You are on page 1of 36

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN

1.1. Giới thiệu về nhôm hydroxyt


Nhôm hydroxyt là sản phẩm được tinh chế từ quặng boxite , ngoài ra nó được
tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng khoáng gibbsite ( còn gọi là hydrargillit) .
Nhôm hydroxyt trong tự nhiên là lưỡng tính , tức là nó có cả tính chất bazo và
tính chất axit. Từ nhôm hydroxyt có thể sản xuất ra nhiều chất khác sử dụng
cho nhiều mục đích kinh tế khác nhau.
1.1.1. Tính chất vật lý:
- Là chất rắn ,màu trắng, không tan trong nước.
- Phân tử khối : 78,0036 g/mol
- Khối lượng riêng : 2,42 kg/m3
- Trạng thái thông thường: dưới dạng bột
- Nhiệt độ nóng chảy: 300 ℃ .
1.1.2. Tính chất hóa học:
- Bị phân hủy bởi nhiệt độ theo phương trình sau
2Al(OH)3 => Al2O3 + 3H2O ( t° )
- Tác dụng với axit tạo muối và nước:
Al(OH)3 +3 HCl = AlCl3 + 3H2O
- Tác dụng với dung dịch bazo:
Al(OH)3 + NaOH = NaAlO2 +2H2O
1.1.3. Các dạng thù hinh của nhôm hydroxyt
Nhôm hydroxyt có 6 dạng thù hình khác nhau:
 Gibbsite
 Bayerite
 Nordstrandite
 Boehmite
 Diaspora
 Tohdite
1.1.3.1. Nhôm hydroxyt dạng Gibbsite
Trong tất cả hydrat nhôm, gibbsite là sản phẩm phổ biến nhất. Trên thực tế
có đến 85% tổng lượng gibbsite được sản xuất bởi quy trình của Bayer sử dụng để
sản xuất nhôm kim loại theo quy trình Hall- Heroult, có khoảng 8-10% được sử
dụng để điều chế vật liệu chịu lửa cao nhôm, vật liệu mài mòn và gốm sứ, khoảng
5-7% còn lại được sử dụng cho sản xuất các hợp chất hóa học của nhôm như chất
keo tụ, các loại màng lọc , chất mang xúc tác và các chất chống cháy.
Gibbsite có công thức : ∝-Al(OH)3
Khối lượng riêng: 2,3-2,43 g/cm3
Tinh thể gibbsite có cấu trúc lớp, trong mỗi lớp bao gồm 2 phiến từ các ion OH-
nằm trên mặt phẳng song song , ở giữa chúng là các phiến của ion nhôm. Do có
sự bố trí trên cùng một mặt phẳng nên hình thành mạng lưới lục giác, tạo thành
bởi các nhóm OH- . Ion nhôm nằm ở trung tâm của hình lục giác.
Trong mạng tinh thể của Gibbsite các ion nhôm chỉ có trong 2/3 số thể tích lục
giác . mỗi một sự lấp đầy hình lục giác trong không gian có một số sai lệch so với
cấu trúc bát diện hoàn hảo. Các bát diện nối với nhau bằng các đỉnh chung vào
một vòng 6 mặt với thành phần [Al(OH) 6]3-. Cấu trúc mạng tinh thể Gibbsite gồm
3 lớp từ tập hợp các vòng và các nhôm hydroxyt . trong 3 lớp ion OH- của lớp này
nằm đối diện lớp kia . Giữa các lớp được nối với nhau bằng liên kết OH- .Trong
mạng lưới tinh thể của Gibbsite xuất hiện các tinh thể bó chặt trong các vòng từ
các bát diện [Al(OH) 6]3- .

Hình 1.1. Mô hình cấu trúc Gibbsite


1.1.3.2. Nhôm hydroxyt dạng Bayerite
Bayerite là một khoáng chất chủ yếu được điều chế nhân tạo.

Các phương pháp điều chế Bayerit: Từ dung dịch muối nhôm khi pH= 10,0- 11,5. Sục
CO2 vào dung dịch aluminat có nồng độ đến 200g/lít Al2O3 trong điều kiện nhiệt độ
phòng.
Tự phân hủy dung dịch aluminat không có mầm tinh thể trong điều kiện nhiệt độ
phòng.
Khi thủy phân nhôm hỗn hống hóa trong nước dẫn điện ở điều kiện nhiệt độ phòng.
Chế biến thủy nhiệt Gibbisit trong nồi áp lực, dưới áp lực của không khí hoặc CO2 ở
nhiệt độ 100-105oC.

Thành phần hóa học của Bayerite : β -Al(OH)3


Khối lượng riêng : 2,48-2,53 g/cm3
Bayerite cũng như Gibbsite , có cấu trúc 3 lớp và kết tinh ở hệ lục giác.

Trong cấu trúc Bayerite , các nguyên tử của lớp thứ ba phân bố trên các nguyên tử của
lớp thứ nhất giống như trong mạng tinh thể của oxit titan.
Một số tài liệu khẳng định rằng, Bayerite có đồng thời nhiều mối liên hệ với cấu tạo
Gibbsite . Tuy vậy, lớp bát diện trong cấu trúc tinh thể của Bayerite phân bố khác
trong Gibbsite. Trong cấu trúc Bayerite 1/3 tinh thể của bát diện do cation Al3+ chiếm,
còn lại là 1/3 ô trống.

Hình 1.2. Cấu trúc Bayerite và cấu trúc lớp Bayerite.


1.1.1.3. Nhôm hydroxyt dạng Nordstrandite

- Nordstrandite được Van Nordstrandit cùng với một số tác giả khác phát hiện ra.
Ngày nay, có rất nhiều phương pháp điều chế Nordstrandite tinh khiết. Trong mọi
phương pháp điều chế Nordstrandite đều thu được nhôm hiđrôxit dạng gel, bằng cách
bão hòa với sự có mặt của các tác nhân tạo chelat như: etylen diamin, etylenglycol,…
- Trộn NH3 vào dung dịch nitrat nhôm thu được sản phẩm ở dạng huyền phù bằng
etylendiamin 70% ở 58oC trong 60 ngày. Sau đó, đem sản phẩm đi lọc rửa bằng nước
cất, sấy ở 50oC thu được Nordstrandite tinh khiết hoặc cho dung dịch amoniac có pH=
7- 9 tác dụng với muối nhôm ở nhiệt độ phòng. Sau phản ứng thu lấy kết tủa, rửa bằng
nước cất và tẩm bằng diamin alkilen. Sản phẩm đem đi ủ ở 60oC trong 10-60 ngày.
Hoặc cho NH3 tác dụng với nitrat nhôm, thu được thể gel. Đem hỗn hợp tạo thành đi
ngâm trong dung dịch EDTA ở nhiệt độ phòng trong 49 ngày.
- Nordstrandite có công thức: γ -Al(OH)3
- Nordstrandite có nhiều dạng tinh thể khác nhau: dạng phiến, dạng vẩy. Tinh thể
Nordstrandite khác biệt so với tinh thể Gibbsit là do sự vắng mặt của ion kim loại
trong mạng lưới tinh thể.
- Nordstrandite cũng như Bayerit và Gibbsit có cấu trúc lớp. Cấu trúc tinh thể của
Nordstrandite chiếu trên mặt phẳng( Hình 1.3).

Hình 1.3. Cấu trúc tinh thể Nordstrandite


1.1.1.4. Nhôm hydroxyt dạng Boehmite
- Thành phần Boehmite : γ -AlO(OH)
- Khối lượng riêng : 3,00-3,20 g/cm3
- Tinh thể Boehmite bao gồm những lớp kép dạng gợn sóng. Tại đỉnh các bát diện là
các nguyên tử oxi , còn ở tâm hình bát diện là các ion nhôm . Theo hướng trục x , các
khối bát diện được nối với nhau bằng cạnh. Theo hướng trục z, chúng nối với nhau
bằng các đỉnh hình bát diện ( hình 1.4 ) . Trong cấu trúc của Boehmite có hai loại
nguyên tử oxi điển hình:
+ Loại 1: các nguyên tử oxi được sắp xếp giữa các lớp và được chia thành 4 hình
bát diện .
+ Loại 2: các nguyên tử oxi được sắp xếp ở bên ngoài các lớp và chia thành 2 hình
bát diện.

