Professional Documents
Culture Documents
DO AN TOT NGHIEP - Hang PDF
DO AN TOT NGHIEP - Hang PDF
LỜI MỞ ĐẦU
Cát Hải là một đảo nhỏ có dân số lên đến 1,3 vạn người chủ yếu sống bằng
nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, làm muối và chế biến thuỷ sản (mắm và
các sản phẩm đông lạnh ). Cát Hải còn có tiềm năng du lịch sinh thái và là vị trí
quân sự quan trọng của vùng đông bắc tổ quốc, sự ổn định của đảo có liên quan đến
luồng tàu vào cảng Hải Phòng qua cửa Nam Triệu vì khi bờ biển của đảo Cát Hải bị
sóng hướng nam và đông nam gây sạt lở sẽ bị dòng ven mang vào luồng tàu, gây
bồi lấp nghiêm trọng ảnh hưởng không chỉ đến khu vực mà còn gây ảnh hưởng đến
kinh tế của các tỉnh lân cận.
Do vậy việc giữ ổn định đường bờ Cát Hải, chống xói lở là một nhiệm vụ quan
trọng và cấp thiết nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, đời sống của nhân dân ở
đảo, phát triển sản xuất, tạo cơ hội đầu tư trong nước và ổn định cho luồng tàu vào
các cảng ở khu vực Hải Phòng.
Để đáp ứng được yêu cầu đó, bên cạnh việc củng cố, xây dựng hệ thống đê, kè
hiện có thì việc xác định nguyên nhân, cơ chế xói lở, phá hoại đê và bãi trước biển
và đề xuất giải pháp nhằm ổn định lâu dài các công trình phòng chống lụt bão là
một nhiệm vụ vô cùng cấp bách.
I. Tính cấp thiết của đồ án
Toàn đảo Cát Hải có 20,6 km đê bao quanh, trong đó có tuyến đê xung yếu từ
Bến Gót đến Hoàng Châu nằm ở phía nam đảo chịu tác động trực tiếp của sóng, gió
nơi có dòng chảy ven bờ mạnh nhất và dải bờ đang bị xâm thực. Đê biển Cát Hải là
công trình đất, mái phía biển được bảo vệ bằng kè lát mái ở những đoạn xung yếu
thường xuyên chịu tác động của sóng triều.
Nguyên nhân gây xói lở bờ đảo Cát Hải là dòng tổng hợp liên quan đến tính
bất đẳng tốc và bất đẳng thời giữa dòng lên dòng xuống qua vùng bờ và 2 lạch đầu
Chương Hoàng Châu và Hàng Dầy.
Nằm kẹp giữa hai cửa sông lớn là sông Bạch Đằng và sông Chanh. Phía Nam
của đảo là nơi chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố thủy động lực. Mùa hè sóng
gió thịnh hành hướng Đông Nam, Nam, Nam Đông Nam với tần xuất cao 70%.
Thời kỳ triều cường khi triều lên cao theo cao độ hải đồ (3,5 m) sóng trực tiếp đánh
vào đê kè .
Sóng vỡ ngay sát chân đê, kè, tạo thành dòng chảy sóng với tốc độ 0,35 - 1,28
m/s rửa trôi các trầm tích hạt mịn thậm chí cả hạt trung. Hiện tượng moi đáy này
làm mặt bãi bị hạ thấp, chân kè bị bào mòn nghiêm trọng gây sạt lở mái kè. Hiện
tượng này xảy ra với cường độ mạnh trong thời gian bão đổ bộ vào đảo trùng với
giai đoạn triều cường.
Tại các cửa sông tốc độ dòng chảy khá lớn đặc biệt là khi triều rút, tốc độ dòng
chảy có khi lên đến 1,7 m/s cũng gây xói lở chân kè dẫn đến sạt lở mái kè.
Tình trạng xói lở đảo Cát Hải gây tác động tiêu cực cả về mặt kinh tế và xã
hội, nó đe doạ cuộc sống trực tiếp của nhân dân sống sát bờ đảo và cả phía trong
đảo. Nó hạn chế khả năng đầu tư phát triển kinh tế và xây dựng hạ tầng trên đảo. Vì
vậy, việc xây dựng đê và các công trình bảo vệ bờ đảo Cát Hải là hết sức cấp bách
và cần thiết.
Hiện nay hệ thống đê và kè mỏ hàn đã được xây dựng trên đảo nhưng đang
đứng trước nguy cơ bị xói mòn và hư hỏng do tác dụng của sóng, gió, dòng chảy,
thuỷ triều trong khu vực. Để giảm thiểu tác động này, một giải pháp đưa ra là xây
dựng 1 đập phá sóng xa bờ (Breakwater) đế hạn chế tác dụng của sóng tới hệ thống
đê biển bảo vệ đảo.
II. Mục tiêu của đồ án
- Phân tích các điều kiện: vị trí địa lí, đặc điểm địa hình, đặc điểm địa chất,
đặc điểm khí hậu khí tượng, đặc điểm thuỷ văn- hải văn, dân sinh, kinh tế xã hội,
của khu vực đảo Cát Hải
- Với các số liệu thủy hải văn thu thập được như sóng, gió, mực nước sử dụng
mô hình Delft 3D để mô phỏng thủy lực (dòng chảy, sóng) Cát Hải trước và sau khi
có công trình.
- Quy hoạch, lựa chọn vị trí công trình và tính toán các điều kiện biên thiết kế
- Từ kết quả mô hình, dựa trên các tiêu chuẩn thiết kế công trình biển, tiến
hành tính toán thiết kế công trình đập phá sóng xa bờ (Breakwater) cho khu vực đảo
Cát Hải.
Sau thời gian làm đồ án tốt nghiệp, với sự nỗ lực phấn đấu của bản thân và
được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Vũ Minh Cát, cùng các thầy cô
giáo trong khoa Kỹ thuật Biển - trường Đại học Thủy lợi, em đã hoàn thành đồ án
tốt nghiệp của mình, với đề tài: “Thiết kế đập phá sóng bảo vệ bờ biển Cát Hải,
Hải Phòng”
Do thời gian làm đồ án có hạn cũng như trình độ và kinh nghiệm thực tế của
bản thân còn hạn chế nên trong đồ án không thể tránh khỏi những thiếu sót trong
quá trình làm đồ án.
Em kính mong được sự chỉ bảo, góp ý kiến của các thầy cô giáo giúp cho đồ
án của em được hoàn chỉnh hơn, từ đó rút ra được kinh nghiệm cho bản thân mình,
để sau khi ra trường công tác được tốt hơn
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
I. Tính cấp thiết của đồ án:..............................................................................................1
II. Mục tiêu của đồ án:...................................................................................................2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC HUYỆN ĐẢO CÁT HẢI .......................... 6
1.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên......................................................................................6
1.1.1 Vị trí địa lý ........................................................................................................... 6
1.1.2 Đặc điểm địa hình, địa mạo của khu vực dự án ............................................... 7
1.2 Đặc điểm khí tượng, thuỷ văn...................................................................................8
1.2.1 Điều kiện khí tượng ............................................................................................. 8
1.2.2 Điều kiện thuỷ hải văn....................................................................................... 17
1.3 Đặc điểm địa chất.....................................................................................................26
1.3.1 Các lớp địa chất từ trên xuống .......................................................................... 26
1.3.2 Điều kiện địa chất thủy văn ........................................................................... 27
1.4 Điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội.........................................................................29
1.4.1 Dân số và lao động............................................................................................. 29
1.4.2 Cơ cấu ngành nghề............................................................................................ 30
1.4.3 Cơ sở hệ thống hạ tầng ...................................................................................... 30
1.5. Hiện trạng hệ thống đê biển, kè mỏ hàn..............................................................31
1.5.1. Hiện trạng hệ thống đê biển ............................................................................. 31
1.5.2 Hiên trạng kè mỏ hàn ........................................................................................ 33
1.5.3 Hiện trạng cống dưới đê .................................................................................... 34
CHƯƠNG II: ỨNG DỤNG MÔ HÌNH DELFT3D MÔ PHỎNG DÒNG CHẢY VÀ
SÓNG KHU VỰC CÁT HẢI ............................................................................................ 35
2.1 Giới thiệu về mô hình Delft 3D...............................................................................35
2.1.1 Giới thiệu về DELFT3D-FLOW ....................................................................... 36
2.1.2 Giới thiệu về DELFT3D-WAVE ...................................................................... 41
2.2 Xây dựng mô hình (Delft3D-FLOW)....................................................................43
2.2.1Các tài liệu cơ bản phục vụ tính toán ................................................................ 43
2.2.2 Sơ đồ hóa khu vực nghiên cứu và các biên tính toán ..................................... 44
2.2.3 Hiệu chỉnh và kiểm định mô hình ................................................................... 45
2.3 Các kịch bản tính toán............................................................................................48
2.3.1 Mô phỏng hiện trạng của khu vực Cát Hải khi chưa có công trình ............... 49
2.3.2 Mô phỏng theo các phương án giải pháp công trình ...................................... 58
CHƯƠNG III: QUY HOẠCH, LỰA CHỌN CÔNG TRÌNH VÀ TÍNH ...................... 68
TOÁN ĐIỀU KIỆN BIÊN THIẾT KẾ............................................................................. 68
3.1 Xác định cấp công trình...........................................................................................68
3.2. Quy hoạch chung về các biện pháp công trình bảo vệ đảo Cát Hải...................69
3.2.1 Phân tích nguyên nhân xói lở để có biện pháp công trình thích hợp ............ 69
3.2.2 Đưa ra các giải pháp công trình ....................................................................... 70
3.2.3 Phân tích phương án kết cấu và bố trí kết cấu ................................................. 71
3.2.3 Vị trí đặt đập phá sóng ....................................................................................... 73
3.4 Điều kiện biên...........................................................................................................73
3.4.1 Điều kiện địa hình ............................................................................................. 74
3.4.2 Mực nước thiết kế .............................................................................................. 76
3.4.4 Tính toán sóng thiết kế ...................................................................................... 77
3.3.5 Các thông số địa chất dùng cho thiết kế .......................................................... 87
CHƯƠNG IV: THIẾT KẾ ĐẬP PHÁ SÓNG XA BỜ .................................................... 89
lập xen kẹp các bãi. Diện tích tự nhiên 1365 ha bao gồm rừng ngập mặn và các đầm
nuôi quảng canh phân tán ,rải rác ,giáp với vùng núi đá vôi.
Cao độ trung bình của toàn đảo tương đối thấp so với mực nước triều c-
ường và mực nước dâng trong bão. Điều này là bất lợi đối với việc phòng chống lụt
bão của đảo. Khi có sự cố về đê điều, mức độ ngập lụt và thiệt hại của đảo sẽ lớn,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống con người và kinh tế xã hội trên đảo. Vì nhìn
chung nếu nước tràn vào thì toàn bộ đảo có diện tích bị ngập gần hết. Toàn đảo
được bảo vệ bằng 20,52km đê biển. Nếu gặp bão lớn và triều cường công tác phòng
chống bão lụt gặp rất nhiều khó khăn khi đê điều có sự cố thì diện ngập lụt của đảo
rất lớn và sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến đời sống kinh tế, xã hội của nhân dân
trên đảo. Toàn đảo được bảo vệ bằng 20,52km đê biển. Nếu gặp bão lớn và triều
cường công tác phòng chống bão lụt gặp rất nhiều khó khăn khi đê điều có sự cố thì
diện ngập lụt của đảo rất lớn và sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến đời sống kinh tế,
xã hội của nhân dân trên đảo.
1.2 Đặc điểm khí tượng, thuỷ văn
Số liệu khí tượng, thủy văn được lấy từ trạm khí tượng thủy văn trên đảo Hòn
Dấu, với độ dài của số liệu là quan trắc từ năm 1983-2004. Chất lượng của số liệu là
đảm bảo, có thể sử dụng tin cậy.
1.2.1 Điều kiện khí tượng
Khu vực đảo nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong năm có hai
mùa rõ rệt: Mùa hè nóng ẩm, mùa đông lạnh khô.
- Mùa đông: Chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông bắc nhìn chung không ảnh
hưởng lớn lắm đến chế độ thuỷ thạch động lực học ở vùng bờ biển Cát Hải do có
đảo Cát Bà che chắn.
- Mùa hè: Có nắng nóng, nhiệt độ cao, hơi nớc biển chứa muối, gió ảnh h-
ưởng là gió Đông Nam, Nam và gió bão tác động mạnh đến Công trình bảo vệ bờ
đảo.
1.2.1.1 Nhiệt độ
Phân thành hai mùa mưa rõ rệt
- Nhiệt độ trung bình nhiều năm 230 C
- Mùa nóng, từ tháng V đến tháng IX 27.20C
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 năm
0
T( c) 16,7 16,9 19 22.7 26 27 28.2 28 26.8 24,5 21 18,1 23
1.2.1.2 Độ ẩm
Độ ẩm tương đối thay đổi qua các tháng trong năm. Độ ẩm tương đối phụ
thuộc bốc hơi bề mặt và bình lưu ẩm. Nhìn chung độ ẩm nhỏ nhất không thấp hơn
75% và độ ẩm tương đối cao nhât trên dưới 90%. Các tháng mùa đông (từ tháng 10
đến tháng 1) thời tiết khô hanh. Từ tháng 3, đến tháng 9 thời tiết ẩm ướt do nguồn
ẩm tăng lên vì mưa phùn và mưa rào.
Bảng 2: Độ ẩm tương đối trung bình theo các tháng
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 TBnăm
Độ ẩm trung bình 83 88 91 90 87 87 87 89 86 80 79 80 85.6
%
1.2.1.3 Bốc hơi
Lượng bốc hơi thay đổi qua các tháng trong năm, phụ thuộc vào nhiệt độ, địa
hình bề mặt, hoàn lưu gió. Lượng bốc hơi trung bình năm 61,6 mm.
Bảng 3: Lượng bốc hơi trung bình các tháng
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Z(mm) 52,9 39,5 32,1 40,8 61,0 71,1 71,1 61,1 70,6 87,7 83,5 67,9 739,4
1.2.1.4 Số giờ nắng
Bảng 4: Số giờ nắng trong các tháng
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cả
năm
Số giờ 84 41 40 49 192 169 203 182 181 193 151 119 1
nắng
1.2.1.5 Gió
Căn cứ vào các tài liệu quan trắc đo đạc tại trạm khí tượng thuỷ văn Hòn Dấu
từ năm 1984 => 1993 có chế độ :
* Chế độ gió:
Chế độ gió trong khu vực mang đặc tính theo mùa rõ nét, phù hợp với đặc
điểm hoạt động của hoàn lưu khí quyển. Về mùa đông chịu sự chi phối của hệ thống
gió mùa đông bắc với các hướng thịnh hành là Bắc; Đông Bắc và Đông. Trong mùa
hè chịu ảnh hưởng của hệ thống gió mùa Tây Nam, nhưng khi vào gần bờ bị biến
tính có các hướng thịnh hành là Nam và Đông Nam. Trong thời gian chuyển tiếp
gió có hướng tranh chấp giữa hai mùa gió thịnh hành nói trên.
