You are on page 1of 7

Việc phân tích những điểm khác biệt về pháp lý đã được thực hiện vào giữa năm 2019,

tập trung
vào các lĩnh vực của EVFTA mà pháp luật hiện hành của Việt Nam còn có những quy định mâu
thuẫn hoặc chưa có quy định, cần được chú ý để đảm bảo sự thống nhất giữa pháp luật trong
nước và EVFTA. EVFTA gồm 17 chương, 18 phụ lục, 4 tuyên bố chung, 2 nghị định thư và 2
biên bản ghi nhớ cho các nội dung khác nhau của Hiệp định. Một số chương và điều khoản không
yêu cầu sửa đổi luật trong nước khi thực thi Hiệp định.
Sự khác biệt về SHTT
Sự khác biệt về SHTT được báo cáo phân tích chỉ ra một số điểm không nhất quán giữa Chương
12 của Hiệp định và các quy định pháp luật của Việt Nam, cụ thể như sau:
Một là, pháp luật Việt Nam đáp ứng các yêu cầu về việc thu hồi nhãn hiệu đã đăng ký của
EVFTA, ngoại trừ các yếu tố sau: thuật ngữ “sử dụng một cách thực sự” và trừ trường hợp sử
dụng trước ít nhất 3 tháng tính đến ngày có yêu cầu đình chỉ. Do đó, để thực thi Điều 12.22 về
việc Đình chỉ hiệu lực nhãn hiệu đã đăng ký, nên đưa thuật ngữ “sử dụng một cách thực sự” vào
các quy định trong nước theo như mục đích sử dụng dự kiến trong EVFTA.
Hai là, Điều 12.22.3 có thể được hiểu là việc chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng một nhãn hiệu
thương mại đã đăng ký, vốn có thể gây hiểu lầm cho người tiêu dùng, là hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích của người khác theo Điều 7.2 của Luật SHTT năm 2009. Mặc dù luật của Việt Nam
phù hợp với các cam kết của EVFTA trong lĩnh vực này, nhưng Việt Nam vẫn nên quy định bổ
sung về việc chấm dứt bảo hộ nhãn hiệu trong trường hợp việc sử dụng nhãn hiệu có thể đánh lừa
người tiêu dùng, để quyết định xem liệu khung pháp lý hiện tại về vấn đề này bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng theo Luật SHTT hoặc pháp luật về ngăn chặn các hành vi phản cạnh tranh
hay không.
Ba là, luật pháp của Việt Nam không đặt ra giới hạn về loại hàng hóa đủ điều kiện để bảo hộ các
chỉ dẫn địa lý (phạm vi lớn hơn so với EVFTA). Tuy nhiên, để tuân thủ đầy đủ Điều 12.23 về
phạm vi áp dụng, nên kiểm tra nhu cầu đối với một mức độ bảo hộ cao cho tất cả các chỉ dẫn địa
lý.
Bốn là, để thực hiện Điều 12.27 về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nên xem xét đến 2 phương án sau: 1)
Duy trì 2 cấp độ bảo vệ, bao gồm (i) mức độ bảo hộ cao đối với chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định
EVFTA; và (ii) mức độ bảo hộ thông thường đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo luật pháp
trong nước; hoặc 2) Nếu thống nhất áp dụng ít hơn một cấp bảo hộ, cần quyết định xem cấp bảo
hộ đó sẽ được áp dụng cho tất cả các hàng hóa hoặc chỉ các nhóm như được nêu trong EVFTA.
Năm là, để thực hiện Điều 12.27.3 về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nên bổ sung các điều khoản nhằm
bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm, bao gồm nghĩa vụ thông báo trong quá trình đàm phán; và kiểm
tra tính hợp lệ của việc bổ sung quy định vào Luật SHTT khi chỉ dẫn địa lý không còn được bảo
hộ tại nơi xuất xứ của nó.
