You are on page 1of 93

LỜI NÓI ĐẦU

Kể từ lần xuất bản đầu tiên vào năm 1996 của cuốn sách này, môn học Tư Duy
Phản Biện (Critical Thinking) đã không ngừng phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.
Đây là một môn học mà trước đây hầu hết các giáo viên (và cả các sinh viên) chưa
từng được nghe đến nhưng đến nay nó đã được hàng ngàn người ở hàng trăm các
trường trung học, cao đẳng và đại học chú tâm nghiên cứu, sự phát triển của Tư Duy
Phản Biện là một sự kiện đáng lưu ý. Với hàng chục ngàn bản đã được bán ra, giáo
trình này đã có một đóng góp đáng kể vào sự phát triển của môn học, và đó chính là
sự khích lệ lớn lao đối với tôi.
Giáo trình này sẽ giới thiệu cho bạn những kỹ năng cơ bản của Tư Duy Phản
Biện. Đặc điểm chính của môn học này là nghiên cứu về những lập luận: làm cách
nào để phân tích và đánh giá những lâp luận này. Hầu như ở đâu chúng ta cũng
thấy xuất hiện những lập luận. Chúng có mặt trong các quảng cáo, cùng với lời đề
nghị nên mua một món hàng mà người ta giới thiệu vì những lý do nhất định nào đó
(chẳng hạn, 68% trong số 42 người phụ nữ đều nói rằng các nếp nhăn hầu như biến
mất sau hai tuần sử dụng loại mỹ phẩm ‘Vĩnh biệt nếp nhăn – No More Wrinkles’).
Báo chí cũng thường dùng những lập luận nhằm thuyết phục chúng ta tin vào những
điều mà họ đưa ra (chẳng hạn, chúng ta nên ủng hộ đề nghị xin cấp chứng minh nhân
dân bởi vì chứng minh nhân dân sẽ giúp làm giảm thiểu vấn đề tội phạm). Tất nhiên,
chính chúng ta cũng phải sử dụng những lập luận nhất định nào đó trong hoạt động
hàng ngày của mình: “Tôi không đồng ý với bạn bởi vì…”.
Việc xem xét một cách rõ ràng những điều đang diễn ra trong một lập luận là
một kỹ năng rất hữu ích. Nó có thể giúp bạn nghiên cứu khá kỹ càng bất kỳ đề tài
nào, giúp bạn xem xét những chứng cứ và những yêu cầu được thiết lập xung quanh
nó. Nó cũng khuyến khích bạn tìm kiếm những lý giải tương ứng cho các chứng cứ,
và xem xét xem những lý giải này có tác động gì đến lợi thế trong lập luận của người
nói hay không. Bằng cách này hay cách khác, Tư Duy Phản Biện có thể giúp bạn trở
nên năng động hơn trong những nghiên cứu của mình. Hơn nữa, môn học này đem
lại một kỹ năng rất hữu ích. Bạn có thể sử dụng nó để xem xét các vấn đề trong những
lập luận của riêng mình và của những người khác.

1
Nếu nghiên cứu Tư Duy Phản Biện để đánh giá trong thi cử, thì giáo trình này
sẽ thực sự có ích để giới thiệu với bạn những kỹ năng mà bạn sẽ cần. Nếu bạn muốn
tìm một quyển sách về Tư Duy Độc Lập dễ hiểu, dễ tiếp cận và ngắn gọn, thì giáo
trình này sẽ phù hợp với những yêu cầu của bạn. Nếu bạn dự định đi thi trắc nghiệm
như TSA, BMAT, LNAT, thì giáo trình này sẽ giúp bạn chuẩn bị hiệu quả nhất để
đối phó với những tình huống đó.
Thoạt đầu khi viết giáo trình này, tôi phải công nhận là các con tôi phải chịu
trận nhiều. Tuy nhiên, càng lớn chúng càng có khuynh hướng tranh luận nhiều hơn,
giờ thì tôi lại phải cám ơn các cháu của tôi về sự chịu đựng của chúng. Hy vọng, môn
học Tư Duy Phản Biện sẽ phát triển và có ảnh hưởng mạnh hơn nữa đối với các thế
hệ sinh viên. Xin cảm ơn Daisy, Darcey, Eleanor, Hannie, Martha, Noah, Ruby và
Thomas, những người đã đóng góp cho sự phát triển của môn học Tư Duy Độc Lập.
Mặc dù trong số trên có người tóc đã bạc nhưng vẫn nỗ lực làm cho môn học này
ngày càng phát triển hơn nữa.

Roy van den Brink-Budgen

2
MỤC LỤC

Lời nói đầu


1. Nhận dạng những lập luận
Thuyết phục và tranh luận
Tìm hiểu những lập luận
Nhận thức tầm quan trọng của lập luận
Tranh luận, giải thích và tổng kết
Đưa ra lý do phù hợp với kết luận
Bài tập
2. Phân tích những lập luận đơn giản
Nhận dạng những lý do và kết luận
Kiểm tra vai trò của lý do
Trình bày cấu trúc của lập luận dưới dạng sơ đồ
Phân biệt câu lý do với những câu khác
Quyết định rút ra kết luận
Bài tập
3. Đi sâu hơn vào những lập luận
Tìm hiểu thêm những kết luận trong một lập luận
Khắc phục những khiếm khuyết khi nêu lý do
Sử dụng phép loại suy
Bài tập
4. Khai thác những nhược điểm trong một lập luận
Điều kiện cần và đủ
Nhầm lẫn giữa nguyên nhân và kết quả
Công kích người tranh luận chứ không phải lập luận
Lòng vòng
Giảm thiểu xu hướng tuột dốc
Xuyên tạc quan điểm của người đối lập
Biến sai thành đúng
Giới hạn những giải pháp
Thực hiện những lời kêu gọi không xác đáng

3
Bài tập
5. Tìm hiểu những ưu điểm
Tìm kiếm sự chắc chắn
Làm tăng khả năng xảy ra
Bài tập
6. Đánh giá tính xác thực của bằng chứng
Đánh giá những lập luận
7. Ứng dụng những kỹ năng
Đặt vấn đề đúng

4
CHƯƠNG 1

Nhận dạng những lập luận

THUYẾT PHỤC VÀ TRANH LUẬN


Nếu người ta yêu cầu bạn phát biểu xem “lập luận” là gì, thì có lẽ bạn sẽ dùng những
từ đại khái như “sự bất đồng” hay “sự tranh cãi” để lý giải cho nó. Ví dụ sau đây sẽ
phù hợp với cách mô tả này:
Tôi không thể hiểu được khi nghe người ta nói rằng người hút thuốc không
được phép hút ở những nơi công cộng. Tôi nghĩ, mọi người đều được phép
hút thuốc ở bất kỳ nơi nào.
Trong ví dụ này, rõ ràng người nói diễn tả sự bất đồng. Lập luận này có thể
giúp chúng ta hiểu được quan điểm của những người muốn giới hạn quyền của những
người hút thuốc. Bạn có thể nêu ra những ví dụ khác từ những bất đồng đơn giản giữa
bạn bè với nhau cho đến những bất đồng phức tạp hơn như những bất đồng giữa các
đảng phái chính trị.
Tuy nhiên, trong tư duy phê phán, từ “lập luận” có ý nghĩa sâu hơn, không chỉ
dừng lại ở “sự bất đồng”. Bất đồng vẫn chưa đủ mà phải có một nỗ lực để thuyết phục
người khác để họ thấy rằng luận điểm này thích hợp hơn luận điểm kia. Trở lại với ví
dụ đầu tiên, người nói làm cách nào để thuyết phục chúng ta khi cho rằng “mọi người
đều được phép hút thuốc ở bất kỳ nơi nào”?
Câu trả lời thật đơn giản: không thể thuyết phục được.
Thuyết phục bằng cách nêu những lý do
Người nói ở ví dụ đầu tiên bất đồng nghiêm trọng với những ai cho rằng không
được phép hút thuốc ở nơi công cộng. Cho dù người ta có nói gì đi nữa thì không có
gì làm cho bạn thay đổi quan điểm của mình về một chủ đề nào đó. Tuy nhiên, hãy
xem xét kỹ ví dụ sau:
Mọi người đều được phép hút thuốc ở bất kỳ nơi nào. Hút thuốc không trái
luật, và hàng triệu người cảm thấy thích thú việc hút thuốc.
Như vậy, sự khác biệt nằm ở chỗ nào? Như bạn thấy, người nói giờ đây đã đưa
ra cho chúng ta hai lý do để giải thích tại sao “người ta lại được phép hút thuốc ở bất
kỳ nơi nào”. Lý do thứ nhất, hút thuốc không trái luật; lý do thứ hai, hàng triệu người

5
thích hút thuốc. Cho dù bạn có đồng ý với những lý do này hay không, thì cái chính
vẫn là, trong ví dụ thứ hai này người nói đang cố gắng thuyết phục người khác. Cố
gắng vượt qua sự bất đồng đơn giản.
Ví dụ này cũng gợi ra cho chúng ta một hướng giải quyết, đó là, vẫn chưa có
đầy đủ cơ sở để nói rằng bạn bất đồng. Mặc dù vẫn chưa thuyết phục được bạn nhưng
những lý do mà người nói đưa ra ít nhất cũng đã được người khác công nhận. Để giải
quyết một lập luận, bạn phải đưa ra những lý do của riêng mình. Nói cách khác, lập
luận này phải được giải quyết bằng một lập luận khác.
Như vậy, từ đầu đến giờ chúng ta đã thiết lập được những vấn đề gì?
 Phải nêu lý do trong cách lập luận.
 Lập luận phải hướng đến việc thuyết phục người khác.
Bạn có thể nhận thấy rằng lập luận của người có tư duy phê phán không phải
là cố gây áp lực để bắt người khác chấp nhận một luận điểm nhất định nào đó. Họ
không đưa ra những mệnh lệnh mang tính ép buộc để xem xét các vấn đề theo kiểu
một chiều mà xem xét nó dưới góc độ đa chiều. Hơn nữa, họ còn thiết lập những lý
do theo cách này, nếu bạn chấp nhận những lý do đó, thì chắc chắn bạn sẽ bị thuyết
phục bằng một luận điểm nhất định nào đó.
Rút ra kết luận bằng những lý do
Trở lại với ví dụ thứ hai. Câu đầu tiên có chức năng gì?
Như chúng ta đã thấy, đây là câu nói mà người nói muốn thuyết phục chúng
ta chấp nhận. Nếu bạn muốn thì câu này là điểm chính mà người nói muốn nói. Câu
này là cách diễn tả mà chúng ta gọi là kết luận của một lập luận.
Chúng ta thường cho rằng “kết luận” là cái đạt được sau cùng. Chẳng hạn,
chúng ta bàn về phần kết của một chương trình truyền hình nhiều kỳ. Nhưng khi
chúng ta dùng từ “kết luận” trong tư duy phê phán, thì có nghĩa là chúng ta đang dùng
từ này theo một nghĩa chuyên dụng. Chúng ta không dùng nó theo nghĩa là câu kết
cho một đoạn văn nào đó, mặc dù kết luận của một lập luận có thể được đặt ở cuối
câu, nhưng không nhất thiết cứ câu cuối mới được xem là kết luận. Kết luận có thể
đứng ở bất cứ vị trí nào – thậm chí ở ví dụ thứ hai nó lại đứng ở đầu câu. Tuy nhiên,
nếu không rút ra kết luận, thì lập luận được xem như chưa được hoàn thành. Lý do
có thể được viện dẫn bằng nhiều cách nhưng phải có sức thuyết phục chúng ta.
Đây chính là đặc điểm của một lập luận, những lý do có thể được viện dẫn

6
bằng nhiều cách nhưng phải đưa chúng ta đến ý nghĩa rõ ràng của “kết luận” với tư
cách là cái “kết thúc”. Mặc dù kết luận của một lập luận không cần phải máy móc
từng chữ được đặt ở cuối câu, nhưng nó phải được đặt ở một vị trí nào đó để có thể
“kết thúc” được một lập luận, thể hiện được những điều mà mình muốn thiết lập.
Giờ đây chúng ta có thể ghi chú thêm một đặc điểm nữa của lập luận.
 Lập luận phải có kết luận.
Đến đây, có lẽ bạn sẽ phải trả lời một số vấn đề. Cần phải trả lời những vấn đề
này trước khi chuyển sang phần khác.
Đặt vấn đề và trả lời
Làm thế nào để có thể nhận ra được là mình đang giải quyết một lập luận?
Bạn cần phải tìm ít nhất một phần nào đó đề cập đến lý do có thể dẫn đến một
kết luận và tất nhiên phải dẫn đến một kết luận đích thực.
Làm thế nào có thể phân biệt được đâu là lý do và đâu là kết luận?
Cách đơn giản nhất để phân biệt là xem xét chức năng riêng có của chúng là
gì. Kết luận là mục đích chính của lập luận, diễn tả người lập luận muốn thuyết phục
người khác chấp nhận một vấn đề nào đó. Lý do là cái hỗ trợ cho chính cái kết luận
này, có thể hiểu một cách nôm na, lý do giải quyết câu hỏi tại sao chúng ta lại chấp
nhận điều đó.
Một lập luận phải đưa ra bao nhiêu lý do?
Một lập luận phải có tối thiểu một lý do. Tuy nhiên, không có giới hạn về con
số khi đưa ra lý do.
Bạn từng cho rằng lập luận là cố gắng thuyết phục người khác về một luận
điểm nhất định nào đó. Điều gì xảy ra nếu như không thuyết phục được người khác?
Có phải một lập luận phải thuyết phục được người khác thì mới được gọi là một lập
luận?
Miễn là có tối thiểu một lý do hỗ trợ cho kết luận thì đó được xem là một lập
luận. Mặc dù đó là một lập luận rất dở - một lập luận có thể (hoặc không) thuyết phục
được người khác – tuy nhiên đó vẫn là một lập luận.
Như vậy, nếu đưa ra lập luận nhằm mục đích thuyết phục người khác, thì có
phải nỗ lực thuyết phục người khác mới được gọi là lập luận?
Không phải. Có nhiều trường hợp cho thấy những nỗ lực thuyết phục người
khác vẫn không phải là những lập luận. Chẳng hạn, người quảng cáo đôi khi cố tìm

7
mọi cách để bán một sản phẩm nào đó (tức là cố thuyết phục chúng ta mua) bằng
cách chẳng nói gì cả. Thật đơn giản, nếu bạn đặt cơ sở cho một lập luận thì đó cũng
chính là một nỗ lực mang tính thuyết phục rồi; nhưng nếu bạn đặt cơ sở cho một vấn
đề nào đó nhằm nỗ lực thuyết phục người khác thì vấn đề đó không nhất thiết là một
lập luận.

TÌM HIỂU NHỮNG LẬP LUẬN


Đến đây thì bạn đã biết một lập luận phải có lý do và kết luận, và biết cách
xem xét lý do và kết luận đó để làm gì. Như đã nói ở trên, ở một góc độ nào đó lý do
sẽ hỗ trợ cho kết luận. Hãy nhớ lại ví dụ bàn về việc hút thuốc ở nơi công cộng. Nếu
chúng ta thay đổi phần nào cách nói và chuyển sang nhấn mạnh hơn phần kết luận,
thì bạn có thể thấy được tác dụng của những lý do đã đưa ra.
Hút thuốc không trái luật. Hơn nữa, hàng triệu người cảm thấy thích thú việc
hút thuốc. Do đó, mọi người đều được phép hút thuốc ở bất kỳ nơi nào.
Đi tìm những từ đóng vai trò là đầu mối
Bằng cách này cho thấy, kết luận được xây dựng bằng từ “do đó”. Một số loại
từ thường dùng này sẽ báo cho bạn biết kết luận nằm ở đâu. Những từ dẫn đến kết
luận thường dùng như “do vậy”, “vì thế”, “thế thì”, và “như vậy thì”. Hãy đặt một
trong những từ này thay thế cho từ “do đó” thì bạn sẽ thấy chúng có cùng chức năng
như thế nào. Xét ví dụ trên, bạn cũng sẽ thấy từ “nên” sẽ đem lại cho bạn một đầu
mối nhất định khi đưa ra một kết luận (một từ khác nữa là “phải”). Tuy nhiên, kết
luận không phải lúc nào cũng được đặt trên một cơ sở có lý, như trong ví dụ này.
Điều này cho thấy, để trở thành một người có tư duy phê phán có sức thuyết phục, thì
bạn có thể tìm ra những kết luận mà không cần sử dụng những từ đóng vai trò làm
đầu mối.
Sẽ không có những từ đóng vai trò làm đầu mối hữu ích hoàn toàn để chỉ ra
sự hiện diện của những lý do. Hơn nữa, bạn sẽ phải thực hiện việc thiết lập những từ
này cho dù những lý do có được quy định hay không.
Bài tập thực hành để tìm hiểu những lập luận
Giới thiệu
Đến đây thì bạn đã biết thế nào là một lập luận, sự hiểu biết này sẽ giúp bạn
thực hành những kỹ năng nhận dạng ra chúng. Sau đây là bốn đoạn văn ngắn mà bạn

8
phải đọc và tìm hiểu xem cái nào là lập luận và cái nào không phải là lập luận. Hãy
nhớ rằng, bạn sẽ tìm những đoạn văn có chứa những lý do hỗ trợ cho một kết luận.
Để giúp bạn thực hiện, chúng tôi sẽ bắt đầu bằng một ví dụ. Hãy kiểm tra xem đây
có phải là một lập luận hay không?
Nếu không trang bị máy tính ở nhà thì người ta sẽ bị lạc hậu đối với những
thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, và sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Ngày
nay máy tính rẻ hơn so với trước. Hầu như mọi đứa trẻ đều cảm thấy hoàn toàn thoải
mái khi dùng máy tính.
Đây không phải là một lập luận. Cho dù bạn có thay đổi trật tự của ba câu này
vẫn không có câu nào có thể là một kết luận được rút ra từ hai câu còn lại. (Hãy kiểm
tra lại). Nói cách khác, bạn không thể dùng hai câu bất kỳ trong ba câu này dùng làm
lý do cho câu còn lại. Tất cả những dữ kiện mà bạn có hiện nay là ba câu nhận định
về máy tính mà thôi. Xem nội dung của ví dụ tiếp theo.
Trẻ em có thể học ở trường tốt hơn nhiều nếu như các em được quyền dùng
máy tính ở nhà. Giá của loại máy tính gia đình đã xuống thấp đáng kể trong mấy năm
qua. Do vậy, các bậc phụ huynh nên mua máy tính cho con mình dùng ở nhà.
Đây là một lập luận. Câu kết luận (“Do vậy, các bậc phụ huynh…”) được hỗ
trợ bằng những câu đóng vai trò là lý do ở hai câu đầu. Nói cách khác, ở đây có một
nỗ lực thuyết phục các bậc phụ huynh nên mua máy tính.
Các vấn đề được đặt ra
Bây giờ hãy xem các đoạn văn sau đây, đoạn văn nào là lập luận. (bạn cần chỉ
rõ câu nào là lý do, câu nào là kết luận).
(1) Các công ty truyền hình vệ tinh đang trả giá cao để giành quyền điều
hành phát hình trực tiếp các chương trình thể thao. Đa số người ta không đăng ký
sử dụng truyền hình vệ tinh dài hạn. Công nghệ truyền hình đang ngày càng thay
đổi nhanh chóng.
(2) Đa số những người đến sở thú đều muốn xem các loài động vật. Những
loài động vật nguy hiểm được trưng bày, cho dù có đẹp cỡ nào cũng chẳng bao
giờ có thể làm cho chúng ta hứng thú bằng những con sư tử thật và voi thật. Các
sở thú cần tập trung vào việc nuôi nhiều động vật sống chứ không phải là trưng
bày chúng.
(3) Một số sở thú đang nỗ lực cứu các loài động vật nguy hiểm để đưa

9
chúng về với thế giới hoang dã. Những chương trình về đời sống hoang dã trên
tivi rất phổ biến. Những vùng nuôi thú hoang dã để quan sát đem lại cơ hội cho
những ai muốn xem các loài thú đi lang thang tự do trong đó.
(4) Những biện pháp làm cho xe chạy chậm lại trong giao thông ngày càng
trở nên cần thiết ở những khu dân cư. Xe hơi chạy quá nhanh dọc theo những con
đường có dân cư. Việc áp đặt giới hạn tốc độ không làm giảm được tốc độ của xe
lưu thông ở khu vực này.
Giải quyết vấn đề
(1) Đây không phải là một lập luận. Trong đoạn văn này, không có câu nào
là câu kết luận được rút ra từ hai câu còn lại.
(2) Đây là một lập luận. Câu thứ ba là kết luận được hỗ trợ bằng những lý
do trong hai câu kia. Câu “Các sở thú cần tập trung vào việc nuôi nhiều động vật
sống chứ không phải là trưng bày chúng” được chứng minh bằng tuyên bố rằng
“đa số người ta đều muốn xem các loài động vật”, và “xem động vật trưng bày có
thể chẳng bao giờ thích bằng những con vật thật”. Đây là cách duy nhất để bạn
xây dựng một lập luận trong đoạn văn này, còn nếu bạn có cách khác để giải quyết
thì hãy xem lại đoạn văn này.
(3) Đây không phải là một lập luận. Mọi dữ kiện mà bạn có chỉ là ba câu
nhận định về sở thú, các chương trình về đời sống hoang dã và những vùng nuôi
thú hoang dã để quan sát. Bất cứ câu nào mà bạn đã đưa ra cũng không thể là kết
luận được rút ra từ hai câu còn lại.
(4) Đây là một lập luận. Câu đầu là kết luận được rút ra từ hai câu kia. Lý
lẽ của vấn đề nằm ở chỗ: vì xe hơi chạy quá nhanh dọc theo những con đường có
dân cư, và vì việc giới hạn tốc độ không có hiệu quả, do đó những biện pháp làm
cho xe chạy chậm lại trong giao thông ngày càng trở nên cần thiết.
Hãy nhớ rằng, khi tiến hành những lập luận thì bạn không tiến hành vấn đề có
thể được tranh luận mà phải tiến hành vấn đề thực sự cần được tranh luận. Nói cách
khác, bạn đang tìm chất liệu để cho những lý do được đưa ra sẽ hỗ trợ cho kết luận.
NHẬN THỨC TẦM QUAN TRỌNG CỦA LẬP LUẬN
Đến đây thì bạn có thể đã nhận ra các lập luận, tuy nhiên một vấn đề mang
tính thủ tục vẫn còn bị bỏ ngỏ.

10
Việc tìm hiểu xem lập luận là gì rất thú vị, nhưng tại sao chúng ta lại phải tìm
hiểu vấn đề này?
Đây là một câu hỏi thú vị. Nếu bạn thành thạo các kỹ năng như đã mô tả ở
trên, bạn có thể nắm bắt được những điều cần thiết mà bạn đang tìm hiểu.
Lập luận có mặt trong mọi vấn đề. Chúng hiện diện trên báo, tạp chí, truyền
hình, truyền thanh, các môn học ở trường, các cuộc tranh cãi, vấn đề kiện tụng. Có
những lập luận hay, nhưng cũng có những lập luận dở; có những lập luận quen thuộc
đến nỗi bạn không nghĩ đó là những lập luận; và có những lập luận lại khiến bạn nghi
ngờ nhiều hơn. Nguyên nhân phần lớn là do người ta mất nhiều công sức để cố thuyết
phục chúng ta về một vấn đề nhất định nào đó chứ không thuyết phục chúng ta về
vấn đề mà chúng ta cần để phát triển kỹ năng đánh giá những lập luận. Hơn nữa, việc
phát triển khả năng lập luận của mình cũng rất quan trọng, nhất là khi chúng ta đã trở
nên tương đối khá trong lập luận về những chủ đề mang tính học thuật.
Chẳng hạn, khi nghiên cứu các vấn đề khoa học xã hội, bạn sẽ gặp những lập
luận có mặt trong mọi ngóc ngách của vấn đề học thuật như: những lập luận bàn về
nguyên nhân phạm tội, thay đổi xã hội, tầm quan trọng của gia đình, v.v… Hay khi
nghiên cứu về lịch sử, bạn cũng sẽ phải đối diện với những lập luận như: ý nghĩa của
cuộc Cách mạng Pháp, những nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Thế giới lần Thứ
nhất, và vai trò của tôn giáo trong xã hội đổi thay.
Nếu nghiên cứu những môn học như sinh học và động vật học, bạn sẽ đối đầu
với những lập luận nói đến bản chất của những thay đổi liên quan đến tiến hóa như
tại sao và làm thế nào mà não bộ của người sơ khai lại phát triển mạnh đến nỗi số liên
kết có thể lớn hơn số nguyên tử trong vũ trụ.
Thực hiện những phán đoán
Thành thạo một chủ đề nhất định nào đó có lẽ tốt hơn là biết hàng loạt các sự
kiện. Rõ ràng, không có thứ tri thức sự kiện, nghĩa là, bạn không những phải biết
nhiều mà còn phải đánh giá và phân tích những tài liệu mà bạn nghiên cứu nữa. Nhiều
lúc bạn cần thực hiện những công việc đòi hỏi bạn phải đưa ra những phán đoán trong
những tài liệu mà bạn nghiên cứu. Sẽ rất thuận lợi nếu như bạn có được những kỹ
năng tư duy phê phán từ việc yêu cầu thực hiện phân tích thông tin cho đến những
yêu cầu còn bỏ ngỏ để “thảo luận” về một chủ đề chung nào đó.

11
TRANH LUẬN, GIẢI THÍCH VÀ TỔNG KẾT
Trước khi tìm hiểu sâu hơn về những lập luận, chúng ta cần xem xét lại sự
khác nhau giữa giải thích, tổng kết và tranh luận.
Giải thích và tranh luận
Không phải mọi thứ có dáng dấp của một lập luận đều là một lập luận thực sự.
Hãy nhớ rằng, bên cạnh những lý do và kết luận, thì lập luận có vai trò dùng để thuyết
phục người khác. Hãy nhận xét ví dụ sau:
Tàu cập cảng lúc 7 giờ 30. 30 phút sau hành khách lên bờ. Vì thế nhân viên
Hải quan sẽ làm nhiệm vụ từ lúc đó cho đến 7giờ 55.
Ví dụ này có hình thức của một lập luận, với hai lý do được nêu hỗ trợ
cho một kết luận. Tuy nhiên nó vẫn không phải là cách viết dùng để thuyết phục:
vì nó không giải thích nhiều về việc điều gì sẽ xảy ra. Nó chỉ chứng minh thời
gian làm nhiệm vụ mà không chứng minh công việc nào khác của nhân viên hải
quan.
Vì thế chúng ta có thể phân biệt giữa giải thích với lập luận theo mục đích
được đặt ra.
Không thể nói rằng những giải thích không được tư duy phê phán quan tâm.
Thường thì một lập luận sẽ dựa vào một giải thích riêng để hỗ trợ cho kết luận của
nó. Trong những trường hợp như thế, bạn phải đánh giá giải thích đó để xem nó có
sự hỗ trợ nào cho lập luận ấy hay không. Hãy xem ví dụ sau:

Cháy rừng gây ra do một số người đi cắm trại nấu ăn và để lại những cục than
còn cháy đỏ trên mặt đất. Nếu muốn làm giảm nguy cơ những vụ cháy rừng trong
tương lai thì chúng ta phải cấm không cho cắm trại trong rừng nữa.
Trong ví dụ này, người nói dùng cách giải thích nạn cháy rừng để lập luận
rằng chúng ta cần phải cấm việc cắm trại. Cách giải thích này không tương
đương với lập luận mà nó chỉ được dùng như một lý do để dẫn đến kết luận. Giải
thích về nguyên nhân của cháy rừng có thể được chấp nhận, nhưng có người lại
muốn giải thích rằng cách giải thích như thế vẫn chưa đủ để hỗ trợ cho kết luận.
Tổng kết và tranh luận
Một hình thức lập luận khác không chứa mục đích thuyết phục trong lập luận
là tổng kết. Ví dụ sau đây sẽ trình bày hoạt động của tổng kết trong lập luận:

12
Mua một ngôi nhà sẽ mất thời gian xem xét nhiều ngôi nhà khác. Cũng như sẽ
phải mất tiền để khảo sát. Ngoài ra còn phải kiên nhẫn và quyết đoán nữa. Vì thế
người mua nhà cần phải có thời gian, tiền bạc, sự kiên nhẫn và tính quyết đoán.
Như chúng ta đã thấy, từ “vì thế” thường chỉ ra sự hiện diện của một kết luận.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, câu bắt đầu bằng từ này vẫn không phải là một kết
luận. Ba câu đầu có thể đóng vai trò là những câu lý do của lập luận, nhưng câu cuối
cùng lại không dùng ba câu này với vai trò là những câu lý do để dẫn đến câu kết
luận. Như bạn thấy, câu cuối cùng chỉ là tổng kết nội dung của ba câu đầu. Đây không
phải là một kết luận dựa vào những lý do đã nêu. Để thấy rõ được sự khác biệt này,
hãy xem xét cách giải thích khác cho ví dụ trên, trong đó, ba câu đầu thực sự được
dùng làm lý do.
Mua một ngôi nhà sẽ mất thời gian xem xét nhiều ngôi nhà khác. Cũng như sẽ
phải mất tiền để khảo sát. Ngoài ra còn phải kiên nhẫn và quyết đoán nữa. Vì thế
người mua nhà cần phải có thời gian, tiền bạc, sự kiên nhẫn và tính quyết đoán. Hầu
như mọi người không có nhiều thời gian, tiền bạc và rất ít kiên nhẫn cũng như tính
quyết đoán. Vì thế, họ không cần cố gắng mua nhà.
Như bạn thấy, câu cuối không phải là tổng kết của những câu đầu. Nó rút ra
kết luận dựa trên những lý lẽ trước. Nói cách khác, nó rộng nghĩa hơn những câu đã
được khẳng định trước đó. Bằng bản chất của mình, tổng kết có thể hiệu quả hơn là
khẳng định lại những khẳng định trước đó.