Hình 1.4. Cấu trúc tinh thể Boehmite


1.1.1.5. Nhôm hydroxyt dạng Diaspor:
- Diaspor kết tinh gặp nhiều trong thiên nhiên, trong các dạng đất sét và quặng boxit.
- Thành phần hóa học của Diaspor : α -AlO(OH)
- Khối lượng riêng: 3,2-3,5 g/cm3.
- Tinh thể Diaspor dạng tấm , đôi khi có dạng hình kim hay dạng vẩy, phổ biến chúng
có hình dạng lăng trụ duỗi dài theo trục. Hình dạng tinh thể phụ thuộc vào nhiệt độ, độ
bão hòa của môi trường và tốc độ kết tinh.
Hình 1.5. Hình dáng tinh thể diaspora
Trong cấu trúc tinh thể Diaspor mỗi một nguyên tử oxi được liên kết chặt chẽ hơn với
một nguyên tử hydro, phù hợp với công thức AlO(OH) của Diaspor, trong Diaspor các
nguyên tử oxi được nối với nhau bằng liên kết hydro.
1.1.1.7. Nhôm hydroxyt dạng Tohdite
- Nhôm hydroxyt dạng Tohdite có công thức : 5AL2O3.H2O
- Dạng Tohdite bị giải hydrat nhiều nhất trong 6 loại cấu trúc của nhôm hdroxyt.
1.1.1.8. Động học quá trình hòa tan nhôm hydroxyt
Quá trình hòa tan nhôm hiđrôxit trong axit là quá trình dị thể. Phản ứng hóa học
thường chỉ là một trong những giai đoạn của quá trình chuyển pha và được diễn ra
trong thể tích một pha còn chất kia ở pha khác khuếch tán tới.
Khả năng phản ứng của Al(OH)3 với axit có liên quan tới cấu trúc và trạng thái
năng lượng của các hạt trong mạng tinh thể. Các chất có nhiều dạng thù hình khác
nhau thì khả năng phản ứng cũng khác nhau. Trong trạng thái kết tinh của hạt rắn có
các chỗ khuyết tật, ở vị trí khuyết tật thì khả năng phản ứng cao hơn so với vị trí khác,
nếu nồng độ khuyết tật tăng thì khả năng phản ứng tăng. Mật độ khuyết tật có thể tăng
bằng cách tăng nhiệt độ. Mặt khác, khi số hạt ở các cạnh và đỉnh tinh thể tăng thì khả
năng phản ứng cũng tăng vì vậy cần phải tăng độ mịn của tinh thể. Từ các công trình
nghiên cứu động học quá trình hòa tan đã đưa ra một số mô hình động học cho phản
ứng. Đối với quá trình hòa tan Al(OH)3 hoàn toàn có thể dựa vào các mô hình đó để
giải quyết các vấn đề về động học.
Tốc độ hòa tan Al(OH)3 được tính bằng lượng chất chuyển vào dung dịch sau
sau một đơn vị thời gian
Các yếu tố ảnh hưởng đến động học quá trình là: độ mịn và bản chất hạt rắn,
tốc độ khuấy trộn, nhiệt độ phản ứng, tiêu chuẩn và nồng độ axit.
Quá trình hòa tan gồm nhiều giai đoạn nối tiếp nhau. Nên các yếu tố trên ảnh
hưởng rất nhiều tới quá trình phân hủy.
- Chuyển chất từ vùng khác đến vùng phản ứng
- Biến đổi hóa học tại vùng phản ứng
- Chuyển sản phẩm ra khỏi vùng phản ứng

1.2. Tình hình Al(OH)3 trên thế giới và Việt Nam


1.2.1. Tình hình Al(OH)3 trên thế giới , ngành công nghiệp nhôm qua các năm trên thế
giới
- Trên thế giới hiện nay, phần lớn nhôm hydroxyt được sử dụng làm nguyên liệu để
sản xuất nhôm oxit và nhôm kim loại phục vụ cho các nhu cầu công nghiệp khác
nhau. Mặc dù tổng sản lượng và tính đa dụng của nhôm còn thấp so với thép nhưng
đứng đầu trong sổ các kim loại màu được sản xuất. Lượng tiêu thụ nhôm thường bằng
khoảng (3 – 5) % lượng tiêu thụ thép (tuỳ thuộc mức độ phát triển công nghiệp của
từng nước) và tỷ lệ ấy có xu hướng ngày càng tăng.
- Năm 2001 Mỹ đứng đầu thế giới về sản lượng nhôm, tuy nhiên đến năm 2004 đã
giảm xuống vị trí thứ 4, sau Trung Quốc, Nga và Canada. Mỹ hiện nay có bốn nhà
máy alumin, công suất (0,6 – 2,3) triệu tấn/năm. Năm 2004 cả 4 nhà máy đều hoạt
động với 100% công suất và sản xuất được 5,75 triệu tấn alumin. Số nhà máy điện
phân nhôm ở Mỹ là 23 với tổng công suất 4,160 triệu tấn/năm.

- Năm 2004 chỉ có 14 nhà máy hoạt động (các nhà máy khác ngừng hoạt động do
xây dựng đã lâu, công suất nhỏ, kém hiệu quả…). Công suất các nhà máy đang hoạt
động từ 123.300 ngàn tấn/năm. Tổng sản lượng nhôm năm 2004 là 2,385 triệu tấn.
Toàn bộ quặng bauxit dùng cho sản xuất alumin ở Mỹ đều phải nhập khẩu. Năm 2004
nhập tổng cộng 10,6 triệu tấn, trong đó 36% từ Guinea; 35% từ Jamaica; 11% từ
Guyana, 10% từ Brazil…
- Tại Canada, mặc dù chỉ có 01 nhà máy alumin, với sản lượng 1,14 triệu tấn năm
2004 (đạt 100% công suất), nhưng có tới 11 nhà máy điện phân nhôm, với công suất
từ 50. 438 ngàn tấn/năm. Toàn bộ 11 nhà máy đều đang hoạt động và năm 2004 điện
phân được 2.766 triệu tấn nhôm (đạt 98,9% công suất). Cũng như Mỹ, Canada không
có quặng bauxit, nên phải nhập khẩu cả quặng bauxit và alumin. Năm
2004 Canada nhập khẩu gần 4 triệu tấn alumin, chỉ sau Trung Quốc.

- Châu Âu có 11 nhà máy alumin, công suất từ 0,2 – 1,4 triệu tấn/năm, tổng công
suất 7,44 triệu tấn. Năm 2004 có 9 nhà máy hoạt động, sản xuất ra 6,09 triệu tấn
alumin. Châu Âu có 39 nhà máy điện phân nhôm, công suất từ 11.360 nghìn tấn nhôm
thỏi/ năm, với tổng công suất 5.142 triệu tấn. Năm 2004 có 37 nhà máy hoạt động,
điện phân được 5.073 triệu tấn nhôm. Các nước châu Âu nhập khẩu cả quặng bauxit
và alumin, tại châu lục này chỉ duy nhất có Hy Lạp khai thác được 2,4 triệu tấn bauxit
vào năm 2004.

- Ngành công nghiệp nhôm ở  Nga phát triển khá sớm (phục vụ quốc phòng). Hiện
Nga và các nước Cộng hoà thuộc Liên Xô có 9 nhà máy alumin (Nga: 6, Ucraina: 2 và
Azebaiian: 1), công suất (0,16 – 1,47) triệu tấn/năm, tổng cống suất 6,91 triệu tấn.
Năm 2004 sáu nhà máy này sản xuất được 6,61 triệu tấn, trong đó các nhà máy của
Nga sản xuất 4,75 triệu tấn (đạt 100% công suất). Nga và các nước Cộng hoà thuộc
Liên Xô có 14 nhà máy điện phân nhôm (Nga: 11), công suất từ 30.956 ngàn tấn/năm,
tổng công suất 4,264 triệu tấn/năm (Nga: 3,602 triệu tấn). Nga có 3 mỏ quặng bauxit
và 1 mỏ quặng Nefelin cũng dùng cho sản xuất alumin. Hiện Nga phải nhập khẩu
quặng bauxit từ Châu Phi và nhập khẩu cả alumin, nhôm sản xuất ra chủ yếu xuất
khẩu do giá điện ở Nga rẻ.
- Năm 2004 Austraylia khai thác 56,0 triệu tấn bauxit, sản xuất 18,25 triệu tấn
alumin và điện phân được 1,926 triệu tấn nhôm. Đặc biệt nổi bật của ngành công
nghiệp nhôm ở Australia là các mỏ bauxit, nhà máy alumin và điện phân nhôm đề có
công suất rất lớn. Australia có 5 mỏ bauxit công suất (6,5 – 19) triệu tấn/năm, 7 nhà
máy alumin công suất (1,4 – 3, 75) triệu tấn/năm, và 6 nhà máy điện phân nhôm công
suất (165 – 540) ngàn tấn/năm. Tất cả các nhà máy alumin và điện phân nhôm
ở Australia hiện đều đang hoạt động với 100% công suất. Alumin sản xuất
ở Australia có giá thành thấp nhất thế giới, khoảng 80% dùng cho xuất khẩu.

