You are on page 1of 2

TỔNG QUAN VỀ CHITOSAN

Trong vài năm trở lại đây, ngành khoa học vật liệu tập trung vào nghiên cứu phát triển
các loại vật liệu scaffold và chất dẫn thuốc mới. Trong đó, các nhà khoa học đặc biệt chú
ý đến Chitosan và ứng dụng của nó vào lĩnh vực này.

Chitosan là một dạng dẫn xuất của chitin ( chitin được deacetyl hóa), có khối lượng mol
phân tử rất cao. Đây là một loại polymer sinh học rất phong phú trong tự nhiên thường
được tìm thấy trong vỏ của động vật giáp xác hoặc thành tế bào trong nấm. Chitosan là
polymer mạch thẳng, là hỗn hợp của glucosamine N-acetyl glucosamine, tỷ lệ giữa 2 chất
này được coi là độ deacetyl. Phụ thuộc vào nguồn cung cấp cũng như cách tách chiết,
khối lượng phân tử chitosan có thể từ 300 đến 1000 kD với độ deacetyl đạt từ 30 – 95%.
Chitosan ở dạng tinh thể, màu trắng hoặc hơi ngả vàng, không tan trong các dung môi
nước có pH=7, trong các acid yếu có pH<6, nhờ có các proton tự do ở nhóm Amin làm
cho chúng dễ dàng tan ra.

Các cation vốn có của CS có thể thực hiện tương tác tĩnh điện với các anion có trong
Glycosaminoglycans GAG. Sự phân hủy các polysacarit và các điện tích âm khác sẽ tích
điện cho phân tử??

Đây là một đặc tính rất quan trọng bởi vì các nhân tố tế bào (cytokine/growth) có thể liên
kết với GAG (nhất là với heparin và heparin sulphate).

Và một scaffold đc kết hợp từ CS-GAG có thể lưu giữ và tinh lọc (concentrate) các nhân
tố phát triển mới (growth factors) được tiết ra từ các tế bào colonizing (lấn chiếm, thực
dân). Hơn nữa, sự có mặt của nhóm N-acetylglucosamin trong CS cũng làm tăng hoạt
tính sinh học của vật liệu.

Thực tế, CS oligosacrarit có hiệu quả kích thích bạch cầu, và cả chitosan và chitin đều
hấp dẫn bạch cầu trung tính trong thử nghiệm invitro và invivo.

Lysozim là enzim đầu tiên chịu trách nhiệm cho việc thoái biến (phân hủy) của chitosan
trong thử nghiệm invivo trong suốt quá trình thủy phân các nhóm acetyl còn lại. Mặc dù
vậy, các emzim proteolytic (enzim phá hủy bằng cách làm thủng màng tế bào) khác lại
cho thấy khả năng phân hủy tế bào kém. Tỷ lệ phân hủy CS nghịch đảo với độ deacetyl
hóa. Các dạng CS có độ deacetyl hóa cao có thể tồn tại vài tháng trong thử nghiệm
invivo. Và cuối cùng chúng bị thoái biến trở thành các Oligosacarit CS và thay đổi chiều
dài mạch (ngắn đi).

Quan sát sự tương quan giữa độ deacetyl của CS và các tế bào mới sinh bám vào nó, theo
đó, việc lựa chọn CS ở mức độ nào có vai trò quyết định đến việc phát triển tổng hợp
scaffold trong kỹ thuật mô. Đã có một số nghiên cứu tập trung vào sự phát triển của tế
bào gốc sau khi được cấy ghép vào các CS-based. Nhìn chung, các phản ứng dị vật của
cơ thể đối với những loại vật liệu này là rất nhỏ. Hình thành rất ít hoặc không hình thành
các nang sợi. Sự hình thành của các mô hạt thông thường có tác động thúc đẩy nhanh quá
trình hình thành mạch máu, và các hiện tượng chữa lành vết thương. Hiệu quả miễn dịch
này được giả thiết là nhờ vào sự kích thích tương hợp giữa vật liệu cấy ghép và vật chủ.

Một trong những tính chất quan trọng của chitosan là khả năng cho phép định dạng ở
những hình dạng khác nhau mà không làm mất đi tính chất lý hóa. Cs sở hữu những tính
chất tuyệt vời để hình thành các cấu trúc xốp. Scaffold xốp được tạo ra bằng phương
pháp đóng băng và đông khô hoặc các phương pháp khác như là IBP (internal bubbling
process-sục bóng khí), theo đó CaCO3 được thêm vào dung dịch chitosan để tạo ra gel
Cs-CaCO3 , tinh thể băng được loại bỏ bằng sấy đông khô (lyophilization) để tạo thành
vật liệu xốp, kích thước lỗ và sự định hướng được quyết định bởi tỉ lệ đóng băng (
freezing rate), kích thước các tinh thể băng và cách thức chúng bốc bơi trong suốt quá
trình đông lạnh. Vật liệu thu được có thể được định dạng dưới dạng màng, tấm, ống, hạt.
Kích thước lỗ rỗng và sự định hướng của chúng cho thấy ảnh hưởng

You might also like