You are on page 1of 10

Họ và tên: Nguyễn Thị Quyên

Lớp:C17B1
Môn: Quản Trị Học
Đề bài: Phân tích môi trường kinh doanh của một doanh nghiệp du lịch mà
em biết
Nội dụng:
1, Giới thiệu chung về doanh nghiệp
2, Phân tích môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
3, Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và hình thức
Bài làm

I -giới thiệu chung về Công ty Cổ phần Dịch vụ du lịch &


thương mại TST
Ra đời từ năm 1995, sau gần 25 năm hình thành và phát triển, TST tourist đã
khẳng định được vị thế là một trong những công ty lữ hành hàng đầu Việt Nam và
được khách hàng bình chọn là công ty lữ hành chuyên tour Châu Âu chất lượng
dịch vụ chuẩn 4 sao, phục vụ ân cần, chu đáo, chuyên nghiệp, dịch vụ cao cấp.

TST tourist không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng dịch vụ, tiên
phong trong sáng tạo, đáp ứng nhanh mọi nhu cầu của du khách thông qua hệ
thống sản phẩm, dịch vụ tour đa dạng, mới lạ ở trong và ngoài nước.

Với tiêu chí chất lượng và sự hài lòng của khách hàng là thước đo uy tín thương
hiệu, TST tourist tập trung vào chiến lược tối ưu hóa hệ thống đánh giá và giám
sát chất lượng sản phẩm, dịch vụ trước khi tung những chương trình tour du lịch,
dịch vụ ra thị trường. Bên cạnh đó, sự chuyên nghiệp và nhiệt tình của đội ngũ
hướng dẫn viên cũng là yếu tố làm nên hình ảnh chuyên nghiệp của TST tourist.

Chính sách chăm sóc khách hàng từ việc hỗ trợ tư vấn, cung cấp thông tin trước
chuyến đi, chính sách quà tặng trong chuyến đi và gọi điện thăm hỏi từng du khách
sau chuyến đi. Điều này đã tạo nên sự gắn bó thân thiết giữa TST tourist và những
khách hàng thân thiết. Đó là lý do, lượng khách quay lại TST tourist từ lần thứ 3
trở lên chiếm gần 50% lượt khách tham gia tour hàng năm.

Thông tin liên hệ:

 Địa chỉ: 10 Tú Xương, Phường 7, Quận 3, Tp.HCM


 Điện thoại: (028) 39 328 328
 Email: info@tsttourist.com
 Website: https://www.tsttourist.com/
 Facebook:www.facebook.com/tsttourist

II.Phân tích môi trường kinh doanh của công ty


Môi trường vĩ mô

 Tự nhiên: tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Về cơ bản thường tác động bất lợi đối với các hoạt động của doanh
nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có liên quan
đến tự nhiên như: sản xuất nông phẩm, thực phẩm theo mùa, kinh
doanh khách sạn, du lịch...Để chủ động đối phó với các tác động của yếu
tố tự nhiên,các doanh nghiệp phải tính đến các yếu tố tự nhiên có liên
quan thông qua các hoạt động phân tích, dự báo của bản thân doanh
nghiệp và đánh giá của các cơ quan chuyên môn. Các biện pháp thường
được doanh nghiệp sử dụng: dự phòng, san bằng, tiên đoán và các biện
pháp khác... Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng đến các doanh nghiệp như vấn
đề tiếng ồn, ô nhiễm môi trường... và các doanh nghiệp phải cùng nhau
giải quyết.
 Kinh tế (Economical): Bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng và sự
ổn định của nền kinh tế, sức mua, sự ổn định của giá cả, tiền tệ, lạm
phát, tỷ giá hối đoái... Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những biến động của các
yếu tố kinh tế có thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức với doanh
nghiệp. Để đảm bảo thành công của hoạt động doanh nghiệp trước biến
động về kinh tế, các doanh nghiệp phải theo dõi, phân tích, dự báo biến
động của từng yếu tố để đưa ra các giải pháp, các chính sách tương ứng
trong từng thời điểm cụ thể nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội, né
tránh, giảm thiểu nguy cơ và đe dọa. Khi phân tích, dự báo sự biến động
của các yếu tố kinh tế, để đưa ra kết luận đúng, các doanh nghiệp cần dựa
vào một số căn cứ quan trọng: các số liệu tổng hợp của kì trước, các diễn
biến thực tế của kì nghiên cứu, các dự báo của nhà kinh tế lớn...
 Kỹ thuật - Công nghệ (Technological): Đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh,
trực tiếp đến doanh nghiệp. Các yếu tố công nghệ thường biểu hiện như
phương pháp sản xuất mới, kĩ thuật mới, vật liệu mới, thiết bị sản xuất,
các bí quyết, các phát minh, phần mềm ứng dụng... Khi công nghệ phát
triển, các doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu của công
nghệ để tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao hơn nhằm phát triển
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy vậy, nó cũng mang lại
cho doanh nghiệp nguy cơ tụt hậu, giảm năng lực cạnh tranh nếu doanh
nghiệp không đổi mới công nghệ kịp thời.
 Văn hóa - Xã hội (Socio-Cultural): Ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động
quản trị và kinh doanh của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải
phân tích các yếu tố văn hóa, xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy
cơ có thể xảy ra. Mỗi một sự thay đổi của các lực lượng văn hóa có thể
tạo ra một ngành kinh doanh mới nhưng cũng có thể xóa đi một ngành
kinh doanh.
 Chính trị (Political) - Pháp luật (Legal): Gồm các yếu tố chính phủ, hệ
thống pháp luật, xu hướng chính trị... Các nhân tố này ngày càng ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Sự ổn định về chính trị, nhất
quán về quan điểm, chính sách lớn luôn là sự hấp dẫn của các nhà đầu tư.
Trong xu thế toàn cầu hiện nay, mối liên hệ giữa chính trị và kinh doanh
không chỉ diễn ra trên bình diện quốc gia mà còn thể hiện trong các quan
hệ quốc tế. Để đưa ra được những quyết định hợp lý trong quản trị doanh
nghiệp, cần phải phân tích, dự báo sự thay đổi của môi trường trong từng
giai đoạn phát triển.
 Đoàn thể, các lực lượng chính trị, xã hội - Nguồn nhân lực xã hội, quốc
gia.
 Môi trường (Environmental) hội nhập - quốc tế

