You are on page 1of 5

HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA

( Trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng )

I Tìm hiểu chung


1/ Tác giả
- Vũ Trọng Phụng (1912-1939): Quê huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng sinh
ra và sống chủ yếu ở Hà Nội trong một ngôi nhà nhỏ ở phố Hàng Bạc.

- Là một trí thức Tây học có tài năng, cá tính nhưng bị xã hội thực dân nửa phong
kiến vùi dập tàn tệ, tạo nên ở Vũ Trọng Phụng cảm quan hiện thực sắc sảo, mãnh
liệt; góp phần hình thành nên ngòi bút trào phúng chuyên công phá mãnh liệt vào
mảng hiện thực tối tăm, xấu xa của con người và xã hội đương thời.

- Sự nghiệp văn học phong phú: + Tiểu thuyết: Giông tố (1936), Số đỏ (1936), Vỡ
đê (1936), Trúng số độc đắc (1938)

+ Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy


Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936)

 Ông là một trong những đại diện xuất sắc của trào lưu hiện thực 1930-1945,
một cây bút đầy tài năng, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ của
văn xuôi quốc ngữ Việt Nam.
2. Tiểu thuyết “Số đỏ”

- Tóm tắt: SGK ( trang 122-123 )

- Giá trị

+ Về nội dung: Tác giả phơi trần bản chất bịp bợm, rởm đời của xã hội tư sản
thành thị đương thời. Đó là xã hội nhố nhăng, khốn nạn, “chó đểu”, nhưng bề
ngoài lại có vẻ sang trọng, Âu hóa văn minh rởm. Ở đó, cái thật và cái giả cũng
như mọi bậc thang giá trị đều có nguy cơ bị đảo lộn.

+ Về nghệ thuật: Nhân vật đông đảo, bút pháp châm biếm đặc sắc

3. Đoạn trích

- Xuất xứ – vị trí : Thuộc chương XV của tác phẩm Số đỏ

- Nhan đề :“Hạnh phúc của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – Một
đám ma gương mẫu.”

- Bố cục : 3 phần

Phần 1 : Từ đầu .... biết rổi, khổ lắm nói mãi của cụ cố Hồng: giới thiệu cái
chết cụ tổ
Phần 2 : ( Tiếp theo ...gây ra cho Tuyết vậy) : các thành viên trong gia đình cụ
Hồng trước cái chết của cụ cố tổ

Phần 3 : Phần còn lại : miêu tả cảnh đưa đám tang và hạ huyệt

- Tóm tắt tình tiết chính

+ Cụ tổ chết, uy tín danh giá của Xuân Tóc Đỏ càng lớn thêm.

+ Cái chết của cụ tổ làm cho nhiều người sung sướng. Đám con cháu bối
rối để chuẩn bị một đám ma to tát.

+ Một đám ma được tổ chức theo lối Ta, Tây, Tàu. Đám ma đi đến đâu làm
huyên náo đến đấy.

+ Lúc hạ quan tài, ông Phán oặt người đi trong tay Xuân và dúi vào tay hắn
tờ giấy năm đồng bạc gấp tư

- Chủ đề : qua đám tang của cụ cố tổ, tác giả vạch trần sự giả dối, bịp bợm, lố
lăng, vô đạo đạo đức của một lớp người được coi là thượng lưu tri thức của xã hội
thành thị đương thời

II. Đọc hiểu văn bản

1. Ý nghĩa nhan đề “hạnh phúc một tang gia”

+ “ Hạnh phúc” : là một niềm vui sướng

+ “ Tang gia” : là mỗi đau buồn

Sự đối lập Hạnh phúc >< tang gia: mang tính chất mâu thuẫn , trào phúng

 Phê phán sự suy đồi đạo đức trong xã hội bị đồng tiền và danh vọng chi phối

2. Tâm trạng của thành viên tham dự đám tang của cụ cố tổ

a. Niềm vui của các thành viên trong gia đình

- Cụ cố Hồng: “mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho
khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ: Úi kìa, con giai nhớn đã già đến
thế kia kìa!” háo danh, thích khoe khoang với thiên hạ

- Vợ chồng Văn Minh:

+ Văn Minh chồng: sung sướng vì “cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành
chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”. Hơn nữa, là những nhà cải cách xã hội,
Văn Minh sẽ được dịp lăng-xê những mốt trang phục táo bạo nhất.
+ Văn Minh vợ: sốt ruột chờ đợi giây phút được mặc “đồ xô gai tân thời”

 Bất nhân, bất hiếu, bán rẻ lương tâm

- Ông Phán mọc sừng: sung sướng vì không ngời đôi sừng hươu trên đầu mình lại
có giá như thế. Nhờ nó mà cụ tổ chia thêm cho vài nghìn đồng.--> vô liêm sỉ.

- Cô Tuyết: sung sướng vì được mặc bộ y phục Ngây thơ để chứng tỏ với thiên hạ
rằng “mình chưa đánh mất cả chữ trinh” xuống cấp về mặt đạo đức, lối sống.

- Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dùng cái máy ảnh mà đã lâu ngày
chưa có dịp dùng đến nhăng nhít, bất nhân, bất nghĩa.

