phổi.
+ Kèm theo có thể có các biến chứng và bệnh lý khác như: viêm phế mạc, áp xe phổi,
hội chứng tâm phế mạn, lao phổi và có khái huyết. Tỉ lệ lao phổi ở bệnh nhân silicose giai
đoạn 3 chiếm 80% trường hợp.
d. Những chỉ tiêu chẩn đoán sớm bệnh phổi silic
- Tiền sử nghề nghiệp và điều kiện vệ sinh lao động:
Xác định thành phần SiO2 tự do và hàm lượng bụi trong không khí ở nơi làm việc của
người bệnh, tuổi nghề và tính chất lao động.
- Kiểm tra chức năng hô hấp:
+ Thời gian nhịn thở bình thường 30 – 40 giây. Nếu từ 10 – 15 giây là bệnh lý.
+ Đo độ thay đổi vòng ngực khi hít vào hết sức và thở ra hết sức, bình thường chênh
nhau 4 - 10cm.
+ Đo dung tích sống: bình thường người lớn 3 lít (nam); 2,5 lít (nữ).
+ Đo lượng thông khí tối đa: bình thường 80 - 100 lần/phúthút.
𝑉𝐸𝑀𝑆
𝑇𝑖𝑓𝑓𝑒𝑛𝑒𝑎𝑢 = 𝑥100 (%)
𝑉𝑆
Với bụi trong môi trường lao động hiện nay vẫn áp dụng theo quyết định 3733/2002
của Bộ y tế, cụ thể như sau:
Bảng 2.4: Nồng độ tối đa cho phép và số hạt bụi cho phép
Nhóm Hàm Nồng độ bụi toàn phần Nồng độ bụi hô hấp
bụi lượng (hạt/cm3) (hạt/cm3)
silic (%) Theo ca Theo thời Theo ca Theo thời
điểm điểm
1 > 50 - 100 200 600 100 300
2 > 20 - 50 500 1000 250 500
3 > 5 - 20 1000 2000 500 1000
4 5 1500 3000 800 1500
Bảng 2.5: Nồng độ bụi cho phép theo trọng lượng bụi
Phân Hàmlượng Nồng độ bụi toàn phần Nồng độ bụi hô hấp (mg
nhóm Silic (%) (mg/m3) /m3)
Bụi Theo ca Theo thời Theo ca Theo thời
điểm điểm
1 100 0,3 0,5 0,1 0,3
2 > 50 - 100 1,0 2,0 0,5 1,0
3 > 2- 50 2,0 4,0 1,0 2,0
4 > 5 - 20 4,0 8,0 2,0 4,0
5 1-5 6,0 12,0 3,0 6,0
6 <1 8,0 16,0 4,0 8,0
Bảng 2.6: Giá trị nồng độ tối đa cho phép bụi không chứa silic
Loại Tên chất Nồng độ bụi toàn Nồng độ bụi
phần (mg/m3) hô hấp
(mg/m3)
1 Than họat tính, nhôm, diatomit,
graphít, cao lanh, pyrit, talc 2 1
2 Bakelit, than, oxyt sắt, oxyt kẽm,
dioxyt titan, sillicat, apatit, barit,
photphatit, đá vôi, đá trân trâu, đá 4 2
cẩm thạch, xi măng Portland.
3 Bụi thảo mộc: chè, thuốc lá, bụi
gỗ, bụi ngũ cốc. 6 3
4 Bụi hữu cơ và vô cơ không thuộc
loại 1, 2, 3. 8 4
Bảng 2.7: Giá trị tiếp xúc nghề nghiệp cho phép với bụi amiăng và bụi bông
Loại Tên chất Trung bình 8 giờ Trung bình 1 giờ
(sợi/ml) (sợi/ml)
1 Serpentine (chrysotile) 0,1 0,5
2 Amphibole 0 0
3 Bụi bông (mg/m3) 1,0 -
Bảng 2.8: Mức độ ô nhiễm bụi trong môi trường lao động
Loại Mức độ ô nhiễm So sánh với nồng độ bụi tối đa cho
phép
0 Môi trường hợp vệ sinh lao động Dưới nồng độ tối đa cho phép.
1 Ô nhiễm bụi ít Trên nồng độ TĐCP 3 lần.
2 Ô nhiễm bụi vừa Trên 3 - 5 lần nồng độ TĐCP.
3 Ô nhiễm bụi nhiều Trên 5 - 10 lần nồng độ TĐCP.
4 Ô nhiễm bụi rất nhiều Trên 10 - 30 lần nồng độ TĐCP.
5 Ô nhiễm bụi nghiêm trọng Trên 30 lần nồng độ TĐCP.