Professional Documents
Culture Documents
Trước đây, hầu hết các vật liệu dẫn điện đều là kim loại như đồng, tuy nhiên ngày nay
một số polymer được ứng dụng với tính dẫn điện
Các chất này có thể là chất dẫn điện thực sự như kim loại hoặc chất bán dẫn. Ưu điểm
lớn nhất của polymer dẫn điện là khả năng gia công và có đặc tính của chất dẻo (như độ
mềm dẻo độ dai, khả ngăn kéo sợ, tạo màng mỏng, tính đàn hồi cao, không bị ăn mòn).
Có 4 loại Polymer dẫn điện chính: polmer chứa chất độn (filled polymer), polymer dẫn
điện theo cơ chế ion (ionically conducting polymer), polymer truyền điện tích (charge-
transfer polymer) và polymer dẫn điện (electrically conduting polymer).
Polymer chứa chất độn bản thân là polymer không dẫn điện được độn bằng các
chắt độn dẫn điện như than đen, sợi grafit, hạt kim loại hoặc hạt oxid kim loại.
Là loại có lịch sử lâu đời nhất và được ứng dụng rộng rãi nhất làm thiết bị điện
tử vì dễ gia công, tính chất điện rộng và giá tương đối thấp. tuy nhiên nhưng vật
liệu này không đồng thể làm cho khả năng tái lập kém, phụ thuộc nhiều vào quá
trình gia công.
Polymer dẫn điện theo cơ chế ion (ionme hoặc polyelectrolyte) đã được biết trên
30 năm nay. Các polymer này (như polyacrylic acid) có các nhóm thế có khả
năng phân li H+ và phần còn lại của mạch polime được tích điện tích âm ở các
nhóm thế, từ đó trở thành các hạt tải điện và có thể dẫn điện. Vật liệu này có
nhiều ứng dụng như pin sạc, pin nhiên liệu, và thiết bị phát quang polymer.
Polymer ion có khả năng gia công dễ dàng và có thể được tổng hợp bằng nhiều
phương pháp khác nhau. Nhược điểm chính của bật liều này là nhạy với độ ẩm
và hơi nước.
Polymer truyền điện tích được nghiên cứu từ những năm 1950 với việc phát hiện
ra các phức truyền điện tích phân tử có độ dẫn điện vào khoảng 103 S/cm. Trong
những năm 1960 hiện tượng tương tự cũng được nhận thấy trong poly(vinyl
cacbazol) (PVK) kích hoạt bằng iod.
Việc thêm các chất oxy hóa như SbCl5 và/hoặc tri-(-bromphenyl) ammonium
hexachloantimonat vào một polyme truyền điện tích (như PVK) tạo thành vật
liệu polyme truyền điện tích bán dẫn. Bằng cách thay đổi chất oxy hóa và kết
hợp với polyme truyền điệnt cihs đã tạo được nhiều polyme bán dẫn. Độ dẫn của
các vật liệu này có thể được điều chỉnh dễ dàng bằng cách điều chỉnh hàm lượng
các nhóm truyền điện tích và các chất oxy hóa. Các loại sinh vật liệu này có ưu
điểm như khoảng dẫn điện rộng, độ bền cao, độ kháng mài mòn cao và độ bền
điện môi cao. Tuy nhiên nhược điểm chính của vật liệu này là độ dẫn điện thấp
(độ dẫn điện cao nhất là 10-5 S/cm)
Polymer dẫn điện là các vật liệu có các liên kết π liên hợp có tính cộng hưởng
trên suốt chiều dài mạch. Các electron trong các orbital bất định xứ này có độ
linh động cao, tức là có thể di chuyển dễ dàng từ đầu mạch này đến đầu mạch
khác.
VII.7.1 Mối liên hệ giữa cấu trúc hóa học và khả năng dẫn điện
Trong phần này, ta sẽ nói chi tiết về mối liên hệ giữa cấu trúc hóa học
và khả năng dẫn điện của Polymer dẫn điện.
Khi chiều dài liên hợp tăng từ etylen đến 1,3-butadien, 1,3,5,7,9,11-
dodecaheexxaen đến polyaxetylen, năng lượng khe tương ứng với bước chuyển điệnt tử
π→ π* giảm. Kim loại có năng lượng khe bằng không, polymer ở trạng thái chưa kích
hoạt có năng lượng khe > 2 eV, quá lớn để có thể dẫn điện do nhiệt. Nhiều nghiên cứu
tập trung để giảm năng lượng khe nhằm ứng dụng làm vật liệu điện sắc.
