You are on page 1of 332

TÀI LIỆU DẠY HỌC SINH LỚP 9

MÔN NGỮ VĂN


( LƯU HÀNH NỘI BỘ)

PHẦN A. GIỚI THIỆU CHUNG


Tài liệu được biên soạn dưới dạng các chuyên đề, trong đó, mỗi vấn đề được cấu
trúc theo dạng câu hỏi, dạng đề và gợi ý trả lời . Những nội dung kiến thức trình bày trong
tài liệu là nội dung cơ bản, ngắn gọn, giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản để
nâng cao chất lượng tốt nghiệp lớp 9 và tỷ lệ thi đầu vào lớp 10.
Do thời gian biên soạn còn hạn chế nên tài liệu này chưa bao quát hết nội dung
chương trình. Một số nội dung có tính chất đề cương, gợi ý, giáo viên cần bổ sung. Dựa
theo cách biên soạn của tài liệu, giáo viên biên soạn nội dung cho phù hợp với điều kiện
dạy học và trình độ của đối tượng học sinh trường mình. Tuy nhiên, khi biên soạn bổ sung
cần đảm bảo ngắn gọn để học sinh dễ tiếp nhận.
Về cách thức dạy học: Căn cứ vào trình độ của học sinh, giáo viên có thể vận dụng
các phương pháp dạy học cho phù hợp nhằm làm cho học sinh nắm được kiến thức cơ bản;
tăng cường thực hành, luyện tập để viết bài theo từng loại chuyên đề. Mỗi kiểu bài cần cho
học sinh viết nhiều lần theo cách, từ đơn giản, sơ lược đến đầy đủ với nhiều dạng câu hỏi,
dạng đề khác nhau để rèn luyện kỹ năng trình bày.
PHẦN B. NỘI DUNG

PHẦN I. TIẾNG VIỆT


1 Chuyên đề 1. Từ vựng
2 Chuyên đề 2. Ngữ pháp.
PHẦN II. LÀM VĂN
3 Chuyên đề 1. Văn tự sự
4 Chuyên đề 2. Văn nghị luận
5 Chuyên đề 3. Văn thuyết minh
PHẦN III. VĂN HỌC
6 Chuyªn ®Ò 1: V¨n b¶n nhËt dông
7 Chuyên đề 2: Văn học trung đại Việt Nam.
8 Chuyên đề 3: Thơ hiện đại Việt Nam sau CM tháng 8.1945
9 Chuyên đề 4: Truyện Việt Nam sau CM tháng 8.1945.
10 Chuyên đề 5: Văn bản nghÞ luËn - Kịch

1
PHẦN I: TIẾNG VIỆT
Từ vựng

Tiết 1:
Tõ xÐt vÒ cÊu t¹o

A.TÓM TẮT KI ẾN THỨC CƠ BẢN

1. Từ đơn: Là từ chỉ có một tiếng.


VD: Nhà, cây, trời, đất, đi, chạy…
2. Từ phức: Là từ do hai hoặc nhiều tiếng tạo nên.
VD: Quần áo, chăn màn, trầm bổng, câu lạc bộ, bâng khuâng…
Từ phức có 2 loại:
* Từ ghép: Gồm những từ phức được tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau
về nghĩa.
- Tác dụng: Dùng để định danh sự vật, hiện tượng hoặc dùng để nêu các đặc điểm, tính
chất, trạng thái của sự vật.
* Từ láy: Gồm những từ phức có quan hệ láy âm giữa các tiếng.
- Vai trò: Tạo nên những từ tượng thanh, tượng hình trong miêu tả thơ ca… có tác dụng
gợi hình gợi cảm.
B. CÁC DẠNG BÀI TẬP
1. Dạng bài tập 1 điểm:
Đề 1: Trong những từ sau, từ nào là từ ghép, từ nào là từ láy?
Ngặt nghèo, nho nhỏ, giam giữ, gật gù, bó buộc, tươi tốt, lạnh lùng, bọt bèo, xa xôi,
cỏ cây, đưa đón, nhường nhịn, rơi rụng, mong muốn, lấp lánh.
Gợi ý:
* Từ ghép: Ngặt nghèo, giam giữ, bó buộc, tươi tốt, bọt bèo, cỏ cây, đưa đón, nhường
nhịn, rơi rụng, mong muốn.
* Từ láy: nho nhỏ, gật gù, lạnh lùng, xa xôi, lấp lánh.
Đề 2: Trong các từ láy sau đây, từ láy nào có sự “giảm nghĩa” và từ láy nào có sự
“tăng nghĩa” so với nghĩa của yếu tố gốc?
trăng trắng, sạch sành sanh, đèm đẹp, sát sàn sạt, nho nhỏ, lành lạnh, nhấp nhô, xôm
xốp.
Gợi ý:
* Những từ láy có sự “ giảm nghĩa”: trăng trắng, đèm đẹp, nho nhỏ, lành lạnh, xôm xốp.
* Những từ láy có sự “ tăng nghĩa”: sạch sành sanh, sát sàn sạt, nhấp nhô,

2. Dạng bài tập 2 điểm:

2
Đề 1. Đặt câu với mỗi từ: nhỏ nhắn, nhẹ nhàng, nhẹ nhõm, nhỏ nhẻ.
Gợi ý:
- Bạn Hoa tr«ng thËt nhá nh¾n, dÔ th¬ng.
- Bµ mÑ nhÑ nhµng khuyªn b¶o con.
- Lµm xong c«ng viÖc, nã thë phµo nhÑ nhâm nh trót ®îc g¸nh nÆng
- B¹n Hoa ¨n nãi thËt nhá nhÎ.
3. Dạng đề 3 điểm:
Cho các từ sau: lộp bộp, róc rách, lênh khênh, thánh thót, khệnh khạng, ào ạt, chiếm
chệ, đồ sộ, lao xao, um tùm, ngoằn ngoèo, rì rầm, nghêng ngang, nhấp nhô, chan chát,
gập ghềnh, loắt choắt, vèo vèo, khùng khục, hổn hển.
Em hãy xếp các từ trên vào 2 cột tương ứng trong bảng sau:
Từ tượng thanh Từ tượng hình
- Lộp bộp, róc rách, thánh thót, ào ào, - Lênh khênh, khệnh khạng, chếm chệ,
lao xao, rì rầm, chan chát, vèo vèo, đồ sộ, um tùm, ngoằn ngoèo, nghêng
khùng khục, hổn hển ngang, nhấp nhô, gập ghềnh, loắt
choắt.

C. BÀI TẬP VỀ NHÀ


1. Dạng bài tập 2 điểm:
Đề 1:
a, Gạch chân các từ tượng hình trong đoạn thơ sau:
“Chú bé loắt choắt
Cái sắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghêng nghêng”
(Tố Hữu, Lượm)
b, Cho biết tác dụng của các từ tượng hình trong đoạn thơ?
*Gợi ý:
a, Các từ tượng hình trong đoạn thơ:
- loắt choắt, thoăn thoắt, nghêng nghêng
b, Các từ tượng hình ( loắt choắt, thoăn thoắt, nghêng nghêng) đã góp phần khắc hoạ một
cách cụ thể và sinh động hình ảnh Lượm một chú bé liên lạc, gan dạ, dũng cảm.
Đề 2: Viết một đoạn văn ngắn (4- 5 dòng ) trong đó có sử dụng: từ đơn, từ phức.
Gợi ý :
- Học sinh viết được một đoạn văn ngắn có sử dụng: từ đơn, từ phức
( Tùy sự sáng tạo của học sinh).
- Có nội dung, thể hiện một ý nghĩa, câu cú rõ ràng, trình bày khoa học.
- Gạch chân những từ: từ đơn, từ phức, đã sử dụng trong đoạn văn.

-------------------------------------

3
Tiết 2: Tõ xÐt vÒ nguån gèc

A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Tõ mîn:
Lµ nh÷ng tõ vay mîn cña tiÕng níc ngoµi ®Ó biÓu thÞ nh÷ng sù vËt, hiÖn tîng,
®Æc ®iÓm... mµ tiÕng ViÖt cha cã tõ thÝch hîp ®Ó biÓu thÞ.
*VÝ dô: Cöu Long, du kÝch, hi sinh...
2.Từ ngữ địa phương:
Từ ngữ địa phương là từ ngữ chỉ được sử dụng ở 1 hoặc 1 số địa phương nhất định.
* Ví dụ:
“ Rứa là hết chiều ni em đi mãi
Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi!”
( Tố Hữu - Đi đi em)
- 3 từ trên (rứa, ni, chi) chỉ được sử dụng ở miền Trung.
*Mét sè từ địa phương khác:
VÝ dô
C¸c vïng miÒn
Từ địa phương Từ toàn dân
Bắc Bộ biu điện bưu điện
Nam Bộ dề, dui về, vui
Nam Trung Bộ béng bánh
Thừa Thiên HuÕ té ngã

3. Biệt ngữ xã hội:


- Biệt ngữ xã hội lµ nh÷ng tõ ng÷ chỉ được dùng trong một tầng lớp xã hội nhất định.
* Ví dụ:
- Ch¸n qu¸, h«m nay m×nh ph¶i nhËn con ngçng cho bµi kiÓm tra to¸n.
- Tróng tñ, h¾n nghiÔm nhiªn ®¹t ®iÓm cao nhÊt líp.
+ Ngỗng: điểm 2
+ trúng tủ: đúng vào bài mình đã chuẩn bị tốt
( Được dùng trong tầng lớp học sinh, sinh viên )
*Sử dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội:
- ViÖc sö dông từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội phải phù hợp với tình huống giao
tiếp .
- Trong thơ văn, tác giả có thể sử dụng một số từ ngữ thuộc 2 lớp từ này để tô đậm màu sắc
địa phương, màu sắc tầng lớp xã hội của ngôn ngữ, tính cách nhân vật.
- Muốn tránh lạm dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội cần tìm hiểu các từ ngữ toàn
dân có nghĩa tương đương để sử dụng khi cần thiết.
B. CÁC d¹ng bµi tËp
1. Dạng bài tập 1 điểm:

4
Đề 1: Tìm một số từ ngữ địa phương nơi em ở hoặc ở vùng khác mà em biết. Nêu từ ngữ
toàn dân tương ứng?
Gợi ý
Trái - quả
Chén - bát
Mè - vừng
Thơm - dứa

Đề 2: Hãy chỉ ra các từ địa phương trong các câu thơ sau:
a, Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền
b, Bác kêu con đến bên bàn,
Bác ngồi bác viết nhà sàn đơn sơ.
Gợi ý
Các từ ngữ địa phương:
a, bầm
b, kêu

2. Dạng bài tập 2 điểm:


Sưu tầm một số câu ca dao, hò và vè có sử dụng từ ngữ địa phương?
Gợi ý:
+ Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mªnh m«ng b¸t ng¸t,
Đứng bên tª đồng ngó bên ni đồng b¸t ng¸t mªnh m«ng.
+ Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh níc biÕc nh tranh ho¹ ®å.
+ Tóc đến lưng vừa chừng em bối
§ể chi dài, bối rối dạ anh
+ Dầu mà cha mẹ không dung
Đèn chai nhỏ nhựa, em cùng lăn vô.
+ Tay mang khăn gói sang sông
Mẹ kêu khốn tới, thương chồng khốn lui.
+ Rứa là hết chiều ni em đi mãi
Còn mong chi ngày trở lại Phước ơi.
C.BÀI TẬP VỀ NHÀ:
1. Dạng bài tập 1 điểm:
Hãy tìm trong ca dao, tục ngữ, thơ hay truyện ngắn có sử dụng từ ngữ địa phương và
biệt ngữ xã hội?
Gợi ý:
Ví dụ một số bài thơ của nhà thơ Tố Hữu.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng....
2. Dạng bài tập 2 điểm:
Em hãy viết một đoạn văn kho¶ng 5 câu có sử dụng từ ngữ địa phương ?

5
Gợi ý:
(Viết theo suy nghĩ, tù chän chñ ®Ò, đoạn văn phải có sử dụng từ ngữ địa phương)
Tiết 3 + 4:
Tõ xÐt vÒ nghÜa vµ hiÖn tîng chuyÓn nghÜa cña tõ

A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:


1. NghÜa cña tõ: Lµ néi dung mµ tõ biÓu thÞ.
VÝ dô: Bµn, ghÕ, s¸ch…
2. Tõ nhiÒu nghÜa: Lµ tõ mang s¾c th¸i ý nghÜa kh¸c nhau do hiÖn tîng chuyÓn
nghÜa.
VÝ dô:
3. HiÖn tîng chuyÓn nghÜa cña tõ:
a. C¸c tõ xÐt vÒ nghÜa: Tõ ®ång nghÜa, tõ tr¸i nghÜa, tõ ®ång ©m.
* Tõ ®ång nghÜa: lµ nh÷ng tõ cïng n»m trong mét trêng nghÜa vµ ý nghÜa gièng nhau
hoÆc gÇn gièng nhau.
VD: xinh- ®Ñp, ¨n- x¬i
- Tõ ®ång nghÜa cã thÓ chia thµnh hai lo¹i chÝnh:
+ Tõ ®ång nghÜa hoµn toµn
VD: qu¶- tr¸i, mÑ- m¸…
+ §ång nghÜa kh«ng hoµn toµn:
VD: khuÊt nói- qua ®êi, chÕt- hi sinh…
* Tõ tr¸i nghÜa: Lµ nh÷ng tõ cã nghÜa tr¸i ngîc nhau
VD: cao- thÊp, bÐo- gÇy, xÊu- tèt…
* Tõ ®ång ©m: Lµ nh÷ng từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa khác xa nhau, không
liên quan gì với nhau.
VD:
- Con ngựa đang đứng bỗng lồng lên.
- Mua được con chim, bạn tôi nhốt ngay vào lồng.
b, CÊp ®é kh¸i qu¸t nghÜa cña tõ:
- NghÜa cña mét tõ ng÷ cã thÓ réng h¬n hoÆc hÑp h¬n nghÜa cña tõ ng÷ kh¸c.
- Mét tõ ng÷ ®îc coi lµ cã nghÜa réng khi ph¹m vi nghÜa cña tõ ng÷ ®ã bao hµm ph¹m vi
nghÜa cña mét sè tõ ng÷ kh¸c.
- Mét tõ ng÷ ®îc coi lµ cã nghÜa hÑp khi ph¹m vi nghÜa cña tõ ng÷ ®ã ®îc bao hµm
trong ph¹m vi nghÜa cña mét tõ ng÷ kh¸c.
- Mét tõ ng÷ cã nghÜa réng ®èi víi nh÷ng tõ ng÷ nµy, ®ång thêi cã thÓ cã nghÜa hÑp
®èi víi mét tõ ng÷ kh¸c.
VD: §éng vËt: thó, chim, c¸
+ Thó: voi, h¬u…
+ Chim: tu hó, s¸o….
+ C¸: c¸ r«, c¸ thu…
c, Trêng tõ vùng: Lµ tËp hîp cña nh÷ng tõ cã Ýt nhÊt mét nÐt chung vÒ nghÜa.
B. CÁC DẠNG Bµi tËp:

6
1. Dạng bài tập 1 điểm:
Đề 1: Trong đoạn thơ sau, tác giả đã chuyển các từ in đậm từ trường từ vựng nào sang
trường từ vựng nào ?
Ruộng rẫy là chiến trường,
Cuốc cày là vũ khí,
Nhà nông là chiến sĩ,
Hậu phương thi đua với tiền phương.
(Hồ Chí Minh)
*Gợi ý:
- Những từ in đậm được chuyển từ trường quân sự sang trường nông nghiệp.

Đề 2: Trong hai c©u th¬ sau, tõ hoa trong thÒm hoa, lÖ hoa ®îc dïng theo nghÜa gèc
hay nghÜa chuyÓn? Cã thÓ coi ®©y lµ hiÖn tîng chuyÓn nghÜa lµm xuÊt hiÖn tõ
nhiÒu nghÜa ®îc kh«ng? V× sao?
“Nçi m×nh thªm tøc nçi nhµ,
ThÒm hoa mét bíc lÖ hoa mÊy hµng!”
( NguyÔn Du, TruyÖn KiÒu).
Gợi ý:
- Tõ hoa trong thÒm hoa, lÖ hoa ®îc dïng theo nghÜa chuyÓn.
- Tuy nhiªn kh«ng thÓ coi ®©y lµ hiÖn tîng chuyÓn nghÜa lµm xuÊt hiÖn tõ nhiÒu
nghÜa, v× nghÜa chuyÓn nµy cña tõ hoa chØ lµ nghÜa chuyÓn l©m thêi, nã cha
lµm thay ®æi nghÜa cña tõ, cha thÓ ®a vµo tõ ®iÓn.
2. Dạng bài tập 2 điểm:
Đề 1: Đặt tên trường từ vựng cho mỗi dãy sau:
a. Lưới, nơm, câu, vó.
b. Tủ, giường, hòm, va li, chai, lọ.
c. Đá, đạp, giẫm, xéo.
d. Buồn, vui, phấn khởi, sợ hãi.
*Gợi ý:
a. Dụng cụ đánh bắt thuỷ sản.
b. Dụng cụ để đựng.
c. Hoạt động của chân.
d. Trạng thái tâm lí.

Đề 2: Các từ in đậm trong đoạn văn sau đây thuộc trường từ vựng nào ?
Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô tôi chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài
nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là goá
chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha hương cầu thực. Nhưng đời nào
tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm
đến…
(Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)
* Gợi ý:

7
Các từ “hoài nghi, khinh miệt, ruồng rẫy, thương yêu, kính mến, rắp tâm” : trường từ
vựng “thái độ”

Đề 3:
Khi ngêi ta ®· ngoµi 70 xu©n th× tuæi t¸c cµng cao, søc khoÎ cµng thÊp.
(Hå ChÝ Minh, Di chóc)
Cho biÕt dùa trªn c¬ së nµo, tõ xu©n cã thÓ thay thÕ cho tõ tuæi. ViÖc thay tõ trong
c©u trªn cã t¸c dông diÔn ®¹t nh thÕ nµo?
Gợi ý:
- Dùa trªn c¬ së tõ xu©n lµ tõ chØ mét mïa xu©n trong n¨m, kho¶ng thêi gian t¬ng øng
víi mét tuæi. Cã thÓ coi ®©y lµ trêng hîp lÊy bé phËn ®Ó thay thÕ cho toµn thÓ, mét
h×nh thøc chuyÓn nghÜa theo ph¬ng thøc ho¸n dô.
- ViÖc thay tõ xu©n trong c©u trªn cã t¸c dông: thÓ hiÖn tinh thÇn l¹c quan cña t¸c gi¶.
Ngoµi ra cßn tr¸nh ®îc viÖc lÆp l¹i tõ tuæi t¸c.

2. Dạng bài tập 3 điểm:


X¸c ®Þnh trêng tõ vùng vµ ph©n tÝch c¸i hay trong c¸ch dïng tõ ë bµi th¬ sau:
¸o ®á em ®i gi÷a phè ®«ng
C©y xanh nh còng ¸nh theo hång
Em ®i löa ch¸y trong bao m¾t
Anh ®øng thµnh tro em biÕt kh«ng?
( Vò QuÇn Ph¬ng, ¸o ®á)
Gợi ý:
- C¸c tõ (¸o) ®á, (c©y) xanh, (¸nh ) hång, löa, ch¸y, tro t¹o thµnh 2 trêng tõ vùng: trêng tõ
vùng chØ mµu s¾c vµ trêng tõ vùng chØ löa vµ nh÷ng sù vËt, hiÖn tîng cã quan hÖ chÆt
chÏ víi nhau.
- Mµu ¸o ®á cña c« g¸i th¾p s¸ng lªn trong ¸nh m¾t chµng trai vµ bao ngêi kh¸c ngän
löa. Ngän löa ®ã lan to¶ trong con ngêi anh lµm anh say ®¾m, ng©y ngÊt (®Õn møc cã
thÓ ch¸y thµnh tro) vµ lan ra c¶ kh«ng gian lµm nã biÕn s¾c ( c©y xanh nh còng ¸nh theo
hång).
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ:
1. Dạng bài tập 1 điểm:
Em h·y t×m 1 sè tõ cã nhiÒu nghÜa?
Gợi ý:
- M¾t: m¾t na, m¾t døa, m¾t mÝa ...
- Mòi: mòi thuyÒn, mòi kiÕm, mòi Cµ Mau...

2. Dạng đề 2 điÓm
Xếp các từ mũi, nghe, tai, thính, điếc, thơm, rõ vào đúng trường từ vựng của nó theo
bảng sau (một từ có thể xếp cả 2 trường)
*Gợi ý:

8
Khứu giác Thính giác
Mũi, thơm, điếc, thính Tai, nghe, điếc, rõ, thính
TiÕt 5+6: MỘT SỐ PHÐp TU TỪ TỪ VỰNG
(So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, điệp ngữ, chơi chữ,
nói quá, nói giảm - nói tránh.)

A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. So sánh:
- Là đối chiếu sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng làm
tăng sức gợi hình, gơi cảm cho sự diễn đạt.
* Cấu tạo của phép so sánh
So sánh 4 yếu tố:
- Vế A : Đối tượng (sự vật) được so sánh.
- Bộ phận hay đặc điểm so sánh (phương diện so sánh).
- Từ so sánh.
- Vế B : Sự vật làm chuẩn so sánh.
Ta có sơ đồ sau :
Yếu tố 1 Yếu tố 2 Yếu tố 3 Yếu tố 4
Vế A Vế B
(Sự vật được Phương diện Từ so sánh (Sự vật dùng để làm
so sánh) so sánh chuẩn so sánh)
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Trẻ em như búp trên cành
+ Trong 4 yếu tố trên đây yếu tố (1) và yếu tố (4) phải có mặt
+ Yếu tố (2) và (3) có thể vắng mặt. Khi yếu tố (2) vắng mặt người ta gọi là so sánh chìm
vì phương diện so sánh (còn gọi là mặt so sánh) không lộ ra do đó sự liên tưởng rộng rãi
hơn, kích thích trí tuệ và tình cảm người đọc nhiều hơn.
* Các kiểu so sánh
a. So sánh ngang bằng
b. So sánh hơn kém
* Tác dụng của so sánh
+ So sánh tạo ra những hình ảnh cụ thể sinh động. Phần lớn các phép so sánh đều lấy cái
cụ thể so sánh với cái không cụ thể hoặc kém cụ thể hơn, giúp mọi người hình dung được
sự vật, sự việc cần nói tới và cần miêu tả.

2. Ẩn dụ:
- Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật hiện khác có nét tương đồng
quen thuộc nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”

9
Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ vì : lấy tên mặt trời gọi Bác. Mặt trời Bác có sự
tương đồng về công lao giá trị.
* Các kiểu ẩn dụ
+ Ẩn dụ hình tượng là cách gọi sự vật A bằng sự vật B.
+ Ẩn dụ cách thức là cách gọi hiện tượng A bằng hiện tượng B.
+ Ẩn dụ phẩm chất là cách lấy phẩm chất của sự vật A để chỉ phẩm chất của sự vật B.
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. là lấy cảm giác A để chỉ cảm giác B.
*Tác dụng của ẩn dụ
Ẩn dụ làm cho câu văn thêm giàu hình ảnh và mang tính hàm súc. Sức mạnh của ẩn
dụ chính là mặt biểu cảm. Cùng một đối tượng nhưng ta có nhiều cách thức diễn đạt khác
nhau. (thuyền – biển, mận - đào, thuyền – bến, biển – bờ) cho nên một ẩn dụ có thể dùng
cho nhiều đối tượng khác nhau. ẩn dụ luôn biểu hiện những hàm ý mà phải suy ra mới
hiểu. Chính vì thế mà ẩn dụ làm cho câu văn giàu hình ảnh và hàm súc, lôi cuốn người đọc
người nghe.
3. Nhân hóa  :
- Nhân hoá là cách gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật, hiện tượng thiên nhiên bằng những
từ ngữ vốn được dùng đẻ gọi hoặc tả con người; làm cho thế giới loài vật, cây cối đồ vật,
… trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ tình cảm của con người.
* Các kiểu nhân hoá
+ Gọi sự vật bằng những từ vốn gọi người
+ Những từ chỉ hoạt động, tính chất của con người được dùng để chỉ hoạt động, tính
chất sự vật.
+ Trò chuyện tâm sự với vật như đối với người
* Tác dụng của phép nhân hoá
- Phép nhân hoá làm cho câu văn, bài văn thêm cụ thể, sinh động, gợi cảm ; là cho thế giới
đồ vật, cây cối, con vật được gần gũi với con người hơn.
4. Hoán dụ:
- Gọi tên sự vật khái niệm bằng tên của một sự vật hiện tượng khái niệm khác có mối quan
hệ gần gũi với nó, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt
* Các kiểu hoán dụ
+ Lấy bộ phận để gọi toàn thể: Ví dụ lấy cây bút để chỉ nhà văn
+ Lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa đựng: làng xóm chỉ nông dân
+ Lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật: Hoa đào, hoa mai để chỉ mùa xuân
+ Lấy cái cụ thể để gọi caí trừu tượng: Mồ hôi để chỉ sự vất vả
5. Nói quá:
- Biện pháp tu từ phóng đại mức độ quy mô tính chất của sự vật hiện tượng được miêu tả
để gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm
6. Nói giảm, nói tránh
- Là biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị uyển chuyển, tránh gây cảm giác đau buồn
ghê sợ tránh thô tục, thiếu lịch sự
7. Điệp ngữ:
- Lặp lai từ ngữ kiểu câu làm nổi bật ý, gây cảm súc mạnh

10
- Điệp ngữ vừa để nhấn mạnh ý, tạo cho câu văn câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ giầu âm điệu,
nhịp nhàng, hoặc hào hùng mạnh mẽ
8. Chơi chữ  :
- Lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ để tạo sắc thái dí dỏm hài hước làm cho câu văn
hấp dẫn và thú vị
* Các lối chơi chữ :
+ Dùng từ đồng nghĩa, dùng từ trái nghĩa
+ Dùng lối nói lái
+ Dùng lối đồng âm:
+ Chơ chữ điệp phụ âm đầu
B. CÁC DẠNG BÀI TẬP
1. Dạng đề 1 điểm
Em hãy xác định câu thơ sau sử dụng biện pháp tu từ nào?
“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Gợi ý:
Nhân hóa: Thuyền im- bến mỏi- nằm
Con thuyền sau một chuyến ra khơi vất vả trở về, nó mỏi mệt nằm im trên bến. Con
thuyền được nhân hóa gợi cảm nói lên cuộc sống lao động vất vả, trải qua bao sóng gió thử
thách. Con thuyền chính là biểu tượng đẹp của dân chài.
2. Dạng đề 2 điểm:
Đề 1: Xác định điệp ngữ trong bài cao dao sau
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt, leo ra leo vào.
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt, leo vào leo ra.
Gợi ý: Điệp một từ: leo, cành, con kiến
Điệp một cụm từ: leo phải cành cụt, leo ra, leo vào.
Đề 2: Vận dụng kiến thức đã học về một số phép tu từ từ vựng để phân tích nét nghệ thuật
độc đáo của những câu thơ sau:
a, Gác kinh viện sách đôi nơi
Trong gang tấc lại gấp mười quan san
( Nguyễn Du, Truyện Kiều)
b, Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa
( Ca dao)
* Gợi ý:
a, Phép nói quá: Gác Quan Âm, nơi Thuý Kiều bị Hoạn Thư bắt ra chép kinh, rất gần với
phòng đọc sách của Thúc Sinh. Tuy cùng ở trong khu vườn nhà Hoạn Thư, gần nhau trong
gang tấc, nhưng giờ đây hai người cách trở gấp mười quan san.
- Bằng lối nói quá , tác giả cực tả sự xa cách giữa thân phận, cảnh ngộ của Thuý Kiều và
Thúc Sinh

11
b, Phép điệp ngữ (còn) và dùng từ đa nghĩa (say sưa)
- Say sưa vừa được hiểu là chàng trai vì uống nhiều rượu mà say, vừa được hiểu chàng trai
say đắm vì tình.
- Nhờ cách nói đó mà chàng trai thể hiện tình cảm của mình mạnh mẽ và kín đáo.
3. Dạng đề 3 điểm:
Xác định biện pháp tu từ từ vựng trong đoạn thơ sau. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ
đó

“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã


Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
(Tế Hanh - Quê hương )
Gợi ý:
* Biện pháp tu từ vựng
+ So sánh “chiếc thuyền” như “con tuấn mã” và cánh buồm như “mảnh hồn làng” đã tạo
nên hình ảnh độc đáo; sự vật như được thổi thêm linh hồn trở nên đẹp đẽ.
+ Cánh buồm còn được nhân hóa như một chàng trai lực lưỡng đang “rướn” tấm thân vạm
vỡ chống chọi với sóng gió.
* Tác dụng
- Góp phần làm hiện rõ khung cảnh ra khơi của người dân chài lưới. Đó là một bức tranh
lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống của người dân vùng biển.
- Thể hiện rõ sự cảm nhận tinh tế về quê hương của Tế Hanh...
- Góp phần thể hiện rõ tình yêu quê hương sâu nặng, da diết của nhà thơ.
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ
1. Dạng đề 1- 1,5 điểm:
Em hãy xác định những câu sau sử dụng biện pháp tu từ nào?
a. Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
b. Trẻ em như búp trên cành
c. Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Gợi ý: a. Chơi chữ
b. So sánh
c. Nhân hóa.
2. Dạng đề 2 điểm:
Đề 1: Em hãy sưu tầm 2 câu thơ, văn có sử dụng phép tu từ từ vựng, chỉ ra thuộc phép tu
từ nào?
Gợi ý: - Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
- Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

12
- Nhân hóa: buồn, sầu
- Nói quá: Mồ hôi như mưa
Đề 2: Vận dụng kiến thức đã học về một số phép tu từ từ vựng để phân tích nét nghệ thuật
độc đáo của những câu thơ sau:
a, Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
( Hồ Chí Minh, Ngắm trăng)
b, Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
( Nguyễn Khoa Điềm, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
* Gợi ý:

a, Phép nhân hoá: nhà thơ đã nhân hoá ánh trăng, biến trăng thành người bạn tri âm, tri kỉ.
- Nhờ phép nhân hoá mà thiên nhiên trong bài thơ trở nên sống động hơn, có hồn hơn và
gắn bó với con người hơn.
b, Phép ẩn dụ tu từ: từ mặt trời trong câu thơ thứ hai chỉ em bé trên lưng mẹ, đó là nguồn
sống, nguồn nuôi dưỡng niềm tin của mẹ vào ngày mai.

..................................................................................................

13
NGỮ PHÁP.

Tiết 1 - 2
TỪ LOẠI TIẾNG VIỆT

A. Tóm tắt kiến thức cơ bản


1. Danh từ
a) Khái niệm: Danh từ là từ chỉ sự vật, hiện tượng, khái niệm.
b) Các loại danh từ:
- Danh từ chỉ sự vật:
+ Danh từ chung: Là những danh từ có thể dùng làm tên gọi cho một loạt sự vật
cùng loại. VD: bàn, ghế, quần, áo, sách, bút ...
+ Danh từ riêng: Là những danh từ dùng làm tên gọi riêng cho từng cá thể, sự vật,
người, địa phương, cơ quan, tổ chức. VD: Hoàng, Trang, Hà nội, Trường THCS Ba
Đình ...
- Danh từ chỉ đơn vị:
+ Danh từ chỉ đơn vị tự nhiên (còn gọi là loại từ). VD: cái, con, hòn, viên, tấm, bức,
bọn, nhóm ...
+ Danh từ chỉ đơn vị quy ước (Danh từ chỉ đơn vị chính xác và danh từ chỉ đơn vị
ước chừng).
2. Động từ
a) Khái niệm: Động từ là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ hành động, trạng thái
của sự vật. Động từ có khả năng kết hợp với các từ đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, cứ, còn, hãy,
đừng, chớ ... và thường làm vị ngữ trong câu.
b) Các loại động từ: Động từ tình thái, động từ hành động trạng thái,
3. Tính từ
a) Khái niệm: Là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ đặc điểm, tính chất. Tính từ có
khả năng kết hợp với đã, đang, sẽ, rất, lắm, quá. Thường làm vị ngữ trong câu hoặc phụ
ngữ trong cụm danh từ và cụm động từ.
b) Các loại tính từ: Tính từ không đi kèm các từ chỉ mức độ và tính từ có thể đi kèm
các từ chỉ mức độ.
4. Số từ: Là những từ chỉ số lượng hoặc số thứ tự.
5. Đại từ là những từ dùng để thay thế cho người, sự vật, hoạt động, tính chất được nói đến
hoặc dùng để hỏi. Đại từ không có nghĩa cố định, nghĩa của đại từ phụ thuộc vào nghĩa của
từ ngữ mà nó thay thế.
6. Lượng từ là những từ chỉ lượng ít hay nhiều một cách khái quát.
7. Chỉ từ là những từ dùng để chỏ vào sự vật xác định sự vật theo các vị trí không gian
thời gian.

14
8. Phó từ là những từ chuyên đi kèm để bổ sung ý nghĩa cho động từ và tính từ. Phó từ
không có khả năng gọi tên các quan hệ về ý nghĩa mà nó bổ sung cho động từ và tính từ.
9. Quan hệ từ là những từ dùng nối các bộ phận của câu, các câu, các đoạn với nhau để
biểu thị các quan hệ khác nhau giữa chúng.
10. Trợ từ là các từ chuyên đi kèm các từ ngữ khác để nhấn mạnh hoặc để nêu ý nghĩa
đánh giá sự vật, sự việc được các từ ngữ đó biểu thị. Trợ từ không có khả năng làm thành
một câu độc lập.
Ví dụ: những, có, chính đích, ngay,...
11. Thán từ: là những từ dùng để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của người nói hoặc dùng để
gọi đáp. Thán từ thường đứng ở đầu câu, có khi nó được tách ra thành một câu đặc biệt.
Thán từ gồm 2 loại chính:
- Thán từ bộc lộ tình cảm, cảm xúc: a, ái, ôi, ô hay, than ôi, trời ơi,...
- Thán từ gọi đáp: này, ơi, vâng , dạ , ừ.
12. Tình thái từ là những từ dùng để tạo các kiểu câu phân loại theo mục đích nói.

B. Các dạng bài tập


1. Dạng bài tập 2 điểm
Bài tập 1. Cho các câu sau:
a)Tôi / không / lội / qua / sông / thả / diều / như / thằng / Quý / và / không / đi / ra /
đồng / nô đùa / như / thằng / Sơn / nữa.
b) Trong / chiếc / áo /vải / dù / đen / dài / tôi / cảm thấy / mình / trang trọng / và /
đứng đắn.
(Thanh Tịnh – Tôi đi học)
- Xác định từ loại cho các từ trong các câu trên.
- Hãy cho ví dụ về từ loại còn thiếu trong các câu trên.
Gợi ý:
* Xác định từ loại:
- Danh từ: sông, diều, thằng, Quý, thằng, Sơn, đồng, chiếc, áo, vải, dù.
- Động từ: lội, thả, đi, ra, nô đùa, cảm thấy.
- Tính từ: đen, dài, trang trọng, đứng đắn.
- Đại từ: tôi, mình.
- Phó từ: không, nữa,
- Quan hệ từ: qua, và, như.
* Ví dụ về một số từ loại còn thiếu:
- Số từ: hai, ba, thứ hai, thứ ba.
- Lượng từ: những, các, mọi, mỗi.
- Chỉ từ: này, kia, ấy, nọ.
- Trợ từ: chính đích, ngay, là, những, có.
- Tình thái từ: à, ư, hử, hả, thay, sao, nhé.
- Thán từ: ôi, ô hay, dạ, vâng, ơi.
Bài tập 2: Hãy thêm các từ cho sau đây vào trước những từ thích hợp với chúng trong ba
cột bên dưới. Cho biết mỗi từ trong ba cột đó thuộc từ loại nào?

15
a. những, các, một
b. hãy, đã, vừa
c. rất, hơi, quá
/ .../ hay /.../ cái( lăng) /.../đột ngột
/ .../ đọc /.../ phục dịch /.../ ông giáo
/.../ lần / .../ làng /.../ phải
/.../ nghĩ ngợi /.../ đập /.../ sung sướng
* Gợi ý
Rất hay (TT) một cái ( lăng) (DT) rất đột ngột (TT)
Đã đọc (ĐT) đã phục dịch (ĐT) những ông giáo (DT)
Một lần (DT) các làng (DT) rất phải (TT)
Vừa nghĩ ngợi (ĐT) vừa đập (ĐT) quá sung sướng (TT)
C. Bài tập về nhà:
Dạng bài tập 2 hoặc 3 điểm:
Viết một đoạn văn ngắn về chủ đề học tập trong đó có sử dụng các từ loại đã học.
Gợi ý: - Viết được đoạn văn theo đúng chủ đề.
- Trong đoạn văn có sử dụng từ 3 từ loại trở lên.
............................................................................................................................

Tiết 3 CỤM TỪ

A. Tóm tắt kiến thức cơ bản


I. Cụm danh từ
* Khái niệm: là loại tổ hợp từ do danh từ và một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. Cụm
danh từ có ý nghĩa đầy đủ hơn và có cấu tạo phức tạp hơn một mình danh từ, nhưng hoạt
động trong câu giống như một danh từ.
VD: Một túp lều nát trên bờ biển.
* Mô hình của cụm danh từ: Gồm có phần trước, phần trung tâm và phần sau.
- Các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho danh từ các ý nghĩa về số lượng.
- Các phụ ngữ ở phần sau nêu lên đặc điểm của sự vật mà danh từ biểu thị hoặc xác
định vị trí của sự vật ấy trong không gian hay thời gian.
VD: Một chàng dế thanh niên cường tráng.
số từ trung tâm Phụ sau
II. Cụm đông từ
* Khái niệm: là loại tổ hợp từ do động từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. Cụm
động từ có ý nghĩa đầy đủ hơn và có cấu tạo phức tạp hơn một mình động từ, nhưng hoạt
động trong câu giống như một động từ.
VD: Góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên.
* Mô hình của cụm động từ: Gồm có phần trước, phần trung tâm và phần sau.
- Các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho động từ các ý nghĩa về quan hệ thời gian,
sự tiếp diễn tương tự...

16
- Các phụ ngữ ở phần sau bổ sung cho động từ các chi tiết về đối tượng, hướng, địa
điểm, thời gian, mục đích, nguyên nhân...
VD: Chưa tìm được ngay câu trả lời.
PT PTT Phụ sau
III. Cụm tính từ
* Khái niệm: là loại tổ hợp từ do tính từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành . Cụm
tính từ có ý nghĩa đầy đủ hơn và có cấu tạo phức tạp hơn một mình tính từ, nhưng hoạt
động trong câu giống như một tính từ.
VD: Thơm dịu ngọt cốm mới.
* Mô hình của cụm tính từ: Gồm có phần trước, phần trung tâm và phần sau.
- Các phụ ngữ ở phần trước biểu thị quan hệ thời gian, sự tiếp diễn tương tự, mức độ
của đặc điểm, tính chất ...
- Các phụ ngữ ở phần sau biểu thị vị trí, sự so sánh, mức độ....
VD: Đang trẻ như một thanh niên
PT PTT Phần sau
B. Các dạng bài tập
Dạng bài tập 2 điểm:
Bài tập 1. Tìm và phân tích các cụm từ có trong đoạn trích sau:
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày
nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu đi
đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
(Thanh Tịnh - Tôi đi học)
* Gợi ý:
+ Cụm danh từ
- Những ý tưởng ấy.
PT DT PS
- Mấy em nhỏ.
PT DT
+ Cụm động từ:
- Chưa lần nào ghi lên giấy.
PT ĐT PS
- Lần đầu tiên đi đến trường.
PT ĐT PS
+ Cụm tính từ
- Rụt rè núp dưới nón mẹ .
TT PS
- Lại tưng bừng rộn rã
PT TT PS
Bài tập 2 ( 1 điểm)
Tìm phần trung tâm của các cụm từ in đậm trong các câu sau:
a. Nhưng những điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái
gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở Người.

17
(Lê Anh Trà, Phong cách Hồ Chí Minh).
b. Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ
ôm chặt lấy cổ anh.
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)
c. Không lời gửi của một Nguyễn Du, một Tôn - xtôi cho nhân loại phức tạp hơn, cũng
phong phú và sâu sắc hơn.

* Gợi ý
a. Nhưng những điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với
DT
cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay chuyển được ở người.
(Lê Anh Trà, Phong cách Hồ Chí Minh).
b. Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng
ĐT
anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh.
ĐT
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)
c. Không lời gửi của một Nguyễn Du, một Tôn - xtôi cho nhân loại phức tạp hơn,
TT
cũng phong phú và sâu sắc hơn.
TT
C. Bài tập về nhà:
* Dạng bài tập 1 hoặc 2 điểm:
Bài tập 1: Tìm trong các văn bản đã học một đoạn văn, chỉ ra các cụm từ và gạch chân các
cụm từ đó.
*Gợi ý:
- HS tìm được đoạn văn có sử dụng các cụm từ.
- Xác định đúng các cụm từ và gạch chân.

Bài tập 2. Hãy viết một đoạn văn ngắn từ 5 đến 7 câu trong đó có sử dụng các cụm từ đã
học, chỉ ra và phân tích các cụm từ đó theo mô hình 3 phần.
*Gợi ý:
- HS viết được đoạn văn có sử dụng các cụm từ (tùy sự sáng tạo của học sinh)
- Trình bày cấu trúc đúng theo kết cấu của đoạn văn, có nội dung theo một chủ đề
cụ thể cụ thể.
- Hình thức: trình bày sạch sẽ, khoa học.

......................................................................................................

Tiết 4 THÀNH PHẦN CÂU

A. Tóm tắt kiến thức cơ bản

18
I. Thành phần chính và thành phần phụ
1. Các thành phần chính.
- Chủ ngữ: Nêu lên sự vật, hiện tượng có đặc điểm, tính chất, hoạt động, trạng
thái ... được nói đến ở vị ngữ. Chủ ngữ thường trả lời câu hỏi ai, con gì, cái gì.
- Vị ngữ: Nêu lên đặc điểm, tính chất, hoạt động, trạng thái của sự vật, hiện tượng
được nói đến ở chủ ngữ, có khả năng kết hợp với các phó từ chỉ quan hệ thời gian. Vị ngữ
thường trả lời cho câu hỏi làm gì, như thế nào, là gì, ...
2. Các thành phần phụ.
- Trạng ngữ là thành phần nêu lên hoàn cảnh, thời gian, không gin, nguyên nhân,
mục đích, phương tiện, cách thức của sự việc được diễn đạt trong câu.
- Khởi ngữ: Là thành phần câu đứng trước chủ ngữ để nêu lên đề tài được nói đến
trong câu. Trước khởi ngữ, thường có thể thêm các quan hệ từ về, đối với.
II. Các thành phần biệt lập.
1. Thành phần tình thái: được dùng để thể hiện cách nhìn của người nói đối với sự việc
được nói đến trong câu.
* Những yếu tố tình thái gắn với độ tin cậy của sự việc được nói đến, như:
- chắc chắn, chắc hẳn, chắc là,... ( chỉ độ in cậy cao).
- hình như, dường như, hầu như, có vẻ như,.... (chỉ độ tin cậy thấp)
VD: Anh quay lại nhìn con vừa khe khẽ vừa lắc đầu cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi
không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.
* Những yếu tố tình thái gắn với ý kiến của người nói, như:
- theo tôi, ý ông ấy, theo anh
* Những yếu tố tình thái chỉ thái độ của người nói đối với người nghe, như:
- à, ạ, a, hả, hử, nhé, nhỉ, đây, đấy... (đứng cuối câu).
VD: Mời u xơi khoai đi ạ! (Ngô Tất Tố)
2. Thành phần cảm thán: được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói (vui, buồn, mừng,
giận,...).
VD: Trời ơi! Chỉ còn có năm phút.
3. Thành phần gọi – đáp: được dùng để tạo lập hoặc duy trì quan hệ giao tiếp.
VD:
- Bác ơi, cho cháu hỏi chợ Đông Ba ở đâu?
- Vâng, mời bác và cô lên chơi
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)

4. Thành phần phụ chú: được dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của
câu. Thành phần phụ chú thường đặt giữa hai dấu gạch ngang, hai dấu phẩy, hai dấu ngoặc
đơn hoặc giữa một dấu gạch ngang với một đấu phẩy. Nhiều khi thành phần phụ chú còn
được đặt sau dấu hai chấm.
VD: Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh- và cũng là đứa con duy nhất của anh,
chưa đầy một tuổi
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)

19
- Các thành phần tình thái, cảm thán, gọi- đáp, phụ chú là những bộ phận không
tham gia vào việc diễn đạt nghĩa sự việc của câu nên được gọi là thành phần biệt lập.
B. Các dạng bài tập
* Dạng bài tập 2 điểm:
Bài tập 1. Chỉ ra các thành phần câu trong mỗi câu sau:
a) Nửa tiếng đồng hồ sau, chị Thao chui vào hang.
(Lê Minh Khuê – Những ngôi sao xa xôi)
b) Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam – những người con ở xa bày tỏ niềm
tiếc thương vô hạn.
c) Thế à, cảm ơn các bạn!
(Lê Minh Khuê – Những ngôi sao xa xôi)
d) Này ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn.
(Nam Cao – Lão Hạc)
*Gợi ý:
a) Nửa tiếng đồng hồ sau, chị Thao chui vào hang.
TN CN VN
(Lê Minh Khuê – Những ngôi sao xa xôi)
b) Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam – những người con ở xa - bày tỏ
TPPC
niềm tiếc thương vô hạn.

c) Thế à, cảm ơn các bạn!


CT
(Lê Minh Khuê – Những ngôi sao xa xôi)
d) Này! ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn.
TT (Nam Cao – Lão Hạc)

Bài tập 2 : Tìm các thành phần tình thái, cảm thán trong những câu sau đây :
a, Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia
nhiều.
(Kim Lân, Làng)
b, Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác,
nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
c, Ông lão bỗng ngừng lại ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Chả nhẽ cái
bọn ở làng lại đổ đốn đến thế được.
(Kim Lân, Làng)
Gợi ý:
a, Thành phần tình thái: có lẽ
b, Thành phần cảm thán: Chao ôi
c, Thành phần tình thái: Chả nhẽ

20
C. Bài tập về nhà:
* Dạng bài tập 1 hoặc 2 điểm:
Bài tập 1: Đặt 2 câu và xác định các thành phần trong câu đó.
* Gợi ý:
a) Chim hót chào bình minh.
CN VN
b) Qua mùa đông, cây bàng trụi không còn một lá.
TN CN VN
Bài tập 2: Xác định thành phần phụ chú, thành phần khởi ngữ trong các ví dụ sau:
a, Thế rồi bỗng một hôm, chắc rằng hai cậu bàn cãi mãi, hai cậu chợt nghĩ kế rủ
Oanh chung tiền mở cái trường
(Nam Cao)
b) Lan - bạn thân của tôi - học giỏi nhất lớp.
c. Nhìn cảnh ấy mọi người đều chảy nước mắt, còn tôi, tôi cảm thấy như
có ai đang bóp nghẹt tim tôi.
(Nguyễn Quang Sáng - Chiếc lược ngà)
d. Kẹo đây, con lấy mà chia cho em.
* Gợi ý:
- Thành phần phụ chú: a) chắc rằng hai cậu bàn cãi mãi
b) bạn thân của tôi
- Thành phần khởi ngữ: c) còn tôi,
d) kẹo đây

* Dạng bài tập 3 điểm


Viết một đoạn văn ngắn nói về cảm xúc của em khi đọc xong một tác phẩm văn
học, trong đó có chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán.

*Gợi ý:
- HS viết được đoạn văn có sử dụng thành phần tình thái hoặc cảm thán (tùy sự sáng
tạo của học sinh)
- Trình bày cấu trúc đúng theo kết cấu của đoạn văn, có nội dung theo một tác phẩm
cụ thể.
- Hình thức: trình bày sạch sẽ, khoa học.
.......................................................................................................

Tiết 5 - 6. CÁC KIỂU CÂU

A. Tóm tắt kiến thức cơ bản


I. Câu đơn
* Khái niệm : Câu đơn là câu có một cụm C-V là nòng cốt.
VD: Ta hát bài ca tuổi xanh.
C V

21
II. Câu đặc biệt
* Khái niệm: Là câu không có cấu tạo theo mô hình chủ ngữ - vị ngữ, câu đặc biệt có cấu
tạo là một từ hoặc cụm từ làm trung tâm cú pháp của câu.
VD: Gió. Mưa. Não nùng.
III. Câu ghép
1. Đặc điểm của câu ghép
- Câu ghép là những câu do hai hoặc nhiều cụm C – V không bao chứa nhau tạo
thành. Mỗi cụm C – V được gọi là một vế câu.
VD: Gió càng thổi mạnh thì biển càng nổi sóng
C V C V
2. Cách nối các vế câu ghép.
* Có hai cách nối các vế câu:
- Dùng các từ có tác dụng nối:
+ Nối bằng một quan hệ từ: và, rồi, nhưng, còn, vì, bởi vì, do, bởi, tại ….
+ Nối bằng một cặp quan hệ từ: vì … nên (cho nên) …., nếu … thì …; tuy ... nhưng

+ Nối bằng một cặp phó từ (vừa … vừa ..; càng … càng …; không những … mà còn
…; chưa … đã …; vừa mới … đã …), đại từ hay chỉ từ thường đi đôi với nhau (cặp từ hô
ứng) ( ai …nấy, gì … ấy, đâu … đấy, nào…. ấy, sao … vậy, bao nhiêu ….bấy nhiêu)
- Không dùng từ nối: Trong trường hợp này, giữa các vế câu cần có dấu phẩy, dấu
chấm phẩy hoặc dấu hai chấm.
3. Quan hệ ý nghĩa giữa các vế câu.
- Những quan hệ thường gặp: quan hệ nguyên nhân, quan hệ điều kiện (giả thiết),
quan hệ tương phản, quan hệ tăng tiến, quan hệ lựa chọn, quan hệ bổ sung, quan hệ tiếp
nối, quan hệ đồng thời, quan hệ giải thích.
- Mỗi quan hệ thường được đánh dấu bằng những quan hệ từ, cặp quan hệ từ hoặc
cặp từ hô ứng nhất định. Tuy nhiên, để nhận biết chính xác quan hệ ý nghĩa giữa các vế
câu, trong nhiều trường hợp, ta phải dựa vào văn cảnh hoặc hoàn cảnh giao tiếp.
III. Biến đổi câu.
1. Rút gọn câu.
- Khi nói hoặc viết có thể lược bỏ một số thành phần của câu tạo thành câu rút gọn.
- Câu rút gọn còn được dùng để ngụ ý rằng hành động, tính chất được nêu trong câu
là của chung mọi người.
-VD: Học, học nữa, học mãi. (Lê-nin)
2. Tách câu.
- Khi sử dụng câu, để nhấn mạnh người ta có thể tách một thành phần nào đó của
câu (hoặc một vế câu) thành một câu riêng.
- VD: Đơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn. Và làm việc có khi suốt đêm.
(Lê Minh Khuê - Những ngôi sao xa xôi)
3. Câu bị động.
- Là câu có chủ ngữ chỉ đối tượng bị hành động nêu ở vị ngữ hướng tới.
- VD: Thầy giáo khen Nam. (Câu chủ động)

22
Nam được thầy giáo khen. (Câu bị động)

B. Các dạng bài tập


* Dạng bài tập 1 điểm:
Bài tập 1.
Các câu sau gồm mấy cụm C – V, chúng có phải là câu ghép không?
a) Bác trai đã khá rồi chứ ?
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
b) Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt!
(Nam Cao, Lão Hạc)
c) Nắng ấm, sân rộng và sạch.
d) … Bà ta thương tình toan gọi hỏi xem sao thì mẹ tôi vội quay đi, lấy nón che.
(Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)

Gợi ý
a) Bác trai đã khá rồi chứ ? = > Câu đơn
C V

b) Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! = > Câu đơn


C V

c) Nắng ấm, / sân rộng và sạch. = > Câu ghép


C V C V
d) … Bà ta thương tình toan gọi hỏi xem sao thì mẹ tôi vội quay đi, lấy nón che.
C V C V
= > Câu ghép

Bài tập 2.
Trong những câu sau, câu nào là câu ghép? Các vế trong câu ghép đó được nối với
nhau bằng những phương tiện nào?
a) Cây non vừa trồi, lá đã xòa sát mặt đất.
(Nguyễn Thái Vận)
b) Tôi nói “nghe đâu” vì tôi thấy người ta bắn tin rằng mẹ và em tôi xoay ra sống
bằng cách đó.
(Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)

c) Hổ đực mừng rỡ đùa giỡn với con, còn hổ cái thì nằm phục xuống, dáng mỏi mệt
lắm.
(Con hổ có nghĩa)
d) Trời chưa sáng, nó đã dậy.
Gợi ý:
a) Câu ghép có các vế câu nối với nhau bằng dấu phẩy.

23
b) Câu ghép có các vế câu nối với nhau bằng quan hệ từ vì.
c) Câu ghép có các vế câu nối với nhau bằng quan hệ từ còn.
d) Câu ghép có các vế câu nối với nhau bằng cặp phó từ chưa … đã

* Dạng bài tập 2 điểm.


Bài tập 1. Cho biết các mối quan hệ giữa các vế của những câu ghép dưới đây:
a) Giá như nó nghe tôi thì đâu đến nỗi phải nghỉ học.
b) Tôi đọc sách, còn nó nấu cơm.
c) Để phong trào thi đua của lớp ngày một tiến bộ thì chúng ta phải cố gắng hơn.
d) Trời càng mưa to đường càng ngập nước.
Gợi ý:
a) Quan hệ điều kiện (giả thiết) – hệ quả.
b) Quan hệ tương phản.
c) Quan hệ mục đích.
d) Quan hệ tăng tiến.

Bài tập 2. Trong số những câu dưới đây câu nào là câu tỉnh lược, câu nào là câu đặc
biệt:
- Một người qua đường đuổi theo nó. Hai người qua đường đuổi theo nó. Rồi ba
bốn người, sáu bảy người. Rồi hàng chục người.
(Nguyễn Công Hoan)

- Đình chiến. Các anh bộ đội đội nón lưới có gắn sao kéo về đầy nhà Út.
(Nguyễn Thi)
* Gợi ý:
- Câu tỉnh lược: + Rồi ba bốn người, sáu bảy người.
+ Rồi hàng chục người.
- Câu đơn đặc biệt: Đình chiến.

Bài tập 3. Tìm câu bị động trong phần trích sau:


Con mèo nhà em bị con chó nhà hàng xóm cắn. Nó đau lắm nhưng không hề rên
một tiếng.
* Gợi ý: Câu bị động: Con mèo nhà em bị con chó nhà hàng xóm cắn.

III. Bài tập về nhà.


* Dạng bài tập 2 điểm
Bài tập 1: Viết một đoạn văn ngắn về một trong các đề tài sau ( trong đoạn văn có sử
dụng ít nhất là một câu ghép ).
a/ Thay đổi thói quen sử dụng bao bì ni lông
b/ Tác dụng của việc lập dàn ý trước khi viết bài tập làm văn
Gợi ý :
Bước 1: lựa chọn đề tài .

24
Bước 2 : xác định cấu trúc đoạn văn ( Quy nạp , diễn dịch, song hành…)
Bước 3 : viết các câu văn
Bước 4 : kiểm tra tính liên kết của đoạn văn
Bước 5 : gạch chân câu ghép đã sử dụng trong đoạn văn
* Với đề tài (a): Muốn tạo câu ghép, có thể dựa vào tính chất tiện lợi nhưng cũng có nhiều
tác hại của bao bì ni lông hoặc cách sử dụng bao bì ni lông để tạo câu ghép với cặp từ
“tuy…. nhưng…”, hoặc “nếu….. thì …
* Chọn câu ghép có quan hệ điều kiện, nguyên nhân để viết: (cả đề tài a và b)
VD: - Nếu chúng ta sử dụng bao bì ni lông đúng cách thì môi trường sẽ không bị ô
nhiễm.
- Nếu chúng ta thực hiện lập dàn ý trước khi viết bài tập làm văn thì bài văn sẽ
mạch lạc và đủ ý.

Bài tập 2. Đọc đọc trích dưới đây và trả lời câu hỏi:
Chị Dậu càng tỏ ra bộ đau đớn:
- Thôi, u van con, u lạy con, con có thương thầy, thương u, thì con đi ngay bây giờ
cho u. Nếu con chưa đi, cụ Nghị chưa giao tiền cho, u chưa có tiền nộp sưu thì không
khéo thầy con sẽ chết ở đình, chứ không sống được. Thôi, u van con, u lạy con, con có
thương thầy, thương u thì con đi ngay bây giờ cho u.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
a) Quan hệ ý nghĩa giữa các vế của câu ghép thứ hai là quan hệ gì? Có nên tách mỗi
vế câu thành một câu đơn không? Vì sao?
b) Thử tách mỗi vế trong câu ghép thứ nhất và thứ ba thành một câu đơn. So sánh
cách viết ấy với cách viết trong đoạn trích, qua mỗi cách viết, em hình dung nhân vật nói
như thế nào?
Gợi ý:
a) Quan hệ ý nghĩa giữa các vế của câu ghép thứ hai là quan hệ điều kiện. Để thể
hiện rõ mối quan hệ này, không nên tách mỗi vế câu thành một câu đơn.
b) Trong các câu ghép còn lại, nếu tách các vế câu thành một câu đơn thì hàng loạt
câu ngắn đứng cạnh nhau như vậy có thể giup ta hình dung là nhân vật nói nhát gừng hoặc
nghẹn ngào. Trong khi đó cách viết của Ngô Tất Tố gợi ra cách nói kể lể, van vỉ thiết tha
của chị Dậu.

.....................................................................................................

25
PHẦN II. TËp LÀM VĂN
.
VĂN TỰ SỰ

Tiết 1+2+3:
CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT TRONG VĂN TỰ SỰ

A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


- Khái niệm tự sự: là trình bày một chuỗi các sự việc, từ sự việc này dẫn đến sự việc
kia và dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
- Tóm tắt văn bản tự sự là dùng lời văn của mình trình bày một cách ngắn gọn nội dung
chính (sự việc tiêu biểu và nhân vật quan trọng) của văn bản đó.
- Cần đọc kĩ đề, hiểu đúng chủ đề văn bản, xác định nội dung cần tóm tắt; sắp xếp các
nội dung ấy theo một thứ tự hợp lí sau đó viết thành một văn bản tóm tắt.
- Trong văn bản tự sự, sự miêu tả cụ thể chi tiết về cảnh vật, nhân vật và sự việc có tác
dụng làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn, gợi cảm. Qua đó, giúp học sinh thấy được vai
trò của yếu tố miêu tả hành động, sự việc, cảnh vật và con người trong văn bản tự sự.
- Nghị luận là nêu lý lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào
đó.
- Vai trò, ý nghĩa của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự: để người đọc, người nghe
phải suy ngẫm về một vấn đề nào đó.
- Phương thức nghị luận: dùng lý lẽ, lô gích, phán đoán... nhằm làm sáng tỏ một ý kiến,
một quan điểm, tư tưởng nào đó.
- Dấu hiệu và đặc điểm của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự:
+ Nghị luận thực chất là các cuộc đối thoại (đối thoại với người hoặc với chính mình)
+Dùng nhiều câu khẳng dịnh và phủ định, câu có tác dụng mệnh đề hô ứng như:
nếu...thì, chẳng những....mà còn....
+ Dùng nhiều từ có tính chất lập luận như: tại sao, thật vậy, tuy thế...

26
- Đối thoại, độc thoai, độc thoại nội tâm là những hình thức quan trọng để thể hiện nhân
vật trong văn bản tự sự.
+ Đối thoại là hình thức đối đáp, trò chuyện giữa hai hoặc nhiều người. Trong văn bản tự
sự, đối thoại được thể hiện bằng cách gạch đầu dòng ở đầu lời trao và lời đáp (mỗi lượt lời
là một lần gạch đầu dòng)
+ Độc thoại là lời của một người nào đó nói với chính mình hoặc nói với một ai đó trong
tưởng tượng. Trong văn bản tự sự, khi người độc thoại nói thành lời thì phía trước câu nói
có gạch đầu dòng; còn khi không thành lời thi không có gạch đầu dòng.
B. CÁC DẠNG ĐỀ
I. Dạng đề từ 2 đến 3 điểm
Đề 1: Tóm tắt một câu chuyện xảy ra trong cuộc sống mà em đã được nghe kể hoặc đã
được chứng kiến.
*Gợi ý:
1. Mở đoạn: giới thiệu khái quát về câu chuyện kể đó: Ở đâu? Khi nào? Có những ai
tham gia?
2. Thân đoạn: Trình bày nội dung của câu chuyện:
- Nguyên nhân dẫn đến sự việc trong câu chuyện đó?
- Sự việc đó diễn ra như thế nào?
- Kết cục của sự việc đó ra sao?
- Sự việc đó có ý nghĩa như thế nào đối với em?
3. Kết đoạn:
- Suy nghĩ của em về sự việc đó. Liên hệ bản thân.
Đề 2:
Hãy tóm tắt truyện ngắn "Chiếc lược ngà" (Nguyễn Quang Sáng) bằng một đoạn văn
(từ 10 đến 12 dòng)
* Gợi ý:
- Trước khi chuẩn bị đi tập kết, anh Ba cùng anh Sáu về thăm gia đình, nhưng suốt ba
ngày đêm ở nhà, bé Thu, con gái anh nhất định không chịu nhận anh Sáu là ba của mình.
Mặc dù anh đã tìm hết cách để chứng minh. Khi biết sự thật thì đã tới lúc anh Sáu phải lên
đường. Ở khu căn cứ, anh dồn hết sức làm chiếc lược ngà tặng con gái. Nhưng trong một

27
trận càn, anh đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, với
lời hứa sẽ trao tận tay cho bé Thu.
Đề 3: Xác định yếu tố nghị luận trong đoạn văn sau:
Một học sinh xấu tính
Trong lớp chúng tôi có một đứa rất khó chịu, đó là Phran-ti. Tôi ghét thằng này vì nó
là một đứa rất xấu bụng. Khi thấy một ông bố nào đấy đến nhờ thấy giáo khiển trách con
mình là nó mừng rỡ. Khi có người khóc là nó cười. Nó run sợ trước mặt Ga-rô-nê, nhưng
lại đánh cậu bé thợ nề không đủ sức tự vệ. Nó hành hạ Grốt-xi, cậu bé bị liệt một cánh tay,
chế giễu Prê- cốt-xi mà mọi người đều nể, nhạo báng cả Rô- bét- ti, cậu học sinh lớp hai đi
phải chống nạng vì đã cứu một em bé. Nó khiêu khích những người yếu nhất, và khi đánh
nhau thì nó hăng máu, trở nên hung tợn, cố chơi những miếng rất hiểm độc.
Có một cái gì làm cho người ta ghê tởm ở cái trán thấp ấy, trong cái nhìn vẩn đục ấy,
được che giấu dưới cái mũ có lưỡi trai bằng vải dầu [...]. Sách, vở, sổ tay của nó đều giây
mực bê bết rách nát và bẩn thỉu; thước kẻ thì như có răng cưa, ngòi bút thì toè ra, móng tay
thì cắn bằng mồm, quần áo thì bị rách tứ tung trong những lúc đánh nhau...
( Ét- môn-đô-đơ- A-mi-xi, Những tấm lòng cao cả)
Gợi ý:
- Yếu tố nghị luận: chứng minh
- Vấn đề nghị luận: những thói xấu của Phran-ti
- Chứng minh vấn đề: lần lượt nêu ra các ví dụ cụ thể biểu hiện những thói xấu của Phran-
ti: từ tâm lý, tính cách, ngôn ngữ, hành động... đến ăn mặc, quần áo, sách vở.
II. Dạng đề từ 5 đến 7 điểm
Đề 1: Tóm tắt văn bản: "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
Gợi ý: Các sự việc chính trong truyện để viết thành văn bản như sau:
- Xưa có chàng Trương Sinh cùng vợ là Vũ Nương sống với nhau rất hạnh phúc.
- Giặc đến,triều đình kêu gọi thanh niên trai tráng trong làng đi lính. Trương Sinh bị bắt
đi lính.
- Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ già, nuôi dưỡng con nhỏ và ngày ngày ngóng trông
tin tức của chồng.
- Giặc tan, Trương Sinh trở về nghe lời con nhỏ nghi vợ mình không chung thuỷ.
- Vũ Nương bị oan, gieo mình xuống sông hoàng Giang để tự vẫn

28
- Một đêm Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường
và nói đó chính là người hay tới đêm đêm.
- Chàng Trương hiểu ra rằng vợ mình bị oan.
- Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương dưới thuỷ cung.
- Khi Phan Lang được trở về trần gian, Vũ Nương giữ chiếc hoa vàng cùng lời nhắn
cho Trương Sinh.
- Trương Sinh lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang, Vũ Nương trở về ngồi trên chiếc
kiệu hoa đứng ở giữa dòng, lúc ẩn, lúc hiện
Đề 2: Dựa vào đoạn trích cảnh ngày xuân hãy viết một bài văn kể về việc chị em Thúy
Kiều đi chơi xuân trong tiết thanh minh. Trong khi kể chú ý vận dụng miêu tả cảnh ngày
xuân
* Gợi ý:
a. Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về gia cảnh Vương viên ngoại.
- Cú ba người con: Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan.
- Nhân tiết thanh minh, ba chị em rủ nhau đi chơi xuân.
b. Thân bài:
* Quang cảnh ngày xuân:
- Tiết thanh minh vào đầu tháng ba (âm lịch), khí trời mưa xuân mát mẻ, trong lành,
hoa cỏ tốt tươi, chim chao liệng trên bầu trời quang đãng.
- Khung cảnh rộn ràng tấp nập, ngựa xe như nước, tài tử, giai nhân dập dìu chen vai
sát cánh...
- Nhà nhà lo tảo mộ cũng bởi ... sự giao hòa giữa người sống và người chết diễn ra
trong không khí thiêng liêng.
* Cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều.
- Ba chị em vui vẻ hòa vào dòng người đi trẩy hội.
- Lần đầu tiên được đi chơi xa, tâm trạng ai cũng náo nức, hân hoan...
- Chiều tà, người đó vón, cảnh vật gợi buồn.
"Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang

29
...
Chị em thơ thẩn dan tay ra về"
c. Kết bài:
- Tâm trạng Thúy Kiều vui buồn bâng khuâng khó tả.
- Vương Quan giục hai chị em rảo bước bởi đường về còn xa.

Đề 3: Hãy kể về một người bạn mà em yêu quý.


Gợi ý dàn bài:
* Mở bài:
- Giới thiệu người bạn ( tên, tuổi, học ở trường nào...) và tình cảm của em đối với bạn.
* Thân bài: Kể về người bạn mà em yêu quý ( kết hợp miêu tả, biểu cảm, nghị luận)
( Nghị luận: lý do mà mình yêu quý bạn: có thể là bạn ngoan, học giỏi, hay giúp đỡ bạn
bè....)
* Kết bài: khẳng định lại tình bạn, mong muốn....
C.BÀI TẬP VỀ NHÀ:
I. Dạng đề từ 2 đến 3 điểm:
Đề 1: Hãy tóm tắt truyện ngắn "Chiếc lược ngà" (Nguyễn Quang Sáng) bằng một đoạn
văn (từ 10 đến 12 dòng)
* Gợi ý:
- Trước khi chuẩn bị đi tập kết, anh Ba cùng anh Sáu về thăm gia đình, nhưng suốt ba
ngày đêm ở nhà, bé Thu, con gái anh nhất định không chịu nhận anh Sáu là ba của mình.
Mặc dù anh đã tìm hết cách để chứng minh. Khi biết sự thật thì đã tới lúc anh Sáu phải lên
đường. ở khu căn cứ, anh dồn hết sức làm chiếc lược ngà tặng con gái. Nhưng trong một trận
càn, anh đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, với lời
hứa sẽ trao tận tay cho bé Thu.
Đề 2: Tìm yếu tố tả người và tả cảnh trong hai đoạn trích "Chị em Thúy Kiều và Cảnh
ngày xuân" (Nguyễn Du)
* Gợi ý:
+ Tả người: " Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

30
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"
+ Tả cảnh:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"

"Tà tà bóng ngả về tây


Chị em thơ thẩn đan tay ra về"

Đề 3: Viết một đoạn văn (từ 15 đến 20 dòng) kể về một việc tốt mà em đã làm, trong đó có
sử dụng yếu tố nghị luận.
Gợi ý:
* Mở đoạn:
- Giới thiệu hoàn cảnh làm được việc tốt, việc tốt đó là gì? cảm xúc của em khi làm được
việc tốt.
* Thân đoạn: kể về việc tốt mà em đã làm ( có thể là: giúp đỡ một bà cụ qua đường, một
bạn học sinh nghèo trong lớp...)
( nghị luận: ý nghĩa của việc tốt mình đã làm)
* Kết đoạn:
- Khẳng định sự cần thiết và ý nghĩa to lớn của những việc làm tốt trong đời sống, xã hội.
II. Dạng đề từ 5 đến 7 điểm:
Đề 1: Hãy kể một kỉ niệm về thầy (hay cô giáo cũ ) mà em nhớ mãi.
* Gợi ý:
* Mở bài:
- Giới thiệu chung: Hoàn cảnh để nhớ lại kỉ niệm về thầy (cô) giáo cũ.
* Thân bài:

31
- Kể về kỉ niệm gắn bó với thầy, cô.( Kết hợp miêu tả ngoại hình, tính cách...) của
thầy, cô
* Kết bài:
- Cảm nghĩ của em về những kỉ niệm đó

Đề 2: Hãy kể về một người thân yêu gần gũi nhất với em.
* Gợi ý dàn bài:
* Mở bài: giới thiệu về người thân (tên tuổi, nghề nghiệp, tình cảm của mình với người
thân...)
* Thân bài: kể chuyện về người thân (có thể chọn kể về công việc, sở thích, tính cách của
người thân...)
(Nghị luận: tình cảm của mình với người thân và ngược lại)
* Kết bài: khẳng định lại tình cảm của mình với người thân.
Đề 3: Hãy kể lại tình đồng chí, đồng đội của những người lính trong bài thơ "Đồng
chí" của Chính Hữu.
* Gợi ý dàn bài:
* Mở bài:
Giới thiệu hoàn cảnh tiếp xúc bài thơ " Đồng chí" và tình đồng chí đội thắm thiết, sâu
nặng của những người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp nói chung, trong bài
thơ nói riêng.
* Thân bài:
- Kể về tình đồng chí đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính trong bài thơ:
+ Những người lính trong bài thơ họ đều xuất thân từ nông dân, từ những vùng quê nghèo.
+ Họ cùng chung mục đích, lý tưởng, chung nhiệm vụ.
+ Họ cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
+ Họ cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính
+ Tình cảm gắn bó sâu nặng giữa những người lính.
+ Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang mùa đông, sương muối gió rét.
* Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng cụ thể là hình
ảnh anh bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Suy nghĩ của bản thân về những người lính cách mạng...
....................................................................................