- Châu Mỹ La tinh có nguồn quặng bauxit rất lớn. Tại châu lục này hiện có 12 nhà
máy alumin, trong đó có 11 nhà máy đang hoạt động, công suất (0,13 – 2,38) triệu
tấn/năm, với tổng công suất 13,51 triệu tấn. Năm 2004 sản lượng alumin 12,47 triệu
tấn. Riêng tại Brazin có tới 7 nhà máy alumin, năm 2004 sản xuất 4,70 triệu tấn (đạt
99,8% công suất). Số lượng nhà máy điện phân nhôm ở Mỹ La tinh là 11, công suất từ
49 – 440 ngàn tấn năm, tổng công suất 2,488 triệu tấn. Năm 2004 có 10 nhà máy hoạt
động với sản lượng 2,439 triệu tấn, trong đó riêng tại Brazin có 7 nhà máy với sản
lượng 1,517 triệu tấn.

- Châu Phi có nguồn quặng bauxit lớn nhưng hiện chỉ có 01 nhà máy alumin ở
Gainea, năm 2004 sản xuất được 0,73 triệu tấn (đạt 100% công suất). Tại Châu Phi có
7 nhà máy điện phân nhôm, công suất khá lớn: (95 – 685) ngàn tấn/năm, tổng công
suất 2,176 triệu tấn năm. Năm 2004 có 5 nhà máy hoạt động, điện phân được 1,749
triệu tấn nhôm.

- Ấn Độ có 6 nhà máy alumin, trừ nhà máy Damanjodi có công suất 1,58 triệu
tấn/năm, các nhà máy còn lại đều có công suất nhỏ và rất nhỏ: 0,08 – 0,11; 0,22 – 0,38
và 0,60 triệu tấn/năm. Năm 2004 cả 6 nhà máy đều hoạt động và sản xuất được 2,97
triệu tấn alumin (đạt 100% công suất). Ấn Độ có 6 nhà máy điện phân nhôm, công
suất (13 – 345) ngàn tấn/năm, tổng công suất 0,897 triệu tấn/năm. Năm 2004 nhà máy
Alpuram/Alwye công suất 13 ngàn tấn/năm đóng cửa. 5 nhà máy còn lại đều hoạt
động với 100% công suất, sản xuất được 0,884 triệu tấn nhôm.

- Năm 2004 Ấn Độ khai thác 10,0 triệu tấn bauxit, một phần dùng xuất khẩu.

Indonesia có một nhà máy điện phân nhôm, năm 2004 sản xuất được 0,24 triệu tấn
nhôm (đạt 100% công suất).

Khu vực Trung Đông có 2 nhà máy  alumin công suất 0,17 và 0,20 triệu tấn/năm,
năm 2004 sản xuất 0,37 triệu tấn. Khu vực này có 6 nhà máy điện phân nhôm, công
suất (34 – 830) ngàn tấn/năm, tổng công suất 1,838 triệu tấn/năm. Năm 2004 có 5 nhà
máy hoạt động đạt sản lượng 1,748 triệu tấn nhôm.
Năm 2004 Trung Quốc đã có 10 nhà máy alumin, công suất (0,15 – 1,45) triệu
tấn/năm, tổng công suất 7,135 triệu tấn/năm, sản lượng khoảng 7,0 triệu tấn, đứng thứ
hai trên thế giới. Mặc dù vậy, năm 2004 Trung Quốc vẫn phải nhập tới 6,3 triệu tấn
(khoảng 90% từ Australia, 10% từ Ấn Độ), đứng đầu thế giới về nhập khẩu alumin.

Năm 2004 Trung Quốc sản xuất khoảng 6,5 triệu tấn nhôm, đứng đầu thế giới.
Năm 2004, Trung Quốc là nước xuất khẩu nhôm lớn thứ nhất Châu Á, khoảng trên 1
triệu tấn, tăng 40% so với năm 2003.

Một đặc điểm nổi bật của ngành công nghiệp nhôm là các mỏ bauxit, nhà máy
alumin và điện phân nhôm lớn trên thế giới thuộc sở hữu của các tập đoàn đa quốc
gia. Các tập đoàn này nắm giữ kỹ thuật, công nghệ, thị trường và luôn tìm cách bảo vệ
thị trường của mình. Năm 2004, 10 tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này sản
xuất 55,4% sản lượng nhôm thế giới. Cụ thể như sau (triệu tấn): Alcoa (Mỹ
- Australia): 3,729; Alcan (Canada): 3,453; Rusal (Nga): 2,595; Hydro: 1,644;
Chinalco Group (Trung Quốc): 1,477; Billiton (Anh – Australia): 1,332; Sual: 0,912;
Comalco: 0,818; Du Bai (Ấn Độ): 0,683; Century Al: 0,613. Sản lượng alumin của
các tập đoàn đa quốc gia lớn năm 2003 (triệu tấn): Alcoa 14,0; Chalco (Trung Quốc):
5,8; Alcan: 4,3; Billiton: 4,0…

Nguồn khai thác và sản xuất cho ngành công nghiệp nhôm chủ yếu trên thế giới là
quặng bauxite .

Bauxit được khai thác đầu tiên ở Guyana trong thời gian 1897-1910

Đến năm 1950, trữ lượng bauxite trên thế giới khoảng 1605,3 triệu tấn phân bố trên 27
quốc gia. 61,9% trong số đó phân bố tập trung ở 4 quốc gia gồm: Jamaica (20%),
Hungary (15,6%), Ghana (14,3%) và Brazil (12%)

Năm 2007, Australia đứng đầu danh sách các nước khai thác bauxit và chiếm một
phần ba lượng khai thác của cả thế giới; theo sau là Trung quốc, Brazil, Guinea, và
Jamaica. Mặc dù nhu cầu nhôm của thế giới tăng, trữ lượng được biết là đủ để đáp
ứng nhu cầu trong một thời gian dài nữa. Việc tái sử dụng nhôm với lợi thế là chi phí
sản xuất hạ giúp kéo dài thời gian khai thác trữ lượng bauxite.
Tùy theo kiểu quặng mà người ta dùng những phương pháp khác nhau. Ví dụ như ở
châu Âu, bauxít thường được khai thác theo kiểu lộ thiên theo địa tầng, thường nằm
cách mặt đất 4-6m. Trong hầu hết các trường hợp thì đất phủ được bóc đi và chứa ở
bãi chứa. Khoảng 80% sản lượng bauxít trên thế giới được khai thác theo phương
pháp lộ thiên.

1.2.2. Tình hình Al(OH)3 ở Việt Nam, công nghiệp nhôm tại Việt Nam.

Việt Nam là một trong những nước có tiềm năng lớn về quặng bauxit trong khu vực
và trên thế giới. Bauxit nước ta có cả ở miền Bắc và miền Nam nhưng tập trung lớn
nhất là ở cao nguyên Nam Trung Bộ. Tuy vậy, Việt Nam chưa có nền công nghiệp
khai thác bauxit, sản xuất alumin và nhôm. Hiện nay, tất cả nhôm và các vật liệu
nhôm đang phải nhập từ nước ngoài với khối lượng lớn và sẽ tăng nhanh trong những
năm tới theo yêu cầu sử dụng. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng ngành công nghiệp khai
thác bauxit, sản xuất hydroxyt nhôm, alumin và nhôm là cần thiết và sẽ là một mục
tiêu kinh tế - xã hội lớn của đất nước. 

Tình hình sản xuất nhôm ngành công nghiệp nhôm nói chung và hydroxyt nhôm
nói riêng hiện nay ở Việt Nam là một vấn đề đang được hết sức coi trọng, nhiều ngành
công nghiệp trực tiếp sử dụng nhôm để phục vụ nhu cầu phát triển. Do vậy, nhà nước
đang trong giai đoạn đưa ra các phương án để sản xuất nhôm trong thời gian tới.

Ngày 10/2/2014, Bộ Công thương đã cho phép Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ -
Luyện kim thực hiện đề tài: “Nghiên cứu công nghệ sản xuất nhôm hydroxit và
alumin siêu mịn” để lựa chọn công nghệ phù hợp với nguồn nguyên liệu và định
hướng phát triển công nghiệp sản xuất alumin của Việt Nam. 