Sáu là, Điều 12.28 đưa ra các ngoại lệ về trường hợp miễn trừ đặc biệt đối với các chỉ dẫn địa lý
“Asiago”, “Fontina”, “Gorgonzola”, “Feta”, và “Champagne”. Những tên này nên được áp dụng
trực tiếp và cụ thể trong các văn bản pháp luật hướng dẫn.
Bảy là, để thực thi Điều 12.29 về Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, Việt Nam nên sửa đổi các quy
định để cho phép các cơ quan hành chính cấp giấy phép sử dụng, từ đó giảm thiểu các nghĩa vụ
đối với các đối tượng được cấp phép chỉ để công bố. Việt Nam cũng cần có phương pháp thu
thập và công bố thông tin về các đối tượng được cấp phép.
Tám là, để thực thi Điều 12.35 về bảo hộ các kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký, nên xem xét
thêm và định nghĩa về tính mới. Ví dụ, “tính mới ” có bao gồm “tính sáng tạo” không? Mô tả về
“tính mới” và “tính sáng tạo” có thể giống nhau. Do đó, Luật SHTT cần cấu trúc lại cho phù hợp.
Chín là, để thực thi Điều 12.39 về bằng sáng chế và sức khỏe cộng đồng, nên tham khảo kinh
nghiệm của các nước đang phát triển như Ấn Độ, Thái Lan, Philippines, Brazil và Argentina khi
thực hiện các quy định về bảo đảm tất cả người dân đều có quyền tiếp cận dược phẩm trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ.
Vũ Hưng

Về chế độ bảo hộ quyền SHTT, lần đầu tiên có quy định về cơ chế đền bù bằng cách gia hạn thời
hạn bảo hộ cho chủ sở hữu độc quyền sáng chế nếu bị chậm trễ một cách bất hợp lý trong thủ tục
cấp phép lưu hành dược phẩm (chẳng hạn quá 2 năm kể từ ngày nộp đơn xin cấp phép mà cơ
quan quản lý dược phẩm không có phản hồi nào - Điều 12.40); quy định về việc công nhận và
bảo hộ 169 chỉ dẫn địa lý (rượu vang, rượu mạnh và các mặt hàng nông sản khác) của EU với
mức bảo hộ cao - vốn chỉ dành riêng cho rượu vang, rượu mạnh và 39 chỉ dẫn địa lý của Việt
Nam cho các sản phẩm khác nhau (Điều 12.25). Đối với nhãn hiệu, độc quyền có thể bị chấm
dứt  hiệu lực nếu sau ngày đăng ký, nhãn hiệu trở thành tên gọi chung của hàng hóa hoặc dịch vụ
được đăng ký (Điều 12.22). Đối với kiểu dáng công nghiệp, hình dáng của toàn bộ sản phẩm
hoặc của một phần sản phẩm có thể tách rời và/hoặc không thể tách rời của bộ phận sản phẩm
đều có khả năng được bảo hộ nếu pháp luật quốc gia cho phép (Điều 12.35), miễn là nhìn thấy
được trong quá trình sử dụng thông thường (sử dụng bởi người sử dụng cuối cùng, không bao
gồm việc bảo trì, cung cấp dịch vụ hoặc sửa chữa).
Về chế độ thực thi quyền SHTT, EVFTA đòi hỏi các hành vi xâm phạm quyền SHTT phải được
xử lý bằng các biện pháp dân sự, hành chính và hình sự. Trong đó, đối với kiểm soát biên giới,
Hiệp định này yêu cầu cơ quan hải quan chủ động kiểm soát hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu bị
nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT trên cơ sở kỹ thuật phân tích rủi ro mà không cần phải có yêu
cầu của chủ thể quyền SHTT (Điều 12.59), giúp các cơ quan hải quan chủ động hơn trong hoạt
động kiểm tra, giám sát chứ không chỉ phát hiện, xác định hàng hóa xâm phạm và phối hợp với
chủ thể quyền như quy định hiện nay. EVFTA cũng quy định rằng cơ quan tư pháp có quyền yêu
cầu bên thua kiện phải trả cho bên thắng kiện các chi phí tòa án và phí thuê luật sư hợp lý, hoặc
các chi phí khác theo quy định của pháp luật (Điều 12.52).