32
CHUYÊN ĐỀ 2: VĂN NGHỊ LUẬN
Tiết 1+ 2: CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ
MỘT SỰ VIỆC HIỆN TƯỢNG TRONG ĐỜI SỐNG

A. TÓM TẮT KIẾN THỨC.


- Văn nghị luận là đưa ra các lý lẽ dẫn chứng để bảo vệ hoặc làm sáng tỏ một quan
điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.
- Một bài văn nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận. Trong một văn
có thể có một luận điểm chính và các luận điểm phụ.
+ Luận điểm: Là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới
hình thức câu khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán. Luận
điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn văn thành một khối. Luận điểm phải
đúng đắn, chân thật, đáp ứng nhu cầu thực tế thì mới có sức thuyết phục.
+Luận cứ: là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải chân
thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có sức thuyết phục.
+ Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí
thì bài văn mới có sức thuyết phục.
* Các dạng nghị luận ở lớp 9.
- Nghị luận xã hội:
+ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống.
+ Nghị luận về một tư tưởng đạo lý.
- Nghị luận văn học:
+ Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
+ Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
- Văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống là bàn về một sự việc,
hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen hay đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ.

33
* Yêu cầu chung của bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống.
- Bài nghị luận phải nêu được sự việc, hiện tượng có vấn đề. Phân tích mặt đúng,
mặt sai, nguyên nhân và bày tỏ thái độ của người viết.
- Hình thức phải có bố cục mạch lạc, rõ ràng, luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực,
lập luận phù hợp.
* Cách làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống.
- Muốn làm tốt bài văn phải tuõn theo các bước sau:
+ Đọc kĩ đề (tìm hiểu đề).
+ Phân tích sự việc, hiện tượng đó để tìm ý.
+ Lập dàn ý.
+ Đọc bài và sửa chữa.
B. CÁC DẠNG ĐỀ.
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm.
Đề 1.
Cho các đề sau:
1. Trong trường, trong lớp em có nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó học
giỏi. Em hãy trình bày một trong những tấm gương đó và nêu lên suy nghĩ của mình.
2. Hiện nay có tình trạng nhiều bạn học sinh mải chơi trò chơi điện tử, sao nhãng
việc học hành.Em có thái độ như thế nào trước hiện tượng đó.
3. Trường em vừa phát động phong trào xây dựng quỹ ''Ba đủ '' giúp đỡ các bạn học
sinh có hoàn cảnh khó khăn. Em có suy nghĩ gì về việc này.
Em hãy so sánh chỉ ra điểm giống và khác nhau trong các đề?
Gợi ý:
* Giống nhau:
- Thể loại đều là văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống.
- Các đề yêu cầu người viết phải trình bày được quan điểm, tư tưởng, thái độ của
mình đối với vấn đề đặt ra.
* Khác nhau:
- Đề 1 và đề 3 đưa ra những nhận xét, suy nghĩ về những việc làm tốt đáng biểu
dương, nhân rộng điển hình.

34
- Đề 2 cần có thái độ dứt khoát lên án, tuyên truyền loại bỏ hiện tượng xấu.

Đề 2.
Tìm hiểu đề và luËn ®iÓm cho đề sau: Hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ.
Gợi ý:
- Thể loại: Nghị luận về một sự việc hiện tượng trong đời sống đó là vấn đề hút
thuốc lá.
- Nội dung: Phải nêu bật hút thuốc lá là hiện tượng đáng chê, cần tuyên truyền đến
mọi người hiểu được tác hại của thuốc lá để có một môi trường trong lành không khói
thuốc.
- Yêu cầu học sinh tìm ra các luËn ®iÓm sau:
+ Chỉ ra nguyên nhân, biểu hiện của hiện tượng đó.
+ Trình bày được các tác hại, hậu quả của thuốc lá đối với sức khoẻ người hút
và sức khoẻ cộng đồng.
+ Bày tỏ thái độ và tuyên truyền đến mọi người.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm.
Đề 1.
Em hãy viết bài nghị luận tuyên truyền đến mọi người từ bỏ thuốc lá vì sức khoẻ
cộng đồng.
Dàn bài:
* Mở bài.
- Giới thiệu thực trạng của hiện tượng hút thuốc lá trong xã hội hiện nay.
* Thân bài.
- Chỉ ra các nguyên nhân, biểu hiện, hậu quả, tác hại của việc hút thuốc lá (lấy dẫn
chứng tiêu biểu minh hoạ, thuyết phục).
+ Ảnh hưởng tới sức khoẻ của mỗi cá nhân người hút thuốc sinh ra các căn bệnh
hiểm nghèo. Ảnh hưởng tới những người xung quanh, sức khoẻ cộng đồng và vấn đề giống
nòi.
+ Ảnh hưởng xấu tới môi trường sống.
+ Gây tốn kém tiền bạc cho người hút thuốc lá.

35
- Ảnh hưởng tác động của thuốc lá đến lứa tuổi thanh thiếu niên như thế nào ?
- Thái độ và hành động của thế giới, cả nước nói chung và của học sinh chúng ta nói
riêng ra sao?
* Kết bài.
- Lời kêu gọi hãy vì sức khoẻ cộng đồng và vì một môi trường không có khói thuốc
lá.
- Liên hệ bản thân và rút ra bài học kĩ năng sống .
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ.
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm.
Đề 1.
Hãy viết một đoạn văn ngắn(từ 15 đến 20 dòng) về một sự việc, hiện tượng đáng phê
phán ở địa phương em.
Gợi ý:
- HS xác định những sự việc, hiện tượng nổi bật, nóng bỏng ở địa phương mình
như: Vấn đề rác thải, ô nhiễm nguồn nước, chặt phá rừng...®Ó viÕt bµi v¨n nghÞ luËn.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm.
Đề 2.
Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác bừa bãi, tuỳ tiện ra đường, ra nơi
công cộng. Ý kiến, thái độ của em như thế nào trước hiện tượng này và em hãy đặt nhan
đề cho bài viết của mình.
Dàn bài:
* Mở bài
- Giới thiệu hiện tượng sự việc .
* Thân bài .
- Trình bày các biểu hiện của hiện tượng.
- Chỉ rõ nguyên nhân của việc vứt rác bừa bãi: Do ý thức của con người tuỳ tiện, vô
ý, kém hiểu biết ...
- Tác hại của việc vứt rác bừa bãi (Cần đưa ra những dẫn chứng tiêu biểu, thuyết
phục).
+ Làm mất cảnh quan, mỹ quan môi trường.
+ Ô nhiễm môi trường sống, lây lan mầm bệnh, ổ dịch...
+ Sinh ra các thói quên xấu.

36
- Thái độ, suy nghĩ của em như thế nào? Hành động và nêu ra biện pháp khắc phục
* Kết bài.
- Lời kêu gọi cộng đồng hãy chung tay vì một môi trường trong sạch.
……………………………………………………………

Tiết 3+4: NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO LÝ

A.TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN.


- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng,
đạo đức, lối sống... của con người.
- Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận là phải làm sáng tỏ các vấn đề , tư tưởng, đạo
lý bằng cách: Giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích ... để chỉ ra chỗ
đúng ( hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó, nhằm khẳng định tư tưởng của người viết.
- Về hình thức: Bài viết phải có bố cục ba phần:
* Mở bài: Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lý cần bàn luận.
* Thân bài:
+ Giải thích, chứng minh nội dung vấn đề tư tưởng, đạo lý.
+ Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lý đó trong bối cảnh của cuộc sống riêng,
chung.
* Kết bài: Kết luận, tổng kết, nêu nhận thức mới, tỏ ý khuyên bảo hoặc tỏ ý hành động.
Trong bài văn nghị luận cần có luận điểm đúng đắn sáng tỏ, lời văn chính xác, sinh
động.

B. CÁC DẠNG ĐỀ
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm.
Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn ( 15 đến 20 dòng) Trình bày suy nghĩ của em về đức tính
trung thực.
Gợi ý:
a.Mở đoạn.
Giới thiệu chung về đức tính trung thực.
b.Thân đoạn.

37
- Trình bày được khái niệm về đức tính trung thực.
- Biểu hiện của tính trung thực
- Vai trò của tính trung thực trong cuộc sống
+ Tạo niềm tin với mọi người
+ Được mọi người yêu quý.
+ Góp phần xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người trong xã hội.
- Tính trung thực đối với học sinh ( Học thật, thi thật)
c. Kết đoạn.
- Sự cần thiết phải sống và rèn luyện đức tính trung thực.
2. Dạng đề 5 đến 7 điểm
Đề 1:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn
Em hiểu như thế nào về lời khuyên trong câu ca dao trên? Hãy chứng minh rằng: Truyền
thống đạo lý đó vẫn được coi trọng trong xã hội ngày nay.
Dàn bài.
a. Mở bài.
- Giới thiệu chung về truyền thống thương yêu, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của dân tộc Việt
Nam.
- Trích dẫn câu ca dao.
b. Thân bài.
* Hiểu câu ca dao như thế nào?
- Bầu bí là hai thứ cây khác giống nhưng cùng loài, thường được trồng cho leo chung giàn
nên cùng điều kiện sống.
- Bầu bí được nhân hoá trở thành ẩn dụ để nói về con người cùng chung làng xóm, quê
hương, đất nước.
- Lời bí nói với bầu ẩn chứa ý khuyên con người phải yêu thương đoàn kết dù khác nhau
về tính cách, điều kiện riêng.
* Vì sao phải yêu thương đoàn kết?

38
- Yêu thương đoàn kết sẽ giúp cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
+ Người được giúp đỡ sẽ vượt qua khó khăn, tạo lập và ổn định cuộc sống.
+ Người giúp đỡ thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn, gắn bó với xã hội, với cộng đồng hơn.
+ Xã hội bớt người khó khăn.
- Yêu thương giúp đỡ nhau là đạo lý, truyền thống của dân tộc ta.
* Thực hiện đạo lý đó như thế nào?
- Tự nguyện, chân thành.
- Kịp thời, không cứ ít nhiều tuỳ hoàn cảnh.
- Quan tâm giúp đỡ người khác về vật chất, tinh thần.
* Chứng minh đạo lý đó đang được phát huy.
- Các phong trào nhân đạo.
- Toàn dân tham gia nhiệt tình, trở thành nếp sống tự nhiên.
- Kết quả phong trào.
c. Kết bài.
- Khẳng định tính đúng đắn của câu ca dao.

C.BÀI TẬP VỀ NHÀ


1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm.
Đề 1:
Viết một đoạn văn ngắn về việc thể hiện lòng biết ơn đối với thầy cô giáo trong xã hội
hiện nay.
1. Mở đoạn.
Giới thiệu chung về việc thể hiện lòng biết ơn của học sinh đối với thầy cô giáo hiện nay.
2. Thân đoạn.
- Cách thể hiện lòng biết ơn:
+ Làm và thực hiện tốt những điều thầy cô dạy bảo.
+ Chăm chỉ học tập rèn luyện.
+ Kính trọng lễ phép với thầy cô giáo.
+..........

39
- Phê phán những biểu hiện : Vô lễ không tôn trọng thầy cô giáo.....
3. Kết đoạn.
Khẳng định vai trò của thầy cô giáo đối với mỗi người.

2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm.


Đề 1.
Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần.
Suy nghĩ của em về lời khuyên trong câu ca dao trên?
Dàn bài.
a. Mở bài.
- Giới thiệu chung về nét đẹp tình cảm gia đình của dân tộc Việt Nam.
- Trích dẫn câu ca dao.
b. Thân bài.
* Giải thích ý nghĩa của câu ca dao.
- Hình ảnh so sánh: Anh em như thể chân tay.
+ Tay - Chân: Hai bộ phận trên cơ thể con người có quan hệ khăng khít, hỗ trợ cho
nhau trong mọi hoạt động.
+ So sánh cho thấy mối quan hệ gắn bó anh em.
- Rách , lành là hình ảnh tượng trưng cho nghèo khó, bất hạnh và thuận lợi, đầy đủ.
Từ đó câu ca dao khuyên : Giữ gìn tình anh em thắm thiết dù hoàn cảnh sống thay đổi.
* Vì sao phải giữ gìn tình anh em?
- Anh em cùng cha mẹ sinh ra dễ dàng thông cảm giúp đỡ nhau.
- Anh em hoà thuận làm cha mẹ vui.
- Đó là tình cảm nhưng cũng là đạo lý.
- Là trách nhiệm, bổn phận của mỗi con người.
- Là truyền thống dân tộc.
* Làm thế nào để giữ được tình cảm anh em?

40
- Quan tâm đến nhau từ lúc còn nhỏ cho đến khi đã lớn.
- Quan tâm giúp đỡ nhau về mọi mặt: Vật chất, tinh thần.
- Giữ hoà khí khi xảy ra xung khắc, bất đồng.
- Nghiêm khắc nhưng vị tha khi anh, chị em mắc sai lầm.
c. Kết bài.
- Khẳng định tính đúng đắn của câu ca dao.
......................................................................................

Tiết 5+6: NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN HOẶC ĐOẠN TRÍCH

A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


- Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá
của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
* Các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích:
1. Tìm hiểu đề và tìm ý
2. Lập dàn bài:
3. Viết bài
4. Đọc lại bài viết và sửa chữa
*Bố cục của bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích
1. Mở bài: Giới thiệu tác phẩm (hoặc đoạn trích) và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
2. Thân bài:
- Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm (hoặc đoạn trích)
- Có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu, xác thực.
3. Kết bài: Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm (hoặc đoạn trích)
* Yêu cầu:
- Các luận điểm, luận cứ cần thể hiện sự cảm thụ và ý kiến riêng của người viết về tác
phẩm
- Giữa các phần, các đoạn của bài văn cần có sự liên kết hợp lí và tự nhiên.

41
B. CÁC DẠNG ĐỀ
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
* Đề: Viết một đoạn văn ngắn (khoảng từ 15 đến 20 dòng) về tâm trạng của Thuý Kiều
qua đoạn trích: "Kiều ở lầu Ngưng Bích" (Nguyễn Du)
* Gợi ý:
1. Mở đoạn:
- Vị trí của đoạn thơ trong truyện.
- Đoạn thơ là bức tranh tâm tình, xúc động, biểu hiện tâm trạng Thuý Kiều.
2. Thân đoạn:
- Tâm trạng cô đơn, buồn tủi trước cảnh thiên nhiên rộng lớn bên lầu Ngưng Bích.
- Nỗi nhớ của Thuý Kiều:
+ Nỗi nhớ Kim Trọng, ân hận vì đã phụ thề.
+ Nỗi nhớ và xót thương cho cha, mẹ lúc già yếu, sớm chiều tự cửa ngóng trông con.
- Nỗi buồn lo sợ trước những bão táp, tai biến ập đến, tấm thân sẽ không biết trôi dạt vào
đâu trên dòng đời vô định.
3. Kết đoạn:
Khẳng định giá trị của đoạn thơ trong "Truyện Kiều": là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc
sắc.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:
* Đề: Vẻ đẹp về tính cách và tâm hồn của nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn
"Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long
*Gơi ý lập dàn bài:
1. Mở bài:
* Nêu những nét chính về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
2. Thân bài:
* Hoàn cảnh sống và làm việc:
- Anh thanh niên sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2.600 mét, quanh năm suốt tháng
chỉ có mây mù bao phủ...Công việc của anh là đo gió, đo mưa,đo nắng, tính mây, đo chấn
động mặt đất. Công việc ấy đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao.

42
* Vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của anh thanh niên;
- Sự ý thức về công việc và lòng yêu nghề, thấy được ý nghĩa cao quý trong công việc
thầm lặng của mình. Sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
- Anh đã có những suy nghĩ thật đúng, thật giản dị mà sâu sắc về công việc, về cuộc
sống: "Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?".
- Anh còn biết tìm đến những nguồn vui lành mạnh để cân bằng đời sống tinh thần của
mình: anh biết lấy sách làm bạn tâm tình, biết tổ chức cuộc sống của mình một cách ngăn
nắp, tươi tắn (trồng hoa, nuôi gà...)
- Sự cởi mở chân thành, rất quý trọng tình cảm của mọi người, luôn khao khát được gặp
gỡ và trò chuyện cùng mọi người: vui mừng đến luống cuống, hấp tấp cùng thái độ ân cần,
chu đáo tiếp đãi những người khách xa đến thăm bất ngờ...
- Anh còn là người khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những đóng góp của
mình chỉ là nhỏ bé: khi ông hoạ sĩ muốn vẽ chân dung anh, anh không dám từ chối để khỏi
vô lễ nhưng anh nhiệt thành giới thiệu những người khác mà anh thực sự cảm phục.
3. Kết bài:
Khẳng định tâm hồn trong sáng, sự cống hiến thầm lặng của anh thanh niên cho Tổ quốc.
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
*Đề bài: Viết một đoạn văn ngắn (khoảng từ 15 đén 20 dòng) nêu cảm nhận của em về
nhân vật Nhuận Thổ qua truyện ngắn "Cố hương" của Lỗ Tấn.
* Gợi ý;
1. Mở đoạn;
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu chung về nhân vật Nhuận Thổ
2. Thân đoạn
- Hình ảnh Nhuận Thổ lúc còn nhỏ: thông minh, tháo vát, lanh lợi, nhanh nhẹn...
- Hình ảnh Nhuận Thổ lúc trưởng thành: còm cõi, đần độn, mụ mẫm, chậm chạp...
- Tình cảm của nhân vật "Tôi" với Nhuận Thổ.
3. Kết đoạn:
- Nhận xét chung về nhân vật.

43
- Suy nghĩ của bản thân về nhân vật Nhuận Thổ.
II. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:
Đề: Suy nghĩ của em về những cảm nhận của nhân vật Nhĩ qua truyện ngắn "Bến quê"của
Nguyễn Minh Châu.
Gợi ý;
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm.
2. Thân bài:
- Hoàn cảnh của nhân vật Nhĩ: anh bị bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, mọi sự phải trông cậy
vào sự chăm sóc của vợ, con.
- Cảm nhận của nhân vật về vẻ đẹp của thiên nhiên: cảm nhận bằng những cảm xúc tinh
tế: từ những bông hoa bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng...
- Cảm nhận về tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng của Liên: tấm áo vá,
những ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai...
- Niềm khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông:
+ Sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường mà sâu xa của đời sống, những giá
trị thường bị người ta lãng quên, vô tình, nhất là lúc còn trẻ, khi lao theo những ham muốn
xa vời.
+ Sự thức nhận này chỉ đến được với người ta ở cái độ đã từng trải, đã thấm thía những
sướng vui và cay đắng.
+ Cựng với sự thức tỉnh ấy thường là những õn hận xút xa.
+ Nhĩ chiờm nghiệm được quy luật phổ biến của đời người: "con người ta trờn đường đời
thật khó tránh khỏi những điều chựng chỡnh và vũng vốo của cuộc sống"
3. Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của nhõn vật Nhĩ và sự trõn trọng những giỏ trị
bền vững của cuộc sống.
…………………………………………………………….

Tiết 7, 8, 9: NGHỊ LUẬN VỀ BÀI THƠ, ĐOẠN THƠ

44
A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:
- Nghi luận về một đoạn thơ, bài thơ là trinh bày nhận xet, đánh giá của mỡnh về nội
dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
- Nghi luận về một đoạn thơ, bài thơ là trỡnh bày nhận xột, đánh giá của mỡnh về
nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
- Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hỡnh ảnh,
giọng điệu…..Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét đánh giá cụ
thể, xác đáng .
- Bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, râ rµng, có lời văn gợi
cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết.
* Bố cục của bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ:
1. Mở bài:
Giới thiệu về đoạn thơ hoặc bài thơ đó và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
2. Thân bài:
Lần lượt trình bày suy nghĩ đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ
đó.
3. Kết bài:
Khái quát giá trị và ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ đó.
B. CÁC DẠNG ĐỀ:
I. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 1:
Viết đoạn văn ngắn (khoảng từ 15 đến 20 dòng) trình bày cảm nhận của em về vẻ
đẹp của hai nhân vật Thuý Kiều và Thuý Vân, qua đó nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân
vật của Nguyễn Du ?
Gợi ý:
1. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du
2. Thân đoạn :
a. Chân dung của Thuý Vân:

45
- Bằng bút pháp ước lệ, biện pháp nghệ thuật so sánh ẩn dụ gợi tả vẻ đẹp duyên dáng
, thanh cao, trong trắng của người thiếu nữ.
- Chân dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Vân tạo
sự hài hào, êm đềm với xung quanh. Báo hiệu một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
b. Chân dung Thuý Kiều:
- Vẫn bằng bút pháp ước lệ , nhưng khác tả Vân tác giả đó dành một phần để tả sắc,
còn hai phần để tả tài năng của nàng. Vẻ đẹp của Kiều là vể đẹp của cả sắc, tài, tình.
- Chân dung của Kiều cũng là chân dung mang số phận. Dự cảm một cuộc đời nhiều
biến động và bất hạnh.
3. Kết đoạn:
- Khẳng định lại về tài năng miờu tả nhõn vật của Nguyễn Du.
Đề 2:
Viết một đoạn văn (khoảng 15 đến 20 dũng) phân tích cơ sở hình thành tình đồng
chí của những người lính trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu.
Gợi ý:
1. Mở đoạn:
- Giới thiệu khỏi quát về tác giả tác phẩm, vị trí của đoạn trích.
2. Thân đoạn: Cơ sở của tình đồng chí:
- Họ có chung lí tưởng.
- Họ chiến đấu cùng nhau.
- Họ sinh hoạt cùng nhau.
- Nghệ thuật: chi tiết chân thực, hình ảnh gợi cảm và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu
tượng.
3. Kết đoạn:
- Nhấn mạnh lại về vẻ đẹp, sự bền chặt của tình đồng chí được nảy nở và vun đúc
trong gian khó.
II. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:
Đề 1:
Phân tích đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” (Nguyễn Đình Chiểu) để
thấy Lục vân Tiên đã hành động rất đúng với lí tưởng:

46
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng."
Gợi ý:
1. Mở bài:
- Truyện Lục Vân Tiên - tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu đề cao những
con người trung hiếu, trọng nghĩa.
- Vân Tiên một hình tượng đẹp nêu cao lí tưởng nhân nghĩa đó hành động đúng theo
lí tưởng.
- Vị trí đoạn trích
2. Thân bài:
a. Vân Tiên đánh tan bọn cướp cứu người gặp nạn :
- Vân Tiên con nhà thường dân, một thí sinh trên đường vào kinh đô dự thi gặp bọn
cướp hung dữ.
- Vân Tiên không quản ngại nguy hiểm xông vào đánh tan bọn cướp, giết tướng
cướp, cứu người bị nạn.
b. Vân Tiên từ chối sự đền ơn đáp nghĩa của Kiều Nguyệt Nga:
- Nghe người gặp nạn kể lại sư tình Vân Tiên động lòng thương cảm, tỏ thái độ đàng
hoàng, lịch sự.
- Nguyệt Nga thiết tha mời chàng về nhà để đền ơn.
- Vân Tiên cương quyết từ chối (Quan niệm của chàng thể hiện lí tưởng sống cao
đẹp : “ Làm ơn há để trông người trả ơn”. Thấy việc nghĩa không làm không phải là anh
hùng.
3. Kết bài:
- Lí tưởng sống của Vân Tiên phù hợp với đạo lí của nhân dân.

- Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm tâm huyết, lẽ sống của mình vào hình tượng Vân
Tiên.
Đề 2:
Phân tích tình yêu quê hương trong bài thơ: “Quê hương” của Tế Hanh
Gợi ý:

47
1. Mở bài:
- Giới thiệu tình yêu quê hương, nêu ý kiến khái quát của mình về tình yêu quê
hương trong bài thơ.
2. Thân bài:
- Khái quát chung về bài thơ: một tình yêu tha thiết trong sáng, đậm chất lí tưởng
lãng mạn
- Cảnh ra khơi: vẻ đẹp trê trung, giàu sức sống, đầy khí thế vượt Trường Giang
- Cảnh trở về: đông vui, no đủ, bình yên
- Nỗi nhớ: hình ảnh đọng lại, vẻ đẹp, sức mạnh, mùi nồng mặn của quê hương.
3. Kết bài:
Cả bài thơ là một khúc ca quê hương tươi sáng, ngọt ngào, nó là sản phẩm của một tâm
hồn trẻ trung, thiết tha đầy thơ mộng.
Đề 3
Phân tích bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Gợi ý:
1. Mở bài:
- Cuộc đời và sự nghiệp của Bác là nguồn cảm hứng vô tận cuả thơ ca.
- Bài thơ “Viếng lăng Bác” đã thể hiện được những cảm súc chân thành tha thiết.
2. Thân bài
a. Khổ 1:
- Mở đầu bằng lối xưng hô: "con” tự nhiên gần gũi
- Ấn tượng về hàng tre quanh lăng Bác.(Tre tîng trưng cho sức sống và tâm hồn Việt
Nam).
b. Khổ 2:
- Mặt trời thật đi qua trên lăng ngày ngày, từ đó liên tưởng và so sánh Bác cũng là
một mặt trời rất đỏ (Mặt trời tượng trưng, đem ánh sáng đến cho dân tộc, ánh sáng đó toả
sáng mãi mãi)
- Lòng tiếc thương vô hạn của nhân dân: hình ảnh dòng người nối dài vô tân như kết
thành tràng hoa dâng Bác.
c. Khổ 3:

48
- Có cảm giác Bác đang ngủ, một giấc ngủ bình yên có trăng làm bạn.
- Nhưng trở về với thực tại: Bác đã đi xa, một nỗi đau nhức nhối.
d. Khổ 4:
- Lưu luyến bịn rịn không muốn xa Bác.
- Muốn làm “chim, hoa, tre” để được gần Bác
- “Cây tre trung hiếu” thực hiện lí tưởng của Bác, và lời dậy của Bác : “trung với
nước hiếu với dân”.
3. Kết bài:
- Nghệ thuật: Bài thơ giàu cảm xúc, âm hưởng trầm lắng, lời thơ tự nhiên.
- Bài thơ gây ấn tượng sâu đậm, trước hết là tiếng nói chân thành, tha thiết của nhà
thơ và của chúng ta đối với Bác Hồ kính yêu.
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ
Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 3: Cảm nhận về bức tranh cá thứ nhất và thứ hai trong bài thơ : “Đoàn thuyền đánh
cá” của Huy Cận.(bằng một đoạn văn từ 15 đến 20 dũng)
Gợi ý:
1. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích.
2. Thân đoạn:
- Bức tranh cỏ thứ nhất: là những nột vẽ tài hoa về bức tranh cá trong tưởng tượng,
trong mơ ước.
- Bức tranh cỏ thứ hai: là bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp lóng mạn. Trên
ngư trường những người dân vừa ca hát, vừa gừ mỏi chốo đuổi bắt cá.
- Bức tranh cá đầy màu sắc và ánh sáng, có giá trị thẩm mĩ đặc sắc gợi tả và ngợi ca
biển quê hương rất giàu và đẹp.
3. Kết đoạn:
Bức tranh cá thể hiện cảm hứng vũ trụ, tình yêu biển của Huy Cận.
-----------------------------------------------

49
CHUYÊN ĐỀ 3 : VĂN THUYẾT MINH

TIẾT 1: ÔN TẬP LÍ THUYẾT

A. Tóm tắt kiến thức cơ bản:


1. Khái niệm: Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong đời sống
nhằm cung cấp tri thức về: đặc điểm, tính chất, nguyên nhân…của các sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.
2. Yêu cầu:
- Tri thức trong văn bản thuyết minh phải khách quan, xác thực, hữu ích cho mọi
người.
- Văn thuyết minh cần trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ, hấp dẫn.
3. Sự khác nhau giữa văn miêu tả và văn thuyết minh:

Văn miêu tả Văn thuyết minh

+ Có hư cấu tưởng tượng, không nhất thiết +Trung thành với đặc điểm của sự vật, đối
phải trung thành với sự vật, đối tượng…. tượng.
+ Dùng nhiều so sánh, liên tưởng. + ít dùng so sánh, liên tưởng.
+ Mang nhiều cảm xúc chủ quan của người + Đảm bảo tính khách quan, khoa học.
viết.
+ ít dùng số liệu cụ thể. + Dùng số liệu cụ thể.
VD: “Những đám mây trắng như bông VD: “Hoa chuông cao từ 15- 20 cm. Hoa
đang tô vẽ cho nền trời bằng những hình nhỏ có hình chuông, hương thơm, thân uốn
thù lạ mắt. Nắng trong vắt như pha lê. cong, màu trắng hay hồng lợt. Hoa có thể
Nắng xiên qua cây gỗ tếch ở vườn hoa phố sống trong bình từ 5- 7 ngày…”
Nguyễn Cao, rọi xuống và chạy lung tung
quanh cái bàn ăn trưa của bốn cụ già…”

* Trong văn bản thuyết minh có thể kết hợp sử dụng yếu tố miêu tả, biện pháp nghệ thuật
làm cho đối tượng thuyết minh được nổi bật, hấp dẫn.
4. Phương pháp thuyết minh:
1. Phương pháp nêu định nghĩa:
VD: Giun đất là động vật có đốt, gồm khoảng 2500 loài, chuyên sống ở vùng đất ẩm.
2. Phương pháp liệt kê:

50
VD: Cây dừa cống hiến tất cả của cải của mình cho con người: thân cây làm máng, lá làm
tranh, cọng lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa già làm chõ đồ xôi, nước dừa để uống, để kho
cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm…

3. Phương pháp nêu ví dụ:


VD: Người ta cấm hút thuốc ở tất cả những nơi công cộng, phạt nặng những người vi
phạm (ở Bỉ, từ năm 1987, vi phạm lần thứ nhất phạt 40 đô la, tái phạm phạt 500 đô la)
4. Phương pháp dùng số liệu:
VD: Một tượng phật ở Nhạc Sơn, Tứ Xuyên, Trung Quốc, cao 71m, vai rộng 24m, trên mu
bàn chân tượng có thể đỗ 20 chiếc xe con”.
5. Phương pháp so sánh:
VD: Biển Thái Bình Dương chiếm một diện tích lớn bằng ba đại dương khác cộng lại và
lớn gấp 14 lần diện tích biển Bắc Băng Dương là đại dương bé nhất.
6. Phương pháp phân loại, phân tích:
VD: Muốn thuyết minh về một thành phố, có thể đi từng mặt: vị trí địa lý, khí hậu, dân số,
lịch sử, con người, sản vật…
5. Cách làm bài văn thuyết minh:
- Bước 1: + Xác định đối tượng thuyết minh.
+ Sưu tầm, ghi chép và lựa chọn các tư liệu cho bài viết
+ Lựa chọn phương pháp thuyết minh phù hợp
+ Sử dụng ngôn từ chính xác, dễ hiểu để thuyết minh làm nổi bật các đặc điểm
cơ bản của đối tượng.
- Bước 2: Lập dàn ý
- Bước 3: Viết bài văn thuyết minh
+ Viết phần mở bài:
Mở bài có nhiều phương pháp, nhưng có thể quy vào hai phương pháp chủ yếu là mở
bài trực tiếp và mở bài gián tiếp.
Ví dụ 1: Mở bài trực tiếp
Chiêm Hoá, một huyện miền núi của tỉnh Tuyên Quang là nơi cư trú của nhiều dân tộc
anh em như: Kinh, Tày, Dao, H’Mông, Sán Dìu…Tuy phong tục, tập quán khác nhau
nhưng chung sống rất hoà thuận cùng nhau xây dựng quê hương ngày thêm tươi đẹp.
Ví dụ 2: Mở bài gián tiếp.
Là người Việt Nam ai cũng đã một lần nghe câu ca dao:
Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Từ Hà Nội đi theo quốc lộ 1A, du khách ngồi trên xe ô tô khoảng 2 tiếng đồng hồ là
đến địa phận Lạng Sơn. Qua dãy núi Kai Kinh rồi đến ải Chi Lăng thâm nghiêm hùng vĩ,

51
những kì tích đó đã làm cho bao kẻ thù xưa nay khiếp sợ. Đường 1A trườn dài theo những
triền núi ngút ngàn thông reo. Từng đoàn xe lớn nhỏ hối hả về xứ Lạng ẩn mình trong
sương sớm. Qua khỏi đèo Sài Hồ là đến thị xã Lạng Sơn, vùng biên ải của Tổ quốc nơi quê
hương của hoa thơm, trái ngọt và nhữnglàn điệu dân ca đặc sắc: Then, Sli, Lượn của các
dân tộc Tày, Nùng, Dao.
+ Viết phần thân bài:
Phần này thường gồm một số đoạn văn được liên kết với nhau thành một hệ thống
nhằm giải đáp một số yêu cầu của đề bài
Viết đoạn văn trong văn bản thuyết minh nên tuân thủ theo thứ tự cấu tạo của sự vật,
theo thứ tự nhận thức ( từ tổng thể đến bộ phận, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần), theo
thứ tự diễn biến sự việc trong một thời gian trước- sau; hay theo thứ tự chính phụ: cái
chính nói trước, cái phụ nói sau.
+ Viết phần kết bài:
Phần kết bài có thể nhấn mạnh một lần nữa đặc sắc của đối tượng giới thiệu- thuyết
minh hoặc nêu một lời mời, một kiến nghị, hoặc một ấn tượng mạnh mẽ nhất về đối tượng
đó.
Ví dụ 1: Hiện tại và tương lai, Chiêm Hoá là một điểm du lịch thu hút rất nhiều
khách tham quan. Hãy đến với Chiêm Hoá để dự hội Lồng Tông tổ chức vào ngày mùng 8
tháng giêng hàng năm, thăm đền Bách Thần, đền Đầm Hồng. Vào mùa hè các bạn có thể
đi du ngoạn thác Bản Ba và đặc biệt chúng ta sẽ được thăm khu di tích lịch sử Kim Bình.
Chúng ta sẽ thấy Chiêm Hoá đẹp biết nhường nào.
B. Các dạng đề:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Nhận biết yếu tố thuyết minh trong bài ca dao sau:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
 Gợi ý : Yếu tố thuyết minh:
Cấu tạo của hoa sen “Lá xanh, bông trắng, nhị vàng”

2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:


Đề bài: Con trâu ở làng quê Việt Nam.
* Mở bài:
Giới thiệu chung về con trâu trong đời sống của người nông dân Việt Nam

52
* Thân bài:
- Nêu nguồn gốc, đặc điểm của con trâu
VD: Trâu là động vật thuộc phân bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn, lớp
thú có vú.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Lông màu xám, xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn, bụng to, mông dốc, bầu vú nhỏ,
sừng hình lưỡi liềm. Có 2 đai màu trắng: dưới cổ và chỗ đầu xương ức. Trâu cái nặng
trung bình 350-400 kg, trâu đực 400- 500 kg…
- Vai trò, lợi ích của con trâu:
 Trong đời sống vật chất:
+ Là tài sản lớn của người nông dân.
+ Là công cụ lao động quan trọng.
+Là nguồn cung cấp thực phẩm, đồ mĩ nghệ, phân bón…
 Trong đời sống tinh thần:
+ Con trâu gắn bó với người nông dân như người bạn thân thiết, gắn bó với tuổi thơ.
+ Con trâu có vai trò quan trọng trong lễ hội, đình đám ( hội chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải
Phòng), Hàm Yên, Chiêm Hoá (Tuyên Quang)…, hội đâm trâu (Tây Nguyên)…)
* Kết bài:
Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống hiện nay.
C. Bài tập về nhà: (Dạng đề 5 hoặc 7 điểm)
Viết bài văn hoàn chỉnh từ đề bài: Con trâu ở làng quê Việt Nam.
Gợi ý : ( theo dàn ý chi tiết đã xây dựng tại lớp)

..................................................................................................

Tiết 2: CÁCH LÀM MỘT SỐ DẠNG ĐỀ VĂN THUYẾT MINH

A. Tóm tắt kiến thức cơ bản:


- Cách làm một số dạng đề văn thuyết minh:
* Khi đối tượng thuyết minh là một đồ vật thì nội dung thuyết minh thường là:
- Cấu tạo của đối tượng
- Các đặc điểm của đối tượng
- Tính năng hoạt động
- Cách sử dụng, cách bảo quản
- Lợi ích của đối tượng

53
* Khi thuyết minh về một loài vật, nội dung thuyết minh thường là:
- Nguồn gốc
- Đặc điểm
- Hình dáng
- Lợi ích
* Khi thuyết minh về một thể loại văn học, nội dung thuyết minh thường là:
- Nêu một định nghĩa chung về thể thơ
- Nêu các đặc điểm của thể thơ:
+ Số câu, chữ.
+ Quy luật bằng trắc.
+ Cách gieo vần.
+ Cách ngắt nhịp.
+ Cảm nhận về vẻ đẹp, nhạc điệu của thể thơ.
*Khi đối tượng thuyết minh là một danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, thì nội dung
thuyết minh thường là:
- Vị trí địa lí.
- Những cảnh quan làm nên vẻ đẹp đặc sắc của đối tượng.
- Những truyền thống lịch sử, văn hoá gắn liền với đối tượng.
- Cách thưởng ngoạn đối tượng.
*Khi đối tượng thuyết minh là một danh nhân văn hoá thì các nội dung thuyết minh
thường là:
- Hoàn cảnh xã hội.
- Thân thế và sự nghiệp.
- Đánh giá xã hội về danh nhân .
Lưu ý : Trong các phần trên, phần thân thế, sự nghiệp chiếm vai trò chủ yếu, có
dung lượng lớn nhất trong bài viết.
*Khi giới thiệu một đặc sản thì nội dung thuyết minh thường là:
- Nguồn gốc, ý nghĩa tên gọi món ăn, đặc sản.
- Đặc điểm riêng của món ăn, đặc sản: dáng vẻ, màu sắc, hương vị.
- Cách thức chế biến, thưởng thức.
B. Các dạng đề:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề bài: Viết một đoạn văn ngắn giới thiệu món Cơm lam quê em.
Gợi ý: - Cơm lam là một món ăn dân dã, quen thuộc của người miền núi phía Bắc
- Cách làm: Cho gạo đã vo vào ống nứa (tre) non, cuộn lá chuối hay lá dong nút chặt, chất
củi đốt. Phải đốt đều đến khi vỏ nứa cháy thành lớp than mỏng là cơm chín.

54
- Cách thưởng thức: nếu ăn ngay chỉ việc chẻ ống nứa ra. Nếu muốn để dành thì
dùng dao róc hết lớp nứa bị cháy chỉ để lại lớp vỏ trắng…
- Hiện nay Cơm lam còn trở thành đặc sản trong nhà hàng, khách sạn.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:
Đề bài: Thuyết minh về một loài hoa trong ngày tết cổ truyền của dân tộc.
*Gợi ý: xây dựng dàn ý chi tiết
1.Mở bài:
Giới thiệu chung về một loài hoa trong ngày tết cổ truyền của dân tộc (hoa đào)
- Xuất hiện vào mùa xuân , trong sự vui tươi, náo nức của ngày tết.
- Hoa đào là loài hoa đẹp, có sức sống mạnh mẽ, có ý nghĩa trong ngày tết cổ truyền của
dân tộc- món ăn tinh thần không thể thiếu được của người Việt.
2.Thân bài:
- Đặc điểm chung của loài hoa: Hoa đào là loài hoa đặc trưng cho Hà Nội, biểu tượng cho
mùa xuân và sức sống của miền Bắc
- Phân loại các loài hoa: đào bích , đào phai, đào bạch…
- Đặc điểm của hoa:
+ loài cây thân gỗ.
+ Nở vào mùa xuân.
+ Các loại hoa đào:
Đào bích: Có hoa màu đỏ thẫm. Màu đỏ tượng trưng cho may mắn.
Đào phai: Có màu hồng nhạt, sai quả, sai hoa, thường được trồng để lấy quả. Màu
sắc trang nhã, kín đáo.
Đào bạch: ít hoa, có màu trắng và tương đối khó trồng.
- Ý nghĩa tinh thần của loài hoa: Mọi người chuộng chơi đào ngày tết vì hoa đào đem lại sự
may mắn, phúc lộc đầu năm.
- Tình cảm gắn bó với hoa đào…
3.Kết bài:
- Nhấn mạnh vẻ đẹp của hoa đào trong cuộc sống tinh thần của người Việt nói chung
và bản thân nói riêng.
- Hoa đào là biểu hiện những đức tính, tâm hồn cao đẹp của con người Việt Nam;
góp phần tô điểm sắc xuân thêm vui tươi và đầm ấm.

C. Bài tập về nhà:(dạng đề 5 hoặc 7 điểm)


- Viết bài văn hoàn chỉnh từ đề bài: Thuyết minh về một loài hoa trong ngày tết cổ
truyền của dân tộc.
* Gợi ý: ( theo dàn ý chi tiết đã xây dựng tại lớp)

----------------------------------------------------------------

Tiết 3: LUYỆN TẬP

55
A. Tóm tắt kiến thức cơ bản:
- HS biết lập dàn ý cho đề bài.
- Viết được đoạn mở bài, thân bài từ các đề cụ thể.
- Viết hoàn chỉnh bài văn theo yêu cầu của đề.
- Biết tự sửa những lỗi sai về chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu.
B. Các dạng đề:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Yêu cầu học sinh lập dàn ý cho các đề sau:
* Đề 1. Thuyết minh về cái phích nước.
a. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về cái phích
b. Thân bài:
- Nêu cấu tạo của phích:
+ Vỏ phích
+ Ruột phích
- Cách bảo quản, sử dụng.
c. Kết bài:
Vai trò của cái phích trong đời sống hiện nay.
* Đề 2. Giới thiệu về nhà thơ hoặc nhà văn mà em yêu thích
a. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về nhà thơ hoặc nhà văn.
b. Thân bài:
- Hoàn cảnh xã hội.
- Thân thế và sự nghiệp
- Đánh giá chung về đối tượng đó.
c. Kết bài:
Khẳng định vai trò, vị thế của nhà văn (nhà thơ) trong xã hội.

* Đề 3. Giới thiệu về di tích lịch sử, văn hoá của địa phương.
a. Mở bài :
Giới thiệu chung về di tích lịch sử, văn hoá của địa phương.
b. Thân bài  :
- Vị trí.
- Nguồn gốc.
- Những truyền thống lịch sử, văn hoá gắn liền với đối tượng.
- Những cảnh quan làm nên vẻ đẹp đặc sắc của đối tượng.
- Cách chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn đối tượng (nếu đối tượng thuyết minh là
danh lam, thắng cảnh).
c. Kết bài:

56
Ý nghĩa, giá trị của di tích lịch sử, văn hoá đối với đời sống con người.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
  * Đề 1. Em hãy viết đoạn văn giới thiệu về thân thế và sự nghiệp của nhà văn Nam
Cao.
(HS viết một đoạn văn phần thân bài cho đề 2).
* Gợi ý :
- Mở đoạn :  Nam Cao(1915-1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại
Hoàng, phủ Lí Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam.
- Thân đoạn : Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện
dài viết chân thực về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo
sống mòn mỏi , bế tắc trong xã hội cũ... Các tác phẩm chính : các truyện ngắn Chí
Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Lão Hạc, Một đám cưới...
- Kết đoạn: Nam Cao được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật...
* HS trình bày đoạn văn, nhận xét, sửa lỗi.
* GV nhận xét, kết luận.
* GV đọc bài tham khảo.
Hồ Gươm

Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm là một hồ nước ngọt nằm giữa thủ đô Hà Nội. Tên hồ
cũng được đặt cho một quận của Hà Nội (quận Hoàn Kiếm).

Cách đây khoảng 6 thế kỷ, hồ Gươm gồm hai phần chạy dài từ phố Hàng Đào, qua
phố Hai Bà Trưng và phố Lý Thường Kiệt, tới phố Hàng Chuối, thông với sông Hồng.
Nước hồ quanh năm xanh biếc nên hồ Gươm cũng được gọi là hồ Lục Thuỷ.

Tương truyền vào thế kỷ 15 hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền
thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu của nhân dân Việt
Nam chống lại quân Minh dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi… Khi lên ngôi về đóng đô ở Thăng
Long, trong một lần nhà vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗng một con rùa xuất hiện
và đòi gươm. Lê Thái Tổ rút gươm khỏi vỏ, nâng gươm về phía rùa vàng, rùa há miệng
đớp lấy và lặn xuống đáy hồ. Từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả
gươm) hay hồ Gươm.

-----------------------------------------------------

Giới thiệu về nhà thơ Hữu Thỉnh

57
Hữu Thỉnh tên khai sinh là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh ngày 15-2-1942. Quê gốc làng
Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Trước hòa bình lập lại
( 1954) Hữu Thỉnh đã phải trải qua một tuổi thơ vô cùng khổ cực. Mười tuổi ông phải đi
làm phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp. Đến sau năm 1954 ông mới
được đi học. Năm 1963, khi vừa tốt nghiệp phổ thông, ông vào bộ đội tăng thiết giáp,
Trung đoàn 202, học lái xe, làm cán bộ tiểu đội. Ông tham gia chiến đấu nhiều năm tại
chiến trường. Sau năm 1975, Hữu Thỉnh học tại trường viết văn Nguyễn Du khóa 1. Từ
năm 1982, ông là cán bộ biên tập, Trưởng ban thơ và là Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn
nghệ Quân đội. Từ năm 1990, Hữu Thỉnh chuyển sang Hội nhà văn Việt Nam, giữ chức
Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ, tham gia ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các
khóa III, IV, V.
Tác phẩm đã xuất bản: Âm vang chiến hào (Thơ in chung - 1975), Đường tới thành
phố ( Trường ca- 1979), Khi bé Hoa ra đời ( Thơ thiếu nhi- in chung), Thư mùa đông
( thơ 1994), Trường ca Biển (1994), Thơ Hữu Thỉnh ( 1998).
Nhà thơ đã được trao giải thưởng: Giải ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1972-
1973; Giải nhất năm 1975- 1976; Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1980 ( Trường
ca Đường tới thành phố) và năm 1995 ( tập thơ Thư mùa đông); Giải xuất sắc Bộ Quốc
phòng năm 1994 (Trường ca biển).
Hữu Thỉnh thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Ông đã sớm khẳng định một phong cách thơ riêng. Ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh mang nhiều
chất dân gian. Ông đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn những câu tục ngữ ca dao trong
thơ mình và nhờ vậy đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ đặc biệt. Bên cạnh đó, những nhà nghiên
cứu cũng thường đề cập đến tính triết luận sâu sắc trong thơ Hữu Thỉnh.Vì thế thơ ông
mang đến cho bạn đọc những cảm xúc đặc biệt, những nhận thức mới mẻ về tâm hồn con
người- một thế giới còn ẩn chứa nhiều điều bất ngờ, thú vị.
C. Bài tập về nhà: (Dạng đề 5 hoặc 7 điểm)
- Viết hoàn chỉnh bài văn cho một trong các đề bài sau:
* Đề 1. Thuyết minh về cái phích nước.
* Đề 2: Giới thiệu về một danh lam, thắng cảnh ở địa phương em.
* Đề 3. Giới thiệu về di tích lịch sử, văn hoá của địa phương.
.......................................................................................................

58
PHẦN III. VĂN HỌC
Chuyªn ®Ò 1: v¨n b¶n nhËt dông
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Lê Anh Trà)

I - GỢI Ý
1. Xuất xứ:
Phong cách Hồ Chí Minh là một phần bài viết "Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại
gắn với cái giản dị" của tác giả Lê Anh Trà, trích trong cuốn sách "Hồ Chí Minh và văn
hoá Việt Nam", Viện Văn hoá xuất bản, Hà Nội, 1990.
2. Tác phẩm:
Mặc dù am tường và ảnh hưởng nền văn hoá nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới
nhưng phong cách của Hồ Chí Minh vô cùng giản dị, điều đó được thể hiện ngay trong đời
sống sinh hoạt của Người: nơi ở chỉ là một ngôi nhà sàn nhỏ bé với những đồ đạc mộc
mạc, trang phục đơn sơ, ăn uống đạm bạc.
3. Tóm tắt:
Viết về phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đưa ra luận điểm then chốt: Phong cách
Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và tính nhân loại, truyền thống và
hiện đại, giữa vĩ đại và giản dị.
Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã vận dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, với
những dẫn chứng xác thực, giàu sức thuyết phục về quá trình hoạt động cách mạng, khả
năng sử dụng ngôn ngữ và sự giản dị, thanh cao trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của
Bác.

II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM


Trong bài thơ Người đi tìm hình của nước, Chế Lan Viên viết:
Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá...
Đó là những câu thơ viết về Bác trong thời gian đầu của cuộc hành trình cứu nước gian
khổ. Câu thơ vừa mang nghĩa tả thực vừa có ý khái quát sâu xa. Sự đối lập giữa một viên
gạch hồng giản dị với cả một mùa đông băng giá đã phần nào nói lên sức mạnh và phong
thái của vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Sau này, khi đã trở về Tổ quốc, sống giữa đồng bào,
đồng chí, dường như chúng ta vẫn gặp đã con người đã từng bôn ba khắp thế giới ấy:

59
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Còn nhiều, rất nhiều những bài thơ, bài văn viết về cuộc đời hoạt động cũng như
tình cảm của Bác đối với đất nước, nhân dân. Điểm chung nổi bật trong những tác
phẩm ấy là phong thái ung dung, thanh thản của một người luôn biết cách làm chủ
cuộc đời, là phong cách sống rất riêng: phong cách Hồ Chí Minh.
1) Sù am hiÓu v¨n ho¸ cña B¸c
a) Sù h×nh thµnh vèn v¨n ho¸ cña B¸c
- Trong cuéc ®êi ®Çy tru©n chuyªn cña Ngêi, Ngêi ®· ®i qua nhiÒu n¬i trªn thÕ giíi. Ng-
êi ®· tõng ®Æt ch©n lªn kh¾p c¸c Ch©u ©u, A, Phi...
- §Õn ®©u ngêi còng lao ®éng, tiÕp xóc víi nh÷ng ngêi d©n , häc ®îc rÊt nhiÒu thø
tiÕng.
- §Õn ®©u Ngêi còng v¨n ho¸ ë ®ã ®Õn mét møc kh¸ uyªn th©m.
b) C¸ch tiÕp thu v¨n ho¸ cña B¸c
- B¸c tiÕp thu mét c¸ch cã chän läc. B¸c biÕt tiÕp thu c¸i hay, c¸i ®Ñp v¨n ho¸ cña c¸c níc
kh¸c. Nhng ®ång thêi tiÕp thu B¸c còng phª ph¸n nh÷ng sai lÇm cña chñ nghÜa t b¶n.
2) Lèi sèng gi¶n dÞ vµ thanh cao cña B¸c
Tuy lµ l·nh tô cña mét ®Êt níc nhng c¸ch sinh ho¹t cña B¸c rÊt ®çi gi¶n dÞ.
a) N¬i ë cña B¸c
- B¸c ë nhµ sµn bªn c¹nh mét c¸i ao nhá. B¸c coi ®ã nh cung ®iÖn cña m×nh.
- Nhµ chØ cã vÎn vÑn vµi ba phßng vµ vµi ®å ®¹c ®¬n s¬.
b) Trang phôc cña B¸c
- Trang phôc cña B¸c hÕt søc gi¶n dÞ
- B¸c thêng mÆc ¸o bµ ba, ¸o trÊn thñ, ®i ®«i dÐp lèp cao su
c) ¨n uèng cña B¸c
- H»ng ngµy viÖc ¨n uèng cña B¸c còng rÊt ®¹m b¹c, víi nh÷ng mãn ¨n d©n téc kh«ng
chót cÇu k×, nh c¸ kho, rau luéc, da ghÐm, cµ muèi, ch¸o hoa.
§Ó lµm næi bËt lªn phong c¸ch sèng cao ®Ñp cña Ngêi t¸c gi¶ ®· so s¸nh lèi sèng Ng-
êi víi NguyÔn Tr·i, NguyÔn BØnh Khiªm – c¸c vÞ hiÒn triÕt xa. Lèi sèng cña b¸c kh«ng
ph¶i lµ mét c¸ch lµm cho m×nh kh¸c ngêi, kh¸c ®êi, tù thÇn th¸nh ho¸ m×nh mµ do chÝnh
quan niÖm sèng cña ngêi. Ngêi thÝch mét cuéc sèng gi¶n dÞ, thanh b×nh kh«ng ®ßi hái
qu¸ nhiÒu vÒ vËt chÊt, mét cuéc sèng gÇn gòi víi thiªn nhiªn. ChÝnh quan niÖm sèng ®·

60
t¹o cho ngêi mét nÕp sèng nhu vËy. §ã chÝnh lµ mét c¸ch di dìng tinh thÇn, mét quan
niÖm ®Ñp cã kh¶ n¨ng ®em l¹i h¹n phóc thanh cao cho t©m hån vµ thÓ x¸c.

ĐÊU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HOÀ BÌNH


(G. G. Mác-két)

I - GỢI Ý
1. Tác giả:
- Nhà văn Cô-lôm-bi-a G.G. Mác-két (Gabriel Garcia Marquez) sinh năm 1928.
Năm 1936, tốt nghiệp tú tài, ông vào học ngành Luật tại trường đại học Tổng hợp Bô-gô-ta
và viết những truyện ngắn đầu tay.
- Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két là tác giả của nhiều tiểu thuyết theo khuynh hướng hiện
thực huyền ảo nổi tiếng. Ông từng được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1982.
- G. G. Mác-két có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, nhưng nổi tiếng nhất là cuốn Trăm
năm cô đơn (1967) - tiểu thuyết được tặng Giải Chianchianô của I-ta-li-a, được Pháp công
nhận là cuốn sách nước ngoài hay nhất trong năm, được giới phê bình văn học ở Mĩ xếp là
một trong 12 cuốn sách hay nhất trong những năm sáu mươi của thế kỉ XX.
Toàn bộ sáng tác của G. G. Mác-két xoay quanh trục chủ đề chính: sự cô đơn -
mặt trái của tình đoàn kết, lòng thương yêu giữa con người.
2. Hoµn c¶nh ra ®êi cña tác phẩm:
Th¸ng 8 n¨m 1986, nguyªn thñ 6 níc Ên §é, Mª-hi-c«, Thuþ §iÓn, ¸c-hen-tina, HiL¹p, Tan-
da-ni-a häp lÇn th 2 t¹i Mª-hi-c«, ®· ra mét b¶n tuyªn bè kªu gäi chÊm døt chiÕn tranh ch¹y
®ua vò trang, thñ tiªu vò khÝ h¹t nh©n ®Ó ®¶m b¶o an ninh vµ hoµ b×nh thÕ giíi. Nhµ
v¨n M¸c-kÐt ®îc mêi tham dù cuéc gÆp gì nµy. V¨n b¶n “§Êu tranh cho mét thÕ giíi hoµ
b×nh” ®îc trÝch tõ tham luËn cña «ng.
3. Tóm tắt:
Đây là một bài văn nghị luận xã hội. Tác giả nêu ra hai luận điểm cơ bản có liên quan
mật thiết với nhau:
 Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất.
 Nhiệm vụ cấp bách của nhân loại là phải ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh
cho một thế giới hoà bình.
Để làm sáng tỏ hai luận điểm trên, tác giả đã đưa ra một hệ thống lập luận chặt chẽ, đặc
biệt là những dẫn chứng rất cụ thể, xác thực, giàu sức thuyết phục.

II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM


Chúng ta đang sống trong một thế giới mà trình độ khoa học kỹ thuật đang phát triển

61
với một tốc độ đáng kinh ngạc: những thành tựu của ngày hôm nay, rất có thể chỉ ngày mai
đã thành lạc hậu. Đã từng có những ý kiến bi quan cho rằng: trong khi của cải xã hội tăng
theo cấp số cộng thì dân số trái đất lại tăng theo cấp số nhân, con người sẽ ngày càng đói
khổ. Tuy nhiên, nhờ có sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, của cải xã hội ngày
càng dồi dào hơn, số người đói nghèo ngày càng giảm đi...
Đó là những yếu tố tích cực trong sự phát triển của khoa học mà phần lớn chúng ta
đều nhận thấy. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển đó thì hầu như rất ít người có thể
nhận thức được. Bài viết của nhà văn Gác-xi-a Mác-két đã gióng lên một hồi chuông
cảnh tỉnh nhân loại trước nguy cơ đang hiện hữu của một cuộc chiến tranh hạt nhân
thảm khốc có khả năng huỷ diệt toàn bộ sự sống trên hành tinh xanh mà phương tiện
của cuộc chiến tranh ấy  mỉa mai thay  lại là hệ quả của sự phát triển khoa học như
vũ bão kia.
1. Nguy c¬ chiÕn tranh h¹t nh©n
-Vấn đề được khơi gợi hết sức ấn tượng: "Chúng ta đang ở đâu? Hôm nay ngày 8 - 8 -
1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã được bố trí khắp hành tinh. Nói nôm na ra, điều đó
có nghĩa là mỗi người không trừ trẻ con, đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ: tất cả
chỗ đó nổ tung lên sẽ làm biến hết thảy, không phải một lần mà là mười hai lần, mọi dấu
vết của sự sống trên trái Đất".
- Sức tác động của đoạn văn này chủ yếu bởi những con số thống kê cụ thể: 50.000 đầu
đạn hạt nhân; 4 tấn thuốc nổ; không phải một lần mà là mười hai lần... Thông điệp về nguy
cơ huỷ diệt sự sống được truyền tải với một khả năng tác động mạnh mẽ vào tư duy bạn
đọc. Không chỉ có thế, trong những câu văn tiếp theo, tác giả còn mở rộng phạm vi tÝnh
to¸n b»ng lÝ thuyÕt khoa häc: “ ...cã thÓ tiªu diÖt tÊt c¶ c¸c hµnh tinh ®ang xoay quanh
mÆt trêi, céng thªm 4 hµnh tinh n÷a”; dẫn cả điển tích trong thần thoại Hi Lạp nhằm làm
tăng sức thuyết phục.
Víi c¸ch ®ua ra sè liÖu, nh÷ng con sè cô thÓ, nh÷ng tÝnh to¸n khoa häc...ngêi ®äc
c¶m thÊy giËt m×nh vÒ nh÷ng t¸c ®éng , nh÷ng hiÓm ho¹ ghª gím cña vò khÝ h¹t nh©n.
2. Cuéc ch¹y ®ua vò trang chuÈn bÞ cho chiÕn tranh h¹t nh©n ®· lµm mÊt ®i kh¶
n¨ng ®Ó con ngêi ®îc sèng tèt ®Ñp h¬n.
Trong phần tiếp theo, tác giả đưa ra hàng loạt so sánh nhằm thể hiện sự v« lí trong
xu hướng phát triển của khoa học hiện đại: tỉ lệ phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân
loại quá thấp trong khi tỉ lệ phục vụ cho chiến tranh lại quá cao

LÜnh vùc so s¸nh * §Çu t cho c¸c lÜnh vùc * §Çu t vò khÝ h¹t nh©n:

®/s:
->X· héi - 100 tØ ®« la ®Ó cøu trî - Bá ra 100 m¸y bay…díi
1000 tªn löa vît ®¹i ch©u.
cho 500 triÖu trÎ em nghÌo

62
khæ trªn thÕ giíi.
-> Y tÕ: - B¶o vÖ h¬n 1 tØ ngêi - 10 chiÕc tÇu s©n bay
khái bÖnh sèt rÐt, cøu h¬n mang vò khÝ h¹t nh©n
14 triÖu trÎ em, phßng
bÖnh 14 n¨m
-> TiÕp tÕ thùc phÈm: - Lîng ca-lo cho 575 triÖu - 149 tªn löa MX.
ngêi thiÕu dinh dìng. - 27 tªn löa MX.
- Tr¶ tiÒn n«ng cô cho níc
nghÌo trong 4 n¨m.
-> Gi¸o dôc: - Xo¸ mï ch÷ cho toµn TG - 2 tµu ngÇm mang vò khÝ
h¹t nh©n.

ChØ lµ giÊc m¬. §· vµ ®ang thùc hiÖn

Đó là những con số vượt lên trên cả những giá trị thống kê bởi nó còn có giá trị tố cáo bởi
điều nghịch lí là trong khi các chương trình phục vụ chiến tranh đều đã hoặc chắc chắn trở
thành hiện thực thì các chương trình cứu trợ trẻ em nghèo hay xoá nạn mù chữ chỉ là sự tính
toán giả thiết và không biết đến bao giờ mới trở thành hiện thực. Trong khía cạnh này thì
rõ ràng là khoa học đang phát triển ngược lại những giá trị nhân văn mà từ bao đời nay con
người vẫn hằng xây dựng.
3. ChiÕn tranh h¹t nh©n kh«ng nh÷ng ®i ng îc l¹i lÝ trÝ cña con ngêi mµ cßn ph¶n
l¹i sù tiÕn ho¸ cña tù nhiªn.

Vẫn bằng phép suy luận lô gích và những con số thống kê nóng bỏng, tác giả đẩy mâu
thuẫn lên đến đỉnh điểm: sự phát triển vũ khí hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của con
người mà còn đi ngược lại lí trí tự nhiên. Sự đối lập khủng khiếp giữa 380 triệu năm, 180
triệu năm, bốn kỷ địa chất (hàng chục triệu năm) với khoảng thời gian đủ để "bấm nút một
cái" đã phơi bày toàn bộ tính chất phi lí cũng như sự nguy hiểm của chương trình vũ khí
hạt nhân mà các nước giàu có đang theo đuổi. Bằng cách ấy, rất có thể con người đang phủ
nhận, thậm chí xoá bỏ toàn bộ quá trình tiến hoá của tự nhiên và xã hội từ hàng trăm triệu
năm qua. Đó không chỉ là sự phê phán mà còn là sự kết tội.
4. NhiÖm vô ®Êu tranh cho mét thÕ giíi hoµ b×nh.
"Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem lại tiếng nói của chúng ta tham
gia vào bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc
sống hoà bình, công bằng. Nhưng dù cho tai hoạ xảy ra thì sự có mặt của chúng ta ở đây
cũng không phải là vô ích".
Đó không hẳn là một lời kêu gọi thống thiết và mạnh mẽ, tuy nhiên không vì thế mà nó
kém sức thuyết phục. Chính dư âm của luận điểm thứ nhất đã tạo nên hiệu quả cho luận
điểm thứ hai này. Những lời kêu gọi của tác giả gần như những lời tâm sự nhưng thấm thía

63
tận đáy lòng. Chưa hết, tác giả còn tưởng tượng ra tấn thảm kịch hạt nhân và đề nghị mở
"một ngân hàng lưu trữ trí nhớ". Lời đề nghị tưởng như rất không thực ấy lại trở nên rất
thực trong hoàn cảnh cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Trong luận điểm thứ hai này, tác giả hầu như không sử dụng một dẫn chứng hay một
con số thống kê nào. Nhưng cách dẫn dắt vấn đề, lời tâm sự tha thiết mang âm điệu xót xa
của tác giả đã tác động mạnh đến lương tri nhân loại tiến bộ. Tác giả không chỉ ra thế lực
nào đã vận dụng những phát minh khoa học vào mục đích xấu xa bởi đó dường như không
phải là mục đích chính của bài viết này nhưng ông đã giúp nhân loại nhận thức được nguy
cơ chiến tranh hạt nhân là hoàn toàn có thực và ngăn chặn nguy cơ đó, đồng thời đấu tranh
cho một thế giới hoà bình sẽ là nhiệm vụ quan trọng nhất của nhân loại trong thế kỉ XXI.
-------------------------------------------------------

TUYÊN BỐ THẾ GIỚI VỀ SỰ SỐNG CÒN,


QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM

I - GỢI Ý
1. Xuất xứ:
Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát trỉen của trẻ em
được trích từ Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại Liên hợp quốc ngày
30-9-1990, in trong cuốn "Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em", NXB Chính
trị quốc gia - Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, 1997.
2. Tóm tắt:
Tuy chỉ là một trích đoạn nhưng bài viết này có thể coi là một văn bản khá hoàn
chỉnh về hiện thực và tương lai của trẻ em cũng như những nhiệm vụ cấp thiết mà cộng
đồng quốc tế phải thực hiện nhằm đảm bảo cho trẻ em có được một tương lai tươi sáng.
Ngoài hai ý mở đầu, bài viết được chia thành ba phần rất rõ ràng:
Phần một (sự thách thức): thực trạng cuộc sống khốn khổ của rất nhiều trẻ em trên thế
giới  những thách thức đặt ra với các nhà lãnh đạo chính trị.
Phần hai (cơ hội): những điều kiện thuận lợi đối với việc bảo vệ và phát triển cuộc
sống, đảm bảo tương lai cho trẻ em.
Phần ba (nhiệm vụ): những nhiệm vụ cụ thể, cấp thiết cần thực hiện nhằm bảo vệ và
cải thiện đời sống, vì tương lai của trẻ em.

II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.

64
Trẻ em là tương lai đất nước. Suy rộng ra, sự vận động và phát triển của thế giới trong
tương lai phụ thuộc rất nhiều vào cuộc sống và sự phát triển của trẻ em hôm nay. Càng
ngày, vấn đề đó càng được nhận thức rõ ràng hơn trên phương diện quốc tế. Năm 1990,
Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em đã được tổ chức. Tại đó, các nhà lãnh đạo các nước đã
đưa ra bản Tuyên bố về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em. Bài viết này đã trích
dẫn những ý cơ bản nhất của bản Tuyên bố đó.
Ngay trong phần mở đầu, bản Tuyên bố đã khẳng định những đặc điểm cũng như
những quyền lợi cơ bản của trẻ em. Từ đó, các tác giả bắt vào mạch chính với những ý
kiến hết sức cơ bản và lô gích.
Trong phần thứ nhất, tác giả nêu ra hàng loạt vấn đề có về thực trạng cũng như sự vi
phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em. Đó là sự bóc lột, đày đoạ một cách tàn nhẫn, là cuộc
sống khốn khổ của trẻ em ở các nước nghèo. Trong hoàn cảnh ấy, những con số thống kê
rất có sức nặng ("Mỗi ngày, có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói
nghèo và khủng hoảng kinh tế, của nạn đói, tình trạng vô gia cư, dịch bệnh...; Mỗi ngày có
tới 40000 trẻ em chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật,..."). Những con số biết nói ấy thực sự
là lời cảnh báo đối với nhân loại.
Với nội dung như vậy nhưng các tác giả lại đặt tên cho phần này là Sự thách thức. Mới
đọc, có cảm tưởng giữa đề mục và nội dung không thật thống nhất. Tuy nhiên, đó lại là yếu
tố liên kết giữa các phần trong văn bản này. Tác giả đã sử dụng phương pháp "đòn bẩy":
hiện thực càng được chỉ rõ bao nhiêu thì những vấn đề đặt ra sau đó lại càng được quan
tâm bấy nhiêu.
Trong phần tiếp theo, các tác giả trình bày những điều kiện thích hợp (hay những cơ
hội) cho những hoạt động vì quyền của trẻ em. Đó là những phương tiện và kiến thức, là sự
hợp tác, nhất trí của cộng đồng thế giới cùng sự tăng trưởng kinh tế, sự biến đổi của xã
hội... trong đó các tác giả nhấn mạnh đến nhân tố con người. Bằng những hoạt động tích
cực, con người hoàn toàn có thể làm chủ được tương lai của mình khi quan tâm thoả đáng
đến các thế hệ tương lai.
Trong phần Nhiệm vụ, các tác giả nêu ra tám nhiệm vụ hết sức cơ bản và cấp thiết. Có
thể tóm tắt lại như sau:
1. Tăng cường sức khoẻ và chế độ dinh dưỡng của trẻ em.
2. Quan tâm săn sóc nhiều hơn đến trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt
khó khăn.
3. Đảm bảo quyền bình đẳng nam - nữ (đối xử bình đẳng với các em gái).
4. Bảo đảm cho trẻ em được học hết bậc giáo dục cơ sở.
5. Cần nhấn mạnh trách nhiệm kế hoạch hoá gia đình.
6. Cần giúp trẻ em nhận thức được giá trị của bản thân.
7. Bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển đều đặn nền kinh tế.
8. Cần có sự hợp tác quốc tế để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách trên đây.

65
Với những ý hết sức ngắn gọn, được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, bản Tuyên bố này không
chỉ có ý nghĩa đối với mỗi người, mỗi thành viên trong cộng đồng quốc tế mà còn có tác
dụng kêu gọi, tập hợp mọi người, mọi quốc gia cùng hành động vì cuộc sống và sự phát
triển của trẻ em, vì tương lai của chính loài người

Chuyªn ®Ò 2: V¨n häc trung ®¹i

KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ TRUNG ĐẠI

I/ Tóm tắt kiến thức cơ bản.


1. Khái niệm về văn học trung đại.
Văn học trung đại là một cách gọi tên mang tính qui ước, đó là một giai đoạn mà văn học
hình thành và phát triển trong khuôn khổ của nhà nước phong kiến Việt Nam(Văn học thời
phong kiến, văn học cổ) được xác định từ thế kỷ X (dấu mốc cho sự ra đời của nhà nước
phong kiến Việt Nam đầu tiên) đến hết thế kỷ XIX.
2. Vị trí, vai trò của văn học trung đại.
- Có vai trò, vị trí rất quan trọng bởi đây là mốc đầu tiên, chặng đường đầu tiên của
văn học.
- Nội dung tư tưởng của văn học trung đại có tính chất bao trùm lên nền văn học dân
tộc.
3. Các giai đoạn của văn học trung đại.
Được chia làm 3 giai đoạn:
+ Từ thế kỷ X --> thế kỷ XV.
+ Từ thế kỷ XVI--> nửa đầu thế kỷ XVIII
+ Từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX.
4. Nội dung văn học trung đại.
- Phản ánh khí phách hào hùng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc
- Phản ánh lòng yêu nước, lòng căm thù giặc, đòi quyền sống quyền làm người...
- Tố cáo chế độ phong kiến...

.....................................................................................................

66
ChuyÖn ngêi con g¸i Nam Xu¬ng

I.T×m hiÓu chung :


1. T¸c gi¶
- NguyÔn D÷ sèng ë khoảng đầu thế kĩ XVI -là thời kì mở đầu cho một chặng dài lịch sử
tối tăm của xã hội nước ta thời phong kiến
- Quê: Huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương
- Là con của Nguyễn Tướng Phiên (Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 27, đời vua Lê Thánh Tông
1496). Theo các tài liệu để lại, ông còn là học trò giỏi của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn
Bỉnh Khiêm, chịu ảnh hưởng tiết tháo của người thầy, sau khi đỗ hương cống, làm quan
được một năm, Nguyễn Dữ lui về ẩn cư ở vùng núi Thanh Hoá.
2.XuÊt xø:
- TruyÒn k× m¹n lôc lµ tËp truyÖn ng¾n ®Çu tiªn cña v¨n häc VN, viÕt b»ng ch÷ H¸n,
®îc NguyÔn ThÕ Nghi ngêi cïng thêi dÞch ra ch÷ N«m, ngêi ®¬ng thêi ®¸nh gi¸ rÊt cao,
®êi sau gäi ®ã lµ ¸ng v¨n hay cña bËc ®¹i gia, lµ thiªn cæ k× bót.
- TruyÖn ®Ëm gi¸ trÞ nh©n v¨n vµ NguyÔn D÷ lµ mét trong nh÷ng nhµ v¨n kh¬i më cho
trµo lu nh©n v¨n trong v¨n häc trung ®¹i VN.
“ Truyền kì mạn lục”là tác phẩm duy nhất còn lại của ông. Đây được coi là áng « thiên
cổ kì bút” với 20 truyện được viết theo thể truyền kì.
Truyền kỳ: là những truyện thần kỳ với các yếu tố tiên phật, ma quỷ vốn được lưu truyền
rộng rãi trong dân gian.
Mạn lục: Ghi chép tản mạn.
Truyền kỳ còn là một thể loại viết bằng chữ Hán (văn xuôi tự sự) hình thành sớm ở Trung
Quốc, được các nhà văn Việt Nam tiếp nhận dựa trên những chuyện có thực về những con
người thật, mang đậm giá trị nhân bản, thể hiện ước mơ khát vọng của nhân dân về một xã
hội tốt đẹp.

