Professional Documents
Culture Documents
ĐẠI CƢƠNG
Mụn trứng cá (acne) là một bệnh lý rất thường gặp với lưu hành độ trên 80-90%
trong độ tuổi dậy thì, và tiếp tục là một vấn đề da thường thấy sau độ tuổi thanh thiếu
niên, gần đây qua nhiều nghiên cứu dịch tễ học đã nhận thấy rằng có sự gia tăng tỷ lệ
mụn trứng cá ở lứa tuổi trưởng thành, nhất là ở phụ nữ trẻ. Bệnh có thể dẫn đến giảm sự
tự tin của bản thân và gây trầm cảm, thậm chí gây ảnh hưởng đến năng suất làm việc và
khả năng nghề nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh mà người ta
đánh giá một cách ấn tượng rằng mụn trứng cá có tác động tâm lý-xã hội cũng giống như
động kinh hoặc hen suyễn. Mụn trứng cá thường kéo dài nhiều năm trên các cá thể mắc
bệnh và hiện diện như là một tình trạng biến đổi liên tục trên các biểu hiện lâm sàng hơn
là một bệnh lý cấp tính. Hiện nay, mụn trứng cá được xem như là một bệnh lý mạn tính,
loại bỏ quan điểm không đúng rằng mụn trứng cá là một bệnh cảnh đơn giản, tự giới hạn
ở độ tuổi dậy thì.
Trên 25 năm qua, có nhiều nhóm hoạt chất đã được sử dụng trong điều trị mụn
trứng cá bao gồm chủ yếu là các loại kháng sinh và retinoids dùng tại chỗ và dùng toàn
thân, đồng thời phát triển các loại hợp chất và kỹ thuật mới có hiệu lực và dung nạp tốt,
các định hướng phối hợp trị liệu làm rút ngắn chu trình điều trị và giúp cải thiện về mặt
thẩm mỹ, hạn chế các tác dụng phụ và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Trong phạm vi bài tổng quan này, chúng tôi tổng hợp lại các kiến thức về sinh bệnh học,
đặc điểm lâm sàng của mụn trứng cá đã được xác định trong những năm gần đây và tập
trung thảo luận về các quan điểm và phương thức điều trị hiện đại trong mụn trứng cá.
TỔNG QUAN VỀ SINH BỆNH HỌC MỤN TRỨNG CÁ
1-Sinh bệnh học
Sinh bệnh học của mụn trứng cá thì có nhiều yếu tố, nhưng có 4 nhân tố chính đã
được xác định: (1) tăng sinh thượng bì nang lông, (2) sản xuất quá nhiều chất bã, (3)
viêm nhiễm, (4) sự hiện diện và tác động của Propionibacterium acnes.
(1) Tăng sinh thƣợng bì nang lông gây nên sự hình thành tổn thương tiên phát
của mụn trứng cá, các cồi nhỏ (microcomedon). Biểu mô của phần trên nang lông, vùng
phễu, bắt đầu tăng sừng với gia tăng sự kết dính các tế bào sừng. Có quá nhiều tế bào và
sự tăng sừng tạo thành một nút trong lỗ nang lông. Nút này gây nên chảy xuôi dòng các
khối chất sừng, chất bã, vi khuẩn đến tích tụ tại nang lông, làm dãn phần trên của nang
lông, tạo thành các cồi mụn nhỏ.
Cơ chế gây kích thích tế bào sừng tăng sinh và gia tăng sự kết dính thì chưa rõ.