Môi trường vi mô

Doanh nghiệp

Trong việc thiết kế một kế hoạch marketing cho doanh nghiệp, bộ phận marketing
phải chịu sự lãnh đạo của ban giám đốc công ty đồng thời phải hợp tác với nhũng
bộ phận khác trong doanh nghiệp như: bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D),
nhân sự, vật tư, sản xuất, tài chính và kế toán của doanh nghiệp đọ. Tất cả các bộ
phận liên quan này hình thành nên một môi trường nội tại của doanh nghiệp.
Ban giám đốc công ty là người thiết lập nên những nhiệm vụ, những mục tiêu
chung, chiến lược tổng thể và các chính sách của doanh nghiệp. Nhà quản trị
marketing phải đưa ra những quyết định trong phạm vi những kế hoạch được
hoạch định bởi ban giám đốc. Các chương trình hành động, kế hoạch marketing
đầu tiên phải được thông qua bởi ban giám đốc trước khi thực hiện.

Bộ phận tài chính đóng vai trò là người tìm kiếm và cung cấp nguồn tài chính để
thực hiện các chương trình marketing. Bộ phận R&D tập trung vào việc thiết kế và
tạo ra một sản phẩm có những tính năng thu hút và tương thích với nhu cầu, mong
muốn từ thị trường. Bộ phận thu mua có nhiệm vụ tìm kiếm nhà cung ứng và
nguồn nguyên vật liệu thích hợp. Bộ phận sản xuất có nhiệm vụ tạo ra sản phẩm
đúng số lượng và chất lượng. Bộ phận kế toán phải tính toán những khoản lời lỗ để
biết được các mục tiêu marketing đã được thực hiện như thế nào. Tất cả các hoạt
động của các bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp cùng tác động đến kế hoạch
và hoạt động marketing trong doanh nghiệp đó.

Ví dụ, nếu nhà quản trị marketing dự định tung ra thị trường một sản phẩm mới,
phải thảo luận với các chức năng khác xem có đủ nguồn tài chính, công nghệ, thiết
bị, nhân lực... để thực hiện dự định đó không? Ngoài ra, còn có những cản trở do
mâu thuẫn giữa các nhà quản trị các chức năng khác nhau trong công ty. Nhà quản
trị sản xuất thì muốn duy trì lâu dài các sản phẩm tiêu chuẩn hóa. Nhà quản trị
marketing thì thấy cần thiết phải đa dạng hóa sản phẩm cho các đoạn thị trường
khác nhau. Nhà quản trị tài chính thì không muốn chi phí nhiều cho chiến dịch
quảng cáo...