Từ những kết quả thí nghiệm nghiên cứu sản xuất nhôm hydroxit và alumin siêu mịn
đã có những kết luận sau:
- Đã lựa chọn được phương pháp sản xuất nhôm hydroxit và alumin siêu mịn là
phương pháp kiềm, dựa trên công nghệ Bayer, từ nguyên liệu ban đầu là nhôm
hydroxit của nhà máy alumin Tân Rai.
- Đã tiến hành thí nghiệm khảo sát chế độ hòa tách. Chế độ công nghệ của quá trình
hòa tách như sau: nhiệt độ 90oC, thời gian 2h; tỷ lệ R/L: 1/5, nồng độ dung dịch kiềm:
200 g/l.
- Đã tiến hành thí nghiệm khảo sát chế độ khuấy phân hóa dung dịch natri aluminat và
thu được sản phẩm nhôm hydroxit siêu mịn. Chế độ công nghệ của quá trình khuấy
như sau: tỷ số mầm: 0,5; nhiệt độ 30oC, thời gian 30h, nồng độ dung dịch 120g/l.
Chất lượng nhôm hydroxit đạt Fe2O3 ≤ 0,01%; SiO2 gần bằng 0,05%; MKN xấp xỉ
1,1%, kích thước hạt trung bình 2,8 µm.
- Đã ứng dụng thử nghiệm thành công trên mẫu thử áo giáp chống đạn do Viện Công
nghệ , Tổng cục Công nghiệp quốc phòng thực hiện, đạt các yêu cầu về tính năng sử
dụng.

Nguyên liệu của đề tài nghiên cứu là nhôm hydroxit sản xuất từ bauxite theo quy trình
Bayer. Để giảm bớt các công đoạn chế biến, nâng cao hiệu quả kinh tế, các tác giả đề
nghị được nghiên cứu sản xuất nhôm hydroxit và alumin siêu mịn trực tiếp từ dung
dịch natri aluminat sau quá trình hòa tách bauxite của nhà máy sản xuất alumin tại
Việt Nam.

Ngoài ra , nhà nước chú trọng đầu tư và phát triển dự án nhà máy nhôm Nhân Cơ
cùng với Tân Rai để phát triển ngành công nghiệp nhôm nước ta.

Sở dĩ , nhà nước đầu tư phát triển công nghệ nhôm ở hai nhà máy Tân Rai và Nhân
Cơ vì đây là hai nhà máy nằm tại nơi có quặng nhôm hydroxyt lớn, thuận lợi cho việc
tinh chế nhôm hydroxyt.

Mặc dù có thể sản xuất từ quặng bauxite , tuy nhiên hàm lượng Al(OH)3 thu được
còn thấp vì công nghệ sản xuất nước ta còn yếu kém, chưa phát triển. Bên cạnh đó,
nguyên nhân chính là hàm lượng Al(OH)3 trong quặng bauxite thấp ( khoảng 50% ) ,
còn quặng Tân Rai hay Nhân Cơ thì hàm lượng Al(OH)3 trong quặng chiếm đến hơn
90%.

1.3.Ứng dụng của Al(OH)3

Sản lượng sản xuất hàng năm trong năm 2015 là khoảng 170 triệu tấn, hơn 90% trong
số đó được chuyển đổi thành oxit nhôm (alumina) được sử dụng trong sản xuất nhôm
kim loại.

Việc sử dụng lớn khác của nhôm hydroxit là làm nguyên liệu để sản xuất các hợp chất
nhôm khác:. Đặc nung aluminas, nhôm sulfat, polyaluminium clorua, nhôm clorua,
zeolit, natri aluminat, nhôm kích hoạt, nhôm nitrat.

Nhôm mới kết tủa dạng hydroxit gel, đó là cơ sở cho việc áp dụng các muối nhôm như
kết tủa trong xử lý nước. gel này kết tinh với thời gian. gel nhôm hydroxit có thể được
khử nước (ví dụ sử dụng nước có thể trộn với dung môi không chứa nước như
ethanol) để tạo thành một dạng bột nhôm hydroxit vô định hình, đó là dễ dàng hòa tan
trong axit. Bột hydroxit nhôm đã được đun nóng đến nhiệt độ cao trong điều kiện
kiểm soát cẩn thận được gọi là alumina kích hoạt và được sử dụng như một chất làm
khô, như một chất hấp phụ trong thanh lọc khí, như một sự hỗ trợ xúc tác Claus để lọc
nước, và như một chất hấp phụ cho chất xúc tác trong khi sản xuất polyethylene bởi
quá trình Sclairtech.

Nhôm hydroxit cũng tìm thấy sử dụng như một chất độn chống cháy cho các ứng
dụng polymer trong một cách tương tự như magiê hydroxide và hỗn hợp
của huntite và hydromagnesite Nó phân hủy khoảng 180 °C (356 °F), hấp thụ một
lượng đáng kể nhiệt trong quá trình và tỏa ra hơi nước. Ngoài vai trò là một chất làm
chậm cháy, nó rất hiệu quả như một thuốc giảm khói trong một loạt các polyme, đặc
biệt nhất trong polyeste, acrylics, ethylene vinyl acetate, epoxy, nhựa PVC và cao su.

Tuy nhiên , ứng dụng chính của nhôm hydroxit là nguyên liệu để sản xuất nhôm oxit
và nhôm kim loại , phục vụ cho các ngành công nghiệp khác.

Ví dụ như sản xuất Al2O3 phục vụ cho ngành gốm sứ, được dùng để đánh bóng , mài
mòn. Với độ cứng cao nên bột oxit nhôm được dùng để sản xuất đá mài, vật liệu mài
mòn, phun , khắc bia mộ. Ngoài ra còn có ứng dụng làm vật liệu chịu lửa , chịu nhiệt.

2. Các phương pháp tinh chế nhôm hydroxyt

2.1. Phương pháp kết tủa

Gồm 2 phương pháp sau:

Phương pháp axit :

Phương pháp này đi từ tác chất ban đầu là dung dịch acid và dung dịch aluminat theo
tỉ lệ phù hợp. Acid thường dùng là H2SO4 hay HNO3. Tùy theo pH của môi trường
phản ứng mà ta thu được nhôm hydroxid có các dạng thù hình khác nhau.
[Al(OH)4]- + H+ → Al(OH)3↓ + H2O
[Al(OH)4]- + H+ → AlOOH↓ + 2 H2O
Phương pháp bazo
Phương pháp này đi từ tác chất ban đầu là dung dịch muối nhôm sulfat, nitrat, … và
dung dịch base theo tỉ lệ phù hợp. Tùy theo pH của môi trường phản ứng mà ta thu
được nhôm hydroxid có các dạng thù hình khác nhau.
Al3+ + 3OH- → Al(OH)3↓
Al3+ + 3OH- → AlOOH↓ + H2O
2.2. Phương pháp điều chế thủy nhiệt theo chu trình Bayer
Chu trình Bayer gồm 3 giai đoạn: nấu chảy , lọc gạn, kết tủa.
Giai đoạn nấu chảy
Quặng bauxite được nghiền và hòa tan bằng dung dịch NaOH, sau đó được bơm vào
thùng, sau đó đun nóng ở áp suất cao. Dung dịch NaOH phản ứng với khoáng nhôm
bauxite tạo thành dung dịch natri aluminat bão hòa, phần cặn không tan được gọi là
bùn đỏ, tồn tại dạng huyền phù và sẽ được lọc bỏ trong quá trình lọc gạn.
Giai đoạn lọc gạn
Sau khi nấu chảy, hỗn hợp được đưa qua một chuỗi các thùng giảm áp để đạt được áp
suất cân bằng với áp suất khí quyển. Sau khi loại bỏ bùn đỏ không tan khỏi dung dịch
aluminat, dung dịch lọc được làm lạnh để tăng độ quá bão hoà và được bơm vào thiết
bị kết tủa.
Giai đoạn kết tủa
Một lượng mầm tinh thể gibbsite mịn được cho vào dung dịch để đẩy nhanh quá trình
kết tinh. Các tinh thể mầm có ái lực với những tinh thể khác và hình thành nên những
khối kết tụ. Sản phẩm được lọc và rửa sạch để loại bỏ hết kiềm.
2.3. Phương pháp sol-gel
Nhôm oxid aerogel thường được điều chế bằng phương pháp sol-gel thông qua quá
trình thủy phân và ngưng tụ của nhôm alkoxid như s-butoxid, acetylacetonat. Tính
chất của aerogel thu được ở nhiệt độ cao có dạng vi cấu trúc ổn định, diện tích bề mặt
lớn, độ xốp hở cao, tổng thể tích lỗ xốp lớn. Diện tích bề mặt của arogel sau khi làm
khô siêu tới hạn nằm trong khoảng 240-700 m2/g. Phương pháp sol-gel điều chế được
nhôm oxid có diện tích bề mặt lớn từ 100-400 m2/g, độ xốp cao, là vật liệu dẫn chịu
nhiệt cao hoặc xúc tác có cấu trúc bền cho phản ứng.
CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Phân tích mẫu nhôm hydroxyt Tân Rai:
Để nghiên cứu quá trình làm sạch trước tiên cần xác định thành phần và tạp chất có
trong bột hydroxit nhôm để nghiên cứu phương án làm sạch tốt nhất.
Thành phần của bột nhôm hydroxit ban đầu được cho ở bảng sau:
Bảng 1. Thành phần bột nhôm hydroxit ban đầu
Thành phần Al2O3 Na2O SiO2
Hàm lượng (%khối 94,6 5,29 0,145
lượng)
Qua bảng trên ta thấy mẫu bột thô nhôm hydroxit ban đầu là khá sạch, có
94,6% là oxit nhôm, còn tạp chất chủ yếu là Na 2O là 5,29%. Vì vậy cần tiến hành làm
sạch Na2O do sản phẩm α-Al2O3 dùng trong gốm cao cấp nên với hàm lượng SiO2 thấp
không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
Natri có trong bột nhôm có thể ở dạng bazo hoặc muối và tan trong nước nên
có thể sử dụng nước cất hoặc axit rất loãng để rửa sạch loại bỏ Natri. Trong nghiên
cứu này lựa chọn phương án nghiên cứu rửa bằng nước.
Do nhôm hydroxit cứng và khá trơ nên lựa chọn phương pháp hóa học bằng cách hòa
tan tạo muối rồi đem kết tủa lại.
2.2. Làm sạch nhôm hydroxyt Tân Rai
Trong nghiên cứu này lựa chọn phương án nghiên cứu là dùng nước cất để rửa, không
phải sử dụng hóa chất và không có chất thải axit ra môi trường.
Vì có thể trong nguyên liệu ban đầu sẽ có hiện tượng xâm nhiễm tạp chất vào sâu bên
trong nguyên liệu nên cần đập vỡ các hạt trước khi rửa để đạt hiệu suất làm sạch.
Ngoài ra trong quá trình hòa tách để tăng hiệu suất phản ứng cũng cần nghiền nguyên
liệu trước khi hòa tách, để tránh tạp chất ngoài môi trường quay lại nguyên liệu thì ưu
tiên nghiền trước khi rửa. Do nhôm có tính trơ và khá cứng nên sử dụng bi nghiền cao
nhôm để nghiền.
Hình 2.1. Nhôm hydroxyt Tân Rai sau khi nghiền bi
2.2.1. Dụng cụ, thiết bị
- Bình định mức 100 ml
- Cốc chịu nhiệt 250 ml
- Bình nón 250 ml
- Buret: 25 ml
- Phễu chiết
- Máy khuấy từ
- Phễu lọc
- Đũa thủy tinh
- Quả bóp cao su
- Giấy lọc
- Bình tia nước cất
- Găng tay cao su
- Cân phân tích
2.2.2. Hóa chất
- Dung dịch HCl 36.5% có d=1.18g/ml
- Pha loãng dung dịch HCl 36,5% thu được dung dịch HCl với các nồng độ 0.5N ,
15%, 20%, 25%, 30%.
- Dung dịch AgNO3
2.2.3. Cách tiến hành thí nghiệm
Al(OH)3

