You are on page 1of 63

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN.........................................................1

1.1 Khái niệm bảo hiểm.................................................................1

1.2. Bảo hiểm xã hội.......................................................................5

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG.............................................................13

2.1 Quá trình phát triểncủa BHXH Việt Nam..................................13

2.2 Những thành tựu đạt được và khó khăn của BHXH Việt Nam
hiện nay.................................................................................................20

2.3 Quy định về chế dộ thai sản ở Việt Nam..............................25

2.4 Thủ tục, hồ sơ hưởng chế đột hai sản.......................................35

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP...................................................................38

3.1 Định hướng.....................................................................................38

3.2 Giải pháp..........................................................................................39

3.3 Kiến nghị............................................................................44


LỜI MỞ ĐẦU

Như chúng ta đã biết, kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, Việt Nam bước sang một thời kỳ phát triển mới. Sự chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành tựu kinh tế xã hội
to lớn cho đất nước. Nhiều lĩnh vực kinh tế được đẩy mạnh, đời sống
nhân dân cũng ngày càng được nâng cao. Chính vì vậy, BHXH đã ra đời
để bảo vệ cuộc sống “ Của dân, do dân và vì dân” lý tưởng của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Trong quá trình phát triển đó, bảo hiểm đã và đang chứng minh
được vai trò tích cực của mình đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
nói riêng cũng như với cuộc sống nói chung. Đồng thời, bảo hiểm cũng
đã trở thành một ngành kinh doanh giàu tiềm năng phát triển, thu hút rất
nhiều lao động. Ngành bảo hiểm nước ta mới thực sự bắt đầu phát
triển từ
cách đây khoảng hơn 20 năm khi thế độc quyền kinh doanh
bảo hiểm được xoá bỏ
theo nghị định 100 CP được Chính phủ ban
hành ngày 18/12/1993. Kể từ đó đến nay, ngành bảo hiểm đã có những
bước tiến đáng kể và nếu được phát triển đúng hướng, ngành sẽ góp
phần rất tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước trong thế kỷ mới. Việc tìm hiểu thực trạng tình hình kinh doanh
bảo hiểm ở Việt Nam để từ đó, đưa ra được những giải pháp nhằm
phát triển ngành bảo hiểm trong giai đoạn tới là rất cần thiết.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, với đề tài tiểu luận nhóm “ Phân
tích thực trạng hoạt động Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay –
Nêu và lấy ví dụ, phân tích một số trường hợp của Bảo hiểm Thai sản
”, chúng em đã cố gắng suy xét, phân tích các vấn đề có liên quan, tìm

kiếm, học hỏi các kiến thức, tài liệu tham khảo để tiểu luận phục vụ
học tập. cho ra sản phẩm
Do thời gian nghiên cứu và năng lực sinh viên còn mới, còn bỡ
ngỡ, lại là nhóm hoàn thành bài tiểu luận để trình bày đầu tiên trước
lớp, nên bài tiểu luận nhóm không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Nhóm chúng em mong nhận được những góp ý chân thành từ phía cô
giáo và toàn thể các bạn sinh viên lớp để bài tiểu luận nhóm được hoàn
thiện.

Xin chân thành cảm ơn!


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Khái niệm bảo hiểm

1.1.1 Nguồn gốc của bảo hiểm


Ngày nay, bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh phát triển rất
mạnh, với tốc độ tăng trưởng trung bình khá cao. Đặc biệt, ở một số nước
trên thế
giới, bảo hiểm đã trở thành một phần không thể thiếu trong kinh
doanh cũng như trong cuộc sống nói chung. Vậy bảo hiểm có nguồn gốc như
thế nào?
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có
được câu trả lời chính xác. ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ
khá lâu, khi mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc
lúa dự trữ chung phòng khi mất mùa, chiến tranh… Như vậy, ngay từ xa xưa,
con người đã có ý thức về những bất trắc có thể xảy đến với mình, và tìm
cách phòng tránh chúng.
Ý tưởng về sự rủi ro được hình thành một cách rõ nét vào khoảng thế kỷ
XV, khi châu Âu mở những cuộc thám hiểm, khai phá tới các miền đất ở châu
á, châu Mỹ. Nhu cầu giao thương giữa các châu lục trở nên mạnh mẽ, ngành
hàng hải ngày càng phát triển. Những đội tàu buôn lớn ra đi, và trở về với sự
giàu có từ nguồn hàng dồi dào, hấp dẫn từ những miền đất mới. Tuy nhiên,
đồng hành với đó cũng là những trường hợp rủi ro không quay về được do
nhiều nguyên nhân như: dông bão, lạc đường, cướp biển… Những nhà đầu
tư cho những chuyến đi mạo hiểm như vậy đã cảm thấy sự cần thiết phải
cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng một số người bị mất trắng khoản
đầu tư của mình do một hiện tượng ngẫu nhiên khiến tàu của họ bị thiệt hại
hoặc
mất tích. Để thực hiện điều này, người ta có hai lựa chọn: thành lập liên

1
doanh để cùng “lời ăn, lỗ chịu”, hoặc tham gia bảo hiểm. ở trường hợp thứ

2
hai, một số cá nhân hay công ty sẽ nhận được phí bảo hiểm bằng tiền mặt,
đổi lại là lời cam kết sẽ trả một khoản bồi thường cho chủ tàu trong trường
hợp tàu bị mất tích. Những người bảo hiểm đã tạo ra một quỹ chung mà họ
cam kết sử dụng để thanh toán cho người được bảo hiểm khi rủi ro xảy ra.
Vào thời kỳ đầu, khi tổn thất xảy ra, người nhận bảo hiểm phải bán
một số tài sản, hoặc rút tiền từ tài khoản ngân hàng để thanh toán cho người
được bảo hiểm. Tuy nhiên, một số nhà kinh doanh đã nhanh chóng nhận ra
rằng rất nhiều thành viên của cộng đồng không muốn nhận bảo hiểm cho
những rủi ro lớn như vậy. Và khái niệm góp vốn chung đã dược hình thành
cùng với việc kêu gọi mọi người mua cổ phần của các công ty bảo hiểm. Chỉ
cần các khai thác viên chuyên nghiệp tính toán một cách đầy đủ, chính xác
trong việc lựa chọn rủi ro để bảo hiểm và số phí bảo hiểm phải đóng cho
mỗi loại rủi ro cụ thể thì quỹ này sẽ luôn có khả năng bồi thường tổn thất
cho người được bảo hiểm nếu xảy ra rủi ro. Đồng thời, các cổ đông cũng
vẫn có lãi cổ phần ở mức đủ để họ hài lòng với việc đầu tư của mình.
Bảo hiểm hình thành do
tồn tại các loại rủi ro và sự đòi hỏi con
sự
người phải có những biện pháp đề phòng, ngăn chặn việc xảy ra rủi ro, đồng
thời, khắc phục, hạn chế những hậu quả của rủi ro. Bắt đầu từ bảo hiểm
hàng hải, rồi tới những loại bảo hiểm khác như
bảo hiểm hoả hoạn, bảo
hiểm nhân thọ…, bảo hiểm ngày nay đã phát triển nhanh chóng trên nhiều
mặt và dần dần đóng vai trò rất quan trọng đối với con người.

1.1.2 Bản chất của bảo hiểm

Bằng sự đóng góp của số đông người vào một quĩ chung, khi có rủi ro,
quĩ sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Mỗi
cá nhân hay đơn vị chỉ cần đóng góp một khoản tiền trích từ thu nhập cho các
công ty bảo hiểm. Khi tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nào đó, nếu gặp tổn
thất do rủi ro được bảo hiểm gây ra, người được bảo hiểm sẽ được bồi
thường. Khoản tiền bồi thường này được lấy từ số phí mà tất những
cả
người tham gia bảo hiểm đã nộp. Tất nhiên, chỉ
có một số người tham gia
bảo hiểm gặp tổn thất, còn những người không gặp tổn thất sẽ mất không
số phí bảo hiểm. Như vậy, có thể thấy, thực chất của bảo hiểm là việc phân
chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia
bảo hiểm cùng chịu. Do đó, một nghiệp vụ bảo hiểm muốn tiến hành được
phải có nhiều người tham gia, tức là, bảo hiểm chỉ hoạt động được trên cơ sở
luật số đông, càng nhiều người tham gia thì xác suất xảy ra rủi ro đối với mỗi
người càng nhỏ và bảo hiểm càng có lãi.
Với hình thức số đông bù cho số ít người bị thiệt hại, tổ chức bảo hiểm
sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế của từng cá nhân hay đơn vị khi gặp rủi
ro, tiết kiệm được nguồn chi cho ngân sách nhà nước. Như vậy, thực chất
mối quan hệ trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ giữa người
bảo hiểm và người được bảo hiểm, mà suy rộng ra, nó là tổng thể các mối
quan hệ giữa những người được bảo hiểm trong cộng đồng xoay quanh việc
hình thành và sử dụng quĩ sbảo hiểm. Quĩ bảo hiểm được tạo lập thông qua
việc huy động phí bảo hiểm, số người tham gia càng đông thì quĩ càng lớn.
Quĩ được sử dụng trước hết và yếu là bù đắp những tổn thất cho
chủ để
người được bảo hiểm, không làm ảnh hưởng đến sự liên tục của đời sống xã
hội và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Ngoài ra, quĩ còn
được dùng để trang trải chi phí, tạo nên nguồn vốn đầu tư cho xã hội. Bảo
hiểm thực chất là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hình thái giá trị, nhằm hình thành và sử
dụng quĩ bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn thất do rủi ro bất ngờ xảy ra với
người được bảo hiểm, đảm bảo quá trình tái sản xuất được thường xuyên,
liên tục.
1.1.3 Định nghĩa
Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời,
nhưng do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một
định nghĩa đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành
một quĩ tiền tệ (quĩ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủi ro và phải bao gồm cả sự
kết hợp số đông các đơn vị đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro
như nhau tạo thành một nhóm tương tác.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm. Theo Dennis Kessler,
"bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít." Còn theo
Monique Gaullier, "bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người
được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện
mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra
rủi ro nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên
sẽ
khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn
bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê."
Các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc quá thiên về
góc độ kinh tế, kĩ thuật, ít nhiều cũng còn thiếu sót, chưa phải là một khái
niệm bao quát, hoàn chỉnh. Nói một cách chính xác, bảo hiểm là một dịch vụ
tài chính, dựa trên cơ sở tính toán khoa học, áp dụng biện pháp huy động
nhiều người, nhiều đơn vị cùng tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm bằng tiền
để bồi thường thiệt hại về tài chính do tài sản hoặc tính mạng của người
được bảo hiểm gặp phải tai nạn rủi ro bất ngờ. Tập đoàn bảo hiểm AIG
(Mỹ) định nghĩa: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một
doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm,
công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm
vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo
hiểm”.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (ban hành ngày
09/12/2000) thì “kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo
hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi
ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo
hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người hưởng
thụ
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm."
Như vậy, để có một khái niệm chung nhất về bảo hiểm, chúng ta có thể
đưa ra định nghĩa: “Bảo hiểm là một sự cam kết bồi thường của người bảo
hiểm với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối tượng
bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận gây ra, với điều kiện người được bảo
hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền
gọi là phí bảo hiểm”.