67
- Chuyện người con gái Nam Xương kể về cuộc đời và nỗi oan khuất của người phụ nữ
Vũ Nương, là một trong số 11 truyện viết về phụ nữ.
- Truyện có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương” tại huyện Nam Xương
(Lý Nhân - Hà Nam ngày nay).
-Ngêi con g¸i Nam X¬ng lµ mét trong 20 truyÖn cña tËp s¸ch, ®îc x©y dùng trªn c¬ së
truyÖn cæ tÝch cã h cÊu thªm c¸c yÕu tè k× ¶o.
3. Tóm tắt truyện
- Vũ Nương là người con gái thuỳ mị nết na, lấy Trương Sinh (người ít học, tính hay đa
nghi).
- Trương Sinh phải đi lính chống giặc Chiêm. Vũ Nương sinh con, chăm sóc mẹ chồng chu
đáo. Mẹ chồng ốm rồi mất.
- Trương Sinh trở về, nghe câu nói của con và nghi ngờ vợ. Vũ Nương bị oan nhưng không
thể minh oan, đã tự tử ở bến Hoàng Giang, được Linh Phi cứu giúp.
- Ở dưới thuỷ cung, Vũ Nương gặp Phan Lang (người cùng làng). Phan Lang được Linh
Phi giúp trở về trần gian - gặp Trương Sinh, Vũ Nương được giải oan - nhưng nàng không
thể trở về trần gian.

II. Néi dung chÝnh


1, Nhân vật Vũ Nương
:
a) Dù ở hoàn cảnh nào, VN đều tỏ rõ là người phụ nữ đẹp người đẹp nết:
-Trước khi lấy chồng: Được tiếng là người có “tư dung tốt đẹp”
- Từ khi lấy chồng: Trong cuộc sống vợ chồng: Trước bản tính hay ghen của chồng, Vũ
Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hoà”.
- Khi tiễn chồng ra trận: Nµng rãt chÐn rîc ®Çy nãi nh÷ng lêi ©n nghÜa thuû chung,
thÓ hiÖn sù quan t©m lo l¾ng cho chång ë chèn biªn ¶i xa x«i. Chøng tá nµng rÊt hiÓu
vµ th«ng c¶m cho chång.
- Khi xa chồng: Vũ Nương là người vợ chung thuỷ, yêu chồng tha thiết, một người mẹ
hiền, dâu thảo.
+ Khi chång ra trËn bao g¸nh nÆng gia ®×nh ®Ò lªn vai nhá yÕu cña nµg. Mét
m×nh nµg võa ch¨m sãc mÑ giµ l¹i nu«i d¹y con th. Khi mÑ chång èm nµg hÕt søc thuèc
thang, lÇy lêi ngon ngät khuyªn mÑ chång ¨n uèng cho chãng lµnh bÖnh. MÑ chång mÊt
nµng ma chay tÕ lÔ chu ®¸o nhu cha mÑ ®Î cña m×nh. Tríc khi nh¾m m¾t chÝnh mÑ
chång cña nµng còng ph¶i thãªt nªn nh÷ng c©u hÕt søc c¶m ®éng ®Ó nãi vÒ c«ng lao
cña nµng víi gia ®×nh nhµ chång: “…xanh kia quyÕt ch¼ng phô con còng nh con ch¼ng
phô mÑ”.
+ Chång ra trËn, nµng göi nçi nhí th¬ng chång vµo chÝnh chiÕc bãng cña m×nh ë
trªn tu¬ng mµ nãi víi ®øa con th¬ d¹i r»ng ®ã chÝnh lµ cha nã.
->Vụ Nương là người phụ nữ đảm đang, thương yêu chồng hết mực.

68
- Khi bị chồng nghi oan: Phân trần để chồng hiểu rõ nỗi oan của mình. Những lời nói thể
hiện sự đau đớn thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công. Vũ Nương không có
quyền tự bảo vệ.
Hạnh phúc gia đình tan vỡ. Thất vọng tột cùng, Vũ Nương tự vẫn. Đó là hành động quyết
liệt cuối cùng.
- Lời than thống thiết, thể hiện sự bất công đối với người phụ nữ đức hạnh.
- Khi sống ở thuỷ cung: Đó là một thế giới đẹp từ y phục, con người đến quang cảnh lâu
đài. Nhưng đẹp nhất là mối quan hệ nhân nghĩa.
- Cuộc sống dưới thuỷ cung đẹp, có tình người.
Tác giả miêu tả cuộc sống dưới thuỷ cung đối lập với cuộc sống bạc bẽo nơi trần thế
nhằm mục đích tố cáo hiện thực.
- Vũ Nương gặp Phan Lang, yếu tố ly kỳ hoang đường.
- Nhớ quê hương, không muốn mang tiếng xấu.
Thể hiện ước mơ khát vọng một xã hội công bằng tốt đẹp hơn, phù hợp với tâm lý người
đọc, tăng giá trị tố cáo.
- Thể hiện thái độ dứt khoát từ bỏ cuộc sống đầy oan ức. Điều đó cho thấy cái nhìn nhân
đạo của tác giả.
=>Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, hiếu
thảo, thuỷ chung vẹn toàn, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình.
b) Vũ Nương lại là một người phụ nữ bất hạnh, oan trái.
- Bởi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến: Người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc
vào người đàn ông trong gia đình. Thậm chí không có cả quyền làm chủ số phận của
chính bản thân mình. cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu. lấy phải người chồng
gia trưởng, độc đoán lại hay ghen tuông vô lối.
c) Cái chết của Vũ Nương thực chất là một sự bức tử:
- Xuất phát từ lời nói ngây thơ của con trẻ => khiến cho lòng ghen tuông vô
lối, mù quáng của Trương Sinh bùng phát không gì gỡ được.Hành động vũ phu,thái độ
độc đoán, gia trưởng, bỏ ngoài tai mọi sự thanh minh của Vũ Nương và những người
hàng xóm của Trương Sinh. Một mực nghi oan cho vợ, đánh đập, đuổi đi Vũ Nương rơi
vào sự bế tắc hoàn toàn không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cái chết.
- Cái chết của Vũ Nương không chỉ thể hiện sự bế tắc của nàng mà còn có nghĩa vô cùng
sâu sắc: Số phận mỏng manh của người phụ nữ, chế độ nam quyền bất công dung túng
cho hành động của người chồng, chiến tranh phong kiến li gián lứa đôi, khiến cho hạnh
phúc của họ phải đến cảnh “ bình rơi trâm gãy”, lòng thương cảm của tác giả cho số phận
người phụ nữ...
2, Nhân vật Trương Sinh

- Điển hình cho quyền lực và tính cách của người chồng trong chế độ phong kiến nam
quyền: Gia trưởng, độc đoán, coi thường nhân phẩm thậm chí coi thường cả mạng sống
của vợ. Ngoài ra, Trương Sinh còn là kẻ vô học, ghen tuông mù quáng, vô lối.
3, Lời nói của Đản:

69
- “Ô hay! Thế ra ông cũng là cho tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia
chỉ nín thin thít… Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến…”.
- Câu nói phản ánh đúng ý nghĩ ngây thơ của trẻ em: nín thin thít, đi cũng đi, ngồi cũng
ngồi (đúng như sự thực, giống như một câu đố giấu đi lời giải. Người cha nghi ngờ, người
đọc cũng không đoán được).
- Tài kể chuyện (khéo thắt nút mở nút) khiến câu chuyện đột ngột, căng thẳng, mâu thuẫn
xuất hiện.
- Trương Sinh giấu không kể lời con nói: khéo léo kể chuyện, cách thắt nút câu chuyện
làm phát triển mâu thuẫn.
-Ngay trong lời nói của Đản đã có ý mở ra để giải quyết mâu thuẫn: “Người gì mà lạ vậy,
chỉ nín thin thít”

§Ò tham kh¶o

§Ò 1: Gi¸ trÞ nh©n ®¹o trong “chuyÖn ngêi con g¸i Nam X¬ng” cña NguyÔn D÷

I/ T×m hiÓu ®Ò
- §Ò yªu cÇu ph©n tÝch mét gi¸ trÞ néi dung cña t¸c phÈm – gi¸ trÞ nh©n ®¹o. Gi¸
trÞ nh©n ®¹o thÓ hiÖn trong t¸c phÈm v¨n ch¬ng cßn gäi lµ gi¸ trÞ nh©n v¨n.
- V¨n häc trung ®¹i ViÖt Nam thêng biÓu hiÖn tiÕng nãi nh©n v¨n ë sù tr©n träng
mäi phÈm gi¸ con ngêi, ®ång t×h th«ng c¶m víi kh¸t väng cña con ngêi, ®ång c¶m víi
sè phËn bi kÞch cña con ngêi vµ lªn ¸n nh÷ng thÕ lùc b¹o tµn chµ ®¹p lªn con ngêi
- Dùa vµo nh÷ng ®iÒu c¬ b¶n trªn,ngêi viÕt soi chiÕu vµ “ChuyÖn ngêi con g¸i
Nam X¬ng” ®Ó ph©n tÝch nh÷ng biÓu hiÖn cô thÓ vÒ néi dung nh©n v¨n trong t¸c
phÈm. Tõ ®ã ®¸nh gi¸ nh÷ng ®ãng gãp cña NguyÔn D÷ vµo tiÕng nãi nh©n v¨n cña
v¨n häc thêi ®¹i «ng.
- Tuy cÇn dùa vµo sè phËn bi th¬ng cña nh©n vËt Vò N¬ng ®Ó khai th¸c vÊn ®Ò,
nhng néi dung bµi viÕt ph¶i réng h¬n bµi ph©n tÝch nh©n vËt, do ®ã c¸ch tr×nh bµy
ph©n tÝch còng kh¸c.
II/ Dµn bµi chi tiÕt
A- Më bµi:
- Tõ thÕ kØ XVI, x· héi phong kiÕn ViÖt Nam b¾t ®Çu khñng ho¶ng, vÊn ®Ò sè
phËn con ngêi trë thµnh mèi quan t©m cña v¨n ch¬ng, tiÕng nãi nh©n v¨n trong c¸c
t¸c phÈm v¨n ch¬ng ngµy cµng ph¸t triÓn phong phó vµ s©u s¾c.
- TruyÒn k× m¹n lôc c¶u NguyÔn D÷ lµ mét trong sè ®ã. Trong 20 thiªn truyÖn cña
tËp truyÒn k×, “chuyÖn ngêi con g¸i Nam X¬ng” lµ mét trong nh÷ng t¸c phÈm tiªu
biÓu cho c¶m høng nh©n v¨n cña NguyÔn D÷.
B- Th©n bµi:
* Kh¸i niÖm nh©n ®¹o: lßng yªu thu¬ng, sù ngîi ca, t«n träng gi¸ trÞ, phÈm chÊt, vÎ
®Ñp, tµi n¨ng, vµ quyÒn lîi cña con nguêi.
1. T¸c gi¶ hÕt lêi ca ngîi vÎ ®Ñp cña con ngêi qua vÎ ®Ñp cña VN, mét phô n÷ b×nh
d©n

70
- VN lµ con nhµ nghÌo (“thiÕp vèn con nhµ khã”), ®ã lµ c¸i nh×n nguêi kh¸ ®Æc biÖt
cña t tëng nh©n v¨n NguyÔn D÷.
- Nµng cã ®Çy ®ñ vÎ ®Ñp truyÒn thèng cña nguêi phô n÷ ViÖt Nam: thuú mÞ, nÕt
na. §èi víi chång rÊt mùc dÞu dµng, ®»m th¾m thuû chung; ®èi víi mÑ chång rÊt mùc
hiÕu th¶o, hÕt lßng phô duìng; ®ãi víi con rÊt mùc yªu thu¬ng.
- §Æc biÖt, mét biÓu hiÖn râ nhÊt vÒ c¶m høng nh©n v¨n, nµng lµ nh©n vËt ®Ó t¸c
gi¶ thÓ hiÖn kh¸t väng vÒ con nguêi, vÒ h¹nh phóc gia ®×nh, t×nh yªu ®«i løa:
+ Nµng lu«n vun vÐn cho h¹nh phóc gia ®×nh.
+ Khi chia tay chång ®i lÝnh, kh«ng mong chång lËp c«ng hiÓn h¸ch ®Ó ®uîc “Ên
phong hÇu”, nµng chØ mong chång b×nh yªn trë vÒ.
+ Lêi thanh minh víi chång khi bÞ nghi oan còng thÓ hiÖn râ kh¸t väng ®ã: “ThiÕp së
dÜ nu¬ng tùa vµ chµng v× cã c¸i thó vui nghi gia nghi thÊt”
Tãm l¹i : duíi ¸nh s¸ng cña tu tuëng nh©n v¨n ®· xuÊt hiÖn nhiÒu trong v¨n chu¬ng,
NguyÔn D÷ míi cã thÓ x©y dùng mét nh©n vËt phô n÷ b×nh d©n mang ®Çy ®ñ vÎ
®Ñp cña con nguêi. Nh©n v¨n lµ ®¹i diÖn cho tiÕng nãi nh©n v¨n cña t¸c gi¶.
2. NguyÔn D÷ tr©n träng vÎ ®Ñp cña Vò Nu¬ng bao nhiªu th× cµng ®au ®ín truíc
bi kÞch cuéc ®êi cña nµng bÊy nhiªu.
- §au ®ín v× nµng cã ®Çy ®ñ phÈm chÊt ®¸ng quý vµ lßng tha thiÕt h¹nh phóc gia
®×nh, tËn tuþ vun ®¸p cho h¹nh phóc ®ã l¹i ch¼ng ®uîc huëng h¹nh phóc cho xøng víi
sù hi sinh cña nµng:
+ Chê chång ®»ng ®½ng, chång vÒ cha mét ngµy vui, sãng giã ®· næi lªn tõ mét
nguyªn cí rÊt vu v¬ (Ngêi chång chØ dùa vµo c©u nãi ng©y th¬ cña ®øa trÎ ®· kh¨ng
kh¨ng kÕt téi vî).
+ Nµng hÕt mùc van xin chµng nãi râ mäi nguyªn cí ®Ó cëi th¸o mäi nghi ngê; hµng
xãm râ nçi oan cña nµng nªn kªu xin gióp, tÊt c¶ ®Òu v« Ých. §Õn c¶ lêi than khãc xãt xa
tét cïng “Nay ®· b×nh r¬i tr©m g·y,… sen rò trong ao, liÔu tµn truíc giã,… c¸i Ðn l×a
®µn,…” mµ nguêi chång vÉn kh«ng ®éng lßng.
+ Con nguêi trong tr¾ng bÞ xóc ph¹m nÆng nÒ, bÞ dËp vïi tµn nhÉn, bÞ ®Èy ®Õn c¸i
chÕt oan khuÊt
à Bi kÞch ®êi nµng lµ tÊn bi kÞch cho c¸i ®Ñp bÞ chµ ®¹p n¸t tan, phò phµng.
3. Nhung víi tÊm lßng yªu thu¬ng con nguêi, t¸c gi¶ kh«ng ®Ó cho con nguêi trong
s¸ng cao ®Ñp nhu nµng ®· chÕt oan khuÊt.
- Mîn yÕu tè k× ¶o cña thÓ lo¹i truyÒn k×, diÔn t¶ Vò Nu¬ng trë vÒ ®Ó ®uîc röa s¹ch
nçi oan gi÷a thanh thiªn b¹ch nhËt, víi vÌ ®Ñp cßn léng lÉy h¬n xa.
- Nhng Vò Nu¬ng ®îc t¸i t¹o kh¸c víi c¸c nµng tiªn siªu thùc : nµng vÉn kh¸t väng h¹nh
phóc trÇn thÕ (ngËm ngïi, tiÕc nuèi, chua xãt khi nãi lêi vÜnh biÖt “thiÕp ch¼ng thÓ
vÒ víi nh©n gian ®uîc n÷a”.
- H¹nh phóc vÉn chØ lµ uíc m¬, hiÖn thùc vÉn qu¸ ®au ®ín (h¹nh phóc gia ®×nh tan
vì, kh«ng g× hµn g¾n ®uîc).
4. Víi niÒm xãt th¬ng s©u s¾c ®ã, t¸c gi¶ lªn ¸n nh÷ng thÕ lùc tµn ¸c chµ ®¹p lªn
kh¸t väng chÝnh ®¸ng cña con nguêi.

71
- XHPK víi nh÷ng hñ tôc phi lÝ (träng nam khinh n÷, ®¹o tßng phu,…) g©y bao nhiªu
bÊt c«ng. HiÖn th©n cña nã lµ nh©n vËt Tru¬ng Sinh,
nguêi chång ghen tu«ng mï qu¸ng, vò phu.
- ThÕ lùc ®ång tiÒn b¹c ¸c (Tru¬ng Sinh con nhµ hµo phó, mét lóc bá ra 100 l¹ng vµng
®Ó cuíi Vò Nu¬ng). Thêi nµy ®¹o lÝ ®· suy vi, ®ång tiÒn ®· lµm ®en b¹c t×nh nghÜa
con nguêi.
à NguyÔn D÷ t¸i t¹o truyÖn cæ Vî chµng Tru¬ng, cho nã m¹ng d¸ng dÊp cña thêi ®¹i
«ng, XHPKVN thÕ kØ XVI.
C- KÕt bµi:
- “ChuyÖn nguêi con g¸i Nam Xu¬ng” lµ mét thiªn truyÒn k× giµu tÝnh nh©n v¨n.
TruyÖn tiªu biÓu cho s¸ng t¹o cña NguyÔn D÷ vÒ sè phËn ®Çy tÝnh bi kÞch cña nguêi
phu n÷ trong chÕ ®é phong kiÕn.
- T¸c gi¶ thÊu hiÓu nçi ®au thu¬ng cña hä vµ cã tµi biÓu hiÖn bi kÞch ®ã kh¸ s©u s¾c.
§Ò 2: ChuyÖn nguêi con g¸i Nam Xu¬ng cña NguyÔn D÷ xuÊt hiÖn nhiÒu yÕu tè
k× ¶o.H·y chØ ra c¸c yÕu tè k× ¶o Êy vµ cho biÕt t¸c gi¶ muèn thÓ hiÖn ®iÒu g× khi
®a ra nh÷ng yÕu tè k× ¶o vµo1 c©u chuyÖn quen thuéc ?

Gîi ý:

- CÇn chØ ra ®uîc c¸c chi tiÕt k× ¶o trong c©u chuyÖn :


+ Phan Lang n»m méng råi th¶ rïa
+ Phan Lang gÆp n¹n, l¹c vµo ®éng rïa, gÆp Linh Phi, ®uîc cøu gióp; gÆp l¹i Vò Nu-
¬ng, ®îc sø gi¶ cña Linh Phi rÏ ®uêng nuíc ®a vÒ du¬ng thÕ.
+ Vò Nu¬ng hiÖn vÒ trong lÔ gi¶i oan trªn bÕn Hoµng Giang gi÷a lung linh, huyÒn
¶o råi l¹i biÕn mÊt.
- ý nghÜ cña c¸c chi tiÕt huyÒn ¶o:
+ Lµm hoµn chØnh thªm nÐt ®Ñp vèn cã cña nh©n vËt Vò Nu¬ng: nÆng t×nh, nÆng
nghÜa, quan t©m ®Õn chång con, khao kh¸t ®uîc phô håi danh dù.
+ T¹o nªn mét kÕt thóc phÇn nµo cã hËu cho c©u chuyÖn.
+ thÓ hiÖn uíc m¬ vÒ lÏ c«ng b»ng ë ®êi cña nh©n d©n
+ T¨ng thªm ý nghÜa tè c¸o hiÖn thùc cña x· héi.
* VÒ h×nh thøc: - C©u tr¶ lêi ng¾n gän, gi¶i thÝch lµm râ yªu cÇu cña ®Ò bµi.- C¸c ý
cã sù liªn kÕt chÆt chÏ.- Tr×nh bµy râ rµng, m¹ch l¹c.

§Ò 3: Trong “ChuyÖn ngêi con g¸i Nam X¬ng”, chi tiÕt c¸i bãng cã ý nghÜa g× trong
c¸ch kÓ chuyÖn.
Gîi ý:

1. Yªu cÇu néi dung :- §Ò bµi yªu cÇu nguêi viÕt lµm râ gi¸ trÞ nghÖ thuËt chi tiÕt
nghÖ thuËt trong c©u chuyÖn.
- C¸i bãng trong c©u chuyÖn cã ý nghÜa ®Æc biÖt v× ®©y lµ chi tiÕt t¹o nªn c¸ch
th¾t nót, më nót hÕt søc bÊt ngê.

72
+ C¸i bãng cã ý nghÜa th¾t nót c©u chuyÖn v× :
§èi víi Vò Nu¬ng: Trong nh÷ng ngµy chång ®i xa, v× thu¬ng nhí chång, v× kh«ng muèn
con nhá thiÕu v¾ng bãng nguêi cha nªn hµng ®ªm, Vò Nu¬ng ®· chØ bãng m×nh trªn t-
uêng, nãi dèi con ®ã lµ cha nã. Lêi nãi dèi cña Vò Nu¬ng víi môc ®Ých hoµn toµn tèt
®Ñp.
§èi víi bÐ §¶n: Míi 3 tuæi, cßn ng©y th¬, cha hiÓu hÕt nh÷ng ®iÒu phøc t¹p nªn ®· tin
lµ cã mét nguêi cha ®ªm nµo còng ®Õn, mÑ ®i còng ®i, mÑ ngåi còng ngåi, nhung nÝn
thin thÝt vµ kh«ng bao giê bÕ nã.
§èi víi Tru¬ng Sinh: Lêi nãi cña bÐ §¶n vÒ ngêi cha kh¸c (chÝnh lµ c¸i bãng) ®· lµm
n¶y sinh sù nghi ngê vî kh«ng thuû chung, n¶y sinh th¸i ®é ghen tu«ng vµ lÊy ®ã lµm
b»ng chøng ®Ó vÒ nhµ m¾ng nhiÕc, ®¸nh ®uæi Vò Nu¬ng ®i ®Ó Vò Nu¬ng ph¶i t×m
®Õn c¸i chÕt ®Çy oan øc.
+ C¸i bãng còng lµ chi tiÕt më nót c©u chuyÖn. Chµng Tru¬ng sau nµy hiÓu ra nçi
oan cña vî còng chÝnh lµ nhê c¸i bãng cña chµng trªn tuêng ®uîc bÐ §¶n gäi lµ cha.Bao
nhiªu nghi ngê, oan øc cña Vò
Nu¬ng ®Òu ®uîc ho¸ gi¶i nhê c¸i bãng.
- ChÝnh c¸ch th¾t, më nót c©u chuyÖn b»ng chi tiÕt c¸i bãng ®· lµm cho c¸i chÕt cña
Vò Nu¬ng thªm oan øc, gi¸ trÞ tè c¸o ®èi víi x· héi phong kiÕn nam quyÒn ®Çy bÊt
c«ng víi nguêi phô n÷ cµng thªm s©u s¾c h¬n.
2. Yªu cÇu h×nh thøc: - Tr×nh bµy b»ng v¨n b¶n ng¾n. - DÉn d¾t, chuyÓn ý hîp lÝ. -
DiÔn ®¹t lu lo¸t.

§Ò 4: PhÇn cuèi cña t¸c phÈm “ChuyÖn nguêi con g¸i Nam Xu¬ng” ®uîc t¸c gi¶ x©y
dùng b»ng hµng lo¹t nh÷ng chi tiÕt hu cÊu. H·y ph©n tÝch ý nghÜa cña c¸c chi tiÕt
®ã.

Gîi ý :
- C¸c chi tiÕt hu cÊu ë phÇn cuèi truyÖn : Vò Nu¬ng gÆp Phan Lang duíi thuû cung,
c¶nh sèng díi thuû cung vµ nh÷ng c¶nh Vò Nu¬ng hiÖn vÒ trªn bÕn s«ng cïng nh÷ng lêi
nãi cña nµng khi kÕt thóc c©u chuyÖn. C¸c chi tiÕt ®ã cã t¸c dông lµm t¨ng yÕu tè li k×
vµ lµm hoµn chØnh nÐt ®Ñp cña nh©n vËt Vò Nu¬ng, dï chÕt nhung nµng vÉn muèn
röa oan, b¶o toµn danh dù, nh©n phÈm .
- C©u nãi cuãi cïng cña nµng : “§a t¹ t×nh chµng, thiÕp ch¼ng thÓ trë vÒ nh©n gian
®uîc n÷a” lµ lêi nãi cã ý nghÜa tè c¸o s©u s¾c, hiÖn thùc x· héi ®ã kh«ng cã chç cho
nµng dung th©n vµ lµm cho c©u chuyÖn t¨ng tÝnh hiÖn thùc ngay trong yÕu tè k× ¶o :
nguêi chÕt kh«ng thÓ sèng l¹i
®uîc.
§Ò 5: Nªu nh÷ng hiÓu biÕt cña em vÒ t¸c gi¶ vµ t¸c phÈm.
Gîi ý:
- NguyÔn D÷ lµ nhµ v¨n tiªu biÓu cña VHVN nöa ®Çu thÕ kØ XVI. §©y lµ thêi k× x·
héi phong kiÕn ViÖt Nam cã nhiÒu biÕn ®éng vµ khñng ho¶ng. Nh÷ng gi¸ trÞ chÝnh

73
thèng cña Nho gi¸o bÞ nghi ngê, ®¶o lén. §Æc biÖt chiÕn tranh gi÷a c¸c tËp ®oµn
phong kiÕn Lª – TrÞnh – M¹c g©y ra nh÷ng lo¹n l¹c, rèi ren liªn miªn trong ®êi sèng x·
héi. Gièng nhu nhiÒu tri thøc kh¸c cña thêi ®¹i m×nh. NguyÔn D÷ ch¸n n¶n vµ bi phÉn
truíc thêi cuéc. ChÝnh v× thÕ, sau khi ®ç Hu¬ng Cèng, «ng chØ lµm quan mét n¨m råi
c¸o quan vÒ ë Èn. TruyÒn k×: lµ thÓ lo¹i v¨n xu«i tù sù cã nguån gèc tõ Trung Quèc,
thÞnh hµnh tõ thêi §uêng. TruyÒn k× thuêng dùa vµo nh÷ng cèt truyÖn d©n gian hoÆc
d· sö. Trªn c¬ së ®ã, nhµ v¨n hu cÊu, s¾p xÕp l¹i c¸c t×nh tiÕt, t« ®©m thªm c¸c nh©n
vËt… ë truyÒn k×, cã sù ®an xen gi÷a thùc vµ ¶o. §Æc biÖt, c¸c yÕu tè k× ¶o trë thµnh
phu¬ng thøc kh«ng thÓ thiÕu ®Ó ph¶n ¸nh hiÖn thùc vµ kÝ th¸c nh÷ng t©m sù, nh÷ng
tr¶i nghiÖm cña nhµ v¨n. “TruyÒn k× m¹n lôc” cña NguyÔn D÷ lµ t¸c phÈm tiªu biÓu
cho thÓ lo¹i truyÒn k× ë ViÖt Nam.T¸c phÈm “ChuyÖn ngêi con g¸i Nam Xu¬ng”lµ mét
trong 20 t¸c phÈm cña “TruyÒn k× m¹n lôc”. Qua cuéc ®êi cña Vò Nu¬ng, NguyÔn D÷
tè c¸o cuéc chiÕn tranh phi nghÜa ®· lµm vì tan h¹nh phóc løa ®«i, ®ång thêi thÓ hiÖn
sù c¶m th«ng s©u s¾c víi kh¸t väng h¹nh phóc còng nh bi kÞch cña nguêi phô n÷ trong x·
héi xa. T¸c phÈm còng lµ sù suy ngÉm, day døt truíc sù mong manh cña h¹nh phóc trong
kiÕp nguêi ®Çy bÊt tr¾c.T¸c phÈm cho thÊy nghÖ thuËt x©y dùng tÝnh c¸ch nh©n vËt
giµ dÆn. Sù ®an xen thùc ¶o mét c¸ch nghÖ thuËt, mang tÝnh thÈm mÜ cao.
- Gi¸ trÞ cña t¸c phÈm :ChuyÖn nguêi con g¸i Nam Xu¬ng lµ mét truyÖn ng¾n ®Æc
s¾c c¶ vÒ néi dung lÉn nghÖ thuËt trong t¸c phÈm TruyÒn k× m¹n lôc cña NguyÔn D÷.
TruyÖn ®· thÓ hiÖn ®uîc sù phèi hîp hµi hoµ gi÷a chÊt hiÖn thùc (c©u chuyÖn ®uîc l-
uu truyÒn trong d©n gian) víi nh÷ng nÐt nghÖ thuËt ®Æc trung cña thÓ lo¹i truyÒn k×
(yÕu tè k× l¹ hoang ®uêng).
§Ò 6: h·y ph©n tÝch nh÷ng gi¸ trÞ cña t¸c phÈm “ChuyÖn ngêi con gi¸ Nam X-
¬ng”:
1.1Gi¸ trÞ hiÖn thùc :
a. T¸c phÈm ®· ®Ò cËp tíi sè phËn bi kÞch cña nguêi phô n÷ duíi chÕ ®é phong
kiÕn th«ng qua h×nh tuîng nh©n vËt Vò Nu¬ng
Vèn lµ nguêi con g¸i xuÊt th©n tõ tÇng líp b×nh d©n thuú mÞ, nÕt na ; tu dung tèt
®Ñp. Khi chång ®i lÝnh. Vò Nu¬ng mét m×nh võa ch¨m sãc, thuèc thang ma chay cho
mÑ chång võa nu«i con, ®¶m ®ang, tËn t×nh, chu ®¸o. §Ó råi khi chµng Tru¬ng trë vÒ,
chØ v× c©u nãi ng©y th¬ cña bÐ §¶n mµ tru¬ng Sinh ®· nghi ngê lßng thuû chung cña
vî. Tõ chç nãi bãng giã xa x«i, råi m¾ng chöi, h¾t hñi vµ cuèi cïng lµ ®uæi Vò Nu¬ng ra
khái nhµ, Tru¬ng Sinh ®· ®Èy Vò Nu¬ng tíi buíc ®êng cïng quÉn vµ bÕ t¾c, ph¶i chän
c¸i chÕt ®Ó tù minh oan cho m×nh.
b. TruyÖn cßn ph¶n ¸nh hiÖn thùc vÒ XHPKVN víi nh÷ng biÓu hiÖn bÊt c«ng
v« lÝ.
§ã lµ mét x· héi dung tóng cho quan niÖm träng nam khinh n÷, ®Ó cho Tru¬ng Sinh –
mét kÎ thÊt häc, vò phu ngang nhiªn chµ ®¹p lªn gi¸ trÞ nh©n phÈm cña nguêi vî hiÒn
thôc nÕt na.
- XÐt trong quan hÖ gia ®×nh, th¸i ®é vµ hµnh ®éng cña Tru¬ng Sinh chØ lµ sù ghen
tu«ng mï qu¸ng, thiÕu c¨n cø  (chØ dùa vµo c©u nãi v« t×nh cña ®øa trÎ 3 tuæi, bá
ngoµi tai mäi lêi thanh minh cña vî vµ lêi can ng¨n cña hµng xãm).

74
- Nhung xÐt trong quan hÖ x· héi : hµnh ®éng ghen tu«ng cña Tru¬ng Sinh kh«ng ph¶i
lµ mét tr¹ng th¸i t©m lÝ bét ph¸t trong c¬n nãng giËn bÊt thuêng mµ lµ hÖ qu¶ cña mét
lo¹i tÝnh c¸ch – s¶n phÈm cña x· héi ®u¬ng thêi.
? Nguyªn nh©n cña c¸i chÕt Vò N¬ng
NÕu Tru¬ng Sinh lµ thñ ph¹m trùc tiÕp g©y nªn c¸i chÕt cña Vò Nu¬ng th× nguyªn
nh©n s©u xa lµ do chÝnh XHPK bÊt c«ng – x· héi mµ ë ®ã nguêi phô n÷ kh«ng thÓ
®øng ra ®Ó b¶o vÖ cho gi¸ trÞ nh©n phÈm cña m×nh, vµ lêi buéc téi, gì téi cho nguêi
phô n÷ bÊt h¹nh Êy l¹i phô thuéc vµo nh÷ng c©u nãi ng©y th¬ cña ®øa trÎ 3 tuæi (lêi bÐ
§¶n).
§ã lµ cha kÓ tíi mét nguyªn nh©n kh¸c n÷a : do CĐPK – dï kh«ng ®uîc miªu t¶ trùc
tiÕp, nhung cuéc chia tay Êy ®· t¸c ®éng hoÆc trùc tiÕp hoÆc gi¸n tiÕp tíi sè phËn
tõng nh©n vËt trong t¸c phÈm :
+ Nguêi mÑ sÇu nhí con mµ chÕt
+ VN vµ TS ph¶i sèng c¶nh chia l×a
+ BÐ §¶n sinh ra ®· thiÕu thèn t×nh c¶m cña nguêi cha vµ khi cha trë vÒ th× mÊt mÑ
§©y lµ mét c©u chuyÖn diÔn ra ®Çu thÕ kØ XV (cuéc chiÕn tranh x¶y ra thêi nhµ
Hå) ®uîc truyÒn tông trong d©n gian, nhung ph¶i ch¨ng qua ®ã, t¸c phÈm cßn ngÇm phª
ph¸n cuéc néi chiÕn ®Ém m¸u trong x· héi ®u¬ng thêi (thÕ kØ XVI).
1.2. Gi¸ trÞ nh©n ®¹o: Kh¸i niÖm nh©n ®¹o: lßng yªu thu¬ng, sù ngîi ca, t«n träng gi¸
trÞ, phÈm chÊt, vÎ ®Ñp, tµi n¨ng… vµ quyÒn lîi cña con nguêi.
a. Th¸i ®é ngîi ca, t«n träng vÎ ®Ñp cña ngêi phô n÷ th«ng qua h×nh tuîng nh©n vËt
Vò Nu¬ng.
- XuÊt th©n tõ tÇng líp b×nh d©n nhung ë Vò Nu¬ng ®· héi tô ®Çy ®ñ nh÷ng phÈm
chÊt tèt ®Ñp cña ngêi PNVN theo quan ®iÓm Nho gi¸o (cã ®ñ tam tßng, tø ®øc).
- §Æc biÖt t¸c gi¶ ®· ®Æt nh©n vËt trong c¸c mèi quan hÖ ®Ó lµm to¸t lªn vÎ ®Ñp
Êy.
+ Víi chång: nµng lµ nguêi vî hiÒn thôc lu«n biÕt “Gi÷ g×n khu«n phÐp, kh«ng tõng
®Ó lóc nµo vî chång ph¶i ®Õn thÊt hoµ”.
+ Víi con: nµng lµ nguêi mÑ dÞu dµng, giµu t×nh yªu thu¬ng (chi tiÕt nµng chØ bãng
m×nh trªn v¸ch vµ b¶o ®ã lµ cha §¶n còng xuÊt ph¸t tõ tÊm lßng nguêi mÑ, ®Ó con trai
m×nh bít ®i c¶m gi¸c thiÕu v¾ng t×nh c¶m cña nguêi cha)
+ Víi mÑ chång: nµng ®· lµm trßn bæn phËn cña mét nguêi con d©u hiÕu th¶o (thay
chång ch¨m sãc mÑ, ®éng viªn khi mÑ buån, thuèc thang khi mÑ èm, lo ma chay chu
®¸o khi mÑ qua ®êi)
- Nh÷ng phÈm chÊt tèt ®Ñp cña Vò Nu¬ng cßn ®uîc thÓ hiÖn ngay c¶ khi nµng sèng
cuéc sèng cña mét cung n÷ duíi thuû cung.
+ S½n sµng tha thø cho Tru¬ng Sinh
+ Mét mùc thu¬ng nhí chång con nhung kh«ng thÓ trë vÒ v× ®· nÆng ¬n nghÜa ®èi
víi Linh Phi…
 Ta thÊy, NguyÔn D÷ ®· dµnh cho nh©n vËt mét th¸i ®é yªu mÕn, tr©n träng qua
tõng trang truyÖn, tõ ®ã kh¾c ho¹ thµnh c«ng h×nh tuîng nh©n vËt nguêi phô n÷ víi
®Çy ®ñ nh÷ng phÈm chÊt ®Ñp.

75
b. C©u chuyÖn cßn ®Ò cao triÕt lÝ nh©n nghÜa ë hiÒn gÆp lµnh qua phÇn kÕt thóc
cã hËu gièng nh rÊt nhiÒu nh÷ng c©u chuyÖn cæ tÝch ViÖt Nam.
- Víi ®Æc trurng riªng cña thÓ lo¹i truyÖn truyÒn k×, NguyÔn D÷ ®· s¸ng t¹o thªm
phÇn cuèi cña c©u chuyÖn. VN ®· kh«ng chÕt, hay nãi ®óng h¬n, nµng ®uîc sèng kh¸c
b×nh yªn vµ tèt ®Ñp h¬n ë chon thuû cung. Qua ®ã cã thÓ thÊy râ uíc m¬ cña nguêi xua
(còng lµ cña t¸c gi¶) vÒ mét x· héi c«ng b»ng, tèt ®Ñp mµ ë ®ã, con nguêi sèng vµ ®èi
xö víi nhau b»ng lßng nh©n ¸i, ë ®ã nh©n phÈm cña con nguêi ®uîc t«n träng ®óng
møc. Oan th× ph¶i ®îc gi¶i, ngêi hiÒn lµnh luong thiÖn nh Vò Nu¬ng ph¶i ®îc huëng
h¹nh phóc.
1. 3 Gi¸ trÞ nghÖ thuËt:
- §©y lµ mét t¸c phÈm ®uîc viÕt theo lèi truyÖn truyÒn k×  tÝnh chÊt truyÒn k×
®uîc thÓ hiÖn qua kÕt cÊu hai phÇn:
+ Vò Nu¬ng ë trÇn gian
+ Vò Nu¬ng ë thuû cung
Víi kÕt c©u hai phÇn nµy, t¸c gi¶ ®· kh¾c ho¹ ®uîc mét c¸ch hoµn thiªn vÎ ®Ñp h×nh
tuîng nh©n vËt Vò N¬ng.
MÆt kh¸c, còng nhu kÕt cÊu cña truyÖn cæ tÝch TÊm C¸m  KÕt c©u hai phÇn ë
“ChuyÖn nguêi con g¸i Nam Xu¬ng” ®· gãp phÇn thÓ hiÖn kh¸t väng vÒ lÏ c«ng b»ng
trong cuéc ®êi (ë hiÒn gÆp lµnh). Tuy nhiªn, nÕu c« TÊm sau nh÷ng lÇn ho¸ th©n ®·
®îc trë vÒ vÞ trÝ hoµng hËu, sèng h¹nh phóc trän ®êi th× Vò nu¬ng l¹i chØ tho¸ng hiÖn
vÒ råi vÜnh viÔn biÕn mÊt.
-VÒ kÕt cÊu: +TruyÖn x©y dùng tõ thÊp ®Õn cao. HÕt ®ît sãng nµy ®Õn ®ît sãng
kh¸c, ®ît sau m¹nh h¬n ®ît truíc khiÕn c©u truyÖn hÊp dÉn.
+Cuèi cïng kÕt thóc kh«ng ®ét ngét nhung t¹o ra ®uîc sù ®ång c¶m s©u
s¾c n¬i nguêi ®äc.
-ChÊt hoang ®uêng k× ¶o cuèi truyÖn h×nh nhu còng lµm t¨ng thªm ý nghÜa phª ph¸n
®èi víi hiÖn thùc: dï oan ®· ®uîc gi¶i nhung nguêi ®· chÕt th× kh«ng thÓ sèng l¹i ®uîc
 Do ®ã, bµi häc gi¸o dôc ®èi víi nh÷ng kÎ nhu Tru¬ng Sinh cµng thªm s©u s¾c h¬n.
Ngoµi ra cßn ph¶i kÓ ®Õn nghÖ thuËt t¹o tÝnh kÞch trong c©u chuyÖn mµ yÕu tè
th¾t nót vµ gì nót cña tÊn kÞch Êy chØ lµ c©u nãi cña mét ®øa trÎ 3 tuæi (BÐ §¶n). Qua
®ã thÓ hiÖn sù bÊt c«ng v« lÝ ®èi víi nguêi phô n÷ trong x· héi Êy.
-VÒ ng«n ng÷: Lêi v¨n biÕn ngÉu, dïng nhiÒu ®iÓn tÝch- c©u truyÖn cã kÕt cÊu cæ
kÝnh h¬n.
-X©y dùng t×nh tiÕt: th¾t, gì, më nót, c¸ch kÓ truyÖn sèng ®éng, giµu kÞch tÝnh tËp
trung lµm næi bËt nçi oan cña Vò Ngäc- g©y xóc ®éng
-X©y dùng nh©n vËt Vò Ngäc: Nguêi phô n÷ cã phÈm chÊt, tu duy tèt ®Ñp- ®¹i diÖn
cho nguêi phô n÷ xa- ®¹i diÖn cho nçi bÊt h¹nh g«ng xiÒng mµ x· héi t¹o ra cho nguêi
phô n÷.

B. CÁC DẠNG ĐỀ:


1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm

76
Đề 1:
Ý nghĩa của các yếu tố kỳ ảo trong "Chuyện người con gái Nam Xương".
Gợi ý:
a. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích.
b. Thân đoạn:
- Các yếu tố kỳ ảo trong truyện:
+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
+ Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp, gặp lại
Vũ Nương, được xứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
+ Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh,
huyền ảo rồi lại biến đi mất.
- Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo.
+ Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương: Nặng tình,
nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi
danh dự.
+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
+ Thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở đời của nhân dân ta.
c. Kết đoạn:
- Khẳng định ý nghĩa của yếu tố kỳ ảo đối với truyện.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
Đề 1 : Cảm nhận của em về văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương"
của Nguyễn Dữ.
*Gợi ý
a. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Nêu giá trị nhân đạo, hiện thực và nghệ thuật đặc sắc của truyện.
b. Thân bài:
1. Giá trị hiện thực:
- Tố cáo xã hội phong kiến bất công, thối nát ...
+ Chàng Trương đang sống bên gia đình hạnh phúc phải đi lính.
+ Mẹ già nhớ thương, sầu não, lâm bệnh qua đời.
+ Người vợ phải gánh vác công việc gia đình.
- Người phụ nữ là nạn nhân của lễ giáo phong kiến bất công.
+ Vũ Thị Thiết là một người thuỷ chung, yêu thương chồng con, có hiếu với
mẹ ...
+ Trương Sinh là người đa nghi, hồ đồ, độc đoán -> đẩy Vũ Nương đến cái
chết thảm thương.
+ Hiểu ra sự thật Trương Sinh ân hận thì đã muộn.
2. Giá trị nhân đạo
- Đề cao, ca ngợi phẩm hạnh cao quý của người phụ nữ qua hình ảnh Vũ Nương.
+ Đảm đang: Thay chồng gánh vác việc nhà...

77
+ Hiếu thảo, tôn kính mẹ chồng ...
+ Chung thuỷ: Một lòng, một dạ chờ chồng ...
3. Giá trị nghệ thuật:
- Ngôn ngữ, nhân vật.
- Kịch tính trong truyện bất ngờ.
- Yếu tố hoang đường kỳ ảo.
c. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung của truyện.
- Truyện là bài học nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc gia đình.
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ:
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn (8 đến 10 dòng) tóm tắt lại "Chuyện người con gái
Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
* Gợi ý:
- Vũ Nương là người con gái thuỳ mị, nết na. Chàng Trương là con gia đình hào phú
vì cảm mến đã cưới nàng làm vợ. Cuộc sống gia đình đang xum họp đầm ấm, xảy ra binh
đao, Trương Sinh phải đăng lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già, nuôi con. Khi Trương
Sinh về thì con đã biết nói, đứa trẻ ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm đến
với mẹ nó. Chàng nổi máu ghen, mắng nhiệc vợ thậm tệ, rồi đánh đuổi đi, khiến nàng phẫn
uất, chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ, Trương Sinh đã lập đàn
giải oan cho nàng.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
Đề 1: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người
con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
* Gợi ý:
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Vẻ đẹp, đức hạnh và số phận của Vũ Nương.
b. Thân bài:
- Vũ Nương là người phụ nữ đẹp.
- Phẩm hạnh của Vũ Nương:
+ Thuỷ chung, yêu thương chồng (khi xa chồng ...)
+ Mẹ hiền (một mình nuôi con nhỏ ...)
+ Dâu thảo (tận tình chăm sóc mẹ già lúc yếu đau, lo thuốc thang ...)
- Những nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương.
+ Cuộc hôn nhân bất bình đẳng.
+ Tính cách và cách cư sử hồ đồ, độc đoán của Trương Sinh.
+ Tình huống bất ngờ (lời của đứa trẻ thơ ...)
- Kết cục của bi kịch là cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
- Ý nghĩa của bi kịch: Tố cáo xã hội phong kiến.
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm.

78
b. Kết bài:
- Khẳng định lại phẩm chất, vẻ đẹp của Vũ Nương.
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
.....................................................................................................

CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH


'Trích: Vũ trung tuỳ bút- Phạm Đình Hổ”

I. T×m hiÓu chung


1. Tác giả:
- Phạm Đình Hổ ( 1768- 1839) tục gọi là Chiêu Hổ
- Quê: Đan Loan - Đường An - Tỉnh Hải Dương
- Sự nghiệp: Có nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị đủ các lĩnh vực tất cả
đều bằng chữ Hán
2. Tác phẩm "Vò trung tuú bót"
- Gồm 88 mẩu chuyện nhỏ bàn về các thứ lễ nghi, phong tục, tập quán, ghi chép
những sự việc xảy ra trong xã hội lúc đó. Tác phẩm có giá trị văn chương đặc sắc, cung
cấp những tài liệu quý về sử học, địa lí, xã hội học. V¨n b¶n “ChuyÖn cò trong phñ chóa
TrÞnh” ®îc trÝch trong Vò trung tuú bót.
a. Nội dung
- Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa Trịnh
- Những thủ đoạn nhũng nhiễu dân của bọn quan lại hầu cận
- Tình cảnh của người dân
b. Nghệ thuật
- Các sự việc đưa ra cụ thể, chân thực, khách quan, không xen lời bình của tác giả, có
liệt kê và cũng có miêu tả tỉ mỉ, vài sự kiện để khắc hoạ ấn tượng. Cảm xúc của tác giả
(thái độ bất bình, phê phán) cũng được gửi gắm kín đáo
c. Chủ đề: "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" phản ánh đời sống xa hoa của vua
chúa và sự nhũng nhiễu của quan lại thời Lê - Trịnh
B. CÁC DẠNG ĐỀ
1. Dạng đề 3 điểm :
Đề 1: Viết đoạn văn từ 10-15 dòng nêu ý nghĩa của đoạn văn sau "Nhà ta ở phường
Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà Tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi
trượng, lúc nở hoa, trắng xoá thơm lừng; trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu
trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy."
(Phạm Đình Hổ - Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh - Ngữ văn 9 tập 1)
* Gợi ý :
a. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm

79
- Đoạn văn được trích trong văn bản "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" - Phạm Đình Hổ
- Ngữ văn 9 tập 1
b. Thân đoạn:
- Tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình . Bà mẹ của tác giả đã
phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quí rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai hoạ.
- Ý nghĩa: Cách dẫn dắt câu chuyện làm tăng sức thuyết phục cho những chi tiết chân
thực mà tác giả đã ghi chép, cách viết phong phú và sinh động. Qua đó cảm xúc của tác giả
(thái độ bất bình, phê phán) cũng được gửi gắm một cách kín đáo. Sự vật được kể mang
tính khách quan.
c. Kết đoạn:
- Thủ đoạn của bọn hoạn quan khiến cho người dân phải tự huỷ bỏ cây quý của nhà
mình. Đó là điều hết sức vô lí, bất công
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm :
Đề 1: Cảm nhận của em về văn bản "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" của Phạm
Đình Hổ (Ngữ văn 9- tập 1)
*Gợi ý :
1. Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả - tác phẩm, khái quát nội dung nghệ thuật của
tác phẩm
"Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" phản ánh đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng
nhiễu của quan lại thời Lê - Trịnh
2. Thân bài:
a. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh
- Xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả ý
- Thích chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp - > Ý thích đó không biết bao nhiêu cho vừa. Vì
vậy việc xây dựng đình đài cứ liên miên, hao tài, tốn của
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả tỉ mỉ (diễn ra thường xuyên,
tháng ba bốn lần). Huy động rất đông người hầu hạ (Binh lính dàn hầu vòng quanh bốn
mặt hồ mà Tây Hồ rất rộng)
- Các nội thần, quan hộ giá, nhạc công ... bày đặt nhiều trò giải trí lố lăng và tốn kém
- Việc tìm thu vật "phụng thủ" thực chất là cưỡng đoạt những của quý trong thiên hạ
(chim quý, thú lạ) về tô điểm cho nơi ở của chúa.
VD: Miêu tả kĩ, công phu: Đưa một cây đa cổ thụ "từ bên bờ Bắc chở qua sông đem về"
phải một cơ binh hàng trăm người mới khiêng nổi
-> Ý nghĩa đoạn văn "Mỗi khi đêm thanh vắng... biết đó là triệu bất tường" => Cảm xúc
chủ quan của tác giả được bộc lộ, nhất là khi ông xem đó là "triệu bất tường" -> Điềm gở,
điềm chẳng lành -> Báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết ăn chơi hưởng
lạc.
b. Những thủ đoạn nhũng nhiễu dân của bọn quan lại hầu cận
Thời chúa Trịnh Sâm bọn hoạn quan hầu cận trong phủ chúa rất được sủng ái -> Chúng
ỷ thế nhà chúa mà hoành hành tác oai, tác quái trong nhân dân. Thủ đoạn của chúng là
hành đông vừa ăn cướp vừa la làng.
c. Tình cảnh của người dân

80
- Người dân bị cướp tới hai lần, bằng không thì phải tự tay huỷ bỏ của quý của mình.
Chính bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quí rất đẹp trong
vườn nhà mình để tránh tai hoạ
* Nghệ thuật: Cảnh được miêu tả là cảnh thực (cảnh ở các khu vườn rộng...)
- Cảm xúc chủ quan của tác giả được bộc lộ khi ông xem đó là "triệu bất tường"
- Các sự việc đưa ra cụ thể, chân thực, khách quan, không xen lời bình của tác giả, có
liệt kê và cũng có miêu tả tỉ mỉ vài sự kiện để khắc hoạ ấn tượng. Cảm xúc của tác giả (thái
độ bất bình, phê phán) cũng được gửi gắm kín đáo.
3. Kết đoạn
- Suy nghĩ của bản thân về thực trạng của đất nước qua những ghi chép của tác giả.
- Liên hệ thực tế xã hội ngày nay.
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ
1. Dạng đề 3 điểm:
Đề 1: Viết đoạn văn (15-20 dòng) giới thiệu về tác giả và nội dung chính của đoạn
trích "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" (Trích Vũ trung tuỳ bút) Phạm Đình Hổ (Ngữ
văn 9- tập 1)
* Gợi ý:
a. Mở đoạn: Giới thiệu khái quát về đoạn trích.
b. Thân đoạn:
- Giới thiệu tác giả: Phạm Đình Hổ sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn
ẩn cư. Đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn, vua vời ông ra làm quan. Ông đã mấy lần từ
chức rồi lại bị triệu ra.
- Nội dung chính: Tác phẩm viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ IX)
+ Ghi chép về cuộc sống ở phủ chúa thời Thịnh Vương Trịnh Sâm, lúc mới lên ngôi,
Thịnh Vương (1742-1782) là con người "cứng rắn, thông minh, quyết đoán, sáng suốt, trí
tuệ hơn người" nhưng sau khi đã dẹp yên được các phe phái chống đối, lập lại kỉ cương thì
"dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần, thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả
thích, chúa say mê Đặng Thị Huệ, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc..."
gây nên nhiều biến động, các vương tử tranh giành quyền lực, đánh giết lẫn nhau. Đó
chính là hiện thực đen tối của lịch sử nuớc ta thời đó.
c. Kết đoạn:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
2. Dạng đề 5 -7 điểm:
Đề 1: Em hãy thử tưởng tượng mình là Trịnh Sâm và tự kể lại ý thích, thói quen ăn chơi
xa xỉ của mình (có sử dụng yếu tố miêu tả)
* Gợi ý:
a. Mở bài: - (Dùng ngôi kể thứ nhất) Giới thiệu khái quát bản thân. (Ta - Thịnh
Vương Trịnh Sâm, thông minh sáng suốt, từng một tay dẹp yên các phe phái đối lập, lập
lại trật tự kỉ cương xã hội...)
b. Thân bài
- Kể lại cuộc sống của mình ( bám sát nội dung văn bản)

81
- Thích ngao du sơn thuỷ uống rượu, cho thoả chí.
- Xây dựng rất nhiều cung điện, đền đài. Công việc xây dựng tiêu tốn khá nhiều tiền
của nhưng không hề gì, miễn là thích...
- Thường xuyên ngự trên Hồ Tây, trên núi, cứ mỗi tháng độ ba bốn lần ta lại ra Hồ
Tây ngắm cảnh, tưởng như đang lạc giữa chốn bồng lai tiên cảnh.
- Rất thích thú với cảnh binh lính dàn hầu đông đúc vòng quang bốn bề mặt hồ rộng
lớn, cảnh các nội thần, thái giám hoá trang, mặc áo đàn bà…
- Suốt ngày ta chỉ nghĩ đi đâu chơi, bày đặt trò giải trí nào để thoả sức hưởng thụ.
Cuộc sống thật dễ chịu...
- Có thú chơi cao sang là sưu tầm đồ quý trong thiên hạ. Đi đến đâu cũng sai bọn
hầu cận lùng sục trong dân chúng xem có cái gì đáng giá là tịch thu ngay đem về phủ
chúa...
c. Kết bài: Khái quát nội dung
- Làm bất cứ những gì ta thích. Bởi vì ta là một vị chúa thông minh, tài giỏi và có nhiều
công lao nhất...
...................................................................................................
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
-Ngô gia văn Phái-

I. T×m hiÎu chung


1. Tác giả:
Ngô gia văn Phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai
nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí, Ngô
Thì Du làm quan thời Lê Chiêu Thống...
2.Tác phẩm:
a/ Nội dung: phản ánh vẻ đẹp hào hùng của ngừơi anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong
chiến công đại phá quân Thanh. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và bè lũ bán nước
Vua tôi nhà Lê.
b/ Nghệ thuật:
- Lối văn trần thuật kết hợp miêu tả chân thực, sinh động. Thể loại tiểu thuyết viết theo
lối chương hồi. Tất cả các sự kiện lich sử trên đều được miêu tả một cách cụ thể, sinh
động.
- Tác phẩm được viết bằng văn xuôi chữ Hán, có quy mô lớn đạt được những thành
công xuất sắc về mặt nghệ thuật , đặc biệt trong những lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử.
c/ Chủ đề: Phản ánh chân thực vẻ đẹp của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ với
lòng yêu nước, quả cảm, tài trí, nhân cách cao đẹp. Sự hèn nhát, thần phục ngoại bang một
cách nhục nhã của quân tướng nhà Thanh và vua tôi nhà Lê.

B/ CÁC DẠNG ĐỀ:


1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:

82
Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn tóm tắt hồi 14: Đánh Ngọc Hồi quân Thanh bị thua
trận. Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài (trích Hoàng Lê nhất thống chí )của
Ngô Gia Văn Phái.
* Gợi ý:
a/ Mở đoạn: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích.
b/ Thân đoạn:
- Nhận được tin cấp báo quân Thanh chiếm được thành Thăng Long, Nguyễn Huệ
lên ngôi Hoàng đế và thân chinh cầm quân đi dẹp giặc.
- Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
- Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu
Thống.
c. Kết đoạn:
- Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ với lòng yêu nước quả cảm tài chí và sự
thất bại thảm hại của quân tướng nhà Thanh và vua tôi nhà Lê.
2. Dạng đề 5- 7 điểm:
Đề 1: Phân tích ngắn gọn hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ ở hồi 14
trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
* Gợi ý
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm.
- Giới thiệu chung về hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ ở hồi 14.
b. Thân bài:
- Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán.
+ Nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long, Quang Trung định thân chinh cầm quân
đi ngay.
+ Chỉ trong vòng hơn một tháng lên ngôi Hoàng đế, đốc xuất đại binh ra Bắc gặp gỡ
người Cống Sỹ ở huyện La Sơn, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ
An, phủ dụ tướng sỹ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và cả kế hoạch đối phó với nhà
Thanh sau chiến thắng.
- Trí tuệ sáng suốt, nhạy bén.
+ Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược
giữa ta và địch.
+ Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người thể hiện qua cách xử trí
với các tướng sỹ ở Tam Điệp …
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng.
- Tài dùng binh như thần.
+ Cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung làm cho giặc phải kinh ngạc…
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc
- Hình ảnh lẫm liệt trong chiến trận.
+ Vua Quang Trung thân chinh cầm quân…

83
+ Đội quân không phải là lính thiện chiến, lại trải qua cuộc hành quân cấp tốc,
không có thời gian nghỉ ngơi mà dưới sự lãnh đạo tài tình của Quang Trung trận nào cũng
thắng lớn…
c. Kết bài:
- Khẳng định lòng yêu nước, tài trí, mưu lược của người anh hùng Nguyễn Huệ.
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ:
1. Dạng đề 2-3 điểm:
* Đề 1: Viết một đoạn văn ngắn giới thiệu về tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
a. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
b. Thân đoạn:
- Giới thiệu nhóm tác giả Ngô Thì với hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì
Du.
- Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
c. Kết đoạn:
- Khẳng định giá trị và nội dung nghệ thuật của tác phẩm.

2. Dạng đề 5 -7 điểm:
Đề 1: Cảm nhận của em về sự thất bại của quân tướng nhà Thanh và số phận
thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân.
* Dàn bài:
a. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích.
b. Thân bài:
- Sự thất bại của quân tướng nhà Thanh:
+ Tôn Sĩ Nghị là một tên tướng bất tài, kiêu căng, tự mãn, chủ quan khinh địch.
+ Không đề phòng, suốt ngày chỉ lo vui chơi, yến tiệc.
+ Khi quân Tây Sơn tấn công thì sợ mất mật, quân tướng ai nấy đều rụng rời sợ hãi
xin hàng, ai nấy đều rụng rời sợ hãi hoảng hồn tan tác.
- Số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân:
+ Đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược nên đã phải chịu đựng
nỗi sỉ nhục của kẻ di cầu cạnh van xin, không còn tư cách của một quân vương.
+ Chịu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc.
+ Tình cảnh của vua tôi nhà Lê trên đường tháo chạy.
+ Suy nghĩ của bản thân.
c. Kết bài:
- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
....................................................................................

84
TRUYỆN KIỀU
Nguyễn Du

CÁC DẠNG ĐỀ:


1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 1: Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm Truyện Kiều trong 20 dòng.
* Gợi ý:Tóm tắt truyện.
Phần 1. Gặp gỡ và đính ước
- Chị em Thúy Kiều đi chơi xuân, Kiều gặp Kim Trọng ( bạn Vương Quan ) quyến luyến.
- Kim Trọng tìm cách dọn đến ở gần nhà, bắt được cành thoa rơi, trò chuyện cùng Thuý
Kiều, Kiều- Kim ước hẹn nguyền thề.
Phần 2. Gia biến và lưu lạc
- Kim về hộ tang chú, gia đình Kiều gặp nạn. Kiều bán mình chuộc cha.
- Gặp Thúc Sinh, Chuộc khỏi lầu xanh . Bị vợ cả Hoạn Thư đánh ghen, bắt Kiều về hành
hạ trước mặt Thúc Sinh.
- Kiều xin ra ở Quan Âm Các, Thúc Sinh đến thăm, bị Hoạn Thư bắt, Kiều sợ bỏ trốn ẩn
náu ở chùa Giác Duyên. Kiều rơi vào tay Bạc Bà, rồi lại rơi vào lầu xanh lần hai.
- Kiều gặp Từ Hải, được chuộc khỏi lầu xanh. Kiều báo ân báo oán. Bị mắc lừa HồTôn
Hiến. Từ Hải chết. Kiều bị gán cho viên Thổ quan. Kiều nhảy xuống dòng Tiền Đường tự
vẫn. Sư bà Giác Duyên cứu thoát về tu ở chùa.
Phần 3. Đoàn tụ 
- Sau khi hộ tang trở về được gả Thúy Vân, Kim vẫn khôn nguôi nhớ Kiều, tìm kiếm Kiều.
Kim lập đàn lễ, gặp Kiều, gia đình sum họp. Kiều không muốn nối lại duyên xưa. Chỉ coi
nhau là bạn.

Đề 2: Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật Tác phẩm Truyện Kiều - Nguyễn Du.
* Gợi ý:
1. Nội dung:
- Giá trị nhân đạo: Đề cao tự do, ước mơ đẹp về tình yêu; khát vọng công lí, khát vọng về
quyền sống... Ca ngợi phẩm chất con người (Kiều: Đẹp, tài, trí, hiếu thảo, trung hậu, vị
tha)
- Giá trị hiện thực: Bức tranh hiện thực về một xã hội bất công. Tiếng nói lên án, tố cáo các
thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.
2. Nghệ thuật:
- Truyện Kiều là sự kết tinh tthành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện
ngôn ngữ thể loại (Văn học dân tộc; thể thơ lục bát; nghệ thuật tự sự ; Nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên ; khắc hoạ tính cách , tâm lý con người).

2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:


Đề 1: Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Du.
* Gợi ý:

85
1. Bản thân.
- Sinh 3.1.1766 (Năm Ất Dậu niên hiệu Cảnh Hưng) Mất 16.9.1820. Tên chữ Tố Như
hiệu Thanh Hiên.
- Quê Tiên Điền, Nghi Xuân , Trấn Nghệ An. 10 tuổi mồ côi mẹ.
- Là một trong năm người nổi tiếng đương thời.
2. Gia đình.
- Đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống khoa bảng. Có thế lực bậc nhất lúc
bấy giờ.
- Cha là Nguyễn Nghiễm - nhà văn - nhà nghiên cứu sử học- nhà thơ và từng làm tể tướng.
- Mẹ là Trần Thị Tần xuất thân dòng dõi bình dân, người xứ Kinh Bắc, là vợ thứ ba và ít
hơn chồng 32 tuổi.
-Thuở niên thiếu Nguyễn Du chịu nhiều ảnh hưởng của mẹ.
3. Thời đại.
- Cuối Lê đầu Nguyễn - thời kì phong kiến Việt Nam suy tàn , giai cấp thống trị thối nát,
đời sống xã hội đen tối, nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Khởi nghĩa Tây Sơn.
4. Cuộc đời.
- Từng làm quan cho nhà Lê, chống lại Tây Sơn nhưng thất bại, định trốn vào Nam theo
Nguyễn Ánh nhưng không thành, bị bắt rồi được thả.
- Sống lưu lạc ở miền Bắc, về quê ở ẩn, nếm trải cay đắng
- Năm 1802 làm quan cho triều Nguyễn, tài giỏi được cử đi xứ sang Trung Quốc hai lần.
5. Sự nghiệp thơ văn.
- Ông để lại một di sản văn hóa lớn cho dân tộc:
+ Thơ chữ Hán: Thanh Hiên Thi Tập, Bắc hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm.
+ Thơ chữ Nôm: Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều),Văn chiêu hồn,Văn tế
sống hai cô gái trường lưu.
6. Tư tưởng tình cảm
- Đối với những kẻ thuộc tầng lớp trên, tướng lĩnh hay quan lại cao cấp Nguyễn Du vạch
trần tội ác của chúng.
- Đối với những con người bất hạnh... ông dành hết tình thương đặc biệt là phụ nữ và trẻ
em.
* Tóm lại:
- Sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du từ chữ Hán đến truyện Kiều, văn
chiêu hồn đều sáng ngời Chủ nghĩa nhân đạo. Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc,
Nguyễn Du lăn lộn nhiều trong cuộc sống, yêu thương quần chúng, lắng nghe tâm hồn,
nguyện vọng của quần chúng nên ông ý thức được những vấn đề trọng đại của cuộc
đời.Với tài năng nghệ thuật tuyệt vời ông đã làm cho vấn đề trọng đại càng trở nên bức
thiết hơn, da diết hơn, nóng bỏng hơn.Thơ Nguyễn Du dù chữ Hán hay Nôm đều đạt tới
trình độ điêu luyện. Riêng truyện Kiều là một công hiến to lớn của ông đối với sự phát
triển của văn học dân tộc.
- Nguyễn Du - đại thi hào dân tộc- người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc- một
danh nhân văn hóa thế giới.
- Thơ Nguyễn Du là niềm tự hào dân tộc – Niềm tự hào của văn học Việt Nam.

86
- Tố Hữu ca ngợi: Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.”
-----------------------------------------------------

Tiết 10: CHỊ EM THUÝ KIỀU

A/ TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:


1. Nội dung:
- Khắc hoạ những nét riêng về nhan sắc tài năng, tính cách số phậnThuý Vân, Thuý
Kiều.
- Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của con người.
2. Nghệ thuật:
- Bút pháp nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp con người.
B/ CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 3 điểm
Đề 1: Cảm nhận của em về vẻ đẹp chung của chị em Thuý Kiều qua đoạn trích Chị
em Thuý Kiều của Nguyễn Du.
* Gợi ý:
- Mở đoạn: Giới thiệu chung về vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều.
- Thân đoạn: Vẻ đẹp chung của hai chị emThuý Vân, Thuý Kiều.
- Kết đoạn: Khẳng định vẻ đẹp cao quý của chị em Thuý Kiều qua nghệ thuật tả người tài
tình của tác giả Nguyễn Du.
2. Dạng đề 5 đến7 điểm
Đề 2: Cảm nhận của em về đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" (Trích "Truyện Kiều"
Nguyễn Du).
a. Mở bài.
- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn trích;
- Cảm nhận chung về đoạn trích.
b. Thân bài.
* Bốn câu đầu.- Vẻ đẹp chung của hai chị em.
- Nhịp điệu, hình ảnh được lựa chọn theo bút pháp ước lệ cổ điển “ Mai cốt cách.... mười
phân vẹn mười” hoa, tuyết ước lệ cho người phụ nữ, người đẹp.
Hình mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái. Tinh thần trắng trong, tinh khiết, thanh sạch.
Hai vế đối nhau, câu thơ trở nên tao nhã gợi cảm. Âm điệu nhịp nhàng nhấn mạnh sự đối
xứng làm nổi bật vẻ đẹp cân đối hoàn hảo của hai chị em.
* 16 câu tiếp theo: - Vẻ đẹp của Thúy Vân và tài sắc của Thúy Kiều.
- Bốn câu tả Thúy Vân.

87
+ Hình ảnh: Khuôn mặt đầy đặn, cân đối phúc hậu, suối tóc óng như mây, điệu cười,
giọng nói đoan trang, làn da sáng hơn tuyết.
Tác gỉa miêu tả Thúy Vân toàn vẹn bằng những nét ước lệ hình ảnh ẩn dụ thích hợp, tinh tế
từ khuôn mặt, nét mày, điệu cười giọng nói, mái tóc làn da. Kì diệu hơn Nguyễn Du vừa
miêu tả nhan sắc đã cho thấy ngay số phận an bài hạnh phúc của nhân vật.
- 12 câu tả Kiều.
+Số lượng câu chứng tỏ Nguyễn Du dùng hết bút lực, lòng yêu mến vào nhân vật này.
lấy Vân làm nền để làm nổi bật Kiều, Vân xinh đẹp là thế nhưng Kiều còn đẹp hơn.
Nếu Vân đẹp tươi thắm, hiền dịu thì Thúy Kiều lại đẹp sắc sảo “ nghiêng nước, nghiêng
thành”
- Trích dẫn: Thơ
- Nhận xét: - Kiều đẹp tuyệt đối,
- Phân tích: bằng nghệ thuật ước lệ, tác giả điểm xuyết một đôi nét dung nhan khiến
Thúy Kiều hiện lên rạng rỡ :
+ “làn thu thủy”: đôi măt trong xanh như nước mùa thu gợi cảm mà huyền ảo.
+ “ nét xuân sơn”: nét mày thanh thản tươi xanh mơn mởn đẹp như dáng núi mùa xuân
tươi trẻ.
- Phân tích: phép tu từ nhân hóa, từ ngữ chọn lọc thể hiện thái độ của thiên nhiên với
Kiều. Với vẻ đẹp của Vân thiên nhiên chẳng đố kị mà chịu thua, chịu nhường còn với
vẻ đẹp của Kiều “ hoa ghen”, “ liễu hờn” thể hiện sự đố kị.
- Tả vẻ đẹp lấy từ điển cố “ nhất cố khuynh thành, tái cố khuynh quốc" tạo sự súc tích,
có sức gợi lớn làm bật vẻ đẹp có sức hút mạnh mẽ
*Tóm lại: Vẻ đẹp của Kiều gây ấn tượng mạnh, một trang tuyệt sắc.
- Không chỉ là giai nhân tuyệt thế mà Kiều còn rất đa tài.
- Tài đánh đàn, Soạn nhạc: khúc “ bạc mệnh oán” (Tâm hồn đa sầu, đa cảm, phong phú.
Khúc nhạc dự đoán cho số phận đau khổ, bất hạnh của Kiều sau này).
- So với đoạn tả Thúy Vân, chức năng dự báo còn phong phú hơn.
- Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận đã thể hiện quan niệm “
thiên mệnh” của nho gia, thuyết tài mệnh tương đố” của Nguyễn Du.
- Nét tài hoa của Nguyễn Du bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật tả người ở đoạn thơ.
- Bút pháp nghệ thuật có tính truyền thống của thơ văn cổ nhưng ông đã vượt lên được cái
giới hạn đó. 16 câu tả vẻ đẹp của hai chị em Kiều gần như đầy đủ vẻ đẹp của người phụ nữ
theo quan niệm xưa: Công - dung - ngôn - hạnh. Tài ấy thể hiện cả ở tả tình, tâm hồn của
nhân vật và dự báo số phận nhân vật.
* Đức hạnh và phong thái của hai chị em Kiều.
- Cuộc sống “êm đềm”, “ phong lưu” khuôn phép, đức hạnh mẫu mực.
- Đoạn cuối: khép lại bức chân dung của hai chị em Thúy Kiều đồng thời khép lại toàn
đoạn trích khiến nó thêm chặt chẽ với tác phẩm, với số phận từng nhân vật. Vân êm ái,
Kiều bạc mệnh.
- Cách miêu tả - giới thiệu chính xác số phận từng nhân vật.
Cuối đoạn miêu tả vẫn trong sáng, đằm thắm như chở che bao bọc cho chị em Kiều - 2
bông hoa vẫn còn trong nhụy.