Nước cất
Nghiền ướt

H2O, HCl Làm sạch

Lọc rửa

Al(OH)3

Quy trình làm sạch Al(OH)3 nguyên liệu

Mẫu hydroxyt nghiên cứu là mẫu hydroxyt nhôm Tân Rai.

Cân 500 g nguyên liệu cho vào cối nghiền, thêm 125 ml nước cất và bi nghiền kích
thước 10 mm. Cho lên máy nghiền . Thực hiện nghiền trong 15h sau đó đem mẫu đi
lọc, sấy.

Cân 30g Al(OH)3 sau nghiền cho vào cốc 250 ml , thêm khoảng 300 ml nước cất đặt
lên máy khuấy từ khuấy trong 15 phút ở nhiệt độ thường , lọc rửa 5 lần. Kết thúc quá
trình khuấy đem lọc lấy phần rắn sau đó sấy khô . Phần rắn thu được đem đi phân tích
ICP.

Tương tự đối với làm sạch với mẫu Al(OH)3 không nghiền. Cân 30 g Al(OH)3 không
nghiền cho vào cốc 250 ml , thêm khoảng 300 ml nước cất đặt lên máy khuấy từ
khuấy trong 15 phút ở nhiệt độ thường, lọc rửa như trên 5 lần. Sau quá trình khuấy ,
đem lọc thu được phần rắn sấy khô. Đem phần rắn đi đo ICP xác định thành phần .

Các phản ứng có thể xảy ra trong quá trình:

Na2O + H2O => 2 NaOH

2 NaOH + SiO2 => Na2SiO3 + H2O

CaO + H2O => Ca(OH)2


2.3.4. Phương pháp phân tích ICP

* Cấu tạo và nguyên tắc hoạt động:

Hệ thống ICP-MS bao gồm một nguồn ICP (nguồn cảm ứng cao tần plasma) nhiệt độ
cao và một khối phổ kế. Nguồn ICP chuyển các nguyên tử của nguyên tố trong mẫu
thành các ion. Sau đó, nhưng ion này được phân tách và phát hiện bằng thiết bị khối
phổ.

Hình 2.2. Đuốc ICP cho thấy sự biến đổi của mẫu (PerkinElmer, Inc.)

Hình 1 biểu diễn sơ đồ của nguồn ICP trong hệ thống ICP-MS. Khí Argon được bơm
qua rãnh đồng tâm của đuốc ICP. Cuộn cao tần RF được nối với một bộ phát cao tần
(RF). Khi dòng điện được cấp cho cuộn cao tần từ bộ phát cao tần, dao động điện
trường và từ trường sẽ được tạo thành ở cuối đuốc ICP. Khi dòng khí argon được đánh
lửa qua đuốc ICP, các điện tử sẽ được tách khỏi nguyên tử Argon, để tạo thành ion
Argon. Những ion này bị bắt lại trong các trường dao động và va chạm với các
nguyên tử Argon khác tạo thành plasma.

Mẫu được đưa vào đuốc plasma ICP dưới dạng sol khí bằng cách hút mẫu lỏng hoặc
rắn hòa tan vào ống phun hoặc sử dụng laser để chuyển trực tiếp mẫu rắn thành dạng
sol khí. Khi mẫu dưới dạng sol khí được đưa vào đuốc ICP, mẫu sẽ bị đề solvat và các
nguyên tố trong sol khí sẽ được chuyển thành các nguyên tử khí rồi được ion hóa tại
phần cuối của đuốc plasma.

Khi các nguyên tố trong mẫu được chuyển thành các ion, những ion này được đưa vào
thiết bị khối phổ qua vùng trung gian hình nón. Vùng này trong thiết bị ICP-MS
chuyển các ion trong dòng mẫu argon ở áp suất không khí (1 – 2 torr) vào vùng có áp
suất thấp (<10 x 10-5 torr) của thiết bị khối phổ. Hiện tượng này xảy ra trong vùng
chân không trung gian được tạo bởi 2 nón trung gian, là nón thu và nón tách (xem
Hình 2). Nón thu và nón tách là 2 đĩa kim loại có một lỗ nhỏ (~1mm) ở trung tâm.
Những đĩa này có tác dụng gom phần lõi của chùm ion phát ra từ đuốc ICP. Một
gương chắn tối màu (xem Hình 2) hoặc thiết bị tương tự sẽ ngăn các photon phát ra từ
đuốc ICP, cũng là một nguồn sáng mạnh.

Hình 2.3 Vùng trung gian của thiết bị ICP-MS (PerkinElmer, Inc.)

Do lỗ của nón thu và nón tách có đường kính nhỏ, ICP-MS có một số hạn chế về tổng
lượng chất rắn hòa tan trong mẫu. Nói chung, mẫu chỉ nên chứa không quá 0,2% tổng
chất rắn hòa tan (TDS) để thiết bị có thể hoạt động tốt và ổn định nhất. Nếu chạy các
mẫu có hàm lượng TDS quá lớn, các lỗ xuyên tâm của nón sẽ bị tắc, làm giảm độ
nhạy và khả năng phát hiện dẫn đến việc phải ngừng hệ thống để bảo trì. Đây là lý do
tại sao nhiều loại mẫu, bao gồm các mẫu đất và đá sau khi phá mẫu vẫn cần được pha
loãng trước khi đưa vào chạy trên hệ thống ICP-MS.
Các ion từ nguồn ICP sau đó được hội tụ lại bởi các thấu kính tĩnh điện trong hệ
thống. Lưu ý, các ion đi ra từ hệ thống mang điện tích dương, nên các thấu kính tĩnh
điện, cũng mang điện tích dương, có tác dụng chuẩn trực chùm ion và hội tụ vào khe
hoặc lỗ nhận của thiết bị khối phổ. Các hệ thống ICP-MS khác nhau có các hệ thống
thấu kính khác nhau. Hệ thống đơn giản nhất có một thấu kính đơn, còn các hệ thống
phức tạp hơn có thể có đến 12 thấu kính ion. Mỗi hệ thống quang ion được thiết kế
riêng để hoạt động với một hệ thống khối phổ và bộ phận kết nối khác nhau.