Bảng 5: Tần suất hướng gió các tháng chính mùa đông trung bình nhiều năm
Hướng/Tháng Lặng Bắc Đông Đông Đông Nam Tây Tây Tây
gió Bắc Nam Nam Bắc
Hoa gió tổng hợp nhiều năm tại trạm Hòn Dấu ( 1984-1993 )
n
K ý h i Öu
nw ne >15 (m/s)
10.0-15.0 (m/s)
5.0-9.0 (m/s)
w e
1.0-4.0 (m/s)
L Æng
sw se
S Tû lÖ : 1% ~ 2 mm
liệu 1984-1993 cấp tốc độ gió W>15m/s quan trắc được chiếm 95% .Trong đó tốc
độ gió lớn nhất đã quan trắc được là Wmax=40m/s ở hướng Tây Nam(SW)và Nam
(S) vào tháng VI/1989. Giá trị này cũng là giá trị cực đại từng quan trắc được nhiều
lần trong nhiều năm ở nhiều hướng.
1.2.1.6 Mưa
- Lượng mưa trung bình năm là: 1750 mm.
- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9: lượng mưa trung bình 1351 mm, chiếm từ
80% lượng mưa cả năm. Số ngày có mưa trung bình 13 ngày.
- Mùa ít mưa từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau: Lượng mưa trung bình 380
mm, chiếm 20% lượng mưa cả năm. Số ngày có mưa trung bình 9 ngày
- Số ngày mưa: Số ngày có mưa trung bình nhiều năm là 150.1 ngày. Năm có
số ngày mưa nhiều nhất năm là năm 1992 (203 ngày) và năm có số ngày mưa ít
nhất là năm 1997(125ngày). Trong mùa mưa có 76.7 ngày mưa 52% cả năm. Tháng
có số ngày mưa trung bình lớn nhất là tháng III (17.7 ngày) sau đó đến tháng
VIII(15.7 ngày). Lượng mưa trung bình tháng III là 42.6mm chỉ chiếm 15% lượng
mưa trung bình tháng VIII điều này nói nên vào mùa mưa có cường độ mưa lớn và
thời gian mưa kéo dài, đặc biệt vào thời kỳ khu vực chịu ảnh hưởng của mưa bão áp
thấp nhiệt đới. Đặc biệt vào mùa khô chủ yếu là mưa phùn, thời gian mưa ngắn nên
lượng mưa không đáng kể. Lượng mưa ngày lớn nhất: Theo số liệu quan trắc từ
năm 1957 – 1958 lượng mưa ngày lớn nhất tại Hòn Dấu là 434.7 mm(26/6/1996).
-Tổng lượng mưa: Theo thống kê trong 10 năm, tổng lượng mưa trung bình
trong năm là 1459.4 mm. Năm có lượng mưa lớn nhất đạt 2292.8 mm ( 1992 ) và
năm có lượng mưa ít nhất là 764.1 mm ( 1991 )
Hình 4: Số ngày mưa trung bình tháng &năm của nhiều năm (1984-1993)
Bảng 7: Phân bố mưa trung bình các tháng (Lượng mưa ³ 1 mm)
Cả
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
năm
Số ngày
6 10 14 11 13 14 15 11 14 8 6 6 128
mưa T.B
Lượng
mưa TB 19 29 53 83 198 242 309 333 269 125 50 21 1731
(mm)
Bảng 8: Số ngày mưa trung bình tháng và năm của nhiều năm (1984-1993)
Năm
Tháng 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 Xmax
I 0,2 32,5 3 1,2 1 9,5 6,8 2,3 39,6 39,6
Ngày 31 25 24 21 4 5 20 18 3 3
II 1,4 49,1 5,8 14 13,2 3,3 23,2 2,6 11,5 4,9 49,1
Ngày 21 18 26 27 19 8 22 19 27 15 18
III 0,9 54 50 18,6 10 16,9 42 33,7 2,4 5,7 54
Ngày 30 30 28 16 23 21 15 30 31 30 30
IV 24,4 72,2 7,6 7,7 6,7 8,4 26 2,8 23,8 14,5 72,2
Ngày 28 13 22 3 12 26 11 6 8 20 13
V 71,5 9,6 37,8 17,7 108,8 42,4 49,6 54,7 29 178,4 178,4
Ngày 21 25 25 31 12 3 17 8 23 18 18
VI 34,4 67 37,5 87,8 54,2 27,6 34,4 123,5 57,1 123,5
Ngày 21 12 11 7 18 11 1 7 7 26 7
VII 23,6 14 192,5 12,2 34,1 40 42,2 54,6 320,5 44,1 320,5
Ngày 27 15 22 22 14 1 22 14 14 12 14
VIII 39,3 105,7 47,9 78,9 146,7 130,7 45,4 20,1 166,5 99,2 166,5
Ngày 25 25 10 10 3 25 30 5 12 18 12
IX 94,2 70 101,5 102,6 35,7 131,7 37,4 60,8 109,7 83,6 131,7
Ngày 29 7 7 21 6 24 20 2 8 19 24
X 237,1 28,7 28,3 69,4 108,2 124,9 182,7 11,2 4,6 9,1 237,1
Ngày 16 22 25 19 3 4 21 17 5 28 16
XI 8,5 32,1 5 15,2 2,4 0,1 141,5 3,2 35,7 65,7 141,5
Ngày 10 8 12 2 2 5 5 22 8 18 5
XII 9,4 12 0,6 0,1 4,6 2,7 16,8 50,1 3,5 50,1
Ngày 4 10 7 27 18 10 22 28 25 10 25
Năm 237,1 105,7 192,5 102,6 146,7 131,7 182,7 60,8 320,5 178,4 320,5
Ngày 16/X 25/VIII 22/VII 21/IX 3/VIII 24/IX 21/X 21/IX 14/VII 18/V 14/VII/92
+ Ngày 12/9/1957 : Bão đổ bộ qua đảo với tốc độ gió 122 km/h.
+ Ngày 8/9/1968 : Bão đổ bộ qua đảo với tốc độ gió 180 km/h.
+ Ngày 23/7/1977 : Bão đổ bộ qua đảo với tốc độ gió 185 km/h.
Tài liệu cơ bản về bão của đài Phù Liễn đã ghi được từ 1954 đến nay có 33
cơn bão ảnh hưởng đến đảo Cát Hải, bình quân 1,57 cơn bão/năm, cao nhất 3 cơn
bão/năm, tập trung vào từ tháng 6 đến tháng 10. Bão đổ bộ vào đảo thường đi kèm
với mưa to & nước biển dâng gây thiệt hại về người và của cho nhân dân.
Bảng 9:Tần số bão xuất hiện
Tháng 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Tần số 0 0.04 0.11 0.3 0.47 0.32 0.18 0 0 1.42
Bảng 10: Tần suất hoạt động của bão phân bố theo vĩ độ
Qua các bảng ở trên cho thấy mật độ số cơn bão đổ bộ trực tiếp vào khu vực
đảo Cát Hải là cao ( trung bình 1 cơn/ năm).
1.2.2 Điều kiện thuỷ hải văn
1.2.2.1 Thuỷ triều
Bảng 12: Mực nước đặc trưng trạm Hòn Dấu từ năm 1983-2004
(theo cao độ lục địa)
ngày), biên độ dao động mực nước H=3-4m vào thời kỳ nước cường, khoảng 0,5 m
vào thời kỳ nước kém, vào kỳ triều cường và mực nước lên xuống nhanh có thể đạt
3,5 m/giờ. Theo số liệu thống kê từ 1956 –1985 (theo cao độ hải đồ)
Mực nước biển trung bình nhiều năm: 1,9 m
Mực nước biển cao nhất : 4,21 m (22/10/1985)
Mực nước biển thấp nhất : 0,07 m(21/12/1964)
Chênh lệch triều lớn nhất : 3,94 m (23/12/1968)
Mực nước triều lịch sử cao nhất thực đo tại trạm Hòn Dấu là 4,35m.
Phạm vi vùng biển Cát Hải nằm xen giữa 2 cửa sông là Lạch Huyện và cửa
Nam Triệu. Tuy nhiên đặc điểm triều vùng này là triều đoạn ngoài cửa sông, đặc
biệt là phạm vi từ Hoàng Châu đến Bến Gót ít chịu ảnh hưởng của nước nguồn cửa
sông. Ở đây yếu tố biển đóng vai trò chủ yếu.
Khái quát qui luật biến thiên thuỷ triều ở vùng biển đảo Cát Hải như sau:
- Qui luật biến thiên thuỷ triều theo chu kỳ nửa tuần trăng14,77 ngày ( tuần
trăng có chu kỳ là 29,53 ngày). Trung bình tháng có 2 chu kỳ nước lớn .
- Trong chu kỳ nửa năm thì triều đạt giá trị cực đại vào các tháng giữa và cuối
năm, giá trị nhỏ nhất trong năm thường vào các ngày xuân phân và thu phân.
- Theo qui luật nhiều năm: Thay đổi theo chu kỳ nhiều năm rõ rệt nhất là chu
kỳ 18,61 năm.
* Căn cứ vào tài liệu mực nước quan trắc của các trạm do Tổng cục khí thuỷ
văn quản lý trên các tuyến (tuyến Nam Triệu-sông Cấm: trạm Hòn Dấu, Cửa Cấm;
tuyến Nam Triệu –Bạch Đằng: trạm Hòn Dấu, Do Nghi ) cho thấy : Biên độ (độ lớn
triều ) giảm dần từ ngoài biển vào trong sông và thời gian xuất hiện đỉnh và chân
triều có sự lệch pha đáng kể phụ thuộc vào thời kỳ triều và các mùa trong năm
.Theo số liệu quan trắc mực nước đồng thời ở 4 trạm: Hòn Dấu, Hoàng Châu, Cửa
Cấm và Do Nghi vào mùa khô và mùa mưa đưa ra một số nhận xét sau :
Trong mùa khô :
* Kỳ triều cường
+Trạm Hòn Dấu và Hoàng Châu: Đỉnh triều và chân triều ở Hoàng Châu cao
hơn ở Hòn Dấu từ 10-13 cm (đỉnh triều)và từ 8-10 cm (chân triều).Thời gian xuất
hiện đỉnh và chân triều ở Hoàng Châu chậm hơn khoảng 30phút.
+Trạm Hòn Dấu và Cửa Cấm: Đỉnh triều và chân triều ở trạm Cửa Cấm cao
hơn ở trạm Hòn Dấu từ 30-37 cm (đỉnh triều) và 10- 12 cm ( chân triều). Thời gian
xuất hiện đỉnh và chân triều ở Cửa Cấm chậm hơn 1h30’ (đỉnh triều) và 2-3h (chân
triều).
+Trạm Hòn Dấu và Do Nghi :Đỉnh triều và chân triều ở trạm Do Nghi cao hơn
từ 20-30 cm (đỉnh triều ) và 14-18 cm (chân triều). Thời gian xuất hiện đỉnh triều ở
Do Nghi chậm hơn khoảng 30 phút (đỉnh triều )và 1-2 giờ (chân triều)
*Kỳ triều kém sự khác nhau về độ cao của đỉnh triều, chân triều cũng như thời
gian lệch pha giữa các trạm tương tự như trong triều cường mùa khô.
Trong mùa mưa:
*Kỳ triều cường
+Trạm Hòn Dấu và Hoàng Châu: Đỉnh triều và chân triều ở Hoàng Châu
thường cao hơn từ 10-30 cm. Thời gian xuất hiện đỉnh và chân triều chậm hơn 0-30’
(đỉnh triều )và 15-30’(chân triều)
+Trạm Hòn Dấu và Cửa Cấm :Đỉnh triều và chân triều ở Cửa Cấm cao hơn 30-
35 cm (đỉnh triều )và 90-120 cm(chân triều ).Thời gian xuất hiện đỉnh và chân triều
ở Cửa cấm chậm hơn 1-1h30’ (đỉnh triều )và 2-3h(chân triều).
+Trạm Hòn Dấu và Do Nghi: Đỉnh và chân triều ở trạm Do Nghi cao hơn 30-
45 cm (đỉnh triều) và 45-65 cm(chân triều). Thời gian xuất hiện đỉnh và chân chậm
hơn 1h30’(đỉnh triều) và 1h30’-2h(chân triều).
*Kỳ triều kém
+Trạm Hòn Dấu và Hoàng Châu: Sự khác nhau về độ cao đỉnh triều và chân
chiều tương tự như trong triều cường. Nhưng trong thời gian xuất hiện đỉnh chậm
hơn 30’-1h .
+Trạm Hòn Dấu và Cửa Cấm: Đỉnh triều và chân triều cao hơn 22 –27 cm
(đỉnh triều) và 29-37 cm (chân triều). Thời gian xuất hiện đỉnh triều và chân triều là
1h30’-2h (đỉnh triều) và 2h-2h30’ (chân triều).
+Trạm Hòn Dấu và Do Nghi: Sự khác nhau về đỉnh triều và chân triều không
lớn như triều cường chỉ 24-27 cm (đỉnh triều) và 15-20 cm (chân triều). Thời gian
xuất hiện đỉnh chỉ chậm hơn 0-30’. Còn thời gian xuất hiện chân triều tương tự như
triều cường.
Tóm lại:
*Trong mùa khô vào kỳ triều cường và kém sự khác nhau về cao độ của các
đỉnh triều và chân triều cũng như thời gian xuất hiện các đỉnh và chân giữa các trạm
thượng và hạ lưu cho các giá trị tương tự nhau.
*Trong mùa mưa vào thời kì triều cường, đặc biệt ở chân triều có sự khác nhau
lớn về cao độ. Tại trạm Hòn Dấu và cửa Cấm đạt tới 120 cm, trong khi trạm Hòn
Dấu và Do Nghi chỉ 45-65 cm.
1.2.2.2 Chế độ sóng
Tại khu vực cửa biển Nam Triệu và Lạch Huyện sóng gió là một trong các
nhân tố có tác động trực tiếp đến sự bồi lấp cũng như sự xói lở của khu vực. Theo
tài liệu quan trắc sóng tại trạm Khí tượng thuỷ văn Hòn Dấu(1956-1985) ở bảng
dưới cho thấy:
Bảng 13: Độ cao, độ dài, tốc độ và chu kỳ sóng lớn nhất
Các đặc trưng Tháng Cả
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 năm
Độ cao(m) 2.8 2..2 2.3 2.8 3.5 4.0 5.6 0 5.6 2.4 2.1 2.1 5.6
Hướng S ESE E SSE SSE SE S E E E S ENE S.E
Ngày 28 20 19 2 4 19 3 3 20 13 1 1 20
Năm xuất hiện 57 69 76 58 59 75 64 8 75 60 59 63 75
Trong mùa gió Đông Bắc độ cao sóng không lớn do khu vực nghiên cứu được
đảo Cát Bà che chắn, các sóng lớn nhất quan trắc được trong mùa này chỉ xuất hiện
ở hướng S,SE.
Sóng với các hướng Đông (E),Đông Nam(SE) và Nam(S) gây nguy hiểm nhất
với khu vực cửa biển Nam Triệu và Lạch Huyện.
Các yếu tố sóng cực trị đều quan trắc được vào ngày 3/7/1964:
-Độ dài sóng : 210m,hướng nam(S).
-Chu kỳ sóng :11s.