ĐƯA RA LÝ DO PHÙ HỢP VỚI KẾT LUẬN


Phân biệt giữa tổng kết và tranh luận là một vấn đề quan trọng cần phải nhớ,
trong đó nó khiến chúng ta phải chú ý vào mối quan hệ giữa lý do và kết luận. Chúng
ta bàn về một kết luận được rút ra từ những lý do được nêu, vì thế những lý do phải
hỗ trợ đầy đủ cho kết luận. Nếu không, sẽ dẫn đến việc rút ra kết luận sai.
Mối quan hệ giữa việc nêu lý do và kết luận có thể được minh họa bằng bài
tập ngắn sau đây. Trong bài tập này, bạn sẽ thấy một kết luận đứng sau ba lựa chọn,
chỉ có một trong ba lựa chọn này đóng vai trò là lý do dẫn đến kết luận. Nhiệm vụ
của bạn là nhận ra lý do trong số ba lựa chọn có thể hỗ trợ cho kết luận.
Bài tập
Kết luận: Không được phép gọi điện thoại di động tại công ty.

13
Lý do:
(A) Hầu hết các nhân viên của công ty đều có điện thoại di động.
(B) Việc sử dung điện thoại di động có thể làm nhiễu các máy tính
trong công ty.
(C) Đa phần công việc trong công ty đều được thực hiện bằng Fax
chứ không phải bằng điện thoại.
Trong (A), (B) và (C), câu nào đóng vai trò là lý do tốt nhất để dẫn đến kết
luận?
Trả lời
Câu trả lời là (B). Nếu điện thoại di động có thể làm nhiễu các máy tính, thì
đây là một lý do đúng để không cho phép sử dụng điện thoại di động tại công ty vì có
thể việc đó làm ảnh hưởng bất lợi đến công việc của công ty.
(A) không phải là lý do đúng để dẫn đến kết luận. Nếu không giải thích thêm,
thì khẳng định cho rằng, “hầu hết các nhân viên của công ty đều có điện thoại di
động” vẫn chưa đủ để kết luận cấm điện thoại. (cách giải thích thêm có thể là các
nhân viên mất quá nhiều thời gian vào việc sử dụng điện thoại riêng và vì thế làm
việc không hiệu quả). Bạn có thể kết hợp câu (A) với câu (B) để đưa ra một lập luận
chắc chắn hơn là chỉ đưa ra câu (B), tuy nhiên bạn có thể nhận thấy nếu không có câu
(B) thì câu (A) không thể đảm nhận vai trò là lý do để đưa ra kết luận này.
(C) cũng không phải là lý do đúng. Ý nghĩa của câu này có thể là các nhân
viên có lẽ chưa từng sử dụng điện thoại di động, tuy nhiên cách giải thích này (có vẻ
không xác đáng tí nào) không đưa ra lý do đầy đủ để kết luận cấm sử dụng điện thoại
di động.
Đi tìm tính xác đáng
Khi đưa ra những lý do phù hợp với một kết luận, như đã trình bày ở bài tập
trên, thì một trong những điều mà bạn đi tìm chính là tính xác đáng. Bạn tự hỏi, dẫn
chứng hay khẳng định này có xác đáng đối với kết luận đó không?
Có những sự xác đáng nhất định trong những lý do khả thi, tuy nhiên nó bị
giới hạn trong câu (A) và ngay cả trong câu (C) nữa. Câu (A) thể hiện tính xác đáng
đối với điện thoại di động, câu (C) liên quan đến việc sử dụng điện thoại trong công
ty, câu (B) không chỉ có tính xác đáng đối với điện thoại di động mà còn có tính xác
đáng đối với những rắc rối xung quanh việc sử dụng điện thoại.

14
Một việc cần nhớ khi bạn đánh giá những lý do để tìm tính xác đáng là đôi khi
chỉ có một lý do duy nhất thì sẽ không có tính xác đáng, nhưng với nhiều lý do thì
tính xác đáng là hiển nhiên. Ví dụ về điện thoại di động đã minh họa quan điểm này,
khi chúng ta giải thích rằng câu (A), mặc dù không có tính xác đáng theo cách riêng
của nó, sẽ trở nên có tính xác đáng khi kết hợp với câu (B).
Khi đánh giá câu (A), (B) và (C) là những lý do, thì có nghĩa là bạn đang tìm
những điều khác bên cạnh tính xác đáng, đó là tính đầy đủ.
Đi tìm tính đầy đủ
Mặc dù câu (A) và (C) có một số tính xác đáng nhất định với kết luận, nhưng
cả hai đều không phải là lý do đầy đủ để đưa ra kết luận. Cho dù cả câu (A) và (C)
đều đúng thì cả hai đều không đầy đủ (kể cả khi đứng một mình hay kết hợp với nhau)
để đưa ra kết luận như đã cho. Nói cách khác, chúng không đem lại những hỗ trợ đầy
đủ để đưa ra kết luận. Như vậy, làm cách nào để xác định một lý do đầy đủ?
Chúng ta hãy xem lập luận yêu cầu những gì. Nếu nó muốn chứng minh một
điều gì đó thì việc nêu lý do phải đạt được sự đầy đủ ở mức độ cao. Tuy nhiên, nếu
kết luận chỉ đạt được ở mức độ yếu thì việc nêu lý do vì lẽ đó cũng yếu hơn. Để minh
họa cho vấn đề “lý do đầy đủ”, hãy xem bài tập sau:
Bài tập
Trước hết, đưa ra một số những khẳng định khác nhau, sau đó là một loạt
những kết luận khả thi.
Khẳng định:
(A) Chính phủ đạt được 35 phần trăm trong những cuộc thăm dò dư
luận.
(B) Chính phủ không được lòng dư luận lắm.
(C) Không có đảng phái chính trị nào có thể thắng cử nếu như không
được lòng dân chúng.

Kết luận:
(1) Chính phủ sẽ thất cử trong lần bầu cử tới.
(2) Chính phủ có thể thất cử trong lần bầu cử tới.
(3) Chắc chắn chính phủ sẽ thất cử trong lần bầu cử tới.

15
Hãy xác định xem câu nào có lý do đầy đủ để đưa ra kết luận.
Trả lời
Nội dung câu (A) chắc chắn đưa ra được lý do đầy đủ để dẫn đến kết luận số
(2) và nó cũng cung cấp nội dung đầy đủ chấp nhận được để đưa ra kết luận số (3).
Như bạn thấy, câu số (2) là một kết luận không thuyết phục lắm, câu này dùng từ “có
thể” và do đó mức độ đầy đủ rất thấp. Tuy nhiên, câu số (3) thuyết phục hơn do dùng
từ “chắc chắn”.
Nội dung câu (B) đáp ứng đầy đủ cho kết luận câu số (2). Hơn nữa, bản chất
không chắc chắn của kết luận câu số (2) được phản ánh trong lý do hầu như không
chắc chắn.
Nội dung câu (C) rõ ràng liên quan với kết luận số (2) và khá đầy đủ đối với
kết luận số (3) hơn câu (A). Điều này là do chứng cứ đưa ra khiến chúng ta thấy kết
luận chắc chắn hơn, và lý do đưa ra để dẫn đến kết luận cũng quyết định hơn.
Như bạn thấy, không có khẳng định nào thỏa mãn được kết luận (1), nghĩa là
kết luận này đòi hỏi một lý do chắc chắn hơn. Trên thực tế, rất khó đưa ra được một
lý do hoàn toàn đầy đủ cho kết luận này. Tuy nhiên, kết luận loại này cũng thường
xảy ra. Để trả lời cho vấn đề này, bạn cho rằng, vấn đề đã được chứng minh khi rút
ra kết luận số (2) hoặc số (3) rồi, tuy nhiên bạn vẫn đang tập để trở thành một người
có tư duy phê phán, cho nên hy vọng bạn sẽ đạt được.
Đã đến lúc cần phải tiếp cận với những vấn đề này.
BÀI TẬP
1. Hãy rút ra kết luận trong một lập luận của một chủ đề bất kỳ nào đó (giống
như dạng “Nên có …” hoặc “Chúng ta không được …”). Sau đó đưa ra lý do thuyết
phục để hỗ trợ cho kết luận này.
2. Hãy viết một lập luận có sức thuyết phục phản lại một luận đề mà bạn sẽ
cố bảo vệ. Hãy nêu lý do tại sao lập luận này lại không thuyết phục được bạn?
3. Hãy viết một lập luận có sức thuyết phục cho một luận đề mà bạn muốn
bảo vệ. Phân tích những lý do đầy đủ và xác đáng mà bạn sử dụng.

16
CHƯƠNG 2

Phân tích những lập luận giản đơn

NHẬN DẠNG NHỮNG LÝ DO VÀ KẾT LUẬN


Đến đây thì bạn đã có thể nhận ra được những lập luận bằng cách đi tìm những
lý do và kết luận, và có thể đưa ra nhận định ban đầu về lý do. Chúng ta cần củng cố
những kỹ năng để xác định xem phần nào trong lập luận đang đảm nhiệm điều đó.
Khi bạn gặp một lập luận nào đó trong sách hay trên báo chí.., thường thì bạn
sẽ thấy những lập luận này không có một kết cấu chặt chẽ. Đôi khi những đoạn văn
thiếu chặt chẽ đó bị tối nghĩa do không có sự liên kết hay những minh họa. Hãy phân
biệt những câu trong một đoạn văn có khả năng giúp bạn đánh giá được những ưu
điểm và cả những khuyết điểm của một lập luận.
Chúng ta bắt đầu bằng một bài tập ngắn để kiểm tra xem bạn có thể đưa ra đâu
là lý do và đâu là kết luận trong lập luận ngắn này.
Bài tập
Qua những lập luận sau đây, hãy chỉ ra câu nào là câu lý do và câu nào là câu
kết luận. Chúng ta dùng ký hiệu (A), (B) và (C) để tiện trong việc thảo luận.
(1). (A) Đối với nhiều nạn nhân vi phạm pháp luật, một chế độ lao tù cứng rắn
dành cho các phạm nhân sẽ được mọi người hoan nghênh. (B) Chính phủ luôn đúng
khi đưa ra những chế độ lao tù cứng rắn hơn. (C) Nhiều phạm nhân sẽ không phạm
tội nếu các nhà tù có một chế độ cứng rắn hơn.
(2) (A) Không nên hạn chế quyền công bố hình ảnh và đời tư về những người
nổi tiếng trên báo chí. (B) Công chúng rất quan tâm đến cuộc sống của những người
nổi tiếng. (C) Công chúng có quyền biết những thông tin về cách ứng xử trong cuộc
sống hàng ngày của những người nổi tiếng.
(3) (A) Chiến dịch chống ma túy được đưa ra không có hiệu quả lắm đối với
những thanh niên dùng ma túy. (B) Chiến dịch chống ma túy được đưa ra sẽ nhấn
mạnh những nguy cơ có liên quan đến việc dùng ma túy. (C) Một trong những quyến
rũ chính yếu của ma túy đối với thanh niên là kích thích sự liều lĩnh.
Trả lời
(1). (A) và (C) là những lý do để dẫn đến kết luận (B). Kết luận cho rằng “chính
phủ luôn đúng khi đưa ra những chế độ lao tù cứng rắn hơn” được hỗ trợ bởi hai lý

17
do, đó là, những nạn nhân vi phạm pháp luật sẽ ủng hộ sự thay đổi như thế, và việc
vi phạm pháp luật sẽ ít xảy ra hơn. Để xem câu (B) đáp ứng đầy đủ để đưa ra kết luận
như thế nào, hãy xem cách giải thích lại như sau:
Đối với nhiều nạn nhân vi phạm pháp luật, một chế độ lao tù cứng rắn dành
cho các phạm nhân sẽ được mọi người hoan nghênh. Hơn nữa, Nhiều phạm nhân sẽ
không phạm tội nếu các nhà tù có luật lệ cứng rắn hơn. Như vậy, Chính phủ luôn
đúng khi đưa ra những chế độ lao tù cứng rắn hơn.
(2). (B) và (C) là những lý do để dẫn đến kết luận (A). Hãy xem cách hiểu thế
nào khi câu (A) được xem là câu kết luận:
Công chúng rất quan tâm đến cuộc sống của những người nổi tiếng. Hơn nữa,
Công chúng có quyền biết những thông tin về cách ứng xử trong cuộc sống hàng ngày
của những người nổi tiếng. Vì thế Không nên hạn chế quyền công bố hình ảnh và đời
tư về những người nổi tiếng của báo chí.
Không có sự kết hợp nào khác có thể thực hiện được vai trò của một lập luận.
(3). (B) và (C) là những lý do để dẫn đến kết luận (A). Không có sự kết hợp
nào khác có thể thực hiện được vai trò của một lập luận. Để xem nó hoạt động như
thế nào, hãy xem cách giải thích chặt chẽ hơn sau đây:
Một trong những quyến rũ chính yếu của ma túy đối với thanh niên là kích
thích sự liều lĩnh. Chiến dịch chống ma túy được đưa ra sẽ nhấn mạnh những nguy
cơ có liên quan đến việc dùng ma túy. Vì thế chiến dịch chống ma túy được đưa ra
không có hiệu quả lắm đối với những thanh niên dùng ma túy.
Trong bài tập này, bạn đang thực hiện một việc rất quan trọng. Khi chỉ ra câu
nào là là câu lý do và câu nào là câu kết luận, thì có nghĩa là bạn đang phát triển
những kỹ năng thiết lập những lập luận. Đặc biệt hơn:
 Bạn đang xem xét đến mối quan hệ giữa những lý do với một kết luận.
Ngoài ra, chúng ta còn phải xem xét đến mối quan hệ giữa chính những lý
do với nhau. Vấn đề này có thể thay đổi một lập luận này thành một lập luận khác.

KIỂM TRA VAI TRÒ CỦA LÝ DO


Nhưng tôi đã biết vai trò của những lý do rồi. Chúng sẽ hỗ trợ cho một kết
luận nếu như đó là những lý do xác đáng và đầy đủ. Như vậy, tôi phải kiểm tra vấn
đề gì nữa?

18
Tất nhiên, điều bạn quan tâm là đúng. Bạn đã biết vai trò của những lý do, tuy
nhiên có những vấn đề mà chúng ta vẫn chưa xem xét, đó là, những lý do thể hiện vai
trò của mình bằng nhiều cách khác nhau. Hãy xem lại lập luận trên:
Đối với nhiều nạn nhân vi phạm pháp luật, một chế độ lao tù cứng rắn dành
cho các phạm nhân sẽ được mọi người hoan nghênh. Hơn nữa, Nhiều phạm nhân sẽ
không phạm tội nếu các nhà tù có luật lệ cứng rắn hơn. Như vậy, Chính phủ luôn
đúng khi đưa ra những chế độ lao tù cứng rắn hơn.
Hai lý do trên đã hỗ trợ cho kết luận như thế nào? Chúng có vai trò hỗ trợ
giống nhau như những lý do hỗ trợ cho kết luận trong ví dụ sau đây hay không?
Tình trạng quá tải tù nhân trong nhà tù là nguyên nhân của nhiều vụ nổi loạn
gây rối trong tù, và hầu hết các nhà tù đều quá tải. Do vậy, nhiều vụ nổi loạn gây rối
trong hệ thống nhà tù của chúng ta có khả năng xảy ra trong những tháng tới.
Câu trả lời thật đơn giản: không thể xảy ra. Ở ví dụ đầu, những lý do hỗ trợ
cho kết luận một cách độc lập với nhau. Nói cách khác, nếu bạn tách rời những lý do
này ra, thì từng lý do vẫn có khả năng độc lập rút ra kết luận. Chẳng hạn, chúng ta
tách lý do đầu tiên ra.
Nhiều phạm nhân sẽ không phạm tội nếu các nhà tù có một chế độ cứng rắn
hơn. Như vậy, Chính phủ luôn đúng khi đưa ra những chế độ lao tù cứng rắn hơn.
Kết luận có lẽ trở nên yếu hơn do thiếu điểm nhấn về những nạn nhân muốn
có một chế độ cứng rắn hơn, tuy nhiên vẫn không ảnh hưởng đến việc rút ra kết luận.
Một trong hai lý do trong ví dụ này vừa là lý do xác đáng vừa là lý do đầy đủ.
Tuy nhiên, ở ví dụ thứ hai, những lý do lại không hoạt động một cách độc lập.
Nếu bạn loại bỏ một trong hai lý do này, thì lý do còn lại sẽ không đầy đủ để rút ra
kết luận. (Xem lại ví dụ) Chúng ta chỉ có thể rút ra kết luận khi cả hai lý do cùng hoạt
động.
Tại sao trong những lập luận có những lý do không hoạt động độc lập với nhau
sẽ ảnh hưởng đến việc rút ra kết luận nhiều hơn so với những lập luận có những lý
do hoạt động độc lập với nhau? Bởi vì mỗi bước trong một lập luận có những lý do
hoạt động độc lập với nhau đều cần cả sự xác đáng và cả sự đầy đủ. Chẳng hạn, nếu
bạn trình bày rằng hầu hết các nhà tù đều không quá tải, thì có thể rút ra được kết luận
về tình trạng nổi loạn gây rối trong tù (mặc dù lý do đầu tiên vẫn đúng).

19
TRÌNH BÀY CẤU TRÚC CỦA LẬP LUẬN DƯỚI DẠNG SƠ ĐỒ
Mặc dù bạn không phải dùng đến sơ đồ của lập luận để trở thành một người
có tư duy phê phán hiệu quả, nhưng có thể cũng rất hữu ích nếu bạn xem xét một lập
luận được cấu trúc như thế nào. Việc xem nhanh cấu trúc của một lập luận sẽ giúp
bạn đánh giá lập luận đúng hơn. Điều này không chỉ áp dụng cho những lập luận mà
bạn bắt gặp ở nhiều văn bản khác nhau trong khóa học của mình, mà còn áp dụng cho
những lập luận mà bạn tự đưa ra. Kiểm tra hữu ích này cho thấy, lập luận đang hoạt
động theo cách mà bạn nghĩ.
Chúng ta bắt đầu bằng một ví dụ đơn giản. Kiểu lập luận ngắn này cho thấy,
chúng ta đúng ngay từ đầu:
Hút thuốc không trái luật. Do vậy, người ta được phép hút thuốc ở bất kỳ nơi
nào.
Trong lập luận này, chỉ có một lý do duy nhất hỗ trợ cho kết luận. Để sơ đồ
hóa cấu trúc của lập luận này, chúng ta đặt lý do là R, kết luận là C, và mối quan hệ
giữa chúng là dấu ↓
R
Quy ước này cho thấy ↓
C

Nếu chúng ta xem xét kiểu lập luận gốc này, chúng ta thấy rằng có hai lý do
được đưa ra để dẫn đến kết luận:
Mọi người đều được phép hút thuốc ở bất kỳ nơi nào. Hút thuốc không trái
luật, và hàng triệu người cảm thấy thích thú việc hút thuốc.
Để thấy được có hai lý do tồn tại, chúng ta đặt cho mỗi lý do một ký hiệu:
R1: Hút thuốc không trái luật.
R2: Hàng triệu người cảm thấy thích thú việc hút thuốc.
Chúng ta có thể lập sơ đồ của lập luận này như sau:

R1 R2
↓ ↓

C

20
Trong ví dụ này, các lý do đều hỗ trợ cho kết luận một cách độc lập, do đó
quan hệ của chúng đối với kết luận được trình bày một cách phù hợp. Trong một ví
dụ trước nữa, chúng ta có một lập luận, trong đó, những lý do cùng hoạt động với
nhau để hỗ trợ cho kết luận:
(R1) Tình trạng quá tải tù nhân trong nhà tù là nguyên nhân của nhiều vụ nổi
loạn gây rối trong tù, và hầu hết các nhà tù đều quá tải. Do vậy, nhiều vụ nổi loạn gây
rối trong hệ thống nhà tù của chúng ta có khả năng xảy ra trong những tháng tới.

Chúng ta sẽ trình bày lập luận này như thế nào?

R1 + R2

C

Như các bạn thấy, sơ đồ này biểu thị, kết luận được rút ra rất mạnh mẽ, không
phải là một lý do mà là nhiều lý do phối hợp hoạt động cùng nhau.
Phương pháp cấu thành một lập luận như thế này đơn giản hơn chúng ta nghĩ
nhiều. Lợi thế của cách dùng này sẽ làm nổi bật những vấn đề được thực hiện trong
một lập luận, với kết quả đó, bạn có thể đánh giá được ưu điểm và khuyết điểm của
lập luận dễ dàng hơn nhiều. Trước khi tiếp tục, có lẽ rất hữu ích để thực hành những
kỹ năng thiết lập cấu trúc của lập luận.
Bài tập
Hãy trình bày cấu trúc của những lập luận sau. Đặt ký hiệu cho mỗi lý do sao
cho phù hợp (R1, R2,…):
(1) Trẻ em rất dễ bị ảnh hưởng sự hấp dẫn của quảng cáo. Những
đứa trẻ hút thuốc có khuynh hướng mua những nhãn hiệu thường được quảng
cáo. Chắc là quảng cáo đã ảnh hưởng khiến trẻ em tập tành hút thuốc.
(2) Ly dị nên được thực hiện dễ dàng hơn chứ không nên khó quá.
Sự đổ vỡ trong hôn nhân đang gây nên nhiều phiền toái đối với những cặp vợ
chồng phải ly dị nhưng việc ly dị lại rất khó khăn. Hơn nữa, bằng chứng cho thấy
rằng, nếu thủ tục ly dị mà khó khăn thì cay đắng và giận dữ sẽ ngày càng nhiều

21
hơn là nếu thủ tục ly dị dễ dàng.
(3) Đa số người ta không đi xem bóng đá. Vì chi phí giữ an ninh cho
mình quá cao. Các câu lạc bộ thường phải chịu chi phí này, nhưng hầu hết hóa
đơn lại rơi về phía chúng ta. Những người hâm mộ bóng đá phải chuẩn bị mua
vé với giá cao hơn để gánh luôn phần lớn những chi phí này.
Trả lời
(1) Lập luận này có một cấu trúc đơn giản.
R1: Trẻ em rất dễ bị ảnh hưởng sự hấp dẫn của quảng cáo.
R2: Những đứa trẻ hút thuốc có khuynh hướng mua những nhãn hiệu
thường được quảng cáo.
C: Chắc là quảng cáo đã ảnh hưởng khiến trẻ em tập tành hút thuốc.
R1 và R2 cùng hoạt động để hỗ trợ cho kết luận (mặc dù kết luận có thể
được rút ra trên cơ sở mạnh mẽ của một mình R2).

R1 + R2

C

(2) Trong lập luận này, kết luận lại đứng ở đầu lập luận, theo sau đó
là hai lý do hỗ trợ cho kết luận này một cách độc lập.
R1: Sự đổ vỡ trong hôn nhân đang gây nên nhiều phiền toái đối với những
cặp vợ chồng phải ly dị nhưng việc ly dị lại rất khó khăn.
R2: bằng chứng cho thấy rằng, nếu thủ tục ly dị mà khó khăn thì cay đắng
và giận dữ sẽ ngày càng nhiều hơn là nếu thủ tục ly dị dễ dàng.
C: Ly dị nên được thực hiện dễ dàng hơn chứ không nên khó quá.
R1 R2
↓ ↓

C
(3) Lập luận này có ba lý do hoạt động cùng nhau để hỗ trợ cho kết
luận.
R1: Đa số người ta không đi xem bóng đá.

22
R2: Vì chi phí giữ an ninh cho mình quá cao.
R3: Các câu lạc bộ thường phải chịu chi phí này, nhưng hầu hết hóa đơn
lại rơi về phía chúng ta.
C: Những người hâm mộ bóng đá phải chuẩn bị mua vé với giá cao hơn
để gánh luôn phần lớn những chi phí này.

R1 + R2 + R3

C

PHÂN BIỆT CÂU LÝ DO VỚI NHỮNG CÂU KHÁC


Trong những ví dụ mà chúng ta đã xem ở những phần trước, lập luận gồm việc
nêu lý do và đưa ra một kết luận. Bạn không cần phải đi tìm những vấn đề khác. Tuy
nhiên, trong thực tế, lập luận thường sẽ không được trình bày một cách gọn gàng như
thế. Có lẽ bây giờ bạn phải xem qua các loại câu khác để tìm hiểu sâu hơn một lập
luận. Hãy xem ví dụ sau:
Phòng trưng bày của các ga ra ô tô có nhiều sự mời chào mua xe hơi. Những
lời mời chào này bao gồm tín dụng phi lãi suất, những giao dịch đổi xe cũ lấy xe mới
rất ưu đãi và nhiều khoản miễn phí khác. Các nhà sản xuất cạnh tranh nhau để bán
nhanh cho chúng ta những cỗ máy mơ ước hợp thời nhất. Tuy nhiên xe có an toàn
không? Có nhiều tiêu chuẩn an toàn đã được ban hành, và thực tế cho thấy, nếu như
xe có đầy đủ những tiêu chuẩn an toàn này thì những người lái xe không những không
bị tai nạn mà còn ngăn ngừa được những tai nạn có thể xảy ra. Chúng ta nên yêu cầu
các nhà sản xuất xe hơi tập trung vào vấn đề an toàn để ngăn ngừa những tai nạn có
thể.
Trong ví dụ này, mãi đến nửa sau của đoạn văn thì lập luận mới bắt đầu hoạt
động. Ba câu đầu chỉ mô tả lập luận để rút ra kết luận rằng chúng ta nên yêu cầu các
nhà sản xuất sản xuất xe an toàn hơn. Thông tin về những lời mời chào đặc biệt ở câu
đầu cung cấp cơ sở cho lập luận nhưng vẫn không phải là yếu tố quyết định của lập
luận.

23
Phản hồi thích hợp
Tại sao việc phân biệt câu lý do với những câu khác lại có tầm quan trọng như
thế?
Tầm quan trọng trong việc phân biệt câu lý do với những câu khác như những
minh họa và thông tin cơ sở ở ví dụ trên phụ thuộc vào khả năng phản hồi thích hợp
với các lập luận của bạn. Ví dụ, đứng trước đoạn văn trên về vấn đề an toàn xe hơi,
có phản hồi như “tuy nhiên, nhiều lái xe lại bị hấp dẫn bởi những giao dịch đổi cũ lấy
mới”, chú trọng vào sự hấp dẫn đó mà lại bỏ qua giá trị của vấn đề. Đó chỉ là phản
hồi về một phần nhỏ trong thông tin cơ sở chứ không phải là phản hồi của bản thân
lập luận.
Bài tập sau đây yêu cầu bạn phân biệt lập luận với loại câu khác đi kèm.
Bài tập
Hãy nhận dạng phần nào trong mỗi đoạn văn sau đây là lập luận:

(1) Trong một thùng rác loại trung bình, bạn sẽ thấy nhiều nguồn
chất liệu có giá trị khác nhau như kim loại, giấy, thủy tinh. Phần lớn những
vật này đều có thể được tái sinh một cách rất kinh tế. Nên khuyến khích mọi
người sử dụng những vật phẩm tái sinh ngay tại địa phương thay vì phải vất
bỏ đi những thứ như chai, lon, giấy. Mặc dù các nhà sản xuất đã quan tâm rất
nhiều đến việc sản xuất bao bì để sử dụng nhưng họ lại thường không quan
tâm đến việc điều gì sẽ xảy ra khi vòng đời của các loại bao bì này kết thúc.
Bao bì có sức hấp dẫn khi nằm trên kệ trong siêu thị nhưng khi nó bay ngang
qua vỉa hè hay vất vương vãi trên ghế ngồi thì lại khác.
(2) Hầu như nước nào cũng có xổ số quốc gia. Chương trình Xổ số
Quốc gia của Vương quốc Anh được đưa ra năm 1994 và mức độ tham gia
ngày càng cao hơn nhiều so với dự báo. Một trong những đặc điểm gây lo lắng
của chương trình Xổ số Quốc gia là, sau khi được phát hành, ở Vương quốc
Anh lượng tiền chi cho vấn đề cờ bạc ngày càng gia tăng. Chắc là chương
trình Xổ số đã kích thích người ta nghĩ đến việc cờ bạc như một giải pháp cho
vấn đề tài chánh của mình. Tuy nhiên, kết quả là những người thắng đậm trong
cá cược bóng đá hay trúng số lớn đều không nhất thiết phải cảm nhận đó là
hạnh phúc.

24
Trả lời
(1) Ba câu đầu tiên cung cấp dữ kiện cho lập luận. Có thể rút gọn
như sau:
Nguồn chất liệu có giá trị bị vất đi. Nhiều thứ trong số này có thể được
tái sinh một cách rất kinh tế. Vì thế, nên khuyến khích mọi người sử dụng
những vật phẩm tái sinh.
Phần còn lại của đoạn văn này đưa ra lời phê bình về việc sản xuất bao
bì để sử dụng. Mặc dù câu cuối cùng có vẻ như đưa ra một lý do xác đáng cho
kết luận, nhưng lập luận lại liên quan đến những nguồn chất liệu có giá trị
được tái sinh một cách rất kinh tế. Như vậy thì, câu cuối cùng được nối với lập
luận tái sinh một cách rất giới hạn (có thể dễ dàng liên kết lập luận với vấn đề
biết cách vất bỏ chất thải sao cho hiệu quả).
(2) Lập luận này gồm câu thứ ba và câu thứ tư. Đây là một lập luận
khá đơn giản (không nhất thiết phải là một lập luận hay cho lắm): sau khi đưa
ra chương trình Xổ số Quốc gia, lượng tiền chi cho vấn đề cờ bạc ngày càng
gia tăng. Như thế, chương trình Xổ số đã kích thích người ta nghĩ đến việc cờ
bạc như một giải pháp cho vấn đề tài chánh của mình. Chất liệu xung quanh
lập luận này không phải là thông tin cơ sở (những nước khác và ngày đưa ra
chương trình Xổ số Quốc gia) và khẳng định rằng ăn được tiền vẫn không đảm
bảo được hạnh phúc.
QUYẾT ĐỊNH RÚT RA KẾT LUẬN
Những lập luận mà bạn sẽ sử dụng hoặc xem xét sau này, phần lớn cho thấy,
việc bạn có thể kết luận được một vấn đề nào đó thực ra là gần đúng chứ không phải
là chắc chắn đúng. Điều này là do có những khẳng định hay những bằng chứng mà
bạn đưa ra sẽ không hỗ trợ cho kết luận.
Kết luận có tính chắc chắn hay kết luận có tính gần đúng
Những lập luận có kết luận được rút ra có tính chắc chắn được gọi là những
lập luận diễn dịch (suy diễn). Trong khi đó những lập luận được rút ra chỉ có tính
gần đúng thì gọi là những lập luận quy nạp. Ví dụ sau đây là một lập luận duy diễn:
Nếu lực lượng gìn giữ hòa bình có đủ quân, thì cuộc Nội chiến ở Bosnia sẽ
chấm dứt. Liên Hiệp Quốc hứa sẽ cung cấp đủ quân, vì thế cuộc chiến ở đất nước này
cũng sẽ phải chấm dứt.