Khi các ion đi vào thiết bị khối phổ, chúng được phân tách theo tỷ lệ khối lượng –
điện tích (m/z). Loại thiết bị khối phổ phổ thông nhất là bộ lọc khối tứ cực
quadrupole. Thiết bị này có 4 thanh (đường kính khoảng 1cm và dài khoảng 15 –
20cm) được bố trí như trong Hình 3. Trong bộ lọc khối tứ cực, điện thế một chiều và
xoay chiều được áp vào xen kẽ cho các cặp đối diện của các thanh này. Điện áp này
sau đó nhanh chóng được chuyển dọc theo một trường RF, tạo ra một trường lọc tĩnh
điện chỉ cho các ion có cùng tỷ lệ khối lượng – điện tích (m/e) đi qua các thanh này tới
đầu dò tại thời điểm tức thời. Như vậy, bộ lọc khối tứ cực thực ra là một bộ lọc nối
tiếp, có khả năng điều chỉnh cho mỗi tỷ lệ m/e tại một thời điểm. Tuy nhiên, điện áp
trên các thanh có thể được chuyển với tốc độ rất nhanh. Kết quả là bộ lọc khối tứ cực
có thể phân tách đến 2.400 amu (đơn vị khối lượng nguyên tử) trong một giây. Tốc độ
này giải thích cho việc hệ thống ICP-MS tứ cực thường được coi là có khả năng phân
tích đồng thời nhiều nguyên tố. Khả năng lọc ion dựa trên tỷ lệ khối lượng – điện tích
cho phép ICP-MS cho ra các kết quả của đồng vị vì các đồng vị khác nhau của cùng
một nguyên tố có các khối lượng khác nhau

Hình 2.4.. Sơ đồ bộ lọc khối tứ cực (PerkinElmer, Inc.)

Khối phổ tứ cực điển hình dùng trong ICP-MS có độ phân giải từ 0,7 – 1,0amu. Độ
phân giải này là đủ cho các ứng dụng thông thường. Tuy nhiên, có một số trường hợp
độ phân giải này không đủ để phân tách các phân tử giao thoa nhau hoặc nhiễu đồng
vị của các đồng vị của nguyên tố đang phân tích. Bảng 1 chỉ ra một số nhiễu phổ biến
gây khó khăn khi phân tích siêu vết của nhiều nguyên tố quan trọng, đặc biệt là trong
chất nền cụ thể. Độ phân giải (R) của một thiết bị khối phổ được tính theo công thức R
= m/(ǀm1 – m2ǀ) = m/∆m, trong đó m1 là khối lượng của một loại hoặc đồng vị, m2 là
khối lượng của thành phần hoặc đồng vị cần phân tách, m là khối lượng phân tử.

2.4. Hòa tách nhôm hydroxyt Tân Rai

Mục đích của quá trình làm sạch là loại bỏ tạp chất và hạn chế hòa tan nguyên liệu
nên cần thời gian rửa ngắn ở nhiệt độ thường. Còn mục đích hòa tách là cần hiệu suất
hòa tách cao nên cần khảo sát nồng độ và nhiệt độ hòa tách.

2.3.1. Dụng cụ, thiết bị

- Bình định mức 100 ml.

- Cốc chịu nhiệt 250 ml

- Bình nón 250 ml

- Buret 25ml

- Phễu lọc hút chân không

- Máy khuấy từ

- Đũa thủy tinh

- Quả bóp cao su

- Giấy lọc đường kính 11 cm

- Bình tia nước cất

- Găng tay cao su

- Cân phân tích

- Pipet 10 ml

2.3.2. Hóa chất


- Dung dịch HCl 36.5%

- Pha loãng dung dịch HCl 36,5 % thành các dung dịch có nồng độ 30%, 25%,
20%,15%.

- Dung dịch NaOH chuẩn 0,1 N .

- Chuẩn bị mẫu Al(OH)3 rửa bằng dung dịch HCl sau đó rửa lần thứ 2 bằng dung dịch
CH3COOH , lọc rửa nhiều lần và kiểm tra Cl- bằng dung dịch AgNO3 , sau đó lọc lần
cuối và đem sấy khô. Sau sấy khô đem nghiền nhỏ và làm nguyên liệu để chuẩn bị cho
quá trình hòa tách.

2.3.3. Cách tiến hành thí nghiệm

Al(OH)3 sạch

HCl
Hòa tách

Lọc Bã

Dung dịch AlCl3

Cho 10 g hydroxyt nhôm đã làm sạch và nghiền nhỏ cho vào cốc chịu nhiệt 250 ml.
Thêm tiếp vào cốc V1 ( ml ) HCl nồng độ a% sau đó đặt lên máy khuấy từ, khuấy
trong 120 phút có đo nhiệt độ. Hỗn hợp sau khuấy đem đi lọc bằng máy lọc hút chân
không để thu lấy bã và phần dung dịch. Bã được đem đi sấy khô và cân để tính hiệu
suất.

Quá trình xảy ra phản ứng :

Al(OH)3 + 3HCl => AlCl3 + 3H2O

Trong quá trình thí nghiệm cần tìm một số điều kiện tối ưu cho quá trình hòa tách
nhằm đạt hiệu suất cao. Một số điều kiện tối ưu cần thiết :

- Nồng độ dung dịch axit hòa tách


- Nhiệt độ phản ứng hòa tách

2.3.4. Tính hiệu suất hòa tách

- Hiệu suất hòa tách được tính bằng công thức :

H = ( m Al(OH)3bd – m Al(OH)3 cl) / m Al(OH)3bd

Trong đó :

- m Al(OH)3bd là khối lượng Al(OH)3 mang đi hòa tách.

- m Al(OH)3 cl là khối lượng bã rắn sau khi hòa tách .

2.5. Tổng hợp Al2O3 từ phần dung dịch lọc thu được sau hòa tách

Để sản xuất Al2O3 ta sử dụng muối amoni cacbonat để tạo kết tủa với dung dịch muối
sau hòa tách . Sau đó nung ta sẽ thu được Al2O3.

2.5.1. Dụng cụ, thiết bị

- Bình định mức 100 ml.

- Cốc chịu nhiệt 250 ml

- Bình nón 250 ml

- Buret 25ml

- Vải lọc

- Máy khuấy từ

- Đũa thủy tinh

- Quả bóp cao su

- Giấy lọc đường kính 11 cm

- Bình tia nước cất

- Găng tay cao su

- Cân phân tích

- Pipet 10 ml

- Cối sứ
2.4.2. Hóa chất

- Dung dịch amoni cacbonat bão hòa và 2M

- Dung dịch AgNO3

- Nước cất 2 lần

2.4.3. Cách tiến hành:

Sử dụng tác nhân kết tủa nồng độ đặc bão hòa sẽ tạo ra nhiều mầm tinh thể và nhỏ, sử
dụng tác nhân kết tủa là dung dịch amoni cacbonat.

Dung dịch sau lọc trong quá trình hòa tách . Gia nhiệt dung dịch muối và khuấy đến
60-65 độ C . Dùng buret nhỏ từ từ dung dịch amoni cacbonat vào dung dịch muối và
tiếp tục khuấy đến pH = 6.5 - 7, thử bằng giấy đo pH. Sau đó già hóa kết tủa trong 2
giờ. Kết tủa thu được đem lọc rửa bằng nước cất 2 lần ấm , rửa sạch hết ion Cl- , kiểm
tra bằng cách nhỏ dung dịch AgNO3 không thấy xuất hiện kết tủa trắng thì có nghĩa in
Cl- đã rửa sạch hết. Do kết tủa tạo ra hạt nhỏ khó lọc hút chân không nên sử dụng vải
lọc để lọc kết tủa thu được. Kết tủa sau lọc rửa đem đi sấy ở 70-80 độ C đến khô.

Hình 2.5. Kết tủa thu được sau khi già hóa trong 2 giờ

Sau quá trình sấy kết tủa đóng thành miếng bánh lại với nhau, nếu đem đi nung sẽ
rất dễ tạo mảng cứng nên trước khi nung kết tủa sẽ được nghiền bằng cối sứ rồi
chuyển vào chén nung sạch nụng ở nhiệt độ 1000-1200 độ C trong 2 giờ.

