Professional Documents
Culture Documents
Thực trạng về chỉ số giao dục của Việt Nam năm 2010 - 2016
Thực trạng về chỉ số giao dục của Việt Nam năm 2010 - 2016
=====000=====
Hà Nội – 09/2016
MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN.................................................................................5
2. Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) và cách
tính HDI:.............................................................................................................7
II. Đánh giá chung về chỉ số HDI của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2016:. 10
2. Mối quan hệ giữa chỉ số giáo dục và chỉ số HDI ở Việt Nam......................14
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CHỈ SỐ GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN 2010 - 2016.................................................................................................15
I. Thành tựu về giáo dục Việt Nam cho việc tăng cao chỉ số phát triển giáo dục15
II. Các hạn chế trong việc nâng cao chỉ số giáo dục ở Việt Nam........................23
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHỈ SỐ GIÁO DỤC TỪ ĐÓ
NÂNG CAO CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA VIỆT NAM TRONG
DÀI HẠN................................................................................................................29
I. Quy định bắt buộc việc phổ cập giáo dục trên cả nước....................................29
KẾT LUẬN.............................................................................................................41
2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, khi mà tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt đe
dọa đến sự phát triển bền vững của con người thì một chỉ số đã ra đời để lượng hóa
khả năng phát triển bền vững của một quốc gia, đó là “chỉ số phát triển con người”
(Human Development Index – HDI). Vì con người được cho là yếu tố trung tâm,
chi phối các yếu tố tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế,… khác nên do đó người ta
cho rằng khi đo lường được sự phát triển của con người cũng có thể đánh giá một
cách tương đối được sự phát triển của các yếu tố xung quanh. Trong các chỉ số cấu
thành nên chỉ số phát triển con nười ta thấy rằng chỉ số giáo dục là một chỉ số vừa
gắn liền sát nhất với thực tế phát triển các nhân và dễ tác động hơn so với hai chỉ
số còn lại.
Bên cạnh đó, đối với mỗi quốc gia hiện nay, đổi mới hay cải cách giáo dục
luôn là yêu cầu thường xuyên, bức thiết nếu không muốn bị tụt hậu trong cuộc
chạy đua phát triển đang ngày càng gay gắt hiện nay. Bởi thực tế, lịch sử đã chứng
minh một quy luật là: không có sự tiến bộ và thành đạt của quốc gia nào mà lại
tách rời khỏi sự tiến bộ và thành đạt của quốc gia đó trong lĩnh vực giáo dục. Đối
với Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung Ưowng 8 khóa XI đã nêu rõ vấn đề đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu định hướng Xã hội
3
Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong đó, Nghị quyết đã chỉ rõ thực tế, chất lượng,
hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu. Đầu tư cho giáo dục và đào
tạo chưa hiệu quả. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu…
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại của vấn đề phát triển giáo dục Việt
Nam trong thời gian qua, đặc biệt là trong giai đoạn 2010 – 2016 gần đây (lần thay
đổi luật giáo dục gần nhất vào năm 2010), từ đó nhằm nâng cao chỉ số giáo dục để
làm tăng chỉ số HDI Việt Nam trong dài hạn, nhóm chúng tôi đã tiến hành nghiên
cứu và xây dựng tiểu luận “Thực trạng về chỉ số giáo dục của Việt Nam giai
đoạn 2010 – 2016 và giải pháp nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người ở
Việt Nam”
Trên cơ sở dữ liệu từ các tổ chức có uy tín, chỉ ra các thành tựu và hạn chế của
giáo dục Việt Nam giai đoạn 2010 – 2016. Từ đó đề ra những giải pháp nhằm cải
thiện giáo dục cũng như chỉ số giáo dục Việt Nam, lấy đó làm tiền đề để nâng cao
chỉ số phát triển con người ở Việt Nam trong dài hạn.
4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. Lí luận chung về chỉ số phát triển con người (HDI)
1. Khái niệm phát triển con người:
Khái niệm phát triển con người được sử dụng là khái niệm do Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (United Nations Development Programme – UNDP) đề
xướng trong Báo cáo phát triển con người (Human Development Report – HDR),
công bố lần đầu tiên năm 1990: "Của cải đích thực của một quốc gia là con người
của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi
cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, mạnh khỏe và sáng tạo. Chân
lý đơn giản nhưng đầy sức mạnh này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo
đuổi của cải vật chất và tài chính". Trong Báo cáo phát triển con người năm 2001
của UNDP, khái niệm này được nhấn mạnh: “Phát triển con người không chỉ là sự
tăng giảm của thu nhập quốc dân, mà còn là tạo ra một môi trường trong đó mọi
người có thể phát triển mọi khả năng của mình và làm chủ một cuộc sống sáng
tạo, hữu ích, phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ. Do vậy, phát triển có ý nghĩa
là mở rộng những lựa chọn của con người để hướng tới cuộc sống mà họ coi
trọng”.
