Professional Documents
Culture Documents
FIN101_Bai1_v1.0013106203 1
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
Zim-ba-buê (Zimbabwe) là một nước ở nam trung phi giành được độc lập từ năm 1980. Trong
thập kỷ 1980, nền kinh tế tăng trưởng tốt với sản xuất lúa mỳ, thuốc lá. Từ năm 1991 – 1996,
Zimbabwe đã thực hiện cuộc cải cách kinh tế với việc quốc hữu hóa và phân phối đất đai cho
người da đen vào cuối những năm 1990. Chương trình cải cách kinh tế này đã gây những hậu
quả kinh tế và xã hội nghiêm trọng đối với nước này. GDP giảm 43% trong giai đoạn 2000 –
2007, sản lượng của khu vực sản xuất giảm 47%, sản lượng khai thác vàng thấp nhất kể từ năm
1907, và tỷ lệ thất nghiệp tăng lên tới 80%. Thêm vào đó, từ năm 2000, chính phủ nước này đã
liên tục in tiền để trả nợ nước ngoài và tài trợ cho việc can thiệp quân sự vào Công-gô, bao gồm
cả việc trả lương cao hơn cho quân đội và quan chức chính phủ. Ngân hàng trung ương
Zimbabwe đã liên tục in thêm các loại giấy bạc mới với mệnh giá lớn hơn vào lưu thông. Điều
này đã liên tục đẩy giá cả lên cao. Cuối năm 2007, tỷ lệ lạm phát là 66.212% so với cuối năm
trước. Cuối tháng 6/2008, lạm phát so với cùng kỳ năm trước lên tới 11.268.758%. Đỉnh cao của
lạm phát là vào giữa tháng 11/2008, với tỷ lệ ước tính lên tới 89.700.000 triệu tỷ % so với cùng
thời điểm năm trước đó. Giá cả thay đổi vài lần trong ngày, và người dân có tiền phải ngay lập
tức đổi ra ngoại tệ (USD hoặc rand – đồng tiền của Nam Phi) nếu không muốn tiền của họ bị mất
giá nhanh chóng. Trước khi lạm phát lên tới đỉnh điểm, Ngân hàng trung ương Zimbabwe đã
thực hiện 2 cuộc đổi tiền. Lần đầu vào tháng 8/2006 với tỷ lệ 1.000 Z$ cũ = 1 Z$ mới. Lần thứ
hai vào tháng 7/2008 với tỷ lệ 10 tỷ Z$ cũ = 1 Z$ mới. Kết quả của tình trạng siêu lạm phát là
người dân không sử dụng đồng đô la Zimbabwe trong thanh toán mà chuyển sang sử dụng ngoại
tệ, trong đó chủ yếu là đôla Mỹ và đồng tiền của Nam Phi.
1. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng siêu lạm phát ở Zimbabwe là gì?
2. Siêu lạm phát tác động tới hành vi sử dụng tiền của người dân như thế nào?
3. Hậu quả kinh tế tiêu cực của siêu lạm phát là gì?
2 FIN101_Bai1_v1.0013106203
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
1.1. Tiền tệ
1.1.1. Khái niệm và bản chất của tiền tệ
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm “tiền” được dùng một cách tự nhiên trong
các cuộc nói chuyện hàng ngày, nó có thể có nhiều
nghĩa, nhưng đối với các nhà kinh tế, nó có một ý
nghĩa riêng.
Theo Các Mác, tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được tách
ra làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá.
Các nhà kinh tế định nghĩa tiền (hay lượng tiền cung
ứng) là bất cứ những cái gì được chấp nhận chung
rộng rãi trong thanh toán hàng hoá dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả các món nợ.
Tiền có thể bao gồm tiền kim loại, tiền giấy, tài khoản séc và rộng hơn nữa là các
khoản tiền gửi tiết kiệm.
1.1.1.2. Bản chất của tiền tệ
Như vậy, từ khái niệm của tiền tệ, ta có thể thấy về bản chất tiền là một hàng hóa
trung gian được sử dụng trong thanh toán và trao đổi các loại hàng hóa, dịch vụ khác.
1.1.2. Chức năng của tiền
Dù cho là tiền ở bất kỳ hình thức nào, dù là vỏ sò, hoặc đá, vàng trong nền kinh tế, nó
có 3 chức năng hàng đầu là phương tiện trao đổi, đơn vị tính toán, và là nơi lưu giữ
gía trị. Trong 3 chức năng này, chức năng là phương tiện trao đổi chính là yếu tố phân
biệt tiền với những tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu, hoặc bất động sản.
1.1.2.1. Phương tiện trao đổi
Tiền ở dạng tiền mặt hoặc séc được dùng để thanh toán hàng hoá và dịch vụ. Việc
dùng tiền làm phương tiện trao đổi giúp làm giảm đáng kể thời gian và chi phí trong
trao đổi hàng hoá và dịch vụ (chi phí giao dịch).