Sơ đồ quá trình tổng hợp:


Dung dịch AlCl3

(NH4)2CO3
Trung hòa pH=6.5-7

(NH4)2CO3 Kết tủa

Lọc, rửa

Sấy

Nghiền

Nung

Al2O3

Thực nghiệm: Phòng thí nghiệm hóa vô cơ – Đại học Bách khoa Hà Nội
Hình 2.6. Kết tủa sau sấy khô được nghiền mịn để nung

Phương trình hóa học xảy ra :

AlCl3 + 2(NH4)2CO3 = NH4AlCO3(OH)2 + 3NH4Cl + 2H2O+ CO2


2NH4AlCO3(OH)2 = Al2O3 + 2NH3 + 2CO2 + 2H2O
CHƯƠNG 3 : KÉT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Nghiên cứu làm sạch nhôm hydroxyt Tân Rai bằng nước cất với nghiền và không
nghiền.

Quá trình làm thí nghiệm với tỉ lệ rắn lỏng là 1:10, nguyên liệu được đảo đều trong
dung dịch.

Thực hiện tiến hành thí nghiệm :

- Tỉ lệ rắn / lỏng là 1:10

- Thời gian lưu : 15 phút

- Tiến hành khảo sát kích thước hạt tới quá trình làm sạch

Bảng 2: Hàm lượng tạp chất trong quặng sau tinh chế ( đơn vi: mg/kg)

Na2O CaO SiO2 Fe2O3

Al(OH)3 Tân Rai 3776,6 793,8 342,9 405,7

Al(OH)3 sau rửa nước ( không nghiền) 2504,3 520,8 248,6 271,4

Al(OH)3 sau rửa nước ( có nghiền) 2164,6 386,4 141,4 40,0

Nhận xét: Dựa trên kết quả nhận được sau khi phân tích ICP , ta nhận thấy sau khi
làm sạch nhôm hydroxyt Tân Rai bằng nước cất có nghiền đem lại hiệu quả cao hơn
so với làm sạch bằng nước nhưng không nghiền. Do đó có thể kết luận được kích
thước hạt nhôm hydroxyt có ảnh hưởng đến quá trình làm sạch ban đầu của nó. Hàm
lượng Si trong quặng là rất ít nên nó có thể dễ dàng bị loại bỏ bởi nước.

Sau khi làm sạch nhôm hydroxyt bằng nước thì trong chất rắn thu được sau làm sạch
vẫn còn tạp chất Na và Ca cần loại bỏ. Do vậy ta tiếp tục sử dụng axit HCl và
CH3COOH loãng để làm sạch, nồng độ 0,5N . Tiến hành thí nghiệm ở nhiệt độ
thường. Ta sử dụng phần rắn sau làm sạch bằng axit để khảo sát quá trình hòa tách của
nhôm hydroxyt.

3.1.3. Nghiên cứu hòa tách nhôm hydroxyt bằng dung dịch HCl

Ngoài sử dụng axit HCl ta có thể sử dụng axit H2SO4 hay axit HNO3 . Tuy nhiên trong
quá trình làm chúng ta sử dụng axit HCl , hiệu suất tách của nhôm hydroxyt được tính
bằng khối lượng nhôm hydroxyt tan được trong dung dịch sau tách trên khối lượng
nhôm hydroxyt ban đầu . Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất hòa tách nhôm hydroxyt
lần lượt được khảo sát gồm có:

3.1.3.1. Khảo sát nhiệt độ của dung dịch axit tới khả năng hòa tách của nhôm
hydroxyt.

Lấy 10 g nhôm hydroxyt sau khi đã làm sạch bằng axit cho vào cốc 250 ml . Sau đó
thêm 40,7ml axit HCl 30% vào , dùng nhiệt kế để đo nhiệt độ. Ta khảo sát các nhiệt
độ 20 , 40 , 60 , 80 , 90 độ C . Đặt cốc chứa hỗn hợp lên máy khuấy từ và khuấy trong
15 phút. Sau đó sử dụng máy lọc lọc để thu dung dịch và phần bã rắn. Phần bã rắn
đem đi sấy và tính hiệu suất. Kết quả khảo sát được cho bởi bảng sau :

Bảng 3: Ảnh hưởng của nhiệt độ của dung dịch axit tới khả năng hòa tách của nhôm
hydroxyt.

Nhiệt độ ( độ C) 20 40 60 80 90

Khối lượng mẫu ban đầu 10,01 10,01 10,05 10,00 10,00
(g)

Khối lượng bã sau hòa tách 9,83 9,27 7,79 6,29 2,49
(g)

Hiệu suất tách ( % ) 1,8 7,4 22,5 37,1 75,1

Từ bảng trên ta xây dựng đồ thị quan hệ giữa nhiệt độ hòa tách và hiệu suất hòa tách:
Từ kết quả trên ta thấy nhiệt độ ảnh hưởng đến hiệu suất hòa tách, khi nhiệt độ tăng
thì hiệu suất hòa tăng. Do nhiệt độ tăng độ linh động của H + tăng dễ dàng phản ứng
hơn, nhiệt độ tăng làm cho tốc độ chuyển động của các phân tử tăng dẫn đến tần số va
chạm giữa các chất phản ứng tăng . Tần số va chạm có hiệu quả giữa các chất phản
ứng tăng nhanh. Đây chính là yếu tố làm tốc độ phản ứng tăng nhanh khi tăng nhiệt
độ.
Lựa chọn nhiệt độ tối ưu là 90oC do ở 100 – 115oC là nhiệt độ sôi của HCl, nếu thực
hiện ở nhiệt độ cao vừa tốn kém năng lượng, HCl bay hơi nhiều sẽ làm giảm hiệu suất
phản ứng.
3.1.3.2. Ảnh hưởng của nồng độ axit
Tiến hành khảo sát ở các nồng độ axit 15, 20, 25, 30 %.
Cân 10g bột nhôm hydroxit đã làm sạch, nghiền mịn vào cốc thủy tinh chịu
nhiệt 250ml, thêm HCl với các nồng độ khác nhau: 93,6 ml HCl 15%, 70,2ml HCl
20%, 46,90 ml HCl 25%, 40,7 ml HCl 30%. Đặt cốc lên máy khuấy từ , gia nhiệt đến
90-95oC, với thời gian khuấy là 15 phút. Kết thúc quá trình khuấy đem lọc, thu được
dung dịch muối và bã rắn nhôm hydroxit chưa phản ứng hết.
Phần bã đem sấy khô, cân ghi khối lượng và tính hiệu suất hòa tách.
Phần dung dịch muối đem chuẩn độ lượng axit dư và xác định nồng độ Al3+ .
Kết quả hòa nhôm hydroxit thu được ở bảng sau:
Bảng 4: Ảnh hưởng của nồng độ axit đến hiệu suất hòa tách nhôm hydroxyt

Nồng độ axit HCl 15 20 25 30

Khối lượng mẫu ban đầu ( g ) 10,0024 10,0037 10,0016 10,0006

Khối lượng bã sau sấy ( g ) 4,3014 3,2526 2,3526 2,4936

Hiệu suất ( % ) 57,0 67,49 76,48 75,07

Từ bảng ta xây dựng được đồ thị ảnh hưởng của nồng độ axit đến hiệu suất hòa tách :

Từ đồ thị ta nhận thấy được khi nồng độ axit càng cao thì hiệu suất hòa tách của nhôm
hydroxyt càng lớn. Hiệu suất đạt lớn nhất là ở 25%, nhỏ nhất là 15% . Do ở nồng độ
cao thì H+ trong dung dịch linh hoạt hơn, phản ứng xảy ra theo chiều làm giảm nồng
độ H+ dẫn đến hiệu suất hòa tách cao hơn. Tuy nhiên khi khảo sát ở 30% thì hiệu suất
bắt đầu giảm đi do axit bay hơi làm giảm lượng axit trong dung dịch,ngoài ra sẽ làm
tăng độ nhớt của dung dịch dẫn đến sự kìm hãm quá trình tách hydroxyt nhôm bởi sự
tăng độ nhớt dung dịch vượt quá sự tăng ion H+ . Việc tăng độ nhớt dung dịch làm
cho sự khuếch tán nhôm clorua vào trong dung dịch giảm đi, sự dịch chuyển ion H+
đến bề mặt rắn khó khăn hơn do đó hiệu suất hòa tách cũng giảm theo. Vậy ta chọn
nồng độ hòa tách tốt nhất là axit HCl 25% .

