You are on page 1of 6

http://przyrbwn.icm.edu.pl/APP/PDF/129/a129z6p21.

pdf
download
phổ hấ p thụ MEH PPV
phổ phá t xạ củ a mặ t trờ i
biểu đồ nă ng lượ ng MEH PPV
Photoconductivity is an optical and electrical phenomenon in which a material becomes more
electrically conductive owing to the absorption of electromagnetic radiation, such as visible
light, ultraviolet light, infrared light, or gamma radiation [13]. When light is absorbed by a
material, the number of free electrons and holes increases and raises its electrical conductivity.
Quang dẫn là một hiện tượng quang - điện trong đó vật liệu trở nên dẫn điện hơn do sự hấp
thụ bức xạ điện từ như ánh sáng nhìn thấy, tia hồng ngoại, tia cực tím hoặc bức xạ gamma.[1]
Theo hiệu ứng quang điện khi photon được hấp thụ bởi một vật liệu như chất bán dẫn, số
lượng electron tự do và lỗ trống điện tử tăng lên, dẫn đến làm tăng tính dẫn điện của nó.[2]
Điện trở quangCảm biến CCD chuyển đổi photon sang điện tích và chuyển tín hiệu theo cơ
chế thanh ghi dịch
Để gây ra sự kích thích, ánh sáng chiếu vào chất bán dẫn phải có đủ năng lượng để nâng các
electron vượt qua vùng dải khe (band gap), hoặc để kích thích các pha tạp trong vùng khe của dải.
Khi có thiên áp phân cực và điện trở tải được đấu nối tiếp vào mạch chứa linh kiện này, có thể đo
được sự sụt giảm điện áp trên các điện trở tải khi sự thay đổi độ dẫn điện của vật liệu thay đổi dòng
điện qua mạch.

Pin mặt trời hữu cơ (OSC[1]) hoặc pin mặt trời bằng
nhựa là một loại quang điện sử dụng thiết bị điện tử
hữu cơ, một nhánh điện tử liên quan đến các polyme
hữu cơ dẫn điện hoặc các phân tử hữu cơ nhỏ,[2] để
hấp thụ ánh sáng và vận chuyển điện tích để tạo ra điện
từ ánh sáng mặt trời nhờ hiệu ứng quang điện. Hầu hết
các tế bào quang điện hữu cơ là pin mặt trời polymer.
Polymer solar cells that only consist of a conducting polymer alone have a low minority carrier mobility,
for example, poly [2-methyl-5-(2’-ethyl-hexyloxy)-1, 4-phenylene vinylene] MEH-PPV has a high hole
mobility, but a low electron mobility [1]. The intrinsic carrier mobility imbalance in MEH-PPV severely
limits the performance of pure-polymer-based solar cells. To overcome this imbalance, a second material
is often incorporated to act as an electron acceptor and as a pathway for electron transport. For
polymernanoparticle bulk heterojunction solar cells, a power conversion efficiency of 5% (under AM 1.5
simulated solar radiation at one sun intensity) has been reported

Khi phân tử polymer dẫn nhận được năng lượng kích thích (ánh sáng điện trường, v.v) đủ lớn thì điện tử
nằm trong vùng HOMO sẽ nhảy lên vùng LUMO, tạo ra điện tử trong vùng LUMO và để lại lỗ trống trong
vùng HOMO. Do tương tác tĩnh điện, điện tử và lỗ trống liên kết với nhau tạo thành cặp gọi là exciton.
Các exciton đó cần được phân tách ra trước khi hạt tải có thể được vận chuyển qua lớp màng và được
thu lại tai các điện cực.

- PEDOT/PSS: Lớp truyền lỗ trống tăng cường quá trình truyền hạt tải lỗ trống ra các cực

- ITO: Là điện cực anot

- Al: Là điện cực catot

- MEH-PPV: Đóng vai trò là lớp hoạt quang – nơi năng lượng ánh sáng mặt trời bị hấp thụ và chuyển hóa
thành điện năng.

