Professional Documents
Culture Documents
54 Dân Tộc Anh Em ở Việt Nam
54 Dân Tộc Anh Em ở Việt Nam
Việt Nam - tổ quốc của nhiều dân tộc. Theo truyền thuyết, các dân tộc cùng là con
cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa
theo cha xuống biển.
Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm 86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông
dân nhất: Tày, Thái (Chữ Thái Đen), Mường, Khmer, Hoa, Nùng, H'Mông, người
Dao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai. Đa số các dân tộc này sống ở miền
núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên, miền trung và đồng bằng sông
Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu và Rơ Măm chỉ có trên 300 người.
Ở đồng bằng, các dân tộc làm ruộng, trồng lúa nước, tạo nên nền văn hoá xóm
làng. Ở miền núi, người dân phá rừng để trồng lúa, trồng ngô và các cây công
nghiệp lâu năm,… Họ thường sống trên những ngôi nhà truyền thống của dân tộc,
mặc quần, váy, áo với nhiều hình giống như hoa rừng, thú rừng. Đồng bào có
phong tục uống rượu cần thể hiện tình cảm cộng đồng sâu sắc.
1
Nhà ở truyền thống của người Kinh (nhà 3 gian)
2
Nhà sàn Nhà rông
Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau:
Thổ 74.458 Kẹo, Mọn, Họ, Cuối, Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng
2. Nhóm Tày - Thái Bố Y 2.273 (Bouyei) Chủng Chá, Trung Gia, Pầu Y, Pủ Dí
(Tai–Kadai)
Nùng 968.800
4
Các dân tộc theo Tổng điều tra Dân số 2009
Thái 1.550.423 Táy, các nhóm: Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ
La Chí 13.158 (Lachi) Thổ Đen, Cù Tê, Xá, La Ti, Mán Chí
3. Nhóm Kadai
(Kra)
La Ha 8.177 Xá Khao, Xá Cha, Xá La Nga
5
Các dân tộc theo Tổng điều tra Dân số 2009
6
Bản đồ phân bố các dân tộc ở Việt Nam
7
8
9
10
Đặc điểm các dân tộc ở VN
Việt Nam là quốc gia gồm 54 dân tộc (53 dân tộc thiểu số chiếm 14% dân số cả
nước, cư trú chủ yếu ở miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới), cùng sống
và phát triển trên lãnh thổ Việt Nam, đã sớm hình thành các đặc điểm cơ bản:
– Cộng đồng các dân tộc Việt Nam chung sống đoàn kết. Ngay từ khi bắt đầu
dựng nước, các dân tộc đã cùng nhau chung sức, chung lòng chống lại thiên tai,
bão lũ; điều đó được thể hiện mạnh mẽ trong lịch sử đấu tranh chống giặc
ngoại xâm, giải phóng dân tộc.
11
– Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau và có trình độ phát triển kinh tế – xã hội
không đồng đều, nhưng không có sự phân chia lãnh thổ và chế độ xã hội riêng.
Những năm gần đây, gắn liền với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, việc đan
xen đó càng tăng lên. Hiện nay, ở miền núi hầu như không có tỉnh, huyện nào
chỉ có một, hai dân tộc sinh sống, như: Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang,
Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng… Do khu vực cư trú,
phong tục và tâm lý, lối sống của các dân tộc, nên trình độ phát triển kinh tế –
xã hội của vùng, miền dân tộc không đồng đều. Một số dân tộc có dân số ít, ở
vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế – xã hội còn gặp khó khăn, như: Si La, Pu
Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu … Kinh tế ở miền núi, các dân tộc thiểu số còn
chậm phát triển, tình trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn còn phức tạp. Kết
cấu hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, dịch vụ) ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn
khó khăn, nhiều nơi môi trường tiếp tục bị suy thoái. Tỉ lệ hộ đói nghèo ở vùng
dân tộc thiểu số và miền núi cao hơn so với cả nước, khoảng cách chênh lệch
về mức sống, về trình độ phát triển kinh tế – xã hội giữa các dân tộc, giữa các
vùng ngày càng gia tăng; chất lượng, hiệu quả về giáo dục đào tạo còn thấp,
việc chăm sóc sức khỏe cho người dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn,
– Mỗi dân tộc có văn hóa riêng, tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng. Hầu
hết các tộc người đều có ngôn ngữ riêng,. Do điều kiện sống xen kẽ và nhu cầu
giao tiếp nên ở nhiều tộc người thường sử dụng song ngữ hay đa ngữ. Tiếng
Việt là quốc ngữ, được dùng làm phương tiện giao tiếp của tất cả cácdân tộc.
Tiếng mẹ đẻ của tộc người vẫn được tôn trọng, giữ gìn. Lối sống của mỗi tộc
người đều có những nét riêng, độc đáo. Kho tàng văn hoá dân gian của các dân
tộc vô cùng phong phú và có giá trị lớn. Tuy nhiên, một số bản sắc tốt đẹp trong
văn hóa của các dân tộc thiểu số đang bị mai một, một số tập quán lạc hậu, mê
tín có xu hướng phát triển.
12
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là
Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005.
–Khu vực sống của các dân tộc thiểu số có vị trí đặc biệt quan trọng về chính
trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và bảo vệ bền vững môi trường tự nhiên.
Đồng bào cư trú suốt dọc tuyến biên giới phía Bắc, Tây và Tây Nam, có nhiều
cửa ngõ giao thương giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đây là khu vực có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng, có hệ thống rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Tuy
nhiên, kẻ thù luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống, trình độ dân
trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, các ngành trong thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để kích động ly khai, tự trị, gây
mất ổn định chính trị, nhất là trên các khu vực trọng điểm.
– Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn
yếu, tỉ lệ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học thấp. Năng lực, trình độ cán bộ
xã, phường còn hạn chế, số lượng đảng viên là người dân tộc thiểu số thấp.
- Hiện nay do hệ quả của các làn sóng di cư mới, nhiều người Kinh đã lên sinh
sống tại các tỉnh miền núi, trong đó các tỉnh Tây Nguyên đã có đa số dân cư là
13
người Kinh. Nhiều dân tộc thiểu số sinh sống tại các tỉnh phía Bắc cũng di cư
với số lượng lớn vào các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ
14