Việc thực hiện nghiêm túc các cam kết về SHTT trong EVFTA sẽ góp phần thúc đẩy đổi mới,
chuyển giao và phổ biến công nghệ, bảo đảm sự cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền SHTT và xã
hội, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chứa đựng tài sản trí tuệ,
phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng bền vững và toàn diện. Vì vậy, trong thời gian tới, Việt
Nam cần tiếp tục nỗ lực trong việc hoàn thiện thể chế bảo hộ SHTT, cải thiện hiệu suất và chất
lượng xác lập quyền SHTT, nâng cao hiệu lực bảo vệ quyền SHTT và nhận thức của công chúng
về SHTT.

4 vấn đề lớn về SHTT trong EVFTA


EVFTA đã chính thức ký kết ngày 30/6/2019 tại Hà Nội là cú hích lớn đối với nền kinh tế Việt
Nam, trong đó có xuất khẩu hàng hóa. Đặc biệt, Hiệp định này còn mở ra cơ hội phát triển kinh
tế, góp phần tăng trưởng thương mại của 28 nước thành viên trong EU. Việt Nam cần phải làm gì
trong lĩnh vực SHTT khi thực thi EVFTA là vấn đề được doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Tại
Hội thảo “CPTTP & EVFTA: Sở hữu trí tuệ và doanh nghiệp Việt” do Viện Nghiên cứu Chiến
lược Thương hiệu và Cạnh tranh (BCSI) tổ chức tháng 7/2020, các chuyên gia đã cho rằng, có 4
vấn đề lớn về SHTT trong EVFTA:
Một là, về chỉ dẫn địa lý: đàm phán nội dung về chỉ dẫn địa lý (CDĐL) là một trong những phần
chiếm nhiều thời gian nhất, bởi đây là vấn đề quan tâm lớn không chỉ của EU mà còn cả từ phía
Việt Nam và các nước khác như Hoa Kỳ, Australia và New Zealand. Kết quả đạt được, ngoài lời
văn về các tiêu chí chung đối với hệ thống đăng ký CDĐL là 2 danh sách CDĐL của 2 bên (169
CDĐL của EU sẽ được bảo hộ tại Việt Nam và 39 CDĐL của Việt Nam sẽ được bảo hộ tại EU
khi EVFTA có hiệu lực). Đồng thời, theo EVFTA các CDĐL này sẽ được hưởng mức bảo hộ
cao, vốn chỉ dành cho rượu vang và rượu mạnh trong Hiệp định về các khía cạnh thương mại của
SHTT (Hiệp định TRIPS) của WTO. Đối với Việt Nam, việc 39 CDĐL được bảo hộ tại một thị
trường xuất khẩu quan trọng với 28 quốc gia thành viên mà không phải tốn chi phí đăng ký là
một điều rất có ý nghĩa. Việc này không chỉ bảo đảm quyền đối với các CDĐL dùng cho nông
sản của Việt Nam vốn đã có mặt trên thị trường này từ lâu như cà phê Buôn Ma Thuột, nước
mắm Phú Quốc, mà còn mở ra cơ hội tiếp cận thị trường cho các đặc sản khác như: vải thiều
Thanh Hà, Lục Ngạn; trà Mộc Châu, Tân Cương.