Hoạt động marketing không phải là một hoạt động riêng rẽ trong doanh nghiệp.
Ngược lại nó bị chi phối bởi các lực lượng, các yếu tố khác trong doanh nghiệp.
Do vậy hoạt động marketing chịu sự chi phối, điều hành trực tiếp của Ban giám
đốc.

2. Nhà cung ứng

Các nhà cung ứng cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp hoạt động. Đó là
các nguồn lực (có thể là sản phẩm, dịch vụ, nguyên, nhiên vật liệu và nguồn nhân
lực) cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp. Nếu quá trình cung cấp các dầu vào
này bị trục trặc thì ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp, đặc biệt
trong điều kiện cạnh tranh. Đặc biệt, giá cả và dịch vụ của nhà cung cấp có ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Sự tăng giá hay khan hiếm các nguồn
lực này trcn thị trường có thể ảnh hưởng rất nhiều đến các hoạt động marketing của
doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp phải hiểu biết, quan tâm và xây dựng mối
quan hệ bền vững với các nhà cung ứng.

Các nhà cung ứng bảo dảm nguồn lực cần thiết cho doanh nghiệp trong việc sản
xuất kinh doanh sản phẩm. Các nhà quản trị marketing cần phải nắm bắt được khả
năng của các nhà cung ứng cả về chất lẫn về lượng. Sự thiếu hụt hay chậm trễ về
lượng cung ứng, sự không bào đảm về chất lượng đầu vào hoặc sự tăng giá từ phía
nhà cung ứng cũng gây khó khăn cho các hoạt động marketing. Bởi vì điều đó có
thể gây tác hại đến khả năng thỏa mãn khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp. Và
chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu vì khách hàng chuyển sang tiêu
dùng sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.

3. Các trung gian

Trung gian marketing là các tổ chức kinh doanh độc lập, tham gia hỗ trợ cho doanh
nghiệp trong các khâu khác nhau trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp. Các trung
gian này rất quan trọng, nhất là trong môi trường cạnh tranh quốc tế, các doanh
nghiệp có xu hướng thuê ngoài một số khâu khác nhau trong chuỗi giá trị của
doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Do vậy, doanh nghiệp phải biết và xây dựng mối quan hệ lâu
dài với các trung gian. Bởi vì, các trung gian marketing có trách nhiệm giúp doanh
nghiệp truyền thông, bán và phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng.
Đó có thể là các trung gian phân phối, công ty cung ứng dịch vụ marketing như
quảng cáo, nghiên cứu thị trường, các cơ sở vật chất phục vụ phân phối hay các tổ
chức tài chính.

Trung gian phân phối: là các doanh nghiệp hoặc cá nhân mà hoạt động của họ hỗ
trợ các nhà sản xuất trong việc tìm kiếm khách hàng, tiêu thụ sản phẩm. Họ có thể
là các nhà bán buôn, bán lẻ, đại lý và môi giới. Các trung gian này sẽ tạo ra những
điều kiện thuận lợi về địa điểm, thời gian và sự am hiểu khách hàng, giúp cho quá
trình tiêu thụ sản phẩm trở nên nhanh chóng và tiết kiệm chi phí hơn.

Tổ chức cung cấp dịch vụ lưu thông sản phẩm: các tổ chức này giúp các trung gian
phân phối dự trữ sản phẩm và vận chuyển chúng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng.
Đây là các doanh nghiệp chuyên hoạt động trong các lãnh vực như kho bãi, vận tải.

Tổ chức cung cấp dịch vụ marketing: bao gồm các công ty nghiên cứu thị trường,
quảng cáo, tư vấn. Hoạt động của họ giúp cho các doanh nghiệp định hướng chính
xác hơn về nhu cầu, mong muốn của khách hàng và định vị tốt sản phẩm của họ
trên thị trường.
Tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính - tín dụng: bao gồm các ngân hàng, các công ty
tài chính, các công ty bảo hiểm. Họ cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp thực
hiện việc sản xuất hay lưu thông sản phẩm. Việc tăng cường hay thu hẹp khả năng
tín dụng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động marketing của doanh nghiệp. Vì
thế doanh nghiệp cần thiết lập mối quan hệ bền vững với các tổ chức tài chính tín
dụng quan trọng này.