Khái niệm này đã được phân tích, diễn giải bằng các mệnh đề “Phát triển con
người là sự phát triển của con người, do con người và vì con người”, “Phát triển
con người là quá trình vừa nâng cao năng lực lựa chọn của con người, vừa mở
5
rộng cơ hội lựa chọn của con người”. Tuy nhiên, có thể thấy sau chặng đường 10
năm từ báo cáo đầu tiên năm 1990, Báo cáo năm 2001 đã làm rõ hơn nội hàm của
khái niệm phát triển con người với ý “làm chủ một cuộc sống sáng tạo, hữu ích,
phù hợp với lợi ích và nhu cầu của họ”. Như vậy, ngoài hai mệnh đề trên, cần thấy
rõ vai trò chủ thể của con người trong phát triển, đồng thời phải quan tâm tới lợi
ích, nhu cầu của con người trong phát triển. Từ khái niệm phát triển con người này,
thời điểm năm 1990 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình khẳng
định vai trò chủ thể – động lực – mục tiêu của con người trong phát triển. Bước
ngoặt đó là ở chỗ trải qua một quá trình lịch sử lâu dài của nhân loại, lần đầu tiên
khái niệm phát triển con người đã chính thức được lượng hóa bằng việc tính toán
và công bố xếp hạng Chỉ số phát triển con người – HDI cho các quốc gia và vùng
lãnh thổ. Tiếp theo HDI, trong xu hướng cố gắng đo lường, lượng hóa các khía
cạnh khác của phát triển con người, UNDP đã đề xướng phương pháp luận và công
thức tính toán một số chỉ tiêu khác liên quan đến một số khía cạnh cơ bản của phát
Từ Báo cáo phát triển con người toàn cầu đầu tiên do UNDP công bố năm
1990, khái niệm phát triển con người đã hội tụ các nhà hoạch định chính sách, các
nhà thực thi chính sách và các nhà khoa học trong nhận thức đúng đắn hơn, đồng
thuận cao hơn về tầm quan trọng của mục tiêu phát triển con người trong phát triển
kinh tế-xã hội. Báo cáo phát triển con người năm 1996 của UNDP đã khẳng định
6
“Phát triển con người là mục đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương
Phương tiện:
Tăng trưởng
kinh tế
Các điều kiện thúc đẩy Các điều kiện thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế: phát triển con người:
+Lao động có trình độ +Cơ hội việc làm đầy đủ
+Đổi mới công nghệ +Dịch vụ giáo dục tốt
+Quản lí tốt... +Dịch vụ y tế tốt...
Mục tiêu
phát triển:
Con người
So sánh mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế (phương tiện) và phát triển con
người (mục tiêu), chúng ta thấy rõ phát triển con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội và nhiều vấn đề liên quan khác.
7
2. Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) và
cách tính HDI:
Hiệp Quốc đưa ra để kiểm soát, đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con người.
HDI là chỉ số đo lường thống nhất các mục tiêu kinh tế-xã hội cần đạt được và
phản ánh toàn bộ các khía cạnh của cuộc sống. HDI phản ánh mức độ trung bình
đạt được của một nước về các năng lực cơ bản của con người.
Trên thực tế, HDI chứa đựng ba yếu tố phản ánh tương ứng ba khía cạnh
thuộc về năng lực phát triển của con người, đó là: năng lực tài chính (thu nhập),
năng lực trí lực (giáo dục) và năng lực thể lực (y tế và chăm sóc sức khỏe). Ba
yếu tố cấu thành HDI đã được thống nhất từ năm 1990 bao gồm: y tế và chăm sóc
sức khỏe (tính bằng tuổi thọ bình quân), giáo dục (tính theo hai tiêu chí là tỷ lệ
người lớn biết chữ và số năm đi học trung bình); GNI/người tính theo PPP (sức
mua) được đưa vào HDI phản ánh thu nhập. Đã có ba lần thay đổi trong việc sử
dụng các yếu tố đưa vào HDI để phản ánh khía cạnh giáo dục. Trước năm 2007,
kết quả giáo dục đưa vào tính HDI bao gồm tỷ lệ người lớn biết chữ và số năm đi
học trung bình. Năm 2007, trong báo cáo phát triển con người của UNDP thì kết
quả giáo dục tính vào HDI lại là: tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đến trường đúng
độ tuổi. Báo cáo phát triển con người năm 2010 cải tiến hơn, con số tỷ lệ đến
trường đúng độ tuổi được thay bằng số năm đi học trung bình nhưng đầy đủ hơn,
8
nó không chỉ bao gồm số năm đi học trung bình của những người từ 25 tuổi trở lên
mà còn bao gồm số năm đi học trung bình kỳ vọng, tức là số năm đi học trung bình
từng khía cạnh, gọi là những điểm đích, nó thể hiện mỗi quốc gia đang đứng ở
điểm nào so với các điểm mốc đó, được thể hiện từ giá trị từ 0 đến 1 (trong đó giá
trị 1 là giá trị cao nhất). Nhưng nếu phát triển con người là quá trình mở rộng sự
lựa chọn thì có thể không có sự giới hạn, không có điểm cao nhất. Phương pháp
chỉ số chính là cách thức để quy đổi các đơn vị đo lường của các tiêu chí bộ phận
Trước báo cáo phát triển con người năm 2010, UNDP đã sử dụng một phương
pháp tính khác mà theo đó HDI là trung bình cộng của ba chỉ số bộ phận. Tuy
nhiên, trong Báo cáo phát triển con người năm 2010, đi đôi với sự thay đổi một số
yếu tố bộ phận trong HDI, phương pháp tính cũng có sự thay đổi phù hợp và bảo
9
HDI được tính theo công thức bình quân nhân giản đơn từ 3 chỉ số thành phần
như sau:
HDI =√3 I A × I E × I W
Theo đó, các chỉ số được xác định cụ thể như sau:
I
- Chỉ số giáo dục: E =¿
√ I E 1× I E2 ¿
0.951
Trong đó, chỉ số năm học trung bình ( I E 1) và chỉ số năm học kì vọng ( I E 2) được tính
X thực tế − X min
theo công thức: Chỉ số= X max− X min
Bảng 1: Bảng ví dụ minh họa giá trị của các chỉ tiêu liên quan để tính HDI
10
II. Đánh giá chung về chỉ số HDI của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2016:
quan trọng đạt được trong lĩnh vực này, trình độ phát triển con người của Việt
Bảng 2: Chỉ số HDI của Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2016
HDI
hạng
Qua bảng số liệu trên cho thấy, trong giai đoạn 2010-2016 chỉ số phát triển con
người của Việt Nam có xu hướng tăng nhưng không nhiều, thậm chí còn có lúc
giảm và tốc độ tăng cũng chậm hơn so với các nước trên thế giới.
11
Tuổi thọ bình quân ở nước ta đạt mức cao nhất và có tầm quan trọng hàng đầu
trong 3 chỉ số (thu nhập, tuổi thọ, giáo dục), quyết định thứ bậc về HDI. Cụ thể,
tuổi thọ bình quân của người Việt Nam năm 2016 đạt 73,4 (cao hơn mức 69,5 tuổi
của nhóm nước có HDI trung bình, cao hơn cả mức 72,8 tuổi của nhóm có HDI
cao).