Hai là, về quyền tác giả, quyền liên quan: EVFTA tập trung vào việc đảm bảo sự bảo hộ hiệu quả
quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường kỹ thuật số trên cơ sở yêu cầu các bên gia nhập 2
điều ước của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) về quyền tác giả và quyền liên quan trên môi
trường Internet trong vòng 2 năm sau khi EVFTA có hiệu lực và quy định trách nhiệm của nhà
cung cấp dịch vụ trung gian trong các vụ xâm phạm quyền SHTT trên Internet. Hiệp định cũng
quy định thêm một số nghĩa vụ khác như phải có biện pháp ngăn chặn các hành vi nhằm vô hiệu
hóa các biện pháp công nghệ bảo vệ quyền tác giả (TPMs) và thông tin quản lý quyền (RMIs);
quyền của nghệ sỹ đối với việc bán lại tác phẩm…
Ba là, về quyền sở hữu công nghiệp: EVFTA đặc biệt chú trọng vấn đề tạo thuận lợi cho việc xác
lập quyền ở cả trong và ngoài nước. Theo đó, về sáng chế, ngoài việc khẳng định quyền và nghĩa
vụ theo Hiệp ước Hợp tác sáng chế (về thủ tục đăng ký sáng chế quốc tế), các bên còn có nghĩa
vụ tiến tới đơn giản hóa thủ tục đăng ký hơn nữa, tham khảo mô hình trong Hiệp ước Luật Sáng
chế. Đối với nhãn hiệu, Hiệp định yêu cầu các bên khẳng định quyền và nghĩa vụ theo Nghị định
thư liên quan đến Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu; đồng thời tiến tới đơn giản hóa
quy trình đăng ký, trong đó tham khảo mô hình trong Hiệp ước Luật Nhãn hiệu hay Hiệp ước
Singapore về Luật Nhãn hiệu. Ngoài ra, EVFTA còn đề cập một số nghĩa vụ khác như: quy định
nghĩa vụ “bù đắp” cho các trường hợp thời gian bảo hộ sáng chế thực tế của một dược phẩm bị
rút ngắn do chậm trễ trong thủ tục cấp phép lưu hành thị trường; kéo dài thời gian bảo hộ cho
kiểu dáng công nghiệp lên đến 15 năm và khả năng được bảo hộ quyền tác giả…
Bốn là, tăng cường hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ: EVFTA đặt ra thêm một số yêu cầu về
thực thi dân sự và kiểm soát biên giới so với Hiệp định TRIPS, nhằm tăng cường tính hiệu quả
của hoạt động thực thi quyền. Về thực thi dân sự, EVFTA hướng tới thủ tục yêu cầu thực thi
bằng biện pháp dân sự thuận lợi và cân bằng hơn thông qua việc đưa ra quy định về giả định về
chủ thể quyền; quy định nghĩa vụ chi trả án phí và phí luật sư theo hướng bên thua kiện (dù là
nguyên đơn hay bị đơn) có nghĩa vụ chi trả các phí này…
Trong bối cảnh EVFTA đã được thông qua, để hội nhập và phát triển, các doanh nghiệp cần đặc
biệt quan tâm đến SHTT, nhằm tăng “sức đề kháng” để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) cho rằng, để làm
được điều đó có cần tập trung vào các giải pháp, đó là: đẩy mạnh thực hiện tuyên truyền  nâng
cao nhận thức của doanh nghiệp và người dân về SHTT. Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của công chúng về SHTT đóng vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt là khi Việt Nam đã tham gia
vào EVFTA với các nước, các điều kiện ràng buộc về SHTT sẽ được nâng cao hơn, chặt chẽ và
minh bạch hơn. Ngoài ra, cần tích cực triển khai các chương trình hỗ trợ quản lý, khai thác và
thực thi quyền SHTT, đặc biệt dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; chủ động và mở rộng các
quan hệ quốc tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp có thể đăng ký bảo hộ và khai thác quyền SHTT
của mình một cách tốt nhất.

CPTPP

Một là, mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ là nhãn hiệu.
Chế độ bảo hộ nhãn hiệu khác biệt giữa các quốc gia gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền và lợi
ích của các chủ sở hữu nhãn hiệu trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đặc biệt vấn đề nổi cộm
hiện nay là xác định các dấu hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu. Bên cạnh nhãn hiệu hình là nhãn
hiệu truyền thống được bảo hộ, các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Nhật… đều quy
định về bảo hộ các nhãn hiệu phi truyền thống như mùi, âm thanh… Bởi vậy, các chủ sở hữu của
các nhãn hiệu này khi tiến hành lưu thông hàng hóa sản phẩm của mình sang các quốc gia khác
cũng mong muốn các dấu hiệu đó được bảo hộ là nhãn hiệu ở các nước đó.