88
* Nhận xét chung về nội dung - nghệ thuật.
C.Kết bài:
Khẳng định vẻ đẹp trong sáng thanh cao của chị em Thuý Kiều. Nghệ thuật miêu tả
nhân vật tài tình, tình cảm yêu quý trân trọng của tác giả dành cho Vân, Kiều.

--------------------------------------------

CẢNH NGÀY XUÂN

A/ TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:


1. Nội dung:
- Gợi tả bức hoạ mùa xuân với những đặc điểm riêng biệt.
- Thể hiện tâm trạng của nhân vật trong buổi du xuân.
2. Nghệ thuật :
- Tả cảnh thiên nhiên đặc sắc.
- Từ ngữ giàu chất tạo hình.
B/ CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 3 điểm:
Đề 1: Viết đoạn văn ngắn 10 -15 dòng nêu cảm nhận của em về hai câu thơ:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
* Gợi ý:
- Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh được miêu tả thật sinh động, mang đậm nét văn
hoá dân gian việt nam:
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
- Tết thanh minh, mọi người tập trung đi tảo mộ, họ là những nam thanh nữ tú đi sửa
sang lại phần mộ của người thân . Không khí thật đông vui, rộn ràng được thể hiện qua
một loạt các từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình (Dập dìu, Ngựa xe, giai nhân- tài tử, áo
quần…) Câu thơ nhịp nhàng , uyển chuyển ….
- Tất cả đều góp phần thể hiện cái không khí lễ hội đông vui, náo nhiệt. Một truyền
thống tốt đẹp của những nước Á Đông.

2. Dạng đề 5 - 7 điểm :
Đề1: Cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong đoạn trích Cảnh ngày
xuân. (Truyện Kiều- Nguyễn Du)
* Gợi ý :
a. Mở bài : Giới thiệu chung về đoạn trích
- Cảm nhận chung về khung cảnh thiên nhiên được miêu tả trong đoạn trích

89
b. Thân bài : Khung cảnh ngày xuân
- Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân . Một bức tranh xuân tuyệt tác:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh rợn chân trời.
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. ”

- Ngày xuân qua đi nhanh như chiếc thoi dệt vải trong khung cửi -> không khí rộn
ràng, tươi sáng của cảnh vật trong mùa xuân; tâm trạng nuối tiếc ngày xuân trôi qua nhanh
quá. Như thế hai câu đầu vừa nói về thời gian mà còn gợi tả không gian mùa xuân. Hai câu
còn lại là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.

“Cỏ non xanh tận chân trời.


Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

- Bát ngát trải rộng đến tận chân trời là thảm cỏ non tơ xanh rợn -> gam màu nền của
bức tranh ngày xuân tươi đẹp. Sự phối hợp màu sắc của bức tranh thật hài hòa. Màu xanh
non tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở, cho sức sống đang lên , còn màu trắng là biểu
tượng của sự trong trắng tinh khiết .
-> Ngày xuân ở đây thật khoáng đạt, mới mẻ, thanh tân, dạt dào sức sống trong một không
khí trong lành, thanh thoát. Từ “điểm” dùng ở đây làm cho bức tranh thêm sinh động, có
hồn.
- Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh cũng được miêu tả thật sinh động , náo nức:
“Gần xa nô nức yến oanh .
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên .
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay"

- Không khí rộn ràng đựơc thể hiện qua một loạt các từ ghép, từ láy giàu chất tạo
hình.Tất cả đều góp phần thể hiện cái không khí lễ hội đông vui, một truyền thống tốt đẹp
của những nước Á Đông.
" Tà tà ... bắc ngang".
- Cảm giác bâng khuâng nuối tiếc. Cảnh vật, không khí mùa xuân trong sáu câu này
so với mấy câu đầu đã có sự khác biệt. Mọi thứ đều đã lắng xuống, nhạt dần.
- Nắng xuân ấm áp hồng tươi vào buổi sớm giờ đây đã “nhạt” đi, khe suối nhỏ, nhịp
cầu bắc ngang tuy vẫn giữ nét thanh diụ của mùa xuân với mọi chuyển động nhẹ nhàng,
nhưng mặt trời ngả bóng về Tây, bước chân người thẩn thơ lưu luyến, tiếc nuối, dòng nước
uốn quanh.

90
- Cảnh chiều tan hội. Tâm trạng mọi người theo đó cũng khác hẳn. Những từ láy
“nao nao”, “tà tà”, “thanh thanh” đâu chỉ tả cảnh mà còn ngụ tình … Một cái gì đó lãng
đãng, bâng khuâng, xuyến xao và tiếc nuối…
c. Kết bài : - Nhận xét chung về cảnh thiên nhiên tươi đẹp trong đoạn trích
- Nghệ thuật tả cảnh của đại thi hào Nguyễn Du.
--------------------------------------------------

Tiết 12: MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU

A/ TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:


1.Nội dung:Hiểu được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du:
- Khinh bỉ và căm phẫn sâu sắc bọn buôn người qua hình ảnh nhân vật Mã Giám
Sinh .
- Xót xa trước thực trạng con người bị hạ thấp, bị trà đạp dưới chế độ xã hội phong
kiến.
2.Nghệ thuật:
- Miêu tả nhân vật, khắc hoạ tính cách qua diện mạo cử chỉ.
B/ CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 3 điểm:
Đề 1: Trong đoạn trích Mã Giám Sinh Mua Kiều (trích Truyện Kiều - Nguyễn
Du) có những câu thơ rất hay miêu tả về nhân vật này. Em hãy chép lại đúng những câu
thơ đó.
* Gợi ý : Học sinh học thuộc đoạn trích, chép lại đúng những câu thơ miêu tả về nhân vật
Mã Giám Sinh.
2. Dạng đề 7 điểm :
Đề 2: Nêu cảm nhận của em về đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều" (Trích
Truyện Kiều - Nguyễn Du) để thấy rõ nghệ thuật miêu tả nhân vật phản diện độc đáo của
tác gỉa.
* Dàn ý:
a.Mở bài.
Giới thiệu về nội dung- vị trí đoạn trích. Khái quát nghệ thuật miêu tả nhân vật phản
diện độc đáo của tác giả.
b.Thân Bài.
* Giới thiệu: Màn kịch vấn danh.
- Trong lễ vấn danh Mã Giám Sinh xuất hiện là một sinh viên trường Quốc tử Giám đến
hỏi Kiều làm vợ.
+ Giới thiệu: là người viễn khách – khách phương xa
+ Quê “Huyện lâm Thanh cũng gần. Họ tên không rõ ràng.
+ Tuổi ngoại tứ tuần.
+ Diện mạo: mày râu nhãn nhụi, áo quần bảnh bao  chải chuốt, trai lơ.

91
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh. Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần  cộc
lốc
+ Cử chỉ hành vi: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng  sỗ sàng, thô lỗ, kệch cỡm.
Tóm lại: Tác giả để nhân vật tự bộc lộ tính cách. Nhân vật Mã Giám Sinh đã phơi bày
chân tướng – Một con buôn vô học.
*. Màn mua bán. ( Dẫn chứng, Phân tích)
- Gặp Kiều: nhìn, ngắm, cân đo, xoay lên đặt xuống coi Kiều như một món hàng ngoài
chợ, khi bằng lòng : mặc cả “cò kè” -> bộc lộ rõ bản chất bỉ ổi, trắng trợn, ti tiện, bẩn thỉu
 Hình thức là một lễ vấn danh nhưng thực chất lại là cuộc buôn thịt bán người, trắng
trợn bỉ ổi. Từ việc mua bán đề cập tới một hiên thực: xã hội đồng tiền và một loại người
xuất hiện ở đó đồng tiền có thế lực vạn năng nên việc mua bán con người dễ dàng như mua
một món đồ ngoài chợ.
* Thúy Kiều với nỗi đau đầu đời.
- Tâm trạng đau khổ ê chề, nỗi đau khổ tột cùng nhưng vẫn không làm suy giảm vẻ trang
đài của nàng.Thấy được sự cảm thông, lòng yêu thương sâu sắc của tác giả với số phận
nhân vật của mình.( Dẫn chứng, Phân tich)
c. Kết bài:
- Bằng ngoại hình, hành động, cử chỉ, lời nói của nhân vật, đoạn trích khắc hoạ chân
tướng Mã Giám sinh- Tên buôn thịt bán người giả dối đểu cáng, trơ trẽn qua nghệ thuật
miêu tả nhân vật phản diện đặc sắc của tác giả. Đó cũng là tiếng nói cảm thông chia sẻ -
Tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du với cuộc đời, với con người trong xã hội xưa.
-----------------------------------------------

Tiết 13: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.

A/ TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN:


1.Nội dung:
- Cảm nhận được tâm trạng cô đơn buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung hiếu thảo của
Thuý Kiều.
2.Nghệ thuật:
- Khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại.
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
B/ CÁC DẠNG ĐỀ:
1. Dạng đề 3 điểm
Đề 1: Chép lại 8 câu thơ cuối trong đoạn trích : " Kiều ở lầu ngưng bích" và nêu
cảm nhận về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật trong đoạn thơ.
* Gợi ý:
- Chép đúng nội đúng 8 câu thơ.
- Phần cảm nhận:
+ Mở đoạn: Giới thiệu nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
+ Thân đoạn: cảm nhận về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật trong đoạn thơ.

92
+ Kết đoạn: Đánh giá chung về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của tác giả.
2. DẠNG ĐỀ 5 HOẶC 7 ĐIỂM:
Đề1: Cảm nhận của em về tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua
nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du.
* Gợi ý:
a Mở bài: Giới thiệu chung về đoạn trích (Đoạn thơ hay nhất biểu hiện bút pháp nghệ
thuật đặc sắc về tự sự, tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ độc thoại thể hiện nỗi lòng và tâm trạng
của nhân vật Thuý Kiều)
b. Thân bài:
* Tâm trạng của Thuý Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:
- Đó là tâm trạng cô đơn buồn tủi, đau đớn xót xa
- Nàng nhớ đến Kim trọng, thương chàng
- Nàng thương cha mẹ già thiếu người chăm sóc.
- Nàng nghĩ về hiện tại của bản thân thì thấy buồn dâng lớp lớp như tâm trạng ngổn
ngang trước một tương lai mờ mịt, bế tắc.
* Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du:
- Nhà thơ sử dụng ngoại cảnh để tả tâm cảnh.
- Vừa tạo ra sự đối lập Thiên nhiên rộng lớn- con người nhỏ bé cô đơn vừa tạo ra sự
tuơng đồng : cảnh ngổn ngang - tâm trạng ngổn ngang, cảnh mờ mịt nhạt nhoà - tâm
trạng u buồn, bế tắc.
- Nguyễn Du sử dụng điệp ngữ, các từ láy tạo nên sự trùng điệp như nỗi lòng của
Kiều đang " Lớp lớp sóng dồi"
C. Kết bài:
- Khẳng định nghệ thuật Vịnh cảnh ngụ tình đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du.
- Xót thương số phận tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều.
- Căm ghét xã hội phong kiến xấu xa, thối nát, tàn bạo.

Đề 2: Nêu cảm nhận của em về số phận của người phụ nữ việt nam dưới chế độ xã
hội phong kiến thông qua hình ảnh Vũ thị Thiết - (Chuyện Người con gái nam xương) và
Thuý Kiều - (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
* Gợi ý:
1. Mở Bài:
- Nhấn mạnh về số phận bất hạnh của người phụ nữ việt nam xưa.
- Giới thiệu hai tác phẩm Chuyện Người con gái nam xương- Nguyễn Dữ và
Truyện Kiều - Nguyễn Du).
2. Thân bài:
- Số phận bi kịch của người phụ nữ xưa:
+ Đau khổ, bất hạnh, oan khuất tài hoa bạc mệnh . Hồng nhan đa truân.
( - Không được sum họp vợ chồng hạnh phúc, một mình nuôi già, dạy trẻ, bị chồng nghi
oan , phải tìm đễn cái chết, vĩnh viến không thể đoàn tụ với gia đình chồng con… - Nàng
vũ thị Thiết.

93
- Số phận vương Thuý Kiều: Bi kịch tình yêu, mối tình đầu tan vỡ, phải bán mình
chuộc cha, thanh lâu hai lượt thanh y hai lần ( Hai lần tự tử, hai lần đi tu, hai lần phải vào
lầu xanh, hai lần làm con ở) quyền sống và quyền hạnh phúc bị cướp đoạt nhiều lần…).
+ Cảm thương xót xa cho cuộc đời của những người phụ nữ xưa. Căm giận xã hội
phong kiến bất công tàn bạo đã trà đạp lên nhân phẩm cuộc đời họ…
- Vẻ đẹp, nhân phẩm của họ:
+ Tài sắc vẹn toàn:
- Chung thuỷ son sắt (Vũ Thị Thiết)
- Tài sắc hiếu thảo nhân hậu, bao dung khát vọng tụ do công lý và chính nghĩa
(Thuý Kiều).
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận bản thân. (Xót xa thương cảm) .
- Bày tỏ thái độ không đồng tình, lên án chế độ xã hội phong kiến bất công vô nhân
đạo xưa).
- Khẳng định sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa hôm nay…

.........................................................................................

TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN


(Nguyễn Đình Chiểu )

A -TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1-Tác giả :
- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi Đồ Chiểu ,sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới,
tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ),quê cha ở xã Bồ Điền -Phong Điền
-Thừa Thiên Huế .
- Là nhà thơ lớn của dân tộc, ông để lại cho đời nhiều tác phẩm văn chương có giá trị
nhằm truyền bá đạo lý và cổ vũ lòng yêu nước, ý chí cứu nước .
2-Tác phẩm
a -Nội dung:
Truyện lục vân tiên là truyện thơ nôm được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50
của thế kỷ XI X. Truyện gồm 2082 câu thơ lục bát được viết ra nhằm mục đích truyền dạy
đạo lý làm người . Đạo lý đó là :
- Xem trọng tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội, tình cha con, mẹ con,
nghĩa vợ chồng, tình bè bạn, tình yêu thương cưu mang những người hoạn nạn.
- Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy...
- Thể hiện khát vọng của nhân dân, hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong
cuộc đời .
b-Nghệ thuật:

94
Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu,
truyện thơ nôm mang tính chất là truyện để kể nhiều hơn là để đọc, để xem .Truyện có kết
cấu ước lệ gần như đã thành khuôn mẫu .Tác phẩm khắc hoạ thành công những phẩm chất
đẹp đẽ của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga .
c-Chủ đề : Tác phẩm thể hiện khát vọng cứu người, giúp đời của tác giả, phẩm chất
của hai nhân vật, thái độ và niềm tin của tác giả đối với nhân dân lao động.
B- CÁC DẠNG ĐỀ
1. Dạng đề 2-3 điểm
Đề 1 : Cho hai câu thơ sau :
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng ".
Em hãy viết đoạn văn giới thiệu về tác giả và cho biết ý nghĩa của hai câu thơ trên?
* Gợi ý :
a- Mở đoạn: giới thiệu khái quát về Nguyễn Đình Chiểu , và hai câu thơ.
b - Thân đoạn:
*Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn cuả dân tộc, mãi mãi xứng đáng là ngôi sao
sáng trên bầu trời văn nghệ Việt Nam thế kỷ XI X , để lại cho đời nhiều tác phẩm văn
chương có giá trị, nhất là truyện Lục Vân Tiên ...
- Lục Vân Tiên là người anh hùng lý tưởng của nhà thơ mù yêu nước. Chiến công
đánh cướp của chàng mãi là bài ca hùng tráng của người anh hùng trong xã hội loạn lạc
.Vân Tiên đã thể hiện một cách ứng xử vô cùng cao thượng và hào hiệp. Người đẹp băn
khoăn về chuyện" báo đức thù công " thì Vân Tiên 'liền cười " rồi đĩnh đạc nói :
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng ".
* Ý nghĩa của hai câu thơ :
Hai câu thơ tác giả thể hiện một quan niệm đạo lý người anh hùng là người sẵn sàng làm
việc nghĩa một cách vô tư, không tính toán làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên. Đó
là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán .
c-Kết đoạn: Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao tinh thần nhân nghĩa , ca ngợi lý tưởng
anh hùng vị nghĩa cao đẹp. Quan niệm đó gắn với đạo lý làm người, hướng về nhân dân.
Đó là bài học sâu sắc nhất mà ta cảm nhận được...
2 . Dạng đề 5-7 điểm
Đề 2 : Cảm nhận của em về lòng nhân nghĩa trong đoạn trích "Lục Vân Tiên
gặp nạn".
* Gợi ý :
a-Mở bài : Giới thiệu về tác giả , tác phẩm ,nhân vật
- Khái quát chủ đề của đoạn trích
Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời dùng thơ văn làm vũ khí bảo vệ đạo đứcđạo lý ca
ngợi chính nghĩa ,nhân nghĩa, ca ngợi những người anh hùng nghĩa hiệp, trọng nghĩa khinh
tài, làm việc nhân nghĩa không mảy may vụ lợi ...Một trong những đoạn trích thể hiện
thành công chủ đề lòng nhân nghĩa là đoạn trích"Lục Vân Tiên gặp nạn "...

95
b-Thân bài: Cảm nhận về lòng nhân nghĩa trong đoạn trích:
- Thể hiện ở nhân vật Ông Ngư qua :
+ Hành động,việc làm
+ Lời nói ...
Hình ảnh ông ngư và gia đình ông là một hình ảnh đẹp ,đối lập với hình ảnh trịnh hâm
như cái thiện đối lập với cái ác, cái cao cả đối lập với những toan tính thấp hèn, ánh sáng
đối lập với bóng tối .Hiình ảnh đó hiện lên cao đẹp trong sáng qua những việc làm, lời nói
và cuộc sống của ông Ngư:
- Việc làm :
...vớt ngay lên bờ .
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ ,mụ hơ mặt mày .
Việc làm khẩn trương và rất ân cần ,chu đáo ,cả nhà xúm vào hết lòng chạy chữa cho Vân
Tiên những cách thức rất dân dã .Đó là những tình cảm chân thực và lòng yêu thương con
người của gia đình ông Ngư .
- Lời nói :
...người ở cùng ta ,
Hôm mai hẩm hút một nhà cho vui .
Những lời nói đầy ân tình và rất mực khảng khái, trọng nghĩa, khinh tài . Gia đình ông
Ngư cũng chẳng giàu có gì, chỉ rau cháo qua ngày, vậy mà tấm lòng rộng mở, sẵn sàng cưu
mang Vân Tiên . Tấm lòng đó đâu cần đến một sự trả ơn !
...lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa ,há chờ trả ơn.
Câu nói của ông bộc lộ một thái độ khảng khái, vô tư của con người không vụ lợi, ích kỷ,
một lòng làm việc nghĩa không bao giờ cần sự báo đáp của người chịu ơn, đó là đức tính
khiêm nhường, thấy việc nghĩa thì làm, không coi đó là công trạng ...
- Cuộc sống của gia đình ông Ngư :
Nước trong rửa ruột ...Hàn Giang .
+ Cuộc sống ngoài vòng danh lợi, ngoài sự bon chen của thế tục nên nó rất trong sạch
không gợn vẩn đục .
+ Cuộc sống tự do giữa thiên nhiên cao rộng, hoà nhập, bầu bạn với thiên nhiên.
+ Cuộc sống lạc quan, ung dung, thanh thản bởi con người tự làm chủ mình, tìm thấy
niềm vui trong lao động tự do ...
c- Kết bài: hình ảnh ông Ngư bao hàm cả niềm tin và mơ ước của tác giả về cuộc
đời , về con người . Điều đáng quý là niềm tin và ước mơ đó đã được Nguyễn Đình Chiểu
gửi gắm vào nhân dân và những người lao động bình thường ...
C- BÀI TẬP VỀ NHÀ
Đề 1 : Viết đoạn văn tóm tắt ngắn gọn tác phẩm "Lục Vân Tiên " của NĐC
* Gợi ý :

96
- Lục Vân Tiên khôi ngô tuấn tú, tài kiêm văn võ .nghe tin triều đình mở khoa thi liền từ
giã thầy xuống núi đua tài ,trên đường về thăn cha mẹ gặp bọn cướp Phong Lai hoành
hành, chàng đã một mình đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga ...
Sau khi về thăm cha mẹ,Vân Tiên lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công người đã hứa gả
con gái cho chàng.Vân Tiên có thêm bạn đồng hành là Vương Tử Trực,...Lúc sắp vào thi
Vân Tiên được tin mẹ mất liền bỏ thi về chịu tang. Dọc đường về Vân Tiên đau mắt nặng
và bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm hãm hại, được gia đình ông Ngư cưu mang ....

Đề 2 : "Lục Vân Tiên là một chàng trai tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ".
Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ".
(Trích Lục Vân Tiên -Nguyễn Đình Chiểu)
*Gợi ý :
a - Mở bài: giới thiệu chung về tác giả, đoạn trích, nhân vật
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước nổi tiếng, là tấm gương chói sáng trong lịch
sử và văn học Việt Nam . Ông đã cống hiến cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng. Truyện thơ
Lục Vân Tiên là tác phẩm được nhân dân ta vô cùng yêu thích và truyền tụng, bởi nó là bài
học lớn về đạo lý làm người . Đoạn trích là một sự kiện đặc biệt làm nổi bật phẩm chất cao
quý của Lục Vân Tiên...
b- Thân bài: Phân tích -chứng minh làm sáng tỏ những luận điểm sau:
- Lục Vân Tiên là chàng trai tài ba, dũng cảm : (hành động đánh cướp cứu dân , một
mình tả xung hữu đột, không sợ nguy hiểm đến tính mạng ...Ân cần hỏi han Nguyệt Nga
và nữ tì , thương cảm và lo lắng cho hai người một cách chân tình ....
- Lục Vân Tiên là chàng trai trọng nghĩa khinh tài:(khi Kiều Nguyệt Nga kể đầu đuôi
sự việc mình mắc nạn và xin được đền ơn thì Lục Vân Tiên liền cười và cho rằng đó là
việc làm tất yếu, chuyện thường tình ....
c - Kết bài: khẳng định ....đó là những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật -mẫu người
anh hùng lý tưởng của ông và quần chúng ...

Đề bài: Nhận xét về số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Nguyễn Du
đã xót xa:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Bằng các tác phẩm đã học: “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và
những đoạn trích đã học của “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), em hãy làm sáng tỏ điều đó.
Gợi ý:
* Học sinh phải vận dụng những kiến thức đã học về văn bản và kiểu văn bản nghị luận
văn học để giải quyết vấn đề đặt ra : số phận đầy đau khổ của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến.
* Qua hai tác phẩm đã học: “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta cần làm rõ những nỗi đau khổ mà ngời phụ nữ phải
gánh chịu.

97
- Nàng Vũ Nương là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền đầy bất công đối với
người phụ nữ.
+ Cuộc hôn nhân của Vũ Nương với Trương Sinh có phần không bình đẳng (Trương
Sinh xin mẹ màng trăm lạng vàng cới Vũ Nương về làm vợ) - sự cách bức giàu nghèo
khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà
giàu”, và cũng là cái thế để Trương Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo và gia
trưởng.
+ Chỉ vì lời nói con trẻ ngây thơ mà Trờn Sinh tin nên đã hồ đồ độc đoán mắng nhiếc
đánh đuổi vợ di, không cho nàng thanh minh, Vũ Nương buộc phải tìm đến cái chết oan
khuất để tự minh oan cho mình.
+ Cái chết đầy oan ức của Vũ Nương cũng không hề làm cho lương tâm Trương Sinh
day dứt. Anh ta cũng không hề bị xã hội lên án. Ngay cả khi biết Vũ Nương bị nghi oan,
Trương Sinh cũng coi nhẹ vì việc đã qua rồi. Kẻ bức tử Vũ Nương coi mình hoàn toàn vô
can.
- Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền đen bạc
+ Vì tiền mà bọn sai nha gây nên cảnh tan tác, chia lìa gia đình Kiều.
“ Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc liệt chẳng qua vì tiền”
+ Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã Giám Sinh
- một tên buôn thịt bán người, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè,
mặc cả, ngã giá…
+ Cũng vì món lợi đồng tiền mà Mã Giám Sinh và Tú Bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh
nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, cay đắng suốt mời lăm năm lưu lạc, phải “thanh lâu
hai lượt, thanh y hai lần”.
- Những người phụ nữ như Vũ Nương, Thuý Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải mọi
nỗi oan ức, để giải thoát cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt của mình.
2. Yêu cầu về hình thức:
- Biết vận dụng kiến thức về nghị luận chứng minh để lập luận tạo thành một bài văn
chứng minh hoàn chỉnh.
- Bố cục bài viết có đủ 3 phần
- Biết dùng dẫn chứng trực tiếp và gián tiếp để chứng minh.
- Diễn đạt lưu loát, có cảm xúc.
...............................................................................................

CHUYÊN ĐỀ 3
THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM - 1945

Bài 1: “ĐỒNG CHÍ ” - CHÍNH HỮU.

A. Kiến thức cần nhớ.


1.Tác giả

98
- Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê ở Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Ông tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Từ người lính Trung đoàn Thủ
đô trở thành nhà thơ quân đội. - Chính Hữu làm thơ không nhiều, thơ ông thường viết về
người lính và chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính, như tình
đồng chí, đồng đội, tình quê hương đất nước, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương.
- Thơ ông có những bài đặc sắc, giàu hình ảnh, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ cô đọng, hàm
súc.
- Chính Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
năm 2000.
2. Tác phẩm
a) Hoµn c¶nh ra ®êi:
- Bài “Đồng chí” sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu
trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông năm 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của
giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Trong chiến dịch ấy, cũng như những năm đầu của
cuộc kháng chiến, bộ đội ta còn hết sức thiếu thốn. Nhưng nhờ tinh thần yêu nước, ý chí
chiến đấu và tình đồng chí, đồng đội, họ đã vượt qua tất cả để làm nên chiến thắng. Sau
chiến dịch này, Chính Hữu viết bài thơ “Đồng chí” vào đầu năm 1948, tại nơi ông phải
nằm điều trị bệnh. Bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu
xa, mạnh mẽ, tha thiết của tác giả với đồng đội, đồng chí của mình trong chiến dịch Việt
Bắc (thu đông 1947)
- Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mang của văn
học thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954).
- Bài thơ đi theo khuynh hướng : Cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống kháng
chiến, khai thác cái đẹp, chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi
thường.
- Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách
mạng – mà phần lớn họ đều xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ cũng làm hiện lên
hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp còn rất khó khăn, thiếu thốn. (Đó là hai nội dung được đan cài và
thống nhất với nhau trong cả bài thơ)
- Chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
3. Bố cục
- Bài thơ theo thể tự do, có 20 dòng, chia làm hai đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ
đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn, sức nặng của tư tưởng và
cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7,17
và 20)
Phần 1: 6 câu thơ đầu: Lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Câu 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ
với một từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình cảm
giữa những người lính.
Phần 2: 10 câu thơ tiếp theo: Những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí, đồng đội của
người lính

99
+ Đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau (Ruộng nương anh gửi bạn
thân cày…… nhớ người ra lính)
+ Đó là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính (Áo anh rách
vai…. Chân không giầy)
+ Sự lạc quan và tình đồng chí đồng đội đã giúp người lính vượt qua được những gian
khổ, thiếu thốn ấy.
-Phần 3: 3 câu cuối: Biểu tượng giầu chất thơ về người lính.

B. Phân tích bài thơ.

Đề bài : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy bài thơ đã diễn tả
sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
Dàn ý chi tiết:
I - Mở bài:
Cách 1:
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Phần lớn thơ ông hướng về đề tài người lính với lời thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén,
ngôn ngữ hàm súc, cô đọng giàu hình ảnh
- Bài thơ “Đồng chí” là một trong những bài thơ viết về người lính hay của ông. Bài
thơ đã diễn tả thật sâu sắc tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng
chiến.
Cách 2: Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, hình ảnh người lính mãi mãi là
hình ảnh cao quý nhất, đẹp đẽ nhất. Hình tượng người lính đã đi vào lòng người và văn
chương với tư thế, tình cảm và phẩm chất cao đẹp. Một trong những tác phẩm ra đời sớm
nhất, tiêu biểu và thành công nhất viết về tình cảm của những người lính Cụ Hồ là “Đồng
chí” của Chính Hữu. Bằng những rung động mới mẻ và sâu lắng, bằng chính sự trải
nghiệm của người trong cuộc, qua bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã diễn tả thật sâu sắc
tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của anh bộ đội thời kháng chiến.
II – Thân bài
Chính Hữu viết bài thơ : “Đồng chí” vào đầu năm 1948, khi đó ông là chính trị viên đại
đội, đã từng theo đơn vị tham gia chiến dịch Việt Bắc, và cũng là người đã từng sống trong
tình đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
1. Trong 7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết,
sâu nặng của những người lính cách mạng
- Cùng chung cảnh ngộ xuất thân: Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ
dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc không ai khác chính là những người nông
dân mặc áo lính. Từ giã quê hương, họ ra đi tình nguyện đứng trong đội ngũ những người
chiến đấu cho một lí tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ
là những tâm sự chân tình về con người và cuộc sống rất bình dị và cũng rất quen thuộc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

100
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện, tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ
niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là con em của những vùng quê nghèo khó, là
những nông dân ở nơi “nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn “đất cày lên sỏi đá”.Hình ảnh
“quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ
không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung
chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những
người con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên,
nhuần nhuỵ khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo khổ,
nơi sinh ra những người lính. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra
đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
=> Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “Quê anh – làng tôi” đã diễn tả sự
tương đồng về cảnh ngộ. Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng
cảm giai cấp, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.
- Cùng chung lí tưởng chiến đấu: Trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn “xa
lạ”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương
nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo,
người lao động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo xô đẩy, mà họ
về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả:
chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Hình ảnh : “Anh – tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng
đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu: “Súng
bên súng đầu sát bên đầu”. “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng
cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai
lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí.
- Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như
niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một
hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn
thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn
ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành tri kỉ của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về
ta. Vất vả nguy nan đã gắn kết những người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm
giao gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ
cuộc đời người lính gian khổ. Bao nhiêu yêu thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa
gần gũi vừa tình cảm hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc
đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu
thương với đồng đội. Hình ảnh thật giản dị nhưng rất cảm động.
- Từ trong tâm khảm họ, bỗng bật thốt lên hai từ « đồng chí ». Từ “đồng chí” được đặt
thành cả một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí’ với
dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khac nhau, nhấn
mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng

101
mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên trong là « tình tri kỉ » lại được
thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. Không còn anh, cũng
chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Như vậy, trong tình
đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó
giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng
tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn là người nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành
anh em trong cả một cộng đồng với một lý tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên
sự hồi sinh cho quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn nén
bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả
thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.
2.Nhưng Chính Hữu đã không dừng lại ở việc biểu hiện những xúc cảm về quá trình
hình thành tình đồng chí. Trong mười câu thơ tiếp theo nhà thơ sẽ nói với chúng ta về
những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí
Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
+ Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời
quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ,
ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ: “Ruộng nương” đã
tạm gửi cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” giờ để “mặc kệ gió lung lay”. Lên đường đi
chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những tính toán riêng tư.
Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên được cái kiên quyết dứt khoát mạnh mẽ của người ra đi khi lí
tưởng đã rõ ràng, khi mục đích đã lựa chọn. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng
những người lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng lòng với quê hương. Chính thái
độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu rằng những người lính càng cố gắng kiềm chế tình cảm
bao nhiêu thì tình cảm ấy càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu. Nếu không đã chẳng thể cảm
nhận được tính nhớ nhung của hậu phương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình
ảnh thơ hoán dụ mang tính nhân hoá này càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người
lính đối với quê nhà, nó giúp người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn
mình. Giếng nước gốc đa kia nhớ người ra lính hay chính tấm lòng người ra lính không
nguôi nhớ quê hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn? Quả thực giữa người
chiến sĩ và quê hương anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. Tác giả đã gợi
nên hai tâm tình như đang soi rọi vào nhau đến tận cùng. Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng
nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thân thương, cũng ăm ắp một tình
quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự
hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh” và
cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được
tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy.
- Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu thốn
của cuộc đời người lính:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

102
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Là người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn cảnh
thiếu thuốc men, lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá: “áo rách vai,
quần tôi vài mảnh vá, chân không giày…” Tất cả những khó khăn gian khổ được tái hiện
bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô vẽ. Ngày đầu của cuộc kháng chiến,
quân đội Cụ Hồ mới được thành lập, thiếu thốn đủ đường, quần áo rách bươm phải buộc
túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi là “vệ túm”. Đọc những câu thơ này, ta vừa
không khỏi chạnh lòng khi thấu hiểu nhưng gian nan vất vả mà thế hệ cha ông đã từng trải
qua vừa trào dâng một niềm kính phục ý chí và bản lĩnh vững vàng của những người lính
vệ quốc.
- Cùng hướng về một lí tưởng, cùng nếm trải sự khắc nghiệt của chiến tranh,
người lính chia sẻ cho nhau tình thương yêu ở mức tột cùng. Chi tiết “miệng cười buốt
giá” đã ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thân lạc quan của người chiến sĩ. Rồi đến cái
cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện được tình thương yêu đồng đội sâu
sắc. Cách biểu lộ tình thương yêu không ồn ào mà thấm thía. Trong buốt giá gian lao,
những bàn tay tìm đến để truyền cho nhau hơi ấm, truyền cho nhau niềm tin, truyền cho
nhau sức mạnh để vượt qua tất cả, đẩy lùi gian khổ. Những cái nắm tay ấy đã thay cho mọi
lời nói. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương! Nhà thơ đã phát hiện rất tinh
cái sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính. Sức mạnh tinh thần ấy, trên cơ sở
cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau đã tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình
cảm thầm lặng nhưng rất đỗi thiêng liêng này.
3.Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ tả một đêm phục kích giặc. Nền bức tranh là đêm – “rừng hoang sương
muối”gợi ra một cảnh tượng âm u, hoang vắng và lạnh lẽo. Không chỉ cái giá, cái rét cứ
theo đuổi mà còn bao nguy hiểm đang rình rập người chiến sĩ.
- Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính đứng cạnh bên nhau chờ
giặc tới trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Từ “chờ” cũng đã nói rõ
cái tư thế, cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng
cạnh bên nhau vững chãi, truyền cho nhau hơi ấm thì tình đồng chí đã trở thành ngọn lửa
sưởi ấm họ để họ có sức mạnh vượt qua cái cái gian khổ, ác liệt, giá rét ấy… Tầm vóc của
những người lính bỗng trở nên lớn lao anh hùng.
- Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc
của chính người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở vào một
vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang
phục kích chờ giặc.Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người
lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng

103
trăng treo”.Trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang
sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ
bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng. Bốn chữ “Đầu súng trăng treo”chia làm hai vế
làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, như nhịp lắc của một cái gì đó chông chênh, trong
bát ngát…gây sự chú ý cho người đọc. Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc
đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau - mặt đất và bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị, bất
ngờ. “Súng” là biểu tượng của chiến đấu, “trăng” là biểu tượng của cái đẹp, cho niềm vui
lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ,
là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau.
Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng,
tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
=> Hiếm thấy một hình tượng thơ nào vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng
treo”. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những
dư vang sâu lắng trong lòng người đọc.
4. Suy nghĩ về tình đồng chí: Như vậy tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp
và thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý
tưởng chung. Đó là mối tình có cơ sở hết sức vững chắc: sự đồng cảm của những người
chiến sĩ vốn xuất thân từ những người nông dân hiền lành chân thật gắn bó với ruộng đồng.
Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở tình yêu Tổ Quốc, cùng chung lí tưởng và mục
đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt lại tôi luyện thử thách làm cho mối
tình đồng chí đồng đội của những người lính càng gắn bó, keo sơn. Mối tình thiêng liêng
sâu nặng, bền chặt đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những người lính “áo rách vai”,
“chân không giầy” vượt lên mọi gian nguy để đi tới và làm nên thắng trận để viết lên
những bản anh hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc…. tô thắm thêm trang sử
chống Pháp hào hùng của dân tộc.
III - Kết luận:
Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị lại vừa mang vẻ đẹp cao cả thiêng liêng, thơ
mộng. Cấu trúc song hành và đối xứng xuyên suốt bài thơ làm hiện lên hai gương mặt
người chiến sĩ rất trẻ như đang thủ thỉ, tâm tình, làm nổi bật chủ đề tư tưởng: Tình đồng
chí gắn bó keo sơn. Chân dung người lính vệ quốc trong những ngày đầu kháng chiến
chống Pháp hiện lên thật đẹp đẽ qua những vần thơ mộc mạc, chân tình mà gợi nhiều suy
tưởng. Với những đặc điểm đó, bài thơ xứng đáng là một trong những tác phẩm thi ca xuất
sắc về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng của văn học Việt Nam.

C. Một số câu hỏi luyện tập

Câu 1: Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu.
(tham khảo phần 3 của bài phân tích)

104
Câu hỏi tương tự: Sửa lỗi câu văn sau : Với hình ảnh « đầu súng trăng treo » đã diễn tả
đầy sức gợi cảm mối tình tình đồng chí keo sơn trong bài bài thơ « đồng chí » được sáng
tác năm 1954 sau chiến thắng Việt Bắc.
Triển khai đoạn văn có câu chủ đề trên.
Câu 2: Phân tích hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”
- Bài thơ về tình đồng chí đã cho ta thấy vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách
mạng, cụ thể ở đây là anh bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Hoàn cảnh xuất thân: họ là những người nông dân nghèo ra đi từ hai miền đất xa
nhau: “ nước mặn đồng chua”, “ đất cầy lên sỏi đá.”
+ Họ ra đi vì nghĩa lớn (hai chữ “mặc kệ” nói được cái dứt khoát, mạnh mẽ ...mặc dù
vẫn luôn lưu luyến với quê hương “giếng nước gốc đa....”
+ Họ đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người,
trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá => Những gian khổ càng làm nổi bật vẻ
đẹp của anh bộ đội: sáng lên nụ cười của người lính (miệng cười buốt giá)
+ Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí đồng đội sâu sắc, thắm thiết
+ Kết tinh hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong đoạn
cuối của bài thơ.
Câu 3.Theo em, vì sao tác giả đặt tên cho bài thơ về tình đồng đội của những người lính
là “Đồng chí”?
Đó là tên một tình cảm mới, đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm cách
mạng và kháng chiến. Đó là cách xưng hô phổ biến của những người lính, công nhân, cán
bộ từ sau Cách mạng. Đó là biểu tượng của tình cảm cách mạng, của con người cách mạng
trong thời đại mới.
Câu 4: Phân tích giá trị nghệ thuật của hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hoá trong
câu thơ: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
(Tham khảo bài tập làm văn)
C©u 5 : 1.Gi¶ sö em ph¶i lµm bµi v¨n ph©n tÝch bµi th¬ “§ång chÝ”, em h·y xÐt xem
phÇn th©n bµi cña bµi lµm cã ®îc tr×nh bµy theo dµn ý ®¹i c¬ng díi ®©y kh«ng? V×
sao? NÕu thÊy dµn ý cha ®óng em h·y söa l¹i cho hîp lÝ:
a.Ph©n tÝch 7 c©u th¬ ®Çu
b. Bµi th¬ nãi lªn t×nh ®ång chÝ g¾n kÕt nh÷ng ngêi chiÕn sÜ trong mét cuéc
chiÕn ®Çu ®Çy gian khæ
c. Bµi th¬ cßn nªu lªn mét h×nh ¶nh rÊt ®Ñp vµo mét ®ªm chê giÆc gi÷a rõng trong
®ªm tr¨ng l¹nh
Nhận xét dàn ý: Không chia theo một căn cứ nhất định: mục a chia theo bố cục; mục b, c
chia theo nội dung.
Mục b chưa phân tích rõ và sâu ý nghĩa cao đẹp của tình đồng chí trong 10 câu thơ.
Mục c lạc ý, mang nặng tả cảnh, chưa xoay quanh vấn đề về tình đồng chí.
Sửa lại dàn ý:
a.Bảy câu đầu: sự lí giải về tình đồng chí.
b.Mười câu tiếp theo: là những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí.
c.Ba câu cuối cùng: biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ của tình đồng chí.

105
Câu 6. Phân tích bài thơ để thấy rõ chủ đề đồng chí hiện lên trong thơ Chính Hữu với
rất nhiều dáng vẻ:
Chủ đề đồng chí hiện lên trong thơ Chính Hữu với rất nhiều dáng vẻ. “Anh với tôi” khi thì
riêng rẽ trong từng dòng thơ để nói về cảnh ngộ của nhau: “Quê hương anh nước mặn đồng
chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”; khi lại chen lên đứng vào cùng một dòng: “Anh
với tôi đôi người xa lạ/ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Từ riêng lẻ đã nhập thành
“đôi”, thành chung khăng khít khó tách rời: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”/ Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỷ”. Đây là những hình ảnh đầy ắp kỉ niệm và ấm áp tình đồng
chí. Câu thơ đang từ trải dài, bỗng cô đọng lại thành hai tiếng “Đồng chí!” vang lên thiết
tha, ấm áp, xúc động như tiếng gọi của đồng đội và nó khắc ghi trong lòng người về hai
tiếng mới mẻ, thiêng liêng đó. Tình đồng chí là cùng giai cấp, cùng nhau từ những chi tiết
nhỏ nhất của đời sống: “âo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/
Chân không giày”. Trong buốt giá gian lao, các anh chuyền cho nhau hơi ấm tình đồng
đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những bàn tay không lời mà nói được tất cả, các
anh sát cánh bên nhau để cùng đi tới một chiều cao: “Đêm nay rừng hoang sương muối/
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo”. Cùng chung chiến hào, cùng
chung sống chết, đó chính là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí. Chính tình đồng chí
đã khiến các anh ngay giữa nguy hiểm gian lao vẫn thấy tâm hồn thanh thản và lãng mạn.
Và đó cũng chính là tình cảm xã hội thiêng liêng nhất, là cội nguồn của tình yêu nước, của
sức mạnh con người Việt Nam
Câu 7: Viết đoạn văn quy nạp (15 câu)  :
Tám câu thơ (Đồng chí – Chính Hữu) đã nói thật giản dị những thiếu thốn của cuộc kháng
chiến. Và tình đồng đội đầy mến thương đã tiếp thêm sức mạnh giúp họ vượt qua mọi thử
thách.
Gợi ý :
- 5 câu đầu : những câu thơ dung dị nói về những gian khổ của người lính : người nông dân
mặc áo lính giản dị, nghèo khó…áo rách, quần vá… hình ảnh thơ giản dị như đời sống.
- Nói đến những thiếu thốn của người chiến sĩ nhưng ở những câu thơ tiếp theo, ta thấy
những thiếu thốn ấy đâu chỉ tồn tại riêng rẽ với hai cá thể anh và tôi mà đã hoà nhập yêu
thương gắn bó. Nụ cười buốt giá, cái cười lạc quan, xua đi cái lạnh giá … nụ cười của
những con người như đang cố gắng vượt qua cái rét buốt ruột buốt gan ấy. Hình ảnh thơ
vừa tô đậm những gian nan, thiếu thốn, vừa thể hiện nghị lực vượt qua mọi khó khăn của
những anh lính vệ trọc (sốt rét - rụng tóc) =>Những câu thơ được viết theo thể thơ tự do rất
dung dị với những hình ảnh thơ chân thực càng giúp ta thêm hiểu về cuộc chiến tranh đã
qua, những vất vả mà người lính đã nếm trải, vừa cảm phục quá khứ hào hùng….
- Đến câu cuối khổ, nhịp thơ thay đổi, dài ra trầm lắng, âm điệu câu thơ lan toả như bộc lộ
tình cảm. Đây có thể là hình ảnh cảm động nhất của bài, từ « thương nhau » đứng ở đầu
câu như bộc lộ tình yêu da diết, sâu nặng của những con người cùng lí tưởng chiến đấu, họ
nắm lấy bàn tay nhau như truyền cho nhau hơi ấm….Chân không giầy giữa vùng rừng núi
gập ghềnh, hiểm trở . Áo rách, quần vá giữa cái lạnh cắt da cắt thịt, tình đồng chí đã giúp
họ vượt qua tất cả : « thương nhau tay nắm lấy bàn tay » => Tình đồng đội và tình người
ấy cũng là sức mạnh chiến thắng.

106
- 3 câu thơ cuối cùng  kết lại trong một hình ảnh đẹp, lãng mạn đến bất ngờ, thú vị bằng
hai âm bằng : « Đầu súng trăng treo ». Âm điệu câu thơ như ngân vang, câu thơ như mở
ra, ánh trăng như soi sáng khắp núi rừng. Phải chăng chính tình đồng chí, đồng đội đã đem
lại cho họ những khoảng lặng hiếm hoi trong đời lính gian nan.

....................................................................................................

BÀI 2: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH


PHẠM TIÕn DUẬT.

A. Kiến thức cần nhớ.


1. Tác giả
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở tỉnh Phú Thọ. Sau khi tốt nghiệp đại học, năm
1964 vào bộ đội, hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những nhà
thơ tiêu biểu của phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Thơ ông giàu chất liệu hiện thực, chiến trường, thể hiện sinh động, có giọng điệu ngang
tàng, tinh nghịch, sôi nổi, tươi trẻ, đã làm sống lại hình ảnh thế hệ trẻ ở Trường Sơn và
những khó khăn của thời đánh Mỹ gian khổ.
- Phạm Tiến Duật thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống đế
quốc Mỹ qua những hình tượng cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến
đường Trường Sơn.
- Tác phẩm chính: Vầng trăng -Quầng lửa(1970), Thơ một chặng đường ( 1971), Ở hai đầu
núi (1981). Nhiều bài thơ đã đi vào trí nhớ của công chúng như các bài: Trường Sơn Đông,
Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong….
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ Vầng trăng -Quầng lửa của tác giả. Là
tác phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 - 1970).
- Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diiễn ra rất ác liệt. Mĩ trút
hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sơn. Trong khi đó những
đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước.
b. Nội dung.
- Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ
nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ
cứu nước, với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, thái độ bất chấp khó khăn coi thường
gian khổ hiểm nguy, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền
Nam, trái tim yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.
c. Nghệ thuật:

107
- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.
- Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm nhưng có sự gia tăng đáng kể của các yếu tố tự
sự. Điều đó tạo nhiều cơ sở để biểu cảm đồng thời tăng sức phản ánh hiện thực cho thơ.
- Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng
với ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn, có nét khá đặc biệt
gần với văn xuôi, gần với lời nói bình thường hàng ngày. Nét nổi bật là giọng điệu vui,
tinh nghịch, lạc quan. Nó làm nên chất trẻ trong thơ Phạm Tiến Duật nói riêng và thơ
chống Mĩ nói chung.

B. Phân tích những nội dung chính của bài thơ.

1. Ý nghĩa nhan đề bài thơ.


- Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu
hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của
toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả,
thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực dời sống chiến tranh trên tuyến
đường Trường Sơn. Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”? Hai
chữ “bài thơ” nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết
về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là
Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam
dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ, khắc nghiệt của chiến tranh.
2. Hình ảnh những chiếc xe không kính.
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng ra
chiến trường.
-Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa vào thơ thì thường được “mĩ lệ hoá”,
“lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt
gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “tiếng hát con tàu” của Chế Lan
Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
- Ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực.
Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa
hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không
kính” lại là môt thực tế, những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy
vẫn chạy băng ra tiền tuyến.
+ Hai câu thơ mở đầu có thể coi là lời giải thích cho “sự cố” có phần không bình thường
ấy:
Không có kính không phải vì xe khôg có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi”
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai
lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó
ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong đó
ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa
giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của dịch vừa giúp

108
ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là nguyên nhân để những chiếc xe
vận tải không có kính.
- Những chiếc xe như vậy vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có một hồn thơ
nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra
đụơc và đưa nó vào thơ thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mĩ. Hơn
nữa, viết về những người lái xe thì không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà làm
nổi bật hình ảnh ngưới lái xe.
3. Hình ảnh những chiếc xe không kính đó làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe
ở Trường Sơn.
- Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lái xe bộc lộ
những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm,
tinh thần bất chấp khó khăn, gian khổ.
a. Trước hết là tư thế hiên ngang, sự ung dung, bình tĩnh giữa chiến trường
hiểm nguy.
- Những câu thơ tả thực, chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe
lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm: nào là “:gió vào
xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột
ngột, bất ngờ như sa, như ùa- rơi rụng, va đập, quăng ném.... vào buồng lái, vào mặt mũi,
thân mình. Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của
những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động và cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm
giác chân thực đến thế.
- Cảm giác, ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng
hốt, trái lại tư thế các anh vấn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng.... “ung dung....
nhìn thẳng. Hai câu thơ “ung dung.... thẳng” đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái tuyệt đẹp của
người chiến sĩ trên những chiếc xe không kính. Đảo ngữ “ung dung” với điệp từ “nhìn”
cho ta thấy cái tư thế ung dung, thong thả, khoan thai, bình tĩnh, tự tin của người làm chủ,
chiến thắng hoàn cảnh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ
vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm
nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như
diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại
trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến
trường dày dạn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy.
=> Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những người
chiến sĩ lái xe TSơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình
tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có
kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy
như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
b. Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ, tinh thần lạc quan hồn nhiên, yêu
đời của người lính trẻ.
- Nếu như hai khổ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách dù sao cũng
vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc
trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời).

109
Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi
gian khổ.
+ Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh,
dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ đội nhưng đối với họ tất
cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người
lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính
ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp
nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của
chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một
dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.
+ Sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ
hiểm nguy:”Chưa cần rửa.... khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo
nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh
bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất
thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 - 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì
phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi
động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì
lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ
đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường
Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống
vào thơ ca - một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt,
giọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ
gần gũi với lời nói hàng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh
lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe
Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng
chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ
của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.
c. Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết.
- Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại
gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi tạo thành một “tiểu đội xe không kính” -
tiểu đội những chàng trai lái xe quả cảm, hiên ngang mà hồn nhiên tinh nghịch. Hình
tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa về tâm hồn và tình cảm. Đấy là tình cảm
gắn bó, chia sẻ ngọt bùi của những chàng trai vui vẻ, sôi nổi, yêu đời. Cái bắt tay độc đáo
là biểu hiện đẹp đẽ ấm lòng của tình đồng chí, đồng đội đầy mộc mạc nhưng thấm thía :
“bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”, cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những
chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay ấy, một chi tiết nhỏ nhưng mang
dấu ấn của cả một thời đại hào hùng.
- Lúc cắm trại, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường
nhịn nhau như anh em ruột thịt.: chung bát,chung đũa, mắc võng chông chênh... chỉ trong
một thoáng chốc. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp thân thương tạo nên sức
mạnh, nâng bước chân người lính để rồi các anh lại tiếp tục hành quân: “Lại đi lại đi trời
xanh thêm”, đi đến thắng lợi cuối cùng.Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi

110
vọng lạc quan dào dạt. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ. Nhịp
điệu câu thơ vừa sôi nổi, vừa nhịp nhàng cùng với điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi
tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh
đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế
kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
d. Khổ cuối dựng lên hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ và thú vị khái quát
nội dung cả bài thơ.
- Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe không còn nguyên vẹn về phương tiện kĩ thuật,
dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra:
những chiếc xe bị hư hỏng nhiều hơn “không kính, không mui, không đèn, thùng xe có
xước...” và biết bao chiến sĩ đã dũng cảm hi sinh. Ấy vậy mà những chiếc xe mang trên
mình đầy thương tích đó lại như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên bom đạn, hăm hở
lao ra tiền tuyến với một tình cảm thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Chỉ cần trong xe có một trái tim”
- Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra
tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì Miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc
lập thống nhất đất nước đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe đó lại nguyên vẹn một
trái tim dũng cảm. Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý
nghĩa. Trái tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe.
Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì Miền Nam thân yêu, trái
tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc
quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Thì ra cội nguồn sức mạnh
của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái
“trái tim” gan góc, kiên cường, giầu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Nhà văn
đã tô đậm những cái “không” để làm nổi bật cái “có” để làm nổi bật chân lí của thời đại:
bom đạn, chiến tranh có thể làm méo mó những chiếc xe, huỷ hoại những giá trị vật chất
nhưng không thể bẻ gẫy được những giá trị tinh thần cao đẹp….để rồi một nước nhỏ như
Việt Nam đã chiến thắng một cường quốc lớn.
=> Điệp ngữ “không có”, các từ ngữ tương ứng “vẫn … chỉ cần có” đã làm cho giọng
thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Vẫn là cách nói thản nhiên ngang tàng của lính
nhưng câu thơ lại lắng sâu một tinh thần trách nhiệm và có ý nghĩa như một lời thề thiêng
liêng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có đạn bom nào của
kẻ thù có thể làm lay chuyển được.

C. Câu hỏi luyện tập.

Câu 1: “Không có kính rồi xe không có đèn”


a. Chép tiếp câu thơ trên để hoàn chỉnh đoạn thơ gồm 4 dòng.
b. Cho biết, đoạn thơ vừa chép trong bài thơ nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác
bài thơ

111
c. Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng của đoạn vừa chép được dùng với nghĩa
như thế nào?
d. Viết một đoạn văn diễn dịch từ 6 đến 8 câu phân tích hình ảnh người lính lái xe
trong đoạn thơ.

Gợi ý:
a.Chép tiếp: Không có kính rồi xe không có đèn.
Không có mui xe thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
b. (tham khảo phần kiến thức cần nhớ)
c. Từ “Trái tim” trong câu thơ cuối cùng có thể hiểu theo nghĩa chuyển:
- Chỉ người lính lái xe
- Chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
d. Đoạn văn phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức
Tham khảo đoạn văn phân tích:
Hai câu cuối của “bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của
người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn :
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Những chiếc xe ấy đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số
an toàn, tưởng như không thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu
dừng. Những chiếc xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong
bom rơi đạn lửa bời phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do
của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không chỉ nêu
bật được sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên gian khổ, ác liệt mà còn nêu bật được ý
chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn thế hình ảnh hoán dụ “một
trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ người lính lái xe, chỉ sự nhiệt tình cứu nước,
lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất Tổ quốc. Hình
ảnh này kết hợp cùng kết cấu câu “vẫn - chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh vượt khó, khẳng
định hơn tinh thần hiên ngang bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính
lái xe. Chính điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta
mãi mãi yêu quý và cảm phục.

Câu 2 : Mét sè d¹ng ®Ò cho c©u chñ ®Ò sau ®ã triÓn khai thµnh ®o¹n v¨n

Triển khai câu chủ đề sau 1: Cả bài thơ là dòng cảm xúc của người lính lái xe trên con
đường xe ra tiền tuyến. Thật vậy, dòng cảm xúc ấy tuôn chảy dào dạt trong suốt bài thơ.
Đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý tưởng
cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên tâm hồn người lính cũng có những nét thanh thản,

112
vui tươi. Điều khiển những chiếc xe không kính với một tốc độ phi thường như lướt nhanh
trong bom đạn họ có cảm giác thích thú, như cảm nhận cả con đường như “chạy thẳng vào
tim”. Qua khung cửa qua những chiếc xe không kính, các anh cảm nhận được vẻ đẹp của
những “cánh chim chiều” và “cả những ánh sao đêm” lấp lánh trên bầu trời.. như “sa như
ùa” vào buồng lái. Gió cũng được nhân hoá và chuyển đổi cảm giác thật ấn tượng: “gió
vào xoa mắt đắng”, mắt đắng, mắt cay là những con mắt đói ngủ vì phải thức thâu đêm.
Trong gian khổ ấy, họ vẫn cất lên những nụ cười lạc quan, yêu đời từ những khuôn mặt
lấm lem khi đồng đội gặp nhau. Những câu thơ lạc quan yêu đời như thách thức với mọi
khó khăn : “không có kính, ừ thì có bụi. Bụi phun tóc trắng như người già. Chưa cần rửa
phì phèo châm điếu thuốc. Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.Cái bắt tay của người lính cũng
thật hồn nhiên, mộc mạc mà thấm thía tình đồng chí đồng đội: “bắt tay qua cửa kính vỡ
rồi”. “Từ trong bom rơi” mà vẫn có cái bắt tay như thế thì thật mừng vui, tự tin và tự hào
biết mấy. Đời người lính là đi, nhất là lính lái xe, nhưng trong những phút dừng chân ngắn
ngủi, ta càng thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội. Chỉ là “bếp Hoàng
Cầm” và “võng mắc chông chênh” Rồi cả những bữa cơm hội ngộ thân mật, tình đồng chí
cũng như tình anh em ruột thịt: “chung bát đĩa nghĩa là gia đình đấy”. Đến cả giấc ngủ
ngắn cũng rất đặc biệt thú vị : “võng mắc chông chênh đường xe chạy. Lại đi, lại đi trời
xanh thêm”. Trong tâm hồn họ, trời như xanh hơn chứa chan hy vọng. Không dễ gì có
được thái độ lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của
tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ
Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.

Triển khai câu chủ đề2 :


Bài thơ gây được ấn tượng mạnh về các anh, những chiến sĩ lái xe rất dũng cảm, rất
đáng yêu bởi những nét nghịch ngợm, ngang tàng. Thật vậy, người lính trong thơ Phạm
Tiến Duật đi vào cuộc chiến đấu với tất cả tính chất chủ động, tự tin của những người có lý
tưởng cao đẹp, có sức mạnh và tiềm lực nên họ rất dũng cảm và mang những nét thanh
thản, vui tươi. Lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa, con đường ấy trong bom đạn,
mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu nhưng các vẫn tràn đầy nghị lực bất
chấp gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành nhiệm vụ. Xe “không kính, không mui, không
đèn” mà tâm thế vẫn ung dung thanh thản, khó khăn nhiều mà mắt vẫn “nhìn trời, đất, gió
chim”, vẫn hiên ngang: “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ dí dỏm, tinh
nghịch, ngang tàng đầy sức trẻ của những chàng trai như thách thức với mọi khó khăn:
- Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
- Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi

113
Chuyện vặt ấy mà, có hề gì ! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ
điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem
và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính.Nhưng đằng sau những dòng chữ
bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững
vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường Trường Sơn ác liệt này. Và điều
đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi,
lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc
quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!
Câu 3: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
- Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn
nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thường: ừ thì có
bụi, ừ thì ướt áo. Thái độ “chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc, chưa cần thay, lái trăm
cây số nữa là sự thách thức, coi thường khó khăn gian khổ. Những chiếc xe từ trong bom
rơi, bị bom giật, bom rung, nhưng người chiến sĩ vẫn ung dung. Các anh nhìn thẳng phía
trước, vui vẻ bắt tay nhau. Xe hư hỏng không có kính, không có đèn, không có mui xe,
thùng xe có xước, nhưng xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước. Tất cả vì tiền tuyến, vì mặt
trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn bánh ra mặt
trận. Có thể nói những người lái xe, người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết định làm
nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Câu 4:
a. Phân tích giá trị biểu cảm của từ “Chông chênh” trong câu thơ: “Võng mắc chông chênh
đường xe chạy. Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
b. Chỉ với hai câu thơ trên, Phạm Tiến Duật đã cho ta hiểu vẻ đẹp người lái xe
Trường Sơn thời chống Mĩ. Hãy viết tiếp từ 7 đến 12 câu tạo đoạn văn diễn dịch hoàn
chỉnh (trong đó có sử dụng phép nối và câu đơn mở rộng thành phần chủ ngữ)
Gợi ý:
a- “Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tư thế
không thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm của người lính
trên đường lái xe ra tiền tuyến. Đây là một nét vẽ hiện thực mà Phạm Tiến Duật tái hiện lại
cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong hoàn cảnh chiến đấu hết sức
gian khổ, họ phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn trên xe hoặc trên dọc đường đi, giữa
làn mưa bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt sự sống.
- Song từ “chông chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của người lính. Bom đạn
của kẻ thù tưởng như có thể dùng sức mạnh để huỷ diệt sự sống con người nhưng
không! HÌnh ảnh những chiếc võng mắc “chông chênh” trên tuyến đường TS khói
lửa ấy đã chứng minh điều ngược lại: sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong
một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người chiến thắng.
b.Viết đoạn văn :
Câu thơ tái hiện một cách tinh tế gian khổ mà những người lính lái xe Trường Sơn
phải trải qua. Đó là cuộc sống gian khổ, phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn ngay trên
xe giữa những làn mưa bom của giặc đang ngày đêm trút xuống nhằm huỷ diệt sự sống.

114
Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tư thế
không thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi, gợi sự nguy hiểm. Song trong hoàn
cảnh của bài thơ, từ “chông chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của người lính như
ngạo nghễ, thách thức kẻ thù. Họ luôn có tư thế tiến về phía trước. Điệp từ “lại đi” tái hiện
vòng bánh xe lăn tiến lên phía trước, rộng hơn là đoàn xe vận tải lao nhanh ra mặt trận bỏ
lại đằng sau tất cả đạn bom u ám để đến với bầu trời xanh phía trước. Bầu trời xanh là hình
ảnh tượng trưng cho hoà bình, cho cuộc sống tươi đẹp. Với hình ảnh này, ta thấy được
niềm lạc quan, niềm tin bất diệt của người lính vào chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh
lớn lao để đoàn xe lăn bánh tới đích?

Câu 5: Khi phân tích bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, trong phần giải quyết
vấn đề, bạn em đã nêu được một nhận xét:
“Bài thơ không chỉ phản ánh được cái khốc liệt, sự gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh
những chiếc xe không kính mà từ trong những gian khổ, sự khốc liệt ấy bài thơ còn là lời
khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường
Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ”
a. Câu văn trên chứa đựng đề tài gì?
b. Triển khai 1 ý trong đề tài trên thành một đoạn văn hoàn chỉnh.
Gợi ý:
a.Đề tài:
- Bài thơ phản ánh được cái khốc liệt, gian khổ của chiến tranh qua hình ảnh những ch
iếc xe không kính.
- Bài thơ là khú hát ngợi ca vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
b.Triển khai đề tài 2: Vẻ đẹp của những người chiến sĩ lái xe (theo các ý sau)
- Tư thế hiên ngang, bình tĩnh (khi xe mất đi những hệ số an toàn)
- Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy, đón nhận gian khổ khó khăn rất đàng hoàng,
chủ động.
- Lạc quan, vui vẻ, trẻ trung
- Tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vượt lên mọi thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy,
tất cả vì Miền Nam phía trước.
.
================
Đề 6: Phân tích vẻ đẹp của người lính qua hai bài thơ: “Đồng chí” và “Tiểu đội xe
không kính”.
A. Mở bài:
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết cho vinh.

115
Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Chúng
ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng
bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ - những
chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ
là hai bài thơ: “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến
Duật.
- Những người lính trong hai bài thơ thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng ở họ có nhiều nét
đẹp chung của người lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các cuộc kháng
chiến cứu nước.
B.Thân bài.
1. Họ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, khát
vọng độc lập tự do để đi vào cuộc chiến đấu.
- Người lính trong bài thơ “Đồng chí” xuất thân từ những cảnh ngộ nghèo khó: “nước mặn
đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Họ là những người nông dân vừa được cách mạng giải
phóng khỏi kiếp nô lệ lầm than. Bởi vậy, tình nguyện ra nhập bộ đội cầm lấy khẩu súng
của cách mạng cũng chính là cầm vũ khí để giải phóng triệt để cho thân phận của mình,
cho quần chúng và cho cả dân tộc. Vì tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà họ “mặc kệ”
tất cả, sẵn sàng từ biệt làng quê với ruộng nương, nhà cửa vốn hết sức thân thiết, gắn bó
để ra đi, dấn thân vào cuộc đời người chiến sĩ: Ruộng nương anh gửi
bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
- Còn người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là những chàng trai còn rất trẻ, có tri thức, họ
sẵn sàng gác lại những ước vọng tương lai của mình để cống hiến tuổi thanh xuân theo
tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam yêu dấu:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
2.Nhờ có tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó bền chặt, chan hoà và nhờ lòng dũng
cảm, hiên ngang, mà họ đã bất chấp những gian khổ, thiếu thốn đến tột cùng để hoàn
thành nhiệm vụ.
- Trên trận tuyến gay go ác liệt, các anh phải cùng chịu biết bao khó khăn gian khổ, thiếu
thốn.
+ Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian nan vất vả, các anh đã từng
chịu những cơn “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”, cùng cảnh “áo rách vai, quần tôi
có vài mảnh vá”, “chân không giầy”… Cũng chính từ trong gian khổ và thiếu thốn của
những ngày đầu tiên bước vào quân ngũ ấy đã nẩy sinh ở họ mối tình cao đẹp – tình đồng
chí! Và chính có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức
mạnh lớn lao để vượt qua tất cả: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đẹp làm sao giữa
đêm rừng hoang đầy sương muối, ở nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, những
người chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quân thù trong đêm trăng sáng. Các anh vẫn
chiến đấu và vẫn cứ tin có ngày chiến thắng. Ta thấy được ở các anh một tinh thần chiến
đấu dũng cảm kiên cường, một niềm lạc quan bất diệt. Đời lính gian khổ nhưng luôn giữ
mãi nụ cười dẫu cho nó cận kề cái chết. “Đầu súng trăng treo”, một biểu tượng đẹp của

116
hình ảnh người lính, biểu tượng cao quý của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí
mọi người.
(Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ Tây Tiến cũng cho ta thấy rõ điều đó:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Chính điều đó đã giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính và ta thêm cảm phục sự hi
sinh ấy hơn. Tấm lòng của các anh thật cao đẹp và lớn lao biết chừng nào! Đó cũng là hình
ảnh chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp - những con người
bình dị mà cũng thật anh dũng, hiên ngang.
+ Cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành được thắng lợi vẻ vang với trận Điện Biên Phủ
lẫy lừng. Đất nước vẫn chưa được bình yên, cả Miền Nam lại chìm vào máu lửa và những
người con của quê hương lại tiếp tục lên đường. Những anh chiến sĩ lái xe trên tuyến
đường Trường Sơn hiện lên trong trang thơ của Phạm Tiến Duật là những anh lính thật
ngang tàng, yêu đời, dũng cảm, hóm hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh phải đối mặt với
nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù hằng ngày trút xuống con
đường và nhằm vào những chiếc xe của họ. Những gian khổ và ác liệt hiện hình trong
hình ảnh những chiếc xe không kính rồi không cả đèn, cả mui xe, thùng xe có xước, méo
mó. Gian khổ tưởng chừng như không thể vượt qua được, cái chết như kề bên, vậy mà lúc
nào các anh cũng “ung dung buồng lái ta ngồi. Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.
Mở đường Trường Sơn để xe tăng tiến vào phía Nam thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử là giai đoạn gay go nhất, ác liệt nhất và cũng hào hùng nhất. Có lẽ chỉ có những
chàng trai tuổi trẻ ngạo nghễ ngang tàng kia mới có sức thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng
cao cả này. Những chiếc xe tưởng chừng như không thể sử dụng được vậy mà nó vẫn tiến
lên phía trước bởi có những nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm của những anh lái xe
rất phớt đời:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Bằng sự đồng cảm của một người lính và cảm xúc của một nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã
xây dựng nên hình ảnh những chiến sĩ lái xe thật hào hùng, thật tếu táo. Cái cử chỉ: “phì
phèo châm điếu thuốc” và tiếng cười “ha ha” như một lời thách thức của họ đối với quân
thù. Đó là sức mạnh thứ nhất, còn sức mạnh nào nữa khiến cho những chiếc xe ấy vẫn
băng băng lên phía trước? Tác giả đã trả lời một cách mạnh mẽ và dứt khoát, trong những
chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về Miền Nam phía trước với
là khát vọng cháy bỏng là giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước:
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
3. Qua hình ảnh anh chiến sĩ Trường Sơn, chúng ta chợt nhận ra sự gần gũi, thân quen giữa
những người lính qua các thời kì. Từ anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong

117
thơ Chính Hữu đến anh chiến sĩ Trường Sơn thời chống Mĩ trong thơ PTD đều có chung
một nét đẹp truyền thống kiên cường, bất khuất, dũng cảm và đầy tinh thần lạc quan yêu
đời. Với điều kiện thuận lợi hơn, người lính thời chống Mĩ đã được trau rèn, huấn luyện.
Các anh đã kế thừa và phát huy được tinh thần cách mạng vốn đã vững vàng nay lại vững
vàng hơn.
- Tuy cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần
trụi của cuộc sống người lính nhưng hai bài thơ còn khác nhau bởi bút pháp và giọng điệu
riêng của mỗi tác giả và cảm hứng nổi bật ở mỗi bài. Cảm hứng của Chính Hữu hướng vào
vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội của người lính, còn PTD thì lại tập trung làm nổi bật
chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn và bom đạn kẻ thù của
những người lính lái xe.
C. Kết bài:
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã đi qua, đọc lại hai bài thơ về người lính qua
hai thời kì, trong ta bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh những người lính ấy
trở nên bất tử và đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những
đổi mới của cuộc sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ảnh những anh lính cụ Hồ,
anh giải phóng quân đến các anh chiến sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi trong lòng mọi người
với một niềm cảm xúc trào dâng mạnh mẽ.
....................................................................................................

Bài 3: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ - HUY CẬN

A. Kiến thức cần nhớ.


1. Tác giả:
- Huy Cận bút danh là Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở hà Tĩnh. Ông mất năm 2005 tại
Hà Nội.
- Huy Cận là một cây bút nổi tiếng của phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng”.
- Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều
trọng trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ
hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945.
- Thơ Huy cận sau cách mạng tràn đầy niềm vui, niềm tin yêu cuộc sống mới. Thiên nhiên,

vũ trụ là nguồn cảm hứng dồi dào trong thơ Huy Cận và nó mang những nét đẹp riêng.

2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ được viết vào năm 1958, khi đất nước đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi vào xây dựng cuộc sống
mới. Không khí hào hứng, phấn chấn, tin tưởng bao trùm trong đời sống xã hội và ở khắp
nơi dấy lên phong trào phát triển sản xuất xây dựng đất nước. Chuyến thâm nhập thực tế ở
vùng mở Quảng Ninh vào nửa cuối năm 1958 đã giúp nhà thơ Huy Cận thấy rõ và sống

118
trong không khí lao động ấy của nhân dân ta, góp phần quan trọng mở ra một chặng đường
mới trong thơ Huy Cận.
b. Bố cục: 3 đoạn
+ Đoạn 1: Hai khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức
của người đi biển.
+ Đoạn2 : 4 khổ tiếp: Cảnh lao động của đoàn thuyền đánh bắt cá giữa không gian biển trời
ban đêm.
+ Đoạn 3: khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền trở về trong cảnh bình minh lên.
- Trong bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hoà với nhau: cảm hứng lãng
mạn tràn đầy niềm vui hào hứng về cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc bước vào
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, vốn là một nét nổi bật
của hồn thơ Huy Cận. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy đã tạo ra những hình
ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ này.
c. Nội dung:
- Bài thơ thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm
tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
d. Nghệ thuật.
- Nhiều hình ảnh thơ đẹp, tráng lệ.
- Sáng tạo hình ảnh thơ bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo.
- Âm hưởng khoẻ khoắn, hào hùng, lạc quan.