Tham khảo chương trình nghiên cứu tổng quan luồng vào cảng Hải phòng
TEDI đã triển khai quan trắc sóng bằng máy tự ghi ở vùng ven bờ gần đền biển
AVAL trong thời gian >1 năm.Từ kết quả đo đạc đưa ra một số nhận xét sau:
Trong năm độ cao sóng h >1m chỉ xuất hiện vào tháng 6-tháng 9, lớn nhất vào
tháng 6(1.45 m),tiếp theo là tháng 3 (1.4 m) và tháng 7 (1.3 m)
Độ cao sóng h > 1.0m chỉ xuất hiện khi tốc độ gió ở các hướng Đông (E) Đông
Nam (SE) và Nam(S) đạt giá trị W>10 m/s.
Độ cao sóng nhỏ thường xuất hiện vào tháng 11 và 12 (h< 0.5 m).
1.2.2.3 Dòng chảy ven bờ
* Chế độ dòng chảy
Chế độ dòng chảy của vùng cửa sông ven biển Hải Phòng chịu ảnh hưởng
trực tiếp của các dòng sông (sông Cấm , Bạch Đằng , Sông Chanh …) và dòng
triều. Dòng chảy sông có ảnh hưởng đặc biệt đến dòng chảy chung của vùng cửa
sông vào mùa lũ khi nước thượng nguồn ở các sông Cầu, sông Thương, sông Lục
Nam, sông Hồng qua sông Đuống sông Luộc chảy về. Khi hoà nhập của nước sông
vào khối nước biển dưới sự tương tác của dòng triều và dòng lũ, nước bị dồn ép ở
pha triều lên và khi triều rút có sự cộng hưởng giữa dòng triều và dòng nước sông
gây ra tốc độ dòng chảy rất lớn.
Kết quả điều tra khảo sát đo đạc ở 2 cửa sông và khu vực ven biển trước đảo cho
thấy: Dòng chảy vùng ven biển và cửa sông Cát Hải có chế độ phức tạp thể hiện
mối tương tác: Mực nước - địa hình đáy – sóng – thuỷ triều.
Qua phân tích ảnh hưởng của chế độ gió và sóng gió trong mùa đông tới
vùng ven biển Cát Hải không nhiều: Chế độ dòng chảy phụ thuộc chủ yếu vào yếu
tố địa hình và dao động mực nước(do thuỷ triều). Kết quả điều tra khảo sát đo đạc ở
hai cửa sông và khu vực ven biển trước đảo cho thấy, về mùa đông khi chế độ sóng,
gió tương đối “yên lặng”, dòng chảy xuất hiện chủ yếu do dòng triều và sự chênh
lệch mực nước do khối nước sóng triều bị dồn ép khi vào bờ. Mặc dù vậy, trong
những ngày nước cường có sóng gió hướng Đông và Đông Nam phát triển, dòng
chảy ven bờ do sóng gây ra kết hợp với các loại dòng khác làm tăng (hoặc giảm) tốc
độ dòng chảy tổng hợp vùng ven bờ.
Ở hai cửa sông Nam Triệu và Lạch Huyện dòng chảy có thể đạt tốc độ 1m/s
khi triều rút. Tại vùng ven biển trước đảo Cát Hải dòng chảy có tốc độ lớn tập
trung chủ yếu ở các lạch chạy song song với bờ phiá bến Gót và Hoàng Châu, đặc
biệt khi triều dâng khối nước bị dồn ép vào bờ. Dòng chảy ở hai lạch này cũng
không như nhau, ở lạch trương phía bến Gót có tốc độ lớn hơn vì lạch sâu và hẹp
(chỗ hẹp nhất rộng 150m, sâu trung bình 2.5-3.0m). Qua quan trắc đo đạc ở đây vào
giữa tháng 1/87 cho thấy rằng tốc độ dòng chảy >25cm/s chiếm ưu thế tuyệt đối, tốc
độ trung bình đạt 40-60cm/s và mạnh nhất có thể đạt >1m/s. Thực tế dòng chảy với
tốc độ lớn như vậy đã làm cho lòng lạch sâu bị xói sâu, thành dốc, trơ lớp sét dưới
đáy. Một điều lí thú xảy ra ở đây là thời gian là thời gian dòng chảy có hướng qua
lạch về phía cửa Lạch huyện chiếm đến 60-70%, tức là ngay cả khi triều rút vẫn có
dòng chảy hướng về phía cửa Lạch Huyện. Có lẽ đây là nguyên nhân làm cho lòng
lạch sâu dần về cửa lạch huyện và làm cho bãi bồi phía Lạch Huyện được bồi đắp
bằng các loại vật liệu thô dần về phía cửa sông. Hướng dòng chảy qua lạch trương
về phía cửa Lạch Huyện chiếm ưu thế có thể được giải thích như sau:
Khi triều dâng, nước bị dồn ép trước đảo cao hơn mực nước ở cửa Lạch Huyện
tạo ra dòng chảy qua trương đổ vào Lạch Huyện và vào sâu trong sông. Dòng này
tồn tại đến thời điểm nước và ở cửa Lạch Huyện tạm dừng không chảy vào trong
sông nữa, thông thường là qua thời điểm ở bến Gót đạt đỉnh triều 1-2h. Sau đó là
thời điểm nước dừng tạm thời và bắt đầu rút. Dòng chảy sau đó qua lạch trương có
hướng ngược với ban đầu, song tốc độ nhỏ hơn. Ngược lại phía cửa Lạch Huyện
dòng triều rút tăng nhanh hơn khi triều dâng, đến một thời điểm nào đó tốc độ dòng
chảy mạnh phía cửa Lạch Huyện làm giảm áp lực nước đáng kể so với áp lực nước
trong lạch trương. Sự chênh áp lực này đã đổi hướng dòng chảy ở lạch trương về
phía cửa Lạch Huyện và sau đó hướng ra biển. Tương tự như vậy quá trình đó xảy
ra phía cửa Nam triệu, song tốc độ dòng chảy và thời gian có khác hơn vì ở đây lạch
nông và rộng.
Qua phân tích thành phần dòng chảy đo tại các cửa Nam Triệu, Lạch Huyện
và trong lạch trương cho thấy thành phần chính chủ yếu là dòng chảy nhật triều
(chu kỳ25h) và dòng dư dồn (do kkhối nước triều bị dồn ép và dòng sóng). Thành
phần dòng chảy bán nhật triều(12h) và 1/4ngày (6h) mạnh dần trong những ngày
nước kém, khi mà thuỷ triều tăng dần tính chất bán nhật. Các elip phân bố hướng và
tốc độ dòng triều có dạng rất hẹp với hướng trục lớn gần trùng với trục lòng dẫn
kênh lạch và cửa sông. Đặc điểm này hoàn toàn phù hợp với điều kiện tự nhiên
vùng ven bờ: hướng dòng chảy chủ yếu do nước triều dâng -rút.
Ngoài các dòng chính chủ yếu đã nêu trên còn có dòng trôi do gió gây ra. Như
trên đã phân tích gió thời kỳ mùa đông chỉ ảnh hưởng chủ yếu đối với phía đông
đảo Cát Hải ( Lạch Huyện), nơi sông mở rộng thông với vịnh Hạ Long ở phía Đông
Bắc và tầng nước trên mặt khoảng 1m. Dòng trôi có hướng lệch so với hướng gió
trên mặt nước ( từ 0-450) và càng xuống sâu góc lệch càng lớn và có thể đạt 1800 so
với hướng gió trên mặt. Nhưng vận tốc dòng trôi không lớn , qua tính toán vận tốc
dòng trôi chỉ đạt 20cm/s với vận tốc gió trên mặt nước 10cm/s.Nhưng ở khu vực
nghiên cứu dòng trôi khi có gió thổi mạnh thực tế đã bị dòng triều và các loại dòng
khác lấn át hẳn đi. Ở khu vực Cát Hải dòng chảy đạt tốc độ lớn chủ yếu là ở 2 cửa
sông và các lạch triều khi triều dâng - rút. Còn các khu vực khác ( Văn chấn - Gia
Lộc) dòng chảy ven bờ yếu hẳn rất nhiều so với thời kỳ mùa hè . Trong những ngày
triều cường ở mũi Hoàng Châu dòng chảy nhật triều có thể đạt 0,9-1,0m/s . Ngược
lại dòng bán nhật triều và dòng chảy với chu kỳ 6 h chỉ đạt tốc độ 0,1-0,2 m/s.
Dòng chảy dư ( do nước sông đổ ra, dòng trôi do gió …) đạt tới vận tốc 0,2-0,35
m/s trong những ngày có gió to và mưa lớn . Ở trong cửa sông dòng sóng ven bờ ít
đạt tốc độ nguy hiểm bằng đoạn đê kè trước biển vì đã có các van chắn cát phía
ngoài che chắn làm giảm hầu hết năng lượng sóng trước khi đi vào trong sông.
Ngoài dòng chảy sóng, dòng trôi trên mặt kết hợp với dòng triều rút có thể tạo ra
dòng chảy tổng hợp với tốc độ 1,2-1,3 m/s rất dễ dàng rửa trôi đưa vật liệu từ trong
cửa sông ra ngoài biển .
Ở đoạn bờ từ đê Văn Chấn tới trước cửa đồn công an Biên phòng số 30 dòng
sóng ven bờ do sóng vỗ bờ gây ra chỉ đạt tốc độ cao khi có sóng gió hướng Đông
Nam và Nam trong thời điểm nước triều cường. Dòng chảy chủ yếu vùng ven bờ
vẫn là dòng thuỷ triều . Khi tới bờ dòng thuỷ triều phân làm 2 nhánh chảy về hai
phía cửa sông tạo thành 2 tiểu hoàn lưu trước Văn Chấn và Hoà Quang. Tuy cường
độ dòng chảy ở 2 tiểu hoàn lưu này không mạnh bằng thời kỳ mùa hè, song dòng
ven gần bờ do bị dồn ép trong kênh hẹp tạo ra dòng chảy với tốc độ 0,8-0,9 m/s ở
trước cửa đồn Công an Biên phòng và trước đê Văn chấn, lòng kênh hẹp dòng chảy
có thể đạt tốc độ >1m/s cuốn trôi các vật liệu bở rời dưói đáy kênh, trong lòng kênh
còn trơ lại chủ yếu là sét có độ kết dính tốt.
Như vậy trong điều kiện khí tượng hải văn tương đối bình thường ở cuối mùa
chuyển tiếp từ đông sang hè , ở cửa sông Nam Triệu dòng chảy tổng hợp ( chủ yếu
là dòng nhật triều ) với tốc độ có thể rửa trôi trầm tích bở rời ( >25 cm/s) chiếm 1
tỷ lệ cao tới 74%. Dòng chảy ở trong cửa sông mang vật chất lơ lửng giảm tốc độ ở
ngoài ngưỡng cửa, đặc biệt là ở vùng tâm hai tiểu hoàn lưu . chính ở đây có điều
kiện thuận lợi cho việc bồi lắng vật liệu. Ngoài ra việc nạo vét thông lạch tầu đổ
bùn cát sang hai bờ kênh dẫn cũng góp phần làm cho các van cát dọc cửa sông được
tôn cao thêm và kéo dài ra.
Ở trong ngưỡng cửa sông dòng chảy tổng hợp khi thuỷ triều rút có tốc độ lớn
đã rửa trôi các trầm tích bở rời dưới đáy kênh đưa ra biển, còn trơ lại dưới đáy và
sườn kênh chủ yếu là sét dẻo kết dính tốt- hiện tượng tương tự như lạch trước đồn
công an Biên phòng.
Ở cửa Nam Triệu trong những năm gần đây sau khi lấp cửa Cấm chủ lưu khá
tập trung về phía bờ biển Cát Hải khi đó xiên chếch bờ Cát Hải dưới một góc nhọn
phía cửa kênh Cái Tráp, đã làm tăng khả năng chống xói lở bờ ở đoạn cửa Cái Tráp
- Hoàng Châu và nhất là khu vực trạm đèn biển Nam Triệu.
Ở đoạn bờ từ kè Văn Chấn tới cửa đồn Công an Biên phòng trong mùa chuyển
tiếp không bị ảnh hưởng của sóng gió hướng Đông Bắc . Riêng sóng gió hướng
Đông ( tần suất trung bình khoảng 50%) ít ảnh hưởng tới bờ Cát Hải , do vị trí nằm
sâu trong vịnh nước nông được dãy núi đá vôi đảo Cát Bà che chắn hướng đông .
Về cuối mùa khoảng từ cuối tháng IV sóng gió hướng Đông nam và Nam mạnh dần
; sóng vỡ bờ và dòng sóng ven bờ gây ảnh hưởng tới khu vực này trong những ngày
nước triều cường . Song nhìn chung mức độ ảnh hưởng yếu giữu ổn định cho đoạn
bờ vùng nghiên cứu . Chế độ dòng chảy trong mùa hè nhìn chung cũng tương tự hai
mùa kể trên song với cường độ lớn hơn.
Theo tài liệu nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu biển Hải Phòng - Viện Hải
dương học, hệ thống dòng chảy ven bờ Cát Hải như sau:
Dòng triều:
Tại lạch Nam Triệu và Lạch Huyện dòng triều mang tính thuận nghịch. Dòng
nhật triều với chu kì 25 giờ có giá trị áp đảo, tốc độ đạt 1,0 m/s. Tốc độ dòng triều
cực đại thường ở mức triều dâng hoặc triều rút ngay qua mực nước biển trung bình.
Khi triều lên tốc độ dòng triều đạt cực đại xảy ra trước đỉnh triều 6-9 giờ.
Dòng bán nhật triều có giá trị không lớn lắm, thường nhỏ hơn 0,1m/s.
Hướng dòng triều ở bãi Hoàng Châu và Hoà Quang song song với bờ, dòng
triều bãi Văn Chấn và Gia Lộc không song song mà tạo thành một góc khá lớn với
bờ cả khi triều lên và triều rút ( Hướng chảy lên 1300, chảy xuống 1500 ). Khi triều
cường, hiện tượng này tạo điều kiện sóng phá huỷ mạnh hơn.
Dòng dư:
+Dòng sông: ở lạch Nam Triệu, dòng chảy do sông đạt đến 0,3m/s, tốc độ cao
hơn về mùa hè, nó định hướng theo lòng lạch.
+ Dòng chảy do gió: Có giá trị không lớn, với tần suất gió ưu thế 5-10 m/s, tốc
độ dòng chảy chỉ 0,1-0,15 m/s. Hướng của dòng chảy gió định theo hướng bờ, ổn
định hướng Tây- Tây Nam trong năm.
+ Dòng sóng: Do điều kiện địa hình ( có 2 chương cát Hoàng Châu và Hàng
Dày chắn bên), độ sâu bờ ngầm nông, thoải, dòng sóng ven bờ Cát Hải đạt 0,1-0,2
m/s, có hướng ổn định và mạnh hơn vào mùa hè, dòng sóng dọc bờ phân kỳ rất rõ ở
Gia Lộc định hướng chảy về 2 phía Hoàng Châu và Bến Gót.
Dòng chảy tổng hợp:
Với địa hình ven bờ đảo Cát Hải có nhiều luồng lạch án ngữ cùng với vị trí của
bán đảo Đồ Sơn ở phía tây và Cát Bà ở phía Đông, kéo dài ra biển đã dần ép khối
nước thuỷ triều tạo thành mặt nước không đều vùng ven bờ từ đó gây ra dòng chảy
Gradien có hướng thay đổi phức tạp ở cửa Nam Triệu. Dòng chảy tổng hợp gồm:
Dòng nhật triều, bán nhật triều, dòng chảy, dòng sóng, dòng Gradien. Tốc độ tổng
hợp đạt 1,0-1,2 m/s.