Theo tinh thần của Hiệp định Trips, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc bảo hộ
các dấu hiệu truyền thống là nhãn hiệu. Cụ thể tại quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật Sở hữu trí
tuệ, dấu hiệu được đăng ký là nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ
ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng
một hoặc một số màu sắc nhất định. Pháp luật Việt Nam chỉ bảo hộ những dấu hiệu có thể nhận
biết được bằng thị giác.
Tuy nhiên, khoản 18 Điều 18 CPTPP quy định không bên nào được yêu cầu nhãn hiệu phải là
dạng nhìn thấy mới được nộp đơn xin bảo hộ, cũng như cơ quan có thẩm quyền cũng không được
từ chối đơn đăng ký của chủ đơn chỉ vì nhãn hiệu xin đăng ký dưới dạng âm thanh. Ngoài ra, mỗi
quốc gia thành viên đều có trách nhiệm nỗ lực để tiến hành mở đăng ký cho các nhãn hiệu mùi
hương.
Như vậy, CPTPP đã đặt ra cho các quốc gia thành viên nhiệm vụ phải nhanh chóng thiết lập cơ
chế bảo hộ đối với các nhãn hiệu phi truyền thống mà trước hết là nhãn hiệu âm thanh. Đã có 9
quốc gia trong số 11 quốc gia thành viên CPTPP quy định về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, 5 quốc
gia thành viên chấp thuận bảo hộ nhãn hiệu mùi, riêng Việt Nam và Malaysia chưa chấp thuận
bảo hộ “dấu hiệu không nhìn thấy được” là nhãn hiệu bao gồm cả nhãn hiệu là âm thanh và
mùi[3]. Bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống là một nội dung mới cho pháp luật sở hữu trí tuệ của
Việt Nam. Theo cam kết, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh các quy định để bảo hộ nhãn hiệu âm
thanh trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực. Sự thay đổi này có thể sẽ dẫn đến thay
đổi căn bản toàn bộ cơ chế đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam. Việc bảo hộ nhãn hiệu âm
thanh, mùi hương sẽ giúp doanh nghiệp yên tâm sáng tạo với những ý tưởng của mình. Tuy
nhiên, đây cũng là thách thức cho các cơ quan quản lý và thực thi sở hữu trí tuệ cũng như các
doanh nghiệp Việt Nam khi chưa có nhiều kiến thức và kinh nghiệm về loại nhãn hiệu mới này.
Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm lập pháp cũng như thực tiễn bảo hộ từ các quốc gia để xây
dựng một cơ chế bảo hộ riêng cho cả nhãn hiệu âm thanh và mùi.
Khi thực hiện cam kết bảo hộ nhãn hiệu là âm thanh đồng nghĩa với việc chúng ta phải sửa đổi
các quy định về bảo hộ nhãn hiệu, cụ thể:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ về xác định các dấu hiệu được
bảo hộ nhãn hiệu theo hướng, bên cạnh bảo hộ nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được thì
còn bảo hộ đối với dấu hiệu không nhìn thấy được; đồng thời, cần bổ sung quy định để chỉ rõ thế
nào là dấu hiệu âm thanh có thể được bảo hộ.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 73, Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng loại trừ các dấu hiệu
không nhìn thấy được không được coi là nhãn hiệu, và các trường hợp nhãn hiệu âm thanh bị coi
là không có khả năng phân biệt.