B. Phân tích bài thơ.

1. Hai khổ đầu.


a) Khæ th¬ ®Çu:
- Cảnh hoàng hôn trên biển được miêu tả bằng một hình tượng độc đáo:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa


Sóng đã cài then đêm sập cửa”
+ Với sự liên tưởng so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc
giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ như thần thoại. Vũ trụ như
một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền
hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. Phác hoạ được một
bức tranh phong cảnh kì diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhậy
cảm.
- Khi thiên nhiên bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu làm việc
+ Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như
chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động: “Đoàn thuyền

119
đánh cá lại ra khơi. Câu hát căng buồm trong gió khơi. -> Sự đối lập này làm nổi bật tư
thế lao động của con người trước biển cả.
+ Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy thuyền
ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật,
liên tục mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên:
đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không
ít vất vả.
+ Hình ảnh “câu hát căng buồm” - cánh buồm căng gió ra khơi- là ẩn dụ cho tiếng hát của
con người có sức mạnh làm căng cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi
của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục
biển khơi làm giầu cho Tổ quốc.
b) Bốn câu thơ tiếp theo nói về những câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của
người dân chài:
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi.
- Họ hát khúc hát ca ngợi sự giầu có của biển cả. Họ hát bài ca gọi cá vào lưới, mong
muốn công việc đánh cá thu được kết quả tốt đẹp.
2. Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh rất đẹp
và con người rất yêu lao động, yêu thiên nhiên thì bốn khổ thơ sau lại tả cảnh đoàn
thuyền đánh cá trên biển bao la, hùng vĩ. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sóng
nước, trăng sao có nhiều yếu tố lãng mạn, tràn đầy tưởng tượng dựa trên những yếu tố hiện
thực của đời sống trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ trẻ trung, khỏe mạnh và yêu
đời.
a.Biển rộng lớn mênh mông và khoáng đạt trong đêm trăng sáng. Trên mặt biển đó,
có một con thuyền đang băng băng lướt đi trên sóng:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây đã trở thành một con thuyền
đặc biệt có gió là người cầm lái, còn trăng là cánh buồm. Con thuyền băng băng lướt sóng
ra khơi để “dò bụng biển”. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng. Tư
thế và khí thế của những ngư dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm giữa không gian bao la của
biển trời. Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên hòa nhập vào
kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ loi khi con người đối

120
diện với trời rộng sông dài như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng
mạn bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động
nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên
nhiên
b. Biển giầu đẹp nên thơ và có thật nhiều tài nguyên:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé


Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Huy Cận đã ngợi ca sự giàu có của biển cả bằng cách liệt kê tên các loài cá và tập trung
miêu tả màu sắc của chúng trong đêm trăng. Những con cá song giống như ngọn đuốc đen
hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc đáo.
Tuy nhiên “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in
xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. Phải thật
tinh tế mới có được những phát hiện tuyệt vời ấy. Cảnh biển về đêm mới đẹp đẽ và thi vị
làm sao!
- “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long” là hình ảnh nhân hóa đẹp. Đêm được miêu tả như một
sinh vật đại dương: nó thở. Tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng. Nhưng tưởng
tượng của nhà thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long
làm nên tiếng thở của đêm. Đây là một hình ảnh đảo ngược, sóng biển đu đưa lùa bóng sao
trời nơi đáy nước chứ không phải bóng sao lùa sóng nước. Đây là một hình ảnh lạ - một
sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động.
c.Biển không những giầu đẹp mà còn rất ân nghĩa thủy chung, bao la như lòng mẹ.
Biển cho con người cá, nuôi lớn con người. Những người dân chài đã hát bài ca gọi cá vào
với họ:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Không phải con người gõ thuyền để xua cá vào lưới mà là “trăng cao gõ”. Trong đêm trăng
sáng, vầng trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng dưới nước gõ vào mạn thuyền
thành hình ảnh “nhịp trăng cao gõ”. Có thể nói đây là hình ảnh lãng mạn đầy chất thơ làm
đẹp thêm công việc lao động đánh cá trên biển. Thiên nhiên đã cùng với con người hòa
đồng trong lao động.
- Câu thơ “biển cho ta cá như lòng mẹ. Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” là một lời hát ân
tình sâu sắc trong bài ca lao động say sưa thơ mộng, hùng vĩ và đầy lòng biết ơn.
d.Một đêm trôi đi thật nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng hăng say:

121
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Những đôi bàn tay kéo lưới nhanh thoăn thoắt gợi lên vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe mạnh với những
bắp tay cuồn cuộn của người dân chài khi kéo mẻ lưới đầy cá nặng. Từ phía chân trời bắt
đầu bừng sáng. Khi mẻ lưới được kéo lên, những con cá quẫy dưới sánh sáng của rạng
đông và lóe lên màu hồng gợi khung cảnh thật rạng rỡ huy hoàng, tươi đẹp. Câu thơ “lưới
xếp buồm lên đón nắng hồng” tạo một sự nhịp nhàng giữa sự lao động của con người với
sự vận hành của vũ trụ. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh.
3. Hai khæ th¬ cuèi lµ hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên đường trở về:

Câu hát căng buồm với gió khơi


Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
- Đoàn thuyền đánh cá đã ra đi vào lúc hoàng hôn trong tiếng hát và trở về vào lúc bình
minh cũng trong tiếng hát. Những câu thơ được lặp lại như một điệp khúc của một bài ca
lao động. Nếu như tiếng hát lúc trước thể hiện niềm vui khi lao động thì tiếng hát sau lại
thể hiện sự phấn khởi vì kết quả lao động sau một đêm làm việc hăng say. Họ trở về trong
tư thế mới “chạy đua cùng mặt trời”. Từ “chạy đua” thể hiện khí thế lao động mạnh mẽ,
sức lực vẫn dồi dào của người lao động. Đoàn thuyền được nhân hóa, cả mặt trời cũng
tham gia vào cuộc chạy đua này và kết quả con người đã chiến thắng.
- Hai câu kết khép lại bài thơ nhưng lại mở ra một cảnh tượng thật kì vĩ và chói lọi. Phải
nói rằng Huy Cận đã rất tinh tế khi miêu tả sự vận hành của vũ trụ. Mặt trời từ từ nhô lên
trên sóng nước xanh lam , chiếu tỏa ánh sáng rực rỡ, cảnh biển bừng sáng và còn đẹp hơn
với kết quả lao động. Con thuyền chở về khoang nào cũng đầy ắp cá. Mắt cá phản chiếu
ánh mặt trời giống như muôn vàn mặt trời nhỏ li ti. Đó thật sự là một cảnh tượng đẹp, huy
hoàng giữa bầu trời và mặt biển, giữa thiên nhiên và thành quả lao động.
Kết luận
“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ tràn
ngập niềm vui phơi phới, niềm say sưa hào hứng và những ước mơ bay bổng của con
người muốn chinh phục thiên nhiên bằng công việc lao động của mình. Đây cũng là bài ca
ca ngợi vẻ đẹp lộng lẫy, hùng vĩ và nên thơ của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn và tâm
trạng hứng khởi của nhà thơ. Bài thơ vừa cổ kính vừa mới mẻ trong hình ảnh, ngôn ngữ.
Âm điệu tạo nên âm hưởng vừa khỏe khoắn sôi nổi lại phơi phới bay bổng. Điều đó đã tạo

122
nên sức hấp dẫn của bài thơ để cho đến bây giờ đọc lại ta vẫn thấy hay trong khi một số bài
thơ khác cùng viết về đề tài này đã rơi vào quên lãng.

C. Câu hỏi luyện tập.

Câu 1: Viết một đoạn văn phân tích khổ đầu hoặc khổ thơ cuối bài thơ “Đoàn thuyền
đánh cá” của Huy Cận. (Tham khảo bài tập làm văn trên)

Câu 2: Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và
con người lao động. Em hãy chọn và phân tích một số hình ảnh đặc sắc trong các khổ thơ
1,3,4, 7. Bút pháp xây dựng hình ảnh của tác giả trong bài thơ có đặc điểm gì nổi bật?
Gợi ý:
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người
lao động được vẽ bằng bút pháp vừa tả thực, vừa ẩn dụ, tượng trưng với cảm hứng lãng
mạn.
- Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi mặt trời lặn (khổ 1- cảnh biển về đêm)
+ Cảnh vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người do một liên tưởng so sánh thú vị của
nhà thơ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Chi tiết “mặt trời xuống biển” có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc, vì bài thơ tả cảnh
đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở bờ biển nước ta, trừ vùng tây nam
thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống
biển. Thực ra, hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển
hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây qua một khoảng biển thì vẫn có
thể thấy như mặt trời xuống biển. Từ những quan sát thực, sức tưởng tượng và liên tưởng
của nhà thơ đã bồi đắp và tạo nên một hệ thống hình ảnh vừa gần gũi vừa mới mẻ: vũ trụ
như một ngôi nhà lớn, với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn
sóng là then cửa... như mọi ngôi nhà thân thuộc của mỗi người.
+ Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khoẻ, lạ mà thật từ sự gắn kết ba sự vật và hiện tượng:
cánh buồm, gió khơi và câu hát của người đánh cá “câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để
cùng với ngọn gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi, bắt đầu công việc
đánh cá không ít khó khăn vất vả. Đó là khí thế hăm hở và đầy hào hứng của những con
người yêu nghề, yêu biển.
- Trong phần thứ hai của bài thơ nổi bật là những bức tranh đẹp, rộng lớn, lộng lẫy, kế tiếp
nhau về thiên nhiên vùng biển và tư thế của con người lao động trước thiên nhiên, vũ trụ. .
+ Cảm hứng lãng mạn khiến nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa biển
đêm, trong niềm vui phơi phới, khoẻ khoắn của người lao động làm chủ công việc của
mình.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

123
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
+ H/a con thuyền được miêu tả rất lãng mạn. Có thực đấy nhưng lại lẫn vào trong ảo. Với
sự tưởng tượng bay bổng, thuyền có người cầm lái là gió trời, cánh buồm là trăng trời.
Thuyền và người hoà nhập vào thiên nhiên, lâng lâng trong cái thơ mộng của gió, trăng,
trời, biển. Hình ảnh con người hiện lên là hình ảnh con người lớn ngang tầm vũ trụ và chan
hoà với khung cảnh trời nước bao la tuyệt đẹp. Công việc đánh cá do đó bỗng nhiên trở
nên rất thơ mộng.
+ Nhưng đây không phải là cuộc du ngoạn bằng thuyền. Đây là một cuộc chiến đấu thực sự
để giành lấy từ bàn tay thiên nhiên những của cải, tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ
của con người: “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
- Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
- Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
- Cứ như thế, bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ như dẫn ta đi lạc lối vào
một cõi huyền ảo của biển trời. Đó là hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá trên biển.
- Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
+ Những đoàn cá thu dày đặc lướt đi trong biển. Những đàn cá lướt trong sóng nước tạo
nên những luồng sáng trắng loang loáng như dệt biển. Cá vào lưới dày đặc mà tưởng như
cá dệt lưới vậy.
+ Cá song đêm xuống thường nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông. Cá song
thường có màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng như lửa, như
những ngọn đuốc đỏ rực sáng lên giữa đêm trăng sao, vẻ đẹp hư ảo, lạ kì.
+ Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt cá
với những màu sắc rực rỡ. Trong đêm sao lung linh, những con cá tươi rói quăng mạnh
những chiếc đuôi vẫy nước làm ánh trăng lấp lánh “vàng choé” sáng lên giữa biển đêm.
Rồi cái nhịp thở của vũ trụ về đêm: nhịp thuỷ triều lên xuống và những con sóng dập dờn,
bầu trời đêm chi chít sao chiếu xuống mặt biển, nhà thơ cảm nhận như là “sao lùa nước Hạ
Long”.
+ Khi những mẻ lưới nặng trĩu được những bắp tay cuồn cuộn săn chắc kéo lên khỏi mặt
nước. Những con cá nhảy nhót trong lưới, vảy, đuôi phản chiếu ánh sáng những sắc màu
rực rỡ cùng với ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình minh khiến cho bức tranh có những
gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ: “vảy bạc..... nắng hồng”

124
=> Những hình ảnh này có vẻ đẹp của tranh sơn màu lung lính, huyền ảo, được sáng tạo
bằng liên tưởng, tưởng tượng bay bổng từ sự quan sát hiện thực. Trí tưởng tượng của nhà
thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng , điều đó đã chắp cánh
cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.

Câu 3: Viết đoạn văn: Khổ 2,3,4 của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã miêu tả cảnh biển
đẹp, biển giàu (tương tự câu trên)
Tham khảo đoạn văn:
Cả bài thơ là một khúc ca, nhưng đó không chỉ là khúc ca lao động mà còn là tiếng
hát ngợi ca thiên nhiên, ngợi ca biển cả giàu đẹp của quê hương. Thật vậy, thiên nhiên
trong bài thơ đẹp như một bức tranh sơn mài lóng lánh một sắc màu rực rỡ, cảnh biển trời
được giới thiệu một cách tài tình, sống động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
Một mặt trời đỏ ối đang từ từ chìm xuống biển khơi ở mút tận chân trời. Ngôi nhà vũ
trụ đã vào đêm với “sóng cài then”, “đêm sập cửa”. Nghệ thuật nhân hoá và so sánh được
sử dụng thật tài tình. Đọc hai câu thơ, ta cứ tưởng là vũ trụ đã vào thời khắc nghỉ ngơi.
Không đâu, vũ trụ hay thiên nhiên vẫn đang chuyển động không ngừng. Cảnh lúc này lại
gắn liền với người: “Thuyền” càng lướt ra xa thì biển càng mênh mông:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng.
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Mây cao - biển bằng bàng bạc ánh trăng. Cánh buồm no gió, cong cong như vầng
trăng khuyết - một nửa vầng trăng, hình ảnh thực đẹp mà lãng mạn, nên thơ. Hình ảnh
“mây cao, biển bằng” mở ra một không gian vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt, bát ngát. Hình
ảnh con thuyền hay con người trong không gian ấy càng lớn lao, kì vĩ. “lướt”nhanh, nhẹ,
cảm tưởng như đang bay trên không trung. Tư thế, tầm vóc ấy trong cảm xúc bay bổng,
thăng hoa của Huy Cận, hay là trong niềm vui, trong sự hào hứng của người người dân
chài khi ra khơi. Cứ như thế, bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ như dẫn ta
đi lạc lối vào một cõi huyền ảo của biển trời. Đó là hình ảnh đẹp lộng lẫy của các loài cá
trên biển. - Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
- Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
- Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
- Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vây cá, mắt
cá với những màu sắc rực rỡ của những nàng tiên cá như trong những câu chuyện cổ tích
vừa thực, vừa ảo. Những con cá nhảy nhót trong lưới, vảy, đuôi phản chiếu ánh sáng
những sắc màu rực rỡ cùng với ánh hồng rực rỡ, tinh khiết của bình minh khiến cho bức
tranh có những gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kì lạ. Vẻ đẹp của biển khơi càng tráng lệ,

125
càng huyền ảo.Không gian huyền thoại; bầu trời, biển đêm, sao, trăng, những nàng tiên
cá… tất cả gợi nên vẻ đẹp kì ảo, đúng là vẻ đẹp trong cảm nhận của một tâm hồn thi sĩ giàu
xúc cảm.
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn khoảng 10 câu nêu cảm nghĩ của em về vẻ đẹp của thiên nhiên
và con người trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
Gợi ý:
Thiên nhiên vùng biển trong bài thơ có một vẻ đẹp riêng. Bầu trời giống như ngôi nhà vũ
trụ khi đêm xuống cũng cài then, sập cửa để chuẩn bị nghỉ ngơi. Có trăng, có gió, biển
lặng, những bầy cá dệt biển như muôn luồng sáng. Mặt trời lên làm cho biển thêm màu sắc
mới. Những thuyền đầy ắp cá nối nhau thành muôn dặm khơi mắt cá huy hoàng. Con
người làm chủ nên vui vẻ ca hát suốt từ khi ra khơi, trong quá trình buông lưới và trở về.
Con người hoà hợp với thiên nhiên. Gió lái thuyền, trăng như dát vàng trên những cánh
buồm. Người đánh cá thì hát bài ca gọi cá vào… Không khí lao động thật khoẻ khoắn.
Từng chùm cá nặng được kéo lên trong tiếng hát của những con người chạy đua cùng mặt
trời. Vẻ đẹp của thành quả lao động cũng chính là vẻ đẹp của những người lao động mới,
làm ăn tập thể, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đời mình.
Câu 5. Trong câu thơ “vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”, từ “đông” có nghĩa là gì? Hãy
tìm ít nhất 2 nghĩa của từ “đông” và cho ví dụ. Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ gì?
Phân tích? Tìm hai ví dụ cũng sử dụng biện pháp tu từ đó mà em đã được học.
Gợi ý:
- Từ “đông” có nghĩa là phía đông, biển đông.
- Hai nghĩa khác nhau của từ “đông”
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông đúc, nhiều
+ Là động từ chỉ trạng thái: đông cứng
+ Là từ chỉ phương hướng: hướng đông, phía đông
VD: Đằng đông, từng đoàn thuyền đánh cá nối đuôi nhau về bờ.
- Câu thơ đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ: chỉ số lượng cá thu được nhiều đến mức
làm đầy ắp, trắng xoá mạn thuyền khi ánh nắng chiếu vào thân cá => thành quả lao
động. Cảm giác ánh sáng một ngày mới từ đoàn thuyền cá đó thể hiện ánh sáng sự
bội thu “Mùa vàng”.
- Ví dụ về hai câu thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ.
- VD: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
VD2: Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Câu 6: Cho câu chủ đề sau:

126
Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là một bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của
thiên nhiên mà còn là một bài ca ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động.
a. Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là gì? Đề tài của đoạn văn trên đoạn văn chứa
câu mở đoạn là gì?
b. Hãy viết tiếp từ 9 đến 15 câu để tạo thành đoạn văn tổng phân hợp hoàn chỉnh.
Trong đó có sử dụng phép thế đồng nghĩa.
Gợi ý:
a. Đề tài của đoạn văn chứa câu mở đoạn là: ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động.
Đề tài của đoạn văn trên đoạn văn chứa câu mở đoạn là: Đoàn thuyền đánh cá là một
bức tranh sơn mài lộng lẫy về vẻ đẹp của thiên nhiên.
b. Viết đoạn:
- Tư thế ra đi: hoàn cảnh khắc nghiệt>< tư thế hiên ngang, họ mang đến cho biển khơi
một nhịp điệu mới: tiếng hát say mê lao động.
- Tư thế lao động trên biển cả bao la: lao động trên biển không hề cô đơn, tầm vóc
của họ sánh vai với đất trời, bởi thiên nhiên bầu bạn, chia sẻ với họ….(phân tích để
thấy được sự hoà hợp giữa con người và vũ trụ)
- Tạo nên khúc men say ca ngợi con cho con người lao động -> tạo thành quả lao
động mà họ mong muốn.
- Nhà thơ dùng hình ảnh rất thực: “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” -> Thành quả lao
động: Họ ra về với thuyền đầy ắp dường như ánh bình minh thắp lên từ vảy cá. Họ
mang bình minh cho vùng biển bao la rộng lớn. Bài thơ là một bản hùng ca về
người lao động.
Câu 7: Hãy chỉ ra và phân tích giá trị nghệ thuật trong câu thơ sau:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé.
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Hãy tìm một ví dụ cũng có sử dụng biện pháp tu từ nghệ thuật giống như câu thơ trên
(trong chương trình đã học)
Gợi ý:
- Hai câu thơ trên đã sử dụng biện pháp tu từ liệt kê, ẩn dụ. Hình ảnh những con cá
chim, cá đé, cá song là ẩn dụ cho thành quả lao động mà những người dân chài có
được sau một ngày lao động trên biển. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” là một
hình ảnh đẹp, những chiếc vẩy cá dưới ánh trăng như lấp lánh.
- Câu thơ có sử dụng phép liệt kê: VD: Một canh, hai canh lại ba canh.Trằn trọc băn
khoăn giấc chẳng thành

Câu 8: Phân tích giá trị các biện pháp tu từ trong câu thơ sau:
Biển cho ta cá như lòng mẹ.
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

127
Hãy viết 1 đoạn văn phân tích hai câu thơ trên.
Gợi ý:
Thiên nhiên, biển khơi hùng vĩ luôn là một đề tài lớn trong thơ ca Việt Nam. Biển đối
với mọi người, ngoài vẻ đẹp và sự hùng vĩ, còn gợi cho chúng ta một cái gì đó bí ẩn, nguy
hiểm với những tai hoạ khôn lường. Nhưng trong con mắt và tình cảm của những người
dân chài: “biển như lòng mẹ”, biển cả đối với ngư dân trở nên thật ấm áp, như người mẹ
hiền trở che, nuôi nấng họ lớn lên, bao bọc họ với một tình cảm trìu mến, thân thương. Mẹ
biển là nguồn sống của họ, gắn bó sống còn, cho họ tất cả những gì của đời sống như
người mẹ “nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Câu thơ như một sự cảm nhận thấm thía của những
người dân chài đối với biển khơi. Đến một lúc nào đó học chợt nhận ra biển đã gắn bó với
mình, thật quý giá thân yêu biết chừng nào.
Câu 9: (Đề thi vào THPT năm học 2005 – 2006)
1) Bài “cành phong lan bể” có câu: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về”. Bài “Đoàn thuyền
đánh cá” cũng có câu thơ giàu hình ảnh tương tự. Hãy chép chính xác khổ thơ có câu thơ
đó và nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ?
2) Con cá song và ngọn đuốc là hai sự vật khác nhau trong tưởng tượng nhưng Huy Cận lại
có sự liên tưởng hợp lí. Tại sao vậy? Câu thơ của ông giúp người đọc hiểu thêm gì về thiên
nhiên và tài quan sát của ông?
Gợi ý:
1) chÐp khor tho cã ý th¬: “Con c¸ song cÇm ®uèc dÉn th¬ vÒ”
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long

2) Nhà thơ có sự liên tưởng hợp lí vì: Cá song đêm xuống thường nổi lên mặt biển hàng
đàn cho đến lúc rạng đông, cá song thường có màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có
nhiều đốm vằn đỏ hồng như lửa, như những ngọn đuốc đỏ rực sáng lên giữa đêm trăng sao.
- Câu thơ giúp người đọc hiểu thêm về vẻ đẹp của các loài cá, vẻ đẹp của thiên nhiên biển
khơi, đó là một vẻ đẹp hư ảo, lạ kì. Trí tưởng tượng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp
lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng, điều đó đã chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo,
làm giầu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên.

C©u 10: Cho khæ th¬ sau:

128
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long
§ây là câu chủ đề cho một đoạn: “Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta thấy
một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương”.
Em hãy viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh đoạn văn trên theo phép lập luận diễn
dịch (trong đó có một câu ghép và một câu có thành phần tình thái).
Gợi ý:
Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho chúng ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của
biển cả quê hương.(1) Thật vậy, tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của
những đuôi cá, vây cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ của những nàng tiên cá như trong
những câu chuyện cổ tích vừa thực, vừa ảo.(2) Những con cá song giống như ngọn đuốc
đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ độc
đáo. (3) Có lẽ, “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” lại là hình ảnh đẹp nhất.(4). Ánh trăng
in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi như quẫy ánh trăng tan ra vàng chóe. (5) Vẻ
đẹp của biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo hơn bởi hình ảnh nhân hoá : “Đêm thở sao
lùa nước Hạ Long”. (6) Đêm được miêu tả như một sinh vật đại dương đang thở. (7). Phải
chăng tiếng thở của đêm chính là tiếng rì rào của sóng? (8). Nhưng tưởng tượng của nhà
thơ lại được cắt nghĩa bằng một hình ảnh bất ngờ: sao lùa nước Hạ Long làm nên tiếng thở
của đêm. (9 ) Đây một hình ảnh đảo ngược, một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận khiến
cho cảnh thiên nhiên thêm sinh động.(10).
Chú thích:
- Câu 4: sử dụng thành phần tình thái
- Câu 5: Sử dụng câu ghép.

Câu 10: Viết đoạn văn tổng phân hợp khoảng 15 câu:
Cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ kết hợp hài hoà với cảm hứng lao động đã tạo nên những
hình ảnh rực rỡ, bay bổng, lãng mạn trong khổ thơ thứ hai và thứ ba của bài thơ : “Đoàn
thuyền đánh cá”. (Đoạn văn có sử dụng câu bị động và câu có thành phần phụ chú)
Gợi ý:
- Từ “hát” vang lên ở ngay dòng thơ đầu và trong suốt bài thơ như mở đầu một khúc ca lao
động của những người dân chài lưới. Trong câu hát hiện lên hình ảnh những đoàn cá được
miêu tả như đoàn thoi giữa biển Đông lặng. Biển hiền hoà, đoàn cá phản chiếu ánh sáng
khiến cho không gian rộng lớn trở nên rực sáng.

129
- Tiếng hát của người dân chai hay lời gọi trìu mến – câu hát của những con người gắn bó
với biển khơi (liên hệ với các tác phẩm nói về mối quan hệ đối nghịch giữa biển khơi và
người dân chài) Nhưng ở đây là mối quan hệ thân thương, gắn bó.
- Trong khổ thơ tiếp theo, xuất hiện các hình ảnh thiên nhiên gợi không gian khoáng đạt,
bao la, không chỉ được mở ra ở chiều rộng và chiều dài, mà còn ở cả độ cao và chiều sâu.
- Cảm hứng vũ trụ là một đặc điểm trong thơ Huy Cận, giờ đây khi nhà thơ đã thực sự gắn
bó với thiên nhiên, con người lao động (sáng tác năm 1958 – sau CMT8 chuyến đi thực tế)
thì nó trở nên gắn bó, này nở trong niềm vui của cuộc sống lao động, không còn trĩu nặng
nỗi sầu nhân thế như trước kia.
- Hình ảnh con thuyền hay con người đang điều khiển thiên nhiên. Nhà thơ đã khắc hoạ vẻ
đẹp của con người lái gió – chinh phục thiên nhiên. Con buồn lướt gió với buồm trăng: con
buồm no gió cong cong như vầng trăng khuyết hay ánh trăng thấm đẫm bao phủ => Dù là
hình ảnh nào thì cũng đều thi vị và bay bổng.
- Con thuyền như bay trong không trung, lướt bay rất nhanh và nhẹ. Hình ảnh thiên nhiên
ấn tượng, chân thực + sự thăng hoa cảm xúc đã đem lại cho bài thơ vẻ đẹp rất mĩ lệ. Biển
cả, vũ trụ bao la nhưng con người không hề bé nhỏ, đơn độc giữa biển khơi, tầm vóc người
ngư dân trở nên lớn lao, khoẻ khoắn.
- Những chuyến ra khơi đánh cá của họ được nhà thơ hình dung như một trận chiến đấu
chinh phục biển khơi… Thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp phổ biến là 4/3 rắn rỏi như càng
tô đậm sức mạnh của người dân chài vượt qua những thử thách, khó khăn.
- Trọng âm của câu thơ dồn ở những thanh trắc, những dấu nặng khiến âm điệu câu thơ trở
nên thật hùng tráng

------------------------------------------------

Bài 4: BẾP LỬA

A. Kiến thức cần nhớ.


1. Tác giả
- Bằng Việt là bút danh của Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941 tại Huế, nhưng quê gốc ở
huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ
các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

130
- Tác phẩm chính: Hương cây - Bếp lửa (thơ in chung với Lưu Quang Vũ – 1968), Những
gương mặt, những khoảng trời (1973), đất sau mưa (thơ – 1977), Khoảng cách giữa lời
(thơ – 1983). Cát sáng (thơ 1986), Bếp lửa - Khoảng trời (thơ tuyển 1988)...
- Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tĩnh trầm lắng, giàu suy tư, triết luận.
2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác : “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi BV đang là sinh viên
khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp Ki – ép (Liên xô cũ).
b.Nội dung: Qua hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa”
gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng
kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê
hương đất nước.
c. Nghệ thuật: Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình
luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh
người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
d. Bố cục : 3 phần:
+ Phần 1: 3 dòng đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà
+ Phần 2: Từ “lên bốn tuổi” đến “niềm tin dai dẳng”: những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh
người bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong hồi tưởng của cháu.
+ Phần 3: Từ “lận đận đời bà... đến “thiêng liêng bếp lửa”: suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.
+ Phần 4: (4 dòng cuối): Hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu.
- Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy
ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm
hiện lên hình ảnh bà với bao vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu; từ kỉ
niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản
dị mà cao quý của bà; cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà.
3. Chú ý: Cần cảm nhận và thuộc một số câu thơ nói về:
- Hình tượng bếp lửa, ngọn lửa
- Hình tượng con chim tu hú
- Hình ảnh người bà nhóm lửa và đứa cháu bé thơ.
- Những câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ tha thiết bồi hồi.:
VD: ….Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
….. Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Hoặc: “Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa!”
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
B. Phân tích nội dung bài thơ.

1. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu.


a. Khổ 1 nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà. Khi nhớ về quê hương, người ta
thường nhớ về những kỉ niệm gắn liền trong quá khứ như dòng sông, bến đò, cây đa….
Đối với Bằng Việt, sự hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:

131
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
- Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điêụ sâu lắng, hình
ảnh quen thuộc trong mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn
vờn sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ “ấp iu” vừa
diễn tả công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người
nhóm bếp.( Các chữ “ấp iu”, “nồng đượm”, “chờn vờn” rất hình tượng, gợi tả; Ấp iu: là
một sáng tạo từ mới mẻ -> đó là sự kết hợp và biến thế của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”.
Bếp lửa ấm áp “nồng đượm” ấy còn mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng
bà)
- Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà, ngưòi
nhóm lửa, người nhóm bếp mỗi sớm mai - một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng
chập chờn lay động: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Bếp lửa của bà là bếp lửa của
một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”, nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ
về bếp lửa mà trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. Chữ
“thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào hồn
người.
b. Từ đó, bài thơ gợi lại cả một thời thơ ấu bên người bà ( Khổ 2,3,4)
-Kí ức đưa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945: “cả dân
tộc đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên). Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” – cái đói kéo
dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy
khô…Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc. Tuy nhiên cái đói chỉ là cái cớ để
nhà thơ nhớ về một tuổi thơ cay cực, thiếu thốn trăm bề:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
- Ấn tượng nhất là mùi khói bếp: “Khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi
còn cay”. Hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao. HÌnh ảnh tả thực : khói nhiều cay, khét vì
củi ướt vì sương nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh tượng trưng: sự xúc động- nghĩ mà
thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cảm xúc quá khứ hoà
lẫn hiện tại và chắc hẳn cảm xúc quá khứ phải sâu sắc lắm mới có thể trỗi dậy mạnh mẽ
thế. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi
ngoai. Qua đó, nhà thơ khẳng định, tuổi thơ dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ
thiếu thốn nghĩa tình.
- Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng
của tuổi thơ - những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung
quanh cái bếp lửa quê hương được nhắc tới trong đoạn thơ thứ ba.
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
….
+Thật là hồn nhiên, trong sáng và xúc động làm sao khi nhà thơ tâm tình với chim tu hú.
Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm

132
ran trong vườn lá, trên cánh đồng cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong hiện thực đã tha
thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ như giục giã, khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng
người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong: “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Nhà thơ
đang kể chuyện về bà mà như tách hẳn ra để trò chuyện trực tiếp với bà: “bà còn nhớ
không bà…?”…. Còn gì hơn với những chi tiết tự sự xúc động như thế?
+ Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương
của hai bà cháu:
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Câu thơ mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc
cho cháu lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn lẫn thể chất cho cháu, vậy mà bây giờ cháu cũng
đi xa, để bà một mình khó nhọc.Tiếng chim tu hú giờ đây trở thành một mảnh tâm hồn tuổi
thơ để gợi nhớ gợi thương. Cháu thương bà vất vả, lo toan, biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm
tình với chim tu hú mà thôi. Như vậy, bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh
hình ảnh người bà và có cả hình ảnh quê hương.
- Đặc biệt hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về
những năm tháng đau thương, vất vả, giặc tàn phá xóm làng – hoàn cảnh chung của nhiều
gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. “Mẹ và cha công tác bận không
về”, cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan.
Bên bếp lửa: “bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu
học”, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Trong nhiều gia
đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà – bà nội, bà ngoại –
đã thay thế vai trò của người mẹ hiền. Sống trong những năm dài chiến tranh, thế nhưng bà
vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, thử thách. Các từ ngữ như “bà bảo”, “bà dạy”, “bà
chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của
bà đối với cháu nhỏ. Chữ”bà” và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả tình bà cháu quấn
quýt yêu thương. Được sống trong tình thương là hạnh phúc. Người cháu trong bài thơ
“bếp lửa” tuy phải sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng em thật hạnh
phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách
thiết tha nồng hậu: “nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
=> Tóm lại, làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc của nhân
vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan cài nhuần nhuyễn với nhau giữa các yếu tố biểu cảm,
miêu tả và tự sự. Đây cũng là nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp
nhuần nhị độc đáo đó khiến cho hình ảnh của bà thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ
lại hiện về sống động và chân thành, giản dị.
2. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa. (Khổ 5,6)

133
- Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở về hiện tại để suy ngẫm về
cuộc đời và lẽ sống của bà và cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn. Hình
ảnh bà luôn gắn liền vời hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là “người nhóm lửa”, lại
cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình.
+ Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”- một hình ảnh ẩn dụ rất tráng lệ.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
“Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều” không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà đã
sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương “luôn ủ sẵn” trong
lòng bà, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những
kỉ niệm lòng, niêm tìn thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài.
Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình
tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ
sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt
Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng
thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn
nại của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy.
Như thế, hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa -
ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
+ Tám câu thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về người bà
kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Cuộc đời của bà nhiều “lận
đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức
khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Cảnh nghèo nên bà suốt
đời vất vả. Từ “lận đận” thể hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm
rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc, mà là bằng tất cả tấm
lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với con cháu. Điệp từ “nhóm” được nhắc đi
nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất thực… có điểm chung là cùng
gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ
thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của
sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói
lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu
thương vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo
mới mùa gặt là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì
hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà bao la
giản dị như khoai sắn và cũng đậm đà như khoai sắn.Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu
thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã

134
diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con
cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những
ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ. Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của
tình thương ấm áp. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình
dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “ÔI! Kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa”. Như vậy, từ
ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh
hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
3. Niềm thương nhớ của cháu:
- Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành
“ Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu.
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
….. Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”
- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống
với những niềm vui rộng mở, nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa trăm nhà, cháu
vẫn không thể quên bếp lửa của bà, vẫn không nguôi nhớ thương bà…. Mỗi ngày đều tự
hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?, mỗi ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà.
Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ niệm thiêng liêng làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bước
đường đời.
4. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín : những gì là thân thiết nhất của tuổi
thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình đài rộng của cuộc
đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương,
sự gắn bó với gia đình, quê hương, và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình
yêu đất nước.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp
miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận; giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc
hồi tưởng và suy ngẫm. Bài thơ như ngọn lửa ấm áp toả sáng và cháy mãi trong tình cảm
của người đọc.

C. Câu hỏi luyện tập

Câu 1: Hãy nêu nhận xét về hình ảnh tượng trưng của hình tượng “bếp lửa”
Gợi ý:
Hình ảnh bếp lửa vốn là hình ảnh thật của bếp lửa mà ngày ngày người bà nhen lửa
nấu cơm. Nhưng bếp lửa lại trở thành hình ảnh tượng trưng, gợi lại tất cả những kỉ niệm
ấm áp của hai bà cháu. Lửa thành ra ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin, ngọn lửa bất diệt của
tình bà cháu, tình quê hương đất nước. Bếp lửa mà người bà ấp iu hay chính là tình yêu
thương mà bà nâng niu dành tất cả cho cháu, từ việc dạy cháu làm, chăm cháu học, bảo
cháu nghe. Bếp lửa cũng là nơi bà nhóm lên tình cảm, khát vọng cho người cháu. Nhóm
lửa do đó cũng vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng.

Câu 2: Phân tích giá trị nghệ thuật của điệp từ “nhóm” trong khổ thơ sau

135
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoa sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
- Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần làm toả sáng hơn nét “kì lạ” và thiêng liêng bếp
lửa. Bếp lửa của tình bà đã nhóm lên trong lòng cháu bao điều thiêng liêng, kì lạ. Từ
“nhóm” đứng đầu mỗi dòng thơ mang nhiều ý nghĩa: Từ bếp lửa của bà những gì được
nhóm lên, khơi lên?
+ Khơi dậy tình cảm nồng ấm
+ Khơi dậy tình yêu thương, tình làng nghĩa xóm, quê hương
+ Khơi dậy những kỉ niệm tuổi thơ, bà là cội nguồn của niềm vui, của ngọt bùi nồng
đượm, là khởi nguồn của những tâm tình tuổi nhỏ.
=> Đó là bếp lửa của lòng nhân ái, chia sẻ niềm vui chung.

..................................................................................................

Bài 5: KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ


A. Kiến thức cần nhớ.
1. Tác giả:
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở Thừa Thiên - Huế trong một gia đình trí thức
cách mạng. Sau khi tốt nghiệp trường dDHSP năm 1964,. NKĐ về lại quê hương tham gia
cuộc chiến đấu chống Mĩ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1968, và là một nhà thơ tiêu biểu
của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chóng Mĩ. Thơ NKĐ giàu chất suy tư, dồn
nén xúc cảm thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
Tác phẩm chính: tập thơ : Đất ngoại ô (1972); Trường ca Mặt đường khát vọng (được hoàn
thành ở Bình Trị Thiên 1971, in lần đầu 1974)
2. Tác phẩm:
- Bài thơ được in trong tập “Đất và khát vọng” (1984). Bài thơ ra đời vào những năm tháng
quyết liệt của kháng chiến chống Mĩ. Giai đoạn này, cuộc sống của cán bộ và nhân dân ta
trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thốn. Ở những chiến khu sản xuất, vừa sẵn sàng chiến
đấu bảo vệ căn cứ.
- Tác phẩm thể hiện tình yêu con và ước vọng của người mẹ dân tộc qua đó bày tỏ lòng
yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ.
- Nhà thơ đã thể hiện cảm nghĩ về người mẹ Tà Ôi trong ba khúc hát, tương đương với ba
đoạn, ba khúc hát ru:
+ Khúc thứ nhất: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương bộ đội
+ Khúc thứ hai: Khúc hát ru của người mẹ thương con, thương dân làng
+Khúc thứ ba: khúc hát ru của người mẹ thương con, thương đất nước.
- Bài thơ có cấu trúc trùng điệp: lặp lại lời và lặp câu. Từng khúc đều mở đầu bằng hai câu
thơ: “Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi. Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ (....) và kết

136
thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ: Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi. Lặp
nhịp:Ở từng lời ru trực tiếp này, nhịp thơ lại được ngắt đều đặn ở giữa dòng 4/4. Cách lặp
đi lặp lại, cách ngắt nhịp như thế đã tạo nên âm điệu dìu dặt, vấn vương của lời ru gần với
loại hình âm nhạc. Giọng điệu trữ tình đã thể hiện một cách đặc sắc tình cảm thiết tha, trìu
mến của người mẹ.

B. Một số ®Ò luyÖn tËp :

Câu 1: . Tại sao chỉ có một em cu Tai mà tác giả lại viết là “những em bé lớn trên lưng
mẹ? Nhan đề bài thơ có ý nghĩa như thế nào?
- Chỉ có một em cu Tai, nhưng tác giả lại viết là “những em bé”. Đây là cách khái
quát trong thơ. Em cu Tai là một hình ảnh cụ thể, nhưng có bao nhiêu em bé đã lớn trên
lưng của những bà mẹ người dân tộc Tà Ôi. Cũng có bao nhiêu bà mẹ ngoài đời nhưng nhà
thơ lại chỉ viết một bà mẹ mà thôi. Một em bé để nói rất nhiều em bé. Nhiều bà mẹ, nhưng
chỉ để nói về một người mẹ. Nhan đề của bài thơ do đó cũng là một ý thơ. Bài thơ ca ngợi
người mẹ miền núi, cũng là người mẹ Việt Nam, kết hợp lòng thương con, yêu con với yêu
thương bộ đội, yêu thương dân làng, yêu nước. Hình ảnh người mẹ là hình ảnh tượng trưng
đã nuôi lớn những người con của mình để hiến dâng cho cuộc kháng chiến giành độc lập tự
do cho Tổ Quốc.
3. Có bao nhiêu người ru trong bài thơ “Khúc hát ru….”? Khúc hát này có điều gì đặc
biệt về nhịp điệu, nội dung tình cảm?
Gợi ý:
Có hai lời ru của hai người ru em cu Tai, một là lời ru của tác giả, một lời ru khác là
của mẹ em “Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”. Hai lời ru này hoà quyện vào nhau trong
suốt bài thơ, tạo thành khúc hát ru độc đáo. Hai lời ru trong một khúc hát. Mỗi lời ru gồm
hai phần: Lời ru của tác giả và lời ru của mẹ em. Lời ru của tác giả kể ra những công việc
mẹ em làm. Lời ru của mẹ em mong ước về em và về kết quả công việc. Âm điệu có phần
lặp lại nhưng vẫn có phần phát triển làm cho lời ru vừa du dương lại vừa biến hoá. Không
phải là lời ru buồn quen thuộc với những “sung chát đào chua”, với những “con cò” và
“cơn mưa mù mịt”. Nội dung bài thơ là những công việc của một bà mẹ kháng chiến: giã
gạo nuôi bộ đội; phát rẫy tỉa bắp, lấy lương thực cho làng kháng chiến; chuyển lán, đạp
rừng đánh Mĩ. Tình cảm của mẹ không chỉ dành cho con trai bé bỏng, mà còn dành cho bộ
đội, cho dân làng, cho lãnh tụ và đất nước. Đấy chính là những nét mới mẻ, độc đáo của
bài hát ru.
4. Phân tích hai câu thơ: “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.”
- Câu dẫn dắt mở đầu (giới thiệu tác giả, tác phẩm)
- Hai câu thơ có lẽ là những câu thơ đặc sắc nhất trong bài thơ.
- Phân tích (ý chính)
+ MT của bắp là mặt trời của tự nhiên, đem lại ánh sáng cho vạn vật, nếu thiếu đi ánh
dương đó thì mọi sinh vật đều sẽ bị huỷ diệt (bắp cần ánh sáng)

137
+ em Cu Tai là ánh sáng, là nguồn sống, là mặt trời bé nhỏ của người mẹ, là cuộc đời
của người mẹ. Thế gian không thể thiếu ánh mặt trời cũng như người mẹ Tà ôi không
thể thiếu vầng mặt trời bé nhỏ trên lưng.
(Mẹ gửi gắm mọi niềm hi vọng vào em Cu Tai)
=> Dù ở miền núi hay miền đông bằng, tình mẫu tử thiêng liêng bao giờ cũng sâu nặng.
- Cách thể hiện thơ và ngôn từ rất gần gũi với đời sống của người dân tộc. Cách thể
hiện tình cảm chất phác mà sâu sắc.
Câu 5: Đọc kĩ hai câu thơ sau:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”
(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ- Nguyễn Khoa Điềm)
Từ “mặt trời” trong câu thơ thứ hai được sử dụng theo biện pháp tu từ từ vựng nào?
Có thể coi đây là hiện tượng một nghĩa gốc của từ phát triển thành nhiều nghĩa được
không? Vì sao?
Gợi ý:
Từ “mặt trời” trong câu thơ được sử dụng theo biện pháp tu từ ẩn dụ
- Không thể coi đây là hiện tượng một nghĩa gốc của từ phát triển thành nhiều nghĩa.
Vì: Nhà thơ gọi em bé (đứa con của người mẹ Tà ôi là “mặt trời” dựa theo mối quan
hệ tương đồng giữa hai đối tượng được cảm nhận theo chủ quan của nhà thơ. Sự chuyển
nghĩa của “mặt trời” trong câu thơ chỉ có tính chất lâm thời, nó không làm cho từ có thêm
nghĩa mới và không thể đưa vào để giải thích trong từ điển.
Câu 6. Viết đoạn văn quy nạp với câu chủ đề sau: “Khúc hát ru” ngọt ngào, tha thiết
của Nguyễn Khoa Điềm là tình yêu thương con là ước vọng của người mẹ dân tộc Tà ôi
dành cho con. (15 câu). Đoạn văn có sử dụng phép nối liên kết câu.
Gợi ý:
- Đề tài của đoạn văn (thơ)
- Các khúc thơ lặp đi lặp lại đều đặn mang lại cho bài thơ âm hưởng mượt mà, ngọt ngào,
sâu lắng => đúng là một lời hát ru.
- Tình thương dành cho đứa con gắn bó sâu sắc với những tình cảm lớn lao
- Ước mơ con lớn lên trở thành chàng trai khoẻ mạnh, trở thành những Đam San của thời
đại mới.
- Từ trên lưng mẹ em vào Trường Sơn: Cách nói rất cụ thể. Trong tình cảm yêu thương của
người mẹ mà con lớn khôn, mẹ mong em sẽ trở thành người chiến sĩ.
- Câu cuối: Con sẽ lớn lên, trưởng thành trong nền độc lập tự do.
=> Ty con gắn liền với ty đất nước, tha thiết với nền độc lập tự do => hoà quyện vào nhau
sâu sắc
- Chú ý phân tích: mặt trời
- lưu ý chất dân tộc trong các khổ thơ từ nhan đề đến h/ảnh
+ Hình ảnh đứa con trên lưng mẹ trở đi trở lại trong đoạn thơ. Khắc sâu tình mẫu tử sâu
nặng, thể hiện hồn dân tộc

138
* Nếu như những bài hát ru xưa thuần tuý chỉ là tình mẫu tử, thì ở đây, bên cạnh tình cảm
ấy, ta còn thấy được t/y của mẹ với đất nước, xóm làng. Gắn liền với cuộc kháng chiến
gian khổ vĩ đại của dân tộc, mang hơi thở của thời đại.
- Chú ý phân tích kĩ h/a: nhấp nhô….
Câu 7: Trình bày bằng một đoạn văn ngắn cảm nghĩ của em về hình ảnh người mẹ Tà
Ôi trong bài thơ: “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm.
Gợi ý: (cách 1)
Bµi th¬ gióp ta hiÓu râ tÊm lßng hi sinh cao quý cña nh÷ng bµ mÑ d©n téc Tµ ¤i.
- Ngêi mÑ rÊt vÊt v¶ trong c«ng viÖc, trong hoµn c¶nh ®Êt níc cã chiÕn tranh. ThÕ nhng
tÊm lßng cña mÑ chan chøa, dung hoµ hai t×nh c¶m thiªng liªng cao ®Ñp. MÑ th¬ng con
g¾n liÒn víi t×nh th¬ng bé ®éi, d©n lµng, ®Êt níc. Nh÷ng íc m¬ cña mÑ thÓ hiÖn trong
viÖc mÑ lµm. MÑ lµm viÖc hÕt søc m×nh cho con, cho ®Êt níc. Nh÷ng íc m¬ Êy ®îc
n©ng cao dÇn trong tõng lêi ru. Nh÷ng t×nh c¶m vµ íc m¬ Êy ®îc göi g¾m trong khóc ca
giÇu nh¹c ®iÖu d©n téc - ®ã lµ khóc h¸t ru víi nh÷ng h×nh ¶nh ®éc ®¸o, sù so s¸nh, ®èi
s¸nh trong mçi c©u th¬ vµ b×nh diÖn toµn bµi. TÊt c¶ ®· lµm ngêi ®äc xóc ®éng tríc
h×nh ¶nh cña ngêi mÑ : ®¸ng kÝnh träng, ®¸ng tù hµo vµ ®¸ng ca ngîi.
cách 2:
Hình ảnh người mẹ bao giờ cũng gợi nhiều cảm xúc cho nhà thơ. Chúng ta gặp bà má Hậu
Giang trong thơ Tố Hữu, bà mẹ “nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” cũng
của Tố Hữu. Rồi người mẹ đào hầm từ khi “tóc còn xanh đến khi phơ phơ đầu bạc” của
Dương Hương Ly, người mẹ “không có yếm đào, nón mê thay nón quai thao đội đầu” của
Nguyễn Duy. Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp hình ảnh người mẹ dân tộc Tà ôi địu con
tham gia kháng chiến chống Mĩ. Người mẹ làm những việc vất vả: giã gạo, phát rẫy tỉa
bắp, chuyển lán, đạp rừng. Mẹ thương con, tình thương ấy hoà quyện trong tình thương bộ
đội, thương dân làng, thương đất nước. Chính tình thương ấy làm cho mẹ có sức mạnh bền
bỉ, dẻo dai, nuôi những đứa con kháng chiến. Người mẹ Tà ôi vô danh là tiêu biểu cho
người mẹ VN anh hùng trong cuộc đấu tranh giành độc lậ, tự do, thống nhất đất nước.
C. Đề tập làm văn:
§Ò 1: Bài thơ “khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm đã “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu
của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu
ngọt ngào trìu mến”. Hãy làm rõ nhận định trên.
Dàn ý:
A. Mở bài:
- Bài thơ “khúc hát ru..” của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại chiến khu Trị -
Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn vô
cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà ôi giã gạo nuôi
bộ đội đánh Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động
mãnh liệt. Bài thơ “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần

139
chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng
điệu ngọt ngào, trìu mến.
B. Thân bài:
1 Phân tích tình cảm của người mẹ Tà Ôi trong khúc hát ru thứ nhất
a. Người mẹ Tà Ôi là một người mẹ giầu tình thương con và giầu lòng yêu nước
- Người mẹ ấy luôn địu con trên lưng trong lúc làm việc, dù cho công việc có nặng
nhọc, dù mẹ có vất vả thì em Cu Tai vẫn luôn bên mẹ:
“Mẹ giã gạo, mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi”
Sự sóng đôi của từ “nghiêng” trong câu thơ giầu chất tạo hình đã vẽ lên hình ảnh
người mẹ đang giã gạo chày tay trong khi đứa con nhỏ đang ngủ trên lưng, nhịp chày
nghiêng, kéo theo giấc ngủ con nghiêng. Nhịp chày giã gạo thực ra nó không nghiêng
nhưng vì giấc ngủ của em bé không được ngay ngắn như đặt trên giường mà phải dựa vào
tấm lưng người mẹ lúc lên xuống phải chao đảo, dập dờn nên nghiêng lệch hẳn đi. Người
mẹ ấy vẫn để Cu Tai có giấc ngủ trọn vẹn trên lưng mẹ. Tưởng như trong từng động tác
của nhịp chày giã gạo cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều đặn an
bình như trên một cánh võng êm.
- Bằng ngòi bút tả thực, tác giả giúp người đọc nhận ra mồ hôi mẹ rơi “nóng hổi”, vai
mẹ gầy - bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ, nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong
hình ảnh mẹ con không cách xa:
“Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
- Nghệ thuật nhân hoá đã diễn tả sâu sắc và cảm động tình mẹ yêu con. Người mẹ Tà
ôi lấy thân mình làm nôi, vai gầy làm gối và ru con không chỉ bằng lời ru thông thường
như mọi lời ru của cuộc sống thanh bình mà ru con bằng lời ru thầm từ trái tim, từ tình yêu
con tha thiết sâu thẳm trong lòng mẹ. Âm vang lòng mẹ cất thành lời ru đầy xúc cảm..
- Lòng yêu con gắn liền với tình thương bộ đội: “Mẹ thương A -Kay, mẹ thương bộ
đội”
Điệp ngữ “mẹ thương” xuất hiện trong câu thơ ngắt hai vế đều đặn đã cho thấy người
mẹ thương con như thương bộ đội, lòng yêu con gắn liền với tình yêu người kháng chiến.
- Vì thế nên trong những lời mẹ ru con ta thấy được những ước mơ của mẹ:
“Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân”
-> Người mẹ Tà Ôi mong có gạo để nuôi bộ đội, mong con khôn lớn để làm ra lúa gạo
góp phần nuôi bộ đội bởi cuộc sống của những người Tà ôi những năm chống Mĩ còn bao
cơ cực, thiếu thốn. -> Điều ước ấy thật chân thật và cao quý vì đó là điều mong mỏi của
người mẹ lao động nghèo cho kháng chiến.

140
2 Phân tích khúc hát ru thứ 2.
Hình ảnh người mẹ Tà Ôi với công việc lao động sản xuất trên chiến khu.
“Mẹ tỉa bắp trên núi Ka -lưi”
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ”
- Sự tương phản giữa “lưng núi” và “lưng mẹ” gợi ra rất rõ sự nhọc nhằn, vất vả của
người mẹ lao động giữa núi rừng mênh mông.
- Đặc biệt trong đoạn này có hai câu thơ rất gợi cảm:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
“Mặt trời của mẹ” là một ẩn dụ độc đáo, có ý nghĩa sâu sắc. Nếu như mặt trời của bắp
đem lại hạt mảy hạt chắc thì em Cu Tai là mặt trời của mẹ. Cu Tai là nguồn hạnh phúc ấm
áp vừa gần gũi vừa thiêng liêng của đời mẹ. Chính em đã góp phần sưởi ấm lòng mẹ, đã
nuôi giữ lòng tin yêu, hy vọng và ý chí của mẹ trong cuộc sống.
- Sự sống của A -Kay cũng là sự sống của buôn làng. Bởi thế cũng rất tự nhiên khi: “
mẹ thương A-kay, mẹ thương làng đói”. Dân làng đang đói khổ - cuộc sống của người Tà
ôi những năm chống Mĩ còn bao cơ cực, thiếu thốn, mẹ muốn cưu mang, chia sẻ. Sức
mạnh của tình thương yêu cộng đồng sẽ giúp mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn “trỉa
bắp”, gieo mầm sự sống với niềm mong mỏi thật bình dị: “con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều.
Mai sau con lớn phát mười ka-lưi”.
Tình cảm thương yêu ấy đã thăng hoa trong những ước mơ về sự sống buôn làng -
mong được mùa và chứa đựng niềm mong ước về tương lai của con- có sức khoẻ làm
nương giỏi. Đó là một điều ước giản dị, chân thật, chính đáng của người mẹ Tà Ôi.
=> Tình thương gắn liền với những điều ước đó đã nói với ta về một người mẹ giàu
tình thương người và luôn biết sống vì người khác.
3. Phân tích khúc hát ru thứ 3.
- Cảm hứng của khúc hát ru cuối gắn liền với hiện thực khốc liệt và khẩn trương của
cuộc kháng chiến chống Mĩ, với nhịp sống ở chiến khu Trị - Thiên. HÌnh ảnh người mẹ Tà
Ôi trong đoạn thơ này có một sự thay đổi, không chỉ yêu thương con mà còn hành động vì
tình yêu một cách dứt khoát mạnh mẽ:
“Mẹ đi chuyển lán mẹ đi đạp rừng.
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ em tới chiến trường”
- Hai động từ “đi” đã gợi tả tư thế chủ động với những công việc tiếp sức chiến đấu:
“chuyển lán, đạp rừng”. Con người trong tư thế đối mặt với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu
giữ đất, giữ rừng. Người mẹ thật can đảm và dũng cảm cùng với “anh trai cầm súng, chị

141
gái cầm chông” và “em Cu -Tai cũng theo mẹ vào trận cuối”.Những câu thơ hừng hực tinh
thần bất khuất của người dân tộc miền Tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của
cuộc chiến đấu chống Mĩ. Sự trưởng thành từ nhận thức đến hành động của mỗi con người
đã được khẳng định bằng hai câu thơ thật khoẻ khoắn:
“Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn”
- Người mẹ Tà -ÔI muốn góp công sức của mình vào việc bảo vệ Tổ Quốc bởi giặc
Mĩ với dã tâm “đuổi ta phải dời con suối”- không để cho gia đình, bản làng của mẹ được
sống bình yên.
=> Từ tình thương con, thương bộ đội đến tình thương làng, thương đất nước, ta thấy
tình thương của mẹ ngày càng rộng mở, người mẹ thật giầu đức hi sinh.
- Đó là cơ sở cho những ước mơ thật đẹp:
“Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ.
Mai sau con lớn làm người Tự do”
Trong tình cảm của người Tà -ôi cũng như của những người con Miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ thì Bác Hồ - người cha của dân tộc luôn là nguồn động viên, là
biểu tượng của chiến thắng, là hình ảnh của đất nước tự do. Bởi vậy mong được gặp Bác là
cảm xúc thường trực,dù cho lúc này Bác đã mất, bởi lẽ chỉ có thống nhất mẹ mới được ra
với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước mơ giành trọn vẹn non sông, thoả lòng Bác mong.
Lời ru kết lại cùng hình ảnh em Cu -Tai của tương lai là “người Tự do” của một đất nước
hoà bình. Đó cũng là mong ước chung của nhân dân, của những người Việt Nam yêu nước.
=>Người mẹ Tà Ôi quả là một người mẹ yêu nước nồng nà và luôn tha thiết với độc lập tự
do của Tổ Quốc.
C. Kết luận:
- Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra được những
cảm xúc đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chống Mĩ, nói lên trọn vẹn
vẻ đẹp và tâm tư của người dân tộc miền Tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thuỷ
chung với cách mạng. Cảm xúc bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên
sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem
đến cho người đọc những cảm nhận đặc biệt thương mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ
thanh bình của em bé Tà ôi.
- Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà
thơ về nhân dân đất nước cũng như niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến
chống Mĩ.
Đề số 2:

142
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là khúc hát
yêu thương con, khúc ca đầy khát vọng của người mẹ Tà Ôi trong những năm tháng
kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Phân tích bài thơ để làm rõ điều đó.
I. Tìm hiểu đề:
1. Kiểu bài: Nghị luận : Phân tích + chứng minh.
2. Nội dung: 2 luận điểm:
a. Bài thơ là khúc hát yêu thương con
b. Bài thơ là khúc ca đầy khát vọng của người mẹ Tà Ôi.
II. Lập dàn ý
A.Mở bài:
Cách 1:
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ xuất hiện
trong những năm chống Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, những cảm xúc dồn
nén thể hiện tâm tư và khát vọng vào cuộc chiến đấu giải phóng quê hương đất nước.
-Khúc hát ru…. viết năm 1971 là một trong những bài thơ thành công viết về hình ảnh
những người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
-Với âm hưởng ngọt ngào sâu lắng tha thiết của những khúc hát ru, bài thơ là khúc hát yêu
thương con, khúc ca đầy khát vọng của người mẹ Tà Ôi trong những năm tháng kháng
chiến chống Mĩ cứu nước
Cách 2: Giới thiệu người mẹ trong thi ca:
- Người mẹ trong thi ca từ sau cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung tâm, có sự
phát triển về tầm vóc và chiều sâu tình cảm tư tưởng, hài hoà riêng chung. Từ những người
mẹ trong thơ Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp như bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ Việt Bắc
đến người mẹ trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, chúng ta đã từng được cảm
nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách mạng và kháng chiến.
- Đến thời kì chống Mĩ, với tính chất quyết liệt gian khổ, chúng ta từng gặp những vẻ đẹp
như hình tượng người mẹ đào hầm giáu hàng sư đoàn dưới lòng đất ở “Đất quê ta mênh
mông” của Dương Hương Ly. Có thể nói hình tượng người mẹ trong bài thơ của Nguyễn
Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp những đặc trưng người mẹ quê hương - người mẹ chiến
sĩ, tập trung những cảm xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm hồn của đồng
bào dân tộc theo kháng chiến.
- Bài thơ là khúc hát yêu thương con, là khúc ca đầy khát vọng của người mẹ Tà Ôi trong
những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước
B. Thân bài:
Bài thơ có hai lời ru đan xen nhau được chia tách ra thành 3 đoạn với những điệp khúc và
nhịp điệu láy đi láy lại tạo nên âm hưởng dìu dặt, tha thiết, trìu mến. Cả hai lời ru đều
hướng tới một đối tượng trữ tình: em cu Tai. Thứ nhất là lời ru của nhà thơ mở đầu bằng
điệp khúc : “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi – Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”. Thứ
hai là lời ru của người mẹ với điệp khúc: “Ngủ ngoan a – kay ơi, ngủ ngoan a kay hỡi - Mẹ
thương a –kay, mẹ thương …. Con mơ cho mẹ …Mai sau con lớn…” Mỗi đoạn thơ trong

143
bài thơ là một khúc hát ru và cả bài thơ là ba khúc hát ru tất cả đều hay, đều đằm thắm,
ngọt ngào trong tình yêu và khát vọng của người mẹ Tà ôi.
1. Bài thơ là khúc hát yêu thương con:
* Tình yêu thương con của người mẹ Tà Ôi trở thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày
của mẹ ở ba vùng không gian ngày càng rộng mở: Người mẹ giã gạo, người mẹ tỉa bắp,
người mẹ hướng tới chiến trường. Ở cả ba đoạn ấy, người mẹ đều gắn với công việc, bằng
tình thương, với bao ước mơ, khát vọng.
- Trước hết là hình ảnh người mẹ giã gạo góp phần nuôi bộ đội kháng chiến nổi bật lên với
tư thế thật đẹp:
“Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em
đều đặn an bình như trên một cánh võng êm. Câu thơ thật gợi cảm, giàu sức tạo hình và
cũng rất hiện thực.Tác giả hoàn toàn không thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả thực giúp người
đọc nhận ra: Mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy.. bao vất vả như đọng cả trên đôi vai
mẹ….Giấc ngủ của em nghiêng nghiêng theo nhịp chày thấm đẫm những giọt mồ hôi lao
động vất vả của mẹ. Em bé vẫn ngủ ngon nhờ lời ru của mẹ, nhờ cả tình thương dịu dàng
và bao la trong những lời ru ấy. Người mẹ Tà ôi thương con nhất mực, mẹ đã lấy lưng làm
nôi, lấy đôi vai gầy làm gối cho con:
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối”
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời
Còn trái tim mẹ thì cất lên tiếng hát ru con yêu thương và đầy hi vọng.
-Lời ru của mẹ vẫn tiếp tục vang lên trong trái tim khi người mẹ địu con đi tỉa bắp trên núi
ka lưi. Tình yêu thương và niềm hi vọng vô bờ của người mẹ đối với con được thể hiện
bằng những hình ảnh đẹp, mạnh mẽ và độc đáo:
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất
vả nhọc nhằn trong công việc của mẹ.
……………………….(Còn tiếp)
§Ò sè 3:
Phân tích hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ
Quốc qua hai bài thơ “bếp lửa” và “khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Gợi ý:
Người phụ nữ Việt Nam dù Kinh, dù Thượng cũng đều hiền hậu, dị dàng, hết lòng
thương chồng, thương con, thương cháu, chịu đựng, hi sinh vì gia đình, vì thắng lợi của
cuộc kháng chiến của toàn dân.
*Người bà trong bài thơ “bếp lửa” hiện lên qua những kỉ niệm của đứa cháu ở xa,
ngày ngày lụi hụi nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, hết lòng chăm nom cháu, để bố mẹ nó
yên tâm công tác.

144
+ Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về bếp lửa, tác giả lại nhớ, lại nghĩ đến hình ảnh người bà
thương yêu- một hình ảnh xuyên suốt bài thơ lúc nào cũng chập chờn lay động: Một bếp
lửa chờn vờn sương sớm. Một bếp lửa ấp iu nồng đượm. Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa”
+Đặc biệt hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về
những năm tháng đau thương vất vả. Mặc kệ “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, mặc cho
chiến tranh tàn phá khổ đau chất chồng, bà lúc nào cũng “đinh ninh” dặn cháu: “Cứ bảo
nhà vẫn được bình yên”! Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn.
Dẫu có thế nào đi chăng nữa thì không có gì có thể lay chuyển được niềm tin dai dẳng của
bà vào tương lai được:
+ “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Không còn là bếp nữa rồi, bây giờ là ngọn lửa luộn cháy trong lòng bà. Có người nói,
cứ quay ngược trái tim người sẽ thành hình ngọn lửa. Vậy thì, ngọn lửa chính là trái tim, là
tấm lòng, tâm hồn của bà như bao nhiêu người Việt Nam đó. Một niềm tin bất diệt lạ lùng
truyền sang cho cháu một cách tự nhiên.
+ Nhà thơ khẳng định chắc chắn rằng bếp lửa là hoá thân cụ thể của bà và bà cũng chính là
bếp lửa sưởi ấm tâm hồn nhà thơ mà bà luôn nhóm: “nhóm bếp lửa ...... tuổi nhỏ”. Tình
cảm của bà thật bao la, giản dị như khoai sắn, và cũng đậm đà như khoai sắn. Qua thời
gian, qua bom đạn, tình cảm ấy càng thiêng liêng, ân tình thuỷ chung....
- HÌnh ảnh của bà, tình yêu của bà, đức tin của bà qua hồi tưởng và suy ngẫm của đứa cháu
đã lớn suy rộng ra là hình ảnh, tình yêu của quê hương đất nước đối với ta.
*. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ “khúc hát ru......” là hình ảnh người phụ nữ Tà -ÔI
miền Tây Thừa Thiên Huế, chịu đựng gian khổ, nuôi con, góp phần đánh Mĩ: tỉa bắp, giã
gạo, địu con đi giành trận cuối, luôn mơ cho con những giấc mơ đẹp, trở thành chàng trai
khoẻ mạnh, thành người tự do, thành người chiến sĩ Trường Sơn. HÌnh ảnh người mẹ hiện
lên qua những lời ru của tác giả và những lời ru con của chính mẹ.
(HS tự phân tích qua các hình ảnh thơ )

-----------------------------------------------------------

Bài 6: ÁNH TRĂNG - NGUYỄN DUY

A. Kiến thức cần nhớ:


1. Tác giả:
- Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ỏ làng Quảng Xá,
xã Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá.
- Năm 1966, ông nhập ngũ vào bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường.
- Nguyễn Duy được trao giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ 1973 với chùm thơ bốn bài
(Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước mắt và nụ cười, Bầu trời vuông). Từ giải thưởng

145
này, Nguyễn Duy trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời kì kháng
chiến chống Mĩ và tiếp tục bền bỉ sáng tác.
- Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, Nguyễn Duy
là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại các tỉnh phía Nam ở thành phố HCM.
2.Tác phẩm:
- Hoàn cảnh: Bài thơ “Ánh trăng” được viết năm 1978 tại thành phố HCM, in trong tập
“Ánh trăng” - tập thơ của Nguyễn Duy được giải A của Hội nhà văn Việt Nam 1984.
Nguyễn Duy viết bài thơ này vào lúc cuộc kháng chiến đã khép lại ba năm. Ba năm sống
trong hoà bình, không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong
quá khứ. Nguyễn Duy viết “Ánh trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với
chính mình, với mọi người về lẽ sống chung thuỷ, nghĩa tình.
- Thể thơ: 5 tiếng: nhiều khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng, vần chân, dãn cách.
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm thông qua tự sự
- Bố cục: 2 đoạn
+ Đoạn 1: hai khổ đầu: cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ
+ Đoạn 2: Còn lại: cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại.
B. Câu hỏi luyện tập:

Câu1 : Ánh trăng là một nhan đề đa nghĩa. Hãy phân tích


- Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm
trước vẻ đẹp của ánh trăng - người bạn tri âm với người tù cộng sản HCM (Vọng nguyệt-
NKTT). Và với bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp
cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.
+ Trước hết, ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì
là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong
không gian của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “hồi nhỏ sống với
đồng”, Ánh trăng gắn với tuổi ấu thơ của tác giả (d/c). Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc
sống, như đất trời (d/c)
+ Nhưng nếu chỉ có vậy, ánh trăng của Nguyễn Duy sẽ lẫn với vô vàn ánh trăng khác trong
thơ ca hiện đại. Cũng giống như trăng của người bạn tù, vầng trăng của Nguyễn Duy đã
thành “tri kỉ”- người bạn tình nghĩa. Ánh trăng thời chiến như chia sẻ những thử thách của
chiến tranh, như cùng nhà thơ và đồng đội trải qua những kỉ niệm của thời “ở rừng”. Vầng
trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa ấy: dấu ấn của một thời gian khó : “ngỡ không bao giờ
quên”.
+ Nhưng nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu
tượng cho quá khứ nghĩa tình - kí ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước cam go
mà hào hùng. Cuộc sống hoà bình “ánh điện cửa gương, buyn đinh” đã khiến cho nhà thơ
nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, từng
ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ. Nhưng rồi thình lình
đèn điện tắt…. :”đột ngột vầng trăng tròn”. Vầng trăng ấy đã đánh thức kí ức của tác giả,
của thế hệ trẻ Việt Nam trong những ngày đánh Mĩ, thắng Mĩ.

146
- Ánh trăng lặng lẽ toả sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng:
không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hi sinh, những tổn thất
thời đánh Mĩ ác liệt mới có cuộc sống hoà bình ngày hôm nay.
Câu 2: Phân tích 2 khổ thơ cuối của bài thơ “ánh trăng”
- Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn
trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn
mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là
thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc- dùng những từ không
trực tiếp để diễn tả sự xúc động, cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng
trăng.
- Cảm xúc “rưng rưng”: tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương.
Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang
được sống lại một giấc chiêm bao.
- Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm quá
khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên
trăng là tri kỷ, tình nghĩa.
Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
..............Đủ cho ta giật mình”
- Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh
trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu
sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi
vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy
đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân,
đất nước.
- Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả
mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá
khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là
sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và
phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự
nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải
đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm
người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên.
Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng
trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm
người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng
thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái
đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
Câu 3: Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ tượng trưng cho điều gì? Ý nghĩa khái
quát của bài thơ “Ánh trăng”.
Gợi ý:

147
a. H×nh ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng
vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên
nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt
như sông, như đồng, như bể, như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dài, hùng
vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh,
sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, không mặn mà
với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, cho những tình cảm lớn lao
mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá
khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao
giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể
dửng dưng. Nhưng vầng trăng ấy bao dung, không “kể chi người vô tình”. Chính thái độ
lặng im cao thượng ấy càng làm những ai sớm quên quá khứ nghĩa tình phải giật mình.
b.Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự
đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình.
Những sông, đồng, biển, rừng là hình ảnh tượng trưng, nhưng cũng là hình ảnh thật của
những người kháng chiến. Thành phố là môi trường mới, là vùng đất mà trước đây những
người kháng chiến không đặt chân tới (trừ các chiến sĩ hoạt động bí mật). Môi trường mới,
tiện nghi mới, hoàn cảnh mới làm cho con người sống cách biệt với thiên nhiên, cũng có
nghĩa là xa dần quá khứ, lạnh nhạt dần với quá khứ. Ánh trăng cảnh báo hiện tượng suy
thoái về tình cảm, sẽ dẫn đến suy thoái lối sống, suy thoái đạo đức. Nó nhắc nhở con người
cần thuỷ chung với quá khứ, với những điều tốt đẹp của quá khứ (không có mới nới cũ)
Câu 4: Phân tích đoạn cuối bài thơ “Ánh trăng”.

Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng:
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
- Vầng trăng nằm toả sáng, tròn đầy, đó là một hiện tượng bình thường của thiên nhiên:
trăng khuyết rồi lại tròn. Hình ảnh trăng được Nguyễn Duy miêu tả tròn đầy, vành vạnh,
toả sáng khắp nơi. Trong không gian buyn đinh tối om, đèn điện tắt, ánh trăng càng trở nên
có giá trị.
- Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”, đó là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi
vĩnh hằng. Đó còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.
- “Ánh trăng im phăng phắc”=> VẦng trăng cứ lặng lẽ toả sáng, không lời, phép nhân hoá
khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân
chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người, một lời
nhắc nhở thấm thía, độ lượng nhưng đủ làm để làm con người “giật mình” nhận ra sự vô
tình lãng quên quá khứ tốt đẹp, tức là con người đang phản bội lại chính mình. Nó còn có
ý nhắc nhở con người nên trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.
Tham khảo bài viết của hs:

148
Hình ảnh vầng trăng rằm toả sáng được Nguyễn Duy miêu tả là một hiện tượng bình
thường của tự nhiên: vầng trăng vũ trụ khuyết rồi lại tròn. Nhưng trong không gian “phòng
buyn đinh tối om”, ánh trăng hiện lên lại quý giá biết bao, vị tha nhân hậu biết chừng nào!
Trăng cứ tròn vành vạnh hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ chẳng thể phai mờ. Quá khứ ấy lúc
này đang soi rọi vào người lính, vẫn vẹn nguyên, tình nghĩa, vẫn tròn đầy như thuở nào.
Vầng trăng cứ lặng lẽ toả sáng, không lời - sự im lặng ấy có giá trị hơn mọi lời nói nghiêm
khắc, một lời nhắc nhở thấm thía, độ lượng khiến cho tác giả giật mình”: con người có thể
vô tình lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy bất diệt. Bởi có
quá khứ, có những thử thách, hi sinh tổn thất thời đánh Mĩ ác liệt mới có cuộc sống hoà
bình hôm nay. “Giật mình” là cảm giác, 1 phản xạ tâm lí của một con người biết suy nghĩ,
chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Đó là cái giật
mình tự nhắc nhở bản thân, tự ăn năn, day dứt, hối hận, tự thấy mình phải đổi thay: con
người không bao giờ được phản bội, lãng quên quá khứ, thiên nhiên mà sùng bái hiện tại.
Bài thơ được sáng tác năm 1978, 3 năm sau khi đất nước thống nhất, khoảng thời gian
không dài, nhưng những mục đích mới, cuộc sống mới với mưu toan hàng ngày làm con
người ta như bị cuốn vào một vòng xoáy mới. Những bận rộn, lo toan khiến con người dễ
dàng quay lưng, dửng dưng với những gì đã qua. Họ không hề biết rằng chính cái thờ ơ,
dửng dưng ấy đã vô tình “bóp chết” quá khứ thiên nhiên nghĩa tình, biến nó thành kẻ xa lạ-
“người dưng qua đường”. Khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” chính là một lời nói kịp thời, là
hình ảnh biểu tượng ẩn chứa triết lí sâu sắc: không được phép lãng quên quá khứ.

Câu 5:Phân tích, so sánh hình ảnh “TRăng” (vầng trăng, mảnh trăng, ánh trăng....)
trong các bài thơ “Đồng chí”, “Đoàn thuyền đánh cá”, “Ánh trăng”.
Gợi ý:
Trăng trong cả ba bài thơ đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, người bạn tri kỉ của
con người trong cuộc sống lao động và chiến đấu, trong sinh hoạt hàng ngày.
- Trăng trong “Đồng chí” là biểu tượng của tình đồng chí, gắn bó keo sơn trong cuộc sống
chiến đấu gian khổ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, biểu tượng của hiện thực và lãng
mạng, trở thành nhan đề của cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”
- Trăng trong “Đoàn thuyền đánh cá” là cánh buồm chuyên chở và nâng bổng niềm vui hào
hứng trong lao động làm chủ tập thể của những ngư dân đi đánh cá đêm, vẽ nên bức tranh
sơn mài biển vàng biển bạc.
“Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
*. Trăng trong “Ánh trăng” là vầng trăng tròn vành vạnh, im phăng phắc đột ngột ùa vào
phòng buyn đinh tối om trong đêm hoà bình mất điện ở thành phố Hồ Chí Minh đã khiến
nhà thơ giật mình, ân hận, day dứt về suy nghĩ và cách sống hiện tại của mình. Ánh trăng
như người bạn thân nhắc nhở, lay tỉnh lương tâm của tác giả: không được vô ơn với quá
khứ, với đồng đội đã hi sinh với thiên nhiên nhân hậu và bao dung

149
Câu 6: Chép thuộc lòng đoạn kết bài thơ “Ánh trăng”của Nguyễn Duy. Hình ảnh vầng
trăng trong bài thơ có ý nghĩa gì? Từ đó em hiểu gì về chủ đề của bài thơ? (viết một
đoạn diễn dịch khoảng 10 – 12 câu)
Gợi ý:
Vầng trăng trong bài thơ là một hình ảnh đa nghĩa
+ Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thời nhỏ
tuổi, rồi thời chiến tranh ở rừng.
+ Vầng trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế trăng còn là vẻ đẹp bình dị,
vĩnh hằng của đời sống.
+ Ở khổ thơ cuối cùng, trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, là
người bạn, là nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta.
Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn
tròn đầy, bất diệt.
3.Từ đó, em hiểu chủ đề của bài thơ là: Bài thơ là tiếng lòng, là những suy ngẫm thấm thía,
nhắc nhở ta về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, nghĩa tình đối
với thiên nhiên, đất nước bình dị, h iền hậu. Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở, củng cố người
đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.

Câu 7: Có bạn không hiểu vì sao suốt bài thơ, tác giả bốn lần gọi là “vầng trăng” mà
nhan đề và khổ thơ cuối lại viết về “ánh trăng”. Bạn ấy cũng không hiểu vì sao cùng
viết về ánh trăng mà bài thơ “Ánh trăng” lại có một sức hấp dẫn riêng. Em hãy giải
thích cho bạn ấy đó chính là sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Duy góp phần thể hiện
chủ đề.
Gợi ý:
- Vầng trăng là một thi đề rất cổ điển của thi ca. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có
một sức hấp dẫn riêng.
- Nếu trước đây, vầng trăng chỉ tượng trưng cho thiên nhiên đất nước tươi đẹp và vĩnh
hằng: “một nửa vầng trăng thôi. Một nửa cứ đứng yên ở cuối trời” hay tượng trưng cho
tình yêu son sắt, thuỷ chung không bao giờ phai như ánh trăng trong lời thề nguyền của
TKiều và KT, trong lời tỏ tình của Rômêo và juliét thì nay vầng trăng của Nguyễn Duy còn
thêm một lớp nghĩa mới. Vầng trăng đó còn biểu hiện cho quá khứ nghĩa tình của con
người, gợi nhớ cái tuổi thơ êm ấm, được hoà mình vào thiên nhiên tươi đẹp hay những
đêm gian khổ, khó khăn ác liệt của cuộc đời người lính. Vầng trăng còn là một phần đẹp đẽ
trong con người, vẻ đẹp của sự sáng trong và thánh thiện. Nguyễn Duy đã mở rộng và phát
triển ý nghĩa của vầng trăng, nâng cao khái niệm tình yêu thành mối tình quá khứ của
chính mình. Không những thế, tác giả còn hấp dẫn người đọc bởi khả năng tạo tình huống
của mình:
“thình lình đèn điện tắt…. tròn”
Nay đã gặp xưa, trong một hoàn cảnh mà con người khó lòng ngoảnh mặt đi như thế. Tình
huống đã đã phần nào chỉ ra rằng: trong dòng đời hối hả ta đã vô tình quên đi vầng trăng
thì có những khoảnh khắc vầng trăng xuất hiện nhưng vẫn tròn vành vạnh. Bài thơ như một
lời tự sự của chính mình. Chính vì thế nó có sức thuyết phục cao, dễ đi vào lòng người chứ

150
không khô khan như một bài triết lí. Thể thơ 5 chữ trước đây vốn rất phù hợp với những
câu chuyện nhẹ nhàng mang tính ngụ ngôn nay được tác giả sử dụng kết hợp với giọng
điệu tâm tình làm bài thơ khi thì trôi chảy, tự nhiên nhịp nhàng như lời kể chuyện, khi thì
thiết tha xúc động và cuối cùng lại trầm lắng suy tư. Và đặc biệt hơn nữa là thể thơ 5 chữ
cũng được tác giả thay đổi và viết theo kiểu thơ vắt dòng làm ý thơ liền mạch như môộ câu
chuyện bằng văn xuôi nhẹ nhàng tình cảm.
Nhưng đặc sắc nhất là trong bài thơ 4 lần tác giả viết là vầng trăng trong khi nhan đề và
khổ cuối lại là “Ánh trăng”. Đối với tác giả, vầng trăng là một người bạn tri âm, tri kỉ, từ
hồi thơ ấu và khi ở chiến trường. Vì thế xuyên suốt bài thơ là hình ảnh “vầng trăng”. Còn
hình ảnh “ánh trăng” là ánh sáng của vầng trăng, quầng sáng của vầng trăng, là sự tinh tế,
nhẹ nhàng của thiên nhiên. Vầng trăng có lúc tròn, lúc khuyết nhưng ánh trăng luôn luôn
có màu vàng không đổi, soi sáng toả mát xuốnc cõi lòng của con người làm mỗi người
thêm thanh thản nhẹ nhàng. Khó có thể nói “vầng trăng theo suốt ta cả cuộc đời” vì
vâầngtrăng không phải lúc nào cũng xuất hiện nhnưg rất phù hợp nếu nói rằng: “ánh trăng
theo ta suốt cả cuộc đời” vì ánh trăng không chỉ là ánh sáng của vâầngtrăng mà còn là ánh
sáng trong mỗi tâm hồn. Rõ ràng, hình ảnh “ánh trăng” mang ý nghĩa rộng hơn hình ảnh
“vầng trăng”
Tác giả đã rất tinh tế trong việc dùng “ánh trăng” thay vì “vầng trăng” trong nhan đề và
khổ thơ cuối. Đó cũng là một sáng tạo rất độc đáo của ông, góp phần làm tác phẩm ánh
trăng có giá trị nội dung và nghệ thuật cao.
C. Mét sè ®Ò TËp lµm v¨n:
Ph©n tÝch niÒm t©m sù s©u kÝn cña NguyÔn Duy qua bµi th¬ “ ¸nh tr¨ng”
Dàn ý 1
I. Mở bài
- Ánh trăng là đề tài quen thuộc của thi ca, là cảm hứng sáng tác vô tận cho các nhà thơ
- Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ
thiên nhiên một “Ánh trăng”.
- Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn được biểu đạt một hàm nghĩa
mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng cho quá khứ trong mỗi
đời người.
- Đối diện trước vầng trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô
tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như
một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ.
II. Thân bài.
1 Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ
- Ánh trăng gắn với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê:
“Hồi nhỏ sống với rừng
Với sông rồi với biển”
- Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hoà hợp với thiên nhiên
trong lành: “trần trụi với thiên nhiên - hồn nhiên như cây cỏ”
- Ánh trăng gắn bó với những kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của
người lính trong rừng sâu.

151
“Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
->Trăng khi đó là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người
lính trong gian lao của cuộc kháng chiến - vầng trăng tri kỉ. Nhân vật trữ tình gắn bó với
trăng trong những năm dài kháng chiến. Trăng vẫn thuỷ chung, tình nghĩa.
2. Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại.
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
- Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “người dưng” - người khách qua đường xa lạ
+ Sự thay đổi của hoàn cảnh sống- không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện
sống cách biệt
+ Hành động “vội bật tung cửa sổ” và cảm giác đột ngột “nhận ra vầng trăng tròn”, cho
thấy quan hệ giữa người và trăng không còn là tri kỉ, tình nghĩa như xưa vì con người lúc
này thấy trăng như một vật chiếu sáng thay thế cho điện sáng mà thôi.
+ Câu thơ dưng dưng - lạnh lùng - nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn
tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống.
=> Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở : đừng để những giá trị vật
chất điều khiển chúng ta....
3. Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng.
- Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ.
+ Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ.
+ “Trăng tròn”, hình ảnh thơ khá hay, tình cảm trọn vẹn, chung thuỷ như năm xưa.
+Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn
(nhân hoá). Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết
thật lạ và sâu sắc!
- Ánh trăng đã thức dậy những kỉ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình cảm bạn bè
năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên.
+ Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ
gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ.
+ Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang
được sống lại một giấc chiêm bao.
- Ánh Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
..............Đủ cho ta giật mình”
+ Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. Ánh trăng
chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con

152
người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn
đầy, bất diệt.
+“Giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận
ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn
năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân
không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại
mà coi rẻ thiên nhiên.
=> Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở chúng ta, những người
đang sống trong hoà bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức
đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.
III. Kết luận:
Cách 1:
- Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy về sự vô tình trước
thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua.
- Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm người,
cách sống ân nghĩa thuỷ chung ở đời.
- Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình,
để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
========================
Dàn ý 2
I. Mở bài
Cách 1
- Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Nguyễn Duy: là một trong những gương mặt tiêu biểu
trong lớp nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ.
- Giới thiệu đôi nét về bài thơ “Ánh Trăng”
+ In trong tập “Ánh Trăng”- tập thơ được giải A của Hội nhà văn Việt Nam
+ Thể thơ 5 chữ kết hợp kết hợp chặt chẽ giữa tự sự với trữ tình
+ Viết vào thời điểm cuộc kháng chiến đã khép lại 3 năm, Nguyễn Duy viết “Ánh
trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi người về lẽ
sống chung thuỷ, nghĩa tình.
Cách 2: Thơ xưa cũng như nay, thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho
các nhà văn, nhà thơ. Đặc biệt là ánh trăng. Xưa, Lý Bạch khi đối diện với vầng trăng đã
giật mình thảng thốt nhớ cố hương. Nay, Nguyễn Duy, một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ
sau năm 1975 cũng góp vào mảng thơ thiên nhiên một ánh trăng.Và đối diện trước vầng
trăng, người lính đã giật mình về sự vô tình trước thiên nhiên, vô tình với những kỉ niệm
nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong
tâm sự sâu kín ấy của nhà thơ.
Cách 3: Ta gặp đâu đây ngòi bút tài hoa của Nguyễn Duy trong tác phẩm : “Tre Việt
Nam”, “Hơi ấm ổ rơm”..... Nhưng khi hoà bình lập lại, ông đã chuyển sang một trang mới
viết về sự chuyển mình của đất nước, của con người cuộc sống đời thường đang che lấp
mất dần những điều đáng quý mà họ vốn có. Bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ tiêu biểu
cho chủ đề đó. Bài thơ như một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã

153
qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước đồng thời thức dậy trong tâm
hồn người lính lòng trung hiếu trọn vẹn với nhân dân.
Cách 4: Trăng trong thơ vốn là một vẻ đẹp trong trẻo, tròn đầy, đó là cái gì lãng mạn nhất
trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp: khi con người ta còn ở tuổi ấu thơ hoặc khi có
những tâm sự cần phải chia sẻ, giãi bầy. Ánh trăng của Nguyễn Duy là cái nhìn xuyên
suốt cả hai thời điểm vừa nêu. Chỉ có điều, đây không phải là một cái nhìn xuôi, bình lặng
từ trước đến sau, mà là cách nhìn ngược: từ hôm nay mà nhìn lại để thấy có cái hôm qua
trong cái hôm nay. Bài thơ như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian nhắc
nhở về một thời đã qua của người lính gắn bó với thiên nhiên, bình dị, hiền hoà, với nghĩa
tình đằm thắm sáng trong.
II. Thân bài.
1. Đề tài “Ánh trăng”
- Đây là một đề tài quen thuộc của thơ ca xưa đặc biệt là thơ lãng mạn: (Thuyền ai đậu bến
sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay (Hàn Mạc Tử); khuya về bát ngát trăng ngân
đầy thuyền (HCM); Ngẩng đầu nhìn trăng sáng. Cúi đầu nhớ cố hương (Lý Bạch)
- Với Nguyễn Duy, ánh trăng không chỉ là niềm thơ mà còn được biểu đạt một hàm nghĩa
mới, mang dấu ấn của tình cảm thời đại: Ánh trăng là biểu tượng cho quá khứ trong mỗi
đời người.
2. Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài thơ “Ánh trăng”.
a. Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ
Trước hết là hình ảnh vầng trăng tình nghĩa, hiền hậu, bình dị gắn liền với kỉ niệm
một thời đã qua, một thời nhà thơ hằng gắn bó.
- Ánh trăng gắn với những kỉ niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê:
“Hồi nhỏ sống với rừng
Với sông rồi với biển”
- Nhớ đến trăng là nhớ đến không gian bao la. Những “đồng, sông, bể” gọi một vùng
không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến hả hê được chan hoà,
ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt.
- Những năm tháng gian lao nơi chiến trường, trăng thành người bạn tri kỉ, gắn với những
kỉ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong rừng sâu: khi
trăng treo trên đầu súng, trăng soi sáng đường hành quân. Vầng trăng ấy cũng là “quầng
lửa” theo cách gọi của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trăng thành người bạn chia sẻ ngọt bùi,
đồng cảm cộng khổ và những mất mát hi sinh, vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ với
người lính.
“Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”

154
- Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hoà hợp với thiên nhiên
trong lành: “trần trụi với thiên nhiên - hồn nhiên như cây cỏ”. Cuộc sống trong sáng và đẹp
đẽ lạ thường.
- Hôm nay, cái vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa ấy đã là quá khứ kỉ niệm của con người. Đó là
một quá khứ đẹp đẽ, ân tình, gắn với hạnh phúc và gian lao của mỗi con người và của đất
nước.
- Lời thơ kể không tả mà có sức gợi nhớ, âm điệu của lời thơ như trùng xuống trong mạch
cảm xúc bồi hồi.
b. Cảm nghĩ về vầng trăng hiện tại.
* Vầng trăng - người dưng qua đường.
- Sau tuổi thơ và chiến tranh, người lính từ giã núi rừng trở về thành phố - nơi đô thị hiện
đại. Khi đó mọi chuyện bắt đầu đổi khác:
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
- Vầng trăng tri kỉ ngày nào nay đã trở thành “người dưng” - người khách qua đường
xa lạ, còn con người đâu còn son sắt thuỷ chung? => Một sự thay đổi phũ phàng khiến
người ta không khỏi nhói đau. Tình cảm xưa kia nay chia lìa.
- NT đối lập với khổ 1,2, giọng thơ thầm thì như trò chuyện tâm tình, giãi bày tâm sự
với chính mình. Tác giả đã lí giải sự thay đổi trong mối quan hệ tình cảm một cách lô gíc.
- Vì sao lại có sự xa lạ, cách biệt này?
+ Sự thay đổi của hoàn cảnh sống- không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện
sống cách biệt: Từ hồi về thành phố, người lính xưa bắt đầu quen sống với những tiện
nghi hiện đại như “ánh điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
điện gương đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con người. Trăng lướt nhanh
như cuộc sống hiện đại gấp gáp, hối hả không có điều kiện để con người nhớ về quá khứ.
Và anh lính đã quên đi chính ánh trăng đã đồng cam cộng khổ cùng người lính, quên đi
tình cảm chân thành, quá khứ cao đẹp nhưng đầy tình người. Câu thơ dưng dưng - lạnh
lùng - nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong
cuộc sống. Có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống tiện nghi lại kéo theo sự
thay dạ đổi lòng? (liên hệ: bởi thế mà ca dao mới lên tiếng hỏi: “Thuyền về có nhớ bến
chăng?”; Tố Hữu, nhân dân Việt bắc ở lại cũng băn khoăn một tâm trạng ấy khi tiễn đưa
cán bộ về xuôi:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đêm còn nhớ mảnh trăng giữa rừng? )
=> Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở : đừng để những giá trị vật
chất điều khiển chúng ta....
c. Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng.

155
- Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một thời điểm không ngờ. Tình
huống mất điện đột ngột trong đêm khiến con người vốn đã quen với ánh sáng, không thể
chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng buyn đinh hiện đại. Ba động từ “vội, bật, tung” đặt liền
nhau diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương, hối hả của tác giả để đi tìm nguồn
sáng. Và hình ảnh vầng trăng tròn tình cờ mà tự nhiên, đột ngột hiện ra vằng vặc giữa trời,
chiếu vào căn phòng tối om kia, chiếu lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng
kia.
=> Tình huống gặp lại trăng là bước ngoặt tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm
và suy nghĩ của nhân vật trữ tình với vầng trăng. Vầng trăng đến đột ngột đã làm sáng lên
cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn
toàn đổi khác.
- Bất ngờ đối diện với vầng trăng, con người đã có cử chỉ, tâm trạng:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng.
- Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn.
Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu
sắc!
- Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ
gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ. Ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Một tình
cảm chừng như nén lại nhưng cứ trào ra đến thổn thức, xót xa. Cuộc gặp gỡ không tay bắt
mặt mừng này đã lắng xuống ở độ sâu của cảm nghĩ. Trăng thì vẫn phóng khoáng, vô tư,
độ lượng biết bao, như “bể”, như “rừng” mà con người thì phụ tình, phụ nghĩa.
- Trước cái nhìn sám hối của nhà thơ, vầng trăng một lần nữa như gợi lên bao cái “còn” mà
con người tưởng chừng như đã mất. Đó là kỉ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn
nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên - vầng trăng là bạn tri kỉ, là tình
nghĩa. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như
đang được sống lại một giấc chiêm bao.
- Bài thơ khép lại ở hình ảnh:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
..............Đủ cho ta giật mình”
- Trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào. Ở đây có sự đối lập
giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình”
thức tỉnh của con người.
+ Trăng tròn vành vạnh, trăng im phăng phắc không giận hờn trách móc mà chỉ nhìn
thôi, một cái nhìn thật sâu như soi tận đáy tim người lính đủ để giật mình nghĩ về cuộc
sống hoà bình hôm nay. Họ đã quên mất đi chính mình, quên những gì đẹp đẽ, thiêng liêng
nhất của quá khứ để chìm đắm trong một cuộc sống xô bồ, phồn hoa mà ít nhiều sẽ mất đi
những gì tốt đẹp nhất của chính mình.
+ Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. Ánh
trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta:
con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn
tròn đầy, bất diệt.

156
- Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm
dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có
thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách
sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách
sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá
khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Câu thơ thầm nhắc nhở
chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong hoà bình,
hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết
bao người đi trước.
III. Kết luận:
Cách 1:
Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy về sự vô tình trước thiên
nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Thơ của Nguyễn Duy
không hề khai thác cái đẹp của trăng, nhưng ánh trăng trong thơ ông vẫn mãi làm day dứt
người đọc - sự day dứt về những điều được và mất, nên và không, khi sống trong cuộc đời.
Vẻ đẹp ấy mới chính là vẻ đẹp của văn chương cách mạng vì thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp
của thiên nhiên, con người mà còn “dạy” ta cách học làm người. Thì ra những bài học sâu
sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng
xa xôi. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của
mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
Cách 2: Bài thơ khép lại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nguyễn
Duy - một phong cách rất giản dị nhưng mang triết lí sâu xa. Nó gợi ra trong lòng chúng ta
nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách sống, cách làm người “uống nước nhớ nguồn” ân nghĩa
thuỷ chung cùng quá khứ.

--------------------------------------------------

Bài 7: CON CÒ
ChÕ Lan viªn

A. Kiến thức cần nhớ.


1. Tác giả:
- Chế Lan Viên (1920 – 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, sinh ra ở Quảng Trị
nhưng lớn lên ở Bình Định, là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam. Ông có
những đóng góp quan trọng cho thơ ca dân tộc ở thế kỉ XX. Tập thơ đầu tay: “Điêu tàn”
(1937) đã đưa tên tuổi Chế Lan Viên vào trong số những nhà thơ hàng đầu của phong trào
thơ mới.
- Thơ Chế Lan Viên có phong cách nghệ thuật rõ nét và độc đáo. Đó là phong cách
suy tưởng triết lí, đậm chất trí tuệ và tính hiện đại.
- Chế Lan Viên có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ. Hình ảnh
thơ của ông phong phú, đa dạng, kết hợp giữa thực và ảo, thường được sáng tạo bằng sức

157
mạnh của liên tưởng, tưởng tượng, nhiều bất ngờ, kì thú. Nhưng cũng do những đặc điểm
này mà thơ Chế Lan Viên không dễ đi vào công chúng đông đảo.
2. Bài thơ
- “Con cò” được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ “Hoa ngày thường, chim báo bão”
(1967) của Chế Lan Viên.
- Đây là bài thơ thể hiện khá rõ một số nét của phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên. Bài
thơ khai thác và phát triển hình ảnh con cò trong những câu hát ru quen thuộc, để ngợi ca
tình mẹ và ý nghĩa của lời ru với cuộc đời mỗi người.
- Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm (mượn hình ảnh con cò để bộc lộ tình cảm). Kết
hợp với miêu tả
- Bố cục: Bài thơ chia làm 3 đoạn ứng với sự phát triển của hình tượng con cò, hình tượng
trung tâm xuyên suốt bài thơ, trong mối quan hệ với cuộc đời con người từ thơ bé đến
trưởng thành và suốt cả đời người.
+ Đoạn 1: Hình ảnh con cò qua những lời ru tuổi ấu thơ
+ Đoạn 2: Cánh cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo cùng con
người trên mọi chặng đường của cuộc đời.
+ Đoạn 3: Từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lí về ý nghĩa của lời ru và lòng mẹ
đối với cuộc đời mỗi người.

B. Một số câu hỏi luyÖn tËp.

1. Chép chính xác đoạn thơ thứ 3 của bài thơ “Con cò”.Trình bầy cảm nhận của
em về đoạn thơ: “Dù ở gần con.. theo con”
(Viết đoạn văn quy nạp phân tích với câu chủ đề: Bảy câu thơ đã khái quát một quy
luật tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn mà sâu sắc (12 câu có sử dụng 1 câu phức)
Gợi ý.
- Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên trong những câu thơ ngắn giống như
lời dặn dò của mẹ, hình ảnh con cò trong đoạn thơ như được nhấn mạnh ở ý nghĩa biểu
tượng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng ở bên con suốt cuộc đời.
- Điệp ngữ, điệp cấu trúc câu đem lại âm hưởng ngọt ngào như trong lời ru của người mẹ.
Hình tượng con cò từ trong ca dao đi vào thơ Chế Lan Viên bình dị mà sâu lắng.
- Gần – xa là cặp từ trái nghĩa cùng với thành ngữ” lên rừng - xuống bể” gợi lên không
gian rộng lớn với những cách trở khó khăn của cuộc đời. Đằng sau không gian ấy là bóng
dáng của thời gian đằng đẵng. Thời gian, không gian có thể làm phai mờ những tình cảm
nhưng riêng tình mẫu tử thiêng liêng là vượt qua mọi thử thách. Lòng mẹ luôn bên con,
tình mẹ luôn chở che cho con ấm áp yêu thương: Con dù lớn vẫn là con của mẹ. Đi hết đời
lòng mẹ vẫn theo con.” Sự lặp lại liên tục của những từ ngữ “dù gần con, dù xa con” như
láy đi láy lại cảm xúc thương yêu đang trào dâng trong tâm hồn mẹ. Tình yêu thương của
mẹ luôn “vẫn”, “sẽ”, “mãi” bên con cho dù con lớn lên, đi xa, trưởng thành trong đời, cho
dù có thể một ngày nào đó mẹ không còn có mặt trên đời.
- Câu thơ đúc kết một chân lý giản dị, muôn đời: trong con mắt, trái tim, vòng tay của
người mẹ, đứa con vẫn mãi là bé bỏng, cần mẹ chở che. Chữ “đi” được hiểu theo phương

158
thức hoán dụ: cuộc đời con, tất cả vui buồn đau khổ con đã nếm trải, người mẹ vẫn mãi
yêu con, chở che, bên con, là chỗ dựa, bến đò bình yên trong cuộc đời người con.
- Lời dặn giản dị mộc mạc mà ý thơ, tình thơ trĩu nặng, mẹ vẫn luôn bên con dù trải qua
nhiều va đập, sóng gió, tình mẹ mãi chở che, bao bọc con, là mái nhà ấm áp.
- Hình tượng con cò giản dị trong ca dao đã khiến những điều chiêm nghiệm, đúc kết của
nhà thơ trở nên sâu sắc, ý nghĩa mà gần gũi.
- Tấm lòng người mẹ muôn đời vẫn vậy, vượt ra ngoài mọi khoảng cách không gian, thời
gian. Hai câu thơ cuối dài ra sâu lắng đã khái quát lại một triết lí, quy luật tình cảm bền
vững, sâu sắc, vừa thể hiện tình cảm thiết tha đầy yêu thương của người mẹ.
=> Bảy câu thơ đã khái quát một quy luật tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn mà
sâu sắc.
Câu 2: Em có biết câu thơ, văn nào nói về mẹ nữa không? Hãy chép lại 2 câu mà em
thích (ghi rõ trích ở đâu)
Con là mầm đất tươi thơm
Nở trong lòng mẹ - mẹ ươm mẹ trồng
Đôi tay mẹ bế, mẹ bồng
Như con sông chở nặng dòng phù sa
(Hát ru - Vũ Quần Phương)
Câu 3: Phân tích hai câu thơ:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”
Gợi ý:
- Giới thiệu bài thơ, hình tượng con cò
- Hai câu thơ ở cuối đoạn 2 là lời của mẹ nói với con - cò con
- Trong suy nghĩ và quan niệm của người mẹ, dưới cái nhìn của mẹ: con dù lớn không, dù
trưởng thành đến đâu, nhiều tuổ
i đến đâu, làm gì, thành đạt đến đâu chăng nữa.. con vẫn là con của mẹ, con vẫn rất đáng
yêu, đáng thương, vẫn cần chở che, vẫn là niềm tự hào, niềm tin và hi vọng của mẹ.
- Dù mẹ có phải xa con, lâu, rất lâu, thậm chí suốt đời, không lúc nào lòng mẹ không ở bên
con
=> Từ việc hiểu biết tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát một quy luật tình cảm
mang tính vĩnh hằng: tình mẹ, tình mẫu tử bền vững, rộng lớn, sâu sắc. Qua đó ngợi ca tình
cảm vô biên, thiêng liêng của người mẹ.

Câu 4: Đọc hai câu thơ sau: “Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn. Con có mẹ con chơi rồi
lại ngủ”.
a. Hai câu thơ trên là lời của ai nói với ai, nhằm mục đích gì?
(lời của mẹ nói với con để bày tỏ tình thương con)
Quan hệ ý nghĩa chủ yếu trong hai câu thơ là quan hệ nào?
( Quan hệ đối lập)
b. Ý nghĩa nào toát lên từ hai câu thơ trên
(Hạnh phúc của con khi có mẹ)

159
Câu 5: Hình ảnh trong câu thơ: “Con ngủ yên thì cò cũng ngủ. Cánh của cò hai đứa
đắp chung đôi” đẹp và hay như thế nào?
-> Hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn, bay bổng. Lời ru của mẹ đưa con vào giấc ngủ, trong
mơ con vẫn thấy hình ảnh con cò. Con có giấc mơ đẹp. Lời ru của mẹ đã nâng đỡ tâm hồn
con. Cánh cò trở thành một hình ảnh ẩn dụ giầu ý nghĩa.

C. Phân tích bài thơ : “Con Cò”.


A. Mở bài:
- Chế Lan Viên là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam.
- Bài thơ “Con Cò” thể hiện khá rõ một số nét của phong cách NT Chế Lan Viên.
- Thông qua một cánh cò tượng trưng, Chế Lan viên đã đi đến những khái quát sâu sắc
về tình yêu thương của người mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc đời mỗi con người.
B. Thân bài:
1. Luận điểm 1: Nhận xét chung về thể thơ, giọng điệu, hình ảnh con cò: nguồn gốc và
sáng tạo
- Thể tự do, các câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, nhịp điệu luôn biến đổi. Các điệp
từ, điệp ngữ có sức gợi gần gũi với những điệu hát ru quen thuộc.
- HÌnh tượng trung tâm xuyên suốt cả bài thơ là con cò được bổ sung, biến đổi qua
những hình ảnh cụ thể và sinh động, giầu chất suy tư của tác giả.
- Trong ca dao truyền thống, hình ảnh con cò xuất hiện phổ biến và mang ý nghĩa ẩn
dụ cho hình ảnh người nông dân, người phụ nữ trong cuộc sống còn nhiều vất vả, nhọc
nhằn nhưng giầu đức tính tốt đẹp và niềm vui sống.
- Trong bài thơ này, Chế Lan Viên chỉ khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng của
hình ảnh con cò nhằm nói lên tấm lòng người mẹ và vai trò của những lời hát ru đối với
cuộc sống mỗi con người.
2. Luận điểm 2: HÌnh ảnh con cò “trong lời mẹ hát” đi vào giấc ngủ của con.
Con cò bay la
…..
Cò sợ xáo măng…”
- Hình ảnh con cò cứ thấp thoáng gợi ra từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru rất phong
phú về nội dung và biểu tượng.
+ Nhà thơ chỉ dùng lại vài từ trong mỗi câu ca dao xưa vừa gợi lại lời ru, vừa gợi lại
ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò.
+ Con còn “bế trên tay”, nào biết được ý nghĩa của những câu ca dao trong lời ru của
mẹ:
Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng Phủ bay ra cánh đồng
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay về Đồng Đăng
Con cò mà đi ăn đêm

160
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…
Nhưng qua lời ru, hình ảnh con cò đã đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách vô thức, và theo
đó là cả điệu hồn dân tộc. Đứa trẻ được võ về trong những âm điệu ngọt ngào, dịu dàng
của lời ru để đón nhận bằng trực giác tình yêu và sự chở che của mẹ.
- Thấm đẫm trong lời hát là những xúc cảm yêu thương trào dâng trong trái tim của
mẹ:
“Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ”
Và:
“ngủ yên, ngủ yên, cò ơi chớ sợ
Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng”
- Tình mẹ nhân từ, rộng mở với những gì nhỏ bé đáng thương, đáng được che chở.
- Lời thơ như nhịp vỗ về thể hiện sự yêu thương dào dạt vô bờ bến.
- Những cảm xúc yêu thương ấy mang đến cho con giấc ngủ yên bình, hạnh phúc trong sự
ôm ấp, chở che của tiếng ru lòng mẹ:
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
……………………..
Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.
- Vì thế, tái tim bé nhỏ của con đã được hiểu thế nào là tình mẹ. Đoạn thơ khép lại bằng
những hình ảnh thanh bình của cuộc sống, bằng những giấc nồng say của trẻ thơ.
3. Luận điểm 3: Hình ảnh con cò trong đoạn 2 (cánh cò đã trở thành người bạn tuổi ấu
thơ, thành bạn đồng hành của con người trong suốt cuộc đời.)
- Bằng sự liên , tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã sáng tạo ra những hình ảnh cánh
cò đặc sắc, hàm chứa nhiều ý nghĩa.
+ Từ cánh cò của tuổi ấu thơ thật ngộ nghĩnh mà đầm ấm: Còn ngủ yên thì cò cũng
ngủ. Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”.
+ Đến cánh cò của tuổi tới trường quấn quýt chân con: Mai khôn lớn con theo cò đi
học. Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”.
+ Cho đến khi trưởng thành, con thành thi sĩ: “Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ.
Trước hiên nhà. Và trong hơi mát câu văn”.
- Hình ảnh thơ lung linh một vẻ đẹp bất ngờ, diễn tả một suy tưởng sâu xa: Sự dìu dắt,
nâng đỡ yêu thương bền bỉ suốt cả đời mẹ đối với con.
4. Luận điểm 4: HÌnh ảnh con cò được nhấn mạnh ở đoạn 3 với ý nghĩa biểu tượng cho
tấm lòng người mẹ lúc nào cũng bên con đến suốt cuộc đời:
Dù ở gần con…. vẫn yêu con”
- Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên trong những câu thơ ngắn giống như
lời dặn dò của mẹ, hình ảnh con cò trong đoạn thơ như được nhấn mạnh ở ý nghĩa biểu
tượng cho tấm lòng người mẹ lúc nào cũng ở bên con suốt cuộc đời.
- Lời dặn giản dị mộc mạc mà hàm nghĩa sâu xa. Dưới hình thức thơ tự do, nhà thơ như
dựng lên cả một bầu trời yêu thương bao la mà đặc điểm của nó là không gian và thời gian
không giới hạn: Lên rừng - xuống biển - hai chiều không gian gợi ấn tượng về những khó
khăn của cuộc đời. Không gian nghệ thuật ấy của bài thơ cũng góp phần biểu hiện sự phát

161
triển của tứ thơ, của tình cảm và hành động của nhân vật trữ tình. Từ không gian có giới
hạn ngày càng rộng dần thêm đến một không gian tâm tưởng vừa bao la vừa sâu thẳm như
chính lời ru hát lên từ trái tim của mẹ:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ.
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”
Tấm lòng người mẹ muôn đời vẫn vậy, vượt ra ngoài mọi khoảng cách không gian,
thời gian. Đó là quy luật bất biến và vĩnh hằng của mọi tấm lòng người mẹ trên đời mà
nhà thơ đã khái quát, đúc kết trong câu thơ đậm chất suy tưởng và triết lí. Sự lặp lại liên
tục của những từ ngữ “dù gần con, dù xa con” như láy đi láy lại cảm xúc thương yêu đang
trào dâng trong tâm hồn mẹ. Tình yêu thương của mẹ luôn “vẫn”, “sẽ”, “mãi” bên con
cho dù con lớn lên, đi xa, trưởng thành trong đời, cho dù có thể một ngày nào đó mẹ
không còn có mặt trên đời.
Nguyễn Duy đã từng khái quát về tình yêu ấy trong những câu thơ đầy triết lí:
“Ta đi trọn kiếp con người.
Cũng không đi hết một lời mẹ ru”.
Tiếng ru ấy theo ta đi suốt cuộc đời như một hành trang tinh thần của tình mẫu tử.
- Kết thúc bài thơ, lời thơ trở về với hình thức của tiếng ru: “à ơi”. Nhịp điệu của câu
thơ dồn về với những vần “ôi”, “ơi”, “ôi” nối tiếp nhau trong khổ thơ:
À ơi!
………….Đến hát
Quanh nôi”.
làm cho câu thơ dù ngắn mà vẫn gợi cảm giác như là lời ru, ngân nga mãi trong lòng
người đọc. Con cò đi vào lời ru của mẹ đã thành “cuộc đời vỗ cánh qua nôi” đứa con. Kì
diệu biết bao cái tiếng ru ngọt ngào mà sâu thẳm của lòng mẹ thương con. Cuộc đời mỗi
con người sẽ chẳng thể nào thiếu đi phần tình cảm thiêng liêng nhất bởi đó còn là tình quê
hương là nguồn cội là bến bờ che chở nâng đỡ mỗi con người.
C. Kết luận:
- “Con cò” là một bài thơ hay của Chế Lan Viên.
- Bằng sự suy tưởng, bằng sự vận dụng sáng tạo ca dao, giọng điệu tâm tình thủ thỉ,
nhịp điệu êm ái, dịu dàng mang âm hưởng của những lời hát ru, bài thơ đã ngợi ca tình yêu
sâu sắc bao la của mỗi người mẹ trong cuộc đời này.
- Bài thơ gợi lên những rung cảm và suy nghĩ sâu sắc về công ơn sinh thành của
người mẹ…..

......................................................................................................
Bµi 8 MÙA XUÂN NHO NHỎ
Thanh H¶i

A. Kiến thức cần nhớ.

1. Tác giả: Thanh Hải (1930 – 1980) tên thật là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong
Điền, Thừa Thiên Huế.

162
- Tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Là cây bút có công
xây dựng nền văn học giải phóng miền Nam từ những ngày đầu.Thanh Hải từng là một
người lính trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với tư cách là một nhà
văn.
- Thơ TH chân chất và bình dị, đôn hậu và chân thành.
- Các tác phẩm chính: Các tập thơ “những đồng chí trung kiên” (1962), Huế mùa xuân (hai
tập 1970 và 1975), Dấu võng Trường Sơn (1977)
- Năm 1965, được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu.
- Sau ngày giải phóng, Thanh Hải vẫn gắn bó với quê hương xứ Huế, sống và sáng tác ở đó
cho đến lúc qua đời.
2. Tác phẩm:
a. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: (tháng 11- 1980, chỉ ít ngày sau, nhà thơ
qua đời. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta mới thống nhất lại đang phải đối mặt
với nhiều khó khăn và thử thách gay gắt.
(Năm 1980, TH đau nặng phải vào BV Huế điều trị khoa nội. Tuy căn bệnh được các bác
sĩ chẩn đoán là không thể qua được nhưng TH luôn là người lạc quan yêu đời. Nằm ở tầng
4 của bệnh viện, những lúc khoẻ, TH thường ra ngắm cảnh và làm thơ…. Nhưng rồi vào
một ngày cuối đông, trời Huế bỗng trở lạnh và mưa lâm thâm…. Những người bạn của
THải nhận được tin như sét đánh: TH đã qua đời. Thương tiếc người bạn tài hoa ra đi khi
tuổi đời vừa bước sang 50, mọi người đến viếng và đưa nhà thơ về nơi an nghỉ cuối cùng.
Đang lúc làm lễ, thì vợ TH tìm gặp nhạc sĩ Trần Hoàn và trao cho ông một bài thơ cuối
cùng mà THải đã sáng tác khi nằm viện vào tháng 11 năm 1980. Đó chính là bài thơ: Một
mùa xuân nho nhỏ.- bài thơ cuối cùng của THải. Nỗi thương bạn và niềm cảm xúc trào
dâng mãnh liệt, nhạc sĩ Trần Hoàn đã phổ nhạc ngay bài thơ chỉ trong vòng không đầy ba
mươi phút và bài hát đó đã được vang lên ngay trong buổi lễ tiễn đưa ấy.)
b. Thể thơ 5 chữ, không ngắt nhịp trong từng câu, chia nhiều khổ, mỗi khổ từ 4 đến 6
dòng. Nhịp điệu và giọng điệu của bài có biến đổi theo mạch cảm xúc.
c. Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp, hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức
sống của mùa xuân thiên nhiên, đất trời. Từ đó, mở rộng ra thành hình ảnh mùa xuân của
đất nước hôm nay và cả đất nước bốn ngàn năm. Từ đó mạch thơ chuyển sang biểu hiện
suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ được góp “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa
xuân lớn của dân tộc. Mạch thơ phát triển tự nhiên để rồi khép lại cũng tự nhiên, đằm thắm
trong một điệu dân ca xứ Huế.
d. Bố cục:
+ Khổ 1 (gồm 6 dòng thơ): cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời
+Khổ 2,3: Cảm xúc về mùa xuân đất nước.
+ Khổ 4,5: suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
+ Khổ cuối: Lời ca ngợi quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
e. Nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung: Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất
nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất
nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

163
- Nghệ thuật:
+ Bài thơ theo thể 5 chữ, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca. Sử dụng cách
gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. nhiều hình ảnh đẹp,
giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
+ Kết hợp những hình ảnh tự nhiên giản dị đi từ thiên nhiên với những hình ảnh giàu ý
nghĩa biểu trưng, khái quát. Điều đáng chú ý là những hình ảnh biểu trưng này thường
được phát triển từ những hình ảnh thực, tạo nên sự lặp lại mà nâng cao, đổi mới của hệ
thống hình ảnh (cành hoa, con chim, mùa xuân).
+ Cấu tứ của bài chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân. Từ mùa xuân của
đất trời sang mùa xuân của đất nước và mùa xuân của mỗi người góp vào mùa xuân lớn
của cuộc đời chung.
+ Giọng điệu bài thơ thể hiện đúng tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Giọng điệu có sự biến
đổi phù hợp với nội dung từng đoạn: vui, say sưa ở đoạn đầu; trầm lắng, hơi trang nghiêm
mà thiết tha ở đoạn bộc bạch những tâm niệm; sôi nổi và tha thiết ở đoạn kết.

B. phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

1. Mùa xuân của thiên nhiên đất nước (khổ 1)


a. Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh xuân rất đẹp, đầy sức
sống và tràn ngập niềm vui rạo rực.
- Bức tranh ấy được chấm phá bằng rất ít chi tiết: một dòng sông xanh, một bông hoa tím
biếc, một tiếng chim chiền chiện. Những nét chấm phá ấy đã vẽ ra được một không gian
cao rộng, màu sắc tươi thắm của mùa xuân và cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim
chiền chiện.
+ Ngay hai câu mở đầu đã gặp một cách viết khác lạ. Không viết như bình thường : một
bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại: “Mọc giữa dòng sông xanh. Một
bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” đặt ở đầu khổ thơ của bài thơ là một dụng ý NT của
tác giả => khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân.Tưởng như
bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh của
dòng sông xuân.
+ Tại sao màu nước sông lại xanh mà không là “dòng nước trong mát” (bài “Vàm cỏ đông”
của Hoài Vũ), hay không là “dòng sông đỏ nặng phù sa” trong thơ Nguyễn Đình Thi – bài
Đất nước)? Có phải đấu là màu nước của Hương Giang, hay chính là tín hiệu báo mùa
xuân đang về? Mùa xuân trang trải êm trôi một dòng xanh dịu mát. Màu xanh lam của
dòng sông hương hoà cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím giản dị, thuỷ chung, mộng
mơ và quyến rũ. Đó là mầu sắc đặc trưng của xứ Huế.
+ Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp nữa của mùa xuân: “Ơi con chim chiền
chiện. Hót chi mà vang trời”=>. nhạc điệu của câu thơ như giai điệu của mùa xuân tươi
vui và rạo rực. Các từ than gọi “ơi, chi, mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ
Huế (thân thương, gần gũi) . Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên không trau chuốt từ ngữ
nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ “hót chi” thể hiện tâm trạng đùa vui, ngỡ
ngàng, thích thú của tác giả trước giai điệu của mùa xuân.

164
- Quả thật, thiên nhiên nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi
vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với
tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe
bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
“Từng giọt long lanh rơi.
Tôi đưa tay tôi hứng”
Về hai câu thơ trên, có hai cách hiểu: từng giọt ở đây là giọt mưa xuân long lanh
trong ánh sáng của trời xuân; nhưng cũng còn có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu
trước: Tiếng chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như kết thành những giọt
sương óng ánh sắc màu, rơi rơi, rơi mãi tưởng chừng không dứt và nhà thơ đưa tay hứng
từng giọt âm thanh ấy. Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm
thanh ( thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng
mắt ( thị giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt,
bằng sự tiếp xúc ( xúc giác).Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức
tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo
rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng
thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.
2. Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, cảm hứng thơ chuyển sang cảm nhận về mùa
xuân của đất nước một cách tự nhiên.
-Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả và gian
lao đang đi lên phía trước. Hình ảnh “người cầm súng, người ra đồng” biểu trưng cho hai
nhiệm vụ chiến đấu và lao động dựng xây lại quê hương sau những đau thương mất mát.
Ai cũng có nhiệm vụ của mình: người lính tiếp tục bảo vệ quê hương, vòng là nguỵ trang
của người chiến sĩ đang nảy những chồi non, lộc biếc như mang theo cả mùa xuân cùng
các anh ra trận. Người nông dân ra đồng làm nên hạt lúa, trên nương mạ, ruộng lúa của bác
nông dân, mầm non, sức sống thanh xuân đang đua nhau trỗi dậy, giục giã, thôi thúc lòng
người. Sức gợi cảm của câu thơ được thể hiện qua hình ảnh “lộc” của mùa xuân gắn với
người cầm súng, người ra đồng. “Lộc” là chồi non, nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân,
là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Câu thơ vừa tả thực, vừa tượng trưng cho sức sống
của mùa xuân đất nước, sức sống của mỗi con người.
- Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở đầu câu.
- Sức sống của mùa xuân còn được cảm nhận trong nhịp điệu hối hả, trong âm thanh xôn
xao. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh đẹp: đất nước như vì sao. Cứ
đi lên phía trước”. Hình ảnh so sánh gợi liên tưởng đến vẻ đẹp, ánh sáng và hi vọng. “Đất
nước bốn nghìn năm”, hoá thành những vì sao đi lên, bay lên, ngời sáng lung linh => Cảm
xúc của nhà thơ đối với đất nước: say mê, tự hào, tin tưởng con người và cuộc sống của
quê hương, đất nước khi vào xuân.
3. Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước, mạch thơ chuyển một cách tự nhiên
sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân đất nước.
( Đoạn này, tác giả dùng phương thức biểu cảm trực tiếp. Nhân vật “ta” trực tiếp bộc lộ
tâm niệm của mình. )

165
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước,
cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
- Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên, giản
dị và đẹp.
Đẹp và tự nhiên vì nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên để nói lên ước
nguyện của mình. Một con chim hót để cất tiếng thơ ngợi ca đất nước, làm một nhành hoa
để đem lại hương thơm cho cuộc đời. Bao trùm tất cả, ông ước nguyện hoá thành « một
mùa xuân nho nhỏ », lặng lẽ, âm thầm dâng hiến toàn bộ tâm hồn, trí tuệ, sức lực và cả sự
sống của mình góp cùng mọi người : « Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc bạc ».
- Những hình ảnh bông hoa, tiếng chim hót được tác giả phác hoạ ở phần đầu bài thơ giờ
đây lại trở lại trong khổ thơ này trong giọng thơ êm ái, ngọt ngào. Cách cấu tứ lặp lại như
vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ và mang một ý nghĩa mới: Niềm mong muốn được sống có
ích,cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên như con chim mang đến tiếng hót, bông hoa toả
hương sắc cho đời. Trong bài “một khúc ca xuân” Tố Hữu cũng có những suy ngẫm tương
tự:
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình?
=> Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự nhiên trong mạch cảm
xúc của bài thơ. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Và cái “ta” vốn chỉ để nói về mình
bỗng như trở thành cái “ta” chung của nhiều người, khát vọng của nhiều người. Điệp ngữ
“dù là” như một lời tự khẳng định, tự nhủ với lương tâm -> sự kiên trì, thử thách với thời
gian, tuổi già, bệnh tật để mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của
quê hương, đất nước. Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn.
= > Ước nguyện của nhà thơ cho ta hiểu mỗi người phải biết sống, cống hiến cho cuộc
đời.Thế nhưng dâng hiến, hoà nhập mà vẫn giữ được nét riêng mỗi người...
4. Kết thúc: Một điệu dân ca xứ Húê quen thuộc, ngọt ngào, êm dịu., sử dụng ngôn ngữ
giàu nhịp điệu, các vần bằng tha thiết, êm ái.
Kết cấu đầu cuối tương ứng tạo ra sự đối ứng chặt chẽ, hài hoà cân đối cho bài thơ đồng
thời thể hiện rõ hơn mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
- Kết thúc bài thơ là câu hát “Câu Nam ai, nam bình…” Nam Ai nam Bình là những điệu
ca Huế nổi tiếng
- Đó là ý nguyện của người tha thiết với vẻ đẹp của tâm hồn quê hương đất nước mình.
C.Mét sè c©u hái luyện tập :
C©u 1 : Mở đầu bài thơ « Mùa xuân nho nhỏ », Thanh Hải viết :
Mọc giữa dòng sông xanh.
Một bông hoa tím biếc.
Em hãy viết đoạn văn khoảng 8 câu phân tích nét đặc sắc về cách đặt câu của câu thơ
trên.
Gợi ý :
- Cách đặt câu đặc biệt theo cấu trúc đảo ngữ : từ «mọc » được đặt ở đầu câu.

166
- Tác dụng : gợi ấn tượng về sự xuất hiện của bông hoa tím -> diễn tả sức sống mãnh liệt
của mùa xuân. Diễn tả cảm xúc ngạc nhiên, thú vị của nhà thơ trước một hình ảnh của mùa
xuân.
C©u 2. Em hiểu ý nghĩa nhan đề bài thơ « Mùa xuân nho nhỏ » như thế nào ? Từ đó
nêu chủ đề của bài thơ.
Sự sáng tạo đặc sắc nhất của nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ là hình ảnh
« mùa xuân nho nhỏ ». Người ta dùng nhiều định ngữ gắn với mùa xuân như : mùa xuân
chín, mùa xuân xanh, xuân ý, xuân lòng... nhưng « mùa xuân nho nhỏ » là một phát hiện
mới mẻ và sáng tạo độc đáo trong ý tưởng thơ và ngôn ngữ của nhà thơ. Từ láy « nho
nhỏ » vừa chỉ ra cái mùa xuân riêng trong lòng nhà thơ trước mùa xuân lớn của cuộc đời
vừa gợi lên cái vẻ xinh xinh đáng yêu của nó. Hình ảnh ấy cùng với những hình ảnh cành
hoa, con chim, nốt nhạc trầm xao xuyến.... tất cả đều mang một vẻ đẹp bình dị, khiêm
nhường, thể hiện điều tâm niệm chân thành, tha thiết của nhà thơ. Nhà thơ tự nguyện làm
một mùa xuân nghĩa là ông muốn sống đẹp, có ích, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của
mình và mang đến cho cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh tuý của mình, dù nhỏ
bé.
C©u 3. Trong phần đầu, tác giả dùng đại từ “Tôi”, sang phần sau, tác giả lại dùng đại
từ “Ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ
tình?
- Sự chuyển đổi đại từ nhân xưng đó không phải là sự ngẫu nhiên vô tình mà là dụng ý
nghệ thuật tạo nên hiệu quả sâu sắc
- Đó là sự chuyển từ cái “tôi” cá nhân nhỏ bé hoà vào cái “ta” chung của cộng đồng, nhân
dân, đất nước. Trong cái “Ta” chung vẫn có cái “tôi” riêng, hạnh phúc là sự hoà hợp và
cống hiến. Thể hiện niềm tự hào, niêm vui chung của dân tộc trong thời đại mới
- Sự chuyển đổi diễn ra rất tự nhiên, hợp lí theo mạch cảm xúc
C©u 4. Trong hai câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”, có người
hiểu “giọt long lanh” là giọt mưa xuân, có người lại cho là giọt âm thanh tiếng chim ở
câu thơ trước đó. Nêu cách hiểu của em và phân tích hai câu thơ đó?
- Nếu hiểu là “giọt mưa xuân” cũng có chỗ hợp lí: nét quen thuộc của khung cảnh mùa
xuân và dễ gợi cảm xúc xôn xao trong lòng người. Nhưng có chỗ chưa thật hợp lí: mưa
xuân thường nhẹ và ấm …(Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay - Nguyễn Bính), chứ không thể
tạo thành giọt.
- Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn:
+ Liền mạch với câu thơ trước
+ NT ẩn dụ chuyển đổi cảm giác : Nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh tiếng chim
(chuyển đổi cảm giác). Tiếng chim từ chỗ là âm thanh, chuyển thành từng giọt, từng giọt
ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác. -> Diễn tả niềm say
sưa, ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất lúc vào xuân.
C©u 5: Giải nghĩa từ “lộc” trong đoạn thơ:
“Mùa xuân người cầm súng.
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng

167
Lộc trải dài nương mạ”.
- Lộc: chồi non, lá non. Nhưng “lộc”còn là hình ảnh ẩn dụ cho mùa xuân, là sức sống, là
thành quả hạnh phúc.

Viết đoạn văn phân tích đoạn thơ trên.


Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất
nước. Đất nước và con người cũng mang vẻ đẹp của sức sống vô tận, rộn ràng bước vào
một mùa xuân mới. Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương mạ. Hình ảnh
“người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động
dựng xây đất nước. Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại ở
đầu câu. Câu thơ vừa tả thực, vừa tượng trưng, hàm chứa nhiều ý nghĩa trong hình ảnh
người lính và người nông dân với từ “lộc” nhiều nghĩa. “Lộc” là chồi non, lá non, nhưng
lộc còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Từ “Lộc” khiến sắc
xanh như tràn ngập khắp đất trời, sắc xanh hay sắc xuân bao phủ lên đất nước. Người cầm
súng giắt lộc để nguỵ trang ra trận như mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng
như gieo mùa xuân trên từng nương mạ. Những con người lao động, chiến đấu ấy đã mang
cả mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước.
C©u 6: Trong đoạn thơ: “Mùa xuân người cầm súng….
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
a.Từ “lao xao” có thể thay thế cho từ “xôn xao”trong câu thơ trên được không? Vì sao?
b. Viết đoạn văn quy nạp từ 8 đến 10 câu văn phân tích đoạn thơ trên với câu chủ đề sau:
Sáu câu thơ là những xúc cảm về mùa xuân đất nước trong chiến đấu, lao động.
Gợi ý:
a. Từ “lao xao” không thể thay thế cho từ “xôn xao”trong câu thơ trên. Từ “la xao” chỉ đơn
giản là gợi âm thanh, âm thanh của thiên nhiên hoặc của con người. Còn “xôn xao” khi đặt
trong khổ thơ này, không chỉ là âm thanh rộn ràng của cuộc sống nhộn nhịp lao động khẩn
trương của đất nước sau thống nhất, mà còn là những xúc cảm mãnh liệt, phấn chấn trước
mùa xuân thiên nhiên, trời đất tươi đẹp của con người.
b.Viết đoạn văn: (tham khảo bài tập làm văn).

C©u 7.Viết một đoạn văn ngắn khoảng 8 câu, phân tích để làm rõ giá trị của các điệp
ngữ trong đoạn thơ sau:
Mùa xuân người cầm súng.
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Gợi ý:
-Chỉ rõ các điệp ngữ trong đoạn là: mùa xuân, lộc, tất cả.
-Vị trí điệp ngữ: đầu câu.

168
-Cách điệp ngữ: cách nhau.
-Tác dụng: tạo nhịp điệu cho câu thơ, các điệp ngữ tạo nên điểm nhấn trong câu thơ như
nốt nhấn trong bản nhạc, góp phần gợi không khí sôi nổi, tấp nập của bức tranh đất nước
lao động, chiến đấu.
8. Viết đoạn văn quy nạp từ 9 -> 15 câu với chủ đề: Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” đã vẽ
nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tràn đầy sức sống.
Gợi ý:
- Viết đoạn văn quy nạp tức là câu chủ đề phải đưa xuống cuối đoạn văn (chú ý có từ liên
kết : Quả thật, có thể nói….)
- Để làm rõ câu chủ đề trên, cần phân tích khổ thơ đầu tiên của bài thơ: Mùa xuân của thiên
nhiên, đất trời
(tham khảo phần phân tích)
Gîi ý :
Bøc tranh thiªn nhiªn më ®Çu b»ng kh«ng gian tho¸ng ®·ng, yªn ¶, th¬ méng. §ã lµ
kh«ng gian cña mét dßng s«ng xanh. Dßng s«ng Êy gîi nh¾c ®Õn s«ng H¬ng th¬ méng
cña Xø HuÕ vµ kh«ng gian cña mïa xu©n kh«ng ngõng ®îc më réng víi tiÕng hãt vang
trêi cña con chim chiÒn chiÖn. ChiÒn chiÖn vèn lµ loµi chim b¸o tin xu©n, h×nh ¶nh cña
nã xuÊt hiÖn trong khæ th¬ khiÕn ngêi ®äc cã c¶m gi¸c kh«ng gian nh ®îc tr¶i ®Çy mét
s¾c xu©n. Thanh H¶i lùa chän mµu s¾c trÎ trung, t¬i t¾n vµ c¨ng trµn søc sèng cho bøc
tranh mïa xu©n cña m×nh. §ã lµ mµu xanh cña dßng sèng hoµ lÉn mµu xanh cña bÇu trêi.
Lµ mét mµu tÝm biÕc ®Õn nao lßng cña xø HuÕ. Nhng bøc tranh nµy kh«ng chØ cã
h×nh ¶nh, mµu s¾c mµ cßn cã c¶ ©m thanh. ChØ cã ®iÒu ë ®©y tiÕng chim hãt nh trë
nªn cô thÓ, h÷u h×nh, thµnh h×nh khèi long lanh n¸o nøc ®Ó cã thÓ ®a tay ra mµ høng
lÊy, mµ n©ng niu. Qu¶ thËt, Thanh H¶i víi lßng yªu thiªn nhiªn say ®¾m ®· thÓ hiÖn mét
bøc tranh thiªn nhiªn t¬i ®Ñp, trµn ®Çy søc sèng.

C. Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”


Dàn ý:
A. Mở bài:
- Giới thiệu đề tài mùa xuân trong thi ca
- Dẫn vào bài thơ “mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải”
- Hoàn cảnh ra đời đặc biệt của bài thơ: 1980 – lúc nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, chỉ
một tháng sau, nhà thơ qua đời.
-Những xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên, đất nước và khát vọng đẹp đẽ
muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” dâng hiến cho cuộc đời.
B. Thân bài
1. Luận điểm 1: mùa xuân của thiên nhiên
- Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, gợi cảm, tràn đầy sức sống, tươi vui rộn rã qua
các hình ảnh thơ đẹp: Bông hoa tím biếc, dòng sông xanh, âm thanh của tiếng chim chiền
chiện
- Nghệ thuật:

169
+ Từ ngữ gợi cảm, gợi tả.
+ Đảo cấu trúc câu: Mọc giữa dòng sông xanh …..
+ Sử dụng màu sắc, âm thanh…
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi
hứng”.
- Cảm xúc : say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh đất trời vào xuân
2. Luận điểm 2: Mùa xuân của đất nước
Đây là mùa xuân của con người đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả và gian
lao đang đi lên phía trước.
- HÌnh ảnh biểu tượng: người cầm súng, người ra đồng -> hai nhiệm vụ chiến đấu và xây
dựng đất nước.
- Hình ảnh ẩn dụ: lộc non ( chồi non, lá non, sức sống của mùa xuân, thành quả hạnh phúc)
trong câu thơ: “ Lộc giắt đầy trên lưng. Lộc trải dài nương mạ”
Nghệ thuật.
+ Nhịp điệu hối hả, những âm thanh xôn xao.
+ Hình ảnh so sánh, nhân hoá đẹp: “đất nước như vì sao…. cứ đi lên phía trước” -> ngợi
ca vẻ đẹp đất nước tráng lệ, trường tồn, thể hiện niềm tin sáng ngời của nhà thơ về đất
nước.
3. Luận điểm 3: Tâm niệm của nhà thơ. (Xem câu 1).
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước,
cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
+ Hình ảnh thơ tự nhiên giàu sức gợi tả, dùng những hình ảnh của thiên nhiên để nói lên
ước nguyện của mình: làm một tiếng chim hót trong rộn rã tiếng chim ca, một cành hoa để
góp vào vườn hoa muôn hương sắc, một nốt trầm âm thầm, lặng lẽ để nhập vào húc ca
tiếng hát của nhân dân….
+ Những hình ảnh ấy được nhắc tới ở khổ thơ đầu, lặp lại ở khổ thơ này trong giọng thơ
nhè nhẹ, êm ái, ngọt ngào… mang ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống
hiến cho đời là một lẽ tự nhiên.
- Đánh giá: Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự nhiên trong mạch
cảm xúc của bài thơ
- Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Và cái “ta” vốn chỉ để nói về mình bỗng như trở
thành cái “ta” chung của nhiều người, khát vọng của nhiều người.
- Ước nguyện đó được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp: Mỗi người nên cống hiến
cho cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh tuý nhất của mình dù là nhỏ bé, một cách
lặng lẽ, khiêm tốn, không kể gì đến tuổi tác.
+ Điệp ngữ “dù là” như một lời tự khẳng định, tự nhủ với lương tâm -> sự kiên trì, thử
thách với thời gian, tuổi già, bệnh tật để mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân
rộng lớn của quê hương, đất nước
+ Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn.
- Ước nguyện của nhà thơ cho ta hiểu mỗi người phải biết sống, cống hiến cho cuộc đời.
Thế nhưng dâng hiến, hoà nhập mà vẫn giữ được nét riêng của mỗi người….
C. Kết luận:

170
- Cấu tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha
thiết.
- Bài thơ đem đến những cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp
của một tâm hồn trong sáng.
- Càng tin yêu mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” của lòng mình. Muốn góp
phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân của cuộc đời thêm tươi đẹp.
Bài tham khảo.
I – Mở bài:
Mùa xuân từ lâu đã là đề tài vô tận cho các thi sĩ. Nhưng hiếm có bài thơ nào viết về
mùa xuân lại hay và trong hoàn cảnh đặc biệt như “mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải,
nhà thơ của xứ Huế mộng mơ. Bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác năm 1980, khi
tác giả đang nằm trên giường bệnh và chỉ mấy tuần lễ sau khi hoàn thành bài thơ thì nhà
thơ đã qua đời. Đây là một bài thơ hay tiêu biểu cho hồn thơ Thanh Hải đã thể hiện được
“tâm nguyện thật thiết tha, cảm động của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời.
II – Thân bài:
1. Mùa xuân của thiên nhiên.
Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh mùa xuân
thiên nhiên tươi đẹp, hiền hoà, đầy sức sống của xứ Huế mộng mơ.
Mọc giữa dòng sông xanh
…………
Tôi đưa tay tôi hứng
- Xứ Huế đã đi vào trong thi ca của không ít các thi nhân như Hàn Mạc Tử, Tố
Hữu… nhưng ở đây với bài thơ này ta vẫn cảm nhận được phong vị rất riêng của Thanh
Hải. Bức tranh xuân ấy hiện lên rất ít chi tiết nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp hoàn thiện với
đầy đủ sắc màu, âm thanh và đường nét. Có một dòng sông xanh hiền hoà, mênh mang
làm nền cho sắc tím của bông hoa, màu tím của xứ Huế thơ mộng, của nhớ nhung đã tạo
nên cảm giác mát dịu làm sao! Nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật vẻ đẹp của bông hoa.
Bông hoa ấy mọc từ giữa dòng sông như tâm điểm của một bức tranh đầy ấn tượng. Bông
hoa ấy như phát sinh, khởi nguồn từ cái sức sống dồi dào, bất tận của dòng sông xanh để
không ngừng vươn lên bất tử. Bức tranh ấy càng sống động hơn bởi âm thanh của tiếng
chim chiền chiện quen thuộc của quê hương miền trung. Tiếng chim ấy hót vang bên trời
cao, tiếng hót trong trẻo, ngân nga, rộn ràng có độ lan tỏa không dứt, làm cho không khí
của mùa xuân trở nên náo nức lạ thường.
- Hãy đọc lại khổ thơ đầu và lắng nghe trong đó: có phải là nhạc và thơ đã hoà quyện
vào từng chữ, từng dòng trong cả khổ thơ, đem đến môt giai điệu mùa xuân vui tươi, rạo
rực ? Nhà thơ lặng ngắm, lắng nghe với vẻ say mê và tấm lòng tràn đầy một cảm xúc
thanh cao trong sáng. Bằng sự cảm nhận tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ, nhà thơ đã tạo
dựng được một hình ảnh tuyệt đẹp, gợi ra sự liên tưởng phong phú cho người đọc về âm
thanh của tiếng chim. Âm thanh mượt mà, trong vắt của tiếng chim thánh thót như chuỗi
ngọc long lanh, đọng lại làm thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi
sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được
cảm nhận bằng âm thanh ( thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành một sự vật có

171
thể nhìn được bằng mắt ( thị giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm nhận
nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc ( xúc giác). Sự chuyển đổi cảm giác ấy là một sáng tạo
nghệ thuật gợi cảm từ con mắt nhìn rất thơ của thi sĩ. Hình ảnh đưa tay “hứng” xiết bao
yêu quý, nâng niu đã thể hiện được sự đồng cảm của tâm hồn nhà thơ trước thiên nhiên và
cuộc đời.
2.Trong mùa xuân lớn ấy, đất nước và con người cũng mang vẻ đẹp của sức sống
vô tận, rộn ràng bước vào một mùa xuân mới:
Mùa xuân người cầm súng
……
Lộc trải dài nương mạ
- Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương mạ. Hình ảnh dân tộc Việt
Nam kết tụ lại ở “người cầm súng” và “người ra đồng”. Đây là mùa xuân của con người
đang lao động và chiến đấu, của đất nước vất vả gian lao đang đi lên phía trước. Câu thơ
vừa tả thực vừa tượng trưng hàm chứa nhiều ý nghĩa trong hình ảnh người lính và người
nông dân với từ “lộc” nhiều nghĩa. “Lộc” là chồi non, lá non, nhưng “lộc” còn có nghĩa là
mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Người cầm súng giắt lộc để nguỵ trang
như mang theo sức xuân vào trận địa, người ra đồng như gieo mùa xuân trên từng nương
mạ. Những con người lao động chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra trận địa của mình để
gặt hái mùa xuân về cho đất nước. Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ,
điệp ngữ láy lại ở đầu câu cùng với các tính từ “hối hả”, “xôn xao” làm tăng thêm sức
xuân phơi phới, mãnh liệt trong mỗi con người và trong cả cộng đồng rộng lớn là dân tộc.
Điều đó làm cho tác giả nhớ đến niềm tự hào lớn lao của đất nước:
Đất nước bốn nghìn năm
……
Cứ đi lên phía trước”
- Đất nước đang bước vào mùa xuân, từ thiên nhiên đến con người đều hối hả và xôn
xao. Mang tình sông núi, nhà thơ Thanh Hải đã có một cái nhìn sâu sắc và tự hào về chiều
dài lịch sử bốn nghìn năm của đất nước.Đó là truyền thống anh hùng trong đánh giặc, cần
cù trong dựng xây, là truyền thống nhân ái, là khát vọng hòa bình. Mỗi truyền thống ấy
đều được xây đắp nên từ mồ hôi, công sức, nước mắt và thậm chí cả xương máu của biết
bao thế hệ con người. Trong quá trình xây dựng và giữ nước, đất nước ta còn đầy vất vả và
gian lao nhưng đất nước Việt Nam vẫn ngời sáng cứ tiến lên phía trước như một vì sao
sáng. Vần thơ so sánh và nhân hoá thể hiện một niềm tin sáng ngời, ngợi ca đất nước tráng
lệ, trường tồn. Ba tiếng “cứ đi lên” đã thể hiện ý chí quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân
tộc để xây dựng đất nước giàu và mạnh.
- Đặt bài thơ vào những năm 80 khi nước ta còn đang phải đương đầu với bao khó khăn,
nền kinh tế còn rất thấp kém thì ta càng trân trọng lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm tin
của nhà thơ Thanh Hải vào quê hương, đất nước.
3.Xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước, nhà thơ muốn góp một mùa
xuân nho nhỏ của mình để làm nên một mùa xuân lớn, mùa xuân của thiên nhiên,
mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:
Ta làm con chim hót

172
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp,
dù nhỏ bé, của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Điều tâm niệm ấy được thể hiện
một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên giầu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa
trong lòng người đọc. Ước nguyện được làm một tiếng chim, một cành hoa để góp vào
vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn rã tiếng chim, để đem lại hương sắc, tô điểm cho
mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ nguyện cầu được làm một “nốt trầm xao xuyến” không
ồn ào, không cao điệu mà chỉ âm thầm, lặng lẽ để “nhập”vào khúc ca, tiếng hát của nhân
dân vui mừng đón xuân về. Được tô điểm cho mùa xuân, được góp phần tạo dựng mùa
xuân là tác giả đã nguyện hi sinh, nguyện cống hiến cho sự phồn vinh của đất nước. Một
ước mơ nho nhỏ, chân tình, không cao siêu vĩ đại mà gần gũi quá, khiêm tốn và đáng yêu
quá ! Hình ảnh nhuần nhị, tự nhiên, chân thành, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái , ngọt ngào của
những thanh bằng liên tiếp kết hợp với cách cấu tứ lặp lại như vậy đã mang một ý nghĩa
mới nhấn mạnh thêm mong ước được sống có ích cho đời, cống hiến cho đất nước như
một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định, vừa như một tiếng lòng, như một lời
tâm sự nhỏ nhẹ, chân tình. Ước nguyện đó đã được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp,
không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đó là lẽ
sống cống hiến cho đời lặng lẽ, khiếm tốn, không kể gì đến tuổi tác:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Thái độ ‘lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhường nhưng hết sức
bền bỉ và vô cùng đáng quý vì đó là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Thật cảm động
làm sao trước ao wowcs của nhà thơ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm một
mùa xuân nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao ấy. Điệp ngữ “dù là” ở đây như một lời tự khẳng
định để nhủ với lương tâm sẽ phải kiên trì, thử thách với thời gian tuổi già, bệnh tật để mãi
mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương đất nước. Giọng
thơ vẫn nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn. Chính vì vậy, hình ảnh “mùa
xuân nho nhỏ” ở cuối bài như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.
Những câu thơ cuối cùng mang đậm dấu ấn của những làn điệu dân ca trữ tình xứ
Huế. Nó như tiếng tâm tình, thủ thỉ, như tiếng lòng sâu lắng thiết tha, nồng đậm nghĩa
tình:
Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam Ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm
Nhịp phách tiền đất Huế
Cùng với ý nguyện ấy, khúc Nam Ai, Nam Bình ở khổ thơ kết nói lên niềm tin yêu tha
thiết với quê hương, đất nước và cuộc đời. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ , tình cảm
đó càng đáng trân trọng, càng cảm động biết bao !