4. Khách hàng

Khách hàng là người quyết định thành bại đối với doanh nghiệp, là mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp. Khách hàng là thị trường của doanh nghiệp. Mỗi sự biến
đổi về nhu cầu, về quyết định mua sắm của khách hàng đều buộc doanh nghiệp
phải xem xét lại các quyết định marketing. Mục tiêu của doanh nghiệp là đáp ứng
nhu cầu của khách hàng mục tiêu. Do vậy doanh nghiệp cần hiểu rõ khách hàng.
Khách hàng là đối tượng phục vụ của doanh nghiệp và là nhân tố tạo nên thị
trường. Do đó doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ những khách hàng của mình.
Nhìn chung có các dạng khách hàng sau đây:

 Thị trường người tiêu dùng: là những cá nhân, hộ gia đình mua sản phẩm để
sử dụng cho mục đích cá nhân và gia đình.
 Thị trường các nhà sản xuất: là các tổ chức mua sản phẩm . cho mục đích
sản xuất và hoạt động của mình.
 Thị trường nhà buôn bán trung gian phân phối: là các tổ chức hay cá nhân
mua sản phẩm với mục đích bán lại để kiếm lời.
 Thị trường các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp phi lợi nhuận: là những
tổ chức mua sản phẩm để sử dụng trong cơ quan công quyền hoặc chuyển
giao cho những người cần tới nó với mục đích xã hội.
 Thị trường quốc tế: là những người mua ở nước ngoài bao gồm người tiêu
thụ, người sản xuất, người bán lại và các cơ quan nhà nước.

Nhu cầu, mong muốn, khả năng thanh toán, mục đích và động cơ mua sắm của các
thị trường này là khác nhau. Do vậy, doanh nghiệp cần nghiên cứu riêng một cách
cẩn thận từng loại thị trường này.

5. Đối thủ cạnh tranh


Điểm mạnh

- Là người tiên phong mở rộng thị trường, có nhiều kinh nghiệm hoạt động.
- TST tourist  có thương hiệu đẳng cấp khu vực.

- Đội ngũ nhân viên đông đảo và luôn chú trọng khâu đào tạo, tái đào tạo nhân
viên nhằm sự phát triển bền vững.

- Vận dụng 1 cách linh hoạt trong việc cung ứng dịch vụ trọn gói cho các khách
đoàn với chi phí hợp lí và đáp ứng tối đa các yêu cầu.

- Mạng lưới hoạt động rộng không chỉ trong nước mà còn ở cả khu vực Đông
Nam Á.

- Thường xuyên có các chương trình khuyến mại đặc biệt nhằm thu hút khách
hàng.

- Đẩy mạnh mối liên kết giữa công ty, hàng không và khu nghỉ dưỡng nhằm
kích thích khả năng du lịch của khách hàng

 Điểm yếu:

- Giải quyết khiếu nại còn chậm.


- Chưa có chiến lược tiếp cận khách hàng mục tiêu phù hợp: doanh nghiệp
cần tìm cách tạo ra nhu cầu cho KH thay vì nhu cầu bộc phát hiện tại của
KH.

- Đối với du lịch nước ngoài: chưa có mối liên hệ chặt chẽ với nước đó.

Cơ hội:

Du lịch tăng trưởng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo tồn và phát huy
các trị giá kiến thức, tài nguyên; đẩy mạnh cộng tác và hội nhập… Nhận thấy
tầm quan trọng của ngành nghề Du lịch, năm 2017, Bộ Chính trị đang có nghị
quyết 08 – NQ/TW về tăng trưởng du lịch trở thành ngành nghề kinh tế mũi nhọn.
Đó là định hướng cần thiết để tăng trưởng kinh tế quốc gia. Năm 2017 Luật Du
lịch (sửa đổi) cũng vừa mới chính thức được Quốc hội thông qua, tạo hành lang
pháp lý thuận lợi cho du lịch VN phát triển trong thời kỳ mới.
ngành Du lịch Việt Nam đang chuyển mình tăng trưởng, thu hút được sự quan
tâm của toàn xã hội. có thể thấy qua tỉ lệ khách quốc tế và khách du lịch nội
địa tăng trưởng mạnh. Năm 2017, khách quốc tế đạt gần 13 triệu lượt, trong 2
năm tiếp tục phát triển hơn 25%. Điều này cho thấy du lịch Việt
Nam đang và đang ngày càng được khẳng định trên toàn cầu. Nhiều điểm đến
của VN được bầu chọn là điểm đến yêu like của các báo chí danh tiếng về du lịch;
nhiều địa danh được lựa chọn để quay các cảnh đặc sắc của phim trường
Hollywood.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, Viet Nam đã thu hút được nhiều gốc vốn FDI
vào các dự án du lịch, nhiều khu nghỉ dưỡng ven biển và khách sạn 5
sao đang được đầu tư. Đến cuối năm 2017, cơ sở lưu trú du lịch có tới hơn 25.000
cơ sở; trong đó có 116 khách sạn 5 sao, 259 khách sạn 4 sao và 488 khách sạn 3
sao… Các địa phương đang có sự chú ý và nâng cao nhận thức về phát triển du
lịch, các dịch vụ được nâng tầm chất lượng, chủ đề an ninh, an toàn cho du khách
ngày càng được đảm bảo…Mặc dù một số ngành trên toàn cầu bất ổn về an ninh,
chính trị, nhưng ở VN vấn đề này được đánh giá cao cũng đã góp phần gia
tăng khách đến.
mẹo mạng công nghiệp 4.0 trong thời đại kỷ nguyên số vừa mới diễn ra góp
phần không nhỏ đển sự phát triển du lịch trên toàn toàn cầu. ngoài ra, đây cũng
được xem là thách thức của ngành Du lịch nếu không kịp thay đổi trong việc ứng
dụng công nghệ, sản phẩm du lịch (sản phẩm F&E dự báo sẽ tăng trưởng mạnh