25
Với loại lập luận này, nếu những lý do đưa ra mà đúng, thì kết luận cũng sẽ
đúng. Trong ví dụ này, rõ ràng nếu cung cấp đủ quân thì cuộc Nội chiến sẽ kết thúc,
vậy thì cung cấp đủ quân chắc chắn chấm dứt được cuộc Nội chiến. Tuy nhiên, hãy
xét một lập luận khác cũng cùng chủ đề này:
Liên Hiệp Quốc đang lên kế hoạch đưa quân đến Bosnia. Tuy nhiên, trong quá
khứ, việc đem quân của Liên Hiệp Quốc vào những nước đang có nội chiến lại không
giải quyết được vấn đề gì. Vì thế việc đưa quân vào sẽ không giải quyết được vấn đề.
Ở ví dụ thứ hai này, kết luận (việc đưa quân vào Bosnia sẽ không làm cho cuộc
nội chiến dừng lại) được rút ra bằng sức mạnh của những kinh nghiệm trước đây khi
đưa quân của Liên Hiệp Quốc vào các nước đang có nội chiến. Mặc dù kinh nghiệm
trước có thể là một chỉ dẫn rất có ích trong việc nhận xét điều gì sẽ xảy ra, nhưng nó
vẫn không phải là một chỉ dẫn chắc chắn, nhất là khi nó có liên quan đến kinh nghiệm
của những nước khác. Bạn có thể nghĩ đến đủ loại lý do tại sao lại rút ra kết luận như
thế. Chẳng hạn, quân Liên Hiệp Quốc ở Bosnia hiện nay có lẽ được trang bị tốt hơn
trước đây, hay tình hình ở Bosnia có thể có những khác biệt quan trọng so với những
cuộc nội chiến khác. Loại ví dụ này mặc dù lý do đưa ra là đúng, nhưng chưa chắc
kết luận đã đúng.
Như các bạn thấy, kết luận của những lập luận diễn dịch chỉ đúng khi hình
thức của bản thân lập luận được cho sẵn. Qua ví dụ đầu về quân Liên Hiệp Quốc ở
Bosnia, nếu bạn chấp nhận cái đúng của lý do nêu ra, thì bạn cũng phải chấp nhận cái
đúng của kết luận. Nói cách khác, đồng ý với lý do được nêu ra nhưng lại phủ nhận
kết luận đó là phi lý. Bất kỳ tranh cãi nào có sử dụng lập luận thì đều phải có lý do.
Ví dụ, bạn muốn đặt vấn đề rằng, đưa đủ số quân của Liên Hiệp Quốc vào một cuộc
nội chiến nào đó đều làm cho cuộc chiến đó chấm dứt. Như thế thì, bạn có thể thấy
tại sao kết luận lại không được rút ra.

Cùng một lý do có thể rút ra những kết luận khác nhau


Qua những lập luận quy nạp, bạn có thể chấp nhận lý do được nêu ra, nhưng
vẫn thắc mắc về kết luận. Do vậy, người ta có thể đưa ra những kết luận khác nhau
dựa trên cùng một lý do. Ví dụ, hãy xem lại lập luận về vấn đề cờ bạc và chương trình
Xổ số Quốc gia bạn đã khảo sát ở bài tập trước.
Rút ra một kết luận

26
Một trong những đặc điểm gây lo lắng của chương trình Xổ số Quốc gia là,
sau khi được phát hành, ở Vương quốc Anh lượng tiền chi cho vấn đề cờ bạc ngày
càng gia tăng. Chương trình Xổ số đã kích thích người ta nghĩ đến việc cờ bạc như
một giải pháp cho vấn đề tài chánh của mình.
Nếu người ta khẳng định với bạn rằng, vấn đề cờ bạc nói chung đã ngày càng
tăng kể từ khi phát hành Chương trình Xổ số, vậy chúng ta có thể kết luận rằng chính
Chương trình Xổ số là nguyên nhân của việc cờ bạc ngày càng tăng? Đó là một kết
luận mà người ta đã rút ra, và trong một số trường hợp nào đó có thể đó là một kết
luận có lý (trong trường hợp đó việc phát hành Chương trình Xổ số là bằng chứng
chắc chắn có liên đới trong việc xem xét tại sao vấn đề cờ bạc ngày càng tăng). Tuy
nhiên, kết luận này lại không có tính chắc chắn. Bạn có thể rút ra một kết luận khác
dựa trên cùng một bằng chứng.
Rút ra một kết luận khác
Sau khi Chương trình Xổ số Quốc gia được phát hành, ở Vương quốc Anh
lượng tiền chi cho vấn đề cờ bạc ngày càng gia tăng. Vì thế, ngày càng có nhiều người
mê mẩn cờ bạc hơn trước đây.
Ở ví dụ thứ hai này, người nói nhận thấy sự quan trọng của bằng chứng giống
như ở ví dụ đầu, nhưng kết luận đưa ra lại sâu sắc hơn. Kết luận này đòi hỏi bằng
chứng phải chứng minh nhiều vấn đề, trong đó bằng chứng phải có một sự chuyển
đổi đột ngột. Tuy nhiên, ví dụ thứ ba sau đây lại cho thấy bằng chứng lại có sự quan
trọng hoàn toàn khác.
Rút ra một kết luận khác nữa
Sau khi Chương trình Xổ số Quốc gia được phát hành, ở Vương quốc Anh có
một lượng tiền lớn chi cho vấn đề cờ bạc ngày càng gia tăng. Vì thế, hiện nay những
người chơi cờ bạc trước khi Chương trình Xổ số Quốc gia được phát hành lại đang
tiêu tiền vào cờ bạc nhiều hơn.
Ở ví dụ này, người ta sử dụng bằng chứng để rút ra kết luận về việc cờ bạc
hiện nay, chứ không phải dùng bằng chứng để rút ra kết luận về việc số người cờ bạc
đang gia tăng.
Ở mỗi ví dụ, kết luận không có khả năng đúng nhiều, như vậy chúng ta có thể
chấp nhận những lý do nêu ra mà không cần chấp nhận kết luận được rút ra. Điều mà

27
bạn sẽ nhận ra là những kết luận khác nhau đều dựa trên cơ sở những giải thích về ý
nghĩa của bằng chứng sẽ khác nhau.
Chúng ta sẽ xem xét vấn đề có tính chắc chắn và có tính gần đúng chi tiết hơn
trong Chương 5. Trước khi xem xét Chương 5, bạn gặp phải một vấn đề đặc biệt hơn.
Rõ ràng, chúng ta có thể tranh luận về vấn đề nào đó có tính chắc chắn nhiều
hơn những vấn đề chỉ có tính gần đúng. Vì dụ, những lập luận trong khoa học phải
có tính chắc chắn chứ không phải tính gần đúng. Như vậy những lập luận này có thể
đúng có thể không?
Tất nhiên, chúng ta có thể tranh luận về vấn đề nào đó có tính chắc chắn nhiều
hơn những vấn đề chỉ có tính gần đúng. Đó chính là cơ sở lập luận thực tế của những
“trường hợp” không cần bàn cãi. Tuy nhiên, liệu chúng ta có thể kết luận một vấn đề
có tính chắc chắn hay không khi kết luận vẫn còn phụ thuộc vào bản chất hay hình
thái của lập luận. Mặc dù dựa trên cơ sở lập luận thực tế, nhưng những lập luận trong
khoa học cũng thường xuyên gắn liền với tính gần đúng chứ không phải là tính chắc
chắn. Điều này là do tri thức của chúng ta không phải lúc nào cũng đấy đủ, do vậy
những kết luận chúng ta rút ra cũng dựa trên những thông tin có giới hạn. Ví dụ, trên
thực tế, một số băng ở Nam Cực đang tan ra, tuy nhiên, có một bất đồng lớn xuất hiện
cho là, liệu bạn có thể rút ra kết luận từ bằng chứng có thực này để từ đó khẳng định
trái đất đang ấm dần lên hay không. Hãy xem xét lập luận được đặt ở hai dạng khác
nhau như sau:
Nếu một số băng ở Nam Cực đang tan ra, thì đây là bằng chứng về việc trái
đất đang ấm dần lên. Vì băng đang tan nên hiện tượng trái đất đang ấm dần lên là tất
nhiên.
Một số băng ở Nam Cực đang tan ra. Vì thế hiện tượng trái đất đang ấm dần
lên là tất nhiên.
Ở ví dụ đầu, dạng lập luận này có nghĩa là, nếu lý do nêu ra là đúng, thì kết
luận đúng. Ở ví dụ thứ hai, lý do nêu ra có thể đúng như kết luận thì không đúng.

BÀI TẬP
1. Mỗi lần gặp một lập luận, hãy cố thiết lập sơ đồ hóa cấu trúc của lập
luận.
2. Hãy khảo sát chứng cứ của một chủ đề nhất định nào đó. Nêu kết luận

28
có sức thuyết phục nhất mà bạn có thể rút ra từ đó?
3. Sử dụng chứng cứ ở câu 2 để rút ra một kết luận có sức thuyết phục
mạnh hơn nữa. Để rút ra kết luận có sức thuyết phục mạnh hơn này, bạn cần sử
dụng thêm chứng cứ nào?

29
CHƯƠNG 3

Đi sâu hơn vào những lập luận

TÌM HIỂU THÊM NHỮNG KẾT LUẬN TRONG MỘT LẬP LUẬN
Đến đây chúng ta nhận thấy lập luận khá đơn giản, trong đó người nói sử dụng
lý do để rút ra một kết luận trong một lập luận. Tuy nhiên, bạn cũng nhận thấy có
những lập luận có thể rút ra vài kết luận. Vấn đề nằm ở chỗ là người nói rút ra một
kết luận rồi lại tiếp tục sử dụng kết luận này để rút ra một kết luận khác nữa. Ví dụ:
Vì một số băng ở Nam Cực đang tan ra, nên hiện tượng trái đất đang ấm dần
lên là tất nhiên. Vì thế, chúng ta có thể nghĩ rằng mực nước biển sẽ dâng lên, gây ra
nạn lụt thảm khốc ở nhiều khu vực ven biển.
Kết luận của lập luận này rất dễ nhận ra (Vì thế, chúng ta có thể nghĩ rằng…).
Tuy nhiên, bạn có thấy một kết luận khác đứng ngay trước kết luận này không? Hãy
xem lại câu đầu tiên. Câu này là một lập luận: một số băng ở Nam Cực đang tan ra,
nên hiện tượng trái đất đang ấm dần lên là tất nhiên. Kết luận này sau đó được dùng
để rút ra kết luận của câu thứ 2: hiện tượng trái đất đang ấm dần lên là tất nhiên. Vì
thế, chúng ta có thể nghĩ rằng mực nước biển sẽ dâng lên, gây ra nạn lụt thảm khốc ở
nhiều khu vực ven biển.

Sử dụng kết luận làm lý do cho một kết luận khác


Ví dụ trên cho chúng ta thấy một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, đó là, một kết luận
có thể dùng làm lý do cho một kết luận khác. Kết luận về việc mực nước biển dâng
lên được rút ra từ khẳng định trái đất đang ấm dần lên. Nếu mở rộng lập luận này sâu
hơn, thì bạn có thể thấy rằng kết luận về việc mực nước biển dâng lên có thể được
dùng làm lý do để rút ra một kết luận khác sâu hơn nữa.
Vì một số băng ở Nam Cực đang tan ra, nên hiện tượng trái đất đang ấm dần
lên là tất nhiên. Vì thế, chúng ta có thể nghĩ rằng mực nước biển sẽ dâng lên, gây ra
nạn lụt thảm khốc ở nhiều khu vực ven biển. Chúng ta nên hành động ngay để giảm
thiểu những nguyên nhân gây nên hiện tượng trái đất đang ấm dần lên.
Để phân loại kết luận này với kết luận khác, chúng ta cần phân biệt kết luận
chính với kết luận trung gian.

30
 Kết luận chính là kết luận hướng đến vấn đề mà cả lập luận đang nhắm
vào; còn kết luận trung gian là kết luận được rút ra ở dọc đường.
 Một lập luận có thể có nhiều kết luận trung gian, nhưng rõ ràng chỉ có một
kết luận chính.
Chúng ta sẽ đặt những kết luận trung gian này vào sơ đồ biểu thị cấu trúc của
lập luận như thế nào?
Chúng ta có thể dùng ví dụ đầu tiên để trình bày sơ đồ này:
(R – lý do) Vì một số băng ở Nam Cực đang tan ra, (IC – kết luận trung gian) nên
hiện tượng trái đất đang ấm dần lên là tất nhiên. (C – kết luận) Vì thế, chúng ta có thể
nghĩ rằng mực nước biển sẽ dâng lên, gây ra nạn lụt thảm khốc ở nhiều khu vực ven
biển.

R

IC

C

Hãy tham khảo ví dụ sau. Bạn có thể nhận ra kết luận trung gian ở ví dụ này
không?
Ô nhiễm ở các con sông đang ngày càng tăng với tốc độ nhanh. Sông càng bị
ô nhiễm, thì động vật sống dưới đó càng bị đe dọa nhiều. Nếu chúng ta không sớm
làm gì đó về vấn đề ô nhiễm ở các con sông, thì nhiều loài sinh vật sống dưới nước ở
các con sông này sẽ ngày càng mất dần. Tuy nhiên, chưa có kế hoạch hiệu quả nào
có thể làm giảm thiểu vấn đề ô nhiễm các con sông. Do đó, nhiều loài sinh vật sống
ở các con sông này sẽ không còn tồn tại nữa.
Câu thứ ba là kết luận trung gian, còn hai câu đầu đóng vai trò là những lý do
để rút ra kết luận này. Nếu vẫn nghi ngờ về cách giải thích này, mời bạn đọc lại ba
câu đầu, tạm thời quên đi hai câu cuối. Kết luận trung gian này, cùng với câu thứ tư,
được sử dụng để rút ra kết luận chính. Mời các bạn xem lại hoạt động của lập luận
này:

31
Nếu chúng ta không sớm làm gì đó về vấn đề ô nhiễm ở các con sông, thì nhiều
loài sinh vật sống dưới nước ở các con sông này sẽ ngày càng mất dần. Tuy nhiên,
chưa có kế hoạch hiệu quả nào có thể làm giảm thiểu vấn đề ô nhiễm các con sông.
Do đó, nhiều loài sinh vật sống ở các con sông này sẽ không còn tồn tại nữa.
Đặt những kết luận trung gian vào cấu trúc một cách thích hợp
Như bạn thấy, kết luận trung gian đóng vai trò là lý do hỗ trợ cho kết luận
chính. Chúng ta sẽ đưa kết luận trung gian này vào sơ đồ theo cách sau:
(R1) Ô nhiễm ở các con sông đang ngày càng tăng với tốc độ nhanh. (R2)
Sông càng bị ô nhiễm, thì động vật sống dưới đó càng bị đe dọa nhiều. (IC) Nếu
chúng ta không sớm làm gì đó về vấn đề ô nhiễm ở các con sông, thì nhiều loài sinh
vật sống dưới nước ở các con sông này sẽ ngày càng mất dần. (R3) Tuy nhiên, chưa
có kế hoạch hiệu quả nào có thể làm giảm thiểu vấn đề ô nhiễm các con sông. (C) Do
đó, nhiều loài sinh vật sống ở các con sông này sẽ không còn tồn tại nữa.

R1 + R2

IC + R3

C
Tầm quan trọng trong việc nhận ra những kết luận trung gian tùy thuộc vào
khả năng người nói xây dựng lập luận như thế nào. Nếu bạn có thể trình bày được
rằng một kết luận trung gian không thể rút ra được (hay có thể rút ra một kết luận
trung gian khác), thì bạn đã thực hiện được việc đánh giá đầy ý nghĩa của lập luận đó
rồi. Hơn nữa, nếu bạn có thể trình bày được rằng có thể rút ra được kết luận trung
gian, nhưng lại chứng minh rằng kết luận trung gian được dùng làm lý do để rút ra
một kết luận nữa thể hiện mơ hồ như thế nào, thì bạn sẽ có thể nhìn thấy phần nào
của lập luận đang hoạt động, còn phần nào không hoạt động. Cũng như vậy, bạn sẽ
có thể hạn chế việc nêu lý do của riêng mình. Để thực hành kỹ năng tìm kết luận trung
gian, hãy thực hành bài tập sau:
Bài tập

32
Trong mỗi lập luận sau, bạn sẽ tìm thấy một kết luận trung gian. Hãy nhận ra
kết luận trung gian này và trình bày xem nó thích hợp thế nào với phần còn lại của
việc nêu lý do.
(1) Kế hoạch làm đường vòng (để tránh kẹt xe…) sẽ bị bác bỏ. Đa số cư
dân địa phương không hỗ trợ dự án này, và nó sẽ làm ảnh hưởng đến mỹ quan của
nhiều khu vực. Tuy nhiên, một kế hoạch thay thế khác gần đây đã được triển khai và
được nhiều người địa phương ủng hộ. Chính phủ nên mở lại một cuộc điều tra công
khai về việc xây dựng con đường vòng này.
(2) Chính phủ đã yêu cầu các trại giam cắt giảm chi tiêu. Tuy nhiên, số
người bị tống giam ngày càng tăng. Đội ngũ quản lý trong nhà tù nhận thấy ngày càng
khó khăn hơn trong việc đối phó với số tù nhân gia tăng. Chính phủ có thể thực hiện
tiết kiệm bằng cách khác. Rõ ràng, không nên cắt giảm chi tiêu đối với các nhà tù.
(3) Có những điều luật chống lại sự ngược đãi đối với những con vật nuôi
và vật phục vụ ở nông trại. Lý do đưa ra là không nên bắt những con vật này chịu
đựng quá mức cần thiết. Tuy nhiên, về mặt này cũng như về mặt khác, không có
những phân biệt về khả năng chịu đựng giữa động vật hoang với những con vật nuôi
và vật phục vụ ở nông trại. Chúng ta không thể biện minh cho việc đối xử khác giữa
động vật hoang với những động vật khác. Vậy thì chúng ta nên đưa ra luật chống lại
việc ngược đãi với động vật hoang.
Trả lời
(1) Câu đầu tiên là kết luận trung gian. Nó được rút ra từ nội dung của câu
thứ hai:
(R1) Kế hoạch làm đường vòng (để tránh kẹt xe…) không được đa số cư dân
địa phương hỗ trợ. (R2) Nó sẽ làm ảnh hưởng đến mỹ quan của nhiều khu vực. (IC)
Do đó nên bỏ kế hoạch này. Kết luận trung gian này sau đó được sử dụng kết hợp với
một lý do nữa để hỗ trợ cho kết luận chính: (IC) Nên bỏ kế hoạch này. (R3) Một kế
hoạch thay thế khác gần đây đã được triển khai và được nhiều người địa phương ủng
hộ. (C) Do đó, Chính phủ nên mở lại một cuộc điều tra công khai.
R1 + R2

IC + R3

33
C

(2) Câu thứ ba là kết luận trung gian và kết luận này được lý do ở hai câu
đầu hỗ trợ. Việc giảm chi tiêu và sự gia tăng về số tù nhân dẫn đến kết luận cho rằng
đội ngũ quản lý trong nhà tù nhận thấy ngày càng khó khăn trong việc đối phó với:
(R1) Chính phủ đã yêu cầu các trại giam cắt giảm chi tiêu. (R2) Tuy nhiên, số người
bị tống giam ngày càng tăng. (IC) Đội ngũ quản lý trong nhà tù nhận thấy ngày càng
khó khăn trong việc đối phó với số tù nhân gia tăng. Kết luận trung gian này sau đó
được kết hợp với khẳng định cho rằng Chính phủ có thể thực hiện tiết kiệm bằng cách
khác (R3) để rút ra kết luận chính (C) cho rằng Chính phủ không nên cắt giảm chi
tiêu đối với các nhà tù. Như bạn thấy, cấu trúc này giống với cấu trúc ở lập luận trước.
(3) Câu thứ tư là kết luận trung gian. Kết luận này được lý do ở ba câu đầu
hỗ trợ (chú ý cách mà từng bước lập luận được thiết lập):
(R1) Có những điều luật chống lại sự ngược đãi đối với những con vật nuôi và
vật phục vụ ở nông trại. (R2) Lý do đưa ra là không nên bắt những con vật này chịu
đựng quá mức cần thiết. (R3) Tuy nhiên, không có những phân biệt về khả năng chịu
đựng giữa động vật hoang với những con vật nuôi và vật phục vụ ở nông trại. (IC)
Do đó, chúng ta không thể biện minh cho việc đối xử khác giữa động vật hoang với
những động vật khác.
Kết luận trung gian “chúng ta không thể biện minh cho việc đối xử khác biệt
với động vật hoang” sau đó được dùng làm lý do cho kết luận chính:
Chúng ta không thể biện minh cho việc đối xử khác giữa động vật hoang với
những động vật khác. (C) Do đó, (từ đó chúng ta đưa ra luật bảo vệ những con vật
nuôi và vật phục vụ ở nông trại) chúng ta nên đưa ra luật chống lại việc ngược đãi
với động vật hoang.
Ở ví dụ này, chúng ta có một kết luận trung gian được dùng làm lý do theo
cách riêng để hỗ trợ cho kết luận chính:
R1 + R2 + R3

IC

C

34
KHẮC PHỤC NHỮNG KHIẾM KHUYẾT KHI NÊU LÝ DO
Đến đây chúng ta đã xem xét những lập luận dựa vào những lý do được trình
bày một cách rõ ràng. Nói cách khác, chúng ta chỉ mới xem xét đến những bộ phận
trong một lập luận được xác định. Tuy nhiên, nhiều lập luận sẽ có những bộ phận
khác mặc dù không được xác định, những bộ phận này đóng một vai trò quan trọng.
Chúng ta gọi những bộ phận không được xác định này là giả định.
Người ta thường nói, giả định là từ dùng để loại bỏ lập luận của người khác.
“giả sử bạn cho rằng” là một cáo buộc khẳng định rằng “bạn không có bằng chứng
về điều đó”. Thực ra đây không phải là cách mà chúng ta dùng để nói về thuật ngữ
này. Giả định là một bộ phận không được xác định của một lập luận không có kết
luận được rút ra. Cách dùng này sẽ được làm sáng tỏ bằng cách xem xét một ví dụ cụ
thể.
Tìm hiểu những giả định
Đa số học sinh ở trường này đạt được Chứng chỉ Giáo dục phổ thông Trung
học (GCSE) và cấp cao hơn trong các kỳ thi lấy chứng chỉ Giáo dục phổ thông không
tốt lắm so với học sinh ở những trường khác trong khu vực. Chắc chắn đây là vấn đề
của chất lượng giảng dạy.
Trong ví dụ này, kết luận rằng chất lượng của việc giảng dạy phải chịu trách
nhiệm về kết quả đáng buồn của kỳ thi dựa vào một lý do duy nhất. Nhưng trên thực
tế, kết quả này phải được dựa vào nhiều lý do hơn chứ không chỉ dựa vào một lý do
đã được xác định. Để đưa ra kết luận rằng, những kết quả đáng buồn này là kết quả
của việc giảng dạy kém chất lượng, câu này giả định rằng những kết quả đó không có
lời giải thích nào khác. Ví dụ, giả sử rằng không có những khác biệt xác đáng giữa
học sinh ở các trường khác nhau. Phải giả định điều này bởi vì, nếu không, thì kết
luận không thể rút ra được (mà không trình bày lý do tại sao giả định này lại không
xác đáng). Chắc chắn bạn sẽ nghĩ đến những giả định khác sẽ được thực hiện trong
lập luận này.
Làm sáng tỏ hiệu quả của một giả định
Sau đây là một lập luận khác:
Nếu người ta đầu tư tiền bạc vào đồ cổ cách đây khoảng 20 năm, thì mãi cho
đến bây giờ họ mới nhận ra khó mà kiếm được lãi trong đầu tư của mình. Vì thế,
những người không đủ khả năng làm tăng thêm số tiền tiết kiệm của mình thì nên đầu

35
tư tiền bạc vào cái khác hay hơn là đầu tư vào đồ cổ.
Giả định được thực hiện ở đây là gì? Trong giả định này chỉ có một lý do và
một kết luận, tuy nhiên bạn có thể thấy rằng, bất kỳ giả định nào cũng phải có thêm
một lý do nữa hoạt động giữa hai lý do khác. Lý do thiếu vắng cần có để rút ra kết
luận ở đây là “giá đồ cổ hơn 20 năm qua là một chỉ dẫn hữu ích cho giá đồ cổ trong
tương lai”. Nếu không có giả định này, không thể rút ra kết luận được. Để hiểu rõ
hơn, hãy thử đặt giả định đối lập với giả định này (“… không phải là một chỉ dẫn hữu
ích”) vào lập luận. Hiệu quả xảy ra giống như việc chuyển lý do đã được xác định rõ
(câu đầu tiên) vào giả định đối lập: không thể đơn giản rút ra kết luận.
Do vậy, khi bạn đưa ra hay đánh giá một lập luận, bạn cần phải xem xét những
giả định được thực hiện giống như việc bạn xem xét những lý do mà người nói muốn
làm sáng tỏ.
Bài tập
Hãy chỉ ra những giả định cần phải có trong mỗi lập luận sau.
(1) Marco Polo nổi tiếng là người đầu tiên ở phương Tây đặt chân đến
Trung Quốc. Tuy nhiên, trong những bài viết của mình về chuyến đi này, ông không
đề cập đến Vạn Lý Trường Thành nằm ở đâu, cũng như không đề cập đến trà hay
gốm sứ. Vì thế, ông chưa từng đặt chân đến Trung Quốc. Lẽ ra quyển sách mà ông
viết về chuyến đi đến một vùng đất nào đó phải sử dụng những thông tin mà ông thu
thập được của người dân sống ở đó.
(2) Ở những trường có tổ chức lớp học đặc biệt dành cho trẻ em có năng
khiếu thì chúng ta đều nhận thấy rằng, những em đó học rất tốt ở mọi môn học của
mình. Xã hội cần những người thông minh và có tài. Do đó, chúng ta cần đảm bảo
rằng, phải tổ chức những lớp học đặc biệt trong tất cả các trường học.
(3) Tất cả những con vật đem vào nước Anh trước đây đều là đối tượng bị
cách ly để đảm bảo rằng chúng không truyền bệnh dại vào. Hệ thống phòng ngừa
bệnh dại ngay từ cửa khẩu đã hoạt động rất tốt trong suốt nhiều năm nay. Điều đó cho
thấy chúng ta không có trường hợp mắc bệnh dại nào. Hệ thống luật mới cho phép
những vật nuôi vào nước Anh mà không bị cách ly chắc chắn dẫn đến tình trạng lan
truyền bệnh dại vào đất nước của mình.
(4) Trong suốt 20 năm qua, trẻ em bị áp đặt đủ các loại chương trình trên
truyền hình, những chương trình đó hỗ trợ giúp chúng trở nên tốt hơn về kỹ năng đọc

36
và làm toán. Những chương trình này trình bày cách hoc những kỹ năng như tính toán
và đọc chữ một cách nhẹ nhàng như một niềm vui, song song với những kỹ năng đó
còn có những trò chơi nhảy cóc và cầu vòng. Tuy nhiên, vẫn không thấy trẻ em có sự
tiến bộ nào về khả năng đọc viết và giỏi tính toán. Phương pháp hoạt náo trong việc
giảng dạy kỹ năng rõ ràng không có hiệu quả.
(5) Quyền Anh là môn thể thao duy nhất có lối chơi chủ yếu là làm cho đối
thủ bất tỉnh. Quả thực, đó là môn thể thao duy nhất mà mỗi một đấu sĩ có quyền làm
cho đối thủ bị thương. Vậy thì chắc chắn đây là môn thể thao nguy hiểm nhất trong
các môn thể thao. Người ta đã đưa ra nhiều giải pháp cho vấn đề này như sử dụng mũ
bảo vệ đầu và đổi găng tay, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề nguy hiểm có
tính sát thương cao này. Do đó, nên cấm thi đấu quyền Anh.
Trả lời
(1) Lập luận này có cấu trúc như sau:
R1: Marco Polo nổi tiếng là người đầu tiên ở phương Tây đặt chân đến
Trung Quốc.
R2: Tuy nhiên, trong những bài viết của mình về chuyến đi này, ông không
đề cập đến Vạn Lý Trường Thành nằm ở đâu, cũng như không đề cập đến trà hay
gốm sứ.
IC: Vì thế, ông chưa từng đặt chân đến Trung Quốc.
C: Lẽ ra quyển sách mà ông viết về chuyến đi đến một vùng đất nào đó phải
sử dụng những thông tin mà ông thu thập được của người dân sống ở đó.

R1 + R2

IC

C

A: Lập luận này cần sự kết hợp giữa R2 và IC. Giả định yêu cầu rằng
“những người đến Trung Quốc phải thấy được Vạn Lý Trường Thành, phải biết đến
trà và gốm sứ”. Nếu giả định này không được thực hiện, thì chúng ta không thể
dùng lý do nói về những thất bại của ông đề cập đến những vấn đề này để rút ra kết

37
luận rằng Marco Polo không đến Trung Quốc.
(2) Lập luận này có cấu trúc như sau:
R1: Ở những trường có tổ chức lớp học đặc biệt dành cho trẻ em có năng
khiếu thì chúng ta đều nhận thấy rằng, những em đó học rất tốt ở mọi môn học của
mình.
R2: Xã hội cần những người thông minh và có tài.
C: Do đó, chúng ta cần đảm bảo rằng, phải tổ chức những lớp học đặc biệt
trong tất cả các trường học.