Ngoài các yếu tố có tính tự nhiên, tuổi thọ cao của người Việt Nam còn là kết
quả của việc cải thiện mức sống, chăm lo sức khoẻ con người, được thể hiện trên
nhiều mặt. Cụ thể: Tỷ lệ nghèo giảm mạnh (9,45% năm 2010 xuống còn 3,47%
năm 2016, Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường. Chất
lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Tiếp tục đầu tư xây mới và nâng cấp mở
rộng nhiều bệnh viện; riêng tuyến Trung ương tăng thêm 1.200 giường bệnh. Tỷ lệ
*Về chỉ số thu nhập (tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương)
Bình quân đầu người đã tăng từ 4150 USD năm 2010 lên 6050 USD năm
2016. Do chỉ số thu nhập còn thấp, nên cần phải tập trung cho việc nâng cao chỉ
tiêu này. Muốn tăng chỉ tiêu này, một mặt phải tăng tổng GDP (tính bằng USD
theo tỷ giá sức mua tương đương); phải tăng tỷ lệ GNI so với GDP và tiếp tục
12
*Chỉ số giáo dục
Đây là chỉ số được biểu hiện qua 2 chỉ số chi tiết, đó là số năm đi học kỳ vọng
và số năm đi học trung bình. Số năm đi học kỳ vọng tăng từ 10,4 năm vào năm
2010 lên 11,9 năm vào năm 2016, số năm đi học trung bình của Việt Nam đã tăng
Nhìn chung, trình độ phát triển con người của Việt Nam chưa thực sự bền
vững. Hiện nay, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có trình độ phát triển con
người ở mức trung bình, thấp hơn so với phần lớn các nước trong khu vực Đông
Nam Á (chỉ cao hơn với Myanmar và Camphuchia). Theo báo cáo phát triển con
người của UNDP năm 2015 dựa trên cơ sở phân tích dữ liệu năm 2014, năm 2014
chỉ số HDI của Việt Nam là 0,638 trong khi đó của Myanmar là 0,535, của
Camphu chia là 0,555. Trong thời gian tới, để HDI tăng nhanh hơn, Việt Nam cần
đầu tư nhiều hơn nữa vào con người. Nếu không đầu tư vào con người thì những
lợi ích thu được từ thị trường quốc tế hoặc từ đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ rất hạn
chế. Đầu tư vào tiềm năng con người có ý nghĩa sống còn giúp Việt Nam nâng cao
lợi thế cạnh tranh và nhờ đó được hưởng lợi đầy đủ khi tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế.
Như vậy, việc phát triển con người ở nước ta trong giai đoạn vừa qua, bên
cạnh những thành tựu đạt được, còn có một số hạn chế nhất định. Bối cảnh phát
triển con người của nước ta hiện nay vừa có những cơ hội mới, vừa đứng trước
13
nhiều thách thức. Điều đó, đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện để tìm ra
những giải pháp hiệu quả cho việc phát triển con người một cách bền vững.
2. Mối quan hệ giữa chỉ số giáo dục và chỉ số HDI ở Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, chỉ số giáo dục là một trong ba chỉ số thành phần
được tính vào chỉ số phát triển con người, thể hiện qua hai tiêu chí là số năm đi học
trung bình của người lớn (>25 tuổi) và số năm đi học kỳ vọng trung bình ở trẻ em.
Thông qua đó, chỉ số giáo dục phản ánh khả năng có được nền giáo dục và đào tạo
căn bản, đảm bảo việc tiếp cận với kiến thức khoa học, xã hội cần thiết, có được
trình độ học vấn nhất định để phục vụ cho quá trình lao động và phát triển đời sống
cộng đồng. Do vậy, chỉ số giáo dục đã tác động trực tiếp tới sự phát triển của con
người ở góc độ tri thức, ảnh hướng tới thứ bậc của HDI và là nhân tố quan trọng
trong việc thúc đẩy quá trình phát triển của xã hội nói chung.
Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng về giáo dục và đào tạo
có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển bền vững trong dài hạn, nước ta đã quan tâm
chú ý tới đổi mới, tạo nhiều kết quả đột phá, đóng góp vào sự phát triển con người
nói riêng và đất nước nói chung, nhờ vậy, chỉ số HDI của Việt Nam cũng đã có
những bước tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên, nếu so với nhiều nước trên thế giới và các
nước trong khu vực Đông Nam Á, tốc độ tăng HDI của Việt Nam còn khá chậm.
Vấn đề đặt ra là chúng ta phải giải quyết được những bài toán hạn chế còn lại từ
14
các yếu tố thành phần ảnh hưởng trực tiếp đến HDI, và một trong số đó chính là
giáo dục - lĩnh vực có vai trò quan trọng của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, không chỉ
đem đến những cơ hội cho quá trình xây dựng nguồn lực con người, mà còn đòi
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH CHỈ SỐ GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2010 - 2016
I. Thành tựu về giáo dục Việt Nam cho việc tăng cao chỉ số phát triển giáo dục
Qua cách tính chỉ số giáo dục ở phần cơ sở lí luận, ta thấy yếu tố tác động
chính đến chỉ số giáo dục chính là số năm đi học kỳ vọng và số năm đi học bình
quân. Theo đó, số năm đi học bình quân được thể hiện qua 6 yếu tố: không được
giáo dục chính thức, không hoàn thành giáo dục tiểu học, hoàn thành giáo dục tiểu
học, giáo dục cấp trung học cơ sở, giáo dục cấp trung học phổ thông và giáo dục
Cao đẳng và Đại học. Tuy nhiên trong phân tích này, ta sẽ chỉ tập trung đi vào tìm
hiểu ở cấp giáo dục phổ thông (Tiểu học, THCS & THPT).
Theo số liệu của UNDP, từ năm 1980 – 2015, chỉ số phát triển của Việt Nam
đã tăng từ 0.381 lên 0.617. Sau đây, ta sẽ đi vào phân tích thành tựu hay những ưu
điểm của chỉ số giáo dục ở Việt Nam ở cấp Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học
phổ thông để tìm hiểu nguyên nhân nào dẫn đến sự gia tăng của chỉ số giáo dục
15
*Một số thành tựu lớn làm tăng chỉ số Giáo dục ở Việt Nam
Để giảm thiểu số người chưa được giáo dục chính thức. Chính phủ Việt Nam đã
lập ra kế hoạch EFA (Education for All ) từ năm 2003 – 2015 về chất lượng và số
lượng, độ tiếp cận và triển khai trên nhiều khu vực vùng miền và đạt được kết quả:
- Số năm đi học kỳ vọng tăng: năm 2010 là 12 năm, đến năm 2015 đạt 12.6
năm.