1.2. Bảo hiểm xã hội

1.2.1 Định nghĩa về bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một phần của bảo hiểm khi phân theo cơ
chế hoạt động. Tuy đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chua có
định nghĩa thống nhất về BHXH. Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế
định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp của mình, đóng góp từ
người sử dụng lao động(nếu có) và được tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm
trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và gia đình họ trong
trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao
động hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc người lao động
bị chết. Dưới giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài
chính giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp
luật. Gần đây, một số quan điểm cho rằng: BHXH là sự đảm bảo hoặc bù
đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ mất khả năng lao động
hoặc bị mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập
trung do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo
an toàn xã hội….

1.2.2 Sự ra đời và phát triển của BHXH

Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm
và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới.BHXH là một
trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia, thể hiện trình
độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế cũng như khả năng quản lý của
quốc gia đó.BHXH xuất hiện năm 1850 do thủ tướng Bismach của nước phổ
(nay là CHLB Đức) đã thiết lập ở nước này.Mới đầu chỉ có giới thợ tham gia
và chỉ có bảo hiểm ốm đau, sau đó thu hút mọi tầng lớp xã hội và mở rộng ra
đối với các trường hợp khác.Luật bảo hiểm y tế được ban hành vào năm
1883. Và năm 1884 ban hành luật bảo hiểm về rủi ro nghề nghiệp do hiệp
hội giới chủ quản lý. Năm 1889, chính phủ Đức ban hành thêm bảo hiểm tuổi
già và bảo hiểm tàn tật do chính quyền các bang quản lý.Đến thời điểm này
BHXH đã có bước phát triển mới: cơ chế đóng góp cả ba bên được thực
hiện,
không có người lao động mà cả giới chủ và Nhà nước cũng phải thực
chỉ
hiện nghĩa vụ đóng góp.

Mô hình này ở Đức đã lan dần ra châu Âu vào đầu thế kỷ XX, sau đó
sang các nước Mỹ la tinh, rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của
thế kỷ XX.Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước
giành được độc lập ở châu A, châu Phi và vùng Caribê trong nửa cuối thế kỷ
XX. Như vậy cùng với sự phát triển của xã hội, BHXH trở thành một trong
những quyền cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận.

So với các loại hình bảo hiểm khác, đối tượng, chức năng và tính chất
của BHXH có những điểm khác biệt. BHXH có một số đặc điểm: có tính
chất bắt buộc; hoạt động theo những luật lệ quy định chung; không tính đến
những rủi ro cụ thể; không nhằm mục đích kinh doanh... Quỹ BHXH là quỹ
tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước, hình thành chủ
yếu từ các nguồn đóng góp hay ủng hộ của người lao động, người sử dụng
lao động, nhà nước, các tổ chức, cá nhân từ thiện...)
1.2.3 Các chế độ bảo hiểm xã hội tại Việt
Nam Chế độ ốm đau
Khi bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc (có xác nhận của cơ sở y tế)
hoặc có con dưới 7 tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con (có xác
nhận của cơ sở y tế) thì người lao động được hưởng chế độ ốm đau như sau:
- Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày, nếu đã đóng
BHXH dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60
ngày nếu đã đóng từ 30 năm lên; - Làm nghề hoặc công việc nặng
đủ trở
nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội và Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp
khu vực hệ từ 0,7 trở lên thì được hưởng 40 ngày nếu đã đóng BHXH
số
dưới 15 năm; 50 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 70 ngày
nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau
trong một năm được tính theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc
nếu con dưới 3 tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 3 tuổi đến dưới
7 tuổi. Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại 2 trường
hợp đầu mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của
tháng liền kề trước khi nghỉ việc.
Chế độ thai sản
Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các
trường hợp sau đây: Lao động nữ mang thai; lao động nữ sinh con; người lao
động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi; người lao động đặt vòng tránh
thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. Người lao động thuộc 2 trường hợp
cuối phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi
sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. Trong thời gian mang thai, lao động nữ
được nghỉ việc để đi khám thai năm lần, mỗi lần một ngày; trường hợp ở xa
cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì
được nghỉ hai ngày cho mỗi lần khám thai. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ
thai sản quy định tại Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ
hằng tuần. + 4 tháng, nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động
bình thường
+ 5 tháng, nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Y
tế ban hành; làm việc theo chế độ ba ca; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ
cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân;
+ 6 tháng đối với lao động nữ là người tàn tật theo quy định của pháp
luật về người tàn tật + Trường hợp sinh đôi trở lên, ngoài thời gian nghỉ việc
quy định thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con được nghỉ thêm 30 ngày.
Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi: Lao động nữ sinh con
hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì được trợ cấp 1
lần bằng 2 tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con. Lao động nữ đi làm
trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con: Lao động nữ có thể đi làm trước khi hết
thời hạn nghỉ sinh con khi có đủ các điều kiện sau đây: sau khi sinh con từ đủ
60 ngày trở lên; có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi làm sớm không có hại
cho sức khoẻ của người lao động; phải báo trước và được người sử dụng lao
động đồng ý. Ngoài tiền lương, tiền công của những ngày làm việc, lao động
nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai
sản cho đến khi hết thời hạn quy định.
Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều
kiện sau đây: Bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, ngoài nơi làm
việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người
sử dụng lao động, trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong
khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý; suy giảm khả năng lao động từ 5%
trở lên do bị tai nạn. Trợ cấp một lần: Người lao động bị suy giảm khả năng
lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một
lần được quy định sau: + Suy giảm 5% khả năng lao động thì được
như
hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được
hưởng thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung; + Ngoài mức trợ cấp quy định,
còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ một
năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng
BHXH được tính thêm 0,3 tháng tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng
liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị. Trợ cấp hằng tháng: Người lao động
bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng
tháng. Mức trợ cấp hằng tháng được quy định như sau: + Suy giảm 31% khả
năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó
cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung; +
Ngoài mức trợ cấp quy định, hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ
cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ một năm trở xuống được tính bằng
0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3% mức tiền
lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều
trị.
Chế độ hưu trí
Người lao động có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên được hưởng lương
hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55
tuổi; nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có
đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc
danh mục do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành
hoặc có đủ 15 làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. Tuổi đời
được hưởng lương hưu trong một số trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ
quy định. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy
định tại Điều 50 của Luật này được tính bằng 45% mức bình quân
tiền
lương, tiền công tháng đóng BHXH quy định tương ứng với 15 năm đóng
BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với nam và
3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. Sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi
quy định thì giảm 1%. Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức lương
tối thiểu chung. Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu: + Người lao động đã đóng
BHXH trên 30 năm đối với nam, trên 25 năm đối với nữ, khi nghỉ hưu, ngoài
lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần. + Mức trợ cấp một lần được
tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ
26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng
mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH.
Chế độ tử tuất
Các đối tượng sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp
mai táng: Người lao động đang đóng BHXH; người lao động đang bảo lưu
thời gian đóng BHXH; người đang hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng đã nghỉ việc. Trợ cấp mai táng bằng
10 tháng lương tối thiểu chung. Các đối tượng thuộc một trong các trường
hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng: Đã đóng
BHXH đủ 15 năm lên nhưng chưa hưởng BHXH một lần; đang hưởng
trở
lương hưu; chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; đang hưởng trợ cấp
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng với mức suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên. Thân nhân của các đối tượng được hưởng trợ cấp
tuất hằng tháng, bao gồm: Con chưa đủ 15 tuổi, con chưa đủ 18 tuổi nếu còn
đi học, con từ đủ 15 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81%
trở lên; vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 trở lên hoặc vợ dưới 55
tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác
mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ 60 lên đối với
trở
nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng,
mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi

dưỡng nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm
khả năng lao động từ 81% trở lên. Ngoài trường hợp đầu, 3 trường sau phải
không có thu nhập hoặc có thu nhập hằng tháng nhưng thấp hơn mức lương
tối thiểu chung. Mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng
50% mức lương tối thiểu chung; trường hợp thân nhân không có người trực
tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng 70% mức lương tối
thiểu chung. Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người lao động
đang làm việc hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được
tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình
quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH; mức thấp nhất bằng 3 tháng
mức bình quân tiền lương, tiền công tháng. Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với
thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời gian đã
hưởng lương hưu, nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng
48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng
thêm 1 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu, mức
thấp nhất bằng 3 tháng lương hưu đang hưởng.
BHXH tự nguyện
a. Chế độ hưu trí Người lao động hưởng lương hưu khi có đủ các
điều kiện sau đây: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; đủ 20 năm đóng BHXH trở
lên. Trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng BHXH
còn thiếu không quá 5 năm so với thời gian quy định thì được đóng tiếp cho
đến khi đủ 20 năm. Mức lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức
bình quân thu nhập tháng đóng BHXH, tương ứng với 15 năm đóng BHXH,
sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì được tính thêm 2% đối với nam và
3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. Người lao động đã đóng BHXH trên
30 đối với nam, trên 25 năm đối với nữ, khi nghỉ hưu, ngoài lương hưu còn
được hưởng trợ cấp 1 lần. Mức trợ cấp 1 lần được tính theo số năm đóng
BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ.
Cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu
nhập tháng đóng BHXH.
b. Chế độ tử tuất Các đối tượng sau đây khi chết thì người lo mai táng
được nhận trợ cấp mai táng: Người lao động đã có ít nhất năm năm đóng bảo
hiểm xã hội, người đang hưởng lương hưu; Trợ cấp mai táng bằng mười
tháng lương tối thiểu chung; trường hợp đối tượng quy định tại khoản 1 Điều
này bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp quy định.
Người lao động đang đóng BHXH, người lao động đang bảo lưu thời gian
đóng BHXH, người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được
hưởng trợ cấp tuất một lần. + Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của
người lao động đang đóng hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng
BHXH được tính theo
năm đã đóng BHXH, mỗi năm tính bằng 1,5
số
cứ
tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. + Mức trợ cấp tuất 1 lần
đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời
gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu thì
tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó,
cứ hưởng thêm 1 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương
hưu.
Bảo hiểm thất nghiệp
Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các
điều kiện sau đây: Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong
thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp; đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức
BHXH; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp.
Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương,
tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất
nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định như sau:
+ 3 tháng, nếu có từ đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp;
+ 6 tháng, nếu có từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp;
+ 9 tháng, nếu có từ đủ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp;
+ 12 tháng, nếu có từ đủ 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên.
Chế độ BHYT
Người tham gia BHYT được hưởng các quyền lợi khám chữa bệnh như
sau: Khám bệnh, chẩn đoán và điều trị Xét nghiệm, chiếu chụp Xquang, thăm
dò chức năng Thuốc trong danh mục theo quy định của Bộ Y tế Máu, các chế
phẩm màu và dịch truyền Các thủ thuật, phẫu thuật Sử dụng vật tư, thiết bị
y tế và giường bệnh Trong trường hợp bệnh vượt quá khả năng
chuyên môn của cơ sở khám chữa bệnh, người có thẻ BHYT được chuyển
viện lên tuyến kỹ thuật cao hơn 2. Người tham gia BHYT được chọn nơi
đăng ký khám chữa bệnh ban đầu Khi bệnh nặng được chuyển lên tuyến trên
điều trị theo tuyến chuyên môn kỹ thuật do Bộ Y tế quy định. Trong trường
hợp cấp cứu được khám chữa bệnh tại bất cứ cơ sở y tế nào của Nhà nước.
3. Người tham gia BHYT được khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng Tự chọn
thầy thuốc, tự chọn buồng bệnh, tự chọn cơ sở khám chữa bệnh, tự chọn các
dịch vụ y tế, khám chữa bệnh vượt tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định
của Bộ Y tế, khám chữa bệnh tại các cơ sở khám chữa bệnh không có hợp
đồng với cơ quan BHXH (trừ trường hợp cấp cứu) thì người tham gia BHYT
phải thanh toán trước viện phí cho cơ sở khám chữa bệnh, cơ quan BHXH chỉ
thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo quy định của Bộ Y tế. Phần chênh
lệch tăng thêm (nếu có) do người có thẻ BHYT tự trả cho cơ sở khám chữa
bệnh.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Quá trình phát triển của BHXH Việt Nam

2.1.1 Giai đoạn trước khi có Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội
(trước 1961):

BHXH bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam những năm 1930 thời Pháp
từ
thuộc.Đây là chế
độ trợ cấp cho chính quyền thuộc địa thực hiện đối với
quân nhân và viên chức Việt Nam làm việc trong bộ máy hành chính và lực
lượng vũ trang của Pháp ở Đông Dương khi bị ốm đau, già yếu hoặc chết.
Tuy nhiên, đối với công nhân Việt Nam, gần như chính quyền Pháp phủ nhận
quyền lợi BHXH của họ. Điển hình là các công nhân Việt Nam làm việc trong
các đồn điền, các nhà máy…bị ốm đau bệnh tật hay chết đều không được
hưởng chế độ chữa bệnh mai táng…

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
được thành lập, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ
đã luôn chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và riêng
đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Ngoài việc ban hành chế độ tiền
lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội mà thực
chất là các chế độ BHXH như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ
cấp già yếu, trợ cấp cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và
xây dựng các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ...Về mặt luật
pháp được thể hiện trong các văn bản sau:
- Sắc lệnh số 54/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công
chức.

- Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 của Chính phủ.


- Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về các quy chế hưu
trí, thai sản, chế độ chăm sóc y tế, tai nạn tử tuất của công viên chức.

- Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ ấn định cụ thể các
chế độ ốm đau thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân.

Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy
định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy
nhiên, các chế độ trợ cấp, phụ cấp mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai
đoạn đầu thành lập nước, trong kháng chiến và những năm đầu hoà bình lập
lại đã có tác dụng rất to lớn, giải quyết một phần những khó khăn trong sinh
hoạt của công nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm lòng tin
của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi
đẩy mạnh công tác, sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế
Nhà nước.

2.1.2 Giai đoạn thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời (từ
1961 đến 12/1994):
Để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu
không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nước, các chế
độ trợ cấp xã hội cần được bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại
Điều 32 Hiến pháp năm 1959 quy định rõ: quyền của người lao động được
giúp đỡ về vật chất khi già yếu, mất sức lao động, bệnh tật. Năm 1960 Hội
đồng Chính phủ có Nghị quyết trong đó đã xác định “đi đôi với việc cải tiến
chế độ tiền lương, cần cải tiến và ban hành các chính sách cụ thể về bảo
hiểm xã hội và phúc lợi cho công nhân viên chức, cán bộ”. Thực hiện Nghị
quyết trên, các Bộ
Lao động, Bộ Nội vụ, Tài chính, Bộ Y tế và Tổng
Bộ
Công đoàn Việt Nam đã phối hợp nghiên cứu xây dựng Điều lệ tạm thời về
bảo hiểm xã hội trình Hội đồng Chính phủ ban hành. Ngày 14/12/1961 Uỷ
ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ đã ra Nghị định số 218/CP
ngày 27/12/1961 ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm
xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước. Nội dung của Điều lệ
được
tóm tắt như sau:
- Về đối tượng áp dụng là: công nhân viên chức Nhà nước ở các cơ
quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, cán bộ, công nhân trong các đoàn
thể nhân dân; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công tư hợp doanh đã
áp dụng chế độ trả lương như xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức
trong các xí nghiệp công nghiệp địa phương đã có kế hoạch lao động, tiền
lương ghi trong kế hoạch Nhà nước.

- Về điều kiện và mức đãi ngộ: căn cứ vào sự cống hiến thời gian công
tác, điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động và trợ cấp bảo hiểm xã
hội nhìn chung thấp hơn tiền lương và thấp nhất cũng bằng mức sinh hoạt
phí tối thiểu.

- Về các chế độ được quy định bao gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; từng
chế độ có quy định cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng...

- Về nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cấp: do quỹ bảo hiểm xã hội của
Nhà nước đài thọ từ Ngân sách Nhà nước.

- Về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội: Nhà nước thành lập quỹ bảo hiểm xã
hội là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước và giao cho Tổng Công đoàn
Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý toàn bộ quỹ
này (sau này giao cho ngành Lao động Thương binh và Xã hội quản lý quỹ
hưu trí và tử tuất).

Đây là Điều lệ tạm thời nhưng đã quy định đầy đủ 6 chế độ bảo hiểm
xã hội, các chế độ này chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động
nhằm khuyến khích mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản
xuất và góp phần ổn định lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc
dân. Nghị định 218/CP được coi là văn bản gốc của chính sách BHXH và nó
được thực hiện trong hơn 30 năm. Tuy nhiên để phù hợp và đáp ứng với tình
hình của đất nước trong từng giai đoạn, nội dung của các quy định trong
Điều lệ tạm thời đã qua 8 lần sửa đổi bổ sung với 233 văn bản hướng dẫn
thực hiện. Đặc biệt là tại Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về sửa đổi, bổ sung một số chế độ chính
sách thương binh và xã hội khi Nhà nước thực hiện điều chỉnh giá lương –
tiền..

2.1.3 Thời kỳ từ 1/1995 đến trước hội nhập WTO

Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 với chủ trương đổi mới quản lý Nhà
nước từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN, chính sách bảo hiểm xã hội cũng được xem
xét, nghiên cứu thay đổi sao cho phù hợp không những so với tình hình đổi
mới kinh tế của đất nước mà dần hoà nhập với những quy định, những
nguyên tắc của bảo hiểm xã hội thế giới và nhất là các nước trong nền kinh
tế chuyển đổi.

Từ năm 1995, thi hành những quy định trong Bộ Luật lao động về bảo
hiểm xã hội, Chính phủ đã ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị
định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng
đối với công chức, công nhân viên chức Nhà nước, người lao động theo loại
hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ
quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ
bảo hiểm xã hội này đã đã được đổi mới cơ bản và khắc phục được những
nhược điểm, tồn tại mà Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời ban hành những
năm trước đây, đó là:

- Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao
động trong khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia
bảo hiểm xã hội.

- Đ cập đến vấn đề bảo hiểm xã hội tự nguyện và vấn đề tham gia

đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, người lao
động và hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội.

- Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, tập trung trong cả
nước, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước
bảo trợ, cơ chế quản lý tài chính được thực hiện theo quy định của Nhà nước.