3.1.3.3. Khảo sát ảnh hưởng của quá trình làm sạch đến hiệu suất hòa tách

Ta nghiên cứu 2 mẫu : một mẫu được làm sạch bằng cách rửa nước 2 lần, một mẫu
được làm sạch bằng axit. Sau đó được đem đi hòa tách bằng axit HCl 25% ở nhiệt độ
90 độ C . Kết quả được cho ở bảng sau :
Bảng 5: Ảnh hưởng của quá trình hòa tách đến hiệu suất phân hủy nhôm hydroxyt

Mẫu Rửa nước Rửa axit

Khối lượng ban đầu ( g ) 10,0154 10,0016

Khối lượng sau hòa tách ( g ) 1,9056 2,3526

Hiệu suất ( % ) 80,973 76,478

Dựa vào kết quả từ bảng trên ta nhận thấy được quá trình làm sạch nguyên liệu ảnh
hưởng tới hiệu suất hòa tách. Sử dụng nước để rửa thì đem lại hiệu suất cao hơn so với
sử dụng axit để rửa. Vì khi sử dụng nước để rửa thì các tạp chất trong quặng ban đầu
ví dụ như Si được tách triệt để nên không gây ra cản trở trong quá trình hòa tách tạo
kết tủa.

3.2. Nghiên cứu sản xuất Al2O3

Để sản xuất được Al2O3 tốt cần chuẩn bị tốt tiền mẫu chất từ các công đoạn làm sạch,
hòa tách muối nồng độ cao, kết tủa tiền chất, sấy kết tủa, nghiền sản phẩm đạt kích
thước và nhiệt độ nung chuyển pha.

Ta sử dụng 2 dung dịch là dung dịch (NH4)2CO3 2M và bão hòa để nghiên cứu. Tốc độ
nhỏ giọt dung dịch (NH4)2CO3 là 3ml/phút.

Sử dụng dung dịch thu được sau hòa tách ở nhiệt độ 90 độ C để sản xuất Al2O3.

Quá trình nghiên cứu ta khảo sát nồng độ của tác nhân kết tủa tới quá trình tạo kết tủa.
Kết quả khảo sát được cho bởi bảng sau:

Bảng 6: Ảnh hưởng của nồng độ amoni cacbonat đến quá trình tổng hợp Al2O3

Nồng độ (NH4)2CO3 2M Bão hòa

Thể tích (NH4)2CO3 tiêu hao ( ml ) 16,0 10,6

Dựa vào bảng kết quả trên ta thấy, với nồng độ tác nhân kết tủa lớn hơn thì lượng
dung dịch cần dùng là ít hơn và thời gian tạo kết tủa cũng nhanh hơn. Mặt khác trong
quá trình thao tác ta nhận thấy được độ đặc của kết tủa khi sử dụng dung dịch
(NH4)2CO3 bão hòa là đặc hơn so với dung dịch 2M. Do nồng độ đặc hơn thì lượng
ion là tác nhân gây kết tủa cũng lớn hơn. Do đó, nồng độ của tác nhân amoni cacbonat
có ảnh hưởng đến quá trình tạo kết tủa để sản xuất Al2O3

Sau khi tạo được kết tủa ta tiến hành lọc rửa sạch gốc Cl- bằng nước cất 2 lần và kiểm
tra bằng dung dịch AgNO3. Kết tủa thu được sấy ở 70-80 độ C , sau đó đem nghiền và
nung ở 1200 độ C để tạo Al2O3.

KẾT LUẬN:

Từ kết quả nghiên cứu trên có thể rút ra kết luận sau:
- Đã làm sạch được bột nhôm hydroxit thô sản xuất từ quy trình bayer
- Lựa chọn được điều kiện tối ưu để hòa tách axit với hiệu suất ~ 77%
Nhiệt độ phản ứng : 90 – 95oC
Nồng độ axit HCl : 25%
Thời gian phản ứng : 120 phút
- Bước đầu nghiên cứu sản xuất được Al2O3 dựa trên tác nhân là dung dịch
(NH4)2CO3 tốt nhất là với dung dịch bão hòa .

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Phạm Mai Hương (2007), Nghiên cứu động học quá trình hòa tách cao lanh
Thanh Ba- Phú Thọ trong axit sunfuric, Luận văn thạc sĩ Hóa học, Viện Kỹ
Thuật Hóa Học- Đại học Bách Khoa, Hà Nội.
2. Nguyễn Thành Trung (2016), Nghiên cứu sử dụng hidroxit nhôm Tân Rai hoạt
hóa trong quá trình sản xuất PAC, Luận văn thạc sĩ khoa học, Đại học khoa
học tự nhiên – Đại học quốc gia Hà Nội.
3. T.S Lê Thị Mai Hương, Taraxova T.V (2000), “Nghiên cứu ảnh hưởng của các
phương pháp nghiền đến quá trình hòa tan nhôm hiđrôxit”, Tuyển tập báo cáo
khoa học- Viện hóa học công nghiệp Việt Nam.
4. Su Jin Kim, Kyu Sung Han, Tam Tran et al (2018), Recovery of Fine
Alunminum hydroxide with high whiteness index from low quality Bauxite
using caustic roasting and Water Leaching, Ressearch paper, vol.56, no1
(2018) pp.49-58.
5. No-kuk Park, Hee-young Choi et al (2013), Purificationof Al(OH)3
synthesized by bayer process for preparation of high purity alumina as
sapphire raw material, Journal of Crystal Growth 373 (2013) 88-91.
6. ISSN 0036-0236, Russian Journal of Inorganic Chemistry, 2019, Vol. 64, No.
4, pp. 438–444. © Pleiades Publishing, Ltd., 2019. Russian Text © V.A.
Matveev, D.V. Maiorov, 2019, published in Zhurnal Neorganicheskoi Khimii,
2019, Vol. 64, No. 4, pp. 357–364.
7. Bull. Mater. Sci., Vol. 17, No. 2, April 1994, pp. 95-103. © Printed in India.
Alumina ceramics by sol-gel technique
8. U.P.B. Sci. Bull., Series B, Vol. 73, Iss. 2, 2011; SYNTHESIS AND
CHARACTERIZATION OF ALUMINA NANO-POWDER OBTAINED BY
SOL-GEL METHOD;
9. Xie et al. Nanoscale Research Letters (2016) 11:259 DOI 10.1186/s11671-
016-1472-z, The Effect of Novel Synthetic Methods and Parameters Control
on Morphology of Nano-alumina Particles; Yadian Xie, Duygu Kocaefe,
Yasar Kocaefe, Johnathan Cheng and Wei Liu.
10. Int. J. Nanosci. Nanotechnol., Vol. 10, No. 1, Mar. 2014, pp. 13-26;
Application of Novel Gamma Alumina Nano Structure for Preparation of
Dimethyl ether from Methanol; Department of Chemical Technologies, Iranian
Research Organization for Science and Technology (IROST), Tehran, I. R.
Iran.
11. Shuai Wei, Le Zhang, Yue Ben et al (2017), High dispersibility of α-Al2O3
powders from coprecipitation method by step-by-step horizontal ball-milling, J
Mater Sci: Mater Electron (2017) 28:16254–16261
12. Yadian Xie, Duygu Kocaefe, Yasar Kocaefe, The Effect of Novel Synthetic
Methods and Parameters Control on Morphology of Nano-alumina Particles,
Xie et al. Nanoscale Research Letters (2016) 11:259
13. Đồ án tốt nghiệp sinh viên: Hoàng Thị Chiện & Nguyễn Thị Thu Chuyển.
Các trang web tham khảo thêm :
https://tienganhkythuat.com/vat-lieu/cau-truc-va-tinh-ben-cua-nhung-dang-
nhom-hydroxit/
https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/6294/nghien-cuu-cong-nghe-san-xuat-
nhom-hydroxit-va-alumin-sieu-min.aspx
http://arit.gov.vn/tin-tuc/buoc-khoi-dau-cua-nganh-cong-nghiep-nhom-viet-
nam-7047966f_1213/
http://www.quangninhtv.vn/kinh-te/201202/Vinacomin-Phat-trien-cong-nghiep-
nhom-o-Viet-Nam-2160853/
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%B4m_hydroxit
https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/6294/nghien-cuu-cong-nghe-san-xuat-
nhom-hydroxit-va-alumin-sieu-min.aspx
https://tailieu.vn/doc/bai-thuyet-trinh-quy-trinh-san-xuat-nhom-tu-quang-bo-xit-
1956820.html
https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Special
%3ASearch&redirs=1&search=Khai+th%C3%A1c+m%E1%BB
%8F+bauxit&fulltext=Search&ns0=1&title=Special
%3ASearch&advanced=1&fulltext=Khai+th%C3%A1c+m%E1%BB
%8F+bauxit

You might also like