Thành phần siêu cấu trúc trong sự đáp ứng tế bào với sự kết dính giữ vai trò thúc đẩy,
bao gồm các keratinosome (lamellar granules), các màng thành tế bào, các lipid ở thượng
bì và các chất gắn kết nội bào. Các yếu tố làm tăng sinh tế bào sừng gồm:
-Sự kích thích của androgen: dihydrotestosterone (DHT) là thành phần androgen
giữ vai trò thúc đẩy trong mụn trứng cá. Dehydroepiandrosterone sulfate (DHEAS) dưói
2
tác động của men 3β-hydroxysteroid dehydrogenase (3β-HSD) chuyển đổi thành
androstenodione; androstenodione dưới tác động của men 17β-hydroxysteroid
dehydrogenase (17β-HSD) chuyển đổi thành testosterone và 5α-reductase chuyển
testosterone thành DHT. Trong mụn trứng cá, tại các tế bào sừng ở nang lông có sự gia
tăng 17β-HSD và 5α-reductase, tăng sản xuất DHT. Tăng DHT kích thich tăng sinh tế
bào sừng ở nang lông.
-Giảm linoleic acid: linoleic acid là một acid béo thiết yếu trong da và thường
giảm đi trên người mắc mụn trứng cá. Mức độ thấp của linoleic acid có thể gây tăng sinh
tế bào sừng ở nang lông và sản xuất các cytokine tiền viêm.
-Tăng hoạt tính của interleukin-1α: các tế bào sừng ở nang lông của người được
xác định có sự tăng sinh và hình thành các cồi mụn nhỏ khi có nhiều interleukin-1.
(2) Sự sản xuất quá nhiều chất bã. Các bệnh nhân mụn trứng cá sản xuất nhiều
chất bã hơn người không bị mụn trứng cá, mặc dù chất lượng chất bã thì tương tự nhau ở
hai nhóm. Một trong những thành phần của chất bã, triglycerides, có thể giữ vai trò thúc
đẩy trong sinh bệnh học mụn trứng cá. Triglycerides bị phá hủy thành các acid béo tự do
do Propionibacterium acnes, các acid béo tự do này đẩy mạnh sự tạo thành các đám vi
khuẩn và lan tràn P. acnes, gây nên hiện tượng viêm và tạo thành cồi mụn.
Các hormone androgen cũng có ảnh hưởng trên sự sản xuất chất bã, các hormone
này kết hợp và ảnh hưởng lên hoạt tính của các tế bào bã (sebocyte) tương tự như tác
động trên các tế bào sừng ở phễu nang lông. 5α-reductase chuyển đổi testostrone thành
DHT, có tác động rất lớn trong các vùng da phát sinh mụn trứng cá (mặt, ngực, lưng).
(3) Hiện tƣợng viêm . Các cồi nhỏ liên tục giãn nở do sự tập trung dày đặc chất
sừng, chất bã, vi khuẩn. Sự thoát ra của chất sừng, chất bã và vi khuẩn vào trong lớp bì
gây nên đáp ứng viêm. Dạng tế bào ưu thế trong vòng 24 giờ đầu của sự phá vỡ cồi mụn
là lympho bào; các lympho bào CD4+ được tìm thấy quanh đơn vị nang lông tuyến bã
trong khi lympho bào CD8+ tìm thấy quanh mạch. Từ một đến hai ngày sau khi cồi mụn
bị vỡ, các bạch cầu đa nhân chiếm ưu thế và nằm quanh các cồi mụn nhỏ bị vỡ. Cơ chế
khác gây ra hiện tượng viêm trong mụn trứng cá là sự điều chỉnh quá mức β-defensin 1
và 2 ở người. Hiện nay, có bằng chứng mới (qua nghiên cứu sinh thiết) rằng hiện tượng
viêm ở lớp bì có thể xảy ra trước khi cồi mụn được hình thành.
(4) Vai trò của Propionibacterium acnes. P.acnes giữ vai trò tác động trong tiến
trình viêm, đây là một trực khuẩn Gram (+), yếm khí và hiếu khí nhẹ, được tìm thấy
trong nang lông tuyến bã. Thành tế bào của P. acnes chứa kháng nguyên carbohydrate mà
kháng nguyên này kích thích sự hình thành kháng thể; các kháng thể kháng
propionibacterium làm gia tăng đáp ứng viêm do tác động của bổ thể. P. acnes cũng gây
viêm dễ dàng do trì hoãn đáp ứng tăng nhạy cảm và do sản xuất các men lipase, protease,
hyaluronidase, các yếu tố hóa ứng động. P. acnes cũng kích thích điều chỉnh quá mức các
cytokine do kết hợp với Toll-like receptor 2 trên các tế bào đơn nhân và các tế bào đa
nhân ở quanh nang lông tuyến bã; sau khi gắn kết với Toll-like receptor 2, sẽ gây phóng
thích các cytokine tiền viêm như IL-1, IL-8, IL-12 và TNF-α.