R1 + R2

C

A: Bạn có thể tìm thấy hai giả định. Kết luận “chúng ta cần tổ chức những
lớp học đặc biệt cho những trẻ em có năng khiếu ở mọi trường học” đã giả định rằng,
mọi trường học sẽ có những trẻ em có năng khiếu. Một giả định nữa cần phải có để
rút ra kết luận là “những lớp học đặc biệt đó là cách duy nhất để đảm bảo chúng ta có
những con người thông minh và có tài”. Có thể là, những phương pháp khác như sử
dụng những chất liệu giảng dạy khác trong những lớp học bình thường chẳng hạn
cũng sẽ giúp phát hiện ra những em có năng khiếu.
(3) Lập luận này có cấu trúc như sau:
R1: Tất cả những con vật đem vào nước Anh trước đây đều là đối tượng bị
cách ly để đảm bảo rằng chúng không truyền bệnh dại vào.
R2: Hệ thống phòng ngừa bệnh dại ngay từ cửa khẩu đã hoạt động rất tốt
trong suốt nhiều năm nay. Điều đó cho thấy chúng ta không có trường hợp mắc bệnh
dại nào.
C: Hệ thống luật mới cho phép những vật nuôi vào nước Anh mà không
bị cách ly chắc chắn dẫn đến tình trạng lan truyền bệnh dại vào đất nước của mình.
R1 + R2

C

38
A: Đây là giả định cần thiết mà người nói có thể rút ra được kết luận. Điều
này có nghĩa là “việc cách ly là hệ thống điều khiển bệnh dại duy nhất có thể đem lại
hiệu quả”. Nếu giả định này không được thực hiện thì người nói không thể chuyển từ
nhận định về hệ thống trước đây để rút ra kết luận một vấn đề mới.
(4) Lập luận này có cấu trúc như sau:
R1: Trong suốt 20 năm qua, trẻ em bị áp đặt đủ các loại chương trình trên
truyền hình, những chương trình đó hỗ trợ giúp chúng trở nên tốt hơn về kỹ năng đọc
và làm toán.
R2: Những chương trình này trình bày cách hoc những kỹ năng như tính
toán và đọc chữ một cách nhẹ nhàng như một niềm vui, song song với những kỹ năng
đó còn có những trò chơi nhảy cóc và cầu vòng.
R3: Tuy nhiên, vẫn không thấy trẻ em có sự tiến bộ nào về khả năng đọc
viết và giỏi tính toán.
C: Phương pháp hoạt náo trong việc giảng dạy kỹ năng rõ ràng không có
hiệu quả.

R1 + R2 + R3

C

A: Chắc chắn bạn đã nhận ra ít nhất một giả định trong lập luận này. Có lẽ
rõ nhất là giả định được đặt giữa R3 và kết luận. Điều này có nghĩa là “không có bằng
chứng nào về sự tiến bộ chính là bằng chứng đầy đủ kém hiệu quả của phương pháp
hoạt náo”. Nếu không có giả định này, thì việc chuyển từ lý do sang kết luận không
thể thực hiện được, bởi vì bằng chứng có thể được chú giải bằng nhiều cách khác.
Chẳng hạn, chúng ta có thể nói rằng, bằng chứng đó cho thấy chúng ta cần có nhiều
chương trình hoạt náo như thế nữa để làm tăng mức độ của những kỹ năng ở trẻ em.
Còn một giả định khác nữa bạn có thể nhận thấy phù hợp giữa R2 và R3. Để
khẳng định R3, người nói phải giả định rằng bất kỳ tiến bộ nào về kỹ năng của trẻ em
cũng sẽ được nhận ra thông qua những bài kiểm tra kỹ năng như thế. Nếu phương
pháp hoạt náo thay đổi được cách thức trẻ em tiếp cận với việc đọc và làm toán, thì
những bài kiểm tra này có lẽ không thể nhận ra sự thay đổi này.

39
(5) Lập luận này có cấu trúc như sau:
R1: Quyền Anh là môn thể thao duy nhất có lối chơi chủ yếu là làm cho đối
thủ bất tỉnh.
R2: Đó là môn thể thao duy nhất mà mỗi một đấu sĩ có quyền làm cho đối thủ
bị thương.
IC: Vậy thì chắc chắn đây là môn thể thao nguy hiểm nhất trong các môn thể
thao.
R3: Người ta đã đưa ra nhiều giải pháp cho vấn đề này như sử dụng mũ bảo
vệ đầu và đổi găng tay, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề nguy hiểm có tính
sát thương cao này.
C: Do đó, nên cấm thi đấu quyền Anh.

R1 + R2

IC + R3

C

A: Việc chuyển từ R1 và R2 sang kết luận trung gian hình như không cần
phải có giả định. Giống như khi nghĩ rằng, chúng ta không thể nghi ngờ vấn đề chuyển
đổi này, nhất là khi phương tiện truyền thông đại chúng hay đưa tin về những nguy
hiểm của quyền Anh. Nhưng nếu xem kỹ lại, bạn sẽ có thể nhận ra một giả định đang
được thực hiện ở đây. Điều này có nghĩa là, mục đích của quyền Anh – cố ý gây
thương tích, và làm cho đối thủ bất tỉnh – tự nó làm cho môn thể thao này trở nên
“nguy hiểm nhất trong các môn thể thao”. Nói cách khác, mục đích của quyền Anh
lại là một sự hành nghề. Quyền Anh có thể là một môn thể thao rất nguy hiểm, nhưng
chúng ta không thể kết luận rằng đó là môn thể thao nguy hiểm nhất chỉ dựa trên
những gì thấy được của mục đích mà lại không đặt ra giả định này. Những môn thể
thao khác có lẽ còn nguy hiểm hơn mặc dù mục đích của chúng không gây ra thương
tích (chẳng hạn như môn bóng bầu dục, cỡi ngựa, trượt tuyết, leo núi…). Ví dụ về
giả định này cho chúng ta thấy, niềm tin của người nói có sức thuyết phục hơn lập
luận của họ. Niềm tin này chứa đựng một giả định nghi vấn, lúc thì bác bỏ, lúc thì

40
làm cho lập luận trở nên kém sức thuyết phục hơn.

SỬ DỤNG PHÉP LOẠI SUY


Đôi khi chúng ta bắt gặp một lập luận (hoặc chính chúng ta đưa ra lập luận)
mà trong đó bộ phận lý do dựa trên cơ sở giả định rằng tình huống này hoàn toàn
giống với một tình huống khác giúp chúng ta rút ra kết luận có sức thuyết phục tương
đồng. Ví dụ sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề này:
Những người được gọi là “chuyên gia” trong lĩnh vực trẻ em thường thúc bách
các bậc phụ huynh cho phép con mình có quyền tự do càng nhiều càng tốt để khám
phá “môi trường” của chúng. Các chuyên gia lập luận rằng, xét về mặt tự nhiên, trẻ
em thường hay thích tìm hiểu về thế giới và vì thế không nên ngăn cản chúng khám
phá những điều trong thế giới này, mặc dù đôi lúc gây ra những bất tiện cho các bậc
phụ huynh. Tuy nhiên, thử nghĩ mà xem, vấn đề này giống các loài động vật ở chỗ
nào – xét về mặt tự nhiên chúng cũng hiếu kỳ - chúng cũng có quyền tự do khám phá
“môi trường” của mình mà không có sự kiểm soát nào. Quả là lộn xộn. Vì thế, chúng
ta không nên chú ý nhiều đến quan điểm của các chuyên gia.
Trong ví dụ này, người nói lập luận ngược lại với các “chuyên gia” dựa trên
cơ sở cho rằng, nếu như quan điểm về trẻ em của các chuyên gia cũng được áp dụng
cho các loài động vật, thì “quả là lộn xộn”. Tuy nhiên, người nói giả sử rằng, sự khám
phá của trẻ em và động vật hoàn toàn giống nhau, điều đó cho thấy lập luận của các
“chuyên gia” sẽ bị bác bỏ. Người nói không lập luận tại sao hai trường hợp giữa trẻ
em và động vật lại đươc xem là tương đồng hoàn toàn để rút ra kết luận: sự tương
đồng được giả định trong cả hai trường hợp có nghĩa là nó không được lâp luận để
nhằm rút ra kết luận mà chỉ nhằm xây dựng bộ phận của lý do mà thôi.
Tìm hiểu tính tương đồng và khác biệt
Trong quá trình đánh giá suy luận loại suy được dùng trong một lập luận (dù
là của chúng ta hay của người khác), chúng ta cần xem xét nó trên cả hai phương diện
tương đồng và khác biệt giữa hai vật được so sánh. Nếu sự tương đồng mạnh hơn sự
khác biệt, thì phép loại suy là một suy luận đúng; còn nếu sự khác biệt chiếm ưu thế
hơn, thì phép loại suy là một suy luận không thuyết phục. Phép loại suy có sức thuyết
phục mạnh sẽ góp phần hỗ trợ đúng cho kết luận; ngược lại phép loại suy không có
sức thuyết phục mạnh sẽ không góp phần hỗ trợ đúng cho kết luận. Nhưng cần nhấn

41
mạnh rằng, cho dù phép loại suy có đúng đi chăng nữa thì cũng không bao giờ có thể
kết luận chắc chắn hoàn toàn được. Trước khi tìm hiểu tiếp, bây giờ hãy phát huy
cách xem xét độc lập về phép loại suy giữa hai trường hợp trẻ em và động vật được
sử dụng ở ví dụ trên và cho biết, phép loại suy có tác dụng gì?
Sau đây là một lập luận khác có sử dụng phép loại suy:
Các loại thức uống có cồn có xu hướng gia tăng rất nhiều – như nước chanh
có cồn – chúng được làm chỉ nhằm là thức uống giải trí. Loại thức uống này được
quảng cáo là thức uống dành cho những người trẻ nhằm tăng thêm niềm vui chứ
không phải để say sưa. Những nhân viên bán hàng và tiếp thị chắc là trước đây bị
kiểm soát chặt chẽ hơn bây giờ. Chúng ta sẽ không dung thứ cho những cuộc vận
động của các công ty thuốc lá quảng cáo nhắm vào giới thanh niên bằng những điếu
thuốc có hương vị sô-cô-la.
Trong ví dụ này, kết luận cho rằng “những nhân viên bán hàng và tiếp thị các
loại thức uống giải trí này chắc là trước đây bị kiểm soát chặt chẽ hơn bây giờ” được
rút ra từ một lý do duy nhất. Điều này có nghĩa là chúng ta không dung thứ cho bất
kỳ hành động nào giống như hành động của các công ty thuốc lá. Tất nhiên, từ “giống
như” ở đây là một từ mang tính quyết định. Phép loại suy được rút ra giữa loại thức
uống “giải trí” như nước chanh có cồn (đang bán trên thị trường) và những điếu thuốc
có hương vị sô-cô-la (chưa được bán trên thị trường). Như bạn thấy, lập luận này phụ
thuộc vào sức mạnh của phép loại suy này, tức là, nếu phép loại suy này không đúng
thì lập luận này cũng không đúng.
Kiểm tra các phép loại suy để tìm tính đầy đủ và xác đáng
Khi đánh giá nêu lý do cho một lập luận, chúng ta có nhiệm vụ phải xem xét
sự đầy đủ và xác đáng của lý do. Có phải khi đánh giá các phép loại suy thì chúng ta
thực hiện giống nhau hay không?
Đúng vậy. trong quá trình đánh giá bất kỳ phép loại suy nào chúng ta cũng
phải tìm hiểu tính đầy đủ và xác đáng giống như khi chúng ta tìm hiểu những tính
chất này trong bất kỳ loại lý do nào khác.
Nếu chúng ta kiểm tra tính xác đáng trước, thì phép loại suy ở ví dụ trên thể
hiện tính xác đáng ở chỗ nào? Ví dụ này sử dụng một tình huống trong đó chúng ta
lên án lối giải thích sản phẩm mang tính “giải trí” mà thực tế chúng ta lại muốn giới
trẻ không nên sử dụng sản phẩm này. Ví dụ này còn dùng một tình huống mà trong

42
đó sản phẩm “thực” đang được ngụy trang.
Vậy bằng cách nào mới có tính đầy đủ? Vấn đề nằm ở chỗ là sức mạnh của
phép loại suy xuất phát từ tính nhất quán, tức là, nếu bạn không chấp nhận tình huống
này, thì bạn cũng không nên chấp nhận tình huống khác, tình huống giống với nó.
Tuy nhiên, những điếu thuốc có hương vị sô-cô-la thực tế chưa có, tức là, tính nhất
quán phụ thuộc vào mẫu thức tưởng tượng. Nói cách khác, sự đầy đủ của phép loại
suy sẽ yếu hơn việc đưa ra mẫu thức có thực. Tuy nhiên, phép loại suy làm sáng tỏ
điều gì? Nó đặt ra cho chúng ta ý niệm về loại thức uống mang tính “giải trí” này
bằng cách trình bày cho chúng ta thấy một viễn cảnh mặc dù chỉ là tưởng tượng nhưng
vẫn chứa đựng được bản chất của vấn đề. Như vậy, đây chính là sức mạnh của phép
loại suy.
Khi dùng phép loại suy trong một lập luận, người ta phải giả định rằng hai tình
huống đưa ra giống nhau một cách đầy đủ một là để rút ra kết luận thể hiện sức mạnh
thuyết phục của phép loại suy, hai là để sử dụng nó cùng với việc nêu lý do khác sẽ
hỗ trợ cho việc rút ra kết luận. Nhiệm vụ của bạn sẽ là, vừa đánh giá những lập luận
của người khác vừa đưa ra được cái riêng của mình để đánh giá những phép loại suy
theo mức độ của sự tương đồng giữa hai tình huống.

BÀI TẬP
1. Hãy chọn bất kỳ lập luận nào mà bạn đồng quan điểm và nêu những giả
định trong đó. Bạn có chấp nhận tất cả những giả định này không?
2. “Có lập luận cho rằng việc quảng cáo thuốc lá đã kích thích người ta
hút thuốc tương đương với cách nói việc quảng cáo thức ăn cho những vật nuôi trong
gia đình cũng đã kích thích người ta mua những vật nuôi này”. Phép loại suy này hiệu
quả đến mức nào?

43
CHƯƠNG 4

Khai thác những nhược điểm trong một lập luận

Bạn nghĩ gì về lập luận sau?


Tất cả những nhà tư tưởng vĩ đại đều có một điểm chung. Nhìn vào chân dung
của Platon, Galileo, Marx, Darwin và Freud, bạn nhận ra điều gì? Tất cả đều có râu.
Vì thế, sự vĩ đại của họ chắc chắn có phần dính dáng đến điều này.
Rõ ràng có điều gì đó không ổn ở đây, nhưng chính xác là cái gì? Rất đơn giản,
mặc dù cấu trúc này là một lập luận nhưng kết luận của nó lại không nối kết được lý
do nêu ra (tất cả những nhà tư tưởng vĩ đại đều có một điểm chung, do vậy bộ râu của
họ khiến cho họ vĩ đại). Mặc dù tất cả những nhà tư tưởng vĩ đại đều có râu, nhưng
chúng ta thấy đặc điểm này không khiến họ vĩ đại, trừ phi có bằng chứng để chứng
minh quan hệ nhân quả này là khả thi. Ví dụ về lập luận kém sức thuyết phục này đòi
hỏi chúng ta phải xem xét những nhược điểm mà một lập luận có thể bộc lộ ra. Trong
chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu một số nhược điểm của lập luận để có thể vừa nhận
ra vừa tránh được chúng. Chúng ta bắt đầu bằng cách phân biệt điều kiện cần và điều
kiện đủ.

ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ


Hãy xem lại ví dụ về các nhà tư tưởng vĩ đại. Mặc dù người ta chứng minh
rằng râu của họ phần nào chính là nguyên nhân để có thể suy nghĩ được những điều
thâm sâu và đầy ý nghĩa, nhưng nó không nêu lên được việc có râu là một bảo đảm
về sự vĩ đại. Nói cách khác, mặc dù người ta chứng minh rằng có râu là điều mà bạn
phải có để trở thành nhà tư tưởng vĩ đại – đây là một điều kiện cần để trở nên vĩ đại
- nhưng nó vẫn không nêu lên được việc có râu là đủ sức thuyết phục để trở nên vĩ
đại – đây là một điều kiện đủ.
Ví dụ khá lủng củng này của một lập luận thiếu sức thuyết phục đã minh họa
cho một điểm rất quan trọng. Hãy tìm hiểu mối quan hệ khác nhau xác đáng đến
những điều kiện cần và đủ một cách chi tiết hơn.
X có thể không liên quan đến Y
Nếu có cả X và Y, thì sự liên kết này chỉ mang tính trùng hợp ngẫu nhiên, X
không phải là điều kiện cần cũng không phải là điều kiện đủ để có Y. Có nhiều ví dụ

44
về loại liên kết này. Với lập luận về các nhà tư tưởng vĩ đại có râu, nếu chúng ta thấy
trường hợp có Y (nhà tư tưởng vĩ đại) mà không có X (râu) – chẳng hạn Isaac Newton
không có râu nhưng Einstein lại có râu – thì lập luận này sẽ bị phá vỡ hoàn toàn.
X là điều kiện cần của Y
Trong trường hợp này, khi không có X thì cũng không có Y. Giả sử rằng, râu
không phải là điều kiện cần để làm xuất hiện các nhà tư tưởng vĩ đại, hay nói cách
khác, nếu không có râu thì không có các nhà tư tưởng vĩ đại. Một ví dụ khác về điều
kiện cần, “nếu bạn muốn chạy hết quãng đường trong cuộc đua Marathon ở London
thì bạn phải thật sung sức”. Trong ví dụ này, “thật sung sức” là điều kiện cần: không
ai có thể chạy hết quãng đường trong cuộc đua Marathon ở London mà không thỏa
mãn điều kiện này. Với tiền đề đã được đặt ra ở trên, khi có X (thật sung sức) thì có
Y (chạy hết quãng đường).
Như bạn thấy, “thật sung sức” chắc chắn là điều cần để chạy hết quãng đường
trong cuộc đua Marathon, nhưng không phải là điều kiện đủ. Nói cách khác, như thế
vẫn chưa đủ để có thể chạy hết quãng đường, tức là, có thể bạn sung sức nhưng vẫn
chưa chắc chạy hết được đường đua.

X là điều kiện đủ để có Y
Nói cách khác, ở đâu có X thì ở đó phải có Y. Nên nhớ rằng, người nêu ra lập
luận về các nhà tư tưởng vĩ đại tin rằng, có râu là điều kiện đủ để có tư tưởng vĩ đại.
Tất nhiên, điều này không đúng. Ví dụ sau đây trình bày một điều kiện đủ:
Người thừa kế ngai vàng là người con trai cả của quốc vương đang trị vì.
Như bạn thấy, “người con trai cả của quốc vương đang trị vì” có đủ điều kiện
để kế thừa ngai vàng, tức là, đây là đặc điểm quan trọng nhất. nó không đòi hỏi, tuổi
tác, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân hay bất kỳ đòi hỏi nào khác, nghĩa là, con
trai cả là điều kiện đủ. Tuy nhiên, trong thực tế sẽ có một số ngoại lệ, chẳng hạn trong
trường hợp quốc vương đang trị vì không có con hay chỉ có con gái, vậy thì có thể
nói rằng, con trai cả là điều kiện đủ chứ không phải là điều kiện cần.

Phân biệt dễ dàng giữa điều kiên cần và điều kiện đủ


Sự khác biệt giữa điều kiện cần với điều kiện đủ có thể tóm tắt rất đơn giản
như sau:

45
Nếu không có điều kiện cần để xác định X thì không có X (hoặc X sai); nếu
có điều kiện đủ để xác định X thì chắc chắn có X (hoặc X đúng).
Từ đây bạn có thể thấy rằng, điều kiện cần và đủ vừa là nguyên nhân vừa là
định nghĩa. Ví dụ mà chúng ta nêu ra về người thỏa mãn những điều kiện kế thừa
ngai vàng là một định nghĩa; ví dụ về râu và các nhà tư tưởng vĩ đại là một ví dụ cho
thấy điều kiện và nguyên nhân không được xác định rõ.
Bài tập
Hãy phân tích mối quan hệ giữa X và Y trong mỗi ví dụ sau. Mối quan hệ này
được xác định qua:
 Điều kiện cần
 Điều kiện đủ
 Không phải là điều kiện cần cũng không phải là điều kiện đủ
 Vừa là điều kiện cần vừa là điều kiện đủ

(1) X: hút thuốc; Y: bị ung thư


(2) X: lái xe trong tình trạng có độ cồn trong máu vượt mức cho phép; Y:
bị quy kết tội lái xe trong tình trạng có độ cồn trong máu vượt mức cho phép.
(3) X: có ba chứng chỉ cấp độ Giáo dục phổ thông; Y: theo học đại học.
(4) X: Đảng Lao động đạt được đa số ghế trong Hạ viện; Y: Đảng Lao động
thành lập Chính phủ.
(5) X: có tất cả sáu người cùng rút thăm chiếc vé có giá trị trong Chương
trình Xổ số Quốc gia; Y: có ít nhất một người sẽ rút trúng giải xổ số này.

Phân tích
(1) vì có những người hút thuốc bị ung thư, và cũng có những người hút
thuốc nhưng không bị ung thư, cho nên X không phải là điều kiện cần cũng không
phải là điều kiện đủ để có Y.
(2) vì có một số người lái xe vượt mức giới hạn cho phép mà không bị
cảnh sát bắt, cho nên X không phải là điều kiện cần cũng không phải là điều kiện đủ
để có Y. Nhưng cũng có người bị quy vào tội lái xe vượt mức giới hạn cho phép khi
đang lái xe trong tình trạng vượt mức giới hạn cho phép, cho nên X là điều kiện cần
để có Y. (Tất nhiên, chúng ta phải giả định rằng, hệ thống pháp luật chỉ quy kết những

46
người bị phát hiện vi phạm, đây là một giả định thực ra không nên có. Tóm lại, bạn
sẽ đúng nếu như bạn dùng cách nêu lý do này để đưa ra câu trả lời “X không phải là
điều kiện cần cũng không phải là điều kiện đủ để có Y.)
(3) Đáng tiếc, có ba A-level (cấp cao hơn trong các kỳ thi lấy chứng chỉ
Giáo dục phổ thông) vẫn không đảm bảo được một vị trí học cao hơn, vì thế X không
phải là điều kiện đủ để có Y. Hơn nữa, chương trình học cao hơn này thường dành
chỗ cho những người có hai A-level (và những người có một hoặc thậm chí không có
chứng chỉ A-level nào), vì thế X không phải là điều kiện cần để có Y.
(4) Nếu Đảng Lao động đạt được đa số ghế trong Hạ viện, thì người đứng
đầu sẽ kêu gọi lập Chính phủ. Không có một kết quả thực tế nào xảy ra sau đó (chúng
ta không cần để ý đến một liên minh giữa các đảng ngoại trừ Đảng Lao động vì có sự
can thiệp của từ “đa số”), và do vậy trong ví dụ này, X là một điều kiện đủ để có Y.
Tuy nhiên, đây không phải là điều kiện cần vì Đảng Lao động có thể lập chính phủ
mà vẫn không cần đa số ghế (nếu đây là đảng đông nhất trong Hạ viện hay là một bộ
phận của liên minh).
(5) Nếu bạn rút thăm một chiếc vé có giá trị cùng với sáu người khác, thì
đảm bảo ít nhất bạn sẽ là một trong những người rút trúng giải Xổ số Quốc gia. Nếu
không có chiếc vé như thế thì bạn sẽ không trở thành một trong những người rút trúng
giải (cho dù bạn có mơ bao nhiêu đi nữa). Như vậy, với cách lập luận này, việc có
một chiếc vé như thế vừa là điều kiện cần vừa là điều kiện đủ đối với việc trở thành
người trúng giải xổ số.

NHẦM LẪN GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ


Có một số lập luận kết hợp các bằng chứng lại với nhau hoặc đòi hỏi phải như
thế để có thể kết luận rằng cái này là nguyên nhân (hoặc cái kia là nguyên nhân) của
cái kia. Sau đây là ví dụ:
Mùa hè năm ngoái được ghi nhận là mùa nóng nhất. Năm nay các đại lý du
lịch báo cáo bán được rất ít lượng người đăng ký đi nghỉ ở nước ngoài. Vì thế người
ta giả định rằng, năm nay trời cũng sẽ nóng như năm ngoái và như vậy năm nay sẽ
đăng ký đi nghỉ trong nước.
Lập luận này dùng hai tình tiết làm bằng chứng (mùa hè nóng và doanh số bán
ra ít) và kết luận rằng có một sự liên kết mang tính nhân quả giữa hai tình tiết của

47
bằng chứng này, trong đó doanh số bán ra ít là kết quả của mùa hè nóng. Đây là ví dụ
điển hình về loại lập luận sau nó là do nó - post hoc argument (Sự kiện A xảy ra, sau
đó có sự kiện B liên tiếp xảy ra. Như vậy A là nguyên nhân của B), cụm từ này xuất
phát từ tiếng Latin với nghĩa đầy đủ là “sau điều đó, như vậy là do điều đó”. Trong
ví dụ này, người ta giả định rằng vì số người đăng ký mua vé bị giảm do mùa hè nóng
bức, nên “mùa hè nóng bức” là nguyên nhân của “số người đăng ký mua vé bị giảm”.
Đi tìm những lời giải thích khác
Khi gặp loại lập luận này (hoặc khi dùng cách lập luận này), bạn cần xem xét
cẩn thận cho dù mối quan hệ nhân quả này có được xác nhận hay không. Mối quan
tâm chính của bạn là liệu có lời giải thích khác nào cho kết quả hay không. Trong ví
dụ trên, có cách nào khác giải thích về việc “rất ít người đăng ký đi nghỉ ở nước
ngoài” không? Tất nhiên, có thể không có sự nối kết nào giữa hai biểu hiện này. “Rất
ít người đăng ký đi nghỉ ở nước ngoài” có thể được giải thích do tính bấp bênh của
kinh tế (mức độ đăng ký mua vé đi nghỉ phản ánh mức độ người dân tin tưởng vào
tình trạng tài chính của mình trong vòng mấy tháng tới) hoặc do không hài lòng với
những chuyến đi nghỉ ở nước ngoài, hoặc còn do nhiều nguyên nhân khác nữa. Mặt
khác, mùa hè nóng bức có thể là một trong những nhân tố có thể giải thích được mức
đăng ký vé rất ít. Do vậy, có thể kết luận rằng người ta không quyết định đi nghỉ ở
nước này là do mùa hè nóng bức.
Đi tìm những giả định khác
Còn một khía cạnh khác nữa của lập luận cũng cần được xem xét. Kết luận
được rút ra trên cơ sở cả giả định cho rằng, người ta đang lên kế hoạch đi nghỉ hè
(mặc dù người ta không đăng ký đi nghỉ ở nước ngoài qua các đại lý du lịch). Nếu
bạn bỏ giả định này thì đơn giản kết luận sẽ không xuất hiện sau đó. Còn giả định nào
khác sẽ được đặt ra không? Người nói phải giả định rằng, mức độ đăng ký vé hiện
nay là một chỉ dẫn đúng thể hiện mục đích của người dân (có thể còn có nhiều lý do
khác nữa để trì hoãn việc đưa ra quyết định). Ví dụ này một lần nữa cho thấy, lời giải
thích về những giả định của lập luận rất quan trọng.
Hãy xem một ví dụ khác và ứng dụng những kỹ năng phản biện của bạn vào
lập luận này:

48
Quảng cáo thuốc lá đã bị cấm trên truyền hình cách đây 30 năm. Kể từ đó
chúng ta thấy mức hút thuốc đã giảm xuống. Nếu chúng ta cấm mọi quảng cáo có
liên quan đến thuốc lá, thì mức độ hút thuốc cũng sẽ giảm nhiều hơn.
Bạn sẽ giải thích lập luận này như thế nào? Bằng chứng này có biện minh được
cho kết luận không? Đây có phải là loại lập luận sau nó là do nó không? Hãy suy
nghĩ những giải thích khả thi khác để rút ra kết quả “mức độ hút thuốc đã giảm”.
Người nói cần có những giả định nào để rút ra kết luận?
Đánh giá sức mạnh thuyết phục của những lập luận có quan hệ nhân quả
Mặc dù những lập luận dùng cách giải thích nhân quả không phải lúc nào cũng
chứng minh được, nhưng đôi khi có thể những lập luận này có sức thuyết phục rất
cao. Hãy xem hai lập luận sau. Hãy chỉ ra lập luận nào vững chắc hơn?
Mấy năm qua, chúng ta nhận thấy số xe hơi có lắp thêm thanh chắn phía trước
ngày càng tăng. Cũng trong thời gian này, số tai nạn trên đường gây chết người có
liên quan đến người đi bộ ngày càng gia tăng. Rõ ràng, nên cấm việc lắp thêm thanh
chắn phía trước.
Nên cấm việc lắp thêm thanh chắn phía trước xe hơi. Những tai nạn có liên
quan đến khách bộ hành và những tai nạn mà xe hơi có lắp thêm thanh chắn cho thấy
tỷ lệ bị thương nặng cao hơn những tai nạn xe hơi không lắp thêm thanh chắn phía
trước. Chính sự kềnh càng của những thanh chắn phải chịu trách nhiệm về những
trường hợp bị thương tổn nặng.
Xem xét bằng chứng theo lối phê phán
Trong lập luận thứ nhất, kết luận được rút ra từ hai tình tiết của bằng chứng:
số xe hơi có lắp thêm thanh chắn phía trước ngày càng tăng và số tai nạn gây chết
người có liên quan đến người đi bộ cũng ngày càng gia tăng. Từ đó kết luận rằng,
“việc lắp đặt thanh chắn nên bị cấm” được rút ra trên cơ sở giả định rằng, tình tiết thứ
hai của bằng chứng là kết quả của tình tiết thứ nhất. Điểm yếu của lập luận này, tất
nhiên, nằm trong việc không giải thích được tại sao lại có mối quan hệ nhân quả giữa
hai tình tiết này.
Trong lập luận thứ hai, hai tình tiết của bằng chứng lại được kết hợp với nhau
để hỗ trợ cho kết luận cho rằng “việc lắp đặt thanh chắn nên bị cấm”. Tình tiết thứ
nhất cho rằng, những tai nạn chết người có liên quan đến xe hơi lắp đặt thanh chắn
và có liên quan đến khách bộ hành có tỷ lệ cao hơn những tai nạn có xác đáng đến xe

49
hơi không lắp đặt thanh chắn. Cách giải thích về tình trạng tỷ lệ cao này được đưa ra
(sự kềnh càng của những thanh chắn) và rút ra cùng kết luận. Tuy nhiên, lập luận này
có sức thuyết phục mạnh hơn lập luận đầu. Không giống như lập luận đầu, lập luận
thứ hai cố chứng minh tại sao lại có lời giải thích mang tính nhân quả như thế. Hơn
nữa, hai tình tiết của bằng chứng lại có sự liên kết chung, đó là, tỷ lệ những tai nạn
gây chết người trong hai tình huống này có sự liên quan rất cao (và sự liên quan này
được lời giải thích nhấn mạnh thêm).
Đặt vấn đề về bằng chứng
Như đã thấy, bạn nên đánh giá những lập luận một cách sáng tạo, nhất là mối
quan hệ giữa những thông tin của bằng chứng để từ đó rút ra kết luận.
 Tìm hiểu xem bằng chứng đưa ra có thỏa tính đầy đủ để rút ra kết luận
không.
 Có giải thích nào khác cũng hợp lý như giải thích mà người nói đã dùng để
rút ra kết luận của họ không?
 Hãy tự hỏi xem có cần mối quan hệ nào khác giữa các bằng chứng không,
chẳng hạn nếu có người chấp nhận tình tiết này thì chắc chắn cũng có người chấp
nhận (hay bác bỏ) tình tiết kia.
 Người nói dùng giả định như thế nào? Hãy đánh giá những giả định này.
 Làm thế nào để lập luận có thể có sức thuyết phục mạnh hơn (như trong
lập luận thứ hai ở trên)?
Hãy áp dụng những cách đặt vấn đề như đã nêu trên vào công việc riêng của
bạn.