- Số năm đi học bình quân tăng: năm 2010 là 7.5 năm, đến năm 2015 đạt 8
năm.
Có thể thấy, chỉ trong khoảng 5 năm, Giáo dục Việt Nam đã đạt được những bước
tiến nhất định. Đằng sau đó là những tiến bộ, thành tựu mà giáo dục mỗi cấp đạt
được, góp phần làm tăng chỉ số giáo dục. Sau đây, ta sẽ phân tích thành tựu đạt
được trong 3 cấp học của giáo dục phổ thông: Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung
năm, 104.96% vào năm 2010 lên 109.97% vào năm 2016, chỉ giảm nhẹ vào năm
16
2015: từ 109.207% năm 2014 xuống 108.715% năm 2015. Ngoài ra tỷ lệ này còn
tăng khá đồng đều theo giới tính, năm 2010: tỷ lệ nhập học cấp tiểu học ở nữ là
là 109.828%.
Tỷ lệ nhập
106.83
học tiểu 104.96 106.374 107.384 109.207 108.715 109.97
1
học
Tỷ lệ nhập
107.57 106.67
học TH 108.794 108.745 109.893 109.131 109.828
9 7
(nam)
Tỷ lệ nhập
102.18 106.99
học TH 103.808 105.932 108.472 108.266 110.125
4 4
(nữ)
- Tỷ lệ học sinh hoàn thành cấp Tiểu học (trong độ tuổi tương ứng) trong giai đoạn
17
Vietnam's primary completion rate-
total (% of relevent age group)
90,712 90,715
90,256
89,797
Qua hình vẽ, ta có thể thấy tỷ lệ học sinh hoàn thành cấp Tiểu học tăng từ 90.256%
năm 2010 đến 90.715% năm 2013. Đây là một con số khá cao, bới nó có ý nghĩa
rằng tính đến năm 2013, cứ 10 trẻ nhập học cấp Tiểu học thì có đến 9 trẻ hoàn
thành cấp Tiểu học. Con số này cũng gián tiếp chỉ ra rằng tỷ lệ bỏ học cấp Tiểu
- Tỷ lệ giáo viên cấp Tiểu học đã qua đào tạo (% trên tổng số giáo viên Tiểu học)
cũng tăng.
Sự gia tăng này chính nhờ các chính sách đẩy mạnh, nâng cao trình độ cho giáo
viên các cấp bằng cách tổ chức các khóa học, huấn luyện để giúp giáo viên nắm
chắc chuyên môn và cung cấp dịch vụ tốt hơn cho học sinh. Vào năm 2010, tỷ lệ
18
giáo viên Tiểu học đã qua đào tạo đạt 98.335% trên tổng số giáo viên cùng cấp, tỷ
lệ này có xu hướng tăng đều, đỉnh điểm đạt 100% năm 2014, sau đó giảm dần do
có sự cắt giảm biên chế cũng như các quy định chặt chẽ hơn trong việc thi cử đã
khiến tỷ lệ này giảm xuống nhưng vẫn duy trì ở mức cao, đạt 99.774% năm 2016.
Năm 2011 là 77.816% đến năm 2016 đạt 87.558%. Ngoài ra, tỷ lệ này không
những tăng mà còn tăng đồng đều cho phân bổ theo giới tính. Đến năm 2016, tỷ lệ
hoàn thiện giáo dục cấp THCS của nữ là 89.979% còn của nam là 85.269%. Đây
được xem là một thành tựu to lớn đối với một đất nước Đông Á từng mang nặng
màu sắc phong kiến với quan điểm “trọng nam khinh nữ” như Việt Nam.
19
Số học sinh học lại ở các lớp thuộc cấp THCS giảm.
Repeater in lower-secondary
education
90918
67813
54652 54514
Theo thống kê của UNDP, từ năm 2011 – 2014, số học sinh học lại ở cấp lớp thuộc
khối THCS giảm nhiều. Năm 2011 có 90,918 học sinh học lại, đến năm 2014 chỉ
còn 54,514 học sinh học lại, chỉ chiếm 1.1% số học sinh nhập học cùng năm.
- Tỷ lệ giáo viên đã qua đào tạo ở cấp THCS ( % trên tổng số giáo viên cấp THCS)
tăng.
91.45
Từ mốc thời điểm ta xem xét là năm 2010, tỷ lệ này đã rất cao, đạt 99.06% và tiếp
tục tăng đến năm 2011, sau đó giảm liền 2 năm 2012 và 2013. Tuy nhiên, đến năm
20
2014, tỷ lệ này đạt 100% (theo số liệu của UNDP). Điều đó chứng tỏ giáo dục Việt
Nam đã có những chính sách, kế hoạch nhất định để đẩy cao chất lượng giảng dạy.
2011 – 2014.
3000000
2500000
2000000
1500000
1000000
500000
0
2010 2011 2012 2013 2014
Từ năm 2010 – 2014, số học sinh nhập học cấp THPT có giảm về số lượng do ở
giai đoạn này tốc độ gia tăng dân số ở Việt Nam cao hơn hẳn mọi năm trước. Tốc
độ gia tăng dân số đạt 1.1% (2010 – 2015) mà tốc độ phát triển kinh tế cũng như
các nguồn lực không đáp ứng kịp đã khiến tỷ lệ nhập học ở THPT giảm. Tuy nhiên
chỉ số này vẫn giữ được sự phân bổ đồng đều về giới tính, gần đạt ngưỡng 50%.