3
Các sẩn và mảng mụn trứng cá sẹo lồi Nhiều sẩn hợp lại thành mảng lớn
-Hebra đã mô tả tình trạng này đầu tiên năm 1860 dưới tên gọi là “viêm nang lông
sâu dạng ghẻ cóc” (sycosis framboesiformis). Năm 1869, Kaposi mô tả tình trạng tương
tự này như là “viêm da u nhú hình mạng” (dermatitis papillaris capillitii). Thuật ngữ
“mụn trứng cá sẹo lồi” đã được Bazin gọi tên năm 1872 và cho đến ngày nay, tên gọi này
thường được dùng trong chuyên khoa Da.
-Mụn trứng cá sẹo lồi là một dạng sẹo của viêm nang lông mạn tính mà bệnh cảnh
là các sẩn và mụn mủ trên nền nang lông, dẫn đến các tổn thương dạng sẹo lồi. Nguyên
nhân chính xác của bệnh chưa rõ; tuy nhiên, một điều được thừa nhận là kích thích mạn
tính và sự phát triển hướng vào các sợi lông thô, sợi lông cong có thể giữ vai trò thúc đẩy
phát triển các tổn thương này. Bệnh thường xảy ra ở nam giới, tỷ lệ nam/nữ là 20/1; độ
tuổi 14-25 tuổi; thường ở người da màu (nhất là da đen).Các nguyên nhân bao gồm:
+Cạo lông ở vùng cổ thường làm nặng thêm bệnh. Các lông nhọn, lông cong đâm
vào trong da và gây ra đáp ứng viêm cấp tính
+Sự kích thích liên tục của cổ áo hoặc quần áo thể thao gây nên xén bớt lông
+Các nhiễm trùng mạn tính mức độ thấp
+Một tiến trình tự miễn dịch
+Sử dụng các thuốc như thuốc chống động kinh, cyclosporine, carbamazepine…
+Sự gia tăng số lượng dưỡng bào ở vùng chẩm.
9
+Các báo cáo gần đây thấy có sự liên kết giữa mụn trứng cá sẹo lồi với dày sừng
nang lông gây rụng tóc, và hiếm hơn là với một rối loạn di truyền liên kết giới tính X ở
các cá thể có khả năng di truyền liên quan đến dày sừng nang lông và gây viêm.
-Các tổn thương sớm là các sẩn nang lông chắc, có hình vòm, 2-4mm đường kính.
Các sẩn ưu thế định vị ở vùng chẩm và vùng gáy. Các mụn mủ có thể xuất hiện, nhưng
thường thấy chỉ có các sẩn trầy xước do tổn thương thường ngứa hoặc khi có chấn
thương do chải tóc. Theo thời gian, các sẩn và mụn mủ hợp lại thành các mảng lớn.
Mảng giống sẹo lồi sắp xếp giống như một dãi tại nơi phân bố hoặc nằm ở phần dưới
chân tóc, đường kính từ vài cm đến >10cm, rụng tóc có sẹo thường xảy ra. Ở các tổn
thương mạn tính, thấy tóc bị gãy hoặc mọc thành chùm nằm ở bên trong hoặc ở ngoại vi
của mảng; abscess với các lỗ dò cũng có thể hiện diện.
Cấy vi khuẩn từ các mụn mủ và mủ ở các lỗ dò thường được thực hiện, nếu vi sinh
vật được xác định, cần chỉ định kháng sinh.