Thách thức:
Du lịch VN vừa mới phát triển, ngoài ra thành đạt đối với tiềm năng lợi thế và các
nước trong khu vực vẫn là chủ đề cần phải mạnh dạn Nhìn nhận nghiêm túc về sự
phát triển đó, cụ thể ở một số điểm sau:
VN có tài nguyên thiên nhiên, bản sắc kiến thức dân tộc, phổ biến và phong phú,
nhưng hàng hóa du lịch của ta còn nghèo, đơn điệu. Các hoạt động tìm
hiểu và phát triển món hàng chưa bài bản, chưa có tính đột phá, sáng tạo. Chất
lượng dịch vụ còn thấp, chưa cung cấp yêu cầu đặt ra. Công tác quảng bá, thúc
đẩy còn bộc lộ nhiều giới hạn, chưa có sự kéo dắt của cơ quan quản lý nhà
nước, ngoài ra gốc tài chính eo hẹp nên quảng bá, thúc đẩy chưa căn cứ vào phân
khúc, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa có sự kết nối đồng bộ trong cả nền
móng cũng như chưa quan hệ du lịch với các event, hình ảnh đưa tính quốc
tế….Việc định vị điểm đến còn lúng túng, phần nhiều tự phát, k có quy hoạch tăng
trưởng cụ thể. Công tác nghiên cứu chưa được đầu tư về gốc lực, con người cho
tương xứng nên phần nào đó sử dụng cho thương hiệu du lịch Viet Nam chưa tăng
trưởng xứng tầm.
doanh nghiệp lữ hành VN còn yếu, chủ yếu là công ty vừa và nhỏ chiếm tới
84%, bên cạnh đó là sự rời rạc, k có liên kết với nhau cũng giống như gắn
kết giữa doanh nghiệp với chính quyền còn đưa tính hình thức, cho nên sẽ rất khó
để vươn ra phân khúc du lịch quốc tế. Cùng với đó, việc giải quyết triệt để các vấn
đề về ô nhiễm hoàn cảnh, giao thông ùn tắc, tệ nạn thế giới, mất an ninh, an toàn ở
các thành phố lớn và vấn đề an toàn thực phẩm, chưa được đặt vị trí làm chủ đúng
nghĩa. cho nên, Chính phủ một số nước như: Mỹ, Anh, Úc, Canada, Thụy
Sỹ… mang những vấn nạn này vào lời khuyên cho công dân khi đi du lịch VN.
Điều đó làm cho pic du lịch Việt Nam thân thiện, hiền hòa, mến khách mất dần trị
giá, khi mà nhiều năm ta đang thiết kế được các trị giá đó.
Đội ngũ chỉ dẫn viên chuyên nghiệp của ta vừa thiếu, lại vừa yếu, trình độ ngoại
ngữ các đối tượng mục đích luôn luôn hạn chế. Chính sách đất nước để du
lịch tăng trưởng theo đúng nghĩa lĩnh vực kinh tế vận hành theo quy luật phân
khúc chưa rõ nét. Cùng với đó gốc nhân lực của ta còn bộc lộ nhiều nguyên
nhân tiêu cực, như: ngoại ngữ, chuyên môn văn hóa, lịch sử, kiến thức cuộc đời,
cũng như cấp độ đối ngoại còn hạn chế…Chúng ta còn thiếu đội ngũ nhà bán
hàng lãnh đạo doanh nghiệp du lịch kiểu mẫu, có bản lĩnh, sáng tạo, tự tin. Trên
hết, du lịch VN còn thiếu vai trò của một “nhạc trưởng” dẫn dắt toàn ngành nghề đi
vào thế giới hội nhập…

You might also like