CÔNG KÍCH NGƯỜI TRANH LUẬN CHỨ KHÔNG PHẢI LẬP LUẬN
Trong loại lập luận này, lập luận đối lập bị bác bỏ không phải bởi những lý do
vạch ra được những điểm yếu trong đó, mà là do cách công kích vào những người
đưa ra lập luận. Sau đây là ví dụ:

Có một số người chủ trương cho rằng, cần phải đối xử với các tù nhân nghiêm
khắc hơn. Họ cho rằng tù nhân không được hưởng các tiện nghi của một cuộc sống
hiện đại như tivi và radio. Nếu thực hiện những điều kiện nghiêm khắc như thế, họ
lập luận, thì sẽ có ít người phạm tội hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là ý kiến của những

50
người trốn đóng thuế thu nhập hoặc của những người không nghĩ gì về việc lái xe sau
khi nhậu nhẹt say sưa. Vì thế, chúng ta nên đảm bảo rằng nhà tù không phải là nơi
trừng phạt nghiêm khắc.
Trong lập luận này, kết luận được đặt trên nhiều cơ sở chứ không phải chỉ là
nội dung của câu thứ tư. Những người lập luận đòi đưa ra sự nghiêm khắc hơn ở các
nhà tù đã bị công kích, và người ta dùng cách công kích này để loại bỏ lập luận của
họ. Như bạn thấy, lập luận của họ không gây xúc động, người nói đã không đưa ra
cho chúng ta những lý do (có liên quan) tại sao chúng ta cần kết luận rằng chúng ta
nên đảm bảo nhà tù không phải là nơi trừng phạt nghiêm khắc. Mặc dù rõ ràng trên
thực tế, những người đưa ra đề nghị sử dụng những điều kiện nghiêm khắc đó lại rất
vui vẻ trốn đóng thuế thu nhập hoặc chỉ là những gã tài xế hay say sưa, tuy nhiên
không thể dùng những tính chất này để bác bỏ lập luận cho rằng nhờ có những điều
kiện nghiêm khắc hơn trong nhà tù mà làm giảm được tỷ lệ phạm tội.
Đôi khi bạn nhận thấy loại lập luận này muốn ám chỉ đến lập luận công kích
cá nhân (ad hominem argument), trong tiếng Latin từ này có nghĩa là “lý lẽ đối với
con người", hay "chống lại con người", một hình thức nhấn mạnh sự công kích ra
khỏi vấn đề tranh luận và hướng tới người đang tranh luận. Mặc dù những công kích
riêng tư như thế thường không có tính xác đáng lắm trong một lập luận, nhưng có thể
lại có những trường hợp có tính xác đáng.
Những công kích có xác đáng đến người tranh luận
Mặc dù vị giám đốc điều hành khẳng định rằng trong năm nay công ty sẽ
không buộc sa thải ai, nhưng trước đây bà khẳng định sẽ sa thải và quyết không giữ
những người đó lại. Căn cứ vào việc trước đây bà ta chưa hề giữ lời với người lao
động, cho nên việc bà ta hứa không sa thải ai quả là không nên tin.
Trong lập luận này, kết luận cho rằng “không nên tin vào sự đảm bảo của vị
giám đốc điều hành” dựa trên lý do cho rằng trước đây bà ta luôn nói dối. Sự công
kích về tính chân thật có xác đáng của bà ta trong lập luận này cho thấy đó là một lý
do xác đáng để rút ra kết luận. Tuy nhiên, lập luận sau đây lại không như thế:
Vị giám đốc điều hành khẳng định rằng trong năm tới công ty không thể tăng
lương vì lợi nhuận về cơ bản sẽ bị giảm sút. Tuy nhiên trong ba năm qua, bà ta bị kết
tội lái xe sau khi uống rượu, do vậy nghiệp đoàn sẽ không tin vào những tuyên bố về
lợi nhuận của bà ta. Công nhân nên tổ chức đình công.

51
Trong ví dụ thứ hai này, sự chân thật của vị giám đốc điều hành bị loại bỏ vì
một cơ sở không xác đáng khá rõ ràng. Cơ sở này đã công kích vào người tranh luận
chứ không công kích lập luận, vì không có lý do xác đáng nên không tin vào những
tuyên bố về lợi nhuận của bà ta. (loại lý do không xác đáng này thường xuất hiện trên
báo chí. Đó là phương pháp thường được sử dụng để làm mất uy tín những người mà
báo chí không thích.)

LÒNG VÒNG
Có những lập luận dường như muốn giải quyết một vấn đề nào đó, nhưng trên
thực tế chúng lại không giải quyết được vấn đề gì cả. Kết luận của những lập luận
này không khác gì những lý do đưa ra. Ví dụ sau đây sẽ làm sáng tỏ vấn đề này:
Sự khác biệt giữa vai trò của nam giới và nữ giới không được ấn định bởi bản
chất di truyền mà phụ thuộc vào việc phát triển mang tính xã hội của mỗi cá nhân.
Do đó giống là cái phụ thuộc vào giáo dục chứ không phải là cái có nguyên nhân sinh
học.
Trong lập luận này, người nói bắt đầu bằng một tuyên bố cho rằng vai trò của
giống không lệ thuộc vào vấn đề sinh học xét về mặt nguồn gốc (không được ấn định
bởi bản chất di truyền), mà lại phụ thuộc vào quá trình phát triển mang tính xã hội.
Kết luận này chỉ lặp lại lời tuyên bố đã nêu. Lập luận này không đi từ lý do đến kết
luận, mà nó lại kết thúc ở chính nơi nó bắt đầu.
Mặc dù trong một số trường hợp chỉ cần mô phỏng ở một điểm nào đó cũng
có thể làm tăng thêm sức mạnh cho một lập luận, nhưng những lập luận mang tính
lòng vòng này sẽ không thuyết phục chúng ta chấp nhận kết luận được rút ra vì lý do
nêu ra không cho phép chúng ta rút ra kết luận.

Kiểm tra việc nêu lý do


Mặc dù có đôi lúc lập luận này biểu hiện lòng vòng một cách mập mờ, nhưng
nếu xem xét kỹ hơn chúng ta sẽ thấy người ta đã quy định một số lý do nêu ra:
Trong lịch sử của xã hội loài người thì thợ săn thường là đàn ông. Vì thế, khi
giải thích vấn đề thợ săn thường là đàn ông dưới góc độ của sinh học chắc là đúng.
Trong ví dụ này, kết luận về vấn đề thợ săn thường là đàn ông được rút ra từ
bằng chứng về đàn ông với vai trò là những người thợ săn; mặc dù có sự tương đồng

52
trong cách dùng từ, nhưng bạn vẫn thấy rằng có một sự chuyển đổi trong lập luận này
từ lý do sang kết luận.
GIẢM THIỂU XU HƯỚNG TUỘT DỐC
Vấn đề về những lập luận lòng vòng cho thấy chúng chẳng giải quyết được gì
cả; còn vấn đề xác đáng đến những lập luận có xu hướng tuột dốc (slippery slopes
argument ) lại cho thấy chúng đi quá xa, quá nhanh. Ví dụ sau đây sẽ chứng minh cho
vấn đề này:
Cần chống lại đề nghị cho phép du khách có quyền đi lại tự do hơn trong vùng
đất thuộc sở hữu riêng của người khác. Nếu chúng ta chấp nhận biện pháp này – mặc
dù không đáng kể - thì chúng ta sẽ chấm dứt việc cho phép đưa ra những biện pháp
xa hơn nữa. Điều gì hạn chế nguyên tắc về quyền đi lại của du khách, chỉ được phép
đi lại ở những vùng đất nhỏ như vườn cây ăn trái? Như vậy, nếu chúng ta cho phép
đi lại tự do ở những vùng đất nhỏ, thì bước kế tiếp phải cho phép quyền đi lại ở các
khu vườn dù lớn hay nhỏ. Và bước kế tiếp là quyền đi lại tự do vào vùng đất của
người khác – cho dù chỉ là một mảnh đất nhỏ - tương tự sẽ công nhận quyền tự do đi
lại trong nhà người khác. Toàn bộ quan niệm về sở hữu tư nhân, tính cá nhân, sẽ bị
đe dọa.
Trong lập luận này, người nói kết luận rằng nên chống lại đề nghị cho phép du
khách có quyền đi lại tự do hơn trong vùng đất thuộc sở hữu riêng của người khác.
Lý do để rút ra kết luận này có xu hướng tuột dốc xuất phát từ quyền đi lại tự do ở
những thửa đất nhỏ như vườn cây ăn trái, điều đó đe dọa vấn đề sở hữu tư nhân (và
tính cá nhân) thông qua việc cho phép quyền đi lại tự do trong phạm vi gia đình và
vườn tược. Như bạn thấy, lý do nêu ra đưa chúng ta đi quá xa xuất phát từ việc cho
phép du khách có quyền đi lại tự do. Khuyết điểm của lập luận này là bất kỳ cách giải
quyết có xu hướng tuột dốc nào cũng trở thành những thách thức, và nếu đó là những
thách thức, thì những điều sau không có tính thuyết phục.
Xu hướng tuột dốc là một loạt những lý do nối liền với nhau, mỗi lý do đều
cần thiết cho cả cấu trúc. Như vậy, nếu chúng ta có thể chứng minh rằng người đưa
ra lập luận trên thậm chí đã không thực hiện bước đầu tiên trong việc nêu lý do –
chuyển sang “những thửa đất nhỏ” – vậy thì những lập luận theo sau không thể được
dùng để hỗ trợ cho kết luận.

53
XUYÊN TẠC QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI ĐỐI LẬP
Để công kích lập luận của đối thủ, đôi khi chúng ta trình bày lại lập luận đó
một cách hiệu quả hơn bằng cách biến đổi nó phù hợp với mục đích phê phán của
mình. Chúng ta vạch ra những yếu điểm của nó rồi sau đó khai thác chúng. Đôi khi
người khác lại trình bày và công kích chính những lập luận của chúng ta bằng cách
này. Tất cả những điều này nhằm vào việc nâng cao tính thuyết phục, cơ sở của lập
luận. Khi bóp méo những lập luận bằng cách khai thác những điểm yếu của nó là
chúng ta muốn ám chỉ đến một lập luận có tính “xuyên tạc” (straw man). Thuật ngữ
này có nghĩa là thay vì bàn về luận điểm thật của một lập luận (với tất cả tính chất và
sức thuyết phục của nó), thì chúng ta lại bàn về một phiên bản khác mang tính nông
cạn của lập luận này (không thể hiện tính chất và sức mạnh thuyết phục chính trong
lập luận). Phiên bản bị bóp méo này lại bị công kích như phiên bản thực đã bị công
kích.
Sau đây là ví dụ:
Thêu dệt sự xuyên tạc
Người đi xe đạp trong thành phố ngày càng không chịu nổi nhiều loại phương
tiện giao thông khác trong thành phố. Trong chiến dịch vận động mở thêm tuyến đi
cho xe đạp trong thành phố, họ tận dụng mọi cơ hội để công kích người đi xe ô tô
riêng. Họ cho rằng xe hơi là nguyên nhân sâu xa của các bệnh liên quan đến đường
hô hấp, và là nguyên nhân của nhiều vấn đề đô thị khác nữa, kể cả tội phạm. Tuy
nhiên, họ lại lờ đi tất cả những đóng góp tích cực mà xe hơi mang lại cho cuộc sống
hiện đại. Xe hơi đã làm đem cho người ta thoải mái hơn như đi chơi cả gia đình, thăm
bạn bè và họ hàng, hay đi mua sắm dễ dàng hơn. Vì thế, chừng nào những người vận
động cho xe đạp sẵn sàng tiếp cận vấn đề giao thông đô thị một cách hợp lý hơn thì
yêu cầu về việc mở thêm tuyến đi cho xe đạp mới bị bác bỏ.
Xuyên tạc trong lập luận này khá dễ nhận ra. Cuộc vận động cho xe đạp trong
đô thị được mô tả là chiến dịch vận động mở thêm tuyến đi cho xe đạp trong thành
phố. Nếu chúng ta chấp nhận điều này là đúng thì chúng ta sẽ kỳ vọng vào việc đi tìm
lý lẽ ngược lại việc mở thêm các tuyến đi cho xe đạp, dẫn đến kết luận (“yêu cầu của
cuộc vận động dành cho xe đạp… sẽ bị bác bỏ”). Tuy nhiên, không có một lập luận
như thế. Tất cả chúng ta đều nhận thấy đó là một công kích vào luận điểm được gán
cho cuộc vận động dành cho xe đạp: “Họ cho rằng xe hơi là nguyên nhân … họ lại lờ

54
đi tất cả những đóng góp tích cực …”. Luận điểm này được mô tả là luận điểm phi lý
(một sự phi lý dễ bảo vệ), nhưng sự hợp lý (hay ngược lại) của vấn đề tuyến đi của
xe đạp không được xem xét đến. Bằng cách này, cuộc vận động dành cho xe đạp bị
công kích bằng cách sử dụng lối bóp méo, xuyên tạc.
Có thể bạn nghĩ rằng, loại lập luận xuyên tạc rất giống với loại công kích người
tranh luận chứ không phải là công kích phương pháp lập luận. Mặc dù có một sự
tương đồng do lập luận thật không được bàn đến, nhưng phương pháp lập luận thì lại
khác.
Hai sai thành một đúng
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với cách lập luận này vì đó là loại lập luận mà
ngay cả trẻ em cũng có xu hướng sử dụng:
Thật là khổ, tôi gặp rắc rối vì quên mang sách. Trong lớp tôi cũng có nhiều
bạn quên mang sách.
Trong lập luận này, lý do nêu ra để dẫn đến kết luận cho rằng “thật là khổ…”,
“nhiều bạn khác” cũng khổ như thế. Như bạn thấy, mặc dù lập luận này đưa ra một
hình thức công bằng đơn giản, nhưng nó vẫn không có sức thuyết phục. Những
nước công nghiệp hóa thường xuyên phàn nàn những nước có rừng nhiệt đới về việc
diện tích rừng luôn bị thu hẹp lại. Họ cho rằng, khí hậu trên thế giới sẽ xấu đi nghiêm
trọng nếu như cứ tiếp tục phá rừng nhiệt đới. Họ lập luận, việc bảo vệ môi trường của
thế giới là vấn đề quan trọng nhất hiện nay mà con người đang phải đối đầu. Tuy
nhiên, những nước có rừng nhiệt đới lại cho rằng những nước công nghiệp phải chịu
trách nhiệm nhiều hơn vì họ đã khai thác cạn kiệt những tài nguyên hiếm và làm tổn
hại đến môi trường. Vì thế, những nước công nghiệp giàu có phải chấm dứt nạn phá
rừng nhiệt đới và xem lại hành vi của mình.
Tuy nhiên, nó cảnh báo những người có nhận thức tốt hơn thì lại có xu hướng
sử dụng nó thường xuyên hơn:
Thủ lĩnh phe Đối lập hầu như không tố cáo việc Chính phủ bóp méo sự thật.
Ông ta không nói thật việc ông ta sẽ ủng hộ mọi biện pháp chống tội phạm.
Trong loại lập luận quá quen thuộc này, việc tố cáo không đúng sự thật thực
ra không được bàn đến. Thay vào đó lại tố cáo ngược lại. Là người có tư duy phản
biện, lập luận này không thuyết phục được chúng ta, bởi vì, mặc dù Thủ lĩnh phe Đối
lập không nói thật về tình hình lúc đầu, nhưng sự thật này không cho phép người

55
tranh luận kết luận rằng Chính phủ sẽ không bị tố cáo về tội nói dối.
Bạn có thể thấy lý do tại sao loại lập luận này đôi khi cũng ám chỉ đến loại lập
luận “anh cũng thế” – “you too” (cụm từ này xuất phát từ tiếng Latin, tu quoque, có
nghĩa là lý lẽ của đối thủ là vô giá trị bởi đối thủ đã không làm theo chính lời khuyên
của mình. Hay chúng ta cố gắng chứng minh những điều chúng ta đang làm bằng
cách chỉ ra rằng đối thủ của chúng ta và những người khác cũng đều làm như vậy.).
Đây không phải là những lập luận đúng vì lý do nêu ra không có tính xác đáng cũng
không có tính đầy đủ. Hãy coi chừng loại lập luận này, nó rất khó chịu với ngay cả
người sử dụng và người không muốn sử dụng.
Kêu gọi tính nhất quán
Tuy nhiên, đôi khi bạn găp những lập luận có vẻ như loại lập luận “anh cũng
thế” nhưng lại có sức thuyết phục nhất định nào đó. Hãy xét ví dụ sau:
Kiểm tra tính xác đáng
Trong lập luận này, bạn sẽ phát hiện ra lời tố cáo ngược lại ở câu thứ tư. Nó
có một tính chất “anh cũng thế” rõ ràng. Tuy nhiên có phải lời tố cáo ngược lại này
không xác đáng? Trong ví dụ nói về nhà chính trị ở trên, tính không xác đáng của lời
tố cáo ngược lại đó hoàn toàn không bàn đến lời tố cáo về nói dối. Rất đơn giản, mặc
dù Thủ lĩnh của phe Đối lập đã nói dối trong quá khứ, nhưng dựa vào nội dung này
vẫn không trả lời được sự tố cáo đó. Tuy nhiên, trong lập luận về rừng nhiệt đới thì
lời tố cáo ngược lại có tính xác đáng. Nếu nội dung chính trong lời phàn nàn của các
nước công nghiệp có liên quan đến vấn đề môi trường, thì bằng chứng cho thấy rằng
họ không nhất quán trong việc tiếp cận với những vấn đề môi trường có tính xác đáng.
Nói cách khác, lời tố cáo mang tính chất “anh cũng thế” là cách trả lời xác đáng với
lời tố cáo ban đầu, bộc lộ thái độ giả hình.
Ví dụ này cho chúng ta thấy, trong lập luận có một chỗ đòi hỏi sự nhất quán.
Trong ví dụ về rừng nhiệt đới, luận điểm được đặt ra “việc bảo vệ môi trường trên
thế giới là vấn đề quan trọng nhất hiện nay mà con người đang phải đối đầu”, ở đây
lập luận chống lại các nước công nghiệp là quyền phàn nàn về nạn phá rừng nhiệt đới
phải được xem xét. (Trong ví dụ trên liệu Thủ lĩnh của phe Đối lập có thể tố cáo
Chính phủ nói dối hay không, lập luận này sẽ xứng đáng nếu trước đó là một lập luận
chứa đựng tính nhất quán. Nói cách khác, nếu Thủ lĩnh của phe Đối lập đưa ra một

56
luận đề chưa có nhà chính trị nào đã từng nói dối, thì vị Thủ lĩnh của phe Đối lập
đúng là người nói dối.)
GIỚI HẠN NHỮNG GIẢI PHÁP
Nên nhớ rằng, vấn đề lập luận xuyên tạc có nghĩa là luận đề của đối thủ được
trình bày bằng cách cố ý đưa ra nhược điểm để phản luận lại một cách dễ dàng. Còn
một cách nữa, trong đó, lập luận phản bác hợp lý trên thực tế có sức thuyết phục mạnh
nhưng lại được trình bày có vẻ yếu hơn. Hãy khảo sát ví dụ sau:
Vấn đề rất nhiều chim bồ câu trong những thành phố của chúng ta có thể được
tiếp cận một trong hai cách. Hoặc là chúng ta lờ đi vấn đề này, hoặc cho phép số
lượng này tiếp tục gia tăng với mọi hệ quả về bệnh tật và thiệt hại cho các cao ốc sau
này. Hoặc là chúng ta có thể bắt tay vào một chiến dịch trên quy mô lớn bắn và đánh
thuốc vào chúng để làm giảm thiểu đáng kể số lượng này. Vì giải pháp thứ hai này
có bàn về vấn đề bệnh tật và thiệt hại, cho nên đây là vấn đề chúng ta nên thông qua.
Người nói đưa ra hai giải pháp tối thiểu để giải quyết vấn đề chim bồ câu trong
đô thị, và vấn đề này được giải quyết thông qua những giải pháp như đã trình bày,
trong đó chỉ có một giải pháp được ủng hộ mà thôi. Như vậy, theo lập luận này, vấn
đề chim bồ câu sẽ được giải quyết bằng “một chiến dịch trên quy mô lớn bắn và đánh
thuốc vào chúng”.
Tuy nhiên, người nói đã lập luận chơi khăm chúng ta. Họ dẫn chúng ta đến kết
luận bằng cách bỏ qua những giải pháp khác đã có sẵn. Có thể thấy, những giải pháp
khác này sẽ dẫn chúng ta đến quyết định không ủng hộ cho chiến dịch mà họ đưa ra.
Chẳng hạn, có thể dùng giải pháp cho chim ăn loại thức ăn có tẩm thuốc tránh thai để
không làm tăng số lượng. Một giải pháp khác nữa có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh
bằng cách cho chim ăn loại thức ăn có tẩm thuốc kháng ký sinh. Có lẽ bạn còn có
nhiều giải pháp khác nữa.
Hãy chú ý cách trình bày giải pháp thứ hai của người nói, rõ ràng nó đưa ra
sức mạnh thuyết phục bằng nhược điểm của câu đầu. Nói cách khác, giải pháp đầu
được trình bày bằng cách cầm tay dắt bạn đi tìm giải pháp khác.
THỰC HIỆN NHỮNG LỜI KÊU GỌI KHÔNG XÁC ĐÁNG
Có nhiều ví dụ về những lập luận trong đó người lập luận tìm cách củng cố lập
luận của mình bằng cách kêu gọi điều gì đó không có tính xác đáng. Chúng ta sẽ xem

57
xét hai loại kêu gọi này và trình bày lý do tại sao chúng lại không hoạt động (hiệu
quả).
Dựa vào đám đông
Có những lập luận được dựa trên cơ sở, ít nhất một phần nào đó, nêu lý do kêu
gọi đám đông. Sau đây là ví dụ đơn giản:
Hầu hết mọi người đều tin vào những điều mê tín, không nhiều thì ít, như xui
xẻo sẽ xảy ra nếu đi chui qua một cái cầu thang hoặc nếu nhìn thấy một con cú. Vì
vậy, chắc là có điều gì đó là thật trong những mê tín này.
Trong lập luận này, kết luận “chắc là có điều gì đó là thật trong những mê tín”
được đặt trên một bằng chứng duy nhất, đó là, hầu hết mọi người đều tin vào những
điều mê tín. Không có lý do nào khác hơn. Tuy nhiên, chúng ta cần nhiều bằng chứng
hơn chứ không phải là niềm tin của nhiều người để có thể kết luận rằng “có điều gì
đó là thật trong những mê tín”. Trong loại ví dụ này, sự thật là vấn đề bằng chứng
của mối quan hệ nhân quả giữa mê tín và những sự kiện xảy ra sau đó. Mặc dù mọi
người đều tin vào những quan hệ nhân quả như thế, nhưng sự thật vẫn là vấn đề bằng
chứng cho những quan hệ này.
Tuy nhiên, cũng có những loại lập luận trong đó lời kêu gọi đám đông là không
xác đáng?
Đúng vậy. Trong ví dụ trên, lời kêu gọi đám đông không xác đáng vì nhiều
người đã có niềm tin này rồi, cho dù có kêu gọi nhiều hơn nữa thì cũng chẳng liên
quan gì đến kết luận. Điều này là do sự thật được thiết lập bởi bằng chứng chứ không
phải bởi niềm tin. Nhưng có những lập luận nếu thực hiện tốt việc kêu gọi nhiều
người thì sẽ hỗ trợ rất nhiều cho những cái xác đáng để rút ra kết luận. Hãy xem lập
luận rõ ràng hơn sau đây:
Hầu hết mọi người đều ủng hộ Dự luật cấm săn thỏ. Do đó các Nghị sĩ nên bỏ
phiếu để ủng hộ cho Dự luật này.
Trong lập luận này, lời kêu gọi đám đông là xác đáng vì cho dù thế nào thì
cũng phải chống lại việc săn thỏ, nếu hầu hết mọi người ủng hộ lệnh cấm này, thì các
Nghị sĩ ít nhất cũng phải xem xét đến sức mạnh cảm xúc của công chúng. Lập luận
này không bàn về sự thật liệu săn thỏ có thô bạo hay không (thô bạo ở đây được hiểu
là thỏ sẽ đau đớn), mà chỉ bàn về việc liệu các Nghị sĩ có bỏ phiếu để cấm hay không.
Những xét đoán dưới góc độ chính trị-xã hội theo cách dân chủ cần phải xét đến bằng

58
chứng mang tính đám đông.
Kêu gọi lòng thương cảm
Trong một số lập luận, kết luận được rút ra bằng cách kêu gọi lòng thương
cảm. Sau đây là ví dụ:
Quý Bà Fiona Grant, người kế thừa gia tài hàng triệu đôla của gia đình Grant,
đã đoạt giải trong cuộc thi thơ quốc gia gần đây. Điều này không công bằng. Có nhiều
nhà thơ tham gia cuộc thi thực sự chỉ cần giải nhất 5.000 đôla. Quý Bà Grant không
cần số tiền này chút nào.
Trong lập luận này, kết luận “Quý Bà Grant đoạt giải trong cuộc thi không
công bằng” dựa trên lý do nêu ra là, bà ta không cần số tiền này, trong khi các nhà
thơ khác thì lại thực sự cần. Tuy nhiên, lý do này không xác đáng nếu như tiêu chí để
thắng giải là khả năng thơ ca.
Kêu gọi lòng thương cảm một cách xác đáng
Lời kêu gọi lòng thương cảm sẽ không có tác dụng nếu như không xác đáng;
tuy nhiên, bạn có thể nghĩ đến những lập luận trong đó có tính xác đáng. Đây là những
lập luận trong đó không có tiêu chí nào quan trọng hơn lời kêu gọi lòng thương cảm
(không giống như ví dụ trên, mặc dù các nhà thơ khác cần tiền hơn Quý Bà Fiona
nhưng nhu cầu của họ lại không xác đáng đối với cuộc thi này). Sau đây là một ví dụ
khác trong đó lời kêu gọi lòng thương cảm thể hiện xác đáng đối với vấn đề được đặt
ra:
Quỹ Thơ Quốc gia gần đây đã nhận được một chúc thư của Quý Bà Fiona
Grant tặng một số bất động sản để tài trợ cho các nhà thơ trẻ tạo điều kiện phát triển
cho nghề nghiệp của họ. Quỹ này giới hạn số người nhận tài trợ đợt đầu là hai người:
George Hamilton và Lucy Chapman. Cả hai người nhận tài trợ đều hứa sẽ phát triển
nghề nghiệp của mình, tuy nhiên hoàn cảnh của Hamilton phải làm việc cả ngày trong
một nhà máy để kiếm sống trong khi đó Chapman chỉ làm công việc đi dạy thêm. Rõ
ràng, sự tài trợ này nên dành cho George Hamilton hơn.
Lập luận này sử dụng lời kêu gọi lòng thương cảm (dưới hình thức xem nhu
cầu là cái quan tâm hàng đầu) để rút ra kết luận. Tại sao lời kêu gọi này lại trở nên
xác đáng đối với việc rút ra kết luận? Bởi vì, không giống như ở ví dụ đầu, tiêu chí
được dùng để quyết định xem ai là người đoạt giải sẽ kèm theo cả vấn đề nhu cầu.
Như vậy, chúng ta đánh giá những lập luận này theo tiêu chí có tính xác đáng.