Mô học nhận thấy các thay đổi tùy thuộc vào thời gian làm sinh thiết. Khởi đầu
thâm nhiễm là tiên phát chứa các bạch cầu đa nhân và lympho bào phân bố quanh vùng
dưới phễu và eo (isthmus) nang lông. Hậu quả là nang lông và tuyến bã bị phá hủy,
phòng thích thân lông vào trong lớp bì. Viêm cấp tính và viêm dạng u hạt quanh các thân
tóc tự do, và cuối cùng gây xơ hóa. Sẹo rụng tóc gặp trong các tổn thương kéo dài, ghi
nhận bởi sự xơ hóa lớp bì kết hợp với rất nhiều tương bào. Không nhìn thấy u sùi chất tạo
keo. Thông thường, viêm nhiễm cấp tính và mạn tínhcó thể hiện diện trong cùng một
vùng, bởi vì các tổn thương mới thường phát triển bên cạnh các tổn thương mạn tính. Các
dấu chứng của xoang có thể được xác định trong các tổn thương đã lâu. Các chất nền
nang lông có thể tạo thành sự rậm lông (polytrichia) với có nhiều hơn một thân lông
trong một nang lông, nhưng điều này là sinh lý ở vùng chẩm. Cá thể mà xuất hiện sớm
các sẩn có thể cũng có chứng lông mọc vào trong (ingrown hairs) và điều này có thể nhìn
thấy trên lâm sàng ở các bệnh nhân không có diễn tiến rụng tóc có sẹo.
6-Mụn trứng cá cụm (acne conglobata)
10
Các nốt và mụn mủ ở lƣng Các nốt, mụn mủ, cầu sẹo trên lƣng
-Mụn trứng cá cụm là một dạng nặng của mụn trứng cá đặc trưng bởi sự hóa hang,
các khối abscess bên trong mô liên kết và các sẹo không đều (vừa lồi vừa teo). Cồi mụn
thường nhiều, kèm các nang chứa chất dịch mủ mềm, các nốt. Vị trí thường thấy ở ngực,
vùng bả vai, lưng, mông, vùng trên cánh tay, đùi và mặt. Mụn trứng cá cụm có thể xuất
hiện như là hậu quả của sự hư hại đột ngột từ tác động quá mức của mụn trứng cá sẩn
hoặc mụn mủ, hoặc có thể xảy ra như là sự bùng phát của mụn trứng cá sau nhiều năm
không phát triển. Bệnh gặp ở nam nhiều hơn nữ, độ tuổi 18-30 tuổi, đôi khi ở trẻ nhỏ.
Nguyên nhân tiên phát của mụn trứng cá cụm thì chưa rõ. Khiếm khuyết nhiễm sắc
thể karyotype XXY có thể đáp ứng gây các dạng nặng của mụn trứng cá cụm. Chưa có
bằng chứng có mối liên quan giữa mụn trứng cá cụm với HLA (phenotype HLA-A và
HLA-B); các bệnh nhân có mụn trứng cá cụm và viêm tuyến mồ hôi hóa mủ (hidradenitis
suppurativa) trên một nghiên cứu thấy tất cả đều có HLA-DRw4, một số ít có các kháng
nguyên phản ứng chéo HLA-B7 (như HLA-B7, Bw2, B27, Bw40, Bw42).
Các nguyên nhân khác gồm: (1) sự biến đổi phản ứng từ P. acnes, (2) tiếp xúc với
các hydrocarbon có nhân halogen thơm (như dioxins) hoặc uống các chất halogen (như
thuốc giáp trạng, thuốc ngủ), (3) các yếu tố khác gây thúc đẩy tạo mụn trứng cá cụm bao
gồm các androgen (như các bướu sản xuất androgen) và các steroids, (4) sau khi ngưng
liệu pháp testosterone hoặc phản ứng với các thuốc khác.
-Các tổn thương đa dạng gồm cồi mụn, sẩn, mụn mủ, nốt, abscess và sẹo. Các
xoang dò mủ là tổn thương rất xấu thường nhìn thấy trong mụn trứng cá cụm. Các nốt
đặc trưng với sự tăng kích thước có thể nhiều cm, chắc, hình vòm, chứa dịch mủ, vỡ ra
xuất tiết dịch mủ, đóng mài vẩy tiết có thể tạo thành vết loét sâu, phát triển ly tâm với
trung tâm lành; tiến trình này thường kéo dài, lành bệnh chậm và để lại sẹo co kéo.