- Về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ
cấp mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định
chung trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế
độ có quy định cụ thể hơn về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng.

- Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội được cấp sổ bảo hiểm xã
hội, sổ bảo hiểm xã hội ghi chép, phản ánh quá trình tham gia bảo hiểm xã
hội, mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các chế độ bảo
hiểm xã hội đã được hưởng.
- Đối với lực lượng vũ trang cũng đã có quy định riêng về bảo hiểm xã
hội (Nghị định số 45/CP của Chính phủ).

- Tài chính bảo hiểm xã hội được đổi mới cơ bản, tập trung ở những nội
dung chủ yếu sau:

+ Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của
người sử
dụng lao động và người lao động là chính, Nhà nước hỗ trợ cho
nguồn Quỹ
bảo hiểm xã hội là thứ yếu khi cần thiết. Mức đóng góp hàng
tháng được quy định bắt buộc thuộc trách nhiệm của cả người lao động và
người sử dụng lao động. Với quy định về mức đóng góp rõ ràng đã làm cho
người lao động và người sử dụng lao động thấy được quyền lợi và nghĩa vụ
của mình trong việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội.

+ Quỹ bảo hiểm xã hội được tách khỏi ngân sách Nhà nước, hạch toán
độc lập; quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và
tăng trưởng. Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo thu đủ để chi và có phần kết dư,
bảo đảm tính chất của bảo hiểm xã hội đoàn kết, tương trợ giữa tập thể
người lao động và giữa các thế hệ, đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện
chính sách bảo hiểm xã hội luôn được ổn định lâu dài. Như vậy, từ năm 1995
chính sách bảo hiểm xã hội đã gắn quyền lợi hưởng bảo hiểm xã hội với
trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động, xác định rõ trách
nhiệm của người sử dụng lao động, tạo được Quỹ bảo hiểm xã hội độc lập
với ngân sách Nhà nước.

+ Mức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định cụ thể, hợp lý,
phù hợp với mức đóng góp của người lao động. Đặc biệt mức hưởng lương
hưu được quy định là 45% so với mức tiền lương nghạch bậc, lương hợp
đồng cho người có 15 năm làm việc và đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm
mỗi năm được thêm 2% và cao nhất là 75% cho người có 30 năm tham gia
bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, người lao động nếu có thời gian tham gia bảo
hiểm xã hội từ năm thứ 31 trở lên thì mỗi năm thêm được được hưởng trợ
cấp một lần bằng 1/2 tháng tiền lương, tối đa không quá 5 tháng tiền lương.
Với quy định này đã từng bước cân đối được thu chi bảo hiểm xã hội.
Do có tổ chức thống nhất quản lý, bảo tồn, phát triển quỹ và thực hiện
chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội
đã đảm bảo cho việc chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng quy định; khắc phục
được những tồn tại trước đây.

Trong quá trình thực hiện theo những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã
hội từ năm 1995 đến trước khi gia nhập WTO, chính sách bảo hiểm xã hội đã
có những sửa đổi, bổ sung:

Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng là cán bộ
xã, phường, thị trấn theo Nghị định số 09/1998/NĐCP thực hiện từ 1/1998; đối
tượng là người lao động làm việc trong các tổ chức thực hiện xã hội hóa
thuộc ngành giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao theo Nghị định số
73/1999/NĐCP của Chính phủ.
Về chính sách bảo hiểm xã hội: Có sửa đổi, bổ sung cả về mức đóng, tỷ
lệ hưởng, điều kiện hưởng và phương pháp tính lương hưu tại các Nghị định
số 93/1998/NĐCP, số 94/1999/NĐCP về sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Điều lệ bảo hiểm xã hội; Nghị định số 04/2001/NĐCP quy định chi tiết
thi hành một số Điều của Luật Sĩ quan Quân đội năm 1999; Nghị định số
61/2001/NĐCP về chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động khai thác
trong hầm lò; Quyết định số 37/2001/QĐCP về chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức;
Nghị quyết số 16/2000/NQCP về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính
sự nghiệp và Nghị quyết số 41/2002/NĐCP về sắp xếp lại các doanh nghiệp
Nhà nước.

Với những sửa đổi, bổ sung về chính sách bảo hiểm xã hội quy định tại
các văn bản trên, có ảnh hưởng nhiều đến việc quản lý quỹ và cân đối quỹ
bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, từ năm 1995 đến nay với 3 lần thay đổi mức tiền
lương tối thiểu vào các năm 1997 (Từ mức 120.000 đồng lên mức 144.000
đồng); năm 2000 (Từ mức 144.000 đồng lên mức 180.000 đồng) và năm 2001
đến nay lên mức 210.000 đồng. Với thay đổi này thì thu bảo hiểm xã hội đối
với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo thang bảng lương Nhà
nước vẫn thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu cũ, nhưng khi giải quyết
chế độ bảo hiểm xã hội thì được thực hiện theo mức tiền lương tối thiểu
mới tại thời điểm giải quyết chế độ cũng như điều chỉnh theo mức tăng của
mức tiền lương tối thiểu đối với người đang hưởng lương hưu và trợ cấp
bảo hiểm xã hội hàng tháng, điều này không những ảnh hưởng đến quỹ bảo
hiểm xã hội về cân đối thu chi mà phần lãi suất đầu tư cũng bị giảm.

2.1.4 Từ khi gia nhập WTO đến nay

Ngày 29/06/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH và có hiệu lực thi
hành từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ 01/01/2008 đối với BHXH tự
nguyện và từ 01/01/2009 đối với BH thất nghiệp. Việc ban hành Luật chuyên
ngành là bước phát triển vượt bậc trong xâydựng thể chế BHXH, đánh dấu
thời kỳ mới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tổ chức thực hiện BHXH
theo hiến pháp và pháp luật một cách hiệu quả. Các quy định của Luật BHXH
về cơ bản được kế thừa từ các quy định hiện hành và có phát triển một số
nội dung, đặc biệt là quy định lại loại hình BHXH tự nguyện (bao gồm chế
độ hưu trí, tử tuất được quy định liên thông với BHXH bắt buộc) và bổ sung
loại hình BH thất nghiệp. Việc quy định cụ thể các chế độ trong BHXH tự
nguyện được liên thông với BHXH bắt buộc đã tạo điều kiện để người dân
tham gia và thụ hưởng chế độ hưu trí khi về già, đảm bảo an sinh xã hội về
lâu dài. Đặc biệt là việc thiết kế chính sách tuân thủ đúng nguyên tắc đóng
hưởng, có sự chia sẻ theo nhóm đối tượng để bảo đảm khả năng chi trả của
Quỹ BHXH (quy định mức tiền lương, tiền công đóng BHXH thấp nhất,
bằng mức lương tối thiểu chung, nhưng tối đa không quá 20 lần mức lương
tối thiểu chung nay là mức lương cơ sở đã khắc phục tình trạng mức hưởng
BHXH của một số trường hợp cao bất thường trước khi có Luật BHXH).

Mô hình tổ
chức thực hiện BHXH theo quy định tại Nghị định
94/2008/NĐCP, Nghị định 116/ 2011/NĐCP và Nghị định số 05/2014/NĐCP
ngày 17/01/2014, theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có
chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt buộc, BHXH tự
nguyện, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BH thất nghiệp; quản lý và sử dụng
các quỹ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BH thất nghiệp, BHYT theo quy
định của pháp luật. Mô hình cơ cấu tổ chức và chức năng của BHXH Việt
Nam được kiện toàn phù hợp với cơ chế quản lý hoạt động BHXH. Công tác
chỉ đạo, điều hành hoạt động chung của BHXH Việt Nam đã được đổi mới
kịp thời, sát thực tế, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ được giao, phục tốt hơn đối tượng tham gia và thụ
vụ
hưởng chính sách.