Hai là, hoàn thiện tiêu chí bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Nhãn hiệu nổi tiếng thường bị xâm phạm dù vô tình hay hữu ý. Do vậy, bảo hộ đối với nhãn hiệu
nổi tiếng luôn là vấn đề được quan tâm của nhiều quốc gia. Khi trở thành thành viên của Công
ước Paris 1883 và Hiệp định TRIPS, Việt Nam đã tích cực xây dựng các quy định về bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng để thực hiện các cam kết trong các điều ước quốc tế này.
Một trong các nội dung quan trọng trong bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là xác định các tiêu chí đánh
giá mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu. Mỗi quốc gia sẽ đưa ra các quy định về tiêu chí này là khác
nhau. Tuy nhiên, các tiêu chí này đều hướng đến việc làm rõ mức độ ảnh hưởng của nhãn hiệu
đối với người tiêu dùng và nền kinh tế. Trên thế giới, các quốc gia thường dựa trên hai nguyên
tắc: nguyên tắc “quyền ưu tiên” (first-to-file) và nguyên tắc “quyền sử dụng” (first-to-use) áp
dụng cho việc đăng ký bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, trong đó, nguyên tắc
quyền ưu tiên đăng ký được sử dụng phổ biến hơn cả. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, việc bảo hộ
không chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc “quyền ưu tiên” (first-to-file) mà còn dựa trên
nguyên tắc “quyền sử dụng” (first-to-use)[4]. Do vậy, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng có thể được
bảo hộ ngay cả khi chúng chưa được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền.
Ở Việt Nam, bên cạnh việc đưa ra định nghĩa chính thức về nhãn hiệu nổi tiếng, pháp luật sở hữu
trí tuệ còn đưa ra những tiêu chí cụ thể để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng. Đây cũng là hành
động cụ thể đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thành viên của Việt Nam khi ký kết Công ước Paris.
Việt Nam cũng xây dựng cơ chế bảo hộ đặc biệt cho nhãn hiệu nổi tiếng, cũng như nhiều quốc
gia khác, chấp nhận bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng dựa trên nguyên tắc “quyền sử dụng” (first-
to-use). Theo khoản 2 Điều 6 Nghị định số 103/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp (Nghị định số 103), quyền sở hữu công nghiệp đối với
nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó theo quy định
của Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký nhãn hiệu như các nhãn
hiệu thông thường.
Bên cạnh đó, khoản 6, khoản 7 Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ cũng xác định tiêu chí đánh giá mức
độ nổi tiếng của nhãn hiệu thông qua việc xem xét số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu và số
lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng. Tiêu chí này định lượng này tạo ra sự dễ dàng
cho các cơ quan có thẩm quyền xác nhận mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu, đồng thời gián tiếp
công nhận việc áp dụng nguyên tắc “quyền ưu tiên” (first-to-file), ngược với nguyên tắc “quyền
sử dụng” (first-to-use) được đề cập đến tại khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ và khoản 2 Điều
6 Nghị định số 103. Chúng tôi cho rằng, thực tiễn sử dụng là một tiêu chí quan trọng nhất để một
nhãn hiệu được công nhận là một nhãn hiệu nổi tiếng. Chính nhờ quá trình sử dụng liên tục mà
nhãn hiệu mới được người tiêu dùng biết đến.
Ngoài ra, còn có sự mâu thuẫn giữa quy định của khoản 6 Điều 75 về số lượng quốc gia bảo hộ
nhãn hiệu và quy định của khoản 20 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ. Định nghĩa tại Điều 4 chỉ yêu
cầu nhãn hiệu nổi tiếng chỉ cần được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt
Nam trong khi tiêu chí công nhận lại nêu số lượng quốc gia.
CPTPP quy định về tiêu chí xác định mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu như sau: “Không Bên nào
được quy định rằng điều kiện để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng là nhãn hiệu đó đã được
đăng ký tại Bên đó hoặc trong một lãnh thổ tài phán khác, hoặc được liệt kê trong một danh sách
các nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc đã được công nhận là một nhãn hiệu nổi tiếng”. Như vậy, CPTPP
yêu cầu các nước không được lấy tiêu chí số lượng các quốc gia đã bảo hộ nhãn hiệu, đã công
nhận nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đã nằm trong danh mục nhãn hiệu nổi tiếng để quyết định bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng. Vì vậy, để phù hợp với yêu cầu của CPTPP, cần sửa đổi Điều 75 Luật Sở
hữu trí tuệ theo hướng bỏ quy định của khoản 6 và khoản 7 về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi
tiếng.