11
Ở một số bệnh nhân có mụn trứng cá cụm và viêm xương cùng-chậu, có thể có
viêm màng mạch nho trước ở mắt. Mụn trứng cá cụm có thể kết hợp với viêm tuyến mồ
hôi hóa mủ, viêm da mủ hoại thư (pyoderma gangrenosum), bệnh amyloidosis thận, bệnh
tăng globulin miễn dịch IgA, viêm khớp (hiếm).
Cấy mủ thường (+) với chủng Tụ cầu. Nhiễm Mycobacterium chelonae đã được
mô tả trong mụn trứng cá cụm ở người suy giảm miễn dịch.
7-Mụn trứng cá ác tính (acne fulminans)
-Mụn trứng cá ác tính còn gọi là mụn trứng cá loét và sốt cấp tính (acute febrile
ulcerative acne). Biểu hiện tiên phát bao gồm khởi phát đột ngột, nặng, thường gây loét,
sốt, viêm đa khớp, suy giảm đáp ứng với liệu pháp kháng sinh, đáp ứng tốt với corticoids
liệu pháp. Mụn trứng cá ác tính là bệnh lý hệ thống do cơ chế miễn dịch với sự khơi mào
từ kháng nguyên của P.acnes. Sự gia tăng cấp độ testosteerone trong máu giữ vai trò thúc
đẩy quan trọng trong sinh bệnh học của mụn trứng cá ác tính; cấp độ cao testosterone và
steroids đồng hóa là nguyên nhân gây gia tăng sự bài tiết chất bã và gia tăng dày đặc
quần thể P.acnes. Sự gia tăng số lượng P. acnes hoặc các các kháng nguyên liên quan có
thể gây ra phản ứng miễn dịch trên một số cá thể và dẫn đến xuất hiện mụn trứng cá ác
tính. Về phương diện miễn dịch, phản ứng này là phản ứng tăng nhạy cảm type III hoặc
IV. Các dữ liệu gần đây cho thấy các yếu tố di truyền cũng giữ vai trò thúc đẩy trong
mụn trứng cá ác tính (nghiên cứu trên những người sinh đôi cùng trứng bị mắc mụn trứng
cá ác tính).
Bệnh hiếm gặp, thường thấy ở nam giới trẻ có tiền căn mụn trứng cá.
-Hình ảnh lâm sàng giống như mụn trứng cá cụm, có rất nhiều các nốt viêm trên
thân mình, lưng, ngực, không có ở mặt; các nốt lớn hoặc các mảng viêm, tạo thành các
vết loét đau với bờ nhô cao bao quanh các mảng hoại tử xuất tiết, lành để lại sẹo; tuy
nhiên, không có các lỗ cồi mụn và các nang không viêm. Các nốt hồng ban tân sinh mạch
máu có thể nhìn thấy.
Toàn thân có sốt, gan lách to và đau, có thể có hồng ban nút, thiếu máu, viêm đa
khớp. Đau xương (nhất là xương đòn và xương ức) liên quan với tiêu xương vô trùng;
đau khớp do viêm có thể từ 1 đến nhiều khớp, nhất là khớp háng, đầu gối, đùi. Các bệnh
nhân có mụn trứng cá ác tính và viêm nang lông dạng mụn trứng cá có thể có viêm
xương-tủy xương đa ổ vô trùng.
Sinh học: tăng bạch cầu, tăng bạch cầu đa nhân, thiếu máu, VS tăng, có phức hợp
miễn dịch tuần hoàn, protein niệu. Cấy máu luôn luôn vô trùng.
Mô học: các mẫu sinh thiết tổn thương xương chỉ thấy các biến đổi do phản ứng.