Hơn nữa, tuy giảm về số lượng nhưng theo thống kê của UNDP, trong giai đoạn
21
2008 – 2011, tổng tỷ lệ nhập học cấp THPT đạt 65%, chỉ kém 3% so với tỷ lệ này
Ngoài ra, các chỉ số học sinh/ lớp, học sinh/ giáo viên, giáo viên/ lớp cũng được
chú trọng xem xét. Tính đến năm 2016, tỷ lệ học sinh/lớp là 37.83, học sinh/giáo
viên là 16.07, giáo viên/lớp là 2.35, và vẫn duy trì được tỷ lệ này ở mức thấp tại
một số trường dân lập hoặc trường chuyên, trường đạt tiêu chuẩn quốc gia.
*Nguyên nhân dẫn đến những thành tựu trong giáo dục phổ thông
- Các chính sách khuyến học, trợ cấp học sinh nghèo vượt khó, dân tộc thiểu
- Phần trăm GDP giành để đầu tư cho giáo dục tăng lên: 4.604% năm 2010 –
- Việc đổi mới trong chương trình giảng dạy cũng như hình thức kiểm tra với
từng cấp. (VD: Loại bỏ các kỳ thi đối với học sinh cấp Tiểu học)
- Hợp tác với các trường ngoại quốc để học tập mô hình vận hành, giảng dạy
của họ cũng như để có những chương trình liên kết với các nước phát triển,
đưa học sinh Việt Nam sang giao lưu, học hỏi.
II. Các hạn chế trong việc nâng cao chỉ số giáo dục ở Việt Nam
Nhờ vào các chính sách hợp lý phổ cập giáo dục, Việt Nam đã có những thành tựu
đáng kể trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. Nhưng bên cạnh các
22
thành tựu cụ thể gặt hái được ở các cấp là một số hạn chế khác mà ta sẽ phân tích ở
dưới đây.
Theo bảng số liệu của World Bank, năm 2010 số trẻ em không đi học là 122755,
con số này có dấu hiệu giảm mạnh ở năm 2011, tuy sau đó có tăng nhưng vẫn
122755 119541
39698
23
Bên cạnh sự gia tăng về mặt tỷ lệ nhập học cấp trung học trong những thành tựu
nói trên thì tỷ lệ hoàn thành cấp trung học cơ sở lại có xu hướng đi xuống:
Năm 201
Tỷ lệ
hoàn
thành
THC
S 77,81 78,33 77,35 93,66 99,45 87,56
Theo số liệu kể trên, tỷ lệ hoàn thành cấp THCS biến động nhẹ trong các năm
2010, 2012, 2013, tăng mạnh vào các năm 2014, 2015. Trong năm 2015, tỷ lệ này
đạt mức gần như tuyệt đối. Tuy nhiên năm 2016 lại cho thấy sự suy giảm đến 13%.
24
Ngoài tỷ lệ hoàn thành THCS nói chung, ta còn thấy những biến động cụ thể hơn ở
2 giới:
Tỷ lệ biến động ở cả hai giới đã giải thích một phần cho sự sụt giảm mạnh ở tỷ lệ
hoàn thành cấp THCS nói chung. Trong đó, tỷ lệ nam hoàn thành cấp THCS giảm
Các hạn chế khi so sánh tương quan tổng quát giữa các cấp
25
Ngoài những mặt hạn chế ở riêng từng cấp, ta có một số điểm hạn chế khi so sánh
- Số học sinh tốt nghiệp cấp tiểu học không tiếp tục học lên cấp trung học
93.35 94.02
87.11
26
Primary completion rate, total (%)
106.08
104.75
103.99
102.53
101.85
99.12
Như ta thấy ở trên, tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học là 104% , tuy nhiên, số học sinh tiếp
tục theo học ở các cấp cao hơn đã giảm 6% theo số liệu năm 2015.
Hơn nữa, nhìn vào biểu đồ ta thấy, tỷ lệ học sinh theo học lên các cấp cao hơn
Bên cạnh sự suy giảm của tỷ lệ học sinh nhập học, tỷ lệ hoàn thành các cấp học
27
Primary completion rate, total (%)
106.08
104.75
103.99
102.53
101.85
99.12
Tỷ lệ hoàn thành cấp THPT là 50% trong năm 2016. So sánh với các cấp học khác
ở cùng mốc thời gian (THCS: 87.58%, TH: 104.757%), tỷ lệ hoàn thành chương
trình học ở các cấp giảm mạnh theo mỗi cấp học cao hơn.
Để giải thích cho những hạn chế này, ta có thể có một vài nguyên nhân cơ bản:
- Việt Nam đang trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, tạo ra cơ hội nhưng
đồng thời cũng thúc đẩy sự phân bố dân cư không hợp lý giữa thành thị nông
thôn, phân hóa giàu nghèo rõ rệt, gây bất lợi đối với việc đi học của học sinh
- Thiên tai bão lũ khiến điều kiện kinh tế và phương tiện đi lại khó khăn,
28
- Hoạch định chính sách chưa được tiếp cận đúng mức ở một số địa phương,
- Cơ sở vật chất và chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHỈ SỐ GIÁO DỤC TỪ ĐÓ
NÂNG CAO CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI CỦA VIỆT NAM
TRONG DÀI HẠN
Từ tất cả những phân tích ở trên ta đã làm rõ được rằng chỉ số giáo dục không chỉ
đơn thuần là một chỉ số tính vào trong chỉ số phát triển con người mà còn là chỉ số
liên quan trực tiếp tới vấn đề nhân lực quốc gia, cũng là chỉ số có tác động gián
tiếp nhưng mạnh mẽ và tự nhiên tới hai chỉ số còn lại là tuổi thọ và thu nhập. Vì
vậy ở phần này là những biện pháp nhằm cải thiện chỉ số giáo dục để gián tiếp cải
thiện chỉ số HDI ở Việt Nam trong thời gian tới, từ đó hướng tới sự phát triển bền