Ở ven bờ Cát Hải, dòng tổng hợp mang đặc tính của dòng triều ở Lạch Huyện
và Nam Triệu, dòng triều lên định theo hướng lòng, tốc độ cực đại lên đến 1m/s. Ở
2 lạch đầu chương Hoàng Châu và Hàng Dày, thời gian dòng chảy lên kéo dài 12-
16 giờ, trong khi thời gian chảy rút chỉ 6-8 giờ. Tốc độ dòng chảy tổng hợp khi triều
lên lớn hơn hẳn khi triều xuống, đạt cực trị 0,9m/s ở Hoàng Châu và 0,82m/s ở
Hàng Dày, trong khi tốc độ cực đại dòng tổng khi triều xuống ở đầu Hàng Dày chỉ
0,5m/s . Ở gần bờ, khi triều lên dòng tổng hợp từ ngoài hướng vào phân kỳ rất rõ ở
phía ngoài Gia Lộc chảy về 2 phía Hoàng Châu và Bến Gót. Sự phân hoá dòng chảy
tổng hợp ở ven bờ Cát Hải dọc địa hình bị ảnh hưởng của sự khác nhau giữa 2 chế
độ triều Hòn Gai và triều Hòn Dấu. Thời gian bắt đầu dòng triều lên hoặc xuống ở
bến Gót lớn hơn 3-4 giờ so với Hoàng Châu.
1.2.2.4 Vận chuyển bùn cát
Hướng di chuyển của bùn cát: Hoàn lưu di chuyển của dòng bùn cát phụ thuộc
vào hướng dòng chảy tổng hợp, trong đó chủ yếu là dòng triều. Di chuyển bùn cát
dọc bờ do sóng là quan trọng nhưng không giữ vai trò chủ đạo.
- Khi triều lên, dòng bùn cát di chuyển ngang từ đáy sườn ngầm vào phía bờ,
phù hợp với dòng bờ và phương truyền sóng. Khi vào sát gần bờ, dòng bùn cát phân
kỳ ở phía ngoài Gia Lộc thành 2 nhánh. Nhánh thứ nhất di chuyển qua lạch Hàng
Dày hợp với dòng từ lạch huyện vào di chuyển lên Gót ở phía Bắc, nhánh thứ 2 di
chuyển qua lạch Hoàng Châu rồi hợp với dòng từ cửa Nam Triệu lên phiá tây
Hoàng Châu.
- Khi triều rút, dòng bùn cát chủ yếu di chuyển xuôi xuống theo hướng dòng
triều ở lạch Huyện và Nam Triệu, sát rìa đông chương Hàng Dày và phía tây
chương Hoàng Châu. Chỉ một bộ phận thứ yếu của dòng bùn cát đi lên lúc triều lên
quay ngược lại qua 2 lạch đầu chương để trở về khu bờ ngầm phía ngoài Cát Hải.
- Hai nhánh dòng bùn cát nói trên có xu hướng chung lệch về hướng chương
Hoàng Châu, gây ra tình trạng bồi đáy ngầm phía chương Hoàng Châu bào mòn đáy
nửa lớn hơn phía chương Hàng Dày. Với cơ chế hoàn lưu bùn cát như vậy, khu vực
ven bờ Cát Hải bị thiếu hụt bồi tích.
Kết quả tính toán theo phương pháp thuỷ thạch động lực thấy rằng:
- Lượng bùn cát hàng năm bị đưa ra khỏi ven bờ Cát Hải qua hai lạch đầu
chương khoảng 586.000 m3( qua lạch Hoàng Châu 442.000 m3).
- Lượng bùn cát đưa lại 227.000 m3 ( qua lạch Hoàng Châu 161.000 m3)
- Lượng bồi tích thiếu hụt 341.000 m3( qua lạch Hoàng Châu 282.000 m3).
1.3 Đặc điểm địa chất
1.3.1 Các lớp địa chất từ trên xuống
(Theo báo cáo nghiên cứu khả thi, hồ sơ địa chất công trình của tuyến đê biển trên
huyện đảo Cát Hải do Trung tâm Tư vấn kỹ thuật về đê điều lập tháng 12 năm
2002).
Lớp 1: Cát hạt trung đôi chỗ là cát hạt mịn màu nâu, nâu nhạt, đôi chỗ xám tro
nhạt, trong cát lẫn nhiều vỏ ốc, vỏ sò và vật chất hữu cơ, ẩm, kém chặt, nằm dưới
lớp đá xếp và đất đắp trên đoạn đê từ Gót đến Hoàng Châu. Bề dày thăm dò trung
bình > 4m. Đây là lớp đất có tính thấm khá cao.
Lớp 2: á sét nhẹ đến á sét trung màu nâu xám, xám tro nhạt, đất chứa nhiều vật
chất hữu cơ chưa phân huỷ hết. Đất ẩm ướt kết cấu kém chặt. Trạng thái dẻo mềm
đến dẻo chảy. Đây là lớp đất tương đối yếu, tính thấm nước kém nhưng mức độ nén
lún cao. Diện phân bố khá lớn, không đều. Bề dày thăm dò trung bình > 3.0m.
Lớp 3: Cát hạt mịn đôi chỗ là á cát lẫn nhiều hạt bụi màu xám đen, xám tro
nhạt đôi chỗ xám đen, bão hoà nước, kém chặt. Diện phân bố cục bộ bề dày nhỏ
phần lớn ở dạng thấu kính Đây là lớp đất có tính thấm lớn, sạt lở mạnh mỗi khi mực
nước ngầm thay đổi.
Lớp 4: á cát, á sét xen kẹp nhau nhiều lần màu xám tro nhạt, xám đen, kết cấu
kém chặt, trạng thái dẻo chảy. Diện phân bố khá lớn ở hầu hết các mặt cắt từ Hoàng
Châu đến Gót, chiều dày trung bình thay đổi > 2.2m.
Lớp 5: á sét nhẹ đến á sét trung màu xám tro nhạt, xám đen, kết cấu kém chặt,
trạng thái dẻo chảy. Diện phân bố khá lớn nhưng không đều gặp ở một số mặt cắt từ
Hoàng Châu đến Gót, chiều dày trung bình thay đổi > 2.0m.
Lớp 6: á cát đôi chỗ là cát hạt mịn màu xám đen đất chứa nhiều vật chất hữu
cơ. Đất ẩm, kết cấu kém chặt, trạng thái chảy.
1.3.2 Điều kiện địa chất thủy văn
Các lớp đất gặp trong phạm vi khảo sát cho thấy lớp 1, lớp 2, lớp 4, lớp 6 có
khả năng chứa nước, và có tính thấm nước lớn. Lớp 2, lớp 5 khả năng chứa nước
kém, tính thấm nhỏ. Tại thời điểm khảo sát mực nước xuất hiện và ở cao trình -0.2
đến -0.45 m ( lớp 1 và lớp 4 ). Mực nước này chịu ảnh hưởng của nước thuỷ triều
và có liên quan trực tiếp mức độ lên xuống của nước thuỷ triều. Tại thời điểm khảo
sát thuỷ triều lên xuống theo một qui luật nhất định mỗi khi nước thuỷ triều nên kết
hợp với gió biển và mức độ qua lại của tàu thuyền gây nên sóng lớn, tần suất khá
mạnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến mức độ ổn định đê cũng như mức độ ổn định
mái kè và các mỏ hàn trên tuyến đê biển.
Dung trọng
Dung trọng T / m3 1,82 1,77 1,81 1,82
ướt gw
Dung trọng T / m3 14,5 1,40 13,0 1,35 1,41 1,42
khô gc
3- Tuyến Hoàng Châu - Nghĩa Lộ: Dài 3000 m, hiện trạng đê còn thấp nhỏ so
với yêu cầu, mặt cắt đê không đều. Đê không có kè bảo vệ. Tuyến đê này có bãi
ngoài cao rộng và có rừng cây chắn sóng. Đối với tuyến đê này cần duy trì rừng cây
chắn sóng đã có.
4- Tuyến Nghĩa Lộ - Đồng Bài: Là tuyến đê trung gian dài 4340 m, đê được
xây dựng từ những năm 1960, tuyến này bị xuống cấp nghiêm trọng do xói mòn và
không được tu bổ trước đây vì do đê thuỷ sản phía ngoài. Từ những năm 1992 đã
được thành phố đầu tư khôi phục để đảm bảo an toàn phía bắc đảo. Đoạn đê này
không có kè bảo vệ mái do phía ngoài là khu vực bãi rộng và điều kiện sóng gió ít
khắc nghiệt hơn. Đê không thường xuyên chịu tác động của sóng, triều.
5 - Tuyến Đồng Bài - Lương Năng: Dài 2900 m, tuyến đê bảo vệ khu vực phía
đông bắc đảo, thường bị ảnh hưởng của sóng triều trong các thơì kỳ gió mùa đông
bắc. Qui mô đê tương đối đảm bảo, kè còn manh mún, năng lực công trình hạn chế
không đảm bảo an toàn trong trường hợp có sóng gió lớn. Rừng cây chắn sóng có
tác dụng tốt.
6 - Tuyến Lương Năng - Gót: Dài 2800m, tuyến đê này còn thấp nhỏ , kè lát
mái chưa hoàn chỉnh . Bãi ngoài có cây chắn sóng, nhìn chung năng lực công trình
yếu cần được nâng cấp bảo đảm an toàn cho khu vực đông dân cư.
Hiện trạng tuyến đê kè đoạn trực tiếp với biển như sau:
Bến Gót 400 Đê đá hộc áp bờ đảo, cao trình đỉnh đê đá +3.7 => +4.3 ( m ). Mái Tương đối ổn
kè đá hộc lát khan bị xô sạt, chân kè phủ cát bãi ở cao trình +0.6 định
=> +( m ). Mặt bãi sau đê đá ở cao trình +0.2 => +0.6( m ).
100 Đê đá hộc áp bờ đảo, cao trình đỉnh đê đá +3.9=> +4.9 ( m ). Mái Xung yếu
kè đá hộc lát khan bị xô sạt,chân kè phủ cát bãi ở cao trình +0.2
=> +0.6 ( m ).
Hoà 2630 Đê đá hộc áp bờ đảo, cao trình đỉnh đê đá +3.7 => +4.3 ( m ). Rất xung yếu
Quang- Mái kè đá hộc lát khan bị xô sạt (có khoảng hơn 200 m mái kè đá
Gia Lộc xây và kè rọ thép lõi đá ổn định), chân kè thấp, cao trình -0.5 =>-
1.5 ( m ) không tạo bãi. Mặt bãi sau đê đá ở cao trình +2.2 =>
+2.5 ( m ).
Gia 950 Tuyến đê mới được xây dựng rất kiên cố, mái ngoài bảo vệ
Lộc- bằng cấu kiện bê tông, mái trong trồng cỏ, mặt đê được bê tông
Văn hóa làm đường giao thông rộng 5m
Chấn
Văn 1250 Kè đá khan áp bờ đê đất, mái bị xô sạt, chân Kè ở cao trình +0.2
Chấn- => +0.5 ( m ), phía ngoài là bãi bùn cát thoải. Cao trình đỉnh đê
Hoàng +4.3 =>+4.6 ( m ). Trong đê là mặt đồng muối cao trình +0.7 =>
Châu +1.3 ( m )
Trong gần 7 km bờ biển phía nam đảo Cát Hải có 4.4 km được gia cố bằng đá
hộc, có khoảng 5.4 km bờ ở tình trạng kém ổn định, trong đó có 3.9 km ở trạng thái
xung yếu. Đặc biệt đoạn từ Cái Vỡ- Văn Chấn không có đê khép kín, nớc biển tràn
vào khu dân c Gia Lộc, mặt bãi bị sóng và dòng chảy bào mòn với tốc độ nhanh.
* Hiện trạng đoạn đê, kè trực diện với biển:
Đoạn Bến Gót đến Hoàng Châu dài 8Km là đoạn trực diện với biển. Thực hiện
Quyết định số 58/2006 QĐ-TTg ngày 14/3/2006 về việc phê duyệt chương trình đầu
tư củng cố, bảo vệ và nâng cấp đê biển hiện có tại các tỉnh có đê từ Quảng Ninh đến
Quảng Nam trong đó có 20 Km đê biển huyện đảo Cát Hải nhằm bảo vệ cơ sỏ hạ
tầng và các công trình trên đảo Cát Hải đê biển Cát Hải chịu được bão cấp 10, triều
trung bình tần suất 5%, đoạn từ K3+094 đến K8+053 đã đầu tư, củng cố và nâng
cấp. Trong đó:
- Đoạn từ Hoàng Châu đến Văn Chấn (tương ứng từ K5+803 đến K7+926 đã được
xây dựng năm 2006. Kết cấu tuyến đê như sau: Mặt đê bê tông rộng 5m ở cao trình
mặt đê +4,8; mái phía biển làm tường chắn sóng, cao trình đỉnh tường +5,5; Chân
kè là ống buy bê tông đúc sẵn, bên trong thả đá hộc, phía ngoài là lăng thể đá hộ
chân ống buy. Phần mái kè phía biển mái m=3,5 lát cấu kiện BTĐS 80x80x26cm,
có mố phá sóng trong khung bê tông (30*40)cm M250. Cơ đê có chiều rộng mặt
5m, cao trình mặt cơ +3,0. Mái phía đồng từ đỉnh đến cơ đê lát cấu kiện BTĐS
40x40x20cm trong khung bê tông (30*40)cm M250#. Mái phía đồng từ cơ đê đến
chân khay lát đá trong khung đá xây.
- Đoạn từ Văn Chấn đến Gia Lộc đã xây dựng kè lát mái. Kết cấu tuyến đê như sau:
Mặt đê đất rộng 2-3m ở cao trình mặt đê +4,0; mái phía biển làm tường chắn sóng,
cao trình đỉnh tường +4,5; Chân kè là ống buy bê tông đúc sẵn, bên trong thả đá
hộc, phía ngoài là lăng thể đá hộ chân ống buy. Phần mái kè phía biển mái m=3,5
lát cấu kiện BTĐS 80x80x26cm có mố phá sóng trong khung bê tông (30*40)cm
M250 đến cao trình +3,0, từ cao trình +3,0 trở lên là đá lát chít mạch.
- Đoạn từ Bến Gót đến Gia LộcK0+00 đến K3+094, hiện trạng là đê đá hộc. Cao
trình đỉnh đê đá đoạn này từ +3,7 đến +4,5. Cao trình bãi phía biển từ -1,2 đến +0,8.
1.5.2 Hiên trạng kè mỏ hàn
Từ những năm 1996 đến nay đã xây dựng đợc 9 kè mỏ hàn ( kè vuông góc với
bờ dài 150m ). Đoạn Cái Vỡ-Văn Chấn do không có đê khép kín nên đoạn này
không bố trí được kè mỏ hàn. Những kè mỏ hàn đã bắt đầu phát huy tác dụng, tạo ra
những bãi bồi nhỏ ở chân kè.