Hình ảnh học: 50% bệnh nhân có tổn thương tiêu xương được xác định trên X
quang, 70% bệnh nhân thấy gia tăng sự hấp thu khi dùng kỹ thuật chụp lấp lánh với
technetium (“ điểm nóng”, hot spots). Các tổn thương phá hủy xương giống như viêm
xương-tủy xương được phát hiện bằng X quang trong 25% bệnh nhân. Các nang tiêu
xương nhiều ổ có thể phát hiện qua kỹ thuật chụp lấp lánh với technetium.
8-Mụn trứng cá trầy xƣớc ở phụ nữ trẻ (acne excoriee des jeunes filles)
12
Mụn trứng cá trầy xước có thể xem như là một tiểu nhóm của chứng trầy xước da
do bệnh thần kinh (neurotic excoriation). Brocq năm 1891 mô tả mụn trứng cá trầy xước
đặc biệt ở trẻ gái trưởng thành dưới dạng một stress cảm xúc mà họ bóc gở và lấy đi nhân
trứng cá.
Bệnh cảnh rất thường gặp ở phụ nữ trẻ, độ tuổi khoảng 30 tuổi; thậm chí ở “ các cô
gái trẻ” (des jeune filles). Bệnh liên quan với tình trạng lo âu, các rối loạn trầm cảm và
hoang tưởng, rối loạn ám ảnh cưỡng bức (OCD, obssesive-compulsive disorder), rối loạn
nhân cách.
Các bệnh nhân cào gải và bóc gở các tổn thương (ở đây là các tổn thương mụn
trứng cá). Thông thường, các tổn thương mụn trứng cá (như cồi mụn, sẩn) có thể hiện
diện với sự trầy xước thái quá, các vết lỡ có thể trở nên sâu xuống và tạo sẹo. Tổn thương
có ưu thế quanh vùng chân lông, trán, vùng má phía trước tai, cằm. Sự lan tràn đến cổ và
vùng chẩm thì thường gặp với nhiều tổn thương lan tỏa gây ra sự chồng lấp lâm sàng với
chứng ngứa do tâm thấn. Các tổn thương mạn tính thường đặc trưng bởi có sẹo teo trắng
với tăng sắc tố ở vùng rìa.
9-Mụn trứng cá ở ngƣời trƣởng thành (post-aldolescent acne, adult acne)
-Mụn trứng cá ở người trưởng thành là mụn trứng cá ở những người trên 25 tuổi,
hiện nay thuật ngữ mụn trứng cá kéo dài (persistent acne, mụn trứng cá khởi phát trong
độ tuổi dậy thì và tiếp tục nổi mụn kéo dài đến sau 25 tuổi) và mụn trứng cá khởi phát
muộn (late onset acne, mụn trứng cá khởi phát lần đầu tiên sau 25 tuổi) được thống nhất
dùng để chỉ hai dạng của mụn trứng cá ở người trưởng thành.
Goulden và cs ghi nhận trong vòng 10 năm, độ tuổi trung bình của bệnh nhân mụn
trứng cá tăng từ 20,5 đến 26,5; công trình khác của Goulden và cs trên 749 người trên 25
tuổi thấy mụn trứng cá vẫn tiếp tục diễn ra ở độ tuổi 24-44 và chỉ thật sự giảm sau 44
13
tuổi, tần suất mụn trứng cá chung là 54% ở nữ và 40% ở nam, mụn trứng cá kéo dài là
dạng thường gặp nhất (82%) so với mụn khởi phát muộn.
-Nguyên nhân mụn trứng cá ở người trưởng thành chưa xác định rõ. Một số yếu tố
được đưa ra để giải thích sự khởi phát muộn của mụn trứng cá gồm:
+Nội tiết tố: androgen, estrogen, growth hormone và những yếu tố tăng trưởng
(IGF-1, IGF-2), các hormone khác như melanocortins (MSH, ACTH) và hormone hướng
vỏ thượng thận (CRH), hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS).
+Mỹ phẩm: lanolin và các dẩn xuất, isopropyl myristrate và các đồng phân,
petrolatum và một số dầu thực vật.