Ví dụ một giáo viên chỉ biết giảng lý thuyết tiền tệ muốn có gạo ăn phải tìm đúng bác
nông dân có gạo bán và muốn học về tiền tệ – tài chính. Việc tìm kiếm như vậy sẽ rất
mất thời gian và tốn công sức. Ngay cả khi tôi có thể tự trồng lúa, nhưng hiệu quả sẽ
không cao. Vấn đề này sẽ được giải quyết khi sử dụng tiền tệ.
Sử dụng tiền trong lưu thông thúc đẩy hiệu quả kinh tế thông qua việc cho phép người
ta chuyên làm công việc mà người ta làm được tốt nhất. Do vậy, tiền tệ khuyến khích
chuyên môn hoá và phân công lao động.
Một hàng hoá được chấp nhận là tiền thì phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
Nó phải được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng làm dễ dàng cho việc xác định giá
trị của nó.
Nó phải được chấp nhận rộng rãi.
Nó có thể chia nhỏ được nhờ đó để trao đổi, dễ chuyên chở.
Dễ mang theo, cầm, nắm…
Không bị hư hỏng nhanh chóng.
FIN101_Bai1_v1.0013106203 3
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
4 FIN101_Bai1_v1.0013106203
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
FIN101_Bai1_v1.0013106203 5
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
6 FIN101_Bai1_v1.0013106203
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
FIN101_Bai1_v1.0013106203 7
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
8 FIN101_Bai1_v1.0013106203
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
Ví dụ, An là một sinh viên mới ra trường và có được một việc làm có thu nhập tốt
trong ngân hàng. An có thể quyết định là đi làm và tiết kiệm trong 30 năm để có đủ
tiền để mua nhà riêng và mua ô tô riêng. Tuy nhiên, An cũng có thể có một lựa chọn
thứ hai là vay ngân hàng để mua nhà và ô tô riêng ngay khi vừa ra trường, và sau 30
năm làm việc thì An cũng tích lũy đủ tiền để trả hết khoản nợ đó. Với hoạt động của
hệ thống tài chính có thể làm cho An thực hiện được lựa chọn thứ hai dễ dàng và đem
lại một cuộc sống tiện nghi hơn so với lựa chọn thứ nhất.
Trong hệ thống tài chính, chức năng chu chuyển vốn có thể được thực hiện thông qua
hai con đường: tài chính trực tiếp (qua thị trường tài chính) và tài chính gián tiếp (qua
các trung gian tài chính).
FIN101_Bai1_v1.0013106203 9
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
10 FIN101_Bai1_v1.0013106203
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
gửi tiết kiệm của khách hàng và sử dụng số tiền có được để cho REE vay. Kết quả là
vốn được chuyển từ người cho vay sang người đi vay với sự trợ giúp của các trung
gian tài chính.
Người cho vay có thể cung cấp vốn cho người đi vay một cách trực tiếp trên thị
trường tài chính thông qua việc mua các loại chứng khoán. Vậy tại sao chúng ta lại
cần tới các trung gian tài chính?
Trên thực tế các tổ chức tài chính trung gian quan trọng hơn nhiều vì nó luân chuyển
một lượng vốn lớn hơn nhiều lần so với thị trường tài chính. Để hiểu vấn đề này ta
phải tìm hiểu vai trò của chi phí giao dịch và chi phí thông tin cũng như vai trò của
thông tin trên thị trường tài chính.
Các loại hình tổ chức tài chính trung gian
Các tổ chức nhận tiền gửi: ví dụ như các NHTM, các
quỹ tín dụng. Các tổ chức này huy động vốn chủ yếu
thông qua việc mở các tài khoản thanh toán (sec) và
tiền gửi kỳ hạn, tiết kiệm cho các khách hàng và sử
dụng số tiền thu được để cho vay, mua các loại chứng
khoán, và cung cấp các phương tiện thanh toán. Đây là
các tổ chức tài chính trung gian lớn nhất và quan trọng
nhất và chúng sẽ được nghiên cứu trong một chương riêng.
Các tổ chức tiết kiệm hợp đồng: ví dụ như công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu, huy động
vốn thông qua việc bán các hợp đồng bảo hiểm và sử dụng số tiền thu được để cho
vay và đầu tư.
Các trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán
huy động vốn thông qua việc phát hành các loại chứng khoán (thương phiếu, chứng
chỉ hay cổ phần quỹ đầu tư để huy động vốn, đồng thời cũng sử dụng số tiền thu được
để cho vay hay đầu tư vào các loại chứng khoán. Tuy nhiên, đặc điểm hoạt động của
các tổ chức trung gian này sẽ có những điểm khác nhau cơ bản.
FIN101_Bai1_v1.0013106203 11
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
12 FIN101_Bai1_v1.0013106203
Bài 1: Đại cương về tài chính tiền tệ
FIN101_Bai1_v1.0013106203 13