1. Các chủ thể có quyền yêu cầu giám định sở hữu trí tuệ
Theo Điều 40, Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định về thẩm quyền trưng cầu giám định và
quyền yêu cầu giám định SHTT:
– Cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định SHTT gồm các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp, xử lý xâm phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về sở hữu trí tuệ quy định tại  Điều 200
của Luật Sở hữu trí tuệ.
– Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu giám định sở hữu trí tuệ bao gồm:
+ Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;
+ Tổ chức, cá nhân bị yêu cầu xử lý về hành vi xâm phạm hoặc bị khiếu nại, tố cáo về sở hữu trí
tuệ;
+ Tổ chức, cá nhân khác có quyền, lợi ích liên quan đến vụ tranh chấp, xâm phạm, khiếu nại, tố
cáo về sở hữu trí tuệ.
– Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu giám định quy định tại khoản 2 Điều này có quyền tự mình
hoặc uỷ quyền cho tổ chức, cá nhân khác yêu cầu tổ chức giám định sở hữu trí tuệ, người giám
định SHTT thực hiện giám định.
2. Tổ chức giám định sở hữu trí tuệ
Theo Điều 42 Nghị định 119/2010/NĐ-CP quy định về Tổ chức được phép hoạt động giám định
SHTT bao gồm:
– Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo pháp luật về doanh nghiệp;
– Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo pháp luật về hợp tác xã;
– Đơn vị sự nghiệp;
– Các tổ chức hành nghề luật sư được thành lập và hoạt động theo pháp luật về luật sư, trừ:
+ Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài
+ Công ty luật TNHH 100% vốn nước ngoài
+ Công ty luật TNHH dưới hình thức liên doanh giữa tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam và tổ
chức hành nghề luật sư nước ngoài.
Các tổ chức muốn được phép hoạt động giám định SHTT cũng phải đáp ứng đủ các điều kiện thì
mới được phép thực hiện hoạt động giám định sở hữu trí tuệ, các điều kiện này cũng được quy
định như sau:
– Có ít nhất một giám định viên sở hữu trí tuệ;
– Có trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc;
– Có nguồn cơ sở dữ liệu thông tin cần thiết để thực hiện hoạt động giám định.
Và các tổ chức giám định sở hữu trí tuệ này cũng chỉ được thực hiện hoạt động giám định trong
lĩnh vực đã đăng ký hoạt động.
3. Nội dung và lĩnh vực giám định SHTT
Theo Điều 39 Nghị định 105/2010/NĐ-CP được sửa đổi bởi Nghị định 119/2010/NĐ-CP, giám
định về sở hữu trí tuệ bao gồm cá nội dung:
– Xác định phạm vi bảo hộ của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 6 của Nghị
định này;
– Xác định đối tượng được xem xét có đáp ứng các điều kiện để bị coi là yếu tố xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ hay không theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 và các điều từ Điều 7 đến Điều 14 của
Nghị định này;
– Xác định có hay không sự trùng, tương đương, tương tự, gây nhầm lẫn, khó phân biệt hoặc sao
chép giữa đối tượng được xem xét với đối tượng được bảo hộ;
– Xác định giá trị quyền sở hữu trí tuệ, xác định giá trị thiệt hại.
Như vậy, giám định sở hữu trí tuệ có vai trò hỗ trợ cho việc đánh giá, kết luận một hanh vi có
được coi là xâm phạm sở hữu trí tuệ hay không và kết luận các vấn đề liên quan về hành vi xâm
phạm. Hoạt động giám định này chỉ là giám định pháp lý chứ không phải là giám định kỹ thuật

You might also like