+Vi khuẩn kháng thuốc: nồng độ kháng thể với P. acnes cao ở mụn trứng cá ở
người trưởng thành, nhưng không song hành với biểu hiện lâm sàng của mụn trứng cá.
+Thuốc ngừa thai uống: các thuốc có chứa thành phần sinh androgen.
+Các yếu tố khác: tiền sử gia đình (50% bệnh nhân có người trong gia đình bị mụn
trứng cá ở tuổi trưởng thành), hút thuốc là, tiếp xúc với ánh nắng, chu kỳ kinh nguyệt
(mụn tăng khi đến chu kỳ kinh), stress tinh thần (gây nặng thêm mụn trứng cá).
-Tổn thương cơ bản của mụn trứng cá ở người trưởng thành cũng tương tự như
mụn trứng cá ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên, sang thương viêm chiếm ưu thế (sẩn, mụn mủ,
nốt), số lượng cồi mụn thường ít hơn. Vị trí phân bố sang thương thường tập trung ở mặt,
nhất là ở ½ dưới mặt (cằm, hai bên góc hàm, quanh miệng), ở nam giới thường thấy ở
lưng. Mức độ mụn trứng cá thường ở mức nhẹ đến trung bình nhưng thường kéo dài và
kém đáp ứng điều trị. Không có sự khác biệt lâm sàng giữa mụn trứng cá kéo dài và mụn
trứng cá khởi phát muộn.
Tình trạng cường androgen thường gợi ý có rối loạn nội tiết đi kèm với mụn trứng
cá với các biếu hiện lâm sàng gồm: rậm lông, chứng gai đen, rụng tóc do androgen, viêm
da tiết bã, rối loạn kinh nguyệt, phì đại âm vật, Cushing-like…Khi phát hiện có tình trạng
này trên lâm sàng, một số xét nghiệm cần được thực hiện gồm: DHEAS trong máu,
testosterone tự do và toàn phần, tỷ lệ LH/FSH.
10- Hội chứng SAPHO và hội chứng PAPA:
-Hội chứng SAPHO là bệnh cảnh gồm: viêm bao hoạt dịch (Synovitis), mụn trứng
cá (Acne), bệnh mụn mủ (Pustulosis), chứng phì đại xương (Hyperostosis) và viêm
xương (Osteitis). Đây là một rối loạn đặc trưng bởi các tổn thương viêm xương-khớp
không do nhiễm trùng và các bất thường ở da được xác định vô trùng, rất nhiều bạch cầu
đa nhân và các khối giả abscess. Bệnh cảnh ưu thế liên quan với chứng phì đại xương ở
vùng trước ngực, mụn mủ lòng bàn tay-lòng bàn chân hoặc vẩy nến mủ, viêm tuyến mồ
hôi hóa mủ và mụn trứng cá. Ở người lớn, viêm xương-tủy xương nhiều ổ là bệnh cảnh
kinh điển. Mụn trứng cá kết hợp với hội chứng này thường gặp là mụn trứng cá cụm hoặc
mụn trứng cá ác tính-với rất nhiều cồi mụn viêm, các nốt, các abscess, các lỗ dò định vị
trên thân mình, khi lành để lại sẹo. Sinh bệnh học chưa rõ.
-Hội chứng PAPA là bệnh cảnh gồm: viêm khớp hóa mủ vô trùng (sterile
Pyodermic Arthrtis), viêm da mủ hoại thư (Pyoderma gangrenosum) và mụn trứng cá
(Acne). Bệnh nhân có hội chứng PAPA có thể có tiền sử có các abscess ở da vô trùng,
bệnh đường ruột do viêm, giảm toàn thể huyết cầu (pancytopenia) sau khi dùng các thuốc
14
chứa sulfonamides. Đây là một rối loạn tự viêm nhiễm di truyền trên nhiễm sắc thể
thường thể trội. Một tình trạng gây ra do đột biến tại gene CD2 kết hợp protein-1 (protein
serine-threonine phosphatase interacting protein) và tăng sản xuất IL-1β. Mụn trứng cá
kết hợp với rối loạn này là mụn trứng cá cụm.
TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU TRỊ MỤN TRỨNG CÁ
1-Hƣớng dẫn điều trị mụn trứng cá
Điều đáng ghi nhận nhất trong các yếu tố sinh bệnh học ảnh hưởng đến sự phát
triển mụn trứng cá là sự tăng sản tuyến bã với tăng sản xuất chất bã, các thay đổi trong sự
phát triển và biệt hóa các tế bào sừng nang lông, Propionibacterium acnes lan tràn vào
nang lông gây ra các phản ứng miễn dịch và các phản ứng viêm. Vì thế tùy thuộc vào
dạng lâm sàng và mức độ nặng của bệnh mà chỉ định không chỉ đơn trị liệu mà còn phối
hợp điều trị để đạt đến hiệu quả tốt nhất trong trị liệu mụn trứng cá.
Các thuốc kháng sinh hoặc retinoids dùng tại chỗ đã được sử dụng như những
thuốc bước I trong điều trị mụn trứng cá thông thường mức độ nhẹ đến trung bình. Việc
kết hợp hai thuốc làm gia tăng hiệu quả chống mụn trứng cá và dẫn đến nhanh chóng
khởi đầu sự cải thiện lâm sàng. Hiện nay trị liệu phát triển trong mụn trứng cá có tiêu
điểm trên sự phối hợp cố định các chất với hiệu lực hỗ trợ dẫn đến tối ưu hóa hiệu quả và
cải thiện sự chấp nhận của bệnh nhân.
Trong các trường hợp nặng hoặc kháng trị, phối hợp các chế phẩm dùng tại chỗ
không phải kháng sinh với kháng sinh đường toàn thân (doxycycline, minocycline,
tetracycline, lymecycline và các macrolides), các thuốc này tác động vừa kháng khuẩn,
vừa chống viêm và điều hòa miễn dịch. Các điều trị mụn trứng cá đường toàn thân khác
bao gồm các liệu pháp nội tiết tố (kháng androgen, phối hợp thuốc ngừa thai uống với
glucocorticoids) hoặc isotretinoin uống.
15
*Phác đồ điều trị mụn trứng cá (Fitzpatrick Dermatology in General Medicine 2008)
NHẸ TRUNG BÌNH NẶNG
Cồi mụn Sẩn / mụn Sẩn / mụn mủ Nốt Cụm / Ác tính
mủ
Bước I Retinoids bôi Retinoids bôi Kháng sinh uống Kháng sinh uống Isotretinoin uống
+ Kháng sinh + Retinoids bôi + Retinoids bôi ± Corticosteroids
bôi ± BPO ± BPO uống
Bước II Azelaic acid Azelaic acid Kháng sinh uống Isotretinoin uống Kháng sinh liếu
hoặc Salicylic hoặc Salicylic + Retinoids bôi hoặc kháng sinh cao + Retinoids
acid acid ± BPO uống + Retinoids bôi + BPO
bôi ± BPO hoặc
Azelaic acid
Phụ nữ Thêm Thuốc Thêm Thuốc Thêm Thuốc
ngừa thai uống ngừa thai uống ngừa thai uống
hoặc thuốc khàng hoặc thuốc khàng hoặc thuốc
androgen androgen khàng androgen
Can thiệp Lấy đi cồi Lấy đi cồi mụn Lấy đi cồi mụn; Corticosteroids
xâm lấn mụn Corticosteroids tiêm tại sang
tiêm tại sang thương
thương
Kháng trị Điều tra sự chấp nhận -Điều tra sự chấp nhận
-Loại trừ viêm nang lông do vi khuẩn Gram (-)
-Ở phụ nữ: loại trừ PCOS, các bướu tuyến thượng thận
hoặc buồng trứng, tăng sản thượng thận bẩm sinh
-Ở nam giới: loại trừ tăng sản thượng thận bẩm sinh
Duy trì Retinoids bôi ± BPO
BPO: benzoyl peroxide
PCOS: polycystic ovary syndrome