1.5.3 Hiện trạng cống dưới đê
Bảng hệ thống thoát nuớc ở khu vực bắc đảo ngăn cách bởi đê trung gian và đê
kênh Cái Tráp
TT B (m) H (m) W ( m2 ) ( Diện tích mặt cắt cống Chú thích
1 1.5 3.3 4.95 Cống hình chữ nhật
2 R 2.3 16.61 Cống hình chữ tròn
3 1.4 2.6 3.64 Cống hình chữ nhật
4 1.5 3.3 4.95
5 1.8 2.7
6 1.8 3.1 5.58
7 1.8 2.7 4.86
8 1.6 3.8 6.08
9 1.6 2.6 4.16
10 1.6 2.1 3.36
11 1.6 1.9 3.04
12 1.6 2.5 4.00
13 1.5 1.1 1.65
14 0.95 2.5 2.38
15 R 0.6 1.13 Cống hình chữ tròn
16 1.5 2.6 3.9
17 1.0 1.5 1.5
18 1.2 3.0 3.6
Tổng diện tích các mặt cống là w = 80.25 ( m2 )
Bảng 1: Các đặc trưng tính toán mô phỏng của mỗi môdul
2D and 3D Thuỷ động lực học, độ mặn, nhiệt độ, tính
Delft3D-FLOW
chuyển tải trầm tích trực tiếp và hình thái học
Delft3D-WAVE Sự truyền sóng ngắn ( có mô hình HISWA và SWAN)
Delft3D-WAQ Tính toán chất lượng nước
Đường đi (quỹ đạo) của các hạt - particle tracking, Mô
Delft3D-PART
hình tràn dầu.
Delft3D-ECO Tính toán chất dinh dưỡng và sinh thái học phức hợp
Delft3D-SED Tính chuyển tải bùn cát dính và không dính
Tính các thành phần và sự tương tác lẫn nhau của các
Delft3D-CHEM
nguyên tố hoá học
Delft3D-MOR Mô phỏng hình thái học
Bảng 2: Các chương trình ứng dụng hỗ trợ
Delft-RGFGRID: Để tạo lưới thẳng đều hay lưới cong
Delft-QUICKIN: Để chuẩn bị và điều chỉnh số liệu theo hướng của lưới
Delft3D- Để thực hiện phân tích thuỷ triều độc lập theo chuỗi thời
TRIANA: gian tạo ra do Delft3D-FLOW
Để thực hiện phân tích thuỷ triều theo chuỗi thời gian của
Delft-TIDE:
vận tốc hay mực nước đo đạc
Delft-GPP: Để hiển thị và sống động các kết quả mô phỏng
Phần mềm ArcView dùng để đọc, hiển thị và xử lý kết quả
Delft3D-GIS
mô phỏng từ Delft
Delft3D- Giao diện với người sử dụng và chức năng của chương trình
Matlab để đọc các file của Delft3D và hiển thị kết quả mô
MATLAB
phỏng trong môi trường Matlab.
Trong phạm vi đồ án này, em chỉ sử dụng 2 mô dul, đó là mô dul DELFT3D-
FLOW và modun DELFT3D-WAVE.
2.1.1 Giới thiệu về DELFT3D-FLOW
Viện Thuỷ lực Delft đã phát triển phần mềm Delft3D cho phép mô phỏng đa
lĩnh vực và tính toán 3-chiều đối với vùng cửa sông ven biển và sông ngòi. Nó có
khả năng mô phỏng thủy động lực học, chuyển tải bùn cát, sóng, chất lượng nước,
phát triển địa hình đáy và sinh thái. Mô hình Delft 3-chiều dòng chảy được cấu tạo
gồm nhiều khối tương tác với nhau. Có thể thay đổi rất nhanh chóng và dễ dàng từ
2 chiều (trung bình theo phương đứng) sang mô phỏng 3 chiều bằng cách thay đổi
số lớp tính toán. Đặc trưng này của mô hình cho phép ứng dụng và kiểm tra mô
phỏng phản ứng của mô hình hai chiều trước khi mô phỏng đầy đủ theo 3 chiều.
Những giả thiết chính của mô hình Delft3D-Flow:
Mô hình Delft 3D-Flow giải hệ phương trình phi tuyến nước nông. Những
phương trình này được chuyển hoá từ hệ phương trình 3 chiều Navier Stockes cho
dòng chảy mặt tự do không nén được. Mô hình đã sử dụng những giả thiết chính
sau đây:
(1) Độ sâu được coi là rất nhỏ so với phương ngang nên phương trình mô men
theo phương thẳng đứng được giản ước thành các quan hệ áp suất tĩnh học – Giả
thiết Boussinesq. Do đó gia tốc theo chiều thẳng đứng rất nhỏ so với gia tốc trọng
trường nên nó được bỏ qua. Trong mô hình 3D vận tốc theo chiều thẳng đứng sẽ
được tính toán từ phương trình liên tục.
(2) Bỏ qua sự ảnh hưởng của sự thay đổi mật độ nước trong thành phần áp
suất.
(3) Bỏ qua sự ảnh hưởng trực tiếp của lực đẩy nổi của dòng chảy theo chiều
thẳng đứng. Trong mô hình Delft 3D – Flow, sự chênh lệch mật độ theo chiều thẳng
đứng được xem xét trong gradient áp suất theo phương ngang và hệ số trao đổi rối
theo phương thẳng đứng. Do đó việc ứng dụng Delft 3D – Flow phải mô phỏng sự
phân tán ở xa và giữa phạm vi của nước chảy vào ( the application of
Delft3D-FLOW is restricted to mid- and far-field dispersion simulations of
discharged water).
(4) Trong hệ toạ độ Đề các chuẩn không tính đến ảnh hưởng của độ cong trái
đất.
(5) Trong hệ toạ độ Đề các chuẩn thành phần Coriolis được giả thiết là đồng
nhất. Bạn có thể tuỳ ý cho lực Coriolis thay đổi theo không gian. Trong hệ toạ độ
cầu thì tần số quán tính tuỳ thuộc vào vị độ địa lý.
(6) Tại đáy điều kiện biên trượt được giả thiết, ứng dụng công thức ứng suất
đáy bình phương.
Các phương trình cơ bản
Thuỷ động lực học vùng cửa sông ven biển có thể được mô hình hoá bởi hệ
phương trình nước nông 2 chiều, bao gồm phương trình liên tục thể hiện quy luật
bảo toàn vật chất và các phương trình chuyển động theo các phương x và y trên mặt
phẳng nằm ngang thể hiện định luật bảo toàn động lượng.
Trong mô hình Delft3D-Flow chúng ta có thể tuỳ chọn hệ toạ độ:
- Hệ toạ độ Đềcác vuông góc (x,y) ;
- Hệ toạ độ cầu(l,f).
Trong hệ toạ độ Đề các vuông góc hệ phương trình thuỷ động lực học gồm:
Phương trình liên tục:
¶h ¶ ( uh ) ¶ ( vh )
+ + =q (2.1)
¶t ¶x ¶y
¶u ¶u ¶u ¶h 1 t
+u +v - fv = - g - Px - Fx + wx + S wx + t ix (2.2)
¶t ¶x ¶y ¶x r rh
¶v ¶v ¶v ¶h 1 t
+ u + v + fu = - g - Py - Fy + wy + S wy + t iy (2.3)
¶t ¶x ¶y ¶y r rh
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Trong đó
t: thời gian (s)
x, y: các toạ độ De Cartes trên mặt phẳng nằm ngang (m)
η: mực nước phía trên mặt chuẩn (m)
h : độ sâu tổng cộng, h = d + η (m)
d: độ sâu nước phía dưới mực chuẩn (m)
u, v: các thành phần vận tốc trung bình theo độ sâu theo các phương x và y
(m/s)
q: nhập lưu (m³/s/m²)
é ¶pa ù
é Px ù ê ¶x ú
ê P ú = ê ¶p ú (2.4)
ë yû ê a ú
êë ¶y úû
é Fx ù U éu ù
êF ú = g 2 ê ú (2.5)
ë yû C h ëv û
Với
C: hệ số ma sát De Chézy (m½/s)
U: độ lớn của vector vận tốc bình quân theo độ sâu theo phương ngang,
U = u 2 + v 2 (m/s)
Thành phần ứng suất mặt thoáng (7) để xét đến ảnh hưởng của gió
ét wx ù éVx ù
êt ú = Cd r a V êV ú (2.6)
ë wy û ë yû
Với
Cd: hệ số kéo do gió (hệ số ma sát gió) (phi thứ nguyên)
V : vận tốc gió tại độ cao 10 m so với bề mặt, V = Vx2 + Vy2 (m/s)
Vx,Vy: các thành phần vân tốc gió theo các phương x và y (m/s)
Ảnh hưởng của sóng ngắn (8)
é ¶ S xx ¶ S xy ù
+
é S wx ù 1 êê ¶ x ¶ y úú
êS ú = (2.7)
ë wy û r h ê ¶ S xy + ¶ S yy ú
ê ú
ë ¶x ¶y û
với Sxx, Sxy, Syy là các thành phần ứng suất bức xạ sóng (N/m)
Thành phần nội ứng suất (9) để xét đến hiện tượng khuếch tán rối
é ¶ 2 u ¶ 2u ù
ét ix ù ê ¶ x2 + ¶ y 2 ú
ú = e éÑ u ù
2
êt ú = e êê 2 ê ú (2.8)
ë iy û ¶ v ¶ 2v ú ë Ñ2v û
ê 2+ 2ú
ë¶ x ¶ y û
truyền θ. Tuy nhiên trong quá trình lan truyền sóng khi gặp dòng chảy, mật độ năng
lượng sóng E(σ,θ) không bảo toàn trong khi mật độ tác động N(σ,θ) is (Whitham,
1974) vẫn bảo toàn. Do vậy mô hình SWAN mô phỏng quá trình lan truyền và biến
đổi của sóng dựa trên mật độ tác động N(σ,θ) theo phương trình cân bằng tác động
có xét đến các thành phần bổ sung và tổn thất viết trong hệ toạ độ De Cartes như
sau (Hasselmann et al., 1973; Mei, 1983; Komen et al., 1994):
hình SWAN có thể xem trong Booij et al. (1999) và tài liệu kỹ thuật của mô hình
SWAN (The SWAN team, 2007).
Phạm vi ứng dụng của Delft3D-Wave:
Mô hình Delft3D-Wave có thể được sử dụng cho phát triển ven biển và
quản lý liên quan đến dự án, và cho các bến cảng và thiết kế lắp đặt ngoài khơi.
Nói chung, mô hình có thể được áp dụng trong các lĩnh vực sau:
· Cửa sông
· Vịnh triều
· Hồ
· Kênh
Số liệu biên dùng trong tính toán biên là mực nước giờ năm 2006 với thời
đoạn t=1h (H~t). Và số liệu gió năm 2006 với thời đoạn t = 1h.
2. Các trạm kiểm tra
Là các trạm đo mực nước giờ tại: kênh Hà Nam, bến Gót
3. Xử lý số liệu
Nguyên tắc chung là số liệu thủy văn là mực nước quan trắc tại các trạm thủy
trạm phải được qui chuẩn về hệ cao độ Quốc gia.
Do nội dung chính của chương này là ứng dụng Delft3D để mô phỏng dòng
chảy và sóng, nên bước kiểm định yêu cầu tài liệu phải rất chính xác và đồng bộ. Ở
đây ta chỉ chạy mô hình cho một tháng mùa kiệt (tháng 3/2006).
2.2.2 Sơ đồ hóa khu vực nghiên cứu và các biên tính toán
a. Sơ đồ tính toán.
Căn cứ vào tình hình tài liệu địa hình, các tài liệu cơ bản khác như mực
nước, gió… cũng như chế độ thủy lực của sông, sơ đồ thủy lực tính toán dòng chảy
khu vực nghiên cứu được chọn như sau
Thiết lập các giá trị như: độ nhám đáy, bước thời gian (time step), thời gian
mô phỏng, các điểm xuất kết quả, tác động của gió đến dòng chảy cũng được xem
xét.
c. Hiệu chỉnh thông số mô hình thủy lực
Việc hiệu chỉnh thông số mô hình chủ yếu được tiến hành bằng cách thay đổi
độ nhám. Hệ số nhám ở đây được cho bằng hằng số trên toàn lưới và được hiệu
chỉnh trong quá trình hiệu chỉnh mô hình kết hợp tham khảo thông tin điều tra thực
địa. Kiểm tra tính hợp lý thông qua các tài liệu đo đạc của các trạm đo kiểm tra.
Phương pháp hiệu chỉnh thông số ở đây dùng phương pháp thử dần.
å ( Xo, i - Xs, i )
2
Nash = 1 -
å (Xo, i - Xo )
2
Chuỗi tài liệu từ 1/3/2006 đến 31/3/2006 được chọn để hiệu chỉnh mô hình.
Kết quả hiệu chỉnh mô hình được lưu trữ dưới dạng file *.csv sau đó sử dụng
excel để vẽ đồ thị, so sánh các biểu đồ kết quả tính toán và thực đo tại vị trí các
trạm thủy văn kiểm tra tương ứng tại các trạm đó.
Hệ số NASH tại các trạm Bến Gót và kênh Hà Nam:
NASHBến Gót = 99.89%.
NASHkênh Hà Nam = 99.99%.
Các kết quả dưới dạng biểu đồ được minh họa như sau:
1.5
1
Mực nước (m)
0.5
-0.5
-1
-1.5
-2
2/27/2006 0:00
3/4/2006 0:00
3/9/2006 0:00
3/14/2006 0:00
3/19/2006 0:00
3/24/2006 0:00
3/29/2006 0:00
4/3/2006 0:00
Hình 3: Kết quả tính toán mực nước tại Bến Gót
1.5
1
Mực nước (m)
0.5
-0.5
-1
-1.5
-2
2/27/2006 0:00
3/4/2006 0:00
3/9/2006 0:00
3/14/2006 0:00
3/19/2006 0:00
3/24/2006 0:00
3/29/2006 0:00
4/3/2006 0:00
Hình 4: Kết quả tính toán mực nước tại kênh Hà Nam
Mô hình được kiểm định với mực nước thực đo tại trạm Bến Gót như (hình 3)
và kênh Hà Nam (hình 4) với kết quả tính toán mực nước khá phù hợp với các số
liệu thực đo cho cả giai đoạn triều cường và triều kém, nhất là phần triều lên, triều
xuống và đỉnh triều. Sai số lớn nhất về mực nước tính toán xảy ra ở phần chân triều
do sự ảnh hưởng của sai số địa hình đáy.
d. Đánh giá kết quả hiệu chỉnh và kiểm định mô hình thủy lực
Kết quả hiệu chỉnh mô hình được thể hiện trên các hình từ hình 3 và hình 4 và
chỉ tiêu Nash tương ứng. Từ kết quả đó cho thấy đường quá trình mực nước tính
toán và thực đo là phù hợp cả về xu thế và lượng.
Từ kết quả hiệu chỉnh, kiểm định ở trên, chứng tỏ việc thiết lập mô hình và lựa
chọn các thông số cho mô hình thủy lực là hợp lý. Vì vậy, bộ thông số mô hình thuỷ
động lực có đủ độ tin cậy nghiên cứu các nội dung tiếp theo.
- Phương án 2: Xây dựng công trình đập phá sóng xa bờ trước đảo Cát Hải cùng
đập phá sóng ở Lạch Huyện.