2.2 Những thành tựu đạt được và khó khăn của BHXH Việt Nam
hiện nay

2.2.1 Thành tựu

Nếu như năm 1995, Ngành BHXH mới chỉ quản lý 2,2 triệu lao động, thì
đến cuối năm 2014, số người tham gia BHXH, BHYT đã lên tới trên 64 triệu
người; số thu vào Quỹ BHXH, Quỹ BHYT tính đến năm 2014 lần lượt tăng
hơn 160 lần và 50 lần so với năm 1995. Điều này khẳng định, mỗi năm đã có
thêm hàng trăm ngàn lao động, hàng triệu người dân được được bảo vệ các
quyền lợi an sinh cơ bản nhất thông qua các chế độ BHXH, BHYT và góp
phần từng bước đảm bảo an sinh xã hội, tiến tới mục tiêu công bằng xã hội.
Chính sách BHXH từ chỗ
chỉ thực hiện cho đội ngũ cán bộ công nhân viên
chức nhà nước đã chuyển sang thực hiện cho mọi NLĐ theo hai hình thức:
BHXH bắt buộc đối với NLĐ có quan hệ
lao động với người sử dụng lao
động; và BHXH tự nguyện đối với NLĐ làm việc tự do, lao động là nông
lâm ngư nghiệp, từ đó nhằm tiến tới thực hiện BHXH, đảm bảo sự bình
đẳng cho mọi NLĐ trong xã hội, trên cơ sở quan hệ đóng hưởng. Chế độ,
chính sách BHXH ngày càng đi vào hoàn thiện về mặt chuyên môn kỹ thuật.
Về mặt quy phạm pháp luật cũng đã cho thấy, chính sách BHXH từ chỗ chỉ là
các Nghị định, Điều lệ tạm thời về BHXH nay đã được nâng cấp lên cơ sở
pháp lý cao hơn cụ thể là Luật BHXH ban hành năm 2006 và tiếp tục được
hoàn thiện vào năm 2014 khi Quốc hội ban hành Luật BHXH sửa đổi. Tính từ
năm 1995 đến nay, toàn Ngành đã giải quyết cho trên 67,5 triệu lượt người
hưởng các chế độ BHXH (các chế độ BHXH hàng tháng, các chế độ BHXH
một lần, các chế độ ngắn hạn (bao gồm: ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục
hồi sức khỏe), chế độ BH thất nghiệp…. Nhìn chung, việc giải quyết hưởng
các chế độ BHXH, BH thất nghiệp đã được Ngành BHXH đảm bảo chính
xác, đầy đủ, kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ .
Chính sách BHYT cũng không ngừng được thay đổi, từ năm 1992 cho đến
khi Luật BHYT năm 2008 đi vào cuộc sống và gần đây nhất năm 2014 Quốc
hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, đánh
dấu sự hoàn thiện về mặt pháp lý đối với chính sách này, là cơ sở pháp lý cao
nhất thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc
thực hiện chính sách tài chính y tế thông qua BHYT, với mục tiêu BHYT toàn
dân, xây dựng nền y tế Việt Nam theo định hướng công bằng, hiệu quả và
phát triển. Công tác KCB BHYT trong những năm gần đây đã có nhiều cải
tiến theo hướng thuận lợi hơn với người bệnh, trung bình mỗi năm có trên
100 triệu lượt người được đảm bảo quyền lợi KCB với chi phí hàng chục
ngàn tỷ đồng; quyền lợi của người tham gia BHYT ngày càng được mở rộng.
Quỹ BHYT đã trở thành nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng ngày càng
cao trong tổng nguồn chi cho công tác KCB, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Bên cạnh đó, các tục hành chính về BHXH, BHYT thường xuyên
thủ
được rà soát và đơn giản hóa. Tính đến cuối năm 2014, các thủ tục giao dịch
trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp chỉ còn 115 thủ tục; giao dịch
BHXH điện tử từng bước được đẩy mạnh, hiện đã có gần 55 nghìn DN thực
hiện kê khai đóng BHXH qua mạng internet; thời gian thực hiện thủ tục hành
chính trong giao dịch với các doanh nghiệp, cá nhân về kê khai tham gia
BHXH, BHYT được rút ngắn từ 335 giờ/năm xuống còn 108 giờ/năm; việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong giao dịch và quản lý của Ngành đang tiếp
tục được đẩy mạnh.

Ngày 20/11/2014, Luật BHXH sửa đổi được Quốc hội khóa XIII thông
qua tại Kỳ họp thứ 8, gồm 09 Chương, 125 Điều, quy định chế độ, chính sách
BHXH; quyền và trách nhiệm của NLĐ, người sử dụng lao động; cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến BHXH, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ
chức đại diện người sử dụng lao động; cơ quan BHXH; Quỹ BHXH; thủ tục
thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH, ghi nhận thành tích trong
quá trình cải cách, đổi mới liên tục gần 20 năm qua, từng bước xây dựng,
hoàn thiện thể chế BHXH làm căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện BHXH
đối với mọi NLĐ góp phần bảo đảm an sinh xã hội.

Luật BHXH sửa đổi mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc gồm:
người lao động có hợp đồng lao động 13 tháng, người lao động là công dân
nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan
thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy định
của Chính phủ và người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn;
đối với bắt buộc bổ sung thêm nhiều quyền lợi cho NLĐ quy định
BHXH
trong chế độ thai sản, chế độ hưu trí; để phù hợp với khả năng tham gia của
người dân, quy định người tham gia có thể lựa chọn phương thức đóng
BHXH tự nguyện một cách linh hoạt ngoài các phương thức đã quy định lần
này cho phép có thể đóng một lần cho nhiều năm về sau hoặc một lần cho
những năm còn thiếu để hưởng chế độ BHXH tự nguyện. Căn cứ vào điều
kiện phát triển kinh tế xã hội, khả năng NSNN trong từng thời kỳ để quy định
mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền
đóng BHXH cho NLĐ tham gia BHXH tự nguyện; quy định cụ thể các
hành vi bị nghiêm cấm; nâng mức xử phạt chậm nộp BHXH; giao cho cơ
quan BHXH chức năng thanh tra về đóng BHXH, BHYT, BH thất nghiệp và
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt và biện pháp khắc phục
hậu quả trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BH thất nghiệp;…

Về cơ bản, Luật BHXH sửa đổi đã tạo khung pháp lý nhằm điều chỉnh
các chính sách BHXH, Bảo hiểm thất nghiệp trong giai đoạn hiện nay; và đều
hướng tới hai mục tiêu quan trọng là: mở rộng đối tượng tham gia BHXH,
bảo hiểm thất nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính
sách an sinh xã hội. Đây được coi là cơ hội lớn với Ngành BHXH trong việc
triển khai thực hiện chính sách BHXH, BHYT thời gian tới nhằm hướng đến
mục tiêu mà Nghị quyết số21NQ/TW của Bộ Chiń h trị vềtăng cường sự lañ h
đạo cua Đảng đôí vơí công tác BHXH, BHYT giai đoạn 20122020 đã đề ra..

2.2.2 Khó khăn


Bên cạnh những kết đáng khích lệ trong tổ chức thực hiện chính
quả
sách, pháp luật BHXH, BHYT, thực tiễn qua 06 năm thực hiện Luật BHXH
và 04 năm thực hiện Luật BHYT cũng đã bộc lộ những hạn chế cần phải sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp. Tình hình nợ đọng tiền đóng BHXH bắt buộc xảy
ra hầu hết ở các địa phương, nên khó khăn trong thực hiện quyền lợi cho về
BHXH, BHYT cho người lao động. Số nợ đến 31/12/2013 là 6.448,9 tỷ đồng,
chiếm 4,47% so với tổng số phải thu. Đối tượng tham BHXH tự nguyện còn
hạn chế, đại đa số là người đã đóng BHXH bắt buộc nghỉ việc, đóng tiếp để
đủ điều kiện nghỉ hưu; số người tham gia từ đầu chiếm tỷ lệ thấp. Với các
chính sách hiện hành, quy định tuổi nghỉ hưu còn thấp, điều kiện giảm tuổi
nghỉ hưu, nghỉ hưu trước tuổi quá rộng nên số người nghỉ hưu ngày càng
tăng,
mức hưởng lương hưu chưa hợp lý sẽ dẫn đến Quỹ BHXH, nhất là Quỹ hưu
trí, tử tuất mất cân đối trong tương lai. Chi phí quản lý BHXH tính theo mức
chi phí quản lý của cơ quan hành chính nhà nước là chưa phù hợp với tình
chất và nhiệm vụ đặc thù của hoạt động BHXH…
Qua 04 năm thực hiện Luật BHYT, bên cạnh những kết quả
to lớn,
cũng xuất hiện những hạn chế, bất cập, thách thức đối với việc thực hiện
mục tiêu BHYT toàn dân. Trong khi tỷ
lệ bao phủ bình quân cả nước gần
68% thì vẫn còn một số
địa phương có lệ tham gia BHYT thấp. Chất
tỷ
lượng khám, chữa bệnh BHYT ở tuyến dưới chưa đáp ứng yêu cầu do hạn
chế về nhân lực chuyên môn, kỹ thuật y tế đã gây nên tình trạng quá tải, chờ
đợi lâu ở các bệnh viện tuyến trên; tinh thần thái độ và y đức của cán bộ y tế
chậm được cải thiện, ảnh hưởng tới công tác tuyên truyền, vận động mở
rộng và phát triển đối tượng. Các hình thức lạm dụng quỹ, nhất là tại các
bệnh viện ngày càng phức tạp; vẫn còn chênh lệch giá thuốc cùng loại giữa
các bệnh viện trong tỉnh, giữa các tỉnh, giữa bệnh viện với thị trường. Công
tác thanh tra, kiểm tra, công tác quản lý còn hạn chế; chậm áp dụng công
nghệ thông tin để cải tiến thủ tục khám, chữa bệnh, thanh toán BHYT; tình
trạng sai thông tin trên thẻ, cấp chậm, trùng thẻ BHYT còn tồn tại ở nhiều
địa phương.
Trước tình hình kinh tế khó khăn kéo dài, đã có hàng chục ngàn DN làm
ăn thua lỗ, cạn vốn, thu hẹp sản xuất dẫn đến ngưng hoạt động và phá sản.
Nhiều DN tự nguyện “khai tử” cũng đã thẳng thừng tuyên bố nợ lương, cho
nhân viên nghỉ việc và cũng trốn luôn nghĩa vụ đóng BHXH. Vì vậy, tiền nợ
BHXH tăng mạnh từ đầu năm đến nay và việc thu hồi số nợ này cũng đã gian
truân hơn trước. Theo Bảo hiểm Xã hội (BHXH) TP Hồ Chí Minh, tính đến
ngày 30/4/2012, có 2.918 doanh nghiệp (DN) nợ BHXH với số tiền 136,5 tỷ
đồng. Trong đó, có 76 DN ngừng hoạt động và phá sản với số tiền nợ BHXH
hơn 6,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế số lượng DN ngưng hoạt động, phá sản
với số tiền nợ BHXH của các DN lớn hơn nhiều…
Nghiêm trọng hơn, các hành vi lạm dụng Quỹ BHXH ở nước ta đang
diễn ra rất đa dạng và phổ biến tại tất cả các địa phương. Chẳng hạn, trong
lĩnh vực thu BHXH, Bảo hiểm thất nghiệp, việc làm dụng, vi phạm biểu
hiện thông qua các hành vi như trốn đóng BHXH, đóng BHXH không đúng
thời gian và mức quy định thực chất là nợ tiền BHXH. Đặc biệt, nhiều
doanh nghiệp cố tình chiếm dụng tiền đóng BHXH của người lao động (trích
tiền đóng BHXH của người lao động (NLĐ) nhưng không đóng vào quỹ
BHXH) làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ.Đặc biệt, năm
2014, do hoạt động yếu kém dẫn đến việc quỹ BHXH có nguy cơ mất trắng
hơn 1000 tỷ đồng từ việc BHXH dùng tiền cho công ty cho thuê tài chính vay
2.3 Quy định về chế dộ thai sản ở Việt Nam (Luật BHXH 2014)

Điều 30. Đối tượng áp dụng chế độ thai sản

Đối tượng áp dụng chế độ thai sản là người lao động quy định tại các
điểm a, b, c, d, đ và h khoản 1 Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội. Cụ thể như
sau

a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp
đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo
một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể
cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người
đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp
luật về lao động;

b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng
đến dưới 03 tháng;

c) Cán bộ, công chức, viên chức;


d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác
trong tổ chức cơ yếu;

đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;

h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có
hưởng tiền lương

Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong
các trường hợp sau đây:

a) Lao động nữ mang thai;

b) Lao động nữ sinh con;

c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp
triệt sản;

e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải
đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước
khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

3. Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo
hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng
thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải
đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi
sinh con.
4. Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều
này mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước
thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được
hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều
39 của Luật này.