⇒ Bằng những chi tiết chọn lọc, nghệ thuật châm biếm sắc sảo, tác giả đã bóc trần
bản chất của đám con cháu bất hiếu trong gia đình cụ tổ. Họ thật vô liêm sỉ, đánh
mất nhân cách, đạo đức vì đồng tiền.

b. Niềm vui của các thành viên ngoài gia đình cụ tổ

- Bạn bè cụ cố Hồng:

+ Được dịp khoe huân, huy chương đủ loại: Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh,
Cao Mên bội tinh,…

+ Khoe các kiểu râu ria: hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc
lún phún hay rầm rậm, loăn quăn…

⇒ Cách khoe khoang của những ông tai to mặt lớn thật lố bịch, kệch cỡm. Từ
những chi tiết miêu tả chân dung, tác giả đã ném vào họ tiếng cười mỉa mai châm
biếm đặc sắc.

- Hai viên cảnh sát Min Đơ, Min Toa: “đang buồn rầu như nhà buôn vỡ nợ… có
đám thuê thì sung sướng đến cực điểm đã trông nom hết lòng”.

- Xuân Tóc Đỏ: cụ tổ chết uy tín, danh giá càng to hơn.

- Ông Typn: chờ đợi sự sáng chế của mình ra mắt công chúng xem báo chí phê
bình ra sao

 Bút pháp trào phúng chi phối cách dùng từ ngữ của tác giả, những từ láy gợi
hình được sử dụng với mật độ cao như: vui vẻ, sung sướng, lún phún, loăn quăn,
… đã diễn tả không khí chung rất ngược đời nhưng rất thực của đám tang, đồng
thời vẽ lên chân dung biếm họa đặc sắc của các nhân vật.

3. Cảnh đám ma gương mẫu

- Nghi lễ
+ Phối hợp cả Ta, Tây, Tàu

+ Kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng, và bú dích vòng hoa, câu
đối,…

+ Người đưa tang: có đến vài ba trăm người (đám tai to mặt lớn, bạn bè cụ cố
Hồng, sư chùa Bà Banh, Xuân Tóc Đỏ, giai thanh, gái lịch,…)

 Đám con cháu muốn tỏ ra chí tình chí hiếu đã tổ chức môt đám ma thật to, thật
nổi đình nổ đám khiến tác giả phải đưa ra lời bình luận: “Thật là đám ma to tát có
thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu
không gật gù cái đầu…!”. Lối nói ngược thâm thúy thể hiện thái độ mỉa mai của
tác giả.

- Cảnh đưa đám

+ Quan sát từ xa: Đám đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy, cả thành phố
khen đám ma to. Đó là cái nhìn bề ngoài dòng người đưa đám.

+ Quan sát gần: Họ cười tình với nhau, bình phẩm, chê bai, bình luận về cái
tủ mới mua, một bộ quần áo mới sắm, cô này xinh, cô kia kháu…

+ Điệp khúc “Đám cứ đi” vừa ghi nhận một hiện thực vừa thể hiện thái độ
châm biếm mỉa mai của tác giả. Đám cứ đi thì dòng người vẫn cứ giả dối như thế.

-> Quan sát từng con người cụ thể thì không phải họ đi đưa đám tang mà họ đang
đi trong một đám rước, một đám hội. Tác giả đã vạch trần bộ mặt giả dối của giới
thượng lưu thời thượng lúc bấy giờ.

- Cảnh hạ huyệt: như một màn hài kịch bóc trần thói đạo đức giả tạo của đám con
cháu bất hiếu với các chi tiết đặc sắc:

+ Cụ cố Hồng mếu máo ho khạc.

+ Cậu tú Tân nhảy lên mồ mả của người khác và chỉnh dáng mọi người để
chụp hình

+ Ông Phán mọc sừng oặt người trong tay Xuân, dúi vào tay hắn tờ giấy
năm đồng bạc gấp tư. Đó là một chi tiết trào phúng, thể hiện rõ sự giả dối của đám
con cháu bất hiếu tạo ý nghĩa phê phán sâu sắc cho tác phẩm.

⇒ Bằng những chi tiết chọn lọc, cách miêu tả từ bao quát đến cụ thể, tỉ mỉ, nhà
văn đã vạch trần bộ mặt thật của đám con cháu bất hiếu và xã hội thượng lưu
đương thời.

* Đặc sắc nghệ thuật:


- Tạo nên mâu thuẫn trào phúng độc đáo

- Xây dựng chi tiết nghệ thuật đặc sắc

- Vẽ nên những chân dung biếm họa sinh động bằng thủ pháp đối lập

- Giọng diệu mỉa mai chua chát ,

- Bút pháp cường điệu

III. Tổng kết

a. Nội dung

- Đám tang diễn ra như một màn hài kịch nói lên tất cả sự lố lăng, vô đạo đức,
“chó đểu” của xã hội thượng lưu ngày trước,

- Qua đoạn trích, tác giả đã lên án, tố cáo xã hội tư sản thành thị và mong muốn
thay đổi môt xã hôi tốt đẹp hơn

b. Nghệ thuật

Đoạn trích chứng tỏ nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng

You might also like