I. Quy định bắt buộc việc phổ cập giáo dục trên cả nước.
Việt Nam đạt được tiêu chuẩn quốc gia về tỷ lệ biết chữ năm 2000, với 94%
dân số từ 15 đến 35 tuổi biết chữ, so với con số hơn 95% dân số không biết đọc
biết viết năm 1945, khi đất nước mới giành độc lập. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục
29
và Đào tạo năm học 2015-2016, tỷ lệ biết chữ nước ta đã đạt 98,1 % trong nhóm
tuổi từ 15 đến 35 và 96,83 % trong nhóm tuổi từ 15 đến 60. Nhìn một cách tổng
thể, các số liệu trên đã thể hiện một bước tiến lớn trong chính sách cải thiện giáo
dục của nước ta. Tuy nhiên tỷ lệ xóa mù chữ vẫn chênh lệch nhiều giữa các khu
vực, vùng miền, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 44,8 % số người
mù chữ trên cả nước. Các thành phố trực thuộc trung ương, các tỉnh ven sông
Hồng và khu vực trung tâm miền Bắc là những địa phương đạt kết quả tốt nhất
trong công tác xoá mù. Tuy nhiên, vẫn còn những người thậm chí không biết viết
tên mình, chủ yếu là ở khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và các tỉnh lưu vực
sông MeKong. Họ chiếm 17,29 % dân số tỉnh Lai Châu, 17,79 % dân số tỉnh Hà
Giang, 6,38% dân số tỉnh Gia Lai, 5,17% dân số tỉnh Đak Lak, 8,44 % dân số tỉnh
Do đó biện pháp đề ra là nhà nước cần tăng cường công tác tuyên truyền và
lập quy định bắt buộc đi học ở các cấp tại tất cả các khu vực trong cả nước để
đạt mục tiêu phổ cập giáo dục hết cấp trung học cơ sở mới được công nhận xóa
mù chữ. Có thể lấy Nhật Bản là một ví dụ điển hình trong việc quy định bắt buộc
đi học với công dân. Với chính sách “Không để một trẻ em nào trong gia đình và
không để một gia đình nào trong cộng đồng không được giáo dục”, Nhật Bản
hướng đến sự bảo đảm phát triển hài hòa của trẻ em về mọi mặt từ trái tim, trí tuệ,
tình cảm, tinh thần, thái độ, hệ thống giá trị, nhân văn v.v và trở thành triết lý giáo
30
dục cơ bản của nước Nhật. Chế độ giáo dục bắt buộc ở Nhật Bản từ cấp tiểu học
tới cấp trung học, do đó mọi trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 15 đều phải đến trường.
Bậc tiểu học và trung học thuộc quy định giáo dục bắt buộc nên những gia đình
có con em mang quốc tịch Nhật bản, đủ tuổi đi học sẽ nhận được thông báo từ cơ
quan nhà nước quản lý trên địa bàn sinh sống và tiến hành các thủ tục như khám
sức khỏe….để chuẩn bị cho viê ̣c nhập học. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học ở Nhật là
90%. Sau đó 53,4% tỷ số này tiếp tục vào học ở các trường chuyên môn, cao đẳng
hay đại học. Do đó, Nhật Bản là một trong những nuớc có trình độ dân trí cao nhất
thế giới, tỉ lệ người không biết đọc biết viết gần như 0 và 72,5% số học sinh theo
học lên đến bậc đại học, cao đẳng và trung cấp, một con số ngang hàng với Mỹ và
vượt trội một số nước châu Âu. Điều này đã tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế và
công nghiệp của đất nước Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại.
So sánh sự tương đồng của Việt Nam và Nhật Bản. Ta có thể nhận thấy Việt
Nam và Nhật Bản đều là hai nước thuộc top 20 quốc gia đầu tư cho lĩnh vực giáo
dục nhiều nhất. So với các nước, trong khu vực, tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục
trên GDP của Việt Nam cao hơn hẳn nhiều nước, thậm chí so với các nước có trình
độ phát triển kinh tế cao hơn, chẳng hạn như Singapore (3,2% năm 2010),
Malaysia (5,1%), Thái Lan (3,8%), Hàn Quốc (5,2% năm 2011), Hồng Kông
(3,5%). Năm 2015, tổng nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) dành cho lĩnh vực
giáo dục, đào tạo là 224.826 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng chi NSNN. Chi
31
thường xuyên lĩnh vực giáo dục đào tạo năm 2015 là 184.070 tỷ đồng. Tuy nhiên
những thành tựu đạt được của Việt Nam lại thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản,
thậm chí thấp hơn cả những nước có mức đầu tư ít hơn cho giáo dục. Vậy nguyên
nhân là do đâu? Nguyên nhân chính ở đây là do việc quy định chấp hành nghĩa vụ
học tập là chưa rõ ràng, quyết liệt. Các địa phương khó khăn không phải không
được nhà nước quan tâm đầu tư nhưng trách nhiệm các địa phương thực hiện
nhiệm vụ của mình như thế nào để xứng đáng với mức đầu tư được hưởng đó thì
lại chưa được quản lí đúng mức, còn lỏng lẻo, hời hợt. Cần phải có chế tài xử lý
mạnh tay đi kèm thì mới có thể mang lại hiệu quả tốt nhất. Ban hành quy định phải
đi học, coi đó là quyền hạn và nghĩa vụ bắt buộc đối với công dân của đất nước.
Nhưng song song với đó là sự hỗ trợ, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn để chính
cán bộ quản lý đồng bộ, chất lượng; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đi
đôi với đẩy mạnh giáo dục mũi nhọn” là nội dung đột phá của ngành giai đoạn
2017-2020. Hiện tại, Sở Giáo dục và Đào tạo đã và đang thực hiện nhiều giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong toàn ngành, cụ thể như:
32
- Chỉ đạo, quán triệt thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của trung
ương và địa phương về GD&ĐT, đạo đức nhà giáo, nâng cao tinh thần, trách
nhiệm của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nhất là người đứng
đầu, cấp phó người đứng đầu trong nâng cao chất lượng giáo dục.
- Tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục. Thành lập Hội đồng bộ môn
cấp THPT với các thành viên là những cán bộ quản lý chuyên môn và giáo
viên cốt cán của các đơn vị, thực hiện nhiệm vụ tư vấn hỗ trợ các trường
trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ; chỉ đạo các phòng GD&ĐT thành
lập Hội đồng bộ môn cấp huyện. Tăng cường công tác kiểm tra chuyên môn
các cơ sở giáo dục để có giải pháp khắc phục, điều chỉnh kịp thời những tồn
- Chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với tình hình thực
tế của đơn vị; chỉ đạo giáo viên rà soát, điều chỉnh nội dung dạy học trong
chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo hướng tinh giản, tiếp cận
chương trình giáo dục phổ thông mới; thực hiện thường xuyên, hiệu quả các
phương pháp, hình thức tổ chức và kỹ thuật dạy học tích cực; đổi mới
phương pháp đánh giá học sinh. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý,
giáo viên trong công tác phụ đạo học sinh có học lực yếu, kém trên cơ sở
33
phân loại đối tượng học sinh; tăng cường bố trí dạy học 2 buổi/ngày hoặc
trên 6 buổi/tuần để dành thời gian phụ đạo, bồi dưỡng cho học sinh.
- Chỉ đạo thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn trong nhà trường như sinh
hoạt chuyên môn theo cụm trường, sử dụng trang mạng “truonghocketnoi”
để trao đổi chuyên môn; thực hiện nghiêm túc và có chất lượng các buổi
sinh hoạt chuyên môn theo chuyên đề; tổ chức dự giờ rút kinh nghiệm giờ
dạy,...
- Chỉ đạo thực hiện tốt công tác ôn thi THPT quốc gia cho học sinh lớp 12; rà
soát, bổ sung biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn cho giáo viên tham gia
ôn thi THPT quốc gia. Tổ chức kiểm tra học kỳ lớp 9 THCS, lớp 12 THPT
theo đề chung của Sở GD&ĐT, qua đó đánh giá mặt bằng chung của học
sinh trong toàn tỉnh để điều chỉnh quá trình dạy học của giáo viên ở các nhà
trường.
- Tổ chức khảo sát, đánh giá năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đội ngũ giáo
viên bậc phổ thông (năm 2016 đối với giáo viên THCS, THPT; năm 2017
đối với giáo viên Tiểu học). Căn cứ vào kết quả khảo sát, Sở GD&ĐT ban
hành văn bản chỉ đạo các đơn vị tăng cường bồi dưỡng năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, chỉ đạo giáo viên tăng cường công
tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Xây
34
dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở
giáo dục các bậc học trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2017-2020.
- Tổ chức biên soạn bộ tài liệu dành cho giáo viên cấp THCS và chỉ đạo các
đơn vị cung cấp đến từng giáo viên, để giáo viên tự bồi dưỡng; Sở cũng đã
tổ chức tập huấn cốt cán cho 268 giáo viên cấp THCS của các môn Toán,
Vật lý, Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, tiếng Anh.
- Đổi mới phương thức tuyển dụng, bố trí đội ngũ cán bộ, giáo viên nhằm đảm
bảo khách quan, công bằng, đánh giá đúng thực chất người dự tuyển, thu hút
người có năng lực, trình độ cao. Tổ chức khảo sát chuyên môn giáo viên xét
điều động thuyên chuyển về công tác tại trường THPT Chuyên năm học
2017-2018, đảm bảo khách quan, công bằng, đúng quy định; tiếp tục đổi
mới công tác đánh giá, phân loại cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên theo
hướng lấy chất lượng, hiệu quả công việc làm thước đo chính, nêu cao trách
nhiệm của người đứng đầu đơn vị trong thực hiện đánh giá hằng năm.
- Quan tâm chỉ đạo thực hiện kịp thời các chế độ chính sách đối với nhà giáo
và cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục; triển khai thực hiện tốt công tác thi
đua, khen thưởng nhằm kịp thời động viên khuyến khích nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục vượt khó vươn lên, không ngừng đổi mới sáng tạo hoàn
35
III. Giải pháp nâng cao cơ sở vật chất
Chất lượng học tập của học sinh từng cấp nói riêng và chất lượng của toàn
nền giáo dục nói chung không chỉ phụ thuộc vào nội dung chương trình đào tạo, hệ
thống giáo trình, sách tham khảo hay đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên giảng dạy
mà yếu tố cơ sở vật chất cũng có vai trò hết sức quan trọng. Một nhà trường có đầy
đủ các yếu tố nêu trên nhưng cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, không theo kịp sự
phát triển của xã hội thì sẽ không thể có được một chất lượng đào tạo tốt nhất. Do
đó, việc tăng cường và nâng cao hiệu quả sử dụng sử dụng cơ sở vật chất cũng
như các trang bị các phương tiện giảng dạy và học tập hiện đại trong trường
học sẽ góp phần đào tạo nên đội ngũ lao động có chất lượng, đáp ứng tốt yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong xu thế hội nhập hiện nay.
Đối với các nước có nền giáo dục tiên tiến, hàng đầu như Singapore, Nhật
Bản, Mỹ, Anh,... không chỉ có phương pháp học tập tư duy mới, chất lượng đội
ngũ giáo viên giỏi mà họ còn đầu tư nghiêm túc cho môi trường học tập của học
sinh. Từ khuôn viên trường học đến phòng học, ký túc xá, nhà ăn hay các trang
thiết bị, dụng cụ: máy chiếu, đồ thí nghiệm,.. tất cả đều cố gắng tốt nhất, đầy đủ,
hiện đại để mang lại cho học sinh hiệu quả học tập cao nhất.
Vì vậy, việc định hướng thực hiện nâng cao cơ sở vật chất là thực sự cần thiết.
Qua đó, nó giúp tăng tỷ lệ học sinh đi học trung bình và học sinh đi học dự kiến
36
dẫn đến tăng chỉ số giáo dục và góp phần vào sự thay đổi tích cực của chỉ số phát
*Tăng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, tăng mua sắm thiết bị, đồ
Hiện nay có một thực trạng đáng buồn rằng, cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ nhu
cầu giảng dạy và học tập của thầy cô, học sinh. Theo Bộ GD&ĐT, hiện nay:
- Cả nước có 28.177 cơ sở giáo dục phổ thông công lập, trong đó có 15.050
trường tiểu học, 10.697 trường trung học cơ sở, 2.430 trường trung học phổ
thông với gần 15 triệu học sinh. Tuy nhiên, số phòng học bộ môn, trang thiết
bị dạy học, thư viện hiện chưa đáp ứng được nhu cầu. Các cơ sở giáo dục
(đặc biệt ở các vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ) còn
nhiều phòng học bán kiên cố, phòng học tạm thời và phải đi thuê, mượn các
cơ sở bên ngoài.