59
Còn nhiều ví dụ khác nữa về những lập luận dựa vào những lời kêu gọi không
xác đáng. Hãy sử dụng kỹ năng phản biện của bạn để đánh giá những lập luận này
mỗi khi gặp chúng.
Bài tập
Hãy chỉ ra nhược điểm trong mỗi lập luận sau:
(1) Những người lập luận rằng “rừng nhiệt đới cần được bảo vệ để tránh
những thiệt hại do sự phát triển gây ra” là những người không muốn mục kích sự tiến
bộ. Chính sự tiến bộ này đã đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích như chăm sóc y tế
và vận chuyển nhanh chóng. Cuộc sống của con người sẽ trở nên kém chất lượng hơn
nếu như ông bà chúng ta đứng cản đường sự tiến bộ. Vì thế, chúng ta không nên nghe
lời những người chống lại sự khai thác chính đáng rừng nhiệt đới.
(2) Nhiều năm qua, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nhiều
sinh viên trong giáo dục đại học. Sự phát triển này chắc chắn đã gây ra một sự thay
thế xáo trộn những tiêu chuẩn nhất định nào đó, rất nhiều sinh viên đạt được bằng
cấp. Vì những tiêu chuẩn bằng cấp bị hạ thấp, cho nên rất nhiều sinh viên tạo niềm
tin cho những người tuyển dụng lao động bằng chính khả năng của mình. Với việc số
người tốt nghiệp ngày càng nhiều hơn mà không có khả năng tìm được việc làm,
chúng ta thấy rằng, các trường đại học sẽ không thể tuyển được những thanh niên có
tài cho mình, vì họ quyết định phát triển tài năng của mình trong các nhà máy sản
xuất. Do vậy, chính sách khuyến khích lực lượng con người vào lĩnh vực giáo dục
đại học hiện nay không phát huy hiệu quả thu phục khả năng của một số người có tài.
Nên bỏ chương trình này đi càng sớm càng tốt.
(3) Việc tăng giá thuốc lá sẽ giảm số người hút thuốc. Giá thuốc lá vẫn tăng
trong những năm qua và mức độ hút thuốc cũng đang giảm.
(4) Micheal MacGregor, Bộ trưởng Bộ An ninh Xã hội, thông báo rằng ông
sẽ không phê chuẩn mức tăng trên lạm phát đối với trợ cấp cơ bản. Ông lập luận rằng
đất nước đơn giản là không đủ khả năng trả cao hơn mức tăng ba phần trăm. Tuy
nhiên, lập luận về việc chúng ta không đủ khả năng trả một khoản trợ cấp tươm tất
cho những người già thì đúng là vô lý. Cha mẹ già của MacGregor chắc hẳn rất thoải
mái sống trong lâu đài của dòng tộc mà không cần lo lắng gì đến vấn đề tài chính
cũng như lo lắng vì những nếp nhăn trên khuôn mặt của mình. Rõ ràng, gia đình
MacGregor không biết gì về tình trạng nghèo khổ mà những người già đang phải

60
gánh chịu. Do đó, chúng ta cần giữ mức tăng trợ cấp trên ba phần trăm.
(5) Nghiên cứu về cái gọi là “trại an dưỡng” đã cho thấy những người biết
chăm sóc mình cuối cùng sẽ cảm thấy khỏe mạnh hơn. Tất cả các trại an dưỡng trong
cuộc nghiên cứu đó đều có đầy đủ các chế độ bao gồm cả xoa bóp và ăn kiêng đặc
biệt. Do vậy chúng ta có thể kết luận rằng, nếu người nào muốn cảm thấy khỏe mạnh
hơn thì họ nên tuân theo một chế độ ăn kiêng đặc biệt và được xoa bóp nữa.
(6) Chính sách hiện hành ở các nhà tù là thực hiện chế độ ngày càng cứng
rắn với các tù nhân. Vấn đề là một khi đưa ra những chế độ cứng rắn này thì bạn sẽ
thấy rằng chế độ cứng rắn này vẫn không làm giảm mức độ phạm tội, mà buộc bạn
lại đối đầu với vấn đề phải làm cho họ tự do hơn nữa. Kỷ luật trong các nhà tù mà
mâu thuẫn thì tình trạng lộn xộn sẽ xảy ra. Chúng ta nên cố gắng chặn đứng biện pháp
thực hiện chế độ cứng rắn hơn trong nhà tù trước khi quá muộn.
Trả lời
(1) Lập luận này mô tả luận đề về những người phản đối việc khai thác
rừng nhiệt đới với lời lẽ và quan điểm “xuyên tạc” vấn đề. Sự mô tả không muốn
“mục kích sự tiến bộ” cho phép người lập luận công kích lập luận bằng cách nêu ra
những lợi ích khác của sự tiến bộ. Vì “đứng cản đường sự tiến bộ” được xem như là
một điều xấu, cho nên có người phản đối việc khai thác rừng nhiệt đới. Không khó
lắm để thấy rằng mô tả có tính chất “xuyên tạc” này về luận đề của những người phản
đối việc khai thác rừng nhiệt đới là một sự bóp méo luận đề, sự bóp méo này cho
phép người tranh luận lờ đi bất kỳ sự thuyết phục nào trong luận đề thực của họ.
(2) Lập luận này biểu hiện quan điểm “tuột dốc” quen thuộc. Sự chuyển
đổi từ “số sinh viên gia tăng” sang sự xuống dốc về tiêu chuẩn mà không có bất kỳ
lý do nào để chứng minh tại sao phải có sự xuống dốc như thế. Tương tự như thế, sự
chuyển đổi từ “sinh viên tốt nghiệp không có khả năng tìm được việc làm” sang những
thanh niên có tài lại không muốn vào làm việc ỏ các trường đại học là một biện pháp
lớn chứ không phải là lý do đầy đủ.
(3) Đây là lập luận sau nó là do nó. Người nói kết hợp hai tình tiết của bằng
chứng lại và giả định rằng giữa hai tình tiết này có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Việc tăng giá thuốc lá gây nên sự sụt giảm số người hút thuốc, nhưng sự sụt giảm này
có thể được giải thích bằng nhiều cách khác không xác đáng đối với những thay đổi
về giá cả (ví dụ, vận động mang tính chất giáo dục về sức khỏe).

61
(4) Bạn sẽ phát hiện ra lập luận công kích cá nhân ở đây. Cho dù cha mẹ
già của Micheal MacGregor có sống trong giàu sang hay không thì không ảnh hưởng
gì đến cách lập luận của ông ta rằng ông ta sẽ không phê chuẩn mức tăng trên lạm
phát bởi vì đất nước không đủ khả năng trả trợ cấp nhiều hơn. Lập luận của ông ta
cần được hiểu theo cách, chúng ta có thể đủ khả năng trả trợ cấp cao hơn (bằng cách
tiết kiệm chi tiêu nào đó chẳng hạn) hoặc chúng ta sẽ tăng thuế để chi cho vấn đề tăng
lương này. Dân chúng công kích MacGregor rằng ông ta không cảm thông vấn đề
nghèo khổ của những người cao tuổi, lập luận này phần lớn có tính xác đáng cho dù
người già có cần thêm tiền hay không, nhưng nó lại không xác đáng đối với lập luận
của ông ta về tính kinh tế của vấn đề.
(5) Đây là một hình thức lập luận công kích cá nhân nữa. Mặc dù bằng
chứng thích hợp với việc ăn kiêng đặc biệt và xoa bóp chính là nguyên nhân của việc
người ta “cảm thấy khỏe mạnh hơn”, nhưng chúng ta không thể nói rằng đó là nguyên
nhân. Bằng chứng này có rất nhiều điều cần được bàn đến. Chẳng hạn, có thể chế độ
ăn kiêng hay cũng có thể do xoa bóp gây nên “cảm giác khỏe mạnh hơn”, chứ không
phải cả hai. Có thể các “trại an dưỡng” còn có những phương pháp khác và đó mới là
nguyên nhân thật thì sao (chẳng hạn tập thể hình). Có thể là do được nghỉ ngơi và
được tẩm bổ thì sao, như thế cũng đủ để làm cho người ta cảm thấy khỏe mạnh hơn.
Như vậy, lập luận này mắc phải một nhược điểm, đó là, bằng chứng không hỗ trợ rõ
rệt cho kết luận (mặc dù có tính xác đáng nhưng thiếu đầy đủ).
(6) Đây là ví dụ về việc hạn chế các giải pháp. Người nói chỉ trình bày một
giải pháp sau khi đã thất bại trong việc áp dụng những chế độ cứng rắn hơn trong nhà
tù. Điều này có nghĩa là chúng ta sẽ phải thay những chế độ cứng rắn hơn bằng những
chế độ “tự do hơn”. Sau giải pháp này, sự lộn xộn được dự báo còn nhiều hơn nữa.
Tuy nhiên không phải chỉ có một giải pháp. Mặc dù có chế độ cứng rắn hơn vẫn
không giảm được mức độ phạm tội, nhưng chúng vẫn được chứng minh bằng nhiều
cách khác nữa. Một giải pháp khác nữa có thể kết hợp những chế độ cứng rắn hơn
với những biện pháp khác nhằm giảm thiểu mức độ tội phạm. Như vậy, kết luận cho
rằng chúng ta nên cố gắng chặn đứng biện pháp thực hiện chế độ cứng rắn hơn trong
nhà tù dựa trên sự bóp méo những giải pháp có sẵn.

62
BÀI TẬP
1. Có điều gì đó không ổn với một lập luận dựa vào lý do cho rằng vì điều
đó không được chứng minh là sai, nên chắc chắn nó đúng? Hãy đưa ra một ví dụ về
loại lập luận này.
2. Có điều gì đó không ổn với một lập luận trong đó kết luận dựa vào lý
do cho rằng vì điều đó không được chứng minh là đúng, nên chắc chắn nó sai? Hãy
đưa ra một ví dụ về loại lập luận này.

63
CHƯƠNG 5

Tìm hiểu những ưu điểm


TÌM KIẾM SỰ CHẮC CHẮN
Trong chương 2, chúng ta đã xem xét tóm lược sự phân biệt giữa lập luận suy
diễn và quy nạp. Với lập luận suy diễn, nếu lý do nêu ra đúng, thì kết luận cũng sẽ
đúng. Còn với lập luận quy nạp, dù lý do nêu ra đúng, nhưng kết luận sẽ chỉ có tính
gần đúng. Trong hầu hết các lập luận mà chúng ta đã khảo sát cho đến nay, thì kết
luận – được hỗ trợ bởi cả lý do có liên quan và lý do đầy đủ - chỉ mang tính gần đúng.

Rút ra kết luận


Bây giờ chúng ta xem kỹ hơn một số ví dụ về những lập luận mà trong đó hình
thức của chúng sẽ đưa ra sức mạnh thuyết phục chứ không phải nội dung (mặc dù
hình thức của lập luận sẽ nhắc chúng ta nhớ loại lập luận mà chúng ta đã gặp khi xem
xét những nhược điểm trong quá trình nêu lý do). Chúng ta hãy xem xét vấn đề của
lập luận trong đó những giải pháp bị hạn chế. Bây giờ hãy xét một ví dụ về một lập
luận trong đó nếu việc hạn chế những giải pháp không phải là sự bóp méo sự thật, thì
kết luận chắc chắn sẽ như sau:
Với đa số phiếu sít sao, Thủ Tướng một là từ bỏ chương trình lập pháp của
Chính phủ, hai là cố gắng tìm sự ủng hộ cho chương trình này của các thành viên
trong các đảng phái khác. Ông quyết tâm thực hiện chương trình, do đó ông phải bắt
đầu tìm sự ủng hộ cho chương trình này từ phía các đảng phái khác.
Trong ví dụ này, nếu hai giải pháp được chọn lựa đều là những giải pháp đúng
cho sẵn, thì kết luận chắc chắn như sau: không phải là gần đúng gần đúng mà chắc
chắn đúng. Do đó, khi đánh giá lập luận, bạn cần phải xem xét các lập luận trong đó
các giải pháp thay thế nhau được trình bày. Nếu những giải pháp đó bao quát hết mọi
khả năng có thể, thì kết luận chắc chắn sẽ được rút ra. Tuy nhiên, nếu bạn thấy rằng,
người nói bỏ sót ít nhất là một khả năng nào đó, thì kết luận rút ra không chắc chắn
(có thể đó là trường hợp lập luận bị hạn chế giải pháp được chọn lựa).
Xem xét các giải pháp thay thế
Vấn đề này sẽ làm nổi bật một phần quan trọng trong cách sử dụng những kỹ
năng tư duy phản biện của mình. Khi bàn về một lập luận mà lý do nêu ra của lập
luận này phụ thuộc vào số giải pháp bị hạn chế thì bạn cần phải xét xem những giải

64
pháp mà người khác đưa ra (hay do bạn đưa ra) có thấu đáo không. Nếu có, thì kết
luận có thể được rút ra mang tính chắc chắn đúng. Còn nếu không, thì bất kỳ kết luận
nào mà người ta rút ra (kể cả những kết luận do bạn rút ra) cũng chỉ đạt được một
mức độ chắc chắn nào đó thôi.
Xem xét hình thức của lập luận
Cái đúng của lý do nêu ra là đòi hỏi chính yếu để làm nổi bật sức mạnh thuyết
phục của một lập luận. Trong hình thức lập luận suy diễn, không thể có lý do đúng
mà lại đưa ra kết luận sai. Tương tự, Trong hình thức lập luận quy nạp, cái đúng sẽ
liên kết lý do với kết luận lại với nhau vì cái đúng sẽ làm tăng khả năng có thể dẫn
đến kết luận đúng.
Tuy nhiên, khi xem xét nội dung của một lập luận chúng ta cũng nên xem xét
luôn cả hình thức lẫn cấu trúc của nó. Điều này giúp chúng ta xác định được sức mạnh
thuyết phục cũng như những nhược điểm của nó. Ví dụ trên giúp chúng ta thấy rõ
điều đó, nếu giải pháp lựa chọn là thấu đáo, thì hình thức của lập luận đòi hỏi chúng
ta chấp nhận kết luận được rút ra. Điều này báo cho chúng ta biết tính chất thuyết
phục mang tính tiềm năng của hình thức lập luận suy diễn. Bây giờ chúng ta sẽ xem
xét một số hình thức khác nữa. Một trong những hình thức này sẽ lập nên một chuỗi
những lý do.
Xây dựng chuỗi lập luận
Trong hình thức lập luận này, lý do này sẽ liên kết với lý do khác. Sau đây là
ví dụ:
Nếu Chính phủ không thực hiện những khuyến cáo trong báo cáo của năm
ngoái về việc vận chuyển dầu bằng các tàu chở dầu, thì một tai nạn khác không sớm
thì muộn cũng xảy ra. Nếu một tai nạn như thế xảy ra, thì môi trường biển và vùng
duyên hải sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng. Vì thế, nếu chính phủ không thực hiện những
khuyến cáo trong báo cáo, thì chúng ta sẽ thấy nhiều thiệt hại hơn nữa về môi trường
sẽ diễn ra.
Trong ví dụ này, hai lý do được nối với nhau tạo thành một kết luận có tính
giả thiết. Như các bạn thấy, toàn bộ lập luận này là hàng loạt những khẳng định mang
tính giả thiết (“nếu …”) trong đó một chuỗi các mệnh đề được hình thành: nếu A
đúng thì B đúng; nếu B đúng thì C đúng; vậy nếu A đúng thì C đúng. Trong loại lý
do này, nếu chuỗi các mệnh đề được nối kết này là đúng thì kết luận có thể được rút

65
ra chắc chắn đúng.
Trong quá trình đánh giá (và sử dụng) loại lập luận này, bạn cần xét xem chuỗi
các mệnh đề được nối kết này có hoàn toàn tương đương không. Nói cách khác, với
cấu trúc như đã được cho ở trên, bạn phải chắc chắn rằng những phần người ta muốn
dùng với nghĩa tương đương trên thực tế có thật sự tương đương hay không. Hãy xem
ví dụ kế tiếp:
Nếu Chính phủ không thực hiện những khuyến cáo trong báo cáo của năm
ngoái về việc vận chuyển dầu bằng các tàu chở dầu, thì một tai nạn khác không sớm
thì muộn cũng xảy ra. Nếu một tai nạn như thế xảy ra, thì môi trường biển và vùng
duyên hải sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng. Vì thế, nếu chính phủ không có câu trả lời thỏa
đáng cho những người chỉ trích, thì chúng ta sẽ thấy nhiều thiệt hại hơn nữa về môi
trường sẽ diễn ra.
Trong cách giải thích thứ hai này của lập luận về ô nhiễm dầu, không có sự
tương đương giữa “không thực hiện những khuyến cáo trong báo cáo … các tàu chở
dầu” và “không có câu trả lời thỏa đáng cho những người chỉ trích”. Lập luận này
không phải là chuỗi vì không có một loạt những liên kết liên tục giữa các bộ phận của
lập luận. Ở đây có một sự khéo léo trong lập luận, trong đó mới thoạt nhìn, kết luận
có vẻ như đúng, tuy nhiên, bằng những kỹ năng đánh giá mang tính chất phản biện
của mình, bạn có thể nhanh chóng nhận ra vấn đề này.
Phủ nhận cái sau
Một loại lập luận khác trong đó hình thức của lập luận thể hiện được sức mạnh
thuyết phục của nó, đây là một lập luận thường được gọi là “phủ nhận mệnh đề kết
quả”. Bạn không cần lo lắng nhiều về việc sử dụng đúng thuật ngữ, mà vẫn có thể
nhận ra (và sử dụng) hình thức này một cách có ích. Sau đây là một ví dụ thể hiện
hoạt động này:
Nếu quần thể chim cách cụt không bị đe dọa nghiêm trọng, thì chúng ta phải
cấm các công ty khai thác dầu không được khoan các giếng dầu gần nơi sinh sản của
chim cách cụt. Tuy nhiên chiến dịch vận động cấm các công ty khai thác dầu đã bị
thất bại, vì thế hiện nay quần thể chim cách cụt đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Trong ví dụ này, hình thức của lập luận đã thể hiện được sức mạnh thuyết phục
của nó. Nếu bạn chuyển dịch lập luận này bằng các thuật ngữ như đã dùng ở trên, thì
bạn sẽ có “nếu A không xảy ra thì B chắc chắn sẽ xảy ra; B không xảy ra vậy A sẽ

66
xảy ra”.
Phủ nhận cái trước
Bạn cần phải đề phòng những lập luận trông có vẻ như cấu trúc của nó thể
hiện rõ sức mạnh thuyết phục, tuy nhiên cấu trúc này hoàn toàn khác với những cấu
trúc thông thường. Hãy xét lập luận sau:
Nếu lý thuyết mới về giải thích sự sống trên trái đất mà được công nhận, thì
việc hiểu biết về bản chất tiến hóa của chúng ta cần phải được xem lại về cơ bản. Tuy
nhiên lý thuyết mới này lại không được công nhận, nên việc hiểu biết của chúng ta
về tiến hóa là đúng.
Lập luận này có vẻ mang lại sức thuyết phục mạnh, có cấu trúc chặt chẽ để
suy ra một kết luận có tính chắc chắn. Tuy nhiên, nó mắc phải một nhược điểm quan
trọng. Rất đơn giản, không rút ra được kết luận. Mặc dù lý thuyết mới này không
được công nhận, nhưng chúng ta vẫn phải xem lại sự hiểu biết của chúng ta về tiến
hóa dưới ánh sáng của những giải thích khác. Nói cách khác, việc bác bỏ lý thuyết
mới này không cho phép chúng ta kết luận rằng chúng ta không cần xem lại sự hiểu
biết của chúng ta về tiến hóa. Để nhấn mạnh sự khác biệt giữa lập luận này với lập
luận khác trong hình thức trước, hãy xem một giải thích khác:
Nếu lý thuyết mới về giải thích sự sống trên trái đất mà được công nhận, thì
việc hiểu biết về bản chất tiến hóa của chúng ta cần phải được xem lại về cơ bản. Vì
hiểu biết của chúng ta về tiến hóa không cần phải thay đổi, nên lý thuyết mới không
thể công nhận được.
Trong cách giải thích này, kết luận chắc chắn phải là: nếu công nhận lý thuyết
mới đòi hỏi phải xem xét lại cách hiểu biết của chúng ta về tiến hóa, thì nếu việc hiểu
biết của chúng ta về tiến hóa không cần phải thay đổi, do đó lý thuyết này không thể
công nhận được.
LÀM TĂNG ĐỘ TIN CẬY CỦA KẾT LUẬN
Trong phần trước, chúng ta đã xem xét làm thế nào cấu trúc của một lập luận
có thể cho phép chúng ta đưa ra kết luận có tính chắc chắn. Tất nhiên, với điều kiện
là, như mọi khi, lý do nêu ra phải đúng. Bây giờ chúng ta xét xem làm thế nào chúng
ta có thể làm tăng sức mạnh những lập luận mà trong đó chúng ta rút ra kết luận
không phải là có tính chắc chắn mà là đạt được mức độ tin cậy nhất định.
Cần nhớ rằng, chúng ta sử dụng phương thức kiểm tra tính xác đáng và đầy đủ

67
trong việc xác định xem lý do nêu ra trong lập luận có thể hỗ trợ cho kết luận hay
không. Cũng như thế, chúng ta có thể dùng phương thức kiểm tra để làm tăng sức
mạnh của một lập luận. Điều này có thể thực hiện bằng một trong hai cách sau:
 Mở rộng phạm vi của lý do.
 Giới hạn phạm vi của kết luận.
Chúng ta hãy xem xét mỗi trường hợp trong hai cách đó.
Mở rộng phạm vi của lý do
Trong quá trình tìm kiếm để làm tăng sức mạnh của một lập luận, chúng ta có
thể thêm vào lý do một số bằng chứng mạnh hơn nữa có liên quan đến kết luận. Như
bạn thấy, bằng cách này, chúng ta đang làm tăng mức độ đầy đủ của lý do nêu ra.
Hãy xét ví dụ sau:

Phiên tòa phải được công khai trước công chúng bởi vì “công lý phải được
nhìn thấy là đã được thực thi”. Nhưng hầu hết mọi người chẳng bao giờ cởi mở trước
tòa, nhất là trong phiên tòa đang xét xử. Vì thế, rõ ràng các phiên tòa phải được truyền
hình.
Lập luận này có hai lý do hỗ trợ cho kết luận. Như bạn thấy, các lý do sẽ hoạt
động cùng nhau. Làm thế nào mở rộng được lý do nêu ra để làm tăng sức mạnh của
một lập luận? Chắc chắn bạn sẽ nghĩ đến những cách làm này. Những ví dụ sau đây
kết luận rằng:
 “Công chúng ủng hộ đáng kể việc phát hình công khai những vụ kiện
trước tòa”
 “Nhiều luật sư và thẩm phán được công chúng yêu mến”
 “Bằng chứng ở Mỹ về việc phát hình công khai những vụ kiện trước
tòa cho thấy, công chúng quan tâm đáng kể đến vấn đề này”
 “Bằng chứng cho thấy rằng, có thể ngăn chặn việc phạm tội của những
tội phạm bằng cách đưa những hình ảnh đó lên truyền hình toàn quốc”.
Mỗi ví dụ về cách nêu lý do này sẽ làm tăng sức mạnh của lập luận bằng cách
đưa ra nhiều phương thức hỗ trợ để rút ra kết luận. Mỗi ví dụ này đều có liên quan
đến kết luận và làm tăng mức độ đầy đủ của lý do nêu ra. Nếu thêm tất cả các chi tiết
này vào lập luận , thì nó sẽ tăng thêm đáng kể sức mạnh cho một lập luận.

68
Giới hạn phạm vi của kết luận
Kết luận của lập luận trên cho rằng những vụ kiện trước tòa nên được phát
hình. Đây là một khuyến cáo chung. Điều gì sẽ xảy ra nếu như chúng ta giảm thiểu
phạm vi của kết luận này bằng cách làm cho nó giảm bớt tính khái quát?
Phiên tòa phải được công khai trước công chúng bởi vì “công lý phải được
nhìn thấy là đã được thực thi”. Nhưng hầu hết mọi người chẳng bao giờ cởi mở trước
tòa, nhất là trong phiên tòa đang xét xử. Vì thế, rõ ràng, chúng ta nên cố gắng thực
hiện một khuyến cáo thử nghiệm trong đó các vụ kiện ở tòa cần phải được phát hình.

Kết luận này bị thu hẹp bằng hai cách. Thay vì khuyến cáo chung là các vụ
kiện ở tòa nên được phát hình, thì có một khuyến cáo thử nghiệm khác thay thế.
Khuyến cáo bớt tính khái quát này sẽ làm tăng sức mạnh cho lập luận bằng cách giảm
bớt đi một số tuyến khả thi của lập luận phản bác. Nhất là, nó liên quan đến việc có
những ý kiến phản đối cho rằng, có thể xuất hiện nhiều vấn đề khác trong việc phát
hình những vụ kiện được tòa xét xử. Cách thứ hai cho rằng, kết luận bớt đi tính khái
quát sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho lập luận, quan điểm này là trường hợp đặc biệt
của “một số phiên tòa” chứ không phải là của “những phiên tòa” bình thường.
Hơn nữa, trường hợp đặc biệt này còn cắt đứt lập luận phản bác cho rằng có
thể nó không thích hợp với một số trường hợp được công bố rộng rãi.
Như bạn thấy, việc giới hạn phạm vi của kết luận có hiệu quả nhất định làm
cho kết luận ít đòi hỏi lý do hơn. Nó cho phép lý do nêu ra ít bao hàm hơn, ít đầy đủ
hơn.
Để làm tăng sức mạnh của bất kỳ lập luận nào, hãy thực hiện ít nhất một trong
những cách sau:
 Đưa ra bằng chứng có liên quan sâu hơn
 Giới hạn sức mạnh của kết luận.
Để làm yếu đi bất kỳ lập luận nào mà bạn tình cờ bắt gặp (và nhận ra điểm yếu
theo cách của mình) thì bạn phải cần thực hiện ít nhất một trong những cách sau:
 Đưa ra bằng chứng hỗ trợ cho kết luận đối lập
 Xác định tính không xác đáng trong lý do nêu ra của người nói
 Xác định tính không đầy đủ trong lý do nêu ra của người nói.

69
Bài tập
Trong bài tập này bạn được cho một lập luận ngắn. Sử dụng bằng chứng kèm
theo, hãy xác định bằng chứng nào sẽ làm tăng sức mạnh của lập luận, bằng chứng
nào làm cho lập luận yếu đi, và bằng chứng nào không có hiệu quả?
Lập luận: Năm ngoái, số tù nhân dùng ma túy trái phép trong lúc ở tù đã
chỉ ra rằng số người hút ma túy tăng lên rất đông. Cần đưa ra một hệ thống lục soát
toàn bộ những người đến thăm tù.

Bằng chứng:
1. Số tù nhân đang trong tù về cơ bản đã tăng lên trong năm qua.
2. Một số người đến thăm tù bị phát hiện mang theo ma túy trái phép.
3. Hầu hết các tù nhân trong tù đều dùng ma túy trái phép.
4. Hầu hết các tù nhân trong tù đều dùng ma túy trái phép trước khi họ
vào tù.
5. Chương trình giáo dục về ma túy vừa mới được triển khai trong tù.

Trả lời
Chúng ta xem xét lập luận trước. Vấn đề được nhận ra rất rõ ràng. Người nói
giả định rằng số tù nhân dùng ma túy trái phép tăng lên được giải thích bằng cách
những người đến thăm tù có mang theo ma túy. Nếu không có giả định này (đóng vai
trò là lý do nêu ra), thì kết luận không thể rút ra được. Vì thế, để làm tăng thêm sức
mạnh cho lập luận chúng ta phải sử dụng những bằng chứng củng cố được tuyến lý
do nêu ra.
Bằng cách đưa ra lời giải thích khác về việc dùng ma túy ngày càng tăng, nên
bằng chứng (1) có tác dụng làm cho kết luận trở nên yếu đi. Nói cách khác, nếu chúng
ta có thể giải thích được sự gia tăng số tù nhân dùng ma túy trái phép chỉ đơn giản
bằng cách giải thích về sự gia tăng số tù nhân (tỷ lệ không thay đổi), thì khuyến cáo
một hệ thống mới về việc lục soát những người đến thăm tù không dễ được ủng hộ.
Mặt khác, bằng chứng (2) làm tăng thêm sức mạnh của lập luận. Theo như dữ
kiện đã cho, người nói giả định rằng số ma túy tăng lên được giải thích là do những
người đến thăm tù đem vào, bất kỳ bằng chứng nào hỗ trợ cho tuyến lý do nêu ra này
cũng sẽ làm tăng sức mạnh cho lập luận. Hãy đặt bằng chứng vào lập luận và xem

70
cách hoạt động của nó.
Bằng chứng (3) không có tác dụng cho lập luận này, nếu nó không liên kết
chặt chẽ với giả định “những người đến thăm tù đem theo ma túy vào”. Tuy nhiên,
không giống như bằng chứng (2) cung cấp bằng chứng để hỗ trợ cho kết luận, bằng
chứng (3) không đưa ra nhiều thông tin hơn để mở rộng thêm một số chi tiết của câu
đầu.
Bằng chứng (4) không có tác dụng cho lập luận này. Mặc dù hầu hết các tù
nhân đều dùng ma túy trái phép trước khi bị bắt, nhưng bằng chứng này không thể
dùng để hỗ trợ cho một hệ thống lục soát những người đến thăm tù. Hơn nữa, mặc dù
chúng ta chấp nhận bằng chứng này là đúng, nhưng nó không tương thích với khẳng
định cho rằng hầu hết các tù nhân trong nhà tù không dùng ma túy trái phép.
Bằng chứng (5) làm cho lập luận yếu đi. Vì nó đưa ra một chiến lược khác
trong việc giải quyết vấn đề ma túy, cho nên kết luận không có được sức mạnh như
ý muốn.
BÀI TẬP
1. Hãy viết một lập luận về một một vấn đề nào đó, đưa ra đủ bằng chứng
để hỗ trợ cho kết luận. Điều gì sẽ xảy ra với lập luận mà bạn đưa ra nếu như bạn phát
hiện một ngoại lệ đối với kết luận của lập luận này? Làm thế nào để cứu vãn cho lập
luận này?
2. Hãy viết một lập luận về một một vấn đề nào đó, đưa ra đủ bằng chứng
để hỗ trợ cho kết luận. Cho biết loại bằng chứng nào sẽ làm cho kết luận này yếu đi?
Bạn cần thêm loại bằng chứng nào để làm tăng sức mạnh của kết luận trong lập luận
này?
3. Hãy đưa ra một tình huống, trong đó những kỹ năng sử dụng lập luận
có thể giúp bạn quyết định tốt hơn trong đời sống cá nhân của bạn (ví dụ, trong môi
trường làm việc).