2.3.1 Mô phỏng hiện trạng của khu vực Cát Hải khi chưa có công trình
Trước hết ta cần nghiên cứu hiện trạng khu vực khi chưa có công trình
Hình 6: Trường dòng chảy lúc triều lên (18h ngày 11/3/2006)
Hình 7: Trường dòng chảy lúc ngưng triều (22h ngày 11/3/2006)
Hình 8: Trường dòng chảy lúc triều xuống (10h ngày 12/3/2006)
Từ các hình 6, 7, 8 ta có nhận xét về trường dòng chảy dưới ảnh hưởng của
thủy triều và gió ở khu vực trước đảo Cát Hải như sau: Khi triều lên, dòng chảy
thẳng góc với đường bờ và sao đó dưới ảnh hưởng của dòng chảy trong sông ra kết
hợp với thủy triều xuống, dòng chảy quay ngược lại hướng ra biển. Khi dòng chảy
hướng ra biển sẽ mang theo một lượng bùn cát, có khả năng gây xói đường bờ trước
đảo.
- Kết quả vận tốc dòng chảy tại một số điểm
Hình 10: Vận tốc dòng chảy tại điểm phía ngoài đảo Cát Hải
Hình 11: Vận tốc dòng chảy tại điểm gần bờ đảo Cát Hải
Hình 12: Vận tốc dòng chảy tại điểm phía bên phải đảo Cát Hải gần Lạch Huyện
Hình 13: Vận tốc dòng chảy tại điểm phía bên trái đảo Cát Hải gần cửa Nam Triệu
Nhận xét về hướng di chuyển của bùn cát: Hoàn lưu di chuyển của dòng bùn
cát phụ thuộc vào hướng dòng chảy tổng hợp, trong đó chủ yếu là dòng triều.
- Khi triều lên, dòng bùn cát di chuyển ngang từ đáy sườn ngầm vào phía bờ,
phù hợp với dòng bờ và phương truyền sóng. Khi vào sát gần bờ, dòng bùn cát phân
kỳ ở phía ngoài Gia Lộc thành 2 nhánh. Nhánh thứ nhất di chuyển qua lạch Hàng
Dày hợp với dòng từ lạch huyện vào di chuyển lên Gót ở phía Bắc, nhánh thứ 2 di
chuyển qua lạch Hoàng Châu rồi hợp với dòng từ cửa Nam Triệu lên phiá tây
Hoàng Châu.
- Khi triều rút, dòng bùn cát chủ yếu di chuyển xuôi xuống theo hướng dòng
triều ở lạch Huyện và Nam Triệu, sát rìa đông chương Hàng Dày và phía tây
chương Hoàng Châu. Chỉ một bộ phận thứ yếu của dòng bùn cát đi lên lúc triều lên
quay ngược lại qua 2 lạch đầu chương để trở về khu bờ ngầm phía ngoài Cát Hải.
- Hai nhánh dòng bùn cát nói trên có xu hướng chung lệch về hướng chương Hoàng
Châu, gây ra tình trạng bồi đáy ngầm phía chương Hoàng Châu bào mòn đáy nửa lớn hơn
phía chương Hàng Dày. Với cơ chế hoàn lưu bùn cát như vậy, khu vực ven bờ Cát Hải bị
thiếu hụt bồi tích.
Hình 16: Chiều cao sóng hướng Đông Nam giảm dần khi tiến vào bờ
Hình 18: Chiều cao sóng hướng Nam giảm dần khi tiến vào bờ
Từ những kết quả trên ta đề xuất phương án xây dựng công trình bảo vệ bờ
cho đảo Cát Hải là xây dựng đập phá sóng cách bờ khoảng 500 m. Ở khu vực Lạch
Huyện có dự án xây dựng 1 đập phá sóng để tạo luồng tàu vào cảng Lạch Huyện.
Do đó khi mô phỏng giải pháp công trình vào trong mô hình, ta mô phỏng 2 phương
án
- Phương án 1: Chỉ có đập phá sóng ở trước đảo Cát Hải
- Phương án 2: Có cả 2 đập phá sóng (trước đảo Cát Hải và ở Lạch Huyện)
2.3.2 Mô phỏng theo các phương án giải pháp công trình
2.3.2.1 Phương án 1: Chỉ làm đập phá sóng xa bờ phía trước đảo Cát Hải
a. Trường dòng chảy khi có đập phá sóng xa bờ
Hình 20: Trường dòng chảy lúc triều lên (14h ngày 7/3/2006)
Hình 21: Trường dòng chảy lúc ngưng triều (18h ngày 7/3/2006)
Hình 22: Trường dòng chảy lúc triều xuống (8h ngày 8/3/2006)
Từ hình 20, 21, 22 cho thấy khi có đập phá sóng phía trước đảo Cát Hải
thì dòng triều từ ngoài khơi vào bờ bị chắn một phần, nhưng vận tốc dòng chảy
phía gần bờ thì hầu như không giảm do chịu ảnh hưởng của dòng chảy trong
sông ra. Tuy nhiên đập phá sóng sẽ có tác dụng trong việc giảm bớt áp lực
sóng lên hệ thống đê biển bảo vệ trước đảo.
b. Trường sóng khi có đập phá sóng xa bờ
Hình 23 và hình 25 thể hiện trường sóng ứng với các hướng chủ đạo là
Đông Nam và Nam khi có đập phá sóng. Ta thấy rõ chiều cao sóng bị suy giảm
khá lớn nhờ đập phá sóng. Nhờ vậy mà tác động của sóng lên hệ thống đê kè
trên đảo giảm đi đang kể.
Chiều cao sóng trước đập phá sóng 1,9 m và sau đập phá sóng còn <1 m.
(Xem hình 24 và hình 26)
Hình 24: Chiều cao sóng trước và sau đập phá sóng
Hình 26: Chiều cao sóng hướng Nam trước và sau đập phá sóng
2.3.2.2 Phương án 2: Làm đập phá sóng xa bờ phía trước đảo Cát Hải kết hợp
với đập phá sóng ở cảng Lạch Huyện
a. Trường dòng chảy
Hình 28: Trường dòng chảy lúc triều lên (16h ngày 9/3/2006)
Hình 29: Trường dòng chảy lúc ngưng triều (20h ngày 9/3/2006)
Hình 30: Trường dòng chảy lúc triều xuống (8h ngày 10/3/2006)
Khi có thêm đập phá sóng ở Lạch Huyện, sẽ chặn được dòng chảy từ phía
Lạch Huyện đổ vảo trước Cát Hải. Lúc này, phía gần đảo Cát Hải chịu tác động chủ
yếu của dòng chảy từ cửa Nam Triệu sang. Do đó, dòng chảy có xu thế đi ra ngoài
biển men theo đập phá sóng ở Lạch Huyện khi triều rút.
b. Trường sóng
Hình 31 và hình 33 thể hiện trường sóng ứng với các hướng chủ đạo là
Đông Nam và Nam khi có đập phá sóng ở trước đảo Cát Hải và cảng Lạch
Huyện. Ta thấy rõ chiều cao sóng bị suy giảm khá lớn nhờ 2 đập phá sóng này.
Sóng tác động vào đường bờ Cát Hải suy giảm đáng kể, từ đó giảm tá động của
sóng lên hệ thống đê kè trước đảo. Và sóng ở khu vực cảng Lạch Huyện cũng
rất nhỏ, đảm bảo cho tàu thuyền neo đậu trong cảng.
Cấp đê I II III IV V
TCAT
(chu kỳ
150 100 50 30 10<TCAT<30
lặp lại:
năm)
Vậy công trình bảo vệ bờ của đảo Cải Hải thuộc công trình cấp III có Ptk =
2%.
3.2. Quy hoạch chung về các biện pháp công trình bảo vệ đảo Cát Hải
3.2.1 Phân tích nguyên nhân xói lở để có biện pháp công trình thích hợp
Sau khi phân tích về các tài liệu về địa hình, địa chất, dòng chảy sóng, dòng
chảy gió, dòng triều, bùn cát và các kết quả nghiên cứu của trung tâm của Trung
tâm nghiên cứu biển Hải Phòng, xác định được nguyên nhân chủ yếu gây xói lở bờ
đảo Cát Hải như sau:
- Nguyên nhân thứ nhất do sự mất cân bằng bùn cát có nguyên nhân sâu xa
liên quan đến nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển, tiến hoá của đảo. Đảo
Cát Hải được hình thành từ chế độ bồi tụ cửa sông, châu thổ, trong quá trình phát
triển khoảng 1.700 năm trở lại đây, mực nước biển dâng cao, nguồn bồi tích giảm
hẳn, thuỷ triều mạnh lên, chế độ cửa sông châu thổ được thay thế bằng chế độ cửa
hình phễu. Do mức xâm thực cơ sở nâng cao và năng lượng sóng mạnh lên, đảo
nằm trong điều kiện động lực môi trường khác hẳn nên đã bị xói lở. Cát Hải là nơi
hứng sóng gió, vì thế Cát Hải thường xuyên phải hứng chịu tác động mạnh mẽ của
các yếu tố ngoại sinh: Mùa hè sóng gió thịnh hành phía Đông Nam, Nam, Nam
Đông Nam với tần xuất cao 70% .Thời kỳ triều cường khi triều lên cao (3,5 m) sóng
trực tiếp đánh vào đê kè với áp lực từ 4-5tấn/m2. Sóng khuấy đục đáy phá huỷ bờ
(cả bờ chưa được gia cố hay đã được gia cố), dòng chảy tổng hợp có tốc độ khá lớn
khi triều lên (cực đại 0,9 m/s) đưa vật liệu lơ lửng và di đáy qua hai lạch Hoàng
Châu và Gót vào lạch Nam Triệu và lạch Huyện chuyển lên phía Bắc sát bờ tây và
đông đảo.
Đây chính là nguyên chính gây xói lở bờ đảo, và xói lở trong trường hợp này
thuộc hình thức xói lở mãn tính. Ngoài ra còn nguyên nhân nữa gây ra xói lở đảo
mà ta cần phải xem xét sau đây.
- Đảo Cát Hải là khu vực mà có tần suất bão đổ bộ trực tiếp vào cao trung bình
1 cơn/năm, gây ra xói cục bộ cho Đảo. Hiện tượng này xảy ra với cường độ mạnh
trong thời gian bão đổ bộ vào Đảo trùng với giai đoạn triều cường. Điều này đặc
biệt nguy hiểm đối với đối với đê biển hiện có của Cát Hải, nơi địa chất nền đê yếu,
vật liệu đá hộc kè mái đê có kích thước và trọng lượng nhỏ không đảm bảo điều
kiện ổn định. Và xói lở trong trường hợp này thuộc hình thức xói lở cấp tính.
Đảo bị xói lở bởi cả hai hình thức xói lở mãn tính (do mất cân bằng bùn cát
dọc bờ gây ra, sinh ra do dòng tổng hợp cùng hướng mà dòng triều là chủ yếu) và
hình thức xói cấp tính (gây ra bởi bão).
Kết quả tính toán thủy lực ở chương II cũng cho ta thấy được nguyên nhân xói
lở của đảo là do dòng triều kết hợp với tác động của sóng kéo các hạt bùn cát lơ
lửng và bùn cát đáy ra khỏi bờ.
3.2.2 Đưa ra các giải pháp công trình
Đối với mỗi một hình thức xói lở bờ khác nhau, tương ứng sẽ có các giải pháp
bảo vệ bờ khác nhau. Trường hợp xói mãn tính, chủ yếu là dòng vận chuyển bùn
cát dọc bờ vì thế để ngăn chặn dòng vận chuyển bùn cát dọc bờ ta có thể có các giải
pháp như: làm đập mỏ hàn (ngăn chặn trực tiếp dòng bùn cát dọc bờ), hoặc làm đập
phá sóng xa bờ, hoặc trồng rừng ngập mặn để giảm năng lượng sóng. Còn trường
hợp xói cấp tính, chủ yếu do dòng vận chuyển bùn cát ngang bờ gây ra. Trường hợp
xói cấp tính thực ra không nguy hiểm bởi vì bùn cát không bị mất đi khỏi mặt cắt
mà trong điều kiện bão bùn cát bị đưa ra ngoài khơi, khi điều kiện thời tiết bình
thường (gió mùa) bùn cát lại được hoàn trả lại. Nhưng ở khu vực mà có cả xói mãn
tính thì xói cấp tính sẽ càng làm tăng thêm tốc độ đẩy lùi đường lúc đó cần phải
chống cả xói mãn tính và cấp tính. Giải pháp thường áp dụng để ngăn chặn xói cấp
tính là làm kè gia cố mái.
Toàn đảo Cát Hải có 20,6 km đê bao quanh, trong đó có tuyến đê xung yếu từ
Bến Gót đến Hoàng Châu nằm ở phía nam đảo chịu tác động trực tiếp của sóng, gió
nơi có dòng chảy ven bờ mạnh nhất và dải bờ đang bị xâm thực. Phía biển cũng đã
xây dựng được 9 kè mỏ hàn.
Giải pháp trồng rừng ngập mặn không khả quan cho vùng đảo Cát Hải vì vùng
bờ có chế độ động lực mạnh mẽ, không thích hợp cho điều kiện sống và phát triển
của cây ngập mặn.
Với hệ thống tuyến đê kè hiện có của đảo, hàng năm dưới tác động thường
xuyên của sóng gió, đặc biệt khi có bão, xảy ra tình trạng sạt lở mái kè, hư hỏng đê
biển. Trong phạm vi đồ án này, một giải pháp được đưa ra là xây dựng đập phá
sóng xa bờ. Đập phá sóng xa bờ có tác dụng làm giảm năng lượng sóng trước khi nó
truyền vào bờ. Từ đó làm giảm khả năng vận chuyển bùn cát dọc bờ cũng như
ngang bờ, ngăn chặn xói lở bờ biển, đảm bảo an toàn hơn cho hệ thống đê kè trên
đảo. Các công trình đập chắn sóng xa bờ được xây dựng song song và cách bờ biển
một khoảng nhất định.
vừa liên kết chặt chẽ với nhau. Các khối này có tên gọi là các khối kì dị hoặc các
khối phức hình. Chúng đã được thử nghiệm nhiều ở cảng và có các tên gọi khác
nhau như là khối: Tetrapot, Dolos, Dipod… Đập chắn sóng mái nghiêng được sử
dụng ở những nơi địa chất khồn cần tốt lắm, độ sâu không quá 20 m. Đập mái
nghiêng có các ưu nhược điểm sau:
- Tận dụng được vật liệu địa - Tốn vật liệu gấp 2 đến 3 lần so
phương với tường đứng ở cùng một độ sâu
- Tiêu hao năng lượng sóng tốt, - Không thể sử dụng mép ngoài đê
sóng phản xạ ít, nhất là khi mái nghiêng neo đậu tàu.
có độ nhám cao - Tốc độ thi công chậm so với
- Thế ổn định tổng thể khá vững tường đứng có cùng độ sâu.
chắc vì là vật liệu rời. Nếu xảy ra mất ổn - Xuất hiện sóng leo và sóng tràn
định cục bộ. Do đó đập mái nghiêng qua mái đập nên phải gia cố cả 2 mặt
thích hợp với các loại nền đất. của công trình
- Cao trình đập mái nghiêng thấp
hơn so với đập tương đứng
- Công tác điều tra cơ bản nền đất
ít tốn kém hơn (lỗ khoan thưa và nông).
- Công nghệ thi công đơn giản, có
thể kết hợp thủ công và hiện đại.