- Cả nước hiện có 419.903 phòng học, trong đó, số phòng học kiên cố khoảng
323.551 phòng, đạt tỷ lệ 77,1% (Tiểu học 68,7%, Trung học cơ sở 85,7%,
Trung học phổ thông 93,9%). Về phòng học bộ môn, cấp Trung học cơ sở có
tỷ lệ 2,88 phòng/trường (trong đó, số phòng đáp ứng quy định đạt tỷ lệ
66,8%); cấp Trung học phổ thông có tỷ lệ 5 phòng/trường (số phòng đáp
37
ứng quy định đạt tỷ lệ 72,8%). Số lượng thiết bị phòng học bộ môn mới chỉ
- Về thiết bị ứng dụng công nghệ thông tin, trung bình ở cấp tiểu học 2,1
trường có 1 phòng máy; cấp trung học cơ sở 1,3 trường có 1 phòng máy và
cấp trung học phổ thông, mỗi trường có 1,9 phòng máy. Trong khi đó, để
đáp ứng được nhu cầu giảng dạy tối thiểu, tại cấp tiểu học và trung học cơ
sở, mỗi trường cần ít nhất 1 phòng máy; đối với cấp trung học phổ thông,
- Về thiết bị dạy học ngoại ngữ, trung bình tại cấp tiểu học có gần 1
bộ/trường, cấp trung học cơ sở có khoảng 4 bộ/trường và cấp trung học phổ
thông có khoảng 14 bộ/trường. Các thiết bị này chủ yếu là thiết bị cầm tay,
đơn chiếc, phục vụ việc giảng dạy của giáo viên, hệ thống thiết bị dạy ngoại
- Đặc biệt, với nhiều tỉnh miền núi và các vùng nông thôn, do hoàn cảnh kinh
tế xã hội chưa phát triển hay hạn chế giao thông, ngân sách có hạn nên việc
đầu tư cơ sở vật chất trường, lớp còn đầy bộn bề, chông gai. Những năm gần
đây, nguồn ngân sách để chi cho xây dựng cơ bản bị cắt giảm, ảnh hưởng
lớn đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng các trường học.
Bên cạnh đó, các chương trình như đầu tư kiên cố hóa trường học, chương
trình mục tiêu cho giáo dục ngày càng thu hẹp lại. Có thể thấy, vấn đề cơ sở
38
vật chất như phòng học, bàn ghế, ký túc xá không ổn định thì rất đáng lo
ngại, làm ảnh hưởng đến tâm lý học sinh và phụ huynh. Hơn nữa, nếu tình
trạng này không được khắc phục sớm sẽ dẫn đến rất nhiều những hệ lụy mà
Biên pháp đề ra là nhà nước nên tập trung nguồn lực để củng cố và tăng cường cơ
sở vật chất cho các cơ sở giáo dục, trang bị đầy đủ thiết bị, dụng cụ phục vụ tốt
nhất cho việc học và giảng dạy của thầy cô, học sinh, tiếp tục đầu tư xây dựng
trường học đạt chuẩn quốc gia gắn với các tiêu chí xây dựng nông thôn mới nhằm
tạo điều kiện chuyển biến mạnh chất lượng giáo dục toàn diện, tăng hiệu quả giáo
dục. Đặc biệt chú trọng đầu tư cho các trường học vùng dân tộc thiểu số, vùng cao,
*Điều chỉnh phân bổ đầu tư cho giáo dục một cách hiệu quả
Trong những năm gần đây, Việt Nam tích cực chi tiêu công cho giáo dục, đào
tạo và so với một số nước trong khu vực thì tỉ trọng chi tiêu công cho giáo dục trên
39
Tuy nhiên, việc phân bổ đầu tư cho giáo dục chưa thực sự hiệu quả.
Bảng trên cho thấy, tỷ lệ chi thường xuyên chiếm trên dưới 82% tổng chi
NSNN cho giáo dục, đào tạo. Trong chi thường xuyên, chi cho con người chiếm
80% tổng chi, còn lại chi cho hoạt động dạy học, nâng cao chất lượng giáo trình,
40
SGK. Chi đầu tư xây dựng cơ bản còn thấp so với nhu cầu nâng cao cơ sở trường
Do vậy, giải pháp đề ra là nhà nước cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho giáo
dục, đào tạo theo hướng tăng chi đầu tư phát triển, giảm chi thường xuyên, đầu tư
KẾT LUẬN
41
Sau khi đã nghiên cứu và phân tích về thực trạng, nguyên nhân của các thay đổi
xong xu thế phát triển của chỉ số giáo dục song song với chỉ số phát triển con
người (HDI) chúng tôi đã đề ra những biện pháp vừa là giải pháp được đúc kết từ
nguyên nhân, vừa là bài học từ các quốc gia khác, do đó chúng tôi tin nó có tính
khả thi cao trong thực tế. Bên cạnh đó, chũng ta vẫn phải công nhận rằng Việt Nam
đã có sự đầu tư cho giáo dục, tuy nhiên để có thể đạt được thành tựu bền vững hơn
chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa. Đó là cả một quá trình thực hiện sâu rộng
các chính sách hợp lý, mặt khác đề ra những giải pháp khắc phục điều chỉnh các
chính sách chưa hợp lý một cách kịp thời. Và quan trọng hơn mỗi người cần phải ý
thức được rằng xây dựng nền giáo dục nước nhà thành một nền giáo dục tiên tiế
cũng như phát triển một con người không phải là chuyện cá nhân mà là sự hỗ trợ
của cả cộng đồng. Nhận thức được ý nghĩa đó, nhóm chúng em mạnh dạn lựa chọn
đề tài này. Hy vọng có thể đóng góp vài ý kiến quan điểm của mình cho sự phát
triển của nền giáo dục nước nhà nói riêng và sự phát triển của con người nói
chung.
42