71
CHƯƠNG 6

Đánh giá tính xác thực của bằng chứng

ĐÁNH GIÁ NHỮNG LẬP LUẬN


Những kỹ năng trong việc đánh giá những lập luận được dùng không chỉ để
đánh giá những thông tin trong các loại sách và báo chí, mà còn được dùng để đánh
giá những tình huống nảy sinh mỗi ngày. Chúng ta hãy khảo sát một ví dụ cụ thể để
nhận định mối quan hệ này.
Trong đoạn văn sau đây, bạn có một số thông tin về một tình huống tranh cãi
về việc giải thích những điều đã xảy ra. Nhiệm vụ của chúng ta là dùng thông tin này
để đưa ra một phán đoán xem ai sẽ chịu trách nhiệm trong tình huống này.
Một tai nạn xảy ra trên một công trường xây dựng mở rộng một siêu thị
do chủ thầu Meridew đảm nhiệm. Sự việc diễn ra thật đơn giản. William (W), một
trong những người công nhân ở công trường, bị té từ giàn giáo xuống và bị gãy chân,
mặc dù rất may là không nghiêm trọng lắm. William khăng khăng đổ lỗi tai nạn xảy
ra là do công ty mà anh ta làm việc gây ra, bởi vì thời gian làm việc ở công trường
quá dày đặc, - “do công ty muốn tăng thêm lợi nhuận”, anh ta cho hay -, nên công
nhân bị buộc phải cắt giảm vấn đề an toàn lao động. Giám sát công trình (F) phủ nhận
nhận định này, và thay vào đó ông cho hay, (W) không những đã từng vi phạm kỷ
luật ở nhiều công ty xây dựng khác (anh ta từng uống rượu trên công trường ở một
công ty anh ta làm trước đây), mà như những lần trước, anh ta còn uống rượu trong
giờ cơm trưa vài tiếng đồng hồ trước khi tai nạn xảy ra. Dawkin (D), một công nhân
khác ở công trường cùng quan điểm với (W) và cho rằng họ bị ép phải hoàn thành
nhanh công việc (chúng tôi sẽ được trả thêm giờ nếu như làm đúng giờ), nhưng lại
phủ nhận việc bị cắt giảm vấn đề an toàn lao động bởi vì theo anh, như thế là quá liều
lĩnh. (D) công nhận rằng (W) thường hay gây rắc rối và cho biết thêm “anh ta thích
uống rượu”, nhưng lại nhất mực khẳng định rằng anh ta là một công nhân đàng hoàng.
Nữ Kiến trúc sư (A) cho biết, trước khi tai nạn xảy ra một giờ, cô đang ở trên giàn
giáo ngay chỗ (W) té, và nhận thấy chỗ đang xây không có vấn đề gì cả. Tuy nhiên,
người trợ y (P) điều trị cho (W) sau khi tai nạn xảy ra lại giải thích rằng, cô được gọi
đến công trường để điều trị mấy vụ tai nạn.
Tách các sự kiện ra khỏi những phán đoán

72
Việc đầu tiên mà chúng ta có thể làm là tách rời các sự kiện ra khỏi những
phán đoán. Sau đây là một sự kiện có thực không cần phải bàn cãi trong ví dụ trên:
(W) té từ giàn giáo xuống và bị gãy chân, mặc dù rất may là không nghiêm
trọng lắm. Trên thực tế, có một số nhận định khác có lẽ cần được kiểm tra.
(W) đã từng vi phạm kỷ luật ở nhiều công ty xây dựng khác (kể cả việc từng
uống rượu trên công trường).
(A) tuyên bố rằng, trước khi tai nạn xảy ra một giờ, cô đang ở trên giàn giáo
ngay chỗ (W) té.
(P) tuyên bố rằng, cô được gọi đến công trường để điều trị mấy vụ tai nạn.
(Mặc dù sự kiện này rất quan trọng, nếu đúng, cần phải được xem xét.)

Những phần khác còn lại trong đoạn văn trên là những thông tin mà chúng ta
cần đánh giá. Bây giờ trước hết chúng ta xét bằng chứng do chính (W) đưa ra. Anh
ta đổ lỗi tai nạn của mình cho công ty và cho đó là lý do “để tăng thêm lợi nhuận”
nên công nhân bị buộc phải cắt giảm vấn đề an toàn lao động. Nhận định này có bốn
cách trả lời có thể xảy ra.
(1) Meridew sẽ đổ lỗi tai nạn là do công nhân không quan tâm đến vấn đề
an toàn lao động.
(2) Meridew yêu cầu công nhân không cần quan tâm đến vấn đề an toàn
nhưng điều này không ảnh hưởng gì đến sự an toàn của giàn giáo.
(3) Meridew không yêu cầu công nhân phớt lờ vấn đề an toàn
(4) Meridew yêu cầu công nhân không cần quan tâm đến vấn đề an toàn
nhưng công nhân lại không làm như thế.
Đi tìm động cơ
Hãy xem xét nhận định của (W) và đánh giá nhận định này. Chúng ta sẽ dùng
tiêu chí nào để đánh giá? Một tiêu chí quan trọng đó là động cơ. Tại sao (W) lại tuyên
bố như thế? Câu trả lời là, động cơ của anh ta là đổ lỗi tai nạn do mình gây ra sang
cho công ty. Tại sao anh ta lại muốn làm điều này? Do muốn tránh bị đuổi việc là một
động cơ: nếu anh ta bị khiển trách vì tai nạn (có lẽ do uống rượu), thì anh ta sẽ cố
chuyển lỗi từ phía mình sang cho người khác. Lý do tại sao anh ta lại muốn đổ lỗi cho
công ty có thể do muốn được bồi thường. Tất nhiên, một động cơ khác nữa có thể là
anh ta nói hoàn toàn sự thật (có lẽ muốn nhấn mạnh đến những thiếu sót trong chính

73
sách y tế và an toàn lao động của công ty chẳng hạn).
Kiểm tra lời chứng thực
Làm thế nào có thể đánh giá được những giải thích khác biệt về động cơ tuyên
bố của (W)? Có một tiêu chí khác mà chúng ta cần sử dụng đó là lời chứng thực. Có
ai ủng hộ tuyên bố của anh ta không? Còn (D) thì sao? Như bạn thấy, (D) chỉ ủng hộ
phần nào tuyên bố của (W) thôi: (D) nhận định, công ty có nói với công nhân rằng,
công việc nên được làm nhanh (với lời hứa hẹn trả thêm tiền nếu công việc được làm
đúng giờ). Tuy nhiên, bằng chứng mà (D) đưa ra lại mâu thuẫn với (W) về việc công
nhân trên công trường bị ép bỏ qua vấn đề an toàn lao động. Vì thế, bằng chứng mà
(D) đưa ra có đủ tính chứng thực cho tuyên bố của (W) hay không? Câu trả lời là
“không”.
Còn bằng chứng của (P) thì sao? Nếu chúng ta giả định (P) nói thật (và chúng
ta phải đưa bằng chứng của cô ta ra cùng khảo sát kỹ lưỡng xem như là bằng chứng
của người khác), thì tuyên bố của cô ta về những tai nạn trước trên công trường này
sẽ chứng thực bằng chứng của (W) một cách rất giới hạn. Ví dụ, (P) đang nói đến thời
gian diễn ra sự kiện là thời gian nào? Nếu cô ta được gọi đến điều trị cho hai tai nạn
trong hai năm, thì điều này có một ý nghĩa khác hẳn với hai tai nạn trong hai tuần.
Hơn nữa, được gọi đến điều trị cho hai trường hợp tai nạn ở những công trường xây
dựng thì không đáng kể lắm, vì chúng ta đều biết rằng, ngành này có tỷ lệ tai nạn
tương đối cao, đó là tính chất đặc thù của ngành.
Vì thế, chúng ta có thể thấy rằng, không có nhiều chứng thực cho tuyên bố của
(W). Tất nhiên, điều này không có nghĩa là có thể bàn qua loa chỉ vì không có nhiều
bằng chứng từ những nguồn khác để làm tăng thêm sức thuyết phục cho nó.
Phán đoán từ ý kiến chuyên môn
Nên dùng những tiêu chí nào để đánh giá những bằng chứng đã nêu? Có một
tiêu chí quan trọng đó là ý kiến chuyên môn. Tiêu chí này có thể giúp chúng ta đánh
giá bằng chứng khác như thế nào?
Tiêu chí về ý kiến chuyên môn tập trung vào vấn đề liệu phán đoán của một
cá nhân nào đó có đáng tin hơn phán đoán của những người khác hay không? Bởi vì
những cá nhân này có kiến thức hoặc kinh nghiệm có liên quan đặc biệt. Hãy xem xét
từng nhân vật trong kịch bản của Meridew, có ai hiểu hết mọi việc được không?
Người giám sát công trình (F) là một người tốt. Chúng ta giả định rằng, bởi vì anh ta

74
là một giám sát, cho nên anh ta vừa có kiến thức vừa có kinh nghiệm có liên quan
trong ngành. Anh ta sẽ biết rõ nếu giàn giáo có vấn đề. Một điển hình nữa cần xem
xét là (A). Là một Kiến trúc sư, cô ta cũng có những kiến thức liên quan (và có lẽ cả
kinh nghiệm nữa) trong phạm vi xây dựng. Cô ta có đầy đủ kiến thức về việc dựng
giàn giáo để có thể đánh giá sự an toàn là vấn đề chúng ta cần phải xem xét.
Bạn cũng cần đánh giá bằng chứng khác đối lập với những tiêu chí này. Ví dụ,
cả (D) và (W) đều có kiến thức và kinh nghiệm có liên quan. (F) và (A) có giống như
thế không?
Chọn khả năng để hiểu rõ những điều đã xảy ra
Một tiêu chí khác mà bạn cần xem xét là khả năng hiểu rõ những điều đã xảy
ra đối với mỗi người trong trường hợp này. Đây là một nguồn đánh giá trung thực. Ai
trong số những nhân vật nằm trong kịch bản của chúng ta có thể hiểu rõ được những
điều đã xảy ra? Chúng ta giả định (W) có khả năng này vì tai nạn đã xảy ra với anh
ta. (Tất nhiên, có thể anh ta không phải là nguồn đáng tin cậy lắm, vì như (F) cho biết,
anh ta đã uống rượu lúc xảy ra tai nạn). (A) không tuyên bố mình là nhân chứng của
tai nạn này, nhưng cô ta tuyên bố có thể cho biết điều kiện của giàn giáo tại vị trí tai
nạn xảy ra.
Như vậy, đến đây thì chúng ta đã xem xét được bốn tiêu chí:
 Động cơ
 Sự chứng thực
 Ý kiến chuyên môn
 Khả năng hiểu rõ vấn đề.
Tìm kiếm quyền lợi được đảm bảo
Tiêu chí về động bao gồm luôn cả một nguồn đánh giá khác nữa. Đây là cái
mà chúng ta gọi là quyền lợi được đảm bảo. Chúng ta đã sử dụng quan điểm này
khi chúng ta xem xét bằng chứng của (W). Chúng ta xét thấy rằng anh ta đổ lỗi tai
nạn cho công ty bởi vì nếu như bị khiển trách thì có thể anh ta bị mất việc, và có thể
anh ta được đền bù nếu như công ty thấy có lỗi. Nói cách khác, quyền lợi được đảm
bảo làm nảy sinh động cơ. Có phải bất kỳ nhân vật nào trong kịch bản của chúng ta
có quyền lợi được đảm bảo đều có thể tác động đến phán đoán của bằng chứng? (F)
là một ví dụ điển hình về người có thể có quyền lợi được đảm bảo. Anh ta là một
giám sát công trình, do vậy anh ta sẽ phải có trách nhiệm về y tế và an toàn lao động

75
đối với công nhân. Bằng cách này, anh ta có quyền lợi được đảm bảo trong việc khiển
trách (W) về tai nạn. Tất nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta có thể loại bỏ
bằng chứng của (F) một cách đơn giản chỉ vì có thể anh ta có quyền lợi được đảm
bảo. Cần chú ý rằng, việc đánh giá bằng chứng của anh ta chắc chắn bao gồm cả việc
xem xét quyền lợi được đảm bảo mà anh ta có để đảm bảo rằng anh ta không chịu
trách nhiệm – ít nhất là một phần nào đó – về tai nạn đã xảy ra. Hãy xem xét quyền
lợi được đảm bảo có thể của những nhân vật khác, nếu có.
Đặt giả định rõ ràng
Điều bạn có thể nhận ra là việc đánh giá sự đáng tin cậy của bằng chứng có
liên quan đến việc đặt giả định rõ ràng. Ví dụ, nếu bạn nói rằng bằng chứng của (D)
không thiên về quyền lợi được đảm bảo, thì lý do mà bạn nêu ra phải dựa trên cơ sở
giả định về bản chất của động cơ thúc đẩy để tạo ra bằng chứng của (D). Bạn sẽ phải
đặt giả định như sau:
 (D) không nói gì về (W) ngoài mối quan hệ bạn bè – “anh ta là một
người công nhân rất đàng hoàng”.
 (D) không ủng hộ Meridew – họ không thỏa hiệp về vấn đề an toàn lao
động – không sợ bị mất việc.
Vì thế bạn phải giả định rằng (D) không bóp méo bằng chứng của mình nhằm
mưu cầu cho những quyền lợi riêng của mình.
Nếu bạn công nhận bằng chứng của (A) là đáng tin cậy, thì bạn phải đặt giả
định như sau:
 Cô ta không có quyền lợi được đảm bảo để khiến cô ta ủng hộ quan điểm
của Meridew (hay tối thiểu cũng là quan điểm của (F)) và bàn cãi về tường trình của
(W).
 Cô ta có đầy đủ kinh nghiệm và kiến thức về phạm vi an toàn của giàn giáo
để đưa ra một phán đoán hiệu quả về công trình đang xây của Meridew.
 Cô ta có mặt ở chỗ giàn giáo nơi tai nạn xảy ra trước khi tai nạn xảy ra
khoảng một giờ.
Như bạn thấy, việc nhận ra những giả định là một cách kiểm tra hữu ích những
phán đoán mà bạn đưa ra. Ví dụ, nếu bạn cho rằng bằng chứng của (A) rất có thể là
đáng tin bởi vì (A) là một kiến trúc sư, thì có nghĩa là bạn đang đặt ra một loạt những
giả định về tính trung thực của người kiến trúc sư. (Tương tự, nếu bạn lập luận rằng

76
người ta sẽ tin (F) vì (F) là một giám sát công trình.)
Đưa ra phán đoán
Chúng ta đã dành thời gian cho việc xem xét kịch bản về tai nạn ở công trường
xây dựng. Hy vọng bạn sẽ nhìn thấy một nhiệm vụ dường như rất đơn giản để xác
định ai sẽ chịu trách nhiệm về tai nạn, vấn đề này sẽ trở nên phức tạp hơn vì các tiêu
chí mà bạn phải xem xét. Vấn đề này đã chứng minh cho bạn thấy, tư duy độc lập
không chỉ là một hoạt động diễn ra trong bối cảnh của học thuật, mà nó còn có sự liên
quan ở bất cứ khi nào và ở đâu dùng bằng chứng để hỗ trợ cho kết luận.
Trong kịch bản của Meridew, chúng ta có thể tách những điều đang diễn ra
thành nhiều lập luận. Ví dụ, lập luận của (W) như sau:
Meridew đã bắt công nhân phải cắt giảm vấn đề an toàn lao động.
(Vì thế) lẽ ra giàn giáo phải an toàn hơn.
(Vì thế) Meridew sẽ chịu trách nhiệm về tai nạn.
Ngoài ra còn có lập luận của (F) nữa. Lập luận này có hai giới hạn của lý do
nêu ra:
(R) Meridew không yêu cầu công nhân phải cắt giảm vấn đề an toàn
lao động.
(IC) (Vì thế) lẽ ra giàn giáo phải an toàn.
(C) (Vì thế) Meridew sẽ không chịu trách nhiệm về tai nạn.
(R1) (W) không những đã từng vi phạm kỷ luật ở nhiều công ty xây
dựng khác (anh ta từng uống rượu trên công trường ở một công ty anh ta làm
trước đây).
(R2) (W) còn uống rượu trong giờ cơm trưa vài tiếng đồng hồ trước khi
tai nạn xảy ra.
(C) (Vì thế) (W) sẽ chịu trách nhiệm về tai nạn.
Như bạn thấy, nhiều chỗ trong đoạn văn này có thể làm cho hình thức của lập
luận yếu bớt đi, và nhiệm vụ của chúng ta là đánh giá xem đâu là kết luận khả thi
nhất. Có bốn kết luận mang tính khả thi như sau:
(1) (W) sẽ chịu trách nhiệm về tai nạn này.
(2) Meridew sẽ chịu trách nhiệm về tai nạn này (hay đặc biệt hơn, (F) sẽ chịu
trách nhiệm).
(3) Cả (W) – do uống rượu – lẫn Meridew (hoặc (F)) – do thỏa hiệp về vấn

77
đề an toàn – sẽ cùng chịu trách nhiệm.
(4) Kể cả (W) lẫn Meridew (hay (F)) đều không phải chịu trách nhiệm vì tai
nạn xảy ra không do sự bất cẩn của ai cả.
Tất nhiên, về mặt kỹ thuật, còn nhiều kết luận khác nữa – chẳng hạn, (D) chịu
trách nhiệm vì đã đẩy (W) té xuống – tuy nhiên, bằng chứng cho loại kết luận này
phải vượt qua cả những điều mà chúng ta đã được chỉ dẫn. Nhiệm vụ của chúng ta là
hình thành một phán đoán trên cơ sở của bằng chứng mà chúng ta đã được cho.
Bây giờ bạn hãy tự đưa ra một trường hợp có lý do, sử dụng những tiêu chí
mà chúng ta đã xem lúc đầu, đưa ra phán đoán liên quan đến việc làm thế nào mà tai
nạn lại xảy ra. Bằng cách làm này, bạn phải làm sáng tỏ việc bạn đã đặt ra những giả
định nào về bằng chứng của mỗi nhân vật có liên quan.

78
CHƯƠNG 7

Ứng dụng những kỹ năng

Vào những năm 1920, có một quyển sách dạy trẻ em học bơi mà không cần
cho chúng vào nước. Quyển sách này dạy cho trẻ em tất cả các kiểu bơi cần thiết cho
cả tay và chân, các kiểu bơi này đòi hỏi các em thực hành ngay khi nằm trên thảm
trong phòng ngủ. Giả định quan trọng của kỹ thuật dạy bơi trong sách này là những
kỹ năng học được trên nền của phòng ngủ có thể được chuyển sang thực tế khác trong
hồ bơi. Có thể biểu diễn kiểu bơi ếch hoàn hảo trên thảm trong phòng ngủ cũng chẳng
ích gì nếu như tất cả đều quên hết khi ở dưới nước sâu hai mét.
Cũng tương tự như thế, quyển sách này sẽ không đạt được mục đích nhất định
của nó nếu như bạn không áp dụng những kỹ năng đã chỉ cho bạn vào những hoạt
động riêng của mình. Nói cách khác, khi phải viết tiểu luận hay báo cáo, khi phải
trình bày, khi phải đánh giá những thông tin nhằm vào nhiều mục đích, thì bạn nên
sử dụng những kỹ năng tư duy phản biện của mình. (Những người đang chuẩn bị cho
kỳ thi AS nên áp dụng những kỹ năng này để làm bài thi).
ĐẶT VẤN ĐỀ ĐÚNG
Khi đánh giá một đoạn văn có ít nhất vài lập luận, bạn cần đặt những câu hỏi
đúng để đánh giá. Nhưng trước khi thực hiện, bạn cần xét xem lập luận đó như thế
nào:
 Người nói rút ra kết luận gì?
 Người nói sử dụng lý do nêu ra như thế nào để hỗ trợ cho kết luận?
 Cần phải có những giả định nào để rút ra kết luận?
Đây là những vấn đề cơ bản mà bạn cần đặt ra trước khi bắt đầu đánh giá lập
luận. nếu không nhận ra kết luận đó là gì, thì bạn không thể đánh giá được ưu điểm
và nhược điểm của nó. Bây giờ hãy đặt câu hỏi để đánh giá:
 Lý do nêu ra có hỗ trợ gì cho kết luận không?
Đây là một câu hỏi mang tính chất chung mà bạn luôn phải đặt ra. Trong thực
tế, câu hỏi chung này sẽ trở thành một loạt những câu hỏi đặc biệt khác:
 Bằng chứng có thể hiện ý nghĩa mà người nói muốn hướng tới không?

79
 Có cách giải thích nào thay đổi được ý nghĩa của bằng chứng nhằm hỗ
trợ cho lập luận không?
 Nếu người nói sử dụng phép loại suy, liệu chúng có hiệu quả không?
 Điều gì sẽ xảy ra nếu đặt những giả định khác?
 Loại bằng chứng nào sẽ làm tăng sức mạnh thuyết phục cho lập luận?
 Loại bằng chứng nào sẽ làm cho tính thuyết phục của lập luận yếu đi?
 Lý do nêu ra có hỗ trợ cho một kết luận khác không?
Hãy thử cách đặt vấn đề như thế này với những lập luận ngắn sau đây. Mặc dù
chúng có cùng tiêu đề, nhưng lại là những lập luận rất khác nhau. Hãy đọc bản số 1
trước và để ý đến những ưu điểm và nhược điểm trước khi đọc bản số 2.
Bản số 1: Một số người hút thuốc nhất mực đòi tiền bồi thường của các
công ty thuốc lá, họ cho rằng hút thuốc có hại cho sức khỏe của họ.
Như đã thấy, hút thuốc là nghiện ngập và các công ty thuốc lá đều biết điều
đó, lẽ ra họ phải làm gì đó để giảm đi tính gây nghiện của thuốc lá. Để thay đổi tình
hình, họ đã điều chỉnh được mức độ nicotin trong thuốc lá để giữ cho người hút thuốc
không gặp nguy hiểm. Không những thế, Hội các Bác sĩ hoàng gia (Royal College of
Physicians) đã công bố bản báo cáo vào năm 1962 trong đó khẳng định rằng, hút
thuốc rất nguy hiểm. Các nhà sản xuất của bất kỳ một thứ sản phẩm nào cũng đều
chịu trách nhiệm pháp lý hạn chế tối đa những nguy cơ tiềm ẩn cho khách hàng của
mình. Vì chúng ta đều biết thuốc lá vừa gây nghiện vừa có hại, cho nên các công ty
thuốc lá nên bồi thường cho những người bị bệnh do hút thuốc.
Bản số 2: Một số người hút thuốc nhất mực đòi tiền bồi thường của các
công ty thuốc lá, họ cho rằng hút thuốc có hại cho sức khỏe của họ.
Các công ty thuốc lá đã phản hồi cho các khách hàng bằng cách lập luận rằng,
hút thuốc hay không là do người ta tự quyết định. Ngay những người đã hút, mới hút
(đang hút) và kể cả sẽ hút, tất cả không ai bị ép hút thuốc. Hơn nữa, một nửa những
người hút thuốc lại đang tìm cách bỏ thuốc. Ngoài ra, như đã thấy, trong suốt nhiều
năm nay mọi người đều biết hút thuốc là có hại, như báo cáo của Hội các Bác sĩ hoàng
gia (Royal College of Physicians) vào năm 1962, vì thế người hút thuốc nên bỏ hút.
Tất cả các công ty thuốc lá chỉ đang làm công việc đáp ứng cho nhu cầu của người
hút thuốc mà thôi. Nếu những người hút thuốc được các công ty thuốc lá bồi thường,
thì chuyện gì sẽ xảy ra? Luật pháp có cho phép chống lại các nhà sản xuất rượu vì

80
rượu gây xơ gan hay không? Có nên kiện ngành sữa ra tòa vì người sử dụng sữa có
nguy cơ bị bệnh tim hay không? Rõ ràng, người hút thuốc sẽ không được bồi thường
gì cả.
Khảo sát ý nghĩa của bằng chứng
Như bạn thấy, hai lập luận này đưa ra kết luận hoàn toàn đối lập nhau. Tuy
nhiên, khi giải quyết như thế, người ta đã sử dụng những lý do chung cho cả hai lập
luận. Báo cáo của Hội các Bác sĩ hoàng gia (Royal College of Physicians) vào năm
1962 đã nhấn mạnh đến tính nguy hiểm có liên quan đến việc hút thuốc lá. Trong bản
số 1, người nói sử dụng báo cáo đã được công bố để lập luận rằng, lẽ ra các nhà sản
xuất không nên sản xuất thuốc lá; còn trong bản số 2 lại lập luận rằng, lẽ ra người ta
không nên mua thuốc lá. Bằng chứng như thế này có thể dùng cho những mục đích
hoàn toàn khác nhau như thế được không? Câu trả lời là “có thể được”.
Bản báo cáo năm 1962 đã hỗ trợ cho cả hai lập luận này, vì nếu kiến thức về
tác hại của hút thuốc được phổ biến, thì chúng ta có thể lập luận rằng cả các nhà sản
xuất lẫn những người hút thuốc đều có lỗi vì đã lập lờ thông tin này. Vì thế bằng
chứng này là một ví dụ điển hình về việc làm thế nào để cung cấp thêm ý nghĩa cho
vấn đề. Như vậy thì, lập luận chỉ dựa trên một mảng bằng chứng như thế sẽ kém sức
thuyết phục do chúng ta phụ thuộc vào khả năng trình bày ý nghĩa.
Còn một số lý do khác thì thế nào? Trong bản 1, chúng ta thấy tuyên bố cho
rằng “hút thuốc là nghiện ngập”, trong khi đó ở bản số 2 chúng ta thấy “Ngay những
người đã hút, mới hút (đang hút) và kể cả sẽ hút, tất cả không ai bị ép hút thuốc. Hơn
nữa, một nửa những người hút thuốc đang tìm cách bỏ thuốc”. Có phải bằng chứng
trong bản thứ hai có tính áp đảo bằng chứng của bản thứ nhất không? Hoặc có phải
bằng chứng ở bản thứ nhất làm yếu đi đáng kể ý nghĩa của bằng chứng trong bản thứ
hai phải không? Nói chung, cả hai bản vừa có tác dụng làm suy yếu lẫn nhau, vừa
đưa ra những ví dụ điển hình về cách tìm những giải pháp cho bằng chứng.

Kiểm tra phép loại suy


Còn phép loại suy được dùng trong bản thứ hai thì sao? Liệu cách dùng đó có
hiệu quả không? Bạn có thể đưa ra phép loại suy nào giúp cho bản thứ nhất hiệu quả
hơn không?
Đưa ra những lý do có sức thuyết phục hơn

81
Bạn có thể đưa ra những lý do có sức thuyết phục hơn cho cả hai bản đã nêu
không? Hơn nữa, bạn có thể đề xuất mở rộng kết luận của mỗi bản trở thành một lập
luận có sức thuyết phục hơn không? Chẳng hạn, có một gợi ý cho rằng không nên
cho những người hút thuốc hưởng chương trình chăm sóc y tế miễn phí vì họ cố ý
gây ra tình trạng sức khỏe bệnh tật của mình. Điều này phù hợp với bản số 2 như thế
nào? Còn lập luận cho rằng những người bị hại sau khi dùng một loại thuốc y tế nào
đó có nên tuyên bố chống lại các nhà sản xuất thuốc hay không? Điều này phù hợp
với bản số 1 như thế nào? Còn các loại thuốc cấm thì sao?
Ứng dụng những kỹ năng vào một đoạn văn dài hơn
Bạn đã biết cách đánh giá một đoạn văn ngắn, bây giờ hãy xét một đoạn văn
dài hơn.
Đại đa số những người bị quy vào tội phạm ma túy đều phạm tội có liên quan
đến cần sa, và khoảng tám mươi phần trăm lượng ma túy trái luật bị tịch thu đều liên
quan đến cần sa. Do đó, vì cần sa là vấn đề chủ yếu nhất của ma túy cần được quan
tâm, cho nên trước hết chúng ta cần phải có một chính sách thật chặt chẽ để quản lý
nó như thế nào.
Việc tập trung vào vấn đề ma túy mạnh khiến chúng ta bỏ sót hai khía cạnh
quan trọng trong văn hóa hiện đại của tuổi trẻ. Thứ nhất, dùng ma túy không chỉ là
một khía cạnh riêng biệt trong đời sống của thanh niên, mà nó còn liên quan đến một
phần những người đang lớn ở Vương quốc Anh. Thứ hai, giả định rằng giới thanh
niên không tán thành việc phải đổi từ hút “cần sa” sang chích heroin, vì họ nhìn thấy
có một hố sâu ngăn cách giữa hai lựa chọn này mà không có sự nối kết cần thiết nào
từ lựa chọn này sang lựa chọn khác (ngay cả khi không cần phải đổi từ bia sang rượu
mạnh).
Chương trình giáo dục y tế về ma túy đã tập trung khai thác những nguy hiểm
có liên quan đến việc dùng ma túy. Mọi thanh niên đều biết rằng dùng cần sa có tác
dụng chữa bệnh trong một số trường hợp nào đó. Vì thế, gộp chung cả cần sa và ma
túy như cocain chẳng hạn vào thành một vấn đề thì có nguy cơ giới thanh niên sẽ
không chấp nhận luôn cả toàn bộ thông điệp có tác dụng chữa bệnh của cần sa.
Nếu luật về cần sa không thay đổi mà vẫn cố chấp trong chính sách đó thì rất
nhiều thanh niên đang bình thường lại biến thành tội phạm. Nếu cảnh sát không phải
tốn nhiều thời gian đuổi bắt những người sử dụng cần sa, thì họ có thể tập trung giải