Mặc dù có các nhược điểm trên, đê chắn sóng mái nghiêng vẫn là giải pháp
kết cấu thông dụng cho tất cả các nước. Dựa vào đặc điểm vật liệu và đặc thù cấu
tạo, kết cấu đập chắn sóng mái nghiêng được phân loại thành:
- Đập mái nghiêng bằng đá
- Đập mái nghiêng với khối bê tông gia cố hình hộp
- Đập mái nghiêng với khối bê tông phức hình
3.2.3.3 Đập hỗn hợp
Là đập kết hợp giữa hai kết cấu đập mài nghiêng và tường đứng. Thường được
xây dựng ở độ sâu rất lớn d>20m. Phần dưới mái nghiêng có vai trò là lớp đệm, cao
trình lớp đệm lấy sao cho không gây ra sóng vỡ trước chân công trình đảm bảo phần
tương đứng không bị tác dụng xung lực.
Để lựa chọn được loại hình kết cấu hợp lý cần xem xét phân tích các yếu tố:
điều kiện địa hình, địa chất, chế độ sóng, diều kiện vật liệu địa phương…tại vị trí
xây dựng đập.
Kết luận: Qua phân tích trên, em xin đề xuất lựa chọn phương án kết cấu cho
đê chắn sóng Cát Hải là đập chắn sóng mái nghiêng.
3.2.3 Vị trí đặt đập phá sóng
Trên cơ sở trong khu vực đã có đập phá sóng ở khu vực cảng Lạch Huyện. Căn
cứ vào độ sâu đáy biển ở khu vực, đề xuất lựa chọn phương án đặt đập chắn sóng ở
vị trí cách bờ 500m, tại độ sâu 2,5 m. Chiều dài đập khoảng 3 km để đảm bảo an
toàn cho phạm vi bảo vệ.
Để thiết kế được mặt cắt ngang đập phá sóng, ta cần các điều kiện biên như
sau:
3.4.1 Điều kiện địa hình
Đảo Cát Hải nằm kẹp giữa hai vùng cửa sông (Sông Bạch Đằng và Sông
Chanh), Phía Đông Bắc được che chắn bởi đảo Cát Bà.
Địa hình chia thành 2 tiểu vùng:
+ Vùng trung tâm: cao độ tự nhiên từ 0.7 đến 1.5
+ Vũng bãi biển: cao độ vùng bãi triều từ (- 0.5) đến (+0.7)
Cao độ trung bình của toàn đảo tương đối thấp so với mực nước triều cường và
mực nước dâng trong bão. Điều này là bất lợi đối với việc phòng chống lụt bão của
đảo. Khi có sự cố về đê điều, mức độ ngập lụt và thiệt hại của đảo sẽ lớn, ảnh hư-
ởng nghiêm trọng đến đời sống con người và kinh tế xã hội trên đảo.
· Một số mặt cắt ngang điển hình
Các mặt cắt này được sử dụng để truyền sóng đến chân công trình, từ đó xác
định được các thông số sóng thiết kế công trình đập phá sóng xa bờ.
MẶT CẮT 1
0
0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 14000 16000 18000 20000
-2
-4
Độ sâu Z(m)
-6
-8
-10
-12
-14
-16
Khoảng cách X (m)
M TC T2
0
0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 14000 16000 18000 20000 22000
-2
-4
-6
sâu Z(m)
-8
-10
-12
-14
-16
-18
ng ch X(m)
MẶT CẮT 3
-2 0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 14000 16000 18000 20000
-4
Độ sâu Z (m)
-6
-8
-10
-12
-14
-16
Khoảng cách X(m)
And, P%: Chiều cao nước dâng do bão ứng với tần suất P(%). Theo các nghiên
cứu thì nước dâng tại 1 vị trí là hàm số của bão (cường độ, bán kính gió lớn nhất,
hướng di chuyển) và điều kiện địa phương mà bão đổ bộ vào.
Từ đó người ta xây dựng được đường tần suất mực nước tại các trạm đo và
được trình bày trong Hướng dẫn thiết kế đê biển 14TCN ( 11/2009)
Theo Hướng dẫn thiết kế đê biển 14TCN ( 11/2009) ta có đường tần suất mực
nước tại Đồng Bài, Cát Hải, Hải Phòng:
P (%) : 1 2 5 10 20 50 100
Tr (nam) : 100 50 20 10 5 2 1
H (cm) : 418.6 355.1 286.4 243.4 205.8 158.9 118.4
Hình 6:Đường tần suất mực nước tổng hợp tại điểm T17(106°53', 20°49')
Đồng Bài, Cát Hải, TP. Hải Phòng
Với P = 2% thì MNTK = 3,55 m
3.4.4 Tính toán sóng thiết kế
Tính toán sóng thiết kế là phần rất quan trọng trong quá trình thiết kế công
trình bảo vệ bờ biển nói riêng, và công trình biển nói chung. Nó quyết định tới sự
lựa chọn cao trình thiết kế cũng như các bộ phận bảo vệ như : loại áo kè, chân
khay….Việc tính toán chính xác các thông số sóng thiết kế không những bảo đảm
tuổi thọ của công trình mà còn tiết kiệm được kinh phí xây dựng, di tu, bảo dưỡng.
Tuy nhiên, các thông số sóng, gió, mực nước là các đại lượng ngẫu nhiên không
liên tục, được đo đạc quan trắc bằng những phương pháp khác nhau, nên tồn tại
những sai số cả về chủ quan và khách quan. Mặt khác, việc tính toán các thông số
sóng dựa trên các công thức thực nghiệm hoặc các mô hình có thể chỉ cho ra các số
liệu sóng tương đối, không chuẩn xác so với thực tế. Do vậy cần có những biện
pháp xử lý số liệu đầu vào để loại bỏ các sai số thô, và các sai số khác trong quá
trình tính toán cũng như trong quá trình chạy mô hình.
3.4.4.1 Tính toán các yếu tố sóng nước sâu
Số liệu sóng phục vụ cho việc thiết kế các công trình ven bờ được lấy từ các số
liệu quan trắc trong 27 năm từ năm 1970 đến năm 1997, sóng được đo đạc (7 giờ,
13 giờ và 19 giờ các ngày trong tháng) tại trạm Bạch Long Vĩ. Các đặc trưng của
sóng dùng cho thiết kế được tính thống kê từ các quan trắc kết hợp với việc phân
tích sự biến đổi của sóng trong đới ven bờ, hoặc được tính toán phục hồi bằng một
phương pháp thích hợp. Các số liệu này bao gồm các đặc trưng của sóng nước sâu,
tức là tại những vùng mà đáy biển không ảnh hưởng gì đến sóng. Các số liệu sóng
làm thông số đầu vào là sóng cực trị, tức là những con sóng lớn nhất đã xuất hiện và
được quan trắc.Thông thường thì các số liệu sóng đó được đo đạc trong bão được
gọi tắt là sóng bão.
Sóng bão thường có độ cao tương đối lớn, chu kỳ tương đối ngắn (tức là sóng
có độ dốc sóng lớn) và có thể phá huỷ công trình, xói chân công trình và gây xói
mòn bờ rất mạnh. Tính chất của sóng gió trong điều kiện gió khá mạnh rất gần với
sóng bão. Như vậy, các thông số của sóng trong điều kiện thời tiết bất thường hoặc
sóng gió trong điều kiện gió mạnh được dùng để tính toán thiết kế sự ổn định của
công trình, xói chân công trình hay sự xói mòn bờ.
Thông số sóng cơ bản được dùng trong thiết kế bao gồm chiều cao và chu kỳ
của sóng nước sâu lấy với tần suất 2%: H0 (2%) , T0 (2%) .
Để xác định được các thông số này ta cần phải xây dựng đường tuần suất phân
bố cực hạn của sóng. Để xây dựng đường tần suất ta sử dụng phân bố xác suất
Weibull.
Cơ sở lý thuyết: Tính sóng nước sâu theo Weibull:
Phân bố xác suất Weibull (hay còn gọi là phân bố xác suất Rosin-Rammler)
là một dạng thường dùng để mô tả thống kê sự xuất hiện của các đại lượng cực trị
trong khí tượng, thuỷ văn và dự báo thời tiết như dòng chảy lũ, sóng, gió lớn nhất.
Ngoài ra phân bố này cũng hay được dùng trong phân tích xác suất sống sót hoặc
phá huỷ trong lý thuyết độ tin cậy, dùng trong lý thuyết cực trị; biểu diễn thời gian
sản xuất và phân phối trong công nghiệp; sự phân tán tín hiệu radar và sự suy giảm
tín hiệu trong liên lạc không dây.
cæ x-aö
c -1
é æ x - a öc ù
f ( x) = ç ÷ exp ê - ç ÷ ú (3.2)
bè b ø ëê è b ø ûú
Với a là thông số vị trí, b>0 là hệ số tỷ lệ, c>0 là hệ số hình dạng.
Hàm phân bố tần suất lỹ tích:
Hàm phân bố tần suất lỹ tích biểu thị xác suất xuất hiện các giá trị của đại
lượng ngẫu nhiên X nhỏ hơn hoặc bằng một giá trị x cụ thể nào đó.
x
é æ x - a öc ù
F ( x ) = P { X £ x} = ò f ( x )dx = 1 - exp ê - ç ÷ ú (3.3)
-¥ êë è b ø úû
Trong thực tế ngành thủy lợi thường dùng tần suất vượt P (thường chỉ gọi tắt
là tần suất) là xác suất xuất hiện các giá trị của đại lượng ngẫu nhiên X lớn hơn
hoặc bằng một giá trị cụ thể x nào đó.
¥
F ( x ) = P { X ³ x} = ò f ( x )dx = 1 - P { X £ x} = 1 - F ( x ) (3.4)
x
æ 1ö
x = a + b.G ç 1 + ÷ (3.5)
è cø
b æ 2ö æ 1ö
CV = G ç 1 + ÷ - G 2 ç1 + ÷ (3.6)
x è cø è cø
æ 1ö æ 1ö æ 2ö æ 3ö
2G3 ç1 + ÷ - 3G ç 1 + ÷ G ç 1 + ÷ + G ç1 + ÷
C = è cø è cø è cø è cø (3.7)
S 3
é æ 2ö 2 æ 1 öù
êG ç1 + c ÷ - G ç1 + c ÷ ú
ë è ø è øû
Để xác định các thông số của phân bố xác suất dựa vào các đặc trưng thống
kê theo phương pháp moments, giải phương trình (3.7) để xác định thông số hình
dạng c. Tiếp theo, thông số tỷ lệ b được xác định từ (3.6). Cuối cùng xác định thông
số vị trí a từ (3.5).
Giá trị của hàm phân bố lý thuyết:
Tuyến tính hóa phương trình (3.3) bằng cách lấy logarith hai vế của (3.3) như
sau:
æ x-aö
c
ln éë1 - F ( x ) ùû = - ç ÷ (3.8)
è b ø
Nhân hai vế của (3.8) với -1 và logarith hóa 2 vế lần thứ 2:
æ x-aö
{ }
ln - ln éë1 - F ( x ) ùû = c.ln ç
è b ø
÷ (3.9)
1
{ }
ln ( x - a ) = ln - ln éë1 - F ( x ) ùû + ln ( b )
c
(3.10)
(3.10) là quan hệ tuyến tính giữa ln(x-a) và ln{-ln[1-F(x)]}, dựa vào các giá trị
quan sát của x và tần suất kinh nghiệm của nó để xác định các hệ số b, c của tương
quan tuyến tính này.
Nếu biểu thị qua tần suất vượt
ln ( x - a ) = ln {- ln ( P )} + ln ( b )
1
(3.11)
c
Giá trị x ứng với tần suất vượt P được tính dựa vào (3.11)
Nếu biểu thị qua tần suất vượt thì giá trị xp của hàm phân bố lý thuyết ứng
với tần suất P:
ì1 ü
x p = a + exp í ln [ - ln( P) ] + ln(b) ý (3.12)
îc þ
Từ số liệu sóng trạm Bạch Long Vĩ (từ 1970-1997), chọn ra mỗi năm 1 giá trị
chiều cao sóng lớn nhất, có 30 số liệu để tính toán. Các thông số của phân bố
Weibull có thể được xác định bằng phương pháp tương quan giữa ln(x-a) và ln(-
lnP), với 1/c là hệ số góc của quan hệ tương quan và lnb là giao điểm của đường
thẳng tương quan với trục tung. Việc xác định các hệ số hồi quy của quan hệ có thể
tiến hành bằng MS Excel cho chuỗi số liệu X gồm có N số (x1, x2, …,xn).
Đường tần suất theo phân bố Weibull có thể được vẽ bằng MS Excel hoặc
các phần mềm phân tích tần suất như FFC.
Bảng 3: Chuỗi số liệu sóng cực hạn ở trạm Bạch Long Vĩ (1970-1997)
Tiến hành xây dựng đường tần suất chiều cao sóng bằng phần mền FFC ( của
khoa Kỷ thuật biển- Trường ĐH Thuỷ Lợi)
Hs 8, 7
Tp = 12,1. = 12,1. = 11, 4( s ) (3.13)
g 9,81
g 2 (3.14)
L0 = TP
2p
9,81
L0 = 11, 42 = 203 ( m )
2p
3.4.4.2 Tính toán truyền sóng vào trước chân công trình
Để truyền sóng vào chân công trình, ta sử dụng phần mềm CRESS (mô đun
2331) để tính toán các yếu tố sóng
Ta lần lượt sử dụng 3 mắt cắt ở trên ( phần 3.4.1) để truyền sóng vào chân
công trình (tại vị trí cách bờ 200 m ). Sau đó ta lấy kết quả là giá trị chiều cao sóng
lớn nhất trong 3 mặt cắt để làm chiều cao sóng thiết kế công trình.
· Mặt cắt 1
· Mặt cắt 2
· Mặt cắt 3
Vậy theo kết quả truyền sóng bằng phần mềm CRESS, ta lấy chiều cao sóng
thiết kế tại chân công trình là:
Hs = 2,49 m ; L = 86,36 m
3.3.5 Các thông số địa chất dùng cho thiết kế
Các thông số địa chất cho ta biết tính chất cơ lý của từng lớp đất. khi thiết kế
công trình cần phải biết đặt công rình trên lớp đất loại nào, có đảm bảo được tính ổn
định của công trình hay không?. Do vậy cần phải biết rõ về tính chất cơ lý của lớp
đất để đảm bảo công trình ổn định và có biện pháp xử lý nền thích hợp.
Dung trọng
Dung trọng T / m3 1,82 1,77 1,81 1,82
ướt gw
Dung trọng T / m3 14,5 1,40 13,0 1,35 1,41 1,42
khô gc
tan a
Số Irribaren : xm =
s0 m
Trong đó:
Hs
som : Độ dốc sóng( som = ).
L
H: Chiều cao sóng.
tan α: độ dốc mái.
tan a 1 1
xm = = = = 3,9 > 3
s0 m 2, 49 1,5 0.029
1,5
86,36
Hiện nay có rất nhiều công thức dùng để xác định trọng lượng khối phủ như
công thức Hudson, công thức trong 14 TCN... song chúng còn nhiều hạn chế như:
Không đề cập đến tính chu kỳ sóng, không đề cập đến tính thấm nước, không đề
cập đến số lượng các con sóng, định nghĩa độ hư hỏng không rõ ràng.Để khắc phục
phần nào những hạn chế trên trong đồ án này sẽ tính trọng lượng khối phủ mái theo
Vander meer cho Tetrapods hai lớp phủ.