Độ dẫn điện của Polymer thấp hơn nhiều so với kim loại, tuy nhiên khi được
kích hoạt, độ dẫn điện có thể tăng lên rất lớn (từ 10−10 - 10−8 S/cm tăng đến 0,1 S/cm
và cực đại là 80 kS/cm ứng với polyaxetylen)
Ngày nay polyme dẫn cạnh tranh và thay thế công nghệ màn hình dữ trên vật liệu vô cơ
và tinh thể lỏng (LCD: liquid crystalline display). Ví dụ: PPV là polyme dẫn phát
huỳnh quang màu vàng có cực đại ở 551nm và 520nm trong vùng vàng-xanh của ánh
sáng khả kiến.
Diod phát quang từ poyme dẫn có ưu điểm hơn từ vật liệu vô cơ như được gia công trên
nên có bề mặt lớn, polyme có mạch kéo dãn co tính chất càng tốt (bền trong quá trình
hoạt động) và có khả năng tính chính xác các tính chất điện và quang. PLED đơn giản
nhất gồm màng mỏng PPV kẹp giữa 2 điện cực. Anod (điện cực bơm lỗ) là một vật liệu
hơi mờ (high work function) như indium thiếc oxid (ITO) ,còn catod ( điện cực bơm
electron) là một kim loại (low work function) như AL, Ca hoặc Mg.
Dưới tác dụng của điện thế, các chất mang điện tích trái dấu (điện từ và lỗ) được bơm
vào lớp phát xạ từ những chỗ tiếp xúc đối diện và quét qua thiết bị dưới điện trường
cao. Hiệu quả của thiết bị phát quang đánh giá dựa vào số photon phát ra trên một điện
từ bơm vào. Bằng cách thay đổi nhóm chúc gắn trên polyme, copolyme và phối trộn
polyme có thể tạo thành PLED có màu khác nhau ( như bảng dưới).
Polyme Bước sóng Màu
(cm1)
MEH-PPV (poly(2-metoxy-5- 610 Đỏ - cam
(2-etyl hexyl)oxy-1,4-
phenylen)vinylen)
PT (Polythiophen) 662 Đỏ
PPV (Poly(Phenylen Vinylen)) 550 Xanh lá
PPP(Poly(p-phenylen)) 459 Xanh dương
Khó tan trong dung môi hữu cơ và giảm khả năng gia công.
Không bền trong khí quyển ẩm.
Giá thành cao do cần phải tổng hợp nhiều giai đoạn.
Quá trình tổng hợp phức tạp hơn do phải gắn thêm các nhóm chức nhằm tăng
khả năng hòa tan.
Đầu thập niên 80 của thế kỷ trước ý tưởng về polyme dẫn là chủ đề chính thức
của nhiều cuộc tranh cãi. Tuy nhiên, các sự kiện xảy ra đồng thời vào cuối năm
1970 đã dẫn tới những báo cáo đầu tiên về vật liệu polyme có tính dẫn.
Trong suốt hai mươi năm sau đó nhiều nỗ lực để tạo ra polyme dẫn với độ dẫn
điện cao và kết quả của những nỗ lực đó đã đưa các nhà khoa học tới polyme dẫn
điện đầu tiên trên thế giới là polyacetylen. Trước năm 1977 bằng các phương
pháp khác nhau người ta chỉ tạo ra được loại vật liệu thô đen giống như carbon
đen.
Năm 1800, Letheby công bố các sản phẩm điện hóa và hóahọc của anilin, với
dạng khử không màu và dạng oxy hóa màu xanh dương đậm.
Năm 1900, chúng bắt đầu được áp dụng vào công nghiệp với tên gọi là hợp chất
anilin đen hay pirrolđen.
Năm 1950, hợp chất vòng thơm đa vòng tạo muối phức chuyển điện tích với
halogen được phát hiện.
Năm 1963, Bolto công bố khả năng dẫn điện của polypirrol kích hoạt bằng iod
Năm 1974 McGinnes đã mô tả thiết bị polymer hữu cơ “hoạt động” như một
công tắc kiểm soát bằng điện thế.
Năm 1980, Diaz và Logan công bố có thể dùng màng polianilin làm điện cực
Với nhiều ứng dụng cho những bộ cảm ứng (sensor), hoạt tính điện hoá (electro-
acivity), ứng dụng trong việc sản xuất pin mặt trời, linh kiện trong những màn hình tinh
thể lỏng.... polymer dẫn điện dần dần trở thành một phần quan trọng trong sản xuất.
Ngày nay cùng với sự phát triển của mình con người ngày càng sử dụng nhiều tài
nguyên. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này đang trở nên khan hiếm. Trước thực trạng đó
sự xuất hiện của polymer dẫn và vật liệu hữu cơ chính là chìa khóa cho sự phát triển ổn
định trong tương lai.