Professional Documents
Culture Documents
19 - Kiem Soat Tinh Hinh Hen Phe Quan
19 - Kiem Soat Tinh Hinh Hen Phe Quan
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát tình hình kiểm soát hen phế quản (HPQ) ở trẻ em theo GINA 2014 tại
Khoa Nhi tổng hợp I, Trung tâm Nhi khoa bệnh viện Trung Ương Huế. Phương pháp:
Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 123 bệnh nhi HPQ điều trị tại Khoa nhi tổng hợp
I, Trung tâm Nhi Khoa bệnh viện Trung Ương Huế, thời gian từ tháng 5/2014 đến tháng
02/2015. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 4,49 + 3,25. Số
lượng bệnh nhi nam : 80 (65,04%), nữ: 43(34,96%). HPQ bậc 2 (hen kéo dài nhẹ) chiếm tỷ
lệ cao nhất là 54,47%, HPQ bậc 1 (hen từng cơn ngắn) và bậc 3 (hen kéo dài trung bình)
chiếm tỷ lệ lần lượt là 28,46% và 17,07%, không có HPQ bậc 4 (kéo dài nặng). Qua đánh
giá mức độ kiểm soát HPQ theo GINA 2014, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ HPQ kiểm soát tốt là
17,07%, kiểm soát một phần là 43,09% và không kiểm soát là 39,84%. Kết luận: Nghiên
cứu cho thấy mức độ kiểm soát liên quan với các đặc tính như điều trị dự phòng, tuân thủ
điều trị, hiểu biết của bố mẹ về thuốc dự phòng hen và bậc hen; không liên quan đến tái
khám định kỳ.
Từ khóa: Hen phế quản, bậc hen, kiểm soát tốt, kiểm soát một phần, không kiểm soát.
Abstract:
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản là bệnh viêm mạn tính đường hô hấp, khá phổ biến trong các bệnh đường
hô hấp ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế
1
giới (WHO), năm 2007 trên thế giới có khoảng 300 triệu người mắc hen, chiếm 6 – 8 %
dân số ở người lớn và hơn 10% ở trẻ em dưới 15 tuổi, ước tính đến năm 2025 con số này
tăng lên đến 400 triệu người [6] . Hàng năm có khoảng 250.000 người tử vong do hen,
trong đó rất nhiều trường hợp tử vong có thể phòng ngừa được [2]. Bệnh hen không thể
chữa khỏi hoàn toàn nhưng có thể kiểm soát được [1]. Tại Việt Nam, đang phát triển mạng
lưới kiểm soát hen từ các bệnh viện Trung ương đến các Tỉnh. Tuy nhiên đa số mới chỉ
dừng lại ở việc chẩn đoán và điều trị cơn hen cấp. Việc duy trì theo dõi và quản lý bệnh
nhân hen chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Tại Thừa Thiên Huế, chưa có những đề
tài nghiên cứu đánh giá về tình trạng kiểm soát hen đặc biệt là đối với hen phế quản ở trẻ
em. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành đề tài : “Tình trạng kiểm soát hen phế
quản ở trẻ em tại Khoa Nhi tổng hợp I, Trung tâm Nhi khoa Bệnh viện Trung ương
Huế”, nhằm 2 mục tiêu :
1. Đánh giá phân loại bậc hen phế quản.
2. Đánh giá kiểm soát hen phế quản và một số yếu tố liên quan.
2
Triệu chứng ban đêm/ Có Có trong các trong các
Ho đêm do hen triệu chứng triệu chứng
Nhu cầu dùng thuốc Hơn 1 lần/tuần > 2 lần/tuần đã nêu. đã nêu.
cắt cơn
Giới hạn hoạt động thể Có (ít chạy Có (ít chạy nhảy,
lực nhảy, chóng chóng mệt)
mệt)
3
Bảng 5. Một số yếu tố liên quan đến mức độ kiểm soát hen
4
Những nghiên cứu gần đây cho thấy tỉ lệ kiểm soát hen còn thấp và thay đổi ở từng
quốc gia. Nghiên cứu kiểm soát hen theo tiêu chí lâm sàng Bloomberg GR : 24% kiểm soát
tốt, 20% kiểm soát một phần và 56% không kiểm soát [8], AIRIAP 2: 2,5% kiểm soát tốt,
44,0% kiểm soát một phần, 53,4% không kiểm soát [11]. Sự khác nhau giữa các nghiên cứu
là do việc lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá, thời điểm đánh giá và việc đánh giá dựa trên các
tiêu chí lâm sàng mang tính chủ quan của người làm nghiên cứu, bệnh nhi hoặc thân nhân
bệnh nhi. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc đánh giá ở lần tái khám đầu tiên qua
bảng trắc nghiệm ACT [5]. Còn chúng tôi đánh giá khi bệnh nhân vào viện với tiêu chuẩn
kiểm soát trong 4 tuần qua của GINA 2014 và ghi nhận tỉ lệ HPQ kiểm soát tốt là 17,07%,
HPQ kiểm soát một phần là 43,09 % và HPQ không kiểm soát là 39,84%. So với nghiên
cứu của Nguyễn Thị Ngọc thì tỉ lệ đạt kiểm soát tốt thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi (3%
so với 17,07%).