Theo CEM bảng VI-5-30 công thức Vander meer là:
Hs
Ns = =(3.75Nod0.5/Nz0.25 +0.85)Som-0.2 (4.2)
Dn D
Trong đó :
Hs: chiều cao sóng đáng kể trước chân công trình, Hs =2,49 m
Dn: đường kính khối phủ
D = r s / r w -1 = 2500/1025 – 1 = 1,44
Nod: số cấu kiện bị dịch chuyển ra khỏi vị trí trên 1 dải bề rộng dải Dn
Với cấu kiện là Tetrapod thì: Nod = (S-1)/2, với S là mức độ hư hỏng,
để đảm bảo mức độ an toàn lấy S = 2
=> Nod = (2-1)/2 = 0,5
Nz : số con sóng ảnh hưởng đến công trình
Nz= thời gian bão/ chu kỳ sóng trung bình:
Tp 11, 4
Tm = = = 10( s )
1,15 1,15
2, 49
=> = (3, 75 x0,50,5 / 21600,25 + 0,85) x0, 029-0,2 => Dn = 0,69 (m)
1, 44.Dn
* Số khối được sắp xếp trên một đơn vị diện tích được xác định theo công thức
sau
2/3
Na æ P ö æ Wa ö
= n.K D . ç1 - ÷ .ç ÷ (4.4)
A è 100 ø è W ø
Chiều rộng đỉnh đê được xác định với hai yêu cầu chính:
- Theo yêu cầu ổn định bao gồm ổn định tổng thể, ổn định cục bộ của mái
dốc và các bộ phận khác.
- Theo yêu cầu sử dụng mặt đê: xe cộ đi lại, bốc xếp hàng hoá, bố trí các
công trình phụ trợ của bể cảng, làm dịch vụ...
Từ kinh nghiệm thực tế bước đầu chiều rộng B nên chọn:
Bmin ≥3m
Đê có yêu cầu cao: B =(3-5)H
Trong đó: H - chiều cao sóng tính toán.
Đê có yêu cầu vừa phải: B =(1,4 - 2)H
Theo shore protection Manual CERC US.Army thì chiều rộng đỉnh đê được
1
W 3
xác định theo công thức sau : B ³ n.K D ( ) (4.5)
Wr
1
æW ö 3
r = n KD ç ÷ (4.6)
è Wr ø
Trong đó : r : Chiều dày trung bình của lớp phủ dưới (m)
n : Số lớp đá , chọn n = 2
W : Khối lượng viên đá lớp giữa, W = 0,1 T
Wr : Khối lượng đơn vị của đá , Wr = 2,65 (T/m3)
1
æ 0,1 ö 3
=> Chiều dày lớp giữa 1: r = 2.1,15. ç ÷ = 0, 77(m)
è 2, 65 ø
- Số khối được xếp trên một đơn vị diện tích được xác định theo công thức
sau:
2/3
Na æ P ö æ Wa ö
= n.K D . ç1 - ÷ .ç ÷
A è 100 ø è W ø
2/3 2/3
Na æ P ö æ Wa ö æ 37 ö æ 2, 65 ö
= n.K D . ç1 - ÷ .ç ÷ = 2.1,15. ç1 - ÷ .ç ÷ = 12,9
A è 100 ø è W ø è 100 ø è 0,1 ø
Trong đó : r : Chiều dày trung bình của lớp phủ dưới (m)
n : Số lớp đá , chọn n = 2
W : Khối lượng viên đá lớp giữa, W = 0,005 T
Wr : Khối lượng đơn vị của đá , Wr = 2,65 (T/m3)
* Lớp lõi:
Lớp lõi là lớp cuối cùng của đập chắn sóng, lớp có tính chất như bộ khung
ban đầu của đập, lõi của đập được cấu tạo bằng đá hộc, được thả rối có sắp xếp vào
nhau, sao cho có lỗ rỗng là ít nhất, yêu cầu khi thi công lõi đập bằng đá được sử
dụng phải chắc chắn, không bị xâm thực bởi nước biển, chịu tải trọng cao, ngăn
được 1 phần nước thấm qua thân đập...
Lớp lõi sử dụng đá có cấp phối đến rất rộng, có khối lượng bằng W/4000
Khối lượng viên đá lớp lõi: Wlõi = 1/4000 = 2,5x10-4 (T) = 0,25 (kg)
Tại nơi nước sâu chân khay có thể nằm ở khoảng cách tương đối lớn hơn so với
đáy biển.
P (%) : 1 2 5 10 20 50 100
Tr (nam) : 100 50 20 10 5 2 1
H (cm) : 418.6 355.1 286.4 243.4 205.8 158.9 118.4
Hình 8: Đường tần suất mực nước tổng hợp tại điểm
T17(106°53', 20°49') Đồng Bài, Cát Hải, TP. Hải Phòng
Dựa vào đường tần suất lũy tích mực nước giờ ta có MNTTK ứng với tần
suất P=100% thì MNTTK = 1,18(m) => Độ sâu của MNTTK là:
h= 2,5 + 1,18 = 3,68 (m)
Theo hình 7, cao trình của chân khay cách MNTTK 1 đoạn là Hs =2,49 m.
- Độ sâu của MNTK: hS = 2,5 + 3,55 = 6,05 (m)
Do đó: cao trình chân khay cách MNTK 1 đoạn:
hb = 6,05 – 3,68 + 2,49 = 4,86 (m)
Phạm vi đảm bảo an toàn cho chân công trình:
H tk é h ù
NS = = ê0, 24 b + 1, 6 ú .N od0,15 (4.8)
D.Dn 50 ë Dn 50 û
Trong đó:
é h ù é 4,86 ù
N s = ê0, 24 b + 1,6 ú .N od0,15 = ê0, 24 + 1, 6ú .0,50,15 = 3,83 => Ns3 ≈ 60
ë Dn 50 û ë 0, 44 û
(thõa mãn)
Hình 11: Thay đổi kích thước hình học đầu đập
Cao trình đỉnh đầu đập có thể lấy cao hơn cao trình thân đập nhưng ở đập chắn
sóng ta lấy bằng cao trình thân đập.
Bề rộng đỉnh đập có thể rộng hơn bề rộng thân đập và chiều dài lấy theo kinh
nghiệm như sau: Bđầu đập =(1,5-2).Bthân đập . Với Bthân đập = 3 m, ta chọn Bđầu đập = 5 m
Mặt khác diện tích đầu đập phải đủ rộng để bố trí các công trình: tín hiệu, nhà đèn,
trạm kiểm soát, trạm dịch vụ và các công trình phụ trợ khác của cảng.
Trong trường hợp này ta chọn cách mở rộng đầu đập do sử dụng vật liệu bảo
vệ mái là khối tetrapod yêu cầu mái có độ dốc cố định là 1,5 không thay đổi được,
còn nếu thêm đuôi gây cản trở dòng chảy không tốt.
4.2 Xử lý nền
Đối với đập phá sóng thì việc xử lý nền rất quan trọng, đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo tính ổn định của công trình. Ta tiến hành xử lý nền như sau:
Đào sâu nền phía dưới công trình khoảng 2,5 m, tiến hàng bóc bỏ hết lớp bùn.
Lưu ý, đào rộng thêm bên ngoài phạm vi đáy đập phá sóng mỗi bên 0,5m. Sau đó,
ta trải 1 tấm bè chìm xuống dưới. Tiếp đó, rải 1 lớp vải địa kỹ thuật lên trên bè chìm
sao cho vải địa kỹ thuật phải bao phủ cả thành và miệng hố đào. Sau đó đổ cát lên
đến chiều cao 2 m của hố đào và bịt vải địa kỷ thuật lại. Còn 0,5 m của hố đào còn
lại là lớp lọc (sẽ đổ đá có kích thước của lớp lõi).
* Tác dụng của lớp bè chìm:
- Mở rộng diện tích truyền tải trọng, làm cho nền thiên nhiên chịu một tải
trọng phân bố đều.
- Có thể ngăn không cho mặt trượt sâu xuyên qua nền đê.
- Ngăn không cho cát, đất chìm sâu vào nền đất yếu và nước cuốn trôi đất đắp.
* Tác dụng của lớp đệm cát:
Trong trường hợp khi ta thay lớp đất yếu hoặc một phần lớp đất yếu nằm dưới
nền móng công trình bằng đệm cát, hiệu quả mang lại sẽ là:
- Đệm cát đóng vai trò như một lớp chịu lực, có khả năng tiếp thu được tải
trọng của công trình và truyền tải trọng đó xuống lớp đất chịu lực phía dưới. Cừơng
độ kháng cắt của đất cát lớn do đó tăng khả năng chịu tải của nền.
- Cát có tính ép co thấp do đó giảm được độ lún của công trình.
- Cát có tính thấm mạnh nên nó có tác dụng tăng nhanh quá trình cố kết của
nền khi chịu tải trọng ngòai.
- Tăng khả năng ổn định khi công trình có tải trọng ngang vì cát trong lớp đệm
sau khi đầm chặt sẽ có lực ma sát lớn làm tăng khả năng chống trượt.
Thiết bị nổi có thể bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết. Vì vậy cần thi công
vào thời kỳ chế độ sóng tại khu vực là nhỏ trong năm. Cần sử dụng hệ thống định vị
thích hợp để đảm bảo định vị chính xác vị trí đổ đá và sà lan chở cẩu. Sà lan chỉ cá
thể dịch chuyển đến vị trí neo mới khi điều kiện thời tiết yên tĩnh.
Các phương tiện thiết bị thi công bao gồm :
- Sà lan 400T.
- Tàu kéo hoặc tàu đẩy công suất >150CV.
- Cần trục nổi hoặc cần trục lắp trên.
d. Thi công đổ dá lớp lõi và lớp thềm chống xói chân khay
Đá làm chân đập có thể được đổ bằng cách sử dụng các máng đổ đá. Sau khi
đổ phải dùng các phương tiện kết hợp thủ công tạo phẳng rồi mới tiến hành thi công
bước tiếp theo.
Chú ý do phần ngoài của chân đập phải chịu tác dụng mạnh của dòng chảy và
sóng, do đó khi thi công chân đê cần phải lựa chọn những viên đá có kích thước lớn
nhất trong cấp phối đá dùng thi công chân đê để thi công phía ngoài.
Ta thi công phần thềm chống xói chân khay vì lớp lõi và lớp thềm chống xói
cùng một cấp phối hạt và độc lập với nhau.
e. Thi công lớp lót
Do chiều dài phân đoạn đập lớn nên ta phải phân ra thành các phân đoạn, đảm
bảo độ đồng đều để tránh hiện tượng xói cục bộ, đá có kích thước nhỏ được thả tập
trung dọc theo tim tuyến đập, đảm bảo khi gia cường đá lớn lên trên lớp mặt che
khuất được phần đá nhỏ.
Có thể đổ đá bằng sà lan mở đáy ở những chỗ sâu trên 4 m và đổ đá mặt bên
bằng sàn phao thi công đối với những chỗ sâu trên 2 m. Tại những chỗ có lớp lót đá
đường kính lớn thì sắp xếp lại đá bằng cẩu đặt trên sàn phao nổi.
Trong quá trình thi công, lõi đập và các lớp bên dưới có khả năng bị sóng làm
hư hại. Trong giai đoạn nào đó nếu dự báo thấy thời tiết xấu sẽ liên tiếp xảy ra, thì
cần phải ngưng thi công trước khi thời tiết xấu ập đến, và đồng thời bảo vệ tạm các
công trình đang làm dở dang bằng cách phủ các khối phủ hoặc đá có đường kính
lớn lên các phần đã làm, khi thời tiết xấu qua đi thì lại bỏ ra thi công tiếp các phần
còn lại.
Vật liệu để thi công lõi đập thường có kích thước nhỏ hơn vì vậy nên đổ vật
liệu vào chính giữa lõi đập, các loại đá lớn hơn nên để thi công các lớp bên ngoài
nhằm giữ ổn định mái dốc và chống lại tác dụng của sóng.
Vật liệu lõi đập có thể đứng vững ở những mái dốc đứng từ 1:1 đến 1:1,5 trừ
khi mái dốc bị sóng cuốn trôi. Để mái dốc thoai thoải hơn, cần phải đổ thêm vật liệu
và điều chỉnh mái dốc, khi chịu tác động va đập của sóng, mái dốc đê có thể bị phá
hoại, khi đó cần điều chỉnh mái dốc để khôi phục mái dốc thiết kế.
Cần phải tiến hành đo kiểm tra mái dốc lõi đập trước khi thi công lớp lót khối
Tetrapod, khi lớp lót của lõi đã đạt yêu cầu mới thi công lớp lót.
Thi công lớp lót có thể bằng máng đổ và kết hợp với thủ công. Cần phải đo
đạc kiểm tra kỹ lưỡng mái dốc và độ phẳng của lớp lót trước khi thi công lớp
Tetrapod.
Sau khi thi công xong phần đệm đá và lõi đá phải có bước nghiệm thu kỹ thuật
giai đoạn 1.
f. Thi công lắp đặt khối Tetrapod và khối phủ định hình
Khối Tetrapod được đúc tại bãi đúc bằng cốp pha thép tấm chuyên dụng, sau
đó được tập kết và vận chuyển đến cảng khu vực cửa sông Đà Rằng để bốc xếp
xuống sà lan và vận chuyển tới công trường bằng tàu kéo hoặc tàu đẩy. Sà lan chở
khối đậu dọc theo sườn lõi đá để cần cẩu nổi lắp đặt vào vị trí, do cao trình đỉnh đáy
nhỏ chỉ khoảng -2.5 m, cần tận dụng lúc triều kiệt để kiểm tra mật độ rải khối, chỗ
nào thưa cần kịp thời bổ sung ngay lúc đang thi công.
Việc sản xuất, vận chuyển và lắp đặt các khối Tetrapod cần phải được kiểm tra
cẩn thận. Đặc biệt các cấp phối bê tông dùng để đúc khối Tetrapod nên được thiết
kế để giảm sự toả nhiệt độ và khuôn đúc nên được thiết kế nhằm tránh nứt vỡ do
ứng suất nhiệt, nên dùng các loại xi măng toả nhiệt thấp.
Công tác sản xuất bê tông, đúc, bảo dưỡng, tháo khuôn, di chuyển các khối
Tetrapod đến nơi lưu kho, vận chuyển và lắp đặt các khối Tetrapod nên được sắp
xếp và nên chương trình cụ thể để giảm tối thiểu các ứng suất trong khối . Cần phải
có một mặt bằng thi công có đủ khả năng chứa các khối Tetrapod đúc dự trữ trong
1,5 đến 2 tháng.
Cần phải lắp đặt đủ số lượng khối Tetrapod cho một pham vi đã được thiết kế,
đảm bảo đủ mật độ bao phủ và độ dày của khối Tetrapod bảo vệ.
Lưu ý: Trong quá trình thi công, trước khi xếp đại trà khối Tetrapod cần phải
tiến hành xếp thử một đoạn với chiều dài là 10 m theo đúng thiết kế dưới sự hướng
dẫn của cơ quan thiết kế. Cần đánh giá nguy cơ hư hỏng khối Tetrapod do va chạm
trong quá trình lắp dặt và xác định các hạn chế đối với công tác lắp đặt do điều kiện
thời tiết.