173
III – Kết bài:
“Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ có tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh
sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha thiết. Đọc “mùa xuân nho nhỏ”, trái tim ta dường như xao
xuyến, một cảm xúc thanh cao, trong sáng từ từ dâng ngập hồn ta. Bài thơ đem đến cho
chúng ta bao cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi cho ta suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của
một tâm hồn trong sáng khiến ta cảm phục và tin yêu. Còn gì đẹp hơn mùa xuân ? Có tình
yêu nào rộng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước ? Thấm nhuần tâm tư, ước nguyện của
của nhà thơ, chúng ta càng thêm tin yêu vào mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho
nhỏ” trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót lên khúc ca ngọt
ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để hiến dâng cho đất nước, góp phần công sức nhỏ
bé để tô điểm cho mùa xuân cuộc đời thêm đẹp.

------------------------------------------------------

Bµi 9: VIÕNG LĂNG BÁC

A. Kiến thức cần nhớ:


1. Tác giả:
- ViÔn Ph¬ng tªn thËt lµ Ph¹m Thanh ViÔn (1928) quª ë tØnh An Giang. Tham gia hai
cuéc kh¸ng chiÕn chèng Ph¸p vµ Mü.
- ¤ng lµ mét trong nh÷ng c©y bót cã mÆt sím nhÊt cña lùc lîng v¨n nghÖ gi¶i phãng ë
miÒn Nam thêi chèng Mü cøu níc.
- Th¬ ViÔn Ph¬ng thêng nhá nhÑ, giµu t×nh c¶m vµ chÊt m¬ méng ngay trong hoµn
c¶nh chiÕn ®Êu ¸c liÖt ë chiÕn trêng
- T¸c phÈm chÝnh: “M¾t s¸ng häc trß” (1970); “Nhí lêi di chóc” (1972); “Nh mÊy mïa
xu©n” (1978)
2. T¸c phẩm:
a.Hoµn c¶nh s¸ng t¸c
Bµi “ViÕng l¨ng B¸c” ®îc viÕt n¨m 1976, trong kh«ng khÝ xóc ®éng cña nh©n d©n ta
lóc c«ng tr×nh l¨ng chñ tÞch Hå ChÝ Minh ®îc hoµn thµnh sau khi gi¶i phãng MiÒn
Nam, ®Êt níc thèng nhÊt, ®ång bµo miÒn Nam cã thÓ thùc hiÖn mong íc ®îc viÕng l¨ng
B¸c. T¸c gi¶ còng ë trong sè nh÷ng ®ång bµo, chiÕn sÜ tõ miÒn Nam sau khi gi¶i phãng
®îc ra viÕng B¸c
b. Néi dung vµ nghÖ thuËt
*.Néi dung : C¶m xóc bao trïm trong toµn bµi th¬ lµ niÒm xóc ®éng thiªng liªng thµnh
kÝnh, lßng biÕt ¬n vµ tù hµo pha lÉn nçi xãt ®au khi t¸c gi¶ tõ MiÒn Nam ra viÕng l¨ng
B¸c.
*NghÖ thuËt : C¶m xóc trªn ®· chi phèi giäng ®iÖu cña bµi th¬ : giäng ®iÖu thµnh
kÝnh, trang nghiªm phï hîp víi kh«ng khÝ thiªng liªng ë l¨ng, n¬i vÞ l·nh tô yªn nghØ.

174
Giäng ®iÖu Êy ®îc t¹o nªn tõ c¸c yÕu tè nh thÓ th¬, nhÞp ®iÖu, tõ ng÷, h×nh ¶nh cña bµi
th¬.
- ThÓ th¬ vµ nhÞp ®iÖu : thÓ th¬ b¶y ch÷ nhng cã nh÷ng dßng ®îc kÐo dµi thµnh 8,9
tiÕng. Bµi th¬ cã nhÞp chËm, nhiÒu dßng th¬ hÇu nh kh«ng ng¾t nhÞp, thêng gieo vÇn
liÒn. C¸c yÕu tè Êy t¹o nªn giäng ®iÖu thiÕt tha trÇm l¾ng vµ trang träng thµnh kÝnh,
phï hîp víi kh«ng khÝ vµ c¶m xóc cña bµi th¬.
- Tõ ng÷ vµ h×nh ¶nh : C¸c tõ xng h« “con ë miÒn Nam ra th¨m l¨ng B¸c”, c¸c h×nh ¶nh
Èn dô cã gi¸ trÞ sóc tÝch vµ gîi c¶m thÓ hiÖn ®îc lßng thµnh kÝnh ( mÆt trêi trong l¨ng
rÊt ®á, vÇng tr¨ng s¸ng dÞu hiÒn, kÕt trµng hoa d©ng b¶y m¬i chÝn mïa xu©n, trêi
xanh… ). Lêi th¬ dung dÞ mµ c« ®óc, giµu c¶m xóc mµ l¾ng ®äng.
c.Bè côc: Mạch c¶m xóc vËn ®éng theo tr×nh tù cuéc vµo l¨ng viÕng B¸c.
- Khæ 1: C¶m xóc vÒ c¶nh bªn ngoµi l¨ng, tËp trung ë h×nh ¶nh hµng tre bªn l¨ng gîi
h×nh ¶nh cña quª h¬ng ®Êt níc.
- Khæ 2 – 3: Tõ c¶m xóc vÒ dßng ngêi bÊt tËn ngµy ngµy vµo l¨ng viÕng B¸c, nhµ th¬
xóc c¶m vµ suy ngÉm vÒ l·nh tô kÝnh yªu ®îc gîi lªn tõ nh÷ng h×nh ¶nh giµu ý nghÜa
biÓu tîng: mÆt trêi, vÇng tr¨ng, trêi xanh.
- Khæ 4: Khi s¾p ph¶i trë vÒ MiÒn Nam, niÒm mong íc thiÕt tha: muèn tÊm lßng m×nh
®îc m·i m·i ë l¹i bªn l¨ng B¸c.

B. Gợi ý phân tích bài thơ:

1. Cảm xúc trước lăng Bác.


* Tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào miền Nam muốn nhắn gửi, nhờ Viễn
Phương nói hộ cùng Bác.
- Câu thơ mở đầu bài thơ: “con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chỉ gỏn gọn như một lời
thông báo nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam
sau bao năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác.
+ Cách dùng đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân thương, diễn tả
tâm trạng của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
+ Cách nói giảm, nói tránh : từ “thăm” thay cho từ “viếng” -> giảm nhẹ nỗi đau thương
mất mát -> Bác Hồ còn sống mãi trong tâm tưởng của mọi người.
- HÌnh ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và là ấn tượng đậm nét về cảnh quan bên lăng
Bác là “hàng tre”. Hàng tre vừa mang tính chất tả thực lại vừa tượng trưng, giàu ý nghĩa
liên tưởng sâu sắc: Hàng tre “bát ngát trong sương” là hình ảnh thực, hết sức thân thuộc
của làng quê đất nước Việt Nam – bên lăng Bác. Hàng tre “xanh xanh Việt Nam. Bão táp
mưa sa đứng thẳng hàng” là ẩn dụ, là biểu tượng của dân tộc VN với vẻ đẹp thanh cao và
sức sống bền bỉ, kiên cường.
=> Hình ảnh ẩn dụ này đã gợi liên tưởng đến hình ảnh cả dân tộc bên Bác đoàn kết, kiên
cường thực hiện lí tưởng của Bác, của dân tộc.
+ “Ôi!” là từ cảm, biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre.
* Sự tôn kính của tác giả khi đứng trước lăng Người.
Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi:

175
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng.
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
- Hình ảnh “mặt trời trên lăng” trong câu thơ trên là hình ảnh thực: một mặt trời thiên
nhiên rực rỡ vĩnh hằng ngày ngày đi qua trên lăng. Hình ảnh “mặt trời trong lăng” ở câu
thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ - hình ảnh Bác Hồ. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình
ảnh đẹp, gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước nồng nàn
của Bác. Dùng hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” để viết về Bác, Viễn Phương đã ca
ngợi sự vĩ đại của Bác, công lao của Bác đối với non sông đất nước, đồng thời thể hiện
được sự tôn kính, lòng biết ơn của nhân dân với Bác, niềm tin Bác sống mãi với non sông
đất nước ta.
- Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực: ngày ngày dòng người đi
trong nỗi xúc động, bồi hồi, trong lòng tiếc thương kính cẩn, trong lòng nặng trĩu nỗi nhớ
thương. Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào lăng viếng Bác.
Dòng người vào lăng viếng Bác kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so
sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng hoa vô
tận, mà còn là một ẩn dụ đẹp, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh
sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng Người những gì tốt đẹp nhất.
Dâng “bẩy mươi chín mùa xuân”: hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng: con người
bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra
những mùa xuân cho đất nước, cho con người.
2. Cảm xúc trong lăng. Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn
ngào, khổ thứ ba đã diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi vào trong lăng viếng Bác.
- Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian và không gian ở bên
trong lăng Bác đã được nhà thơ gợi tả rất đạt bằng hai câu thơ giản dị:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên.
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”.
- Câu thơ diễn tả chính xác và tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ trong
trẻo của không gian trong lăng Bác. Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng
trăng sáng dịu hiền. Đó là giấc ngủ thanh bình và vĩnh hằng của một con người cống hiến
trọn vẹn cuộc đời mình cho cuộc sống bình yên của nhân dân, đất nước.
- Nếu như trước đó Hải Như muốn được “canh giấc ngủ của Người” thì giờ đây, Viễn
Phương lại để cho vầng trăng ôm ấp, toả sáng giấc ngủ của Người. Bởi có lẽ hình ảnh vầng
trăng dịu hiền gợi giấc ngủ ban đêm bởi nhà thơ không muốn cảm nhận một giấc ngủ vĩnh
viễn giữa ban ngày. Hơn nữa sinh thời Bác rất yêu trăng, trăng như một người bạn tri âm,
tri kỉ, chả thế mà những vần thơ của Bác tràn đầy ánh trăng, trăng đã từng vào thơ Bác
trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để dỗ giấc ngủ ngàn thu cho Người.
- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn
biết trời xanh là mãi mãi”. Bác ra đi nhưng hoá thân vào thiên nhiên đất trời của dân tộc,
sống mãi trong sự nghiệp và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao.(Tố
Hữu đã từng viết: Bác sống như trời đất của ta”).
- Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người. Nỗi đau xót đã
được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Nỗi đau quặn

176
thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn như hàng nghìn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức khi
đứng trước thi thể của Người. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
3.Cảm xúc khi rời lăng: (khổ 4): Khép lại nỗi đau mất mát ấy là những giọt nước mắt
luyến tiếc, bịn rịn, không muốn rời xa Bác. Khổ thơ thứ tư đã diễn tả tâm trạng lưu luyến
của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.
- Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị
diễn tả tình thương sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn
không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung
nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ
ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
- Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã
hoặc chưa một lần nào gặp Bác.
+ Muốn làm chim hót => âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành
+ Muốn làm đoá hoa => toả hương thơm thanh cao nơi Bác yên nghỉ
+ Muốn làm cây trung hiếu giữ mãi giấc ngủ bình yên cho Người.
- Điệp từ “muốn làm” + biểu cảm trực tiếp và gián tiếp => tâm trạng lưu luyến, ước muốn,
sự tự nguyện chân thành của tác giả.
- Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được khép lại bài thơ với một nét nghĩa bổ sung:
cây tre trung hiếu. Sự lặp lại như thế đã tạo cho bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng làm
đậm nét hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
C. Mét sè c©u hái luyện tập:

Câu 1: Viết đoạn văn tổng phân hợp: “Bài thơ “VLB” là tình cảm chân thành, xúc động
của Viễn Phương, của nhân dân miền Nam đối với Bác Hồ.”
Gợi ý:
- Con – Bác
- Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
- Vẫn biết trời xanh là mãi mãi…. trong tim
- Khổ cuối.
- Niềm thương, nỗi nhớ vốn là tình cảm trong tâm trạng con người, như ngập tràn cả không
gian, trĩu nặng tâm trạng => có cảm giác như dòng người đi trong nỗi thương nhớ mênh
mang
- Người đi xã đã 7 năm (bài thơ sáng tác 1976) khoảng thời gian không phải là ngắn,
nhưng VP và toàn thể nhân dân MNam vẫn “nghe nhói” => quá sâu đậm, mãnh liệt
- điệp từ, điệp ngữ, cấu trúc câu (khổ 3) đem lại cho khổ thơ nhạc điệu thiết tha, sâu lắng
- Hình ảnh ẩn dụ : cây tre trung hiếu => mong muốn thiét tha ở mãi bên người, mong được
làm đẹp cho người. Sinh thời Bác từng nói: “miền nam ở trong trái tim tôi”(thơ THữu)
- Cây tre mang nét nghĩa cụ thể hơ, không còn là những phẩm chất đẹp đẽ. Phải chăng đó
vừa là ước nguyện, vừa là lời hứa thiêng liêng mà trung thành với con đường mà Bác đã
soi sáng dẫn dắt cả dân tộc
Tham khảo đoạn văn:

177
Tình cảm của tác giả và của mọi người thể hiện rất thành kính và sâu sắc. Tác giả như một
người con về thăm, về viếng một người cha già kính yêu. Tác giả đã chứng kiến dòng
người ngày tiếp ngày không dứt, tỏ lòng thương nhớ lãnh tụ bằng cách kết tràng hoa dâng
lên 79 mùa xuân của Người. Những bông hoa viếng Bác, những người dân kết thành hoa
dâng lên cuộc đời hoạt động, bình dị mà vĩ đại của Bác. Đứng trước thi hài Bác, lí trí nhắc
rằng Bác sống mãi, nhưng trái tim tác giả vẫn nhói lên trước sự thật : Bác đã vĩnh viễn đi
vào cõi vĩnh hằng. Biết bao nhiêu người đã không cầm được nước mắt trong lễ tang Bác.
Và cả khi về viếng sau này. Viết khổ thơ cuối không có từ nhân xưng chính là để tác giả
vừa bày tỏ tình cảm của mình, vừa nói lên ước nguyện của mọi người : muốn làm đoá hoa
toả hương, con chim hót, cây tre trung hiếu bên Bác mãi mãi.

Câu 2: Cho câu văn sau: Đọc bài thơ “Viếng lăng Bác”, ta không chỉ thấy tình cảm xúc
động chân thành của tác giả, của dân tộc dành cho Bác Hồ. Áng thơ của Viễn Phương còn
thể hiện hình ảnh đẹp đẽ của Người trong lòng nhân dân.
a. Biến đổi một trong hai câu trên thành câu bị động.
b. Nếu coi những câu thơ trên là phần mở đoạn của một đoạn văn thì phần mở đoạn ấy cho
ta biết đề tài của đoạn văn đứng trước nó là gì? Đề tài của đoạn văn sắp xây dựng là gì?
c. Viết tiếp để có đoạn văn tổng phân hợp.

Câu 3: Mở đầu bài “VLB”, Viễn Phương viết 3 câu đầu khổ 1:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
Ôi! Hàng tre, xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
và cuối bài, nhà thơ bày tỏ nguyện ước: “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.
Theo em hình ảnh nào là hình ảnh ẩn dụ. Em cảm nhận được từ các hình ảnh ẩn dụ đó có ý
nghĩa sâu xa như thế nào về tình cảm thiêng liêng cao đẹp của nhân dân với Bác Hồ kính
yêu. Viết một đoạn văn làm rõ điều đó và trong đoạn có sử dụng 1 câu có thành phần phụ
chú (gạch chân chỉ rõ)
Gợi ý:
- Phân tích hình ảnh ẩn dụ: “ôi hàng tre xanh xanh VN. Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
- Cây tre là biểu tượng của dân tộc VN.
+ Xanh xanh: thể hiện sức sống dẻo dai, bền bỉ. Câu thơ thể hiện h ình ảnh quê hương, đất
nước VN. HÌnh ảnh những con người quây quần, bảo vệ cho giấc ngủ của Người.
- Muốn làm cây tre trung h iếu chốn này: Hình ảnh ẩn dụ “cây tre trung hiếu” là tình cảm
của VP cũng như của nhân dân Miền Nam tha thiết muốn ở mãi bên người.
Hình ảnh giản dị chính là nỗi xúc động của toàn thể nhân dân miền nam trung hiếu: trung
với Đảng, hiếu với dân. Đó vừa là một lời ước nguyện, vừa là một lời hứa thiêng liêng: DT
VN mãi mãi trung thành với con đường CM mà Bác đã đặt ra.
Viết đoạn  : Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác là một hình ảnh rất đẹp và độc đáo. Trước hết
hàng tre gợi nhớ xóm làng thân thuộc với luỹ tre xanh bao bọc ở mỗi làng quê Việt Nam.
Mặt khác, cây tre từng được coi là biểu tượng của con người Việt Nam với các đức tính

178
cần cù, nhũn nhặn, hiên ngang, bền bỉ, đoàn kết. Hàng tre xanh xanh, màu xanh tượng
trưng cho sức sống của Việt Nam. Cây tre được nhân hoá như những con người, như
những người chiến sĩ đứng thẳng hàng vừa làm hàng rào danh dự, vừa canh giữ cho giấc
ngủ bình yên mãi mãi của Người. Mặc cho bão táp, mưa sa, cây tre vẫn đứng thẳng hàng.
Đến khổ thơ cuối, cây tre trở thành cây tre trung hiếu, thể hiện tấm lòng mãi mãi trung
thành với sự nghiệp, với tư tưởng của Bác.

Câu 4: Yếu tố nào làm nên thành công của bài thơ « Viếng lăng Bác » ?
Trước hết bài thơ thành công là do cảm xúc chân thành, sâu sắc của tác giả. Những người
con miền Nam không có mặt trong ngày Bác mất (1969), mãi bảy năm sau mới có dịp ra
viếng Bác. Nguyên một điều đó thôi cũng làm cho tác giả xúc động mạnh mẽ. Khi vào
lăng viếng Bác, lại thấy lăng Bác với « hàng tre trong sương bát ngát » thân thuộc như
mọi làng quê Việt Nam. Tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác, tình cảm của cả
nước đối với Bác, Người đã làm cho đất nước, cho dân tộc vẻ vang. Chính tình cảm đó
cộng với những xúc động của nhà thơ là yếu tố cộng hưởng, làm cho bài thơ thành công.
Mặt khác, những hình ảnh bình dị giàu tính tượng trưng ; lời thơ giản dị, chân thành làm
cho bài thơ dễ đi vào lòng người.

Câu 5 : Trong bài thơ « Viếng lăng Bác », VP viết : « kết tràng hoa dâng bảy mươi chín
mùa xuân ».
Dựa trên hiện tượng chuyển nghĩa của từ, từ « mùa xuân » có thể thay thế cho từ nào ?
Theo phưong thức chuyển nghĩa nào ? Việc thay thế từ trên có tác dụng diễn đạt như thế
nào ?
Gợi ý :
Mỗi một năm xuân đến, con người lại thêm một tuổi. Cho nên « 79 mùa xuân » cũng
được hiểu là 79 tuổi, 79 năm trong một đời người. Nếu để từ « tuổi » thì chỉ nói được BH
đã sống 79 năm, thọ 79 tuổi, câu thơ chỉ thuần tuý chỉ tuổi tác. Còn dùng từ « Xuân » có
nghĩa là : cả cuộc đời Bác là 79 năm cống hiến cho nhân dân, 79 năm dành cho đất nước để
đất nước có sắc xuân. Thêm nữa, kết « tràng hoa dâng  79 mùa xuân » gợi thêm sắc xuân
bên lăng Bác. VÀ từ « mùa xuân » như làm cho xúc cảm của câu thơ, âm điệu câu thơ
thêm mượt mà, sâu lắng, thiết tha. Câu thơ hay, ý thơ trở nên đa nghĩa và sâu sắc hơn
nhiều. ư

Câu 6: Chép chính xác bốn câu đầu bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. Viết đoạn
văn khoảng 8 câu phân tích hình ảnh hàng tre trong khổ thơ trên, trong đoạn có câu văn
dùng phần phụ chú (gạch chân chỉ rõ phần phụ chú đó).
Gợi ý:
Đoạn văn có các ý sau:
- Hàng tre bát ngát trong sương là hình ảnh thực, hết sức thân thuộc của làng quê – hàng
tre bên lăng Bác.
- Hàng tre xanh xanh Việt Nam….. là ẩn dụ, biểu tượng của dân tộc với sức sống bền bỉ,
kiên cường.

179
- Hình ảnh ẩn dụ cũng gợi liên tưởng đến hình ảnh cả dân tộc bên Bác: đoàn kết, kiên
cường, thực hiện lí tưởng của Bác, của dân tộc.

Câu 7: Hãy phân tích ý nghĩa của hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” ở câu thơ:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng.
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Chép hai câu thơ có hình ảnh ẩn dụ mặt trời trong một bài thơ mà em đã học (ghi rõ tên và
tác giả bài thơ)
Gợi ý:
- Hai câu thơ sóng đôi hình ảnh thực và ẩn dụ “mặt trời”. Điều đó khiến ẩn dụ “mặt trời
trong lăng” nổi bật ý nghĩa sâu sắc.
- Dùng hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” để viết về Bác, VP đã ca ngợi sự vĩ đại của
Bác, công lao của Bác đối với non sông đất nước.
- Đồng thời, hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng” cũng thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn
của nhân dân với Bác, niềm tin Bác sống mãi với non sông đất nước ta.
- Hai câu thơ có hình ảnh ẩn dụ mặt trời:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi.
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng (Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn
Khoa Điềm)
Câu 8: Viết đoạn văn nêu những cảm xúc, suy nghĩ của em khi đọc khổ thơ cuối bài thơ
“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
(Tham khảo phần phân tích)

C. Ph©n tÝch bµi th¬ ViÕng L¨ng B¸c


H·y lµm râ nh÷ng t×nh c¶m ch©n thµnh vµ tha thiÕt cña nh©n d©n ta víi B¸c Hå ®îc
thÓ hiÖn qua bµi th¬ : “ViÕng L¨ng B¸c” cña ViÔn Ph¬ng.
I . Më bµi :
Chñ tÞch Hå ChÝ Minh lµ nh©n vËt lÞch sö th©n yªu nhÊt cña d©n téc ViÖt Nam suèt
bao thËp kû qua. Ngêi lµ hiÖn th©n cho nh÷ng g× cao ®Ñp nhÊt cña d©n téc. L¨ng B¸c
lµ n¬i lu gi÷ nh÷ng h×nh ¶nh th©n th¬ng vÒ Ngêi. NhiÒu ngêi ®· lµm th¬ vÒ B¸c vµ
l¨ng B¸c. Trong ®ã “ViÕng l¨ng B¸c”cña nhµ th¬ ViÔn Ph¬ng lµ mét trong nh÷ng bµi th¬
viÕt vÒ l·nh tô hay nhÊt. Bµi th¬ ®îc viÕt trong kh«ng khÝ xóc ®éng cña nh©n d©n ta
lóc c«ng tr×nh l¨ng B¸c ®îc hoµn thµnh sau khi MiÒn Nam ®îc gi¶i phãng, ®Êt níc ®îc
thèng nhÊt, ®ång bµo miÒn Nam cã thÓ thùc hiÖn mong íc ®îc viÕng l¨ng B¸c. Nhµ th¬
ViÔn Ph¬ng còng ë trong sè ®ång bµo, chiÕn sÜ tõ miÒn Nam ra viÕng B¸c. Trong
niÒm xóc ®éng thiªng liªng, thµnh kÝnh pha lÉn nçi xãt ®au, nhµ th¬ ®· viÕt bµi th¬
nµy. Bµi th¬ ®· thÓ hiÖn ®îc nh÷ng t×nh c¶m ch©n thµnh vµ tha thiÕt cña nh©n d©n ta
víi B¸c Hå kÝnh yªu.
II . Th©n bµi
Khæ 1 : C¶m xóc cña t¸c gi¶ khi ®Õn th¨m l¨ng B¸c

180
- Khi ®Õn th¨m l¨ng B¸c, t¸c gi¶ chøa chan c¶m xóc. M¹ch c¶m xóc Êy ®îc më ®Çu b»ng
lêi th¬ tù sù :
Con ë miÒn Nam ra th¨m l¨ng B¸c
- C©u th¬ thËt gi¶n dÞ th©n quen víi c¸ch dïng ®¹i tõ xng h« “con” rÊt gÇn gòi, th©n
thiÕt, Êm ¸p t×nh th©n th¬ng. Ta c¶m tëng giäng th¬ t¸c gi¶ run run khi thèt lªn tõ “con”
gÇn gòi mµ th©n th¬ng biÕt mÊy. T©m tr¹ng cña ViÔn Ph¬ng b©y giê lµ t©m tr¹ng cña
ngêi con ra th¨m cha sau bao n¨m xa c¸ch, mong mái nh Tè H÷u ®· tõng viÕt : “MiÒn
Nam mong B¸c nçi mong cha”. Song íc nguyÖn Êy kh«ng thµnh v× ngêi cha Êy m·i m·i
kh«ng cßn n÷a. C©u th¬ gi¶n dÞ, ch©n thµnh vµ xóc ®éng biÕt bao! Dßng c¶m xóc nh
vì ßa, chan chøa sau bao th¸ng n¨m k×m nÐn.
- T¸c gi¶ sö dông tõ “th¨m” thay cho tõ “viÕng” mong sao gi¶m nhÑ ®îc nçi ®au th¬ng,
mÊt m¸t Êy ®Ó ta thÊy r»ng trong tiÒm thøc cña t¸c gi¶, B¸c Hå vÉn cßn sèng m·i. Nh ng
dêng nh sù thËt B¸c ®· ®i xa lµ nçi ®au qu¸ ®çi lín lao khiÕn ViÔn Ph¬ng kh«ng khái
xãt xa, xóc ®éng.
- Tõ t©m tr¹ng Êy, t¸c gi¶ nh×n ra xa : “§· thÊy trong s¬ng hµng tre b¸t ng¸t”. Nhà th¬ b¾t
gÆp mét h×nh ¶nh th©n thuéc mµ bao n¨m in vµo t©m hån mçi ngêi d©n ViÖt Nam :
h×nh ¶nh hµng tre. GÆp l¹i hµng tre Êy, nhµ th¬ cã c¶m gi¸c th©n thuéc nh ®îc trë vÒ
quª h¬ng, trë vÒ céi nguån. Hµng tre Êy nh táa bãng m¸t rêi rîi trªn con ®ên dÉn vµo l¨ng
B¸c vµ nh bao bäc «m lÊy bãng h×nh cña Ngêi – vÞ l·nh tô vÜ ®¹i, kÝnh yªu cña d©n téc.
Nh vËy hµng tre còng lµ biÓu tîng cho ®Êt níc, quª h¬ng vµ tÊt c¶ nh héi tô l¹i ®©y ®Ó
canh cho giÊc ngñ cña Ngêi
-Bëi vËy t¸c gi¶ bËt lªn c©u c¶m th¸n : ¤i hµng tre xanh xanh ViÖt Nam!”
- “¤i!” ThÓ hiÖn sù xóc ®éng cña nhµ th¬ tríc h×nh ¶nh c©y tre. C©y tre b×nh dÞ, méc
m¹c, ch©n quª mµ bªn trong nh tiÒm tµng mét søc sèng dai d¼ng : “B·o t¸p ma sa vÉn
th¼ng hµng”. Ph¶i ch¨ng ®ã còng lµ søc sèng cña d©n téc ViÖt Nam ? Søc sèng Êy còng
dåi dµo nh mµu xanh cña sù kiªn cêng, bÊt khuÊt, kh«ng lïi bíc tríc kÎ thï.
- ThËt tµi t×nh khi t¸c gi¶ sö dông h×nh ¶nh “hµng tre” võa mang ý t¶ thùc l¹i võa mang ý
Èn dô. C©y tre tuy gÇy guéc song vÉn hiªn ngang. §ã còng chÝnh lµ d©n téc ViÖt Nam
tuy nhá bÐ nhng rÊt kiªn cêng, s¾t son.
=>§Õn th¨m l¨ng B¸c, gÆp l¹i h×nh ¶nh hµng tre, t¸c gi¶ v« cïng xóc ®éng. §ã lµ sù tiÕc
th¬ng bïi ngïi khi ®îc gÆp B¸c song B¸c ®· ®i xa. Song ®ã kh«ng chØ lµ t×nh c¶m riªng
cña t¸c gi¶ mµ cßn cña c¶ d©n téc ViÖt Nam ®èi víi B¸c.
2. Sù t«n kÝnh cña t¸c gi¶ ®èi víi B¸c khi ®øng tríc l¨ng Ngêi.
-Khæ th¬ thø hai ®îc t¹o nªn tõ cÆp c©u víi nh÷ng h×nh ¶nh thùc vµ Èn dô sãng ®«i :
“Ngµy ngµy mÆt trêi ®i qua trªn l¨ng
ThÊy mét mÆt trêi trong l¨ng rÊt ®á”
- H×nh ¶nh “mÆt trêi ®i qua trªn l¨ng” lµ h×nh ¶nh mÆt trêi thùc, mÆt trêi tù nhiªn ®em
l¹i nguån s¸ng cho thÕ gian. MÆt trêi Êy lµ søc sèng cña mu«n vµn cá c©y hoa l¸.
- “MÆt trêi trong l¨ng” lµ mÆt trêi Èn dô, chØ B¸c Hå kÝnh yªu. T¸c gi¶ nhÊn m¹nh
“mÆt trêi rÊt ®á’ lµm ta nhí ®Õn mét tr¸i tim nhiÖt huyÕt ch©n thµnh v× níc v× d©n.
VÝ B¸c nh “mÆt trêi”, nhµ th¬ muèn nãi B¸c nh lµ ngêi soi s¸ng cho d©n téc ViÖt Nam
trªn bíc ®êng chiÐn ®Êu, ®a c¶ d©n téc tho¸t khái bãng tèi n« lÖ ®Õn víi cuéc sèng tù

181
do, h¹nh phóc. Mçi hµnh mÆt trêi tù nhiªn vÉn hµnh tr×nh trªn quü ®¹o còng nh mÆt trêi
trong l¨ng lóc nµo còng táa s¸ng. B¸c tuy ®· ra ®i nhng m·i thuéc vÒ vÜnh cöu ®èi víi
hµng triÖu con ngêi ViÖt Nam.
=>Th«ng qua h×nh ¶nh Èn dô “mÆt trêi”, nhµ th¬ ®· nªu lªn sù vÜ ®¹i cña B¸c, ®ång thêi
thÓ hiÖn niÒm t«n kÝnh, lßng biÕt ¬n v« h¹n cña nh©n d©n ta víi B¸c.
- Nhµ th¬ cßn s¸ng t¹o mét h×nh ¶nh n÷a vÒ B¸c : Ngµy ngµy dßng ngêi ®i trong th¬ng
nhí
KÕt trµng hoa d©ng b¶y m¬i chÝn mïa xu©n”
- Thêi gian cø tr«i ngµy tiÕp ngµy nhng dßng ngêi vÉn nèi nhau vµo l¨ng viÕng B¸c.
NhÞp th¬ chËm, giäng th¬ trÇm nh bíc ch©n dßng ngêi vµo viÕng B¸c. Nhng “dßng ngêi
®i trong th¬ng nhí” lµ ®i trong nçi xóc ®éng båi håi, trong lßng tiÕc th¬ng kÝnh cÈn.
- Vµ ®Õn ®©y, c¶m xóc th¨ng hoa : h×nh ¶nh dßng ngêi thµnh mét trµng hoa tríc l¨ng.
Mçi con ngêi vµo viÕng l¨ng gièng nh mét b«ng hoa ®Ñp, d©ng lªn B¸c c¶ tÊm lßng, c¶
cuéc ®êi, niÒm th¬ng nçi nhí. §iÖp tõ “ngµy ngµy” nhÉn m¹nh trang hoa d©ng lªn B¸c lµ
bÊt tËn. ChØ mét tõ “th¬ng” th«i mµ göu g¾m c¶ tÊm lßng d©n téc ViÖt Nam ®èi víi
B¸c. Qu¶ lµ c¸ch diÔn ®¹t míi l¹, thÝch hîp. Vµ trµng hoa Êy d©ng lªn “b¶y m¬i chÝn
mïa xu©n” – mét h×nh ¶nh ho¸n dô thËt hay. Con ngêi b¶y m¬i chÝn mïa xu©n Êy ®·
sèng mét cuéc ®êi ®Ñp nh nh÷ng mïa xu©n vµ lµm ra mïa xu©n cho ®Êt níc, cho mçi
chóng ta. Cuéc ®êi chóng ta në hoa díi ¸nh s¸ng cña B¸c.
=>H×nh ¶nh “trµng hoa” mét lÇn n÷a t« ®Ëm thªm sù t«n kÝnh, biÕt ¬n tù hµo cña t¸c
gi¶ còng nh cña d©n téc VN ®èi víi B¸c.
- Khæ 3 : §Õn ®©y niÒm biÕt ¬n thµnh kÝnh ®· chuyÓn sang niÒm xóc ®éng nghÑn
ngµo khi t¸c gi¶ nh×n thÊy B¸c : “ B¸c n»m trong giÊc ngñ
b×nh yªn
Gi÷a mét vÇng tr¨ng s¸ng dÞu hiÒn”
B¸c n»m ®ã thanh th¶n nh ®ang trong giÊc ngñ gi÷a ¸nh s¸ng dÞu hiÒn cña vÇng tr¨ng.
Sau chÆng ®êng b¶y m¬i chÝn mïa xu©n cèng hiÕn kh«ng ngõng nghØ, dµnh trän cuéc
®êi cho d©n cho níc, B¸c cha cã mét ®ªm nµo ngon giÊc : “C¶ cuéc ®êi B¸c cã ngñ ngon
®©u!”( H¶i Nh)
Giê ®©y, MiÒn Nam ®îc gi¶i phãng, ®Êt níc ®îc gi¶i phãng, B¸c cã thÓ yªn lßng vµ
thanh th¶n nghØ ng¬i. Tõ ¸nh s¸ng cña mµu xanh m¸t dÞu trong l¨ng, nhµ th¬ liªn tëng tíi
vÇng tr¨ng s¸ng dÞu hiÒn ru giÊc ngñ cho B¸c.
+ H×nh ¶nh “vÇng tr¨ng” ®îc nhµ th¬ dïng thËt thÝch hîp khi nãi ®Õn B¸c. H×nh ¶nh
“vÇng tr¨ng” gîi giÊc ngñ ban ®ªm bëi mét mÆt ViÔn Ph¬ng kh«ng muèn c¶m nhËn mét
giÊc ngñ vÜnh viÔn gi÷a ban ngµy. MÆt kh¸c t¸c gi¶ muèn ®a vÇng tr¨ng vµo n©ng niu,
«m Êp, táa s¸ng cho giÊc ngñ cña B¸c v× sinh thêi Ngêi rÊt yªu tr¨ng, coi tr¨ng nh ngêi b¹n
tri ©m tri kØ g¾n bã th¾m thiÕt cña Ngêi.
- T©m tr¹ng xóc ®éng cña nhµ th¬ l¹i ®îc biÓu biÖn b»ng mét h×nh ¶nh th¬ Èn dô diÔn
t¶ sù mÊt m¸t vµ nçi nhí th¬ng mét c¸ch ®éc ®¸o :VÉn biÕt trêi xanh lµ m·i m·i
Mµ sao nghe nhãi ë trong tim
B¸c ra ®i nhng ®· hãa th©n vµo thiªn nhiªn, ®Êt trêi cña d©n téc, nh Tè H÷u ®· tõng viÕt
: “B¸c sèng nh trêi ®Êt cña ta”. Trong cuéc sèng yªn b×nh h«m nay, ®©u ®©u ta còng nh

182
thÊy mét phÇn c«ng lao cña B¸c. B¸c sÏ cßn m·i víi non s«ng ®Êt níc. Dï lý trÝ m¸ch b¶o
nhµ th¬ lµ B¸c cßn sèng m·i nhng tr¸i tim nh¶ th¬ vÉn m¸ch r»ng B¸c ®· m·i ra ®i. Bëi
vËy nhµ th¬ kh«ng sao ng¨n ®îc nçi ®au : “Nghe nhãi ë trong tim”. §ã lµ nç ®au xãt, tª
t¸i, quÆn th¾t ®Õn cùc ®é ! Mét sù mÊt m¸t kh«ng g× cã thÓ bï ®¾p ®îc ! C©u th¬ tùa
nh mét tiÕng nÊc nghÑn ngµo ! §©y còng lµ t©m tr¹ng vµ c¶m xóc cña nh÷ng ngêi ®·
tõng vµo l¨ng viÕng B¸c.
3.Khæ 4 : KhÐp l¹i nçi ®au mÊt m¸t Êy lµ nh÷ng giät níc m¾t luyÕn tiÕc, bÞn rÞn
kh«ng muèn rêi xa B¸c
Mai vÒ miÒn Nam th¬ng trµo níc m¾t
Muèn lµm con chim hãt quanh l¨ng B¸c
Muèn lµm b«ng hoa táa h¬ng ®©u ®©y
Muèn lµm c©y tre trung hiÕu chèn nµy
- C©u th¬ më ®Çu cho nh÷ng dßng th¬ cuèi cïng nh mét lêi gi· biÖt. Nhµ th¬ nghÜ tíi
lóc ph¶i trë vÒ miÒn Nam, ph¶i xa B¸c chØ trong kho¶ng c¸ch kh«ng gian ®Þa lý mµ c©u
th¬ viÕt nªn thËt xóc ®éng. Mçi ch÷, mçi c©u nh thÊm ®Çy c¶m xóc. Tõ “trµo” diÔn t¶
c¶m xóc thËt m·nh liÖt ! T×nh th¬ng, lßng kÝnh yªu cña nhµ th¬ nh nÐn gi÷a t©m hån
trong phót gi©y ®Çy nhí nhung, lu luyÕn nµy ®· bËt lªn thµnh bao íc nguyÖn.
- Nhµ th¬ muèn ®îc hãa thµnh con chim ®Ó cÊt lªn tiÕng hãt quanh l¨ng B¸c. Råi nhµ
th¬ l¹i muèn lµm ®ãa hoa táa h¬ng th¬m ng¸t bªn Ngêi. Vµ cuèi cïng lµ mong muèn ®îc
hãa thµnh c©y tre trung hiÕu canh giÊc ngñ cho B¸c m·i m·i yªn b×nh. Ta thÊy mäi íc
väng kh¸t khao trong c¸i t©m nguyÖn ®ã cña nhµ th¬ ®Òu quy tô l¹i mét ®iÓm lµ mong
®îc gÇn B¸c, ë bªn B¸c. ¦íc väng Êy cao ®Ñp vµ trong s¸ng qu¸ bëi nã thÓ hiÖn ®îc c¸i
t©m niÖm ch©n thµnh cña nhµ th¬ mµ còng hÕt søc tha thiÕt : H·y lµm mét c¸i g× ®ã dï
lµ rÊt nhá cã Ých cho ®êi ®Ó xøng ®¸ng víi sù hy sinh lín lao mµ ngêi ®· dµnh cho ®Êt
níc, nh©n d©n. §iÖp ng÷ “muèn lµm” ®îc lÆp l¹i ba lÇn ®Ó nhÊn m¹nh ý nguyÖn thiÕt
tha vµ t©m tr¹ng lu luyÕn ®ã.
- Ta tr©n träng n©ng niu nh÷ng íc väng cao ®Ñp cña nhµ th¬. §· gÇn 40 n¨m tõ ngµy Êy
mµ tÊm lßng kÝnh yªu cña nh©n d©n ta víi vÞ cha giµ cña d©n téc vÊn kh«ng mét chót
mai mét. T×nh c¶m cña nh©n d©n vµ cña t¸c gi¶ ®· lµm ta nh÷ng ®øa con non trÎ xóc
®éng s©u s¾c. Xin nguyÖn nh ViÔn Ph¬ng : sèng mét cuéc ®êi ®Ñp ®Ó trë thµnh
nh÷ng b«ng hoa ®Ñp d©ng B¸c.
III .KÕt luËn
“ViÕng l¨ng B¸c” lµ bµi th¬ ®Ñp vÒ h×nh ¶nh, hay vÒ c¶m xóc ®· ®Ó l¹i trong lßng
ngêi ®äc niÒm xóc ®éng s©u xa. Bµi th¬ lµ nh÷ng giai ®iÖu s©u l¾ng cña niÒm
thµnh kÝnh thiªng liªng, nçi nhí th¬ng luyÕn tiÕc mµ nh÷ng ngêi con MiÒn Nam nãi
riªng, nh©n d©n ViÖt Nam nãi chung dµnh cho B¸c.
.
...............................................................................................
BÀI 10: SANG THU

A. Kiến thức cần nhớ:


1. Tác giả:

183
- Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942 - quê ở Tam Dương - Vĩnh Phúc
- Là nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
- Thơ Hữu Thỉnh ấm áp tình người và giàu sức gợi cảm.Ông viết nhiều và hay về con
người, cuộc sống ở nông thôn về mùa thu.
- Có nhiều tập thơ, trường ca nổi tiếng.
- Hiện là Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
+ 1977, in lần đầu trên báo văn nghệ, in lại nhiều lần trong các tập thơ.
+ Rút từ tập “Từ chiến hào đến thành phố”, NXB Văn học, Hà Nội, 1991
b. Thể thơ: Năm tiếng - ngũ ngôn
c. Phương thức biểu đạt: trữ tình kết hợp với miêu tả và biểu cảm.

B. Phân tích bài thơ:

* Giới thiệu:
Mùa thu không chỉ làm rung động lòng thi nhân mà còn đem đến cho ta những xúc cảm
nhẹ nhàng, êm ái gợi nhiều thương nhớ bâng khuâng…. Thường thường, các nhà thơ chỉ
cảm nhận về mùa thu ở một số hình ảnh tiêu biểu như sắc trời xanh ngắt, gió thu se lạnh
và màu vàng tượng trưng cho mùa thu. Ở một số thi nhân có thêm những cảm nhận riêng:
với Xuân Diệu là : “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang…, với Lưu Trọng Lư là tiếng lá kêu
xào xạc và tiếng chân con nai vàng đạp trên lá vàng khô, với Nguyễn Đình Thi là hương
cốm đầu mùa…. Nét đặc biệt của Hữu Thỉnh trong bài thơ này là nhà thơ đã cảm nhận cái
thời khắc sang thu bằng cả một hệ thống hình ảnh thiên nhiên qua nhiều yếu tố và bằng
nhiều giác quan với sự rung động thật tinh tế. Mười hai câu thơ ngắn mà có đến mười hình
ảnh thiên nhiên được nói đến lúc đất trời chuyển sang thu: hương ổi, gió se, sương, sông,
chim, mây, nắng, mưa, sấm và cuối cùng là hàng cây đứng tuổi. Toàn là những hình ảnh
gần gũi, quen thuộc đối với mỗi người chúng ta và điều này làm cho bài thơ dễ đến với
người đọc. Nhưng điều quan trọng nhất chính là sự cảm nhận tinh tế của ông đối với từng
hiện tượng thiên nhiên lúc giao mùa và những rung động ấy đã lan truyền sang ta như một
tiếng nói đồng điệu.
* Khổ 1: Là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời.
a.Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình (hương, gió), mờ ảo (sương chùng
chình), nhỏ hẹp và gần (ngõ) => Đó là những cảm nhận rất riêng của nhà thơ.
- Đầu tiên là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại trong
những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong gió se”, đem
đến hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến nhà thơ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng
trước sự thay đổi của thiên nhiên.Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả mùi hương ổi thơm
nồng nàn lan toả. Gió se là gió nhẹ, khô và hơi lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa
thu đã đến. Gió se mang theo hương ổi của đồng quê. Nhận ra trong gió có hương ổi là
cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín

184
hiệu mùa thu dân dã mà thi vị, ông đã phát hiện ra một nét đẹp thật đáng yêu của mùa thu
vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
- Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu thu là hương ổi, làn gió và sương thu. Nhưng không phải
là “sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là : “Sương chùng chình qua ngõ”- một
hình ảnh lung linh huyền ảo. Không còn là những hạt sương mà đã là một màn sương
mỏng nhẹ trôi, đang chuyển động chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. “Chùng chình”là
từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý chậm lại. Nhà thơ đã thổi hồn vào
câu thơ khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập
ngừng khi qua ngõ nhà ai……
b. Con ngêi( nhà thơ).
- Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu giác, cả
xúc giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. Từ
“hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên trong cái cảm
xúc bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Qua đó, ta hiểu tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu
thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết.
*khổ 2: Nhưng rồi mùa thu dần dần đến và hiện ra ngày càng rõ hơn trước mắt nhà
thơ
- Sự vận động của h/a thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hoá bằng những
đổi thay của vạn vật. Sông lúc sang thu không còn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè
mưa lũ, mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm xuống. Một chữ “dềnh dàng” mà
nói lên được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả của con sông mùa thu, ngỡ như nó được
nghỉ ngơi thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đã đi qua.
- Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã bay về tổ lúc hoàng hôn. Từ
bắt đầu” trong ý thơ được dùng rất độc đáo “bắt đầu vội vã” chứ không phải là “đang vội
vã”. Phải tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu
trong những cánh chim bay.
- Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” còn vương lại. Và mây lưu luyến
bắc chiếc cầu:
“Vắt nửa mình sang thu”.
Một liên tởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt vai, con
đường mòn vắt ngang sườn núi….Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình một hình
ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của
mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được
sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này.Trong “chiều
sông thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ
bóng về Bố Hạ.”
c. Khúc giao mùa của không gian và thời gian khi sang thu còn được thể hiện ở chiều
sâu suy ngẫm trong khổ cuối.
- Khổ cuối nói về những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với những
nhận xét tinh tế của môộ người am hiểu tường tận các hiện tượng thời tiết này:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa

185
+Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ nhạt dần,
nhưng lúc giao mùa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày sang thu, đã ít đi
những cơn mưa rào ào ạt vàcũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ thường chỉ có trong mùa
hạ. Các từ ngữ : “vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất ngờ” vừa cho thấy, vẫn còn đó dấu
ấn, vẫn còn đó dư âm của mùa hạ. Nhưng tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định
mang nét đặc trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa
kín đáo bộc lộ cảm xúc giao mùa của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với
thiên nhiên.
+ Bài thơ khép lại bằng hai dòng thơ hàm chứa ý nghĩa:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Hai dòng cuối bài có hai tầng ý nghĩa: tả thực và ẩn dụ - gợi ta liên tưởng đến một tầng ý
nghĩa khác – ý nghĩa về con người và cuộc sống. Những tiếng sấm bất ngờ của mùa hạ đã
bớt đi lúc sang thu (cũng có thể hiểu: hàng cây không còn bị bất ngờ, bị giật mình vì tiếng
sấm nữa), nhưng đó còn là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Và
hàng cây đứng tuổi ở đây vừa gợi lên hình ảnh những hàng cây không phải là còn non, vừa
gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của
cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng.
Hai câu kết đã khép lại bài thơ vừa là hình ảnh thiên nhiên sang thu, vừa là suy nghĩ chiêm
nghiệm về bản thân, về con người, về đât nước. Nó vừa trang nghiêm chững chạc, vừa
bâng khuâng khiêm nhường nhưng cũng đầy tự hào kiêu hãnh. Chính nhà thơ Hữu Thỉnh
tâm sự: với hình ảnh này, ông muốn gửi gắm suy nghĩ của mình: khi con người đã từng trải
thì cũng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (1).
Bài thơ kết thúc, nhưng dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục nghĩ suy thêm về cái điều nhà
thơ tâm sự.

C. Câu hỏi luyện tập:

C©u 1: Bằng đoạn văn khoảng 8 câu, hãy phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về
biến chuyển trong không gian lúc sang thu ở khổ thơ:
Bỗng nhận ra hương ổi.
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
(Sang thu - Hữu Thỉnh)
Gợi ý:
a. Về hình thức: trình bày bài tập bằng một đoạn văn ngắn khoảng 8 câu, có thể dùng đoạn
diễn dịch, quy nạp hoặc tổng hợp – phân tích - tổng hợp.
- Đoạn văn diễn đạt mạch lạc, tự nhiên, không mắc lỗi về diễn đạt.
b. Về nội dung:

186
- Phân tích để thấy biến chuyển trong không gian được nhà thơ cảm nhận tinh tế qua
hương ổi chín đậm, nồng nàn phả vào gió se, lan toả trong không gian và qua làn sương
mỏng “chùng chình” chuyển động chầm chậm, nhẹ nhàng đầu ngõ, đường thôn.
- Trạng thái cảm giác về mùa thu đến của nhà thơ được diễn tả ở các từ “bỗng, hình như”
mở đầu và kết thúc khổ thơ, đó là sự ngạc nhiên thú vị như còn chưa tin hẳn, là tâm trạng
ngỡ ngàng bâng khuâng, xao xuyến của một hồn thơ.
C©u 2 : Viết đoạn v¨n khoảng 6 câu trình bày cách hiểu của em về hai câu thơ cuối bài
“sang thu” (Hữu Thỉnh):
Sấm cũng bớt bất ngờ.
...........
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Gợi ý:
Trong đoạn văn này người viết cần trình bày được cách hiểu hai câu thơ cả về nghĩa
cụ thể và về nghĩa ẩn dụ.
- Tầng nghĩa cụ thể - nghĩa tường minh diễn tả ý: sang thu, mưa ít đi, sấm cũng bớt. Hàng
cây không còn bị giật mình vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Đó là hiện tượng tự nhiên.
- Tầng nghĩa thứ hai (ẩn dụ): suy ngẫm của nhà thơ về dân tộc, về con người: khi đã từng
trải, con người đã vững vàng hơn trước những tác động bất ngờ của ngoại cảnh, của cuộc
đời.
C©u 3: Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình ảnh “đám mây mùa
hạ” trong khổ thơ :
Sông được lúc dềnh dàng.
Chim bắt đầu vội vã.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
Gợi ý:
Đoạn văn có thể gồm các ý:
- H×nh ảnh được cảm nhận tinh tế kết hợp trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ.
- Diễn tả hình ảnh đám mây mùa hạ còn sót lại trên bầu trời thu trong xanh, mỏng, kéo dài
nhẹ trôi rất hững hờ như còn vương vấn, lưu luyến không nỡ rời xa, cảnh có hồn.
- Đó là hình ảnh gợi cảm giác giao mùa, hạ đã qua mà thu chưa đến hẳn.
.................................................................................
Bài 11: NÓI VỚI CON
(Y Phưong)

A, Kiến thức cần nhớ


1. Tác giả:
-Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948, quê ở huyện
Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Y Phương ra nhập ngũ ngăm 1968, phục vụ trong quân đội
đến năm 1981, chuyển công tác về Sở văn hoá Thông tin Cao Bằng. TỪ năm 1993, ông
được bầu là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thơ Y Phương thể hiện tâm hồn
chân thật, mạch mẽ và trong sáng, cách tư duy hình ảnh của con người miền núi.

187
2.Tác phẩm:
- Bài thơ “Nói với con” rất tiêu biểu cho hồn thơ Y Phương: yêu quê hương, làng bản, tự
hào và gắn bó với dân tộc mình.
- Mượn lời nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, gợi về
sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình.
- Bố cục:
+ Đoạn 1: ( từ đầu đến “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”): Con lớn lên trong tình yêu
thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê hương.
+ Đoạn 2: (phần còn lại): Lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống cao
đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.
=> với bố cục này, bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ
những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống. Bài thơ đã vượt ra khỏi phạm vi gia đình
để mang một ý nghĩa khái quát: Nói với con nhưng cũng là để nói với mọi người về một
tư thế, một cách sống.

B. Gợi ý phân tích bài thơ:

1. Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội nguồn
sinh dưỡng của mỗi con người.
Cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương - cái nôi êm để từ
đó con lớn lên, trưởng thành với những nét đẹp trong tình cảm, tâm hồn.Phải chăng đó là
điều đầu tiên người cha muốn nói với đứa con của mình.
-Ngay từ bốn câu thơ đầu tiên người cha đã gợi ra một hình ảnh đầm ấm của gia đình qua
cách nói thật lạ:
Chân phải/ bước tới cha
Chân trái/ bước tới mẹ
Một bước / chạm tiếng nói
Hai bước / tới tiếng cười.
Nhịp thơ 2/ 3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui,
quấn quýt: chân phải - chân trái , rồi một bước - hai bước , rồi lại “tiếng nói - tiếng
cười”…. Ta rất dễ hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con
đang tập đi, cha mẹ vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi,
từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. Cả
ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói, tiếng cười” của cha, của mẹ. Tuy nhiên, đằng sau
lời nói cụ thể đó, tác giả muốn khái quát một điều lớn hơn: con sinh ra trong hạnh phúc
(cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới. Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời) và lớn lên bằng tình yêu
thương, trong sự nâng đón, vỗ về, mong chờ của cha mẹ. Những hình ảnh ấm êm với cha
và mẹ, những âm thanh sống động, vui tươi với tiếng nói tiếng cười là những biểu hiện của
một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh ấm lòng này
muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con người. Đó sẽ là hành trang quý báu đối với
cuộc đời, tâm hồn con.

188
- Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê hương thơ mộng nghĩa tình và
cuộc sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con được
bồi đắp thêm lên.
+ Ở khổ thơ tiếp theo này, tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của người
miền núi - nơi sinh dưỡng của chính mình - để nói những điều chân thực về quê hương
rừng núi:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.”
+ Y Phương có cách gọi rất độc đáo về những con người quê hương: “người đồng mình”,
một cách gọi rất gần gũi và thân thương. Cách gọi ấy gắn liền với lời đối thoại tha thiết
“con ơi”.
+ Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể của người dân tộc khiến người con có thể
hiểu được: Người đồng mình đáng yêu như thế nào. Họ sống rất đẹp. Cuộc sống lao động
cần cù và tươi vui của “người đồng mình” - người bản mình- người buôn làng mình được
gợi lên qua các hình ảnh đẹp, đậm sắc màu dân tộc. Họ làm một cách nghệ thuật từ cá
dụng cụ lao động để bắt cá thường ngày : “đan lờ cài nan hoa”. Trong căn nhà của họ, lúc
nào cũng vang lên tiếng hát: “vách nhà ken câu hát”. Những động từ “đan, ken, cài” rất
gợi cảm bên cạnh giúp cho người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con
người trên quê hương còn gợi ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và
của quê hương, xứ sở.
+ Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê
hương giàu đẹp, nghĩa tình. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một
hình ảnh gắn liền với cảnh quan miền núi:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với
những hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng
chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của
rừng thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về
cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rấ lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh
tuý nhất. Hoa trong “NÓi với con” có thể là hoa thực - như một đặc điểm của rừng - và khi
đặt trong mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều
tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm
hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân
thương với con. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong
tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng
nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của
con người.
=>Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra
lối sống tình nghĩa của “người đồng mình” Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào
cuộc sống êm đềm.

189
2. Lòng tự hào về vẻ đẹp của “người đồng mình” và mong ước của người cha.
- Người đồng mình không chỉ “yêu lắm” với những hình ảnh đẹp đẽ, giản dị gợi nhắc cội
nguồn sinh dưỡng tâm hồn, tình cảm, lối sống cho con người mà còn với những đức tính
cao đẹp, đáng tự hào. Trong cái ngọt ngào kỉ niệm gia đình và quê hương, người cha đã tha
thiết nói với con về những phẩm chất cao đẹp của con người quê hương.
+ Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con
người quê hương. Lời gọi con thật tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người đồng
mình thương lắm con ơi!”
Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm xúc “thương lắm con ơi”, đó là tình cảm yêu thương, yêu
thương một cách xót xa. Người cha đã lần lượt ngợi ca những phẩm chất dễ thương của
“người đồng mình”với cách nói vừa rất cụ thể của người dân miền núi: “Cao đo nỗi buồn.
Xa nuôi chí lớn” vừa mang sức khái quát. Lấy sự từng trả (buồn) để đo chiều cao, lấy chí
lớn để đánh giá độ xa.
+ Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như : “sông, suối, thác, ghềnh” đã được người
cha dùng với tính chất biểu trưng cho khó khăn, gian khổ vá sức mạnh vượt khó khăn gian
khổ của những con người của quê hương.
+ Người đồng mình không sợ gian khổ, nghèo đói. Sự chấp nhận gian khổ ấy thể hiện
trong điệp ngữ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết: “vẫn muốn”. Và ông đã tự ví
“người đồng mình”mạnh mẽ, hồn nhiên như sông như suối qua các hình ảnh cụ thể “đá,
thung, những thác những ghềnh …, dù có lên thác, xuống ghềnh vẫn không nhụt chí khí.
Cặp từ trái nghĩa “lên, xuống” đã làm mạnh thêm sự diễn đạt này. Dù quê hương vất vả,
nhọc nhằn, dù “người đồng mình” có thể có nỗi đau buồn rất lớn nhưng những người con
của quê hương không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau, cắt rốn, cha mẹ
đã từng cáy xới vun trồng. Và phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn đầy nỗi khổ đau ấy
lại khiến cho “chí lớn” thêm lên, thêm mãnh liệt?
- Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con
phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê
hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.

- Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập
tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong nhưng rất đúng với
người miền núi:
“ Người đồng mình thô sơ đa thịt.
Chẳng mấy ai nhỏ bé được đâu con”
+ Đó là những con người sống giản dị mà mạnh mẽ, hồn nhiên mà mộc mạc. Người
miền núi tuy có thể mộc mạc, thô sơ da thịt, có thể không biết nói khéo, không biết nói
hay… nhung ý nghĩ của họ, phẩm chất của họ thì thật là cao đẹp. Chính cái hồn nhiên mộc
mạc ấy lại chứa đựng sức sống mạnh mẽ của dân tộc ; giầu chí khí, niềm tin, không hề nhỏ
bé về tâm hồn, về ý chí và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Ý chí và mong ước
ấy được cô đúc trong hai câu thơ vừa có hình ảnh cụ thể lại vừa hàm chứa ý nghĩa sâu sắc:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

190
+ Việc “ đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực, nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm dể
làm rạng rỡ quê hương. Chính những đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn
nại hàng ngày đã tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với phong tục
tập quán tốt đẹp. Người cha đã tâm sự với con về tất cả những gì tốt đẹp nhất của người
quê hương, nơi con đang sinh sống, cái nôi đang nuôi con khôn lớn, trưởng thành.
* Nói với con là lời thủ thỉ tâm tình của người cha với con về quê hương, 1 quê hương
nhọc nhằn vất vả đã nuôi dưỡng chí lớn cho những đứa con. Quê hương với sức sống giản
dị mà mãnh liệt, hồn nhiên mà mạnh mẽ. Tất cả được thể hiện qua thể thơ tự do với những
từ ngữ, hình ảnh mộc mạc, cụ thể nhưng lại có sức khái quát sâu sắc.Gửi trong những lời
tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy
truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn
con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.
- Không chỉ gửi mong ước của mình đầy tự hào, kết thúc bài thơ, người cha còn bộc lộ trực
tiếp niềm mong ước này trong lời thủ thỉ dặn dò con thiết tha, chân tình, trìu mến trong
tiếng gọi “con ơi!” và lời nhắn nhủ “nghe con”. Song cái điều người cha nói với con thì
thật là ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc, đồng thời lại có chút nghiêm nghị của mệnh lệnh trái
tim:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Câu thơ ngắn lại như khắc sâu, có câu chỉ có hai tiếng. Điều mà người cha muốn khuyên
con qua cách nhắc lại một phẩm chất của người đồng mình đã nêu ở trên: nghĩa là phải
sống cho cao đẹp. Trong những lời thơ cuối cùng ấy, người cha dặn dò con cần tự tin mà
vững bước trên đường đời, tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của “người đồng
mình”.Con sống được như thế chính là con phát huy được truyền thống tốt đẹp của cha
ông, của quê hương yêu dấu.

C. Mét sè c©u hái luyện tập.

Câu 1: Nêu cảm nhận về những câu thơ mở đầu bài: “Nói với con”của Y Phương:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ.
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước chạm tiếng cười.
Gợi ý:
Em có thể nêu các ý sau về những câu thơ mở đầu bài “Nói với con” (Y Phương)
- Bằng các hình ảnh thật cụ thể, Y Phương đã tạo nên hình ảnh một mái ấm gia đình rất
hạnh phúc, đầm ấm và quấn quýt.
+ Người con được nuôi dưỡng chở che trong vòng tay ấm áp của cha mẹ.
+ Con được lớn lên từng ngày trong tình yêu thương, trong sự nâng đón và mong chờ của
cha mẹ.

191
+ Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, vui mừng,
đón nhận.
- Lời thơ rất đặc biệt: nói bằng hình ảnh, cách hình dung cụ thể để diễn tả ý trừu tượng của
người miền Núi khiến câu thơ mộc mạc mà gợi cảm khiến cho tình cha con thêm chân
thành, thấm thía. Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra âm điệu tươi
vui, quấn quýt: chân phải, chân trái rồi một bước, hai bước rồi lại tiếng nói, tiếng
cười….tạo nên không khí gia đình đầm ấm mà đứa con đang lớn lên từng ngày trong tình
yêu thưoơg, chăm sóc và mong chờ của cha mẹ.
- Cha nói với con lời đầu tiên đó để nhắc nhở con về tình cảm gia đình ruột thịt, về cội
nguồn của mỗi người.
Câu 2: Cha muốn nói với con điều gì trong những dòng thơ sau:
Đan lờ cài nan hoa.
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Gợi ý:
- Con được trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa
tình của quê hương.
+ Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được nhà thơ gợi lên qua
các hình ảnh đẹp: “Đan lờ cài nan hoa. Vách nhà ken câu hát”. Các động từ “cài, ken”
được dùng rất gợi cảm vừa miêu tả cụ thể công việc lao động của người miền núi, vừa nói
lên sự gắn bó, quấn quýt.
+ Rừng núi quê hương thật thơ mộng và nghĩa tình. “Rừng cho hoa” là cho cái đẹp, một
chữ “hoa” đủ nói lên vẻ thơ mộng của rừng núi quê hương. “Con đường cho những tấm
lòng” là cho nghĩa tình, tâm hồn và lối sống. Rừng núi đâu chỉ là thiên nhiên, cây, đá mà
còn là tình người, là những tấm lòng yêu thương gắn bó bên nhau.
Câu 3: Nhà thơ Y Phương muốn nói với con điều gì trong những dòng thơ sau:
Người đồng mình thương lắm con ơi
….. không lo cực nhọc”
Gợi ý:
- Trong cái ngọt ngào kỉ niệm gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với con về
những phẩm chất cao đẹp của con người quê hương qua cách nói rất khác lạ mà cũng rất
hay: “Người đồng mình thương lắm con ơi…. không lo cực nhọc”
+ Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con
người quê hương. Lời gọi con thật tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người đồng
mình thương lắm con ơi!”
+ Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm xúc “thương lắm con ơi”, đó là tình cảm yêu thương, yêu
thương một cách xót xa. Người cha đã lần lượt ngợi ca những phẩm chất dễ thương của
“người đồng mình”với cách nói vừa rất cụ thể của người dân miền núi: “Cao đo nỗi buồn.

192
Xa nuôi chí lớn” vừa mang sức khái quát. Lấy sự từng trải để đo chiều cao, lấy chí lớn để
đánh giá độ xa.
+ Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như : “sông, suối, thác, ghềnh” đã được người
cha dùng với tính chất biểu trưng cho khó khăn, gian khổ vá sức mạnh vượt khó khăn gian
khổ của những con người của quê hương.
+ Người đồng mình không sợ gian khổ, nghèo đói. Sự chấp nhận gian khổ ấy thể hiện
trong điệp ngữ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết: “vẫn muốn”. Và ông đã tự ví
“người đồng mình”mạnh mẽ, hồn nhiên như sông như suối qua các hình ảnh cụ thể “đá,
thung, những thác những ghềnh …, dù có lên thác, xuống ghềnh vẫn không nhụt chí khí.
Cặp từ trái nghĩa “lên, xuống” đã làm mạnh thêm sự diễn đạt này. Dù quê hương vất vả,
nhọc nhằn, dù “người đồng mình” có thể có nỗi đau buồn rất lớn nhưng những người con
của quê hương không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau, cắt rốn, cha mẹ
đã từng cáy xới vun trồng. Và phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn đầy nỗi khổ đau ấy
lại khiến cho “chí lớn” thêm lên, thêm mãnh liệt?
- Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con
phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê
hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.

Câu 4: Viết đoạn văn ngắn có dùng lời dẫn trực tiếp để nêu suy nghĩ của em về những
điều người cha nói với con trong các câu thơ sau:
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé được đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Gợi ý:
- Người cha đã ca ngợi đức tính cao đẹp của người đồng mình bằng những hình ảnh đầy ấn
tượng
+ Đó là “người đồng mình thô sơ da thịt”, những con người chân chất, khoẻ khoắn, họ mộc
mạc mà không nhỏ bé về tâm hồn, ý chí. Họ tự chủ trong cuộc sống, giàu bản lĩnh, đầy
niềm tin.
+ Đó là những con người tự đục đá kê cao quê hương, lao động cần cù không lùi bước
trước khó khăn. Tất cả những điều đó đã khiến họ giữ vững bản sắc văn hoá của dân tộc.
+ Họ yêu quê hương, lấy quê hương làm chỗ dựa tâm hồn
- Nói với con về những điều đó, người cha mong con biết tự hào về truyền thống của quê
hương, tự hào về dân tộc để tự tin trong cuộc sống.
Tập làm văn: Phân tích tình cảm cha con trong bài thơ : “Nói với con”
A. Mở bài:
Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên sơ
nhưng cũng thiêng liêng nhất của con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước
mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể
hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày những sắc thái tình cảm ấy
lên trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “nói với con” của tác giả Y Phương một

193
cách diễn đạt mộc mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha, những
lời dặn dò ân cần, chia sẻ của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê
hương yêu dấu của mình.
B. Thân bài:
Luận điểm 1: Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về
cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.
a. Mở đầu bài thơ, bằng những lời tâm tình với con, Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh
dưỡng của mỗi con người.
Cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương - cái nôi êm để từ
đó con lớn lên, trưởng thành với những nét đẹp trong tình cảm, tâm hồn.Phải chăng đó là
điều đầu tiên người cha muốn nói với đứa con của mình.
-Ngay từ bốn câu thơ đầu tiên người cha đã gợi ra một hình ảnh đầm ấm của gia đình qua
cách nói thật lạ:
Chân phải/ bước tới cha
Chân trái/ bước tới mẹ
Một bước / chạm tiếng nói
Hai bước / tới tiếng cười.
Nhịp thơ 2/ 3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui,
quấn quýt: chân phải - chân trái , rồi một bước - hai bước , rồi lại “tiếng nói - tiếng
cười”…. Ta rất dễ hình dung một hình ảnh cụ thể thường gặp trong đời sống: đứa con
đang tập đi, cha mẹ vây quanh mừng vui, hân hoan theo mỗi bước chân con. Từng bước đi,
từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận. Cả
ngôi nhà như rung lên trong “tiếng nói, tiếng cười” củ cha, của mẹ. Tuy nhiên, đằng sau lời
nói cụ thể đó, tác giả muốn khái quát một điều lớn hơn: con sinh ra trong hạnh phúc (cha
mẹ mãi nhớ về ngày cưới. Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời) và lớn lên bằng tình yêu
thương, trong sự nâng đón, vỗ về, mong chờ của cha mẹ. Những hình ảnh ấm êm với cha
và mẹ, những âm thanh sống động, vui tươi với tiếng nói tiếng cười là những biểu hiện của
một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt, hạnh phúc tràn đầy. Hình ảnh ấm lòng này
muôn thuở vẫn là khát vọng hạnh phúc của con người. Đó sẽ là hành trang quý báu đối với
cuộc đời, tâm hồn con.
- Bên cạnh tình cảm gia đình thắm thiết, hạnh phúc, quê hương thơ mộng nghĩa tình và
cuộc sống lao động trên quê hương cũng giúp con trưởng thành, giúp tâm hồn con được
bồi đắp thêm lên.
+ Ở khổ thơ tiếp theo này, tác giả đã sử dụng những cách nói, những hình ảnh của người
miền núi - nơi sinh dưỡng của chính mình - để nói những điều chân thực về quê hương
rừng núi:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.”
+ Y Phương có cách gọi rất độc đáo về những con người quê hương: “người đồng mình”,
một cách gọi rất gần gũi và thân thương. Cách gọi ấy gắn liền với lời đối thoại tha thiết
“con ơi”.

194
+ Người cha đã có cách lí giải rất cụ thể của người dân tộc khiến người con có thể
hiểu được: Người đồng mình đáng yêu như thế nào. Họ sống rất đẹp. Cuộc sống lao động
cần cù và tươi vui của “người đồng mình” - người bản mình- người buôn làng mình được
gợi lên qua các hình ảnh đẹp, đậm sắc màu dân tộc. Họ làm một cách nghệ thuật từ cá
dụng cụ lao động để bắt cá thường ngày : “đan lờ cài nan hoa”. Trong căn nhà của họ, lúc
nào cũng vang lên tiếng hát: “vách nhà ken câu hát”. Những động từ “đan, ken, cài” rất
gợi cảm bên cạnh giúp cho người đọc hình dung được những công việc cụ thể của con
người trên quê hương còn gợi ra tính chất gắn bó, hoà quyện, quấn quýt của con người và
của quê hương, xứ sở.
+ Cuộc sống lao động ấy, sinh hoạt gia đình đầy niềm vui ấy được đặt trong cả một quê
hương giàu đẹp, nghĩa tình. Quê hương của “người đồng mình” với hình ảnh rừng, một
hình ảnh gắn liền với cảnh quan miền núi:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với
những hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng
chim thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của
rừng thiêng….. Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về
cảnh quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rấ lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh
tuý nhất. Hoa trong “NÓi với con” có thể là hoa thực - như một đặc điểm của rừng - và khi
đặt trong mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều
tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm
hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hương còn hiện diện trong những gì gần gũi, thân
thương với con. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong
tâm hồn mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng
nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cũng như lối sống của
con người.
=>Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra
lối sống tình nghĩa của “người đồng mình” Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào
cuộc sống êm đềm.
Luận điểm 2: Lòng tự hào về vẻ đẹp của “người đồng mình” và mong ước của người
cha.
- Người đồng mình không chỉ “yêu lắm” với những hình ảnh đẹp đẽ, giản dị gợi nhắc cội
nguồn sinh dưỡng tâm hồn, tình cảm, lối sống cho con người mà còn với những đức tính
cao đẹp, đáng tự hào. Trong cái ngọt ngào kỉ niệm gia đình và quê hương, người cha đã tha
thiết nói với con về những phẩm chất cao đẹp của con người quê hương.
+ Tổ hợp từ “người đồng mình” được lặp lại ba lần đã gây ấn tượng không phai mờ về con
người quê hương. Lời gọi con thật tha thiết, lời nhắn nhủ thật chân thành: “Người đồng
mình thương lắm con ơi!”
Đoạn thơ bắt đầu bằng cảm xúc “thương lắm con ơi”, đó là tình cảm yêu thương, yêu
thương một cách xót xa. Người cha đã lần lượt ngợi ca những phẩm chất dễ thương của
“người đồng mình”với cách nói vừa rất cụ thể của người dân miền núi: “Cao đo nỗi buồn.