Điều 32. Thời gian hưởng chế độ khi khám thai

1. Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai
05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc
người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02
ngày cho mỗi lần khám thai.

2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều này tính
theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 33. Thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai
chết lưu hoặc phá thai bệnh lý
1. Khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì lao
động nữ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định
như sau:

a) 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi;

b) 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi;

c) 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi;

d) 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên.

2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 1 Điều
này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 34. Thời gian hưởng chế độ khi sinh con


1. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và
sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính
từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.

Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02
tháng.

2. Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ
việc hưởng chế độ thai sản như sau:

a) 05 ngày làm việc;

b) 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32
tuần tuổi;

c) Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở
lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc;

d) Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14
ngày làm việc.

Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản này được
tính trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.

3. Trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì
mẹ được nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 02 tháng tuổi
trở lên bị chết thì mẹ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng
thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định
tại khoản 1 Điều này; thời gian này không tính vào thời gian nghỉ việc riêng
theo quy định của pháp luật về lao động.

4. Trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ
đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc
người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ
việc hưởng chế độ thai sản đối
với thời gian còn lại của người mẹ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp tham gia bảo hiểm xã hội nhưng không đủ điều kiện quy
mẹ
định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 31 của Luật này mà chết thì cha hoặc
người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến
khi con đủ 06 tháng tuổi.

5. Trường hợp cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng tham gia bảo hiểm
xã hội mà không nghỉ việc theo quy định tại khoản 4 Điều này thì ngoài tiền
lương còn được hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của mẹ theo
quy định tại khoản 1 Điều này.

6. Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi
sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc
con theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì cha
được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

7. Thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại các khoản 1, 3, 4, 5 và 6
Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 35. Chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người
mẹ nhờ mang thai hộ

1. Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy thai,
nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh con cho
đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không
vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật này. Trong trường
hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ
thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai
sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng
tuần.

2. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng độ thai sản từ thời


chế
điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
3. Chính phủ quy định chi tiết chế độ thai sản, thủ tục hưởng chế độ

thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.

Điều 36. Thời gian hưởng chế độ khi nhận nuôi con nuôi

Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được nghỉ
việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Trường hợp cả
cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội đủ điều kiện hưởng chế độ thai
sản quy định tại khoản 2 Điều 31 của Luật này thì chỉ
cha hoặc mẹ được
nghỉ việc hưởng chế độ.
Điều 37. Thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện pháp tránh
thai

1. Khi thực hiện các biện pháp tránh thai thì người lao động được hưởng
chế
độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm
quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định như sau:

a) 07 ngày đối với lao động nữ đặt vòng tránh thai;

b) 15 ngày đối với người lao động thực hiện biện pháp triệt sản.

2. Thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản 1 Điều này tính
cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

Điều 38. Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi

Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06
tháng tuổi thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ
sở tại tháng lao động nữ sinh con hoặc tháng người lao động nhận nuôi con
nuôi.

Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội thì cha
được trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho
mỗi con.
Điều 39. Mức hưởng chế độ thai sản

1. Người lao động hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 32,
33, 34, 35, 36 và 37 của Luật Bảo hiểm xã hội thì mức hưởng chế độ thai sản
được tính như sau:

a) Mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng
đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ
việc hưởng chế độ thai
sản. Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 06 tháng thì
mức hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Điều 32, Điều 33, các khoản 2,
4, 5 và 6 Điều 34, Điều 37 của Luật Bảo hiểm xã hội là mức bình quân tiền
lương tháng của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội;

b) Mức hưởng một ngày đối với trường hợp quy định tại Điều 32 và
khoản 2 Điều 34 của Luật bảo hiểm xã hội được tính bằng mức hưởng chế
độ thai sản theo tháng chia cho 24 ngày;

c) Mức hưởng chế độ khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được tính
theo mức trợ cấp tháng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, trường hợp có
ngày lẻ hoặc trường hợp quy định tại Điều 33 và Điều 37 của Luật Bảo
hiểm xã hội thì mức hưởng một ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng
chia cho 30 ngày.

2. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên
trong tháng được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, người lao động và
người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội.

3. Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quy định chi tiết về
điều kiện, thời gian, mức hưởng của các đối tượng quy định tại Điều 24 và
khoản 1 Điều 31 của Luật Bảo hiểm xã hội.

Điều 40. Lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con
1. Lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con quy
định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này khi có đủ các điều kiện
sau đây:

a) Sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất được 04 tháng;

b) Phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý.

2. Ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước
khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi
hết thời hạn quy định tại khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này.

Điều 41. Dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản

1. Lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại
Điều 33, khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này, trong khoảng thời gian
30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức,
phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày.

Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ,
ngh
Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức,

phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời
gian nghỉ đó được tính cho năm trước.

2. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe quy định tại khoản 1

Điều này do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở
quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ
sở thì do người sử dụng lao động quyết định. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục
hồi sức khỏe được quy định như sau:

a) Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên;

b) Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;

c) Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác.


3. Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một
ngày bằng 30% mức lương cơ sở.

Mức trợ cấp.

a Các loại trợ cấp thai sản.

Trong thời gian nghỉ việc đi khám thai, nghỉ việc khi bị sẩy thai, khi sinh
con, nuôi con nuôi sơ
sinh, người lao động được hưởng tiền trợ cấp từ cơ
quan bảo hiểm xã hội thay vào phần thu nhập bị mất do không có lương.

Trợ cấp thai sản có 2 loại: trợ cấp thay lương và trợ cấp bồi dưỡng (trợ
cấp một lần). Trong đó:

- Trợ cấp thay lương là khoản tiền do cơ quan bảo hiểm xã hội trả cho
người lao động trong thời gian nghỉ thai sản nhằm giữ cân bằng về thu nhập,
giúp người phụ nữ nhanh chóng phục hồi sức khỏe sau khi sinh. Mức trợ cấp
được tính bằng tiền lương của người lao động khi đang làm việc

- Trợ cấp bồi dưỡng sức khỏe là khoản tiền được cơ quan bảo hiểm
xã hội trả một lần cùng trợ cấp thay lương cho người lao động nữ sau khi
sinh con. Mục đích của khoản trợ cấp này là giúp người mẹ đủ điều kiện vật
chất để nuôi con và tăng cường sức khỏe sau khi sinh.

Tùy từng trường hợp cụ thể mà người lao động được hưởng một hoặc
cả hai loại trợ cấp này.

b Mức trợ cấp.

Người lao động được hưởng chế độ thai sản mức hưởng bằng
thì
100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội
của 6 tháng liền kề gần nhất trước khi nghỉ việc. Nếu thời gian đóng
bảo hiểm xã hội không liên tục thì được cộng dồn.

Ví dụ: chị C sinh con ngày 1/3/2010 có quá trình đóng bảo hiểm xã hội
như sau:

+ Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2009 đóng bảo hiểm xã hội với mực
lương 1.000.000 đồng/tháng,

+ Từ tháng 10 đến tháng 1/2010 đóng bảo hiểm xã hội với mức lương
1.5000.000 đồng/tháng.

→ Mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng
liền kề trước khi nghỉ việc của chị C là: [(1.000.000x2) + (1.5000.000x2)] : 6
= 1.333.333 đồng.

- Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 6 tháng thì
mức hưởng chế độ thai sản khi đi khám, khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai
chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai thì mức bình quân tiền lương,
tiền công tháng của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội.

- Trường hợp người lao động hưởng chế độ thai sản khi đi khám thai,
khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh
thai ngay trong tháng đầu tham gia bảo hiểm xã hội, thì lấy mức bình quân
tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của chính tháng đó để làm cơ sở
tình hưởng chế độ.

- Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4
tháng tuổi thì được hưởng trợ cấp 1 lần bằng 2 tháng lương tối thiểu chung
cho mỗi con.

- Trường hợp mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi
dưỡng được hưởng chế độ thai sản như sau:
+ Trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội, thì cha hoặc người
trực tiếp nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng.
Mức hưởng được tính trên cơ sở mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc của mẹ.

+ Trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội hoặc chỉ có
cha tham gia bảo hiểm xã hội, thì cha nghỉ việc chăm sóc con và được hưởng
chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Mức hưởng lương được tính
trên cơ sở mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội
của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc của cha.

- Mức hưởng lương khi nghỉ việc khi nghỉ việc đi khám thai, sẩy thai,
nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai được tính
như sau:

( Mức bình quân tiền lương , tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6
tháng liền kìa trước khi nghỉ việc)/26 ngày*số ngày nghỉ việc theo chế độ thai
sản)

Đối với trường hợp này ta phải lưu ý là số ngày nghỉ việc theo chế độ
thai sản tính
ngày lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần. Riêng chế độ
cả
nghỉ
khám thai thì không tính ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hàng tuần.