82
quyết một vấn đề nghiêm trọng hơn, đó là ma túy mạnh. Vì thế, cần sa cần được hợp
pháp hóa.
Khi được yêu cầu đánh giá đoạn văn này, bạn cần hiểu rằng, nhiệm vụ của bạn
là phải xem kết luận cho rằng “cần sa cần được hợp pháp hóa” có được hỗ trợ từ lý
do nêu ra của người nói hay không.
Chắc chắn bạn sẽ nhận ra rằng, đoạn đầu tự nó là một lập luận. Kết luận trung
gian cho rằng “cần sa là vấn đề chủ yếu nhất của ma túy cần được quan tâm” được
rút ra dựa vào sức mạnh mang tính thuyết phục của hai tình tiết của bằng chứng ở câu
đầu. Bằng chứng này cần phải được đánh giá.
Tình tiết của bằng chứng thứ nhất có liên quan đến việc quy kết tội phạm ma
túy. Bạn có thể nhận thấy đây là bằng chứng vững chắc để rút ra kết luận trung gian,
nhấn mạnh ý nghĩa “đại đa số” cho “vấn đề chủ yếu nhất của ma túy”. Tuy nhiên, có
thể bạn muốn chứng minh rằng bằng chứng này không cần mang ý nghĩa mà người
nói muốn nói đến. Lời giải thích cho cụm từ “đại đa số” đã đặt ra ý nghĩa quan trọng
của bằng chứng này. Ví dụ, mặc dù hầu hết “những người bị quy vào tội phạm ma
túy đều phạm tội có liên quan đến loại cần sa”, nhưng câu này có thể là những người
bán và/hoặc sử dụng cần sa chính là những người mà người nói muốn nhắm đến (cách
giải thích này có thể nối kết hợp lý với đoạn cuối trong đoạn văn trên, trong đó người
nói hình như muốn lập luận rằng cảnh sát đã tốn rất nhiều thời gian “đuổi bắt những
người sử dụng cần sa”). Một cách giải thích khác cũng có thể cho rằng, những người
bán và/hoặc sử dụng cần sa dễ bị bắt hơn những người có liên quan với những loại
ma túy khác.
Tình tiết của bằng chứng thứ hai – “khoảng tám mươi phần trăm lượng ma túy
trái luật bị tịch thu có liên quan đến cần sa” – có thể được xem là ưu điểm hay cũng
là nhược điểm trong lập luận của người nói. Nếu bạn xem đây là một ưu điểm thì bạn
sẽ làm sáng tỏ bằng chứng này không những để rút ra kết luận trung gian trong đoạn
này, mà còn để làm giả thiết cho đoạn cuối cùng (“Nếu cảnh sát …”). Còn nếu xem
đây là nhược điểm của bằng chứng này thì có lẽ bạn sẽ đặt nghi vấn về ý nghĩa của
cụm từ “trong số lượng ma túy bị bắt” (có phải muốn nói đến tám mươi phần trăm
trọng lượng, khối lượng, hay số lượng bị bắt không?). Hơn nữa, tỷ lệ quy kết ở đây
được giải thích là nhắm vào cần sa. (Một lập luận thú vị có thể được triển khai ở đây,
trong đó, vì các con số cho thấy cần sa là “vấn đề chủ yếu nhất”, cho nên đây là loại

83
ma túy cần phải quan tâm hơn).
Người nói sử dụng kết luận trung gian cho rằng “cần sa là vấn đề chủ yếu nhất
của ma túy yếu” để rút ra kết luận mạnh hơn “chúng ta cần … một chính sách thật
chặt chẽ để quản lý nó”. Bạn có thể trả lời một cách hợp lý rằng đưa ra một chính
sách thật chặt chẽ là cần thiết cho dù cần sa có là vấn đề ma túy chủ yếu nhất hay
không (ở đây sự chặt chẽ là cần thiết, mặc dù không phải là điều kiện đầy đủ cho bất
kỳ chính sách hợp lý nào).
Đoạn thứ hai của ví dụ trên có nhiều thông tin hữu ích cho việc đánh giá. Phần
thứ nhất của đoạn này không phân biệt giữa “ma túy mạnh” với “dùng ma túy”, cũng
không giải thích rằng bạn có muốn làm sáng tỏ nó hay không, nhất là với tuyên bố
cho rằng “dùng ma túy còn liên quan đến một phần những người đang lớn ở Vương
quốc Anh”. Hơn nữa, bạn có thể đặt nghi ngờ về tuyên bố đó rằng, người nói muốn
đề cập đến thanh niên dùng ma túy hay những người đang lớn. Vì “nó có liên quan
đến một phần những người đang lớn ở Vương quốc Anh”, cho nên sẽ xuất hiện giả
định rằng, đa số thanh niên sử dụng ma túy (và thường xuyên sử dụng?) Bạn có thể
xem xét giả định này cả ở góc độ thường xuyên và số lượng sử dụng.
Người nói tuyên bố rằng, những người thanh niên loại bỏ sự liên kết được giả
định giữa việc sử dụng cần sa với heroin, đó là một tuyên bố được hỗ trợ từ phép loại
suy giống như việc dùng bia và rượu mạnh. Bạn có thể đưa ra nhiều phản hồi đối với
tuyên bố này. Ví dụ, bạn có thể lập luận rằng, mặc dù thanh niên đã loại bỏ sự liên
kết này, nhưng không có nghĩa là, vẫn không có vấn đề gì khi sử dụng cần sa. Một
phản hồi khác có thể cùng quan điểm với người nói cho rằng, lập luận “tuột dốc” từ
việc sử dụng cần sa sang heroin là không thuyết phục, nếu không có sự chuyển đổi
thật ấn tượng trong cách dùng (từ cần sa sang ma túy chứ không phải là heroin). Một
cách hiểu khác về sự chuyển đổi cách dùng này có thể là, cách dùng cần sa chuyển
đổi từ không thường xuyên và nhẹ sang thường xuyên và nặng. Nói cách khác, bạn
có thể nhận ra điều gì đó bị bóp méo ở đây, tức là dùng một lập luận mạnh hơn biến
nó thành một vấn đề mang tính đối lập với lập luận của người nói. (Bạn có thể điều
chỉnh phép loại suy theo cách: sự chuyển đổi từ bia sang rượu mạnh thì không chắc
lắm, nhưng sự chuyển đổi từ mức uống bia ít sang uống bia nhiều, hay từ bia chuyển
sang rượu mạnh thì được hỗ trợ dễ hơn).
Phép loại suy có thể cũng là một nguồn đánh giá quan trọng mặc dù nó không

84
được nối kết theo cách này. Ví dụ, bạn có thể lập luận rằng, mặc dù “không cần phải
đổi từ bia sang rượu mạnh” nhưng chưa chắc không cần phải đổi từ cần sa sang heroin
(và/hoặc các loại ma túy khác). Điều này minh họa cho điểm tổng quát trong phép
loại suy, đó là, phép loại suy tự nó không phải là bằng chứng thuyết phục được trong
một lập luận. Chúng có ích trong việc chỉ ra những vấn đề có thể xảy ra trong một
luận điểm phản bác, như luận điểm phản bác có tính nhất quán. Nhưng trong trường
hợp này, mặc dù buộc phải lập luận rằng uống được bia chưa chắc gì uống được rượu
mạnh, vì thế nó cũng không xảy ra, dùng cần sa chưa chắc dùng được heroin. Tất
nhiên, điều mà bạn đang tâp trung là ý nghĩa quan trọng của từ “ngay cả khi”, từ này
có nghĩa là, bạn đang khảo sát xem trường hợp này thực sự có cùng đặc tính như
trường hợp khác không. Hơn nữa, bạn cũng có thể đánh giá phép loại suy trong trường
hợp người nói nhầm lẫn về mặt phân loại giữa “ma túy mạnh” với “dùng ma túy” là
“có liên quan đến một phần những người đang lớn ở Vương quốc Anh”.
Đoạn thứ ba của ví dụ trên có một khẳng định cho rằng “Mọi thanh niên đều
biết rằng dùng cần sa có tác dụng chữa bệnh trong một số trường hợp nào đó”. Để
làm sáng tỏ, có lẽ bạn muốn liệt kê ra những tác dụng chữa bệnh của cần sa, tuy nhiên
bạn không nên mất quá nhiều thời gian vào việc này như thể cần thiết làm cho nó phù
hợp với đánh giá của lập luận. Lối đánh giá này lập luận rằng, mặc dù nó có tác dụng
chữa bệnh, nhưng chưa chắc không có những nguy hiểm kèm theo. (Bạn có thể triển
khai cách lập luận này bằng cách đưa ra nhiều ví dụ khác như morphine chẳng hạn,
nó cũng có những đặc tính chữa bệnh tương tự nhưng cũng có những nguy hiểm khi
dùng quá liều và trong những trường hợp không được chỉ định). Một lập luận khác
nữa có thể cho rằng, tác dụng chữa bệnh chỉ nằm trong những trường hợp đặc biệt
(như điều trị những cơn đau dữ dội hay bệnh đa xơ cứng) và do đó không nên chủ
trương phổ biến cách dùng (ví dụ về morphine có thể được dùng để giải thích trong
trường hợp này). Điều này có thể được xem như là một điểm tổng quát, bởi vì nó có
những đặc tính chữa bệnh nên chưa chắc cách dùng của nó lại bị giới hạn. Xét cho
cùng, nhiều loại ma túy được dùng cho chăm sóc y tế rất có ích trong việc điều trị
bệnh tật, nhưng đừng bao giờ lạm dụng quá. Một điểm nữa cần lưu ý khi phân tích
lập luận trong đoạn này là, không nên đặt ra vấn đề khá mơ hồ về tác dụng chữa bệnh,
xem nó như thể là có cùng tác dụng như các loại vitamin.
Người nói cho rằng kiến thức của những người trẻ tuổi về tác dụng chữa bệnh

85
của cần sa cốt để lập luận rằng, những chương trình giáo dục y tế nhấn mạnh đến
những nguy hiểm của ma túy (mà không phân biệt những nguy hiểm này) đã khiến
cho “những người trẻ tuổi loại bỏ thông điệp có tác dụng chữa bệnh của cần sa”. Với
bạn, bạn lại lập luận rằng, măc dù mọi người đều biết tác dụng chữa bệnh của nó,
nhưng chưa chắc là đã biết đến những nguy hiểm của nó. Chẳng có lợi lộc gì trong
việc liên kết một phần lập luận của người nói với đoạn thứ hai cho rằng dùng ma túy
còn liên quan đến một phần liên quan đến những người mới lớn. Do đó, nếu có những
nguy hiểm trong việc sử dụng cần sa, thì những chương trình giáo dục về y tế cần
phải nhấn mạnh đến những nguy hiểm này.
Câu đầu tiên của đoạn cuối trong ví dụ này đã đưa ra được cả những ưu điểm
và nhược điểm. Ưu điểm trong câu này nằm ở lời khẳng định về vấn đề hỗ trợ cho
kết luận của người nói. Nếu đa số thanh niên đều bị biến thành “tội phạm” do luật
hiện hành về cần sa, (nếu luật hiện hành không lý giải bằng các tiêu chí khác) thì nên
thay đổi luật hiện hành. Còn nhược điểm trong câu này là, không cần thay đổi luật để
né tránh vấn đề. Bạn có thể trả lời bằng cách đặt ra vấn đề ép buộc – nếu luật pháp
không buộc rộng rãi thì số thanh niên “biến thành tội phạm” có thể giảm tương đối.
Vấn đề ép buộc này cũng được dùng cùng với câu thứ hai, vì cảnh sát có thể tập trung
giải quyết “một vấn đề nghiêm trọng, đó là ma túy mạnh” bằng cách quan tâm đặc
biệt đến vấn đề này. (Bạn có thể dùng những ví dụ khác trong lĩnh vực pháp luật để
minh họa về việc cảnh sát chẳng ép ai. Ví dụ, đa số những người lái xe vượt quá giới
hạn tốc độ cho phép chẳng bao giờ bị phát hiện bởi vì cảnh sát không phải lúc nào
cũng để ý đến chuyện đó).
Kết luận phải mang chủ đề với những đánh giá rõ ràng. Lý do nêu ra của người
nói hỗ trợ cho kết luận tới mức độ nào? Ngoài ra, bạn cũng nên xem xét ý nghĩa đặc
biệt của kết luận. “Hợp pháp hóa” ở đây có nghĩa là gì? Một đề nghị như thế có tương
thích với kết luận trung gian của người nói khi cho rằng chúng ta cần “một chính sách
chặt chẽ” về cần sa. Chẳng hạn, có phải chính sách chặt chẽ là một chính sách trong
đó luật pháp không bị thay đổi mà sự ép buộc mới phải thay đổi không? Có thể bạn
lại đưa ra một cách đánh giá khác là, người nói không phân biệt được giữa việc cung
cấp với sử dụng cần sa. Điều này sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề. Ví dụ, nếu cái gì được
tiêu thụ một cách hợp pháp, thì tại sao nó lại không được bán một cách hợp pháp? Có
nên giới hạn số lượng và nơi được bán không? Có nên giới hạn những người được

86
phép mua không? Bằng cách này, bạn có thể lập luận rằng người nói đã không cung
cấp nội dung chi tiết lời đề nghị “nên hợp pháp hóa cần sa”.
Nên đưa ra nhiều lập luận sâu hơn về chủ đề này. Bạn có thể tranh luận những
giải pháp khác nhau cho những vấn đề mà người nói đã mô tả. Ví dụ, nếu vấn đề đưa
ra là một trong những nguồn thông tin không đầy đủ để giải quyết vấn đề ma túy
mạnh, thì Chính phủ nên cung cấp nhiều nguồn thông tin hơn chứ không nên hạn chế
những thông tin được dùng trong việc giải quyết vấn đề cần sa. Những triển khai thú
vị trong lập luận của người nói có thể bao gồm luôn cả những triển khai còn thai
nghén trong đầu: nếu cần sa mà được hợp pháp hóa, thì nó lại không gây hấp dẫn đối
với thanh niên (mà họ còn chống lại việc sử dụng nó), và như thế một là họ sẽ không
dùng, hai là sẽ dùng một loại ma túy trái luật khác (bất chấp những nguy hiểm có thể
xảy ra). Những lập luận đưa ra mức độ thay đổi về vấn đề hợp pháp hóa có thể mở
rộng thêm một số những chi tiết trong chính sách mà người nói không đưa ra. Ví dụ,
người nói có thể tranh luận về việc giới hạn vấn đề hợp pháp hóa (số lượng thấp) hoặc
giới hạn thời gian (để đánh giá kết quả).
Đánh giá tính hiệu quả của bằng chứng
Trước khi qua phần này, chúng ta hãy khảo sát những tình tiết của các bằng
chứng và xét xem lập luận của người nói có hiệu quả không? (Nếu có).
(1) Năm nay, sẽ có khoảng 2.000 người chết do lạm dụng ma túy.
(2) Số người nghiện ma túy như được biết đã tăng từ 3.000 đến 43.000 người
hơn ba mươi năm qua.
(3) Theo thăm dò của Viện Nghiên cứu Dư luận và Thị trường (MORI), vào
năm 2000, hầu hết những người thuộc mọi lứa tuổi đều xem cần sa không có hại bằng
thuốc lá và rượu.
(4) Cũng theo thăm dò này, một nửa dân số Vương Quốc Anh muốn hợp pháp
hóa cần sa.
(5) Ở Hà Lan, Tậy Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, nhiều vùng ở Xcăng-đi-na-vi,
Đức, và một số bang ở Mỹ, Chính phủ cho phép quyền sở hữu cần sa.
(6) Tỷ lệ tiêu thụ cần sa ở Hà Lan, Tậy Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Xcăng-đi-
na-vi, và Đức thấp hơn ở Vương Quốc Anh.
(7) Tỷ lệ tiêu thụ cần sa ở Mỹ cao hơn ở Vương Quốc Anh.
(8) Cần sa là một hỗn hợp độc tố có trên 60 “cannaboid – hợp chất hóa học

87
hoạt hóa có nguồn gốc từ cần sa”, trong đó có những chất gây hại và có những chất
có tính chữa bệnh.
(9) Theo Khảo sát về vấn đề Tội phạm của Bộ Nội vụ Anh Quốc vào năm
1997, có 2,5 triệu người tuổi từ 16 đến 29 sử dụng cần sa.
Chúng ta sẽ khảo sát tóm lược mỗi tình tiết của bằng chứng trên.
(1) Bằng chứng này được dùng tương phản với kế hoạch giảm tiền phạt
những người bán và sử dụng ma túy. Nhược điểm của bằng chứng này khi dùng tương
phản với lập luận trên là nó quá chung chung. Nói cách khác, nó không tập trung vào
lý lẽ đặc biệt về cần sa, đó là, nhiều cái chết do lạm dụng ma túy có thể là do ma túy
chứ không phải cần sa. Hơn nữa, bạn cũng cần xem xét kỹ câu hỏi “2.000 người chết
là tương đối cao hay tương đối thấp?
Bạn có thể đánh giá sâu hơn bằng cách đặt ra một số câu hỏi như “số người
chết vì ma túy so với số người chết vì những bệnh có liên quan đến thuốc lá thì thế
nào?” hoặc “số người chết vì ma túy so với số người chết vì rượu thì thế nào, kể cả
những người chết do lái xe khi đã uống rượu?” Bạn cũng có thể xét xem liệu con số
2.000 người chết có là một đánh giá quá thấp hay không chứ không phải là chỉ quan
tâm đến những cái chết do những người lái xe gây ra trong khi đang bị tác động mạnh
của ma túy, kể cả cần sa.
(2) Bằng chứng số (2) này cũng tương tự như bằng chứng số (1) vì đây là
bằng chứng có liên quan nhiều đến chính sách bắt buộc về các loại ma túy trái luật.
Có lẽ có rất nhiều lời giải thích về việc số người nghiện ma túy tăng lên hơn ba mươi
năm qua (bạn có thể đưa ra những giải thích khác), tuy nhiên vấn đề nghiện ma túy
lại không chủ yếu do việc sử dụng cần sa.
Giống như tình tiết của bằng chứng số (1), cần đặt thêm nhiều câu hỏi về ý
nghĩa của những con số đã nêu. Bạn cho rằng số người chết tăng thêm hơn ba mươi
năm qua chỉ đơn giản là kết quả của việc tăng dân số chẳng hạn. Hơn nữa, con số
43.000 người chết (và/hoặc tỷ lệ tăng cao hơn) so với số người chết ở các quốc gia
thì thế nào? Bạn cũng có thể đặt nghi vấn về tính đáng tin cậy của những con số này.
Ví dụ, số người chết tăng lên có thể được giải thích bằng cách mô tả sơ lược vấn đề
ma túy so với cách đây ba mươi năm không? Nói cách khác, có phải những người
nghiện ma túy đang cần được giúp đỡ nhiều hơn bởi vì hiện nay có rất nhiều sự giúp
đỡ đang chờ đón họ?

88
(3) Lập luận này cho thấy có một sự không nhất quán giữa việc chấp nhận
thuốc lá và rượu với việc chấp nhận cần sa. Điều đó chỉ ra cho thấy, mặc dù thuốc lá
và rượu được xem là những chất nguy hiểm, nhưng chúng ta vẫn không để ý đến việc
giới hạn số lượng tiêu thụ. Bằng chứng số (3) lại đặt vấn đề về tính nhất quán theo
hướng khác. Nếu đa số dân chúng xem cần sa ít có hại hơn thuốc lá và rượu, thì đây
là bằng chứng mang tính chắc chắn sẽ hỗ trợ cho lập luận của người nói về vấn đề
hợp pháp hóa vấn đề (vì nó đưa ra một lý do khác nữa để người nói đưa ra kết luận).
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là, đa số dân chúng đều đúng. Những nghiên cứu
khoa học đã chứng minh dùng cần sa có hại hơn hút thuốc lá hoặc dùng rượu một
cách điều độ.
(4) Thái độ của công chúng là loại bằng chứng thường được dùng để hỗ trợ
(hay chống lại) cho một biện pháp được đưa ra. Tuy nhiên, bằng chứng này thỏa mãn
luôn cả hai cách. Nếu như một nửa dân chúng ủng hộ cho việc hợp pháp hóa cần sa,
thì nửa còn lại không ủng hộ. (Tất nhiên, có thể một số người trong một nửa đó không
có cảm giác mạnh theo cách này hay cách khác, và do đó rơi vào tình trạng “không
biết” phân loại). Như vậy, bằng chứng này có thể vừa được dùng để củng cố vừa làm
yếu đi lập luận của người nói.
Bạn cũng có thể nêu bằng chứng này ra để khảo sát kỹ lưỡng hơn. Ví dụ, từ
“hợp pháp hóa” có nghĩa là gì? Có phải nó có nghĩa là một nửa dân chúng muốn cần
sa được bán và sử dụng không bị giới hạn về mặt pháp lý? Hoặc có phải nó có nghĩa
là họ không muốn việc bán và sử dụng cần sa bị phạt nhẹ hơn?
(5) Bằng chứng xuất phát từ những nước khác nhau được dùng trong hình
thức lập luận này. Trong ví dụ đã nêu, kinh nghiệm của các nước như Tây Ban Nha
và Ý đã được dùng để hỗ trợ cho lập luận của người nói. Ở đây xuất hiện một điểm
chung là, nếu những nước khác (có hệ thống xã hội giống nhau) giải quyết được ẩn
số này, thì chúng ta cũng nên làm như thế. Tuy nhiên, điều mà ví dụ này minh họa là,
bằng chứng xuất phát từ những nước khác thường là đã được chọn lựa kỹ rồi. Hãy
xem lại danh sách các nước mà chúng ta đã nêu. Nhiều quốc gia có thể chế xã hội
giống như thể chế xã hội ở Vương Quốc Anh lại không có tên trong danh sách mà
chúng ta nêu ra (Pháp, Bỉ, Canada …) mà chỉ có “một số bang ở Mỹ” được nhắc đến.
Như vậy, nước nào? Bao nhiêu nước? Đa số hay thiểu số? mới là cái chuẩn để đối
chiếu. Do đó, loại bằng chứng mang tính so sánh này cần được giải quyết theo cách

89
phê phán như bất kỳ loại nào khác.
(6) Nếu bằng chứng số (6) được sử dụng cùng với bằng chứng số (5) thì
phải xét đến mối quan hệ giữa hai bằng chứng này. Bạn phải nhớ rằng khi chúng ta
xem xét lập những lập luận theo kiểu chuỗi sự kiện ( post hoc) thì chúng ta phải thận
trọng với việc giả định sự liên hệ nhân quả giữa hai bộ phận có liên quan rõ ràng của
bằng chứng. Ở đây bạn nhận thấy rằng, liên hệ nhân quả có thể được đưa ra là “sự
cho phép quyền sở hữu cần sa” ở nhiều nước trong đó có Hà Lan là lý do tại sao tỷ lệ
tiêu thụ thấp hơn ở Vương Quốc Anh. Bạn sẽ có thể hiểu được những giải thích về
mối liên hệ nhân quả như thế. Tuy nhiên, dễ thôi, chúng ta có thể quay lại mối quan
hệ giữa bằng chứng số (6) và bằng chứng số (5), như thế tỷ lệ tiêu thụ ma túy tương
đối thấp hơn so với nhiều nước khác trong đó có Hà Lan là nguyên nhân làm xuất
hiện “chính sách cho phép” của những nước đó. Hơn nữa, bạn còn có thể chứng minh
được làm thế nào để giải thích mối quan hệ này.
Như bạn thấy, việc sử dụng bằng chứng trong lập luận phụ thuộc khá cao vào
cách giải thích bằng chứng đó. Trong ví dụ này, nếu chúng ta giả định rằng, “chính
sách cho phép” gây ra tỷ lệ thấp hơn, thì bằng chứng số (5) và số (6) hỗ trợ chặt chẽ
với nhau cho lập luận gốc. Còn nếu chúng ta giả định rằng, tỷ lệ thấp hơn là nguyên
nhân đưa ra chính sách đó, thì hai bộ phận của bằng chứng không có sự liên quan với
lập luận. Trong quá trình đánh giá, bạn cần làm sáng tỏ việc phải thực hiện giả định
nào đối với bằng chứng để củng cố, làm suy yếu, hay không có tác dụng với lập luận.
đối với bằng chứng số (5) và số (6), để củng cố lập luận, chúng ta cần giả định rằng
bằng chứng số (6) xảy ra sau bằng chứng số (5). Nói cách khác, nếu tỷ lệ tiêu thụ
tương đối xảy ra sau khi đưa ra chính sách cho phép, thì bằng chứng số (5) cùng với
bằng chứng số (6) sẽ cùng làm tăng thêm sức mạnh cho lập luận.
Tất nhiên, như chúng ta thấy, khi đánh giá riêng bằng chứng số (5), thì bất kỳ
bằng chứng nào xuất phát từ những nước khác nhau (hoặc những khu vực, thành phố,
các nhóm xã hội, thường có những điểm tương đồng nhau) đều cần được giải quyết
theo cách phê phán. Ví dụ, nếu chúng ta phát hiện những nước có tỷ lệ tiêu thụ cần
sa tương đối thấp mà không có chính sách cho phép, thì sức mạnh của bằng chứng
trong bằng chứng số (6) sẽ bị suy yếu đi.
(7) Tình tiết trong bằng chứng này làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà chúng ta
thảo luận khi xem xét bằng chứng số (5) và số (6). Mặc dù “một số tiểu bang ở Mỹ”

90
là một phần trong bằng chứng số (5), nhưng nước Mỹ lại không được đề cập đến
trong bằng chứng số (6). Sức mạnh của bằng chứng trong bằng chứng số (7) sẽ trở
nên phụ thuộc vào những giả định được thực hiện để giải thích cho nó như khi chúng
ta xem xét khi đánh giá bằng chứng số (6), nghĩa là, tại sao sự tiêu thụ ở Mỹ cao hơn
ở Vương Quốc Anh? Bạn có thể đưa ra một số trả lời cho vấn đề đó. Một câu hỏi rõ
ràng hơn được đặt ra là “ở các tiểu bang của Mỹ có một chính sách cho phép sở hữu
cần sa, ở đây tỷ lệ tiêu thụ cao hơn hay thấp hơn so với ở Vương Quốc Anh? Bạn có
thể thấy, nếu không có sự triển khai những giả định mang tính giải thích, thì tình tiết
của bằng chứng này sẽ không có tác dụng rõ rệt đối với lập luận.
(8) Bằng chứng như thế này có thể được dùng vừa làm tăng thêm sức mạnh
cho lập luận và cũng vừa làm cho lập luận suy yếu đi. Nó sẽ tuỳ thuộc việc nhấn mạnh
vào phần nào, “có hại” hay “có tính chữa bệnh”, mặc dù rõ ràng tất cả các loại ma
túy đều có tính chữa bệnh (như aspirin, morphine, …) cũng trở nên độc hại nếu dùng
sai liều lượng. Có lẽ bạn muốn lập luận rằng, nếu không có thêm thông tin, thì bằng
chứng này không có tác dụng đối với lập luận. Như vậy, chúng ta cần có thêm bằng
chứng về những tác dụng của cần sa về lâu về dài, trong điều kiện nào, v.v…
(9) Ở một mức độ nào đó, bằng chứng này không có tác dụng rõ rệt đối với
lập luận. Số người sử dụng cần sa cần có những điểm tham chiếu trước khi chúng ta
có thể đánh giá ý nghĩa của chúng. 2,5 triệu người dùng cần sa là tương đối cao hay
thấp so với con số tương ứng đối với những nước đã nêu trong bằng chứng số (5)?
Con số đó tăng hay giảm tương đối so với những năm đầu? Hơn nữa, chữ “dùng” ở
đây được xác định như thế nào? Trong số 2,5 triệu người có bao nhiêu người “dùng”
cần sa lần đầu, vài lần, hay hàng ngày? Con số thống kê này có thể tin được ở mức
độ nào? Khảo sát vấn đề tội phạm ở Anh Quốc là loại khảo sát nào? Như bạn thấy,
chúng ta đang đánh giá bằng chứng này ngược với các loại thước đo khác. Đây là
điều bạn cần phải làm khi đánh giá bằng chứng trong một lập luận.
Diễn tập những kịch bản khác nhau
Như bạn thấy, việc đánh giá những lập luận về cơ bản là một công việc phức
tạp giàu tưởng tượng. Trong suốt quá trình đánh giá, bạn tiến gần đến nhiều khả năng
khác nhau, diễn tập những kịch bản khác nhau, xem xét những giới hạn khác của lý
do nêu ra, và nhận ra những thay đổi nhỏ trong việc nêu lý do có thể dẫn dắt chúng
ta đến đâu. Tính chất giàu tưởng tượng này cũng sẽ được ứng dụng vào công việc

91
riêng của bạn. Hãy sử dụng cách tiếp cận đặt vấn đề giống như thế.
Đặt câu hỏi đánh giá
 Hãy khảo sát bằng chứng mà bạn đã thu thập được, bằng chứng đó có thể
hỗ trợ cho kết luận như thế nào?
 Cần có thêm bằng chứng nào để đưa ra kết luận có sức thuyết phục mạnh
hơn?
 Bạn phải giả định như thế nào về ý nghĩa của bằng chứng mà bạn đang sử
dụng?
 Nếu bạn biết loại kết luận mà bạn muốn rút ra, để làm điều đó bạn cần đưa
ra loại bằng chứng nào?
 Những lập luận biện bác khả thi nào mà bạn cho là sẽ làm ảnh hưởng nhiều
đến lập luận của bạn?
 Bạn có thể loại bỏ dần những lập luận biện bác này như thế nào?
Sắp xếp những ý tưởng
Như bạn nhận thấy, bằng cách nhấn mạnh vào việc diễn tập những kịch bản
khác (điều gì sẽ xảy ra nếu như mọi thứ đều khác nhau …), tư duy độc lập khuyến
khích sự tưởng tượng trong công việc của bạn. Tuy nhiên, nó cũng khuyến khích
những thứ khác nữa, đó là, sắp xếp những ý tưởng cho đúng. Bằng cách tập trung sự
chú ý vào bản chất của lập luận, đòi hỏi bạn phải quan tâm đến chuỗi ý tưởng của
bạn. Cần đặt ra những câu hỏi chắc chắn. Tuy nhiên, câu hỏi then chốt trong trường
hợp này lại là một câu hỏi đơn giản:
 Chuỗi lý do nêu ra tốt nhất cho ý tưởng của bạn là gì?
Câu hỏi này làm xuất hiện nhiều câu hỏi phụ khác:Có phải lý do hình thành
dần lý lẽ của mình bằng một chuỗi hiệu ứng, mỗi lý lẽ này bổ sung thêm vào những
điều chưa được thiết lập?
Nếu có kết luận trung gian, thì với vai trò là một chuỗi hữu ích nó có cộng
hưởng thêm sức mạnh vào kết luận chính không?
Có cách nào hiệu quả hơn trong việc trình bày một lập luận, có nên mở rộng
hay gom bớt lại một số phần nhất định nào đó không?

(a) Khi đọc lại những điều mà mình viết ra, bạn có thấy rằng những điều mình
đang cố tìm cách lập luận – tức là những điều mình đang tìm cách trình bày hay chứng
minh - thực ra để làm gì? Có phải đọc để tìm ra những lý lẽ mang tính thuyết phục
92
không?
Là người có tư duy phản biện, điều đó không có nghĩa là bạn có thể nhận ra
được tất cả những ưu điểm và nhược điểm trong mọi lập luận; điều đó cũng có nghĩa
là có thể đưa ra được những ưu điểm mang tính thuyết phục và tránh được những
nhược điểm theo cách riêng của bạn. Nếu làm được cả hai điều này, thì tức là bạn đã
học được cách bơi không chỉ trên cạn mà còn có nhiều khả năng giàu tưởng tượng để
thích ứng với mọi vùng có nước khác.

93

You might also like