Màng MEH-PPV được chế tạo bằng phương pháp spincoating. Kết quả nghiên cứu cho thấy muốn chế
tạo màng có độ dày nhỏ hơn 100nm thì tốc độ quay phủ phải lớn hơn 2500 vòng/phút. Phổ hấp thụ của
màng đã được khảo sát, đỉnh hấp thu đạt được tại bước sóng 508nm.
Cơ chế biến đổi năng lượng mặt trời thành dòng điện trong pin nói chung xảy ra theo các bước sau: -
Điện tử bị quang tử kích thích nhảy lên trạng thái kích thích hình thành nên exiton. Vì điện tử có điện
tích âm (-) và lỗ trống mang điện dương (+) tạo nên cặp âm dương (-)(+), hay là lỗ trống - điện tử
(exciton), chúng liên kết với nhau do lực hút tĩnh điện. - Cặp (+)(-) phải được tách rời để điện tử hoàn
toàn tự do đi lại tạo ra dòng điện. Các exciton sẽ bị phân tách thành điện tử, lỗ trống tự do tại các địa
điểm cụ thể nào đó trong vật liệu hay bề mặt biên giữa vật liệu và các tạp chất (oxy, hydro, v.v) hoặc bề
mặt biên giữa vật liệu và các lớp vật liệu khác. Vùng exciton bị phân tách thành điện tử, lỗ trống riêng rẽ
gọi là vùng phân tách (dissociation). Sau khi phân tách, điện tử sẽ di động trong vật liệu tiến đến cực
dương và lỗ trống di động trong vật liệu tiến đến cực âm. Dòng điện xuất hiện

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Polymer dẫn điện (goi tắt là polymer dẫn) là hợp chất hữu cơ có phân tử được cấu tạo từ các vòng
benzene, trong đó các liên kết đơn C-C và đôi C=C của các nguyên tử cacbon luân phiên kế tiếp nhau. Có
thể nói rằng polymer dẫn điện là những đồng đẳng của benzene. Liên kết giữa các phân tử được thực
hiện bằng lực Van der Waals. Do cấu trúc của vòng benzene nên trong phân tử polymer dẫn điện có rất
nhiều liên kết đôi (hay còn gọi là liên kết π) kém bền vững dẫn đến trạng thái bất định xứ của điện tử dọc
chuỗi polymer. Các điện tử π có nhiều hoạt tính hóa học, rất dễ phản ứng nếu có điều kiện thích hợp, chỉ
cần một năng lượng nhỏ cũng đủ kích hoạt điện tử π sang trạng thái khác. Do đó, các tính chất cơ bản
trong đó có khả năng dẫn điện của polymer dẫn đều có nguồn gốc từ những điện tử π linh động.
With the MEH-PPV is a p-type semiconductor having lowest unoccupied molecular orbital (LUMO) value
of 3 eV and highest occupied molecular orbital (HOMO) value of 5.3 eV [28]. This has resulted into
further increase in the power conversion efficiency compared to that in their absence.

PPV derivatives, Hole-injection layer materials, Hole transport layer materials; Polymer light-
emitting diodes (OLEDs), Organic photovoltaics (OPVs), Organic electronics

MEH-PPV có độ rộng vùng cấm cỡ 2.1eV [24] và có khả năng hấp thụ tốt nhất bước sóng khoảng 500nm.
Ngoài ra, MEH-PPV dễ bị hòa tan trong dung môi hữu cơ, dễ trải màng và không yêu cầu nhiệt độ cao.
Chính vì các đặc điểm như trên, MEHPPV được lựa chọn làm vật liệu hoạt quang trong pin mặt trời cũng
như vật liệu phát quang trong OLED.