- Mức hưởng chế độ thai sản khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi
sơ sinh được tính theo công thức:

(Mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6 tháng
liền kề trước khi nghỉ việc)* (Số tháng nghỉ sinh con hoặc nghỉ nuôi con nuôi
sơ sinh)

- Nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi thai sản, mức hưởng bằng:
+ 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại nhà,
+ 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại cơ sở tập trung.

- Trong thời gian lao động nữ ngh việc hưởng chế độ thai sản nếu

không hưởng tiền lương, tiền công tháng thì người lao động và người sử
dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội. Thời gian này được tính là
thời gian đóng bảo hiểm xã hội.

Trường hợp người lao động nữ đi làm trước khi hết thời gian nghỉ thai
sản phải đáp ứng đủ 3 điều kiện:

+ Sau khi sinh con từ đủ 60 ngày trở lên;

+ Có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi làm sớm không có hại cho sức
khỏe của người lao động;

+ Phải bảo trước và được người sử dụng lao động đồng ý. Đồng thời,
ngoài tiền lương, tiền công của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm
trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế
độ thai sản cho
đến khi hết thời hạn được quy định
2.4 Thủ tục, hồ sơ hưởng chế độ thai sản

24.1. Khám thai:


Sổ khám thai (bản chính hoặc bản sao) hoặc Giấy khám thai (bản chính
hoặc bản sao), giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH (mẫu C65HD).
2.4.2 Sảy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu; thực hiện các biện pháp
tránh thai:
Giấy ra viện (bản chính hoặc bản sao) hoặc Giấy chứng nhận nghỉ việc
hưởng BHXH do cơ sở y tế cấp (mẫu C65HD).
2.4.3 Sinh con:
– Sổ BHXH.
– Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con.
– Nếu sau khi sinh, con chết thì có thêm Giấy báo tử (bản sao) hoặc
Giấy chứng tử (bản sao). Đối với trường hợp con chết ngay sau khi sinh mà
không được cấp các giấy tờ này thì thay bằng bệnh án (bản sao) hoặc giấy ra
viện của người mẹ (bản chính hoặc bản sao).
– Đối với trường hợp có tỷ lệ thương tật từ 21% trở lên: Có thêm Giấy
chứng nhận thương tật (bản sao) hoặc Biên bản giám định mức suy giảm khả
năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa (bản sao).
2.4.4 Nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi:
– Sổ BHXH;
– Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi của cấp có thẩm quyền (bản
sao).
* Lưu ý: Trường hợp sau khi sinh con, người mẹ chết, người cha hoặc
người trực tiếp nuôi dưỡng con đến khi đủ 4 tháng tuổi:
– Nếu cả cha và mẹ đều tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng trợ cấp
thai sản, hồ sơ gồm:
+ Sổ BHXH của người mẹ (nếu người mẹ còn sống);
+ Sổ BHXH của người cha (nếu người mẹ không may bị chết);
+ Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con;
+ Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao).
– Nếu chỉ có người mẹ tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng trợ cấp:
+ Sổ BHXH của người mẹ;
+ Giấy chứng sinh (bản sao) hoặc Giấy khai sinh (bản sao) của con;
+ Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao).
+ Đơn của người cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng con (mẫu số 11A-
HSB).
– Nếu chỉ có người cha tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng trợ cấp:
+ Sổ BHXH của người cha;
+ Bản sao Giấy khai sinh của con;
+ Giấy chứng tử của người mẹ (bản sao).
– Trường hợp người lao động thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc
nhận con nuôi dưới 4 tháng tuổi:
+ Sổ BHXH của người mẹ hoặc người nhận con nuôi;
+ Bản sao Giấy chứng sinh hoặc bản sao Giấy khai sinh của con.
(Trường hợp nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì thay bằng bản sao
Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi của cấp có thẩm quyền);
+ Đơn của người sinh con hoặc của người nhận nuôi con nuôi (mẫu
11BHSB).
* Lưu ý: Hồ sơ trợ cấp thai sản có thêm Danh sách người lao động đề
nghị hưởng chế độ thai sản do người sử dụng lao động lập (mẫu số C67a
HD, trừ trường hợp người lao động thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc
nhận nuôi con nuôi.

2.4.5 Nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe:


– Danh sách người lao động đề ngh hưởng trợ cấp nghỉ dưỡng sức,

phục hồi sức khỏe sau thai sản, (mẫu số C69aHD): 03 bản.
Trường hợp sinh con phải phẫu thuật thì đề
ngh nộp thêm bản photo
giấy ra viện có thể hiện phẫu thuật. ị

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM XÃ


HỘI NÓI CHUNG VÀ BẢO HIỂM THAI SẢN NÓI RIÊNG

3.1 Định hướng


Bảo hiểm xã hội giữ vai trò trụ cột chính trong hệ thống chính sách an
sinh xã hội và tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác bảo
hiểm xã hội đã đạt được những bước tiến quan trọng. Từ chỗ đan xen, làm
thay chính sách cứu trợ, ưu đãi… nay đã thực hiện đúng chức năng là góp
phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình lao động và nghỉ
hưu hoặc khi gặp rủi ro; ngoài nhóm chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc,
chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện bước đầu thu hút lao động khu vực phi
chính thức tham gia; chiń h sać h bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm hưu trí
bổ sung cũng đã bước đầu được triển khai.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực bảo hiểm xã hội
nói chung và bảo hiểm thai sản nói riêng còn nhiều vấn đề tồn tại, đó là diện
bao phủ bảo hiểm xã hội còn thấp; quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội
chưa đáp
ứng yêu cầu; việc tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách bảo
hiểm xã hội còn có thiếu sót; tình trạng doanh nghiệp nợ và trốn đóng bảo
hiểm xã hội còn nhiều; quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội chưa chặt
chẽ; quỹ bảo hiểm xã hội, nhất là quỹ hưu trí, tử tuất có nguy cơ mất cân đối
trong tương lai gần; tình trạng người lao động lạm dụng chính sách bảo hiểm
thất nghiệp xảy ra khá phổ biến.

Vì vậy các chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong những năm đổi
mới dự kiến sẽ chia sẻ những khó khăn, thách thức; đồng thời đưa ra các định
hướng phát triển chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
Đặc biệt tập trung vào các vấn đề:

(i) Tổng quát về


kết quả thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam trong 20 năm đổi mới

(ii) Phân tích những tồn tại, hạn chế, khó khăn, bất cập trong thực
hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành
(iii) Nghiên cứu của các cơ quan chức năng, các nhà quản lý, các
chuyên gia, các nhà khoa học…về sự cần thiết, sửa đổi bổ sung chính sách,
pháp luật về bảo hiểm xã hội

(iv) Kinh nghiệm của các nước đã thành công trong việc tổ
chức
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội
(v) Định hướng, những điểm mới trong dự thảo Luật bảo hiểm xã
hội sửa đổi, bổ sung.

3.2 Giải pháp:

3.2.1. Đối với bảo hiểm xã hội

Do việc nhận trợ cấp của người lao động còn gặp nhiều khó khăn nên
cần phải có
cơ chế xử phạt mạnh tay hơn nữa đối với doanh nghiệp trốn

đóng xã hội bắt buộc, cũng như có cơ chế phù hợp hơn để người lao động dễ
dàng nhận tiền trợ cấp một cách nhanh chóng và đầy đủ.

Nên sửa luật bảo hiểm xã hội tại Điểm a Khoản 1 Điều 92 theo hướng:
Hàng tháng người sử dụng lao động nộp đủ 3% tiền lương, tiền công đóng
bảo hiểm xã hội vào quỹ ốm đau, thai sản; và sửa đổi Điều 17 Luật bảo
hiểm xã hội theo hướng: Hàng tháng, người sử dụng lao động tập hợp các
chứng từ ốm đau, thai sản, dưỡng sức của người lao động nộp cho cơ quan
bảo hiểm xã hội. Căn cứ danh sách người lao động được cơ quan bảo hiểm
xã hội duyệt, người sử dụng lao động sẽ chi trả trợ cấp

Cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hơn nữa trong việc kê khai lương

người lao động của doanh nghiệp.


- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội để xứng đáng là trụ
cột của mạng lưới an sinh xã hội.
- Cần mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tới mọi người lao
động, dù họ tham gia lao động trong bất cứ ngành nghề nào, thuộc thành phần
kinh tế nào, miễn là họ tham gia đống góp đầy đủ vào quỹ bảo hiểm xã hội
như luật định.
- Hoàn thiện cơ chế chính sách để khuyến khích các nhà đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ quyền lợi trách nhiệm và nghĩa
vụ của mình, khuyến khích doanh nghiệp, người lao động, người dân tự
nguyện tham gia bảo hiểm xã hộ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người
dân hiểu được nộp bảo hiểm xã hiểm chính là vì quyền lợi của chính họ.
- Quy định chế tài hữu hiệu, đủ mạnh ngay trong luật để buộc các đối
tượng cố tình trốn, chú ý phải thực hiện nghiêm túc các quy định của luật.
- Bên cạnh đó cần có các biện pháp nhằm bảo đảm cân đối quỹ bảo
hiểm xã hội Việt Nam trong dài hạn, cụ thể là:

Xây dựng lộ trình kéo dài thời gian đóng bảo hiểm xã hội của người lao
động với bước đi thận trọng để khắc phục tình trạng đóng ít, hưởng nhiều,
bảo đảm cân đối trong đóng – hưởng và tính chia sẻ giữa các thế hệ tham gia
bảo hiểm xã hội.