3.2.4. Đặc điểm về mức độ kiểm soát hen và các đặc tính :
Việc điều trị dự phòng và tuân thủ điều trị làm kiểm soát hen tốt hơn, làm giảm bậc
hen, giảm nguy cơ xuất hiện cơn hen cấp cũng như là giảm tỷ lệ nhập viện của hen phế
quản. Trong nghiên cứu này cho thấy điều trị dự phòng và tuân thủ điều trị ảnh hưởng đến
mức độ kiểm soát (p<0,05).
Hiểu biết của bố mẹ về hen trẻ em, mà nhất là các thuốc điều trị dự phòng là một
yếu tố trực tiếp có liên quan đến hiệu quả của việc kiểm soát hen [10]. Nghiên cứu đã cho
thấy việc nhận biết đúng thuốc có tác dụng điều trị dự phòng có liên quan với mức độ kiểm
soát hen phế quản ở trẻ em (p<0,05).
Theo GINA (2014), cần xem xét đến việc giảm bậc điều trị khi đã duy trì kiểm soát
tốt trong vòng 3 tháng [9]. Nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa mức độ kiểm soát và
bậc HPQ (p<0,05).
Mối tương quan giữa tái khám định kỳ và mức độ kiểm soát hen không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Có lẽ cần có nghiên cứu lớn hơn để đánh giá mối liên quan này.
4. KẾT LUẬN
Hen phế quản bậc 2 (kéo dài nhẹ) chiếm tỷ lệ cao nhất là 54,47%, hen phế quản bậc
1 (từng cơn ngắn) và bậc 3 (kéo dài trung bình) có tỷ lệ lần lượt là 28,46% và 17,07%,
không có HPQ bậc 4 (kéo dài nặng).
Hen phế quản kiểm soát tốt chiếm tỷ lệ 17,07%, hen phế quản kiểm soát một phần
là 43,09% và hen phế quản không kiểm soát là 39,84%. Mức độ kiểm soát liên quan với các
đặc tính điều trị dự phòng, tuân thủ điều trị, nhận biết thuốc có tác dụng điều trị dự phòng
và bậc hen; không liên quan đến việc tái khám.
5
5. Nguyễn Thị Ngọc, Phan Hữu Nguyệt Diễm (2008), Đánh giá tính giá trị của bảng C-ACT trong lượng giá
kiểm soát hen suyễn ở trẻ từ 4 – 11 tuổi tại Bệnh viện Nhi đồng 1 TP.HCM. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ
nội trú, ĐH Y Dược TPHCM.
6. Trần Quỵ (2007), “Dịch tễ học hen phế quản và tiếp cận chương trình khởi động toàn cầu về phòng
chống hen phế quản”, Hen phế quản và dự phòng hen phế quản, Nhà xuất bản Y học, tr.14-15.
7. Nguyễn Văn Toàn (2012), Nghiên cứu nguyên nhân và một số yếu tố liên quan ở trẻ hen phế quản trên 6
tuổi nhập viện, Luận văn Thạc sỹ Y học, trường Đại học Y Hà Nội.
TIẾNG ANH
8. Bloomberg GR, Christina Banister, Randal S (2009). Socioeconomis, family, and pediatric practice
factors that affect level of asthma control. Pediatrics, 123, pp. 829 – 835.
9. GINA (2014), Global Strategy for Asthma Management and Prevention.
10. Lai CK, De Guia TS, Kim YY, Kuo SH at al (2003), Asthma control in the Asia – Pacific Region: the
Asthma Insights and Reality in Asia – Pacific (AIRIAP) study, J Allergy Clin Immunol, 111(2), pp. 263-
268.
11. Wong G, Gunasekera K, Hong J, et al (2008). AIRIAP 2: Childhood asthma control in Asia according to
the Global Initiative for Asthma (GINA) criteria. J Allergy Clin Immunol, 121(2), S95 (abstract).