Ưu điểm lớn nhất của các vật liệu này là dễ hoà tan trong các dung môi hữu cơ và quá trình chế tạo
thành màng mỏng từ dung dịch không cần xử lý ở nhiệt độ cao. Ngoài ra, PPV có bước sóng ánh 14 sáng
phát ra là khoảng em = 560 nm và MEH-PPV là khoảng em = 590 nm. Cả hai bước sóng này đều nằm
xung quanh độ nhạy mắt người

Polymer dẫn điện là hợp chất hữu cơ có phân tử được cấu tạo từ các vòng benzene, trong đó các liên kết
đơn C-C và đôi C=C của các nguyên tử cacbon luân phiên kế tiếp nhau. Có thể nói rằng polymer dẫn điện
là những đồng đẳng của benzene. Liên kết giữa các phân tử được thực hiện bằng lực Van der Waals. Do
cấu trúc của vòng benzene nên trong phân tử polymer dẫn điện có rất nhiều liên kết đôi (hay còn gọi là
liên kết π) kém bền vững dẫn đến trạng thái bất định xứ của điện tử dọc chuỗi polymer. Các điện tử π có
nhiều hoạt tính hóa học, rất dễ phản ứng nếu có điều kiện thích hợp, chỉ cần một năng lượng nhỏ cũng
đủ kích hoạt điện tử π sang trạng thái khác. Do đó, các tính chất cơ bản trong đó có khả năng dẫn điện
của polymer dẫn đều có nguồn gốc từ những điện tử π linh động.

Chuẩn bị dung dịch MEH-PPV - Hòa tan MEH-PPV trong dung môi dicloethan (CH2ClCH2Cl) với tỷ lệ 2mg
polymer/1ml dung môi. Chú ý tránh để dung dịch tiếp xúc với ánh sáng. Sử dụng khuấy từ trong thời gia
một ngày để hòa tan hoàn toàn polymer. - Trước khi sử dụng, dung dịch được đem rung siêu âm trong
vài giờ để đảm bảo chất lượng dung dịch là tốt nhất

Đặc biệt là MEH-PPV dễ hoà tan trong các dung môi hữu cơ, dễ trải màng, không yêu cầu nhiệt độ cao,
dễ chế tạo với diện tích phát quang lớn.

MEH-PPV có độ rộng vùng cấm MEH-PPV cỡ 2,8 eV thường được sử dụng để làm lớp phát quang trong
OLED (hình 1.12) như trong linh kiện cấu trúc ITO/MEH-PPV/Al. Do MEH-PPV có mức HOMO gần mức
Fermi của ITO, mức LUMO gần mức Fermi của Al nên rào thế tại các tiếp xúc ITO/MEH-PPV và Al/MEH-
PPV thuận lợi cho việc bơm lỗ trống và điện tử vào MEH-PPV

Based on the optical absorption of MEH-PPV, the π-π* bandgap energy is 2.14eV. Thus, the optical (i.e.
single particle energy gap) bandgap of MEH-PPV is then estimated at 2.34eV, 0.2eV larger then the
absorption threshold due to the exciton binding energy

That metals are excellent conductors of electricity, insulators are poor conductors of
electricity, and semiconductors are somewhere in-between is common knowledge.
Lesser known, however, is that those properties are determined by the band gap in each
of the different materials. In particular, metals have high electrical conductivity due to
their lack of a band gap—with no band gap separating the valence band (normally
occupied states) from the conduction band (normally unoccupied states; electrons in
this band move freely through the material and are responsible for electrical
conduction), a small fraction of electrons will always be in the conduction band (i.e.,
free). This results in a superior electrical conductivity in metals.

Insulators, on the other hand, owe their low electrical conductivity to wide band gaps
separating the valence band from the conduction band. If their band gaps were
narrower, it would be feasible for thermal excitations to raise electrons to the
conduction band; however, they are simply too wide for this to occur appreciably. As a
result, the conductivity of a good insulator can be as little as 24 orders of magnitude less
than that of a good conductor.

Finally, semiconductors rank intermediate in electrical conductivity, because their


narrow band gaps make it nontrivial, but not impossible, for electrons to be raised to the
conduction band by way of thermal excitation. The result is conductivity in
semiconductors that is about 4–16 orders of magnitude less than that of a good
conductor.

You might also like