Dự thảo Luật đề xuất phương án từ năm 2016 trở đi, điều kiện về tuổi
đời hưởng lương hưu của cán bộ, công chức, viên chức cứ mỗi năm tăng
thêm 4 tháng tuổi cho đến khi đạt 60 tuổi đối với nữ và 62 tuổi đối với nam.
Từ năm 2020 trở đi, điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu của các nhóm
đối tượng còn lại (trừ nhóm lực lượng vũ trang và người làm công tác cơ
yếu) cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng tuổi cho đến khi đạt 60 tuổi đối với nữ và
62 tuổi đối với nam. Theo phương án này, thì phải đến năm 2031 (sau 15 năm)
thì tuổi nghỉ hưu của nữ mới đạt 60 tuổi và đến năm 2022 (sau 6 năm) thì tuổi
nghỉ hưu của nam mới đạt 62 tuổi.
Thay đổi công thức tính lương hưu theo hướng có lộ trình tăng dần số
năm đóng bảo hiểm xã hội. Theo đó, từ năm 2016, số năm đóng bảo hiểm xã
hội tương ứng với 45% mức bình quân tiền lương tháng để tính lương hưu
cho người nghỉ hưu là 16 năm, năm 2017 là 17 năm, 2018 là 18 năm, 2019 là
19 năm và từ năm 2020 trở đi là 20 năm.

Sửa đổi cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội
để tính lương hưu hoặc trợ cấp một lần theo hướng đảm bảo sự bình đẳng,
công bằng giữa các nhóm lao động tham gia bảo hiểm xã hội làm việc trong
và ngoài khu vực Nhà nước với lộ trìnhngười lao động thuộc đối tượng thực
hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định bắt đầu tham gia bảo hiểm xã
hội từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/7/2015) trở đi thì mức bình quân
tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội để tính lương hưu là bình quân toàn
bộ thời gian đóng như người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền
lương do người sử dụng lao động quyết định.

Sửa đổi điều kiện để hạn chế tối đa việc giải quyết chế độ bảo hiểm
xã hội một lần như hiện nay nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người lao
động khi hết tuổi lao động và góp phần bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm xã
hội. Nhưng bên cạnh đó
án Luật cũng tăng mức trợ cấp bảo hiểm xã
dự
hội một lần lên mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi được tính
bằng 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.

Có lộ trình để thực hiện tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã
hộisát với thu nhập thực tế của người lao động, bao gồm mức lương, phụ
cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định tại Điều 90 Bộ Luật Lao
động, khắc phục tình trạng người lao động và người sử dụng lao động “lách
luật” để đóng bảo hiểm xã hội mức lương rất thấp trên nền lương tối

thiểu như hiện nay.
Sửa đổi các hình thức đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội để bảo đảm quản
lý, đầu tư Quỹ an toàn, hiệu quả hơn.

Cân đối chi phí quản lý bảo hiểm xã hội một cách hợp lý, phù hợp với
nhiệm vụ của bảo hiểm xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

3.2.2 Đối với bảo hiểm thai sản

3.2.2.1 Phương hướng chung

- Nâng cao nhận thức cho mọi công dân về bảo hiểm xã hội trong đó có
chế độ thai sản
- Nâng cao tính đồng bộ và khả thi của hệ thống luật pháp
- Đảm bảo sự ổn định và bền vững của nguồn tài chính
- Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực bộ máy quản lý Nhà
nước

3.2.2.2 Giải pháp cụ thể

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật Bảo hiểm xã hội như:

* Cần bổ sung quy định cho người cha hưởng chế độ bảo hiểm xã hội
về thai sản trong trường hợp người mẹ không tham gia bảo hiểm xã hội

* Luật nên quy định cho người lao động nữ mang thai bệnh lý được nghỉ
dài ngày hoặc có chế độ phù hợp hơn

* Cần tách trường hợp người mẹ đẻ non cho hưởng chế độ bảo
để
hiểm xã hội về thai sản với thời gian ưu đãi hơn
* Cần nâng số ngày nghỉ khám thai cho người lao động ở xa cơ sở y tế

* Nên hướng dẫn một cách rõ ràng Điều 28 khoản 2 Luật Bảo hiểm xã
hội về điều kiện hưởng chế độ thai sản

* Cần có quy định rõ ràng về người lao động làm việc ở “nơi làm việc
thường xuyên có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên”

* Cần quy định thời gian báotrước cho người sử dụng lao động khi
người lao động nghỉ hưởng thai sản đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh
con

* Cần sửa đổi quy định mức lương tối thiểu và tiền lương, tiền công
làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.

* Cần quy định rõ hơn về cơ chế giải quyết tranh chấp bảo hiểm xã hội
trong đó có giải quyết tranh chấp bảo hiểm thai sản

- Phê chuẩn công ước và thực hiện Khuyến nghị của ILO liên quan đến
vấn đề bảo hiểm xã hội về thai sản

- Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật đối với
chế độ bảo hiểm xã hội về thai sản

- Nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn đối với việc bảo
vệ người lao động đặc biệt là lao động nữ

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với việc thực hiện chế độ thai sản
- Xử phạt nghiêm đối với với các hành vi vi phạm chế độ bảo hiểm xã
hội nói chung và chế độ Bảo hiểm xã hội về thai sản nói riêng

Như vậy, trong quá trình thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã
hội về thai sản cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành, sự
chấp hành nghiêm chỉnh của người sử dụng và người lao động trong việc
đóng bảo hiểm xã hội và thực hiện tốt chế độ thai sản. Hơn nữa, việc kết
hợp giữa các giải pháp sẽ đem lại những thành công nhất định tiến tới đối
tượng tham gia bảo hiểm ngày một rộng hơn sẽ góp phần làm cho chính sách
an sinh xã hội tốt hơn.

3.3 Kiến nghị

Từ thực tế tình hình khó khăn chung của nền kinh tếxã hội, đại diện
một số doanh nghiệp đề xuất Chính phủ, các nhà hoạch định chính sách cần
nghiên cứu điều chỉnh các chính sách của Nhà nước có liên quan đến bảo
hiểm xã hội và các hình thức bảo hiểm bắt buộc khác mà doanh nghiệp phải
thực hiện để bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Các cơ chế, chính sách
này cần phải được tính toán hợp lý, trên cơ sở nghiên cứu khoa học, đồng
thời phải căn cứ vào tình hình kinh tế và sức khỏe của doanh nghiệp để đưa
ra chính sách hợp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa trả
được bảo
nợ
hiểm xã hội, vừa tiếp tục sản xuất, kinh doanh, tránh việc đưa ra các quyết
định không phù hợp, thiếu cơ sở và tạo thêm sức ép cho doanh nghiệp.

Cần sớm hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp phát triển và phát huy đầy đủ quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong việc
bảo đảm quyền lợi cho người lao động, đồng thời bảo đảm tính bình đẳng
về chính sách bảo hiểm xã hội trong cơ chế thị trường; quy định chế tài xử lý
vi phạm bảo hiểm xã hội mạnh, có tính răn đe, để doanh nghiệp chủ động
thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội ... Cùng với nỗ lực của các cơ quan
Nhà nước, cần có sự vào cuộc của các tổ chức chính trịxã hội, tổ chức xã hội
và đông đảo nhân dân; phát huy vai trò của chính quyền nhân dân; vai trò,
chức năng giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, vai trò bảo vệ
quyền và lợi ích người lao động của các tổ chức công đoàn, đồng thời đẩy
mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ
tham gia bảo hiểm cho người lao động...

Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng nợ đọng, trốn đóng bảo hiểm xã
hội kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, trước hết các cơ
quan quản lý nhà nước cần xúc tiến đồng bộ nhiều giải pháp, tích cực thanh
tra, kiểm tra, xử phạt nghiêm minh, tiếp tục ban hành các văn bản chỉ đạo,
giải thích, hướng dẫn thực hiện các nội dung của Luật bảo hiểm xã hội nhất
là các nội dung về giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động. Về lâu
dài, cần xây dựng lòng tin của người sử dụng lao động cũng như cần giám sát
chặt chẽ việc thực hiện chính sách pháp luật tại các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài trong quá trình hoạt động. Khi phát hiện sai phạm, cần được xử lý
nghiêm minh theo pháp luật.

KẾT LUẬN
Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của mỗi Quốc gia, mang trong
nó bản chất nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành hạnh phúc của mọi người
lao động. Chính sách bảo hiểm xã hội thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và
sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi Quốc gia. Việc tổ
chức và thực hiện tốt trong các hoạt động của bảo hiểm xã hội sẽ là động
lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội của một đất nước.

Hiện nay, trong hầu hết các quốc gia, bảo hiểm xã hội được coi là bộ
phận chính cấu thành hệ thống an sinh xã hội, là chính sách quan trọng của
mỗi nước và ở nước ta cũng vậy. Trải qua hơn 40 năm thực hiện, sửa đổi và
bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần rất to
lớn trong việc đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng
thời góp phần ổn định Chính trị Xã hội của đất nước. Đến nay, BHXH Việt
Nam đã được thực hiện cho toàn thể cộng đồng, từ công chức Nhà nước, lực
lượng vũ trang đến những người lao động trong các thành phần kinh tế ở
những nơi có quan hệ lao động, và còn tiếp tục mở rộng cho nhiều đối
sẽ
tượng khác.
Trước xu hướng già hoá dân số, biến đổi khí hậu và biến động của nền
kinh tế thị trường, để bảo đảm an sinh xã hội một cách bền vững, cần tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, biến pháp luật, chính
phổ
sách, chế độ về BHXH. Hiện đại hóa quản lý BHXH, nâng cao năng lực quản
lý, chất lượng dịch vụ, thực hiện minh bạch, công khai các thủ tục thực hiện
BHXH, giảm phiền hà cho người tham gia và thụ hưởng. Tăng cường quản lý
nhà nước về BHXH, thực hiện tốt hơn sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà
nước và BHXH các cấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Tiến Hùng, Nguyên lý và thực hành bảo hiểm, NXB


Tài chính, 2008

Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Tiến Hùng, Hồ Thủy Tiên,


Lý thuyết bảo hiểm, NXB Tài Chính, 2004

Http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/newscategory/252/bhxh_vn.ht

Http://www.baohiemxahoi.gov.vn/?
u=doc&su=d&cid=424&id=293

Http://idoc.vn/tailieu/detracnghiemnguyenlyvathuchanh bao-
hiem.html

You might also like