195
Xa nuôi chí lớn” vừa mang sức khái quát. Lấy sự từng trả (buồn) để đo chiều cao, lấy chí
lớn để đánh giá độ xa.
+ Những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như : “sông, suối, thác, ghềnh” đã được người
cha dùng với tính chất biểu trưng cho khó khăn, gian khổ vá sức mạnh vượt khó khăn gian
khổ của những con người của quê hương.
+ Người đồng mình không sợ gian khổ, nghèo đói. Sự chấp nhận gian khổ ấy thể hiện
trong điệp ngữ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết: “vẫn muốn”. Và ông đã tự ví
“người đồng mình”mạnh mẽ, hồn nhiên như sông như suối qua các hình ảnh cụ thể “đá,
thung, những thác những ghềnh …, dù có lên thác, xuống ghềnh vẫn không nhụt chí khí.
Cặp từ trái nghĩa “lên, xuống” đã làm mạnh thêm sự diễn đạt này. Dù quê hương vất vả,
nhọc nhằn, dù “người đồng mình” có thể có nỗi đau buồn rất lớn nhưng những người con
của quê hương không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã từng chôn rau, cắt rốn, cha mẹ
đã từng cáy xới vun trồng. Và phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn đầy nỗi khổ đau ấy
lại khiến cho “chí lớn” thêm lên, thêm mãnh liệt?
- Gửi trong những lời tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con
phải tiếp nối, phát huy truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê
hương đồng thời muốn con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.

- Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập
tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong nhưng rất đúng với
người miền núi:
“ Người đồng mình thô sơ đa thịt.
Chẳng mấy ai nhỏ bé được đâu con”
+ Đó là những con người sống giản dị mà mạnh mẽ, hồn nhiên mà mộc mạc. Người
miền núi tuy có thể mộc mạc, thô sơ da thịt, có thể không biết nói khéo, không biết nói
hay… nhung ý nghĩ của họ, phẩm chất của họ thì thật là cao đẹp. Chính cái hồn nhiên mộc
mạc ấy lại chứa đựng sức sống mạnh mẽ của dân tộc ; giầu chí khí, niềm tin, không hề nhỏ
bé về tâm hồn, về ý chí và đặc biệt là khát vọng xây dựng quê hương. Ý chí và mong ước
ấy được cô đúc trong hai câu thơ vừa có hình ảnh cụ thể lại vừa hàm chứa ý nghĩa sâu sắc:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
+ Việc “ đục đá” là khó, là đòi hỏi nghị lực, nhưng người quê hương ta đã làm,vẫn làm dể
làm rạng rỡ quê hương. Chính những đức tính tốt đẹp cùng với sự lao động cần cù, nhẫn
nại hàng ngày đã tạo nên sức mạnh để làm nên quê hương với truyền thống với phong tục
tập quán tốt đẹp. Người cha đã tâm sự với con về tất cả những gì tốt đẹp nhất của người
quê hương, nơi con đang sinh sống, cái nôi đang nuôi con khôn lớn, trưởng thành.
* Nói với con là lời thủ thỉ tâm tình của người cha với con về quê hương, 1 quê hương
nhọc nhằn vất vả đã nuôi dưỡng chí lớn cho những đứa con. Quê hương với sức sống giản
dị mà mãnh liệt, hồn nhiên mà mạnh mẽ. Tất cả được thể hiện qua thể thơ tự do với những
từ ngữ, hình ảnh mộc mạc, cụ thể nhưng lại có sức khái quát sâu sắc.Gửi trong những lời
tự hào không dấu giếm đó, người cha ước mong, hy vọng người con phải tiếp nối, phát huy

196
truyền thống để tiếp tục sống có tình có nghĩa, thuỷ chung với quê hương đồng thời muốn
con biết yêu quý, tự hào với truyền thống của quê hương.
- Không chỉ gửi mong ước của mình đầy tự hào, kết thúc bài thơ, người cha còn bộc lộ trực
tiếp niềm mong ước này trong lời thủ thỉ dặn dò con thiết tha, chân tình, trìu mến trong
tiếng gọi “con ơi!” và lời nhắn nhủ “nghe con”. Song cái điều người cha nói với con thì
thật là ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc, đồng thời lại có chút nghiêm nghị của mệnh lệnh trái
tim:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Câu thơ ngắn lại như khắc sâu, có câu chỉ có hai tiếng. Điều mà người cha muốn khuyên
con qua cách nhắc lại một phẩm chất của người đồng mình đã nêu ở trên: nghĩa là phải
sống cho cao đẹp. Trong những lời thơ cuối cùng ấy, người cha dặn dò con cần tự tin mà
vững bước trên đường đời, tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của “người đồng
mình”.Con sống được như thế chính là con phát huy được truyền thống tốt đẹp của cha
ông, của quê hương yêu dấu.

C. Kết luận:
Bài thơ “Nói với con” của Y Phương giúp chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của một áng thơ
về tình cha con cao quý, xúc động, góp thêm một tiếng nói yêu thương của cha mẹ đối với
con cái cũng như những kì vọng lớn lao, mong muốn thế hệ sau sẽ kế tục, phát triển những
truyền thống quý báu của quê hương. Bằng cách diễn đạt mộc mạc, thô sơ, bằng những
hình ảnh cụ thể mà giàu sức khái quát bài thơ đã thể hiện một cách độc đáo mà cũng thật
thấm thía về tình cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người : tình cảm gia đình và tình yêu
quê hương xứ sở. Trong lòng ta như ngân lên câu hát: “Ba sẽ là cánh chim. Cho con bay
thật xa…. Ba sẽ là lá chắn. Che chở suốt đời con….”.

197
CHUYÊN ĐỀ 4
TRUYỆN VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 - 1945

BÀI 1: LÀNG.

A. Kiến thức cần nhớ.


1. Tác giả
- Kim Lân tên là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 quê ở làng Phù Lưu, huyện Từ Sơn, tỉnh
Hà Bắc.
- Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.
- Kim Lân am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Truyện của ông
hầu như chỉ viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân
=>Chính hai đặc điểm trên đã tạo nên thành công của tác giả trong truyện “Làng”.
2. Hoàn cảnh sáng tác:

- Truyện “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần

đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.

3.Truyện “Làng” có những đặc điểm cần lưu ý sau:


- Truyện “Làng” khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì
kháng chiến: tình cảm quê hương đất nước. Đây là một tình cảm mang tính cộng đồng.
Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lý chung ấy trong sự thể hiện
cụ thể, sinh động ở một con người, trở thành một nét tâm lý sâu sắc ở nhân vật ông Hai, vì
thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng cá nhân, in rõ cá tính của nhân vật.
- Truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lý, không xây dựng trên các biến cố, sự kiện bên
ngoài mà chủ trọng đến các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, miêu tả các diễn biến
tâm lý, từ đó làm nổi rõ tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.
- Những biện pháp nghệ thuật chính để miêu tả nhân vật ông Hai - nhân vật chính của
truyện:

198
+ Miêu tả nội tâm
+ Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại
- Văn bản “làng” đã kết hợp các phương thức biểu đạt: tự sự kết hợp với miêu tả và biểu
cảm. Tự sự là chính vì câu chuyện được triển khai theo hệ thống các sự việc.
- Truyện được kể theo ngôi thứ ba. Nó đảm bảo tính khách quan của những cái được kể,
gợi cảm giác chân thực cho người đọc.
- Tình huống cơ bản của truyện là khi ở nơi tản cư lúc nào cũng da diết nhớ về làng
và tự hào về nó thì bỗng nghe được tin làng mình đã lập tề theo giặc. Chính tình huống ấy
đã cho thấy lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến đã bao trùm và chi phối tình cảm quê
hương ở ông Hai, đồng thời làm bộc lộ sâu sắc và cảm động tình yêu làng, yêu nước ở
ông.
4. Tóm tắt
Trong kháng chiến, Ông Hai - người làng chợ Dầu, buộc phải rời làng. Sống ở nơi
tản cư, lòng ông luôn day dứt nhớ về quê hương. Ngày nào ông cũng ra phòng thông tin vờ
xem tranh ảnh chờ người khác đọc tin rồi nghe lỏm chẳng xót một câu nào về tin tức của
làng. Bao nhiêu là tin hay về những chiến thắng của làng ... ruột gan ông lão cứ múa cả lên,
trong đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích.
Tại quán nước đó, ông Hai nghe tin làng Dầu làm việt gian theo giặc, ông rất khổ tâm
và xấu hổ. Về nhà ông nằm vật ra giường nhìn lũ con, nước mắt cứ trào ra. Lòng ông đau
xót và nhục nhã khôn cùng. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà. Nghe bất cứ ai nói
chuyện gì, ông cũng nơm nớp lo sợ, sợ rằng người ta nói chuyện ấy… Bà chủ nhà đã đuổi
khéo vợ chồng con cái nhà ông. Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc: không thể bỏ về làng
vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, cũng không thể đi đâu khác vì không đâu người ta
chứa người làng chợ Dầu. Ông cảm thấy nhục nhã xấu hổ, chỉ biết tâm sự với đứa con về
nỗi oan ức của mình.
Chỉ khi tin này được cải chính, ông mới vui vẻ và phấn chấn, ông cứ múa cả hai tay
lên mà đi khoe với mọi người: Nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc phá. Và ông lại tiếp
tục sang nhà bác Thứ để khoe về cái làng của mình.

B. Ph©n tÝch t¸c phÈm


§Ò bµi: Phân tích tình yêu làng hoà quyện với tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai.
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật này của tác giả.
Kim Lân đã rất hiểu và thể hiện thành công tình cảm yêu làng quê qua nhân vật ông
Hai - một người nông dân chất phác. Tình yêu làng của ông Hai rất đặc biệt và cách thể
hiện tình yêu ấy cũng rất độc đáo.
1. Tình yêu quê hương của người nông dân ấy đã bộc lộ khá sâu sắc ở phần đầu
truyện:
Suốt cuộc đời ông sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương vậy mà vì giặc
ngoại xâm, ông Hai phải rời làng đi tản cư.
- Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh
em”, ông nhớ làng quá.

199
- Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó
tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
- Ông tìm nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được nhiều tin
hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý
nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.
=> Đó là biểu hiện tình yêu làng của người nông dân trước thành quả của cách mạng,
của làng quê
2. Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc
tình cảm yêu làng, yêu nước của ông.
Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những
người mới tản cư qua vùng ông.
- Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn
ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh
lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể
rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự
hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay
cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy
ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.
- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một
nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà
ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao
nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân rất mực yêu
quê hương ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo
giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.
- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình
hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông
cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang
bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông… là
ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
=> Tác giả đã diễn tả rất cụ thể, sâu sắc những biến động dữ dội trong nội tâm nhân
vật: nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi
đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ
hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một
tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng
yêu, đang tự hào... Nhưng giờ đây.... dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã
nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông.
Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy
“rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa
chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ
Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo

200
Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng
không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.
- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ
là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm
lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ
cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.
+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí
Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại:
“ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất
phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau
đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm
sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông
nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với
kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông
là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.
3. Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi
vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến:
“ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ
hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông
sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một
cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra
hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng
yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai thật là sâu sắc và cảm
động.
=>Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ
độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình
với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người
ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
* Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần
cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt. Nhà văn đã chọn được một tình
huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Tâm lý nhân vật
được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác,
hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về
sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Lòng yêu quê hương tha thiết của ông mãi là
bài ca đẹp về một điển hình cho bao người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

C. C©u hái luyÖn tËp .

Câu 1. Nhan đề của truyện là “Làng” sao không phải là “Làng Dầu” chẳng hạn. Từ
nhan đề của truyện, em hiều gì về chủ đề của tác phẩm?
Gợi ý:

201
a. Nhan đề của truyện là “Làng” không phải là “Làng Dầu” vì nếu là “làng Dầu” thì
vấn đề mà tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng. Dụng ý của
tác giả muốn nói tới một vấn đề mang tính phổ biến ở khắp các làng quê, có trong mọi
người nông dân. Bởi thế “làng” là nhan đề hợp lý với dụng ý của tác giả. Qua đó ta hiểu
chủ đề của truyện: ca ngợi tình yêu làng quê tha thiết của những người nông dân Việt Nam
trong kháng chiến chống Pháp.
Như vây, nhan đề “làng” vừa nói lên được cái riêng là tình yêu làng của ông Hai,
đồng thời qua cái riêng ấy, cũng nói lên được cái chung : tấm lòng của những người dân
quê đất Việt.
Các cách mở đề cho bài:
Cách 1: Tình yêu quê hương đất nước là một đề tài quen thuộc trong nền văn học hiện
đại Việt Nam từ trước đến nay. “Làng” là một truyện ngắn như vậy. Nhan đề “làng” mang
rất nhiều ý nghĩa. Tại sao nhà văn Kim Lân không đặt tên cho đứa con tinh thần của mình
là “làng chợ Dầu| mà lại đặt tên là “Làng”?
C2: Mỗi nhan đề tác hẩm đều thể hiện dụng ý của tác giả. Có những nhan đề rất
ngắn…. nhưng cũng có những tựa đề rất dài. “Làng” là một trong những nhan đề rất đặc
biệt mang nhiều ý nghĩa của nhà văn Kim Lân.
*Những cách dẫn ý:
- Nhà văn KL quả thật đã rất sâu sắc khi đặt tên cho áng văn xuôi/ những trang viết/
tác phẩm của mình là “Làng”. Nhan đề ấy vừa bộc lộ tình yêu làng chân thực, sâu sắc của
ông Hai, nhưng cũng qua câu chuyện của ông Hai, nó vừa nói lên tình yêu quê hương thiết
tha, gắn bó của những người dân quê Việt Nam. Tình yêu làng ấy cũng là yêu CM, yêu
kháng chiến.
-Cái riêng đã hoà điệu với cái chung, tạo cho tác phẩm một ý nghĩa sâu sắc, một sức
sống lâu bền trong lòng độc giả.
Câu 2: Trong “Làng”, Kim Lân có kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông
bị giặc đốt, đốt nhẵn. Chi tiết này dường như vô lý. Ý kiến của em như thế nào? Ghi lại
vắn tắt.
Gợi ý:
Trong “Làng”, chi tiết kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị đốt nhẵn …
Mới đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn. Hơn
thế nó còn gắn với bao kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó ai mà
không xót xa đau đớn? Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “Múa tay lên để khoe” đó là biểu hiện
của tâm trạng sung sướng, sung sướng đế tột độ. Tâm trạng này dường như có vẻ không
bình thường? Không! Đặt ông Hai trong hoàn cảnh của “Làng” - làng Dầu đang bị hai
tiếng việt gian theo tây - thì ông Hai không vui sướng sao được vì nhà bị tây đót là bằng
chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng, đó là một
làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp. Chắc hẳn mất nhà ông Hai cũng đau
lắm chứ, xót xa lắm chứ. Nhưng dù thế nào thì nhà còn có thể xây dựng lại được, song
danh dự của làng đâu dễ lấy lại? Ông đã quên nỗi đau, sự mất mát riêng để tự hào sung
sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê, đất nước. Thế đấy niềm vui, nỗi buồn
của ông Hai luôn gắn liền với vận mệnh của Làng Dầu. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê

202
tha thiết đến chừng nào! Tình yêu làng quê được mở rộng, hoà quyện trong tình yêu tổ
quốc thật sâu nặng và thiêng liêng.

Câu 4  : Phân tích đoạn :


- Thế nhà con ở đâu ?....
- Ừ, đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ :
Qua đoạn đối thoại này, tâm trạng ông Hai có gì đặc biệt ? Điều đó thể hiện nỗi niềm
sâu kín của nhân vật này như thế nào ?
Gợi ý :
- Bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông. Những day dứt, trăn trở trong lòng ông, ông như
muốn khẳng định tình yêu làng chợ Dầu và sự trung thành với cách mạng, với kháng
chiến.
- Ông hỏi con những câu tưởng rất vu vơ, bởi đơn giản ông muốn được nghe về làng chợ
Dầu, được thấy con trẻ nhắc đến ngôi làng mà mình yêu quý.
- Khổ tâm vì nhầm tưởng làng mình theo Tây, nước mắt giàn giụa trên má (tâm trạng đau
khổ)
Vì lầm tưởng làng theo giặc -> cả hai bố con ông đều trả lời khe khẽ, thủ thỉ. Ông Hai xấu
hổ cho làng ông, cho người dân quê ông : « hai bên má…. » chứng tỏ ông rất khổ tâm.
- Cách thể hiện tình yêu của ông Hai rất mộc mạc và chân thành. Câu trả lời của đứa con
út : « Ủng hộ cụ HCM muôn năm » hay chính là nỗi lòng của ông ; ông chuyện trò với con
hay đang giãi bày cho vơi bớt nỗ khổ, sự tủi hổ, dằn vặt đang ám ảnh trong lòng ông suốt
mấy hôm nay.
=> Những dòng đối thoại ngắn gọn, giản dị, sâu sắc, chân quê đã thể hiện được nỗi lòng
sâu kín trong lòng ông Hai Thu.

Câu 5. Trong đoạn trích  : «  nhìn lũ con  …. nhục nhã thế này  » ở truyện ngắn «  làng  »
của Kim Lân đã thể hiện tâm trạng gì của ông Hai qua các yếu tố độc thoại và độc
thoại nội tâm.
- Giới thiệu Kim Lân và truyện ngắn « làng »
- Trích dẫn : « chúng nó…. đấy ư » : ông hỏi ai hay tự hỏi chính mình ? Thủ pháp độc
thoại nội tâm như giúp chúng ta chứng kiến những suy nghĩ của ông Hai :
+ Dấu (….) như diễn tả những ý nghĩ ngổn ngang trong lòng ông.
+ Ông nói một mình, ông rít lên một mình như đang mắng mỏ, như những người làng
chợ Dầu đang đứng trước mặt ông.

Câu 6 : Phân tích tâm trạng nhân vật ông Hai qua đoạn trích sau :
« Này Bác có biết mấy hôm nay….
-Liệu có thật không hở Bác ? Hay là chỉ lại…. »
Gợi ý :
« Nó rút…. khủng bố ông ạ » => tim ông như thắt lại, khi nghe đến tên « chợ Dầu », ông
quay phắt lại, lắp bắp ». Một cử chỉ xảy ra rất nhanh. Từ « chợ Dầu » từ miệng người đàn
bà tản cư đã khiến cho ông quan tâm. Phải đi tản cư với ông là một điều khổ tâm, ông

203
muốn ở lại làng chợ Dầu để tham gia kháng chiến, nhưng vì gánh nặng gia đình, nhà neo
người=> sau một thời gian -> nấn ná ra đi. Ở nơi tản cư, ông luôn nghe ngóng, quan tâm
đến tin tức về làng Chợ Dầu. Cử chỉ quay phắt lại đã cho ta thấy rõ điều đó. Nếu trước đó,
ông là ông Hai vui vẻ, hồ hởi, nghe tin chỉ để là nghe với sự quan tâm bình thản, đủng
đỉnh. Vậy mà giờ đây chỉ nghe tin làng ông bị khủng bố, ông rất lo lắng, sợ hãi cho làng
quê … ông lo đến mức đang nói năng rất điềm tĩnh : « tản cư cứ tản cư » thì trở nên lắp
bắp, luống cuống…. Câu nói lắp bắp, luống cuống ấy càng thể hiện rõ sự lo lắng, bối rối
=> Chứng tỏ ông yêu làng, lo sợ cho làng biết chừng nào.
-Ông quan tâm xem « làng ông giết được bao nhiêu tây » nhưng vẻ mặt của chị phụ nữ
như báo trước điều mà ông không hề mong muốn : « vẻ đỏng đảnh, cong cớn thể hiện sự
khó chịu, phẫn nộ, phản đối dù chị không biết ông Hai là người làng chợ Dầu thứ thiệt.
=> Thể hiện sự bức bối với những người làng việt gian của chị.Kim Lân đã diễn tả rất mộc
mạc tâm trạng của lão nông, những từ ngữ rất nông dân, thuần phác đã thể hiện rất cụ thể
những cảm xúc tình cảm của ông Hai lúc này.
- Cảm thấy ngợp, khó thở 
- Da mặt tê rân rân là sự tủi hổ nhục nhã, xấu hổ. Người nông dân vốn đơn giản, yêu ghét
rõ ràng. CÁch thể hiện giản dị, Kim Lân với những hiểu biết về những người nông dân
thuần phác đã miêu tả rất chân thực. Tin tức đau xót ấy khiến ông hổ thẹn đến tái tê.
- Một lúc lâu, rặn è è => ông nói một cách khó khăn, ông cất tiếng hỏi giọng lạc hẳn đi =>
thể hiện tâm lí nhân vật phù hợp với xuất thân, bộc lộ suy nghĩ chủ yếu qua hành động, các
yếu tố bên ngoài, lời nói, vẻ mặt, cử chỉ. Giọng lạc hẳn đi bởi những cảm xúc quá mạnh
mẽ, lo âu và cả hổ thẹn.
- Câu hỏi thể hiện sự bán tín, bán nghi. Ông mong mỏi tin ấy không đúng, chỉ là một sự
nhầm lẫn… Ông làm sao có thể tin được rằng làng chợ Dầu theo Tây, người dân làng ông
là Việt gian. Niềm yêu thương mãnh liệt, sâu nặng của ông làm sao chó thể chấp nhận
được điều ấy.
-« Hay là chỉ tại….  kết thúc bằng dấu chấm lửng, ông không nói hết câu, có thể bởi những
tin tức mà người phụ nữ tản cư nói rất chính xác, cụ thể. Nhưng cũng có thể dấu chấm
lửng ấy còn cho ta thấy nỗi lo sợ đến tột cùng của ông Hai. Phải chăng ông Hai ngừng lời
vì sau câu hỏi của ông là sự xác nhận làm ông đau xót, tin tức ấy sẽ được xác nhận 1 lần
nữa, ông không muốn nghe, không muốn thấy…

ĐỀ TẬP LÀM VĂN :


Đề 1: Truyện ngắn “làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những
chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống
Pháp?
Dàn ý.
I. Tìm hiểu đề.
- Yêu cầu cách thức nghị luận: suy nghĩ

204
- Yêu cầu về vấn đề nghị luận: Những chuyển biến mới trong tình cảm của người
nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai.
II. Dàn ý:
A. Mở bài (SGK)
- Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có
sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân. Truyện ngắn
“Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy
mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân
thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu nước
và tinh thần của người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình
cảm cao đẹp và đáng quý đó.
B .Thân bài:
Tình yêu làng nói chung:
- Ở mỗi người nông dân, quả thực tình yêu làng quê là bản chất có tính truyền
thống. Yêu làng, gắn bó với làng, tự hào về làng của mình vốn là tâm lý rất quen thuộc có
tính gốc rễ. Vậy người nông dân thường tự hào, hãnh diện về làng:
Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư giang khúc như hình con long
Luận điểm bao trùm bài nghị luận : Ở nhân vật ông Hai, tình yêu quê hương,
yêu làng Dầu đã quyện chặt với lòng yêu nước. Đây là vẻ đẹp đáng quý của nhân vật,
cũng là điều tâm huyết nhất mà nhà văn muốn nói với người đọc.
Luận điểm 1 : Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi đi tản cư.
- Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để yêu
thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng
nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến một
miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải xa làng. Ở nơi tản cư, lòng ông
đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.
- Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia
vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
- Ông luôn tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được
nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức,
bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.
Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc : (Nhưng
khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu tình cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng
nhiên biến thành những nỗi lo âu, dằn vặt)
- Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng
hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại
được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành
rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào
về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng
đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất
đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.

205
- Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một
nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra
về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra
giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn
về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại,
dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước
theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.
- Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình
hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông
cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn
tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông… là ông
lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”
- Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ
rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào
một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương
đáng yêu, đang tự hào... Nhưng giờ đây.... dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã
nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông.
Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy
“rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa
chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ
Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo
Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng
không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.
- Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy
giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của
tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố
giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.
+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí
Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại:
“ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất
phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau
đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm
sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông
nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với
kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông
là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.
Luận điểm 3: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng kháng
chiến (Niềm vui của ông Hai khi tin đồn được cải chính.
- Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi
vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi
người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp
của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin

206
“Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình.
Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân
quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng
của ông Hai thật là sâu sắc và cảm động.
- So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước cách mạng
tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm
hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của Đảng,
Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có những điểm tính cách khác nhau nhưng
họ vẫn có những phẩm chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất
phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi
người nông dân. Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ
cuộc đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình yêu quê
hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy. =>
Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập
dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng
chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói
riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.
- Văn hào I li a, E ren bua có nói: …” Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê
trở nên lòng yêu tổ quốc. Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của
ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
Luận điểm 4: . Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai
- Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần
cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt.
+ Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ
chiều sâu tâm trạng.
+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua
các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được
ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.
VD1 (tâm trạng) : Khi nghe tin làng theo giặc thì bị dằn vặt, đau khổ : « Đã ba bốn
hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không
dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng.
…… thôi lại chuyện ấy rồi ». Khi tin đồn được cải chính thì « cái mặt buồn thỉu mọi ngày
bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên ».
VD2 : Miêu tả đúng các « phản ứng » bằng hành động của một người nông dân hiền
lành, chất phác và chưa đọc thông, viết thạo : Khi muốn biết tin tức thì : « ông cứ đứng vờ
vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm ». Khi nghe tin làng theo giặc thì « ông
Hai cứ cúi gằm mặt xuống mà đi » rồi « nắm chặt hai bàn tay mà rít lên : « chúng bay ăn
miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã
thế này ». Khi tin đồn được cải chính thì « ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin đồn ấy
với mọi người.
VD3 : Ngoài ra còn phải kể đến các hành động, lời nói, suy nghĩ của nhân vật ông
Hai trong mối quan hệ với các nhân vật khác như : Bà Hai, các con, mụ chủ nhà….

207
+ Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại….)
C. Kết bài (sgk)
- Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật ông Hai.
- Thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai.
VD:
Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một người
nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất phác nhưng xúc động. Hình tượng nhân vật
ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam
trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối
với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm
về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình yêu quê hương đất nước.
========================

Đề bài 2: Với truyện ngắn « Làng », Kim Lân muốn nói với chúng ta : Cách
mạng và kháng chiến chẳng những không làm mất đi tình yêu làng quê truyền thống
mà còn đưa đến cho tình cảm ấy những biểu hiện hoàn toàn mới mẻ.
Hãy làm rõ nhận định trên qua việc phát triển niềm hãnh diện của ông Hai về
làng chợ Dầu và nỗi đau buồn tủi hổ khi ông lầm tưởng làng ông theo giặc.
Dàn ý  :
A. Mở bài :
- Giới thiệu ngắn gọn về tác giả và tác phẩm
- Kim Lân sáng tác rất ít, nhưng số tác phẩm ít ỏi ấy lại có sức sống lâu bền với thời
gian.
B. Thân bài
1. Tình yêu, niềm hãnh diện của ông Hai với làng chợ Dầu, một tình cảm truyền
thống của người nông dân VN.
- Ông luôn khoe làng, nhớ về làng, nhớ anh em xẻ đắp ụ, hào…. nhớ khóa bình dân
học vụ ở làng….
=> Làng chợ Dầu luôn là ruột thịt, gắn bó, là nỗi nhớ của ông.
2. Biểu hiện mới mẻ.
- tình yêu làng gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến ở làng chợ Dầu.
- Tất cả buồn vui của ông đều gắn với làng, với cách mạng. Những lời tuyên truyền
của ông đều liên quan đến làng quê, đến kháng chiêns, đến cách mạng.
+ Vừa nghe tin -> quay phắt lại, lắp bắp – ý nghĩ làng quê luôn thường trực, ám ảnh
-> nói nhanh trong tâm trạng lo lắng.
+ Cổ nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân -> cảm giác bàng hoàng, sững sờ khi nghe tin
dữ, tủi hổ đến tê dại.
+ Tin đột ngột + nỗi đau xót khiến ông Hai lặng người đi tưởng như không thở
được.
=> KL đã diễn tả rất cụ thể nỗi đau đớn xót xa của ông khi lầm tưởng làng ông theo
tây. Càng yêu làng bao nhiêu, ông Hai càng tủi hổ bấy nhiêu trước cái tin dữ ấy.

208
- ông đứng lảng ra chỗ khác, không dám nhận mình là người làng chợ Dầu. Cảm
giác tủi hổ đeo bám -> ông cúi gằm mặt xuống mà đi.
- Ông lão đau khổ, nước mắt cứ giàn ra, không biết trút nỗi đua khổ vào đâu, ông
đau đớn rít lên :…
- Suy nghĩ , tâm trạng chủ yếu của ông được thể hiện qua hành động, câu nói, cử chỉ
- những yếu tố miêu tả bên ngoài. Có độc thoại nội tâm nhưng rất ít-> phù hợp với ông
Hai,một nông dân chất phác, giản dị -> thể hiện tình cảm rất mộc mạc, giản dị, rất nông
dân.
- Tin làng theo giặc cứ ám ảnh ông -> ông không dám đi đâu
- Không có ai để thổ lộ tâm sự _ trò chuyện với đứa con để vơi bót nỗi khổ tâm,
dằn vặt trong lòng ông. ông nói như để ngỏ lòng mình, như để minh oan cho lòng mình
nữa, cho vơi bớt nỗi nhớ thương.
- Lời của trẻ nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với CM, với KC -> cảm động, nước
mắt giàn ra, nói với con hay chính là tự nhủ lòng mình.
=> Khẳng định tình cảm sắt son của ông, của người dân làng chợ Dầu với CM. ông
muốn minh oan cho mình hay cho làng quê , nơi chôn rau cắt rốn của ông.
=> KL đã thể hiện hết sức mộc mạc, chân quê nhưng sâu sắc tình yêu làng quê,
yêu kháng chiến, cách mạng của người nông dân.

................................................................................
BÀI 2 : LẶNG LẼ SA PA.

A. Kiến thức cần nhớ.

I. T¸c gi¶
- Nguyễn Thành Long (1925 -1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 -1954) hoạt động văn nghệ ở liên khu V, sau
1954 ông tập kết ra Bắc, chuyên sáng tác.
- Ông là một trong những cây bút văn xuôi đáng chú ý trong những năm 1960 -1970, chỉ
chuyên viết truyện ngắn và ký. Đề tài hướng vào cuộc sống sinh hoạt, lao động đời thường.
- Phong cách văn xuôi nhẹ nhàng, tình cảm, giầu chất thơ và ánh lên vẻ đẹp con người,
mang ý nghĩa sâu sắc.Truyện của ông thường mang chất ký, mang vẻ đẹp thơ mộng trong
trẻo.
- Ông viết nhiều, đã cho in hàng chục tập truyện ngắn và ký. Tác phẩm chính: Bát cơm cụ
Hồ (1955), Gió bấc gió nồm (1956), Chuyện nhà chuyện xưởng (1962), Trong gió bão
(1963), Những tiếng vỗ cánh (1967), Giữa trong xanh (1972) , Lý Sơn mùa tỏi (1980),
Sáng mai nào, xế chiều nào (1984)...
II. Tác phẩm.
1.Hoàn cảnh : Truyện được viết năm 1970, là kết quả của chuyến đi thực tế lên Lào Cai
của tác giả. Truyện rút từ tập Giữa trong xanh xuất bản năm1972.

209
2. Một số nét về tác phẩm :
- Truyện “LLSP” có cốt truyện rất đơn giản, xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ
giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh
Yên Sơn thuộc Sa Pa. Nhân vật chính của truyện – anh thanh niên chỉ hiện ra trong chốc
lát nhưng để lại cho các nhân vật khác trong truyện những tình cảm tốt đẹp. Tình huống
gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để nhân vật chính được hiện ra qua sự quan sát, suy nghĩ
của những nhân vật khác, đặc biệt là ông họa sĩ già. Chính vì thế nhân vật chính không chỉ
hiện ra một cách tự nhiên mà còn được soi chiếu, đánh giá từ cái nhìn và cảm xúc của
những nhân vật khác, rồi lại tác động đến tình cảm và suy nghĩ của những nhân vật ấy.
- Điểm đáng chú ý trong nghệ thuật trần thuật của truyện ngắn này là truyện được trần
thuật chủ yếu từ điểm nhìn và ý nghĩa của nhân vật ông hoạ sĩ. Vì vậy, dù không phải là
nhân vật chính nhưng nhân vật ông hoạ sĩ có vị trí quan trọng trong truyện. Cùng với nhân
vật anh thanh niên, các nhân vật khác (bác lái xe, cô kĩ sư trẻ mới ra trường, ông hoạ sĩ) và
cả những nhân vật gián tiếp như ông kĩ sư ở vườn ra dưới Sa Pa, anh cán bộ kĩ thuâậ
nghiên cứu về sét) đều góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm.
- Các nhân vật trong truyện đều không có tên riêng, chỉ được nhà văn gọi theo giới tính và
tuổi tác (anh thanh niên, cô kĩ sư nông nghiệp, ông hoạ sĩ già...) => Dụng ý của tác giả
muốn người đọc liên tưởng đến những nhân vật tốt đẹp mà trong truyện không phải chỉ là
những cá nhân riêng lẻ mà là số đông. Điều này tăng thêm sức khái quát đời sống của câu
chuyện.
- Truyện có chất thơ bàng bạc toát lên từ các chi tiết, từ khung cảnh thiên nhiên Sa Pa đẹp
như những bức tranh và chất thơ ấy còn ở chính trong tâm hồn các nhân vật với những suy
nghĩ, cảm xúc thật trong sáng, đẽ. Chất thơ của truyện lại đi liền với chất họa. Truyện cũng
có thể xem là những bức tranh đẹp, những bức tranh về cảnh thiên nhiên Sa Pa, về cuộc
gặp gỡ giữa ba nhân vật và bức chân dung kí họa về nhân vật chính – anh thanh niên.
3.Nội dung
- Truyện giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng nhân vật chính – anh thanh niên -
với những suy nghĩ sâu sắc và lòng yêu nghề nghiệp, với cách sống đẹp, trong công việc
thầm lặng một mình giữa núi cao mà vẫn không cô độc, buồn tẻ. Truyện còn ca ngợi và thế
giới những con người như anh. Tác giả muốn nói với người đọc trong cái lặng lẽ của Sa Pa
có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước. Qua câu chuyện, tác giả gợi
ra vấn đề về ý nghĩa và niềm vui của lao động tự giác vì những mục đích chân chính của
con người.
4.Tóm tắt
Rời cây cầu số 4, chiếc xe chở hành khách lên Lai Châu trèo lên núi. Bác lái xe, ông hoạ sĩ
già, cô kĩ sư trẻ mới ra trường trò chuyện với nhau về Sa Pa, về hội hoạ, về hạnh phúc, tình
yêu. Chiếc xe dừng lại để lấy nước và cho hành khách nghỉ ngơi. Bác lái xe giới thiệu với
ông hoạ sĩ và cô gái về một người cô độc nhất thế gian. Đó là anh thanh niên 27 tuổi, làm
công tác vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Anh mời hai người lên nhà chơi, sau
đấy họ nói chuyện với nhau khoảng 30 phút. Anh kể chuyện mình sống và làm việc tại
đây. Anh rất yêu và gắn bó với công việc của mình. Anh còn thích đọc sách, trồng cây
thuốc, trồng hoa, nuôi gà. Nơi anh ở ngăn nắp, gọn gàng. Nói chuyện với anh, ông hoạ sĩ

210
đã vẽ anh. Nhưng anh đã giới thiệu với ông hoạ sĩ về ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh
cán bộ nghiên cứu bản đồ sét- những người cũng giống như anh, say mê làm việc, cống
hiến tuổi trẻ, trí tuệ, hạnh phúc cá nhân cho đất nước. Cô kĩ sư sau khi nói chuyện với anh
TN nhận thấy bàng hoàng mối tình đầu nhạt nhẽo của mình từ bỏ là đúng đắn và yên tâm
với quyết định nhận công tác miền núi. Sau 30 phút nói chuyện, đến giờ ốp, anh TN phải
chia tay mọi người trong sự bịn rịn và quyến luyến. Anh không quên tặng hai người một
làn trứng, tặng cô gái một bó hoa thật đẹp.

B. Phân tích truyện.

1. Vẻ đep của thiên nhiên Sa Pa.


Có một Sa Pa của những rặng đào, những đàn bò lang cổ đeo chuông đang thung
thăng gặm cỏ, khung cảnh chỉ có thể thấy ở rừng núi. Có một Sa Pa của nắng, nắng đem lại
cho Sa Pa một vẻ đẹp mới : rực rỡ và bất ngờ. Ánh nắng dường như sáng dần lên trong
khung cảnh thiên nhiên. Cái nắng chói chang được Nguyễn Thành Long miêu tả « đốt cháy
rừng cây » và cái nắng vào cuối buổi trưa lại gay gắt hơn « ánh nắng như phủ khắp , mạ
bạc cả con đèo » Cảnh được quan sát từ trên cao trở xuống. Và ở góc độ ấy, thiên nhiên
càng trở nên khoáng đạt, hùng vĩ hơn. Rừng cây như « một bó đuốc khổng lồ », ánh nắng
khiến thiên nhiên Sa Pa lặng lẽ, trầm mặc mà đầy sức sống. « Nắng bắt đầu len tới đốt
cháy rừng cây », đọc câu văn, ta cảm giác như nắng đang di chuyển, đang chạy dần trên
các triền núi. Có thể nói câu văn miêu tả thiên nhiên đã làm thêm chất trữ tình cho câu
chuyện. Bên cạnh Sa Pa của nắng còn có Sa Pa của mây : « mây cuộn tròn từng cục, rơi
trên các vòm lá ướt sương… » Dường như con người đang đi trong mây. Mây cũng hồn
nhiên, tinh nghịch chui vào gầm xe. Và với thủ pháp nhân hoá rất thú vị ấy, Sa Pa còn hiện
lên với hình ảnh cây thông và những cái cây tử kinh – chú bé nghịch ngợm nhô « cái đầu
màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng ». Cây tử kinh như hài hoà, nổi bật giữa màu xanh
của rừng núi. Khung cảnh rất nên thơ và câu văn cũng đầy chất thơ. Khung cảnh mang vẻ
đẹp bình yên, êm ả như không hề biết đến bom đạn, khói thuốc của chiến tranh. Dường
như những thay đổi của cuộc sống không chạm được đến nơi đây. Nhan đề của truyện,
thiên nhiên trong truyện cũng rất êm đềm, nhưng lặng lẽ mà không phẳng lặng, bình yên
mà rất sống động.
2. Vẻ đẹp của con người.

a. Phân tích nhân vật anh thanh niên.

a1. Vị trí của nhân vật và cách miêu tả của tác giả:
Anh TN là nhân vật chính của truyện, dù không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ
hiện ra trong cuộc gặp gỡ chốc lát giữa các nhân vật kia với anh, khi xe của họ dừng lại
nghỉ nhưng đã đủ để các nhân vật khác kịp nghi nhận một ấn tượng, một “kí hoạ chân

211
dung” về anh rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ
muôn thuở của núi cao Sa Pa.
a2. Những nét đẹp của nhân vật.
- Hoàn cảnh sống và làm việc: Một mình trên đỉnh núi cao 2600m quanh năm suốt
tháng cô đơn giữa cỏ cây và mây mù lạnh lẽo. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo
nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ
sản xuất và chiến đấu. Ngày đêm 4 lần(1giờ, 4giờ, 11 giờ, 19 giờ) đều đặn và chính xác,
đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao dù mưa nắng, gió bão, nửa đêm tuyết rơi đều phải đi ốp.
Tuy nhiên cái gian khổ của công việc chưa đáng sợ bằng cái gian khổ của hoàn cảnh sống:
đó là sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một
bóng người. Cô đơn đến mức “thèm người” quá phải kiếm kế dừng xe qua đường để được
gặp người.
- Quả thực, điều kiện sống và làm việc đó là một thử thách lớn đối với tuổi trẻ vốn khát
khao và hành động nhưng anh đã vượt qua hoàn cảnh ấy.
+ Trước hết đó là ý thức về công việc của mình và lòng yêu nghề, thấy được ý nghĩa cao
quý trong công việc thầm lặng của mình là có ích cho c/s, cho mọi người. Anh không tô
đậm cái gian khổ của công việc, nhưng anh nhấn mạnh niềm hạnh phúc khi biết được mình
đã góp phần phát hiện kịp thời một đám mây khô mà nhờ đó “không quân ta hạ được bao
nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng”.
+ Anh đã có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn và sâu sắc về cuộc sống và công
việc đối với cuộc sống con người. Công việc của anh gắn bó với bao người, hằng ngày anh
vẫn phải 4 lần nói chuyện với trung tâm. Huống chi còn bao người làm việc trong hoàn
cảnh khó khăn, cô độc hơn, chẳng hạn như anh bạn ở đỉnh Hoàng Liên Sơn cao 3142m
mới là độ cao lí tưởng! Nếu không có công việc, không vì công việc thì đó mới là cuộc
sống cô đơn thực sự, buồn đến chết. Có lẽ đây là những tâm sự chân thành mà sâu sắc nhất
của anh: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi
việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của
cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
- Anh biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống khoa học, ngăn nắp, tươi tắn,chủ động: đọc sách,
chăm hoa, nuôi gà, tự học... Thế giới riêng của anh là công việc : “một căn nhà ba gian,
sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Cuộc sống riêng của anh
“thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”.
- Ở người anh thanh niên ấy còn có nhiều nét tính cách và phẩm chất rất đáng mến:
+ Sự cởi mở, chân thành, rất quý trọng tình cảm của mọi người, khao khát được gặp gỡ
và trò chuyện với mọi người. Biểu hiện (tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo,
tặng gói tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui mừng đến luống cuống, hấp tấp cùng
thái độ ân cần chu đáo khi tiếp đãi những người khách xa đến thăm bất ngờ: pha nước,
hái hoa tặng khách - cô gái Hà Nội đầu tiên sau 4 năm làm việc, đến thăm anh, thành thực
bộc lộ “những điều mà đáng lẽ người ta chỉ nghĩ” đến cảm động.Đếm từng phút vì sợ hết
mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến
nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám
tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”)

212
+ Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới thiệu
nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé,
anh vẫn còn thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến trường đánh giặc. Khi
ông hoạ sĩ kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại và nhiệt tình giới thiệu những người khác
đáng vẽ hơn anh nhiều (ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét...)
=>Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của
truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về
tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc.
b.Phân tích nhân vật ông họa sĩ.
- Dù không phải là nhân vật chính nhưng ông hoạ sĩ có vai trò rất quan trọng trong truyện:
người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và những ý nghĩ của ông hoạ sĩ để trần thuật, để
quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật này,
tác giả muốn gửi gắm những suy nghĩ về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật.
- Ông hoạ sĩ là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm. Ngay từ những lời giới thiệu của bác
lái xe về anh thanh niên, ông hoạ sĩ đã xúc động mạnh khi nhìn thấy người con trai tầm vóc
bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ”. Sau đó ông lại ngạc
nhiên khi thấy anh thanh niên đang hái hoa, cảm động và bị cuốn hút trước sự cởi mở chân
thành của anh. Rồi ông lại cảm giác “mình bối rối” khi nghe anh thanh niên kể về công
việc. Bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ sáng tạo đi tìm
đối tượng của nghệ thuật, ông biết mình đang xúc động và bối rối vì đã “bắt gặp một điều
thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý
sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài”. Anh thanh niên là một con người
như thế và có thể là nhân vật tương lai trong một tác phẩm của ông.
- Cảm hứng được khơi gợi đã thôi thúc người hoạ sĩ sáng tác. Anh thanh niên muốn dành
20 phút để nghe chuyện dưới xuôi. Ông họa sĩ hứa mười ngày nữa trở lại, còn bây giờ ông
muốn dành trọn vẹn hai mươi phút ngắn ngủi để hiểu thật kĩ về người thanh niên, về đối
tượng mà ông đang định thể hiện trong bức tranh của mình. Ông muốn làm một bức phác
họa chân dung về anh thanh niên nhưng làm thế nào “cho người xem hiểu được anh ta, mà
không phải hiểu như một ngôi sao xa? Và làm thế nào đặt được chính tấm lòng của nhà
hoạ sĩ vào giữa bức tranh đó? Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn
hữu cho sáng tác,nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài”.
- Ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác, đã bắt cảm hứng của mình hiện
lên trang giấy: “cũng may mà bằng mấy nét, hoạ sĩ đã ghi xong lần đầu gương mặt của
người thanh niên. Người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá. Với
những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ”
- Những xúc cảm và suy tư của ông hoạ sĩ về anh thanh niên và về những vấn đề của nghệ
thuật, của đời sống được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên đã làm cho chân dung
nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo nên chiều sâu tư tưởng.
c.Nhân vật cô kĩ sư.
- Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng « mối tình đầu nhạt nhẽo » để lên công tác
ở miền cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu
chuyện anh kể về những người khác đã khiến cô « bàng hoàng », cô hiểu thêm cuộc sống

213
một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con người như
anh mà anh kể, và về con đường cô đang đi tới ? ». NHờ cái bang hoàng ấy, cô mới nhận
ra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết bao, cuộc sống của mình lâu nay tầm
thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết bao ! Khoảnh khắc bàng hoàng ấy
chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta bắt gặp được những
ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn người khác.
- Cùng với sự bàng hoàng ấy là « một ấn tượng hàm ơn khó tả  dạt lên trong lòng cô gái.
Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó
hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh dành cho thêm
cô ». Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và suy nghĩ mới mẻ,
cao đẹp về con người, về cuộc sống. Qua tâm tư của cô gái, ta nhận ra vẻ đẹp và sức ảnh
hưởng của nhân vật anh thanh niên.
d. Các nhân vật khác :
Bác lái xe, ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa hằng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan sát cách
lấy mật của ong, rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn,
anh cán bộ nghiên cứu đã mười một năm ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét tìm tài
nguyên cho đất nước. Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên ở
trạm khí tượng, những con người miệt mài lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì lợi
ích của đất nước, vì cuộc sống của con người.
=> Tóm lại, qua những xúc cảm và suy nghĩ cùng thái độ cảm mến của các nhân vật phụ,
hìnhảnh nhân vật anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn, chủ đề tác phẩm
được mở rộng thêm, gợi ra nhiều ý nghĩa như là đã được lọc qua thứ ánh áng tâm hồn
trong trẻo và rực rỡ khiến hình ảnh ấy rạng rỡ hơn, ánh lên nhiều sắc màu hơn.
3. Ý nghĩa  : Truyện ngợi ca những con người lao động như anh thanh niên làm công tác
khí tượng và cái thế giới những con người như anh. Tác giả muốn nói với người đọc :
« Trong cái lặng im của Sa Pa » (....), có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho
đất nước ». Đồng thời qua câu chuyện về anh thanh niên, tác phẩm cũng gợi ra những vấn
đề về ý nghĩa và niềm vui của lao động tự giác, vì những mục đích chân chính đối với con
người.

C. Một số câu hỏi luyện tập.

Câu 1: Tình huống cơ bản của truyện “LLSP” là như thế nào? Vai trò của tình huống
ấy đối với việc thể hiện nhân vật và chủ đề của truyện.
- Tình huống cơ bản của truyện “LLSP” chính là cuộc gặp gỡ của người thanh niên làm
việc một mình ở trạm khí tượng với bác lái xe và hai hành khách trên chuyến xe ấy – ông
họa sĩ và cô kĩ sư lên thăm trong chốc lát nơi ở và làm việc của anh thanh niên.
- Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để nhân vật chính được hiện ra qua sự quan
sát, suy nghĩ của những nhân vật khác, đặc biệt là ông họa sĩ già. Chính vì thế nhân vật
chính không chỉ hiện ra một cách tự nhiên mà còn được soi chiếu, đánh giá từ cái nhìn và
cảm xúc của những nhân vật khác, rồi lại tác động đến tình cảm và suy nghĩ của những
nhân vật ấy.

214
Câu 2. Nêu cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong truyện “lặng lẽ Sa Pa”.
Câu 3: Nêu cảm nhận về nhân vật ông họa sĩ trong truyện “lặng lẽ Sa Pa”.
Câu 4  : Nhân vật cô gái trong « Lặng lẽ Sa Pa ».
Câu 5. Hãy triển khai mỗi câu chủ đề dưới đây thành một đoạn văn:
a.“ Dưới vẻ đẹp lặng lẽ, thơ mộng của Sa Pa - nơi thường gợi đến sự nghỉ ngơi vẫn có
những con người hăng say làm việc cho đất nước.
b“Lặng lẽ Sa Pa” là tiếng nói của tình yêu thương.
Gợi ý: Đoạn văn a phải đảm bảo các ý sau:
- Là những con người có hoàn cảnh lao động đặc biệt : khó khăn, vất vả, cô đơn
- Công việc nghe qua có vẻ thông thường, giản đơn, thậm chí nhàm chán nhưng đòi
hỏi sự kiên trì và có tinh thần trách nhiệm cao.
- Họ là những con người ý thức, cống hiến hết sức mình cho công việc, cho đất
nước.
Anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m
giữa núi rừng Sa Pa ngút ngàn sương gió. Anh đã phải vượt qua tất cả để sống một cuộc
sống thật đẹp đẽ từ ý nghĩ, tình cảm đến hành động, một cuộc sống có ích đóng góp cho
đời. Anh gắn bó với công việc bằng tất cả tình yêu, niềm say mê của mình. Anh đã có
những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về cuộc sống, công việc. Với tinh thần trách nhiệm
và trình độ chuyên môn vững vàng, những việc làm của anh đã góp phần quan trọng vào
lợi ích chung của đất nước. Ở chốn Sa Pa lặng lẽ kia, anh thanh niên ấy không phải là
người duy nhất có một cuộc sống lặng lẽ hăng say. Qua lời kể của anh ta thấy còn có
những người khác ngày đêm miệt mài lao động khoa học trong lặng lẽ mà khẩn trương
cống hiến cho đất nước. Đó là ông kĩ sư vườn rau Sa Pa nghiên cứu tìm cách thụ phấn cho
hoa su hào để có được năng suất và chất lượng tốt hơn. Đó còn là anh cán bộ nghiên cứu
khoa học làm bản đồ sét giúp tìm ra tài nguyên cho đất nước. Nh vËy, Dưới vẻ đẹp lặng lẽ,
thơ mộng của Sa Pa - nơi thường gợi đến sự nghỉ ngơi vẫn có những con người hăng say
làm việc cho đất nước.
b. Đoạn văn b.
Về nội dung, cần chú ý đến các biểu hiện của tình người đằm thắm, tha thiết:
- Ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ chỉ mới gặp nhau mà coi nhau như cha con
- Anh thanh niên và bác lái xe trở nên thân thiết gắn bó, dành cho nhau những tình cảm
chân thành.
- Anh thanh niên đón những vị khách bất ngờ bằng tình cảm nồng hậu, sự trân trọng và
quý mến. Lưu luyến khi chia tay.
- Anh dành để nói về ông kĩ sư ở vườn rau và anh cán bộ khoa học nghiên cứu sét…
=>Những con người đó sống rất đẹp, và tình cảm thương yêu gắn bó giữa họ góp phần tạo
nên nét đẹp ấy
Đoạn mẫu tham khảo :
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sapa” chan chứa tình yêu thương. Trong truyện, tình tiết rất ít,
nếu có thì cũng rất đơn giản nhưng ta đều cảm nhận được một niềm yêu thương ấm áp
trong từng hành động, cử chỉ, lời nói, cách ứng xử của những nhân vật. Anh thanh niên

215
làm công tác khí tượng thủy văn trên đỉnh Yên Sơn, sống âm thầm trên đỉnh Sapa, bởi vậy
anh rất quý trọng tình cảm của những con người đến thăm anh. Có những lúc cơn“thèm
người” trào dâng trong huyết quản, anh đã chặn một khúc gỗ giữa đường dừng cả một
đoàn xe lại chỉ để có người nói chuyện. Anh luôn tâm niệm: “Người thì ai chả “thèm” hả
bác. Mình sinh ra ở đâu? Mình vì ai mà làm việc?” Bởi vậy, anh đã dành cho mọi người,
ngay kể cả những vị khách lần đầu gặp một tình cảm thương yêu nồng ấm thật đáng trân
trọng. Anh luôn quan tâm đến mọi người, tìm bằng được củ tam thất để biếu người vợ mới
ốm dạy của bác lái xe. Bác lái xe chuyến nào cũng cho khách nghỉ nửa tiếng để lên thăm
anh và mua sách cho anh. Và anh còn hái hoa tặng cô gái, biếu làn trứng cho những vị
khách bất chợt đến thăm. Và cả ông họa sĩ và cô kĩ sư nữa, họ mới gặp nhau lần đầu, ngay
trên một chuyến xe bất ngờ đến Sapa, hơn nữa hai người lại tuổi tác cách biệt, nhưng
không hiểu sao giữa họ lại có một tình cảm gắn bó sâu sắc. Mới gặp mà dường như họ
đã quen nhau lâu lắm, hiểu nhau lắm rồi. Bởi vậy, người họa sĩ coi cô gái như là con vậy.
Gặp anh thanh niên , ông kí sư vô cùng cảm động trước cái cuộc sống cống hiến lặng lẽ
của anh, và đã không đắn đo vẽ tấm chân dung anh với lòng cảm mến. Còn cô gái thì ngay
lập tức có tình cảm với anh thanh niên, khi chia tay mà trong lòng vẫn xiết bao bồi hồi xao
xuyến.Và tình cảm đầm ấm mà họ trao tặng nhau dường như làm đẹp cả một vùng đất trời
Sa Pa.

Câu 6. Trong « lặng lẽ Sa Pa », bác lái xe đã giới thiệu với ông hoạ sĩ về anh
thanh niên là « người cô độc nhất thế gian ». Theo em, ý kiến của bác lái xe có đúng
không ? Ghi lại vắn tắt ý kiến của em.
Gợi ý  :
Trong « lặng lẽ Sa Pa », bác lái xe đã giới thiệu với ông hoạ sĩ : « anh thanh niên là
người cô độc nhất thế gian ». Đây là một cách nói của bác lái xe nhằm gây ấn tượng, gây
chú ý về nhân vật anh thanh niên. Quả thực anh thanh niên ít có điều kiện tiếp xúc với mọi
người, anh sống một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m. Anh lại làm công việc đo
nắng, đo gió, đo mưa nên càng ít có cơ hội gặp gỡ, nói chuyện với người khác. Chính vì
thế mà anh đã từng lấy cây chặn xe để mong có dịp được chuyện trò, làm quen với mọi
người đi ngang qua.
- Nhưng mặc dù vậy, anh không hề cô đơn. Cho dù phải sống và làm việc một mình
trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm chỉ có mây mù, cây cỏ. Nhưng anh rất yêu công
việc. Với anh, khi làm việc, anh với công việc là đôi, công việc của anh gắn với bao anh
em đồng chí. Công việc của anh đã góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ( việc
phát hiện một đám mây khô..... bộ đội bắn rơi máy bay Mĩ...) Ngoài ra, anh còn biết cách
tự tạo cho mình những niềm vui trong cuộc sống, biết cách làm cho cuộc sống của mình
trở nên giầu có, phong phú. Anh thích đọc sách bởi đọc sách cũng có nghĩa là có người để
trò chuyện. Rảnh rỗi, anh còn trồng hoa, trồng cây thuốc, nuôi gà. Ngày lại ngày, anh bị
cuốn đi trong công việc, vậy làm sao anh có thể cô độc ? Nói đúng hơn anh là con người
sống thật hạnh phúc !

Câu 7 : Viết đoạn văn quy nạp : dùng phép thế đồng nghĩa (12 câu)

216
Ông họa sĩ (« LLS P » - NTL) là một con người có tâm hồn nhạy cảm, có nhiều suy
nghĩ sâu sắc về nghề nghiệp.
Gợi ý :
- Tâm hồn nhạy cảm, mẫn cảm : Ông hoạ sĩ trong câu chuyện với người thanh niên
mặc dù gặp gỡ rất ít phút, chỉ thoáng nghe người thanh niên kể chuyện về công việc của
mình, ông cảm nhận ngay được nét đẹp tâm hồn của anh, ông cảm thấy rối bời bởi ông đã
bắt gặp điều mà ông vẫn ao ước được biết » - vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người thanh
niên.
- Là con người từng trải, hiểu đời, hiểu người sâu sắc
- Là con người gắn bó với hội hoạ, có nhiều trăn trở về nghề nghiệp => lòng yêu nghề,
say mê với nghề. Dấu ấn nghề nghiệp đã in dấu lên vẻ ngoài của ông
+ Sắp nghỉ hưu vẫn muốn vẽ tranh. ông hiểu vẽ là một công việc gian nan. Ông cảm
thấy ngòi bút của mình dường như bất lực trong việc tái hiện lại vẻ đẹp cuộc sống con
người. Chỉ có những người thực sự giỏi mới không tự bằng lòng với mình, tự thấy mình
phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
+ Ông càng xúc động trước những nét đẹp bình dị, đáng quý của anh thanh niên, ông
càng khát khao sáng tác. Làm thế nào để phác hoạ được bức chân dung chàng trai, làm thế
nào để người xem phát hiện được, cảm nhận được nét đẹp của anh như ông đang xúc động,
làm thế nào để gửi gắm suy tư của ông vào bức tranh đó.
=> Quả thực ta thấy ông là một con người có tâm hồn nhạy cảm, có nhiều suy nghĩ
sâu sắc về nghề nghiệp.
Câu 8  : Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật cô kĩ sư trẻ.
- Tâm hồn nhạy cảm, phong phú. Những điều cô cùng ông hoạ sĩ nghe anh thanh niên
nói, cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy …. Đã khiến cô bàng hoàng, bàng hoàng nhận ra nhiều điều
(sgk)
Cô lên công tác để chia tay mối tình nhạt nhẽo của mình, cô xúc động mãnh liệt trước vẻ
đẹp tâm hồn của một người mà cô không hề quen biết. Những cảm nhận, phát hiện ấy
khiến cô tin hơn vào quyết định của mình, dũng cảm tự tin hơn trên con đường đi tới cuộc
sống mới, nơi công tác mới.
- Cô ước ao có một chút gì đó kỉ niệm cho chàng trai mà cô đã yêu mến, khâm phục
= > Phải nói rằng đó là cuộc gặp gỡ trong khoảnh khắc nhưng rất khó quên.
- Tâm hồn lãng mạn của tuổi trẻ :
+ Ngạc nhiên sung sướng, mừng rỡ, ồ lên khi nhìn thấy hoa, quên mất e lệ còn bởi vì
cô rất yêu hoa.
=>Tâm hồn lãng mạn và thơ mộng của người con gái Hà Nội đã khiến cô dũng cảm nhận
công tác ở vung núi xa xôi này. Bởi thế cô cũng rất xúc đông, xao xuyến khi nghe người
con trai nói chuyện, chứng kiến những suy nghĩ, tình cảm hết sức chân thành của anh thanh
niên, cô rất bối rối rung động bởi cô hiểu rằng những con người như vậy rất khó gặp trong
cuộc sống => Nâng niu những giây phút ấy.

Câu 9 : Viết một đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu : Những trang văn của Nguyễn Thành
Long đã khắc hoạ thiên nhiên Sa Pa thật rực rỡ, nên thơ, giàu cảm xúc.

217
(Đoạn văn có sử dụng một câu thảm thán. Gạch 1 gạch chỉ rõ. )
Có một Sa Pa của những rặng đào, những đàn bò lang cổ đeo chuông đang thung
thăng gặm cỏ, khung cảnh chỉ có thể thấy ở rừng núi. Có một Sa Pa của nắng, nắng đem lại
cho Sa Pa một vẻ đẹp mới : rực rỡ và bất ngờ. Ánh nắng dường như sáng dần lên trong
khung cảnh thiên nhiên. Cái nắng chói chang được Nguyễn Thành Long miêu tả « đốt cháy
rừng cây » và cái nắng vào cuối buổi trưa lại gay gắt hơn « ánh nắng như phủ khắp , mạ
bạc cả con đèo » Cảnh được quan sát từ trên cao trở xuống. Và ở góc độ ấy, thiên nhiên
càng trở nên khoáng đạt, hùng vĩ hơn. Rừng cây như « một bó đuốc khổng lồ », ánh nắng
khiến thiên nhiên Sa Pa lặng lẽ, trầm mặc mà đầy sức sống. « Nắng bắt đầu len tới đốt
cháy rừng cây », đọc câu văn, ta cảm giác như nắng đang di chuyển, đang chạy dần trên
các triền núi. Có thể nói câu văn miêu tả thiên nhiên đã làm thêm chất trữ tình cho câu
chuyện. Bên cạnh Sa Pa của nắng còn có Sa Pa của mây : « mây cuộn tròn từng cục, rơi
trên các vòm lá ướt sương… » Dường như con người đang đi trong mây. Mây cũng hồn
nhiên, tinh nghịch chui vào gầm xe. Và với thủ pháp nhân hoá rất thú vị ấy, Sa Pa còn hiện
lên với hình ảnh cây thông và những cái cây tử kinh – chú bé nghịch ngợm nhô « cái đầu
màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng ». Cây tử kinh như hài hoà, nổi bật giữa màu xanh
của rừng núi. Khung cảnh rất nên thơ và câu văn cũng đầy chất thơ. Khung cảnh mang vẻ
đẹp bình yên, êm ả như không hề biết đến bom đạn, khói thuốc của chiến tranh. Dường
như những thay đổi của cuộc sống không chạm được đến nơi đây. Nhan đề của truyện,
thiên nhiên trong truyện cũng rất êm đềm, nhưng lặng lẽ mà không phẳng lặng, bình yên
mà rất sống động.

Câu 10 : Nhan đề « lặng lẽ Sa Pa » có ý nghĩa như thế nào ?


-Vẻ đẹp của Sa Pa, vẻ đẹp lặng lẽ, êm đềm và rất thơ mộng, lặng lẽ mà không hề quạnh
hưu.
- Khắc hoạ vẻ đẹp của những con người lao động lặng thầm. Những công việc, thành quả
mà học đạt được cũng hết sức bình dị, họ làm việc say mê không hề nghĩ đến nghỉ ngơi và
cũn không cần ai biết đến mình. Họ là những con người rất đỗi khiêm tốn, những anh hùng
vô danh.
=>Nhan đề giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp của những con người nơi Sa Pa lặng lẽ.
« Lặng lẽ » được đưa lên đầu câu để nhấn mạnh vẻ đẹp thầm lặng, bình dị của họ. Và phải
chăng đó cũng là nhịp sống bình yên, êm ả của vùng đất xa xôi và thơ mộng ấy.

Câu 11  : Cho câu chủ đề sau :


«Lặng lẽ Sa Pa » như tác giả nói là bức chân dung – chân dung của các nhân vật, trong đó
có ông hoạ sĩ.
Viết đoạn văn khoảng 15 câu (sử dụng thành phần phụ chú và phép thế) nêu cảm nhận của
em về ông hoạ sĩ (những suy nghĩ về nghệ thuật, về con người, cảm xúc trước người thanh
niên ở trạm khí tượng)
Gợi ý :
- Giới thiệu ngòi bút điềm tĩnh và giầu chất thơ của Nguyễn Thành Long.

218
- « Bối rối, xúc động, một nét thôi cũng đủ khơi gợi một tâm hồn », lời kể giản dị và chân
thật của anh thanh niên đã làm ông xúc động. Hoá ra cái đẹp thật giản dị, nó nằm ngay
trong cuộc sống, ở quanh ta. Nhiều khi một nét, một chút cảm xúc « đủ đem lại ý nghĩa
cho chuyến đi của ông, nó không hề vô ích » . Bối rối, ấy là tâm trạng xúc động, xao xuyến
trước vẻ đẹp của cuộc sống. Người thanh niên không phải là một người anh hùng lao động
được vinh danh như ta thường thấy, nhưng phải chăng chính nét đẹp dung dị như cuộc
sống và lặng thầm như Sa Pa lại có sức thuyết phục nhất đối với những con người từng trải
như ông ? Và người hoạ sĩ lại càng thấm thía…
-« Vẽ bao giờ… » (dẫn chứng sgk) => Suy nghĩ hết sức nghiêm túc về hội hoạ và nghề
nghiệp. Phải là một con người giỏi nghề mới thấy được sự bất lực của hội hoạ trước cuộc
đời, trước con người để luôn cố gắng vượt qua giới hạn của chính mình- những ngưỡng
cửa đầy khó khăn. Phải làm thế nào để truyền lại cho người xem những cảm xúc ấy của
ông về người thanh niên…
-Ông hoạ sĩ là người như vậy. Với ông, vẽ là một công việc gian nan và đầy khó khăn,
không hề đơn giản. Không phải ai cũng có được những suy nghĩ sâu sắc như vậy.
=> Những suy nghĩ ấy không chỉ bó hẹp trong hội hoạ, điều ấy đáng để cho chúng ta ngẫm
ngợi, nghĩ suy.
D. Mét sè bµi TẬP LÀM VĂN tham kh¶o

Đề số 1:Phân tích truyện ngăn “lãng lẽ sa pa” của Nguyễn Thành Long để thấy vẻ đẹp
của thiên nhiên Sa Pa và con người Sa Pa.
I - Mở bài:
- Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi truyện ngắn đáng chú ý trong
văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một cây bút cần mẫn trong lao động nghệ thuật, lại rất
chú trọng trong thâm nhập thực tế. “LLSP” chính là kết quả của một chuyến đi thực tế của
ông.
- Truyện được viết ra năm 1970, trong không khí cả nước đang hào hùng đánh Mĩ và
quyết tâm thắng Mĩ, miền Bắc bên cạnh nhiệm vụ trực tiếp đánh Mĩ và chi viện trực tiếp
cho Miền Nam còn phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng CNXH làm cơ sở vững chắc để
đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
- Truyện đầy chất thơ: cái thơ mộng, vẻ huyền ảo lung linh của thiên nhiên Sa Pa quyện
chặt với cái đẹp của tâm hồn con người - lớp trí thức trẻ đang ngày đêm lo nghĩ và làm
việc hết mình cho đất nước, cho cách mạng. Chất thơ còn nằm trong vẻ đẹp của mối quan
hệ giữa con người với nhau trong cách dựng truyện của tác giả, thấm đến từng chi tiết
truyện.
II – Thân bài:
1. Giới thiệu cốt truyện, nhân vật
- “LLSP” có cốt truyện đơn giản, xoay quanh cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô
kỹ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa.
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đã để lại nhiều cảm xúc và ấn tượng tốt đẹp cho cô gái và
ông họa sĩ già về những con người làm việc say mê mà thầm lặng cho đất nước mà tiêu

219
biểu là anh thanh niên - nhân vật chính của truyện - trong cái lặng lẽ của Sa Pa, nơi mà
người ta tưởng như chỉ có sự nghỉ ngơi.
- Các nhân vật phụ (ông họa sĩ, cô gái, bác lái xe) không chỉ tham gia vào câu chuyện mà
còn góp phần làm nổi rõ nhân vật chính và chủ đề của truyện.
- Truyện có một chất thơ bàng bạc toát lên từ các chi tiết, từ khung cảnh thiên nhiên Sa Pa
đẹp như những bức tranh và chất thơ ấy còn ở chính trong tâm hồn các nhân vật với những
suy nghĩ, cảm xúc thật trong sáng, đẹp đẽ. Chất thơ của truyện lại đi liền với chất họa.
Truyện cũng có thể xem là những bức tranh đẹp, những bức tranh về cảnh thiên nhiên Sa
Pa, về cuộc gặp gỡ giữa ba nhân vật và bức chân dung kí họa về nhân vật chính – anh
thanh niên
2. Vẻ đẹp thiên nhiên Sa Pa
-Trước hết,”LLSP” là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, huyền ảo, độc đáo làm say
đắm lòng người.
- Vẻ đẹp Sa Pa bắt đầu bằng những rặng đào với những đường núi quanh co uốn lượn kề
bên con thác trắng xóa.
- Sa Pa còn đẹp và thơ mộng hơn bởi những cánh đồng cỏ trong thung lũng, những đàn bò
lang cổ đeo chuông đang thung thăng gặm cỏ
- Trong khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên, đất trời, điểm xuyết những tia nắng thật kì
lạ: “ Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây, những cây thông chỉ cao quá đầu,
rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc…”, rồi “nắng mạ bạc cả con đèo”.
- Mây Sa Pa cũng được tác giả tả rất nhiều và rất lạ: “Mây mù ngang tầm với chiếc cầu
vồng kia. Mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng”, rồi “mây bị nắng xua, cuộn
tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe”
- Không chỉ có vậy, Sa Pa còn được tô điểm thêm những màu sắc tươi sáng của các loại
cây lạ, và nhất là các loại hoa. Thật bất ngờ khi nhìn thấy “những cây tử kinh thỉnh thoảng
nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng”. Còn hoa ở Sa Pa thật đẹp, ngay giữa
mùa hè đã rực rỡ ngát hương với “ hoa dơn, thược dược, lay ơn, vàng, tím, đỏ, hồng phấn,
tổ ong…
=>Phong cảnh Sa Pa đẹp biết nhường nào. Được ngắm nhìn thiên nhiên Sa Pa ta có cảm
giác như được chiêm ngưỡng những tác phẩm hội họa lung linh, kì ảo. Con mắt nhìn tinh
tế của trái tim nghệ sĩ biết yêu và rung động trước cái đẹp của Nguyễn Thành Long và bút
pháp lãng mạn đã chọn lọc được những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên Sa Pa, khơi gợi
trong lòng ta một tình yêu quê hương đất nước.

3. Vẻ đẹp của con người Sa Pa


Truyện không chỉ là một bức tranh lãng mạn về cảnh đẹp thiên nhiên Sa Pa, mà còn
ngợi ca những con người đang say mê lao động với lòng nhiệt huyết đáng trân trọng.
- Truyện “LLSP” đưa ra bốn nhân vật: bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư mới ra trường và
anh thanh niên ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét. Anh thanh
niên là nhân vật chính của truyện không chỉ xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ hiện ra
trong cuộc gặp gỡ chốc lát giữa các nhân vật kia với anh, khi xe của họ dừng lại nghỉ.

220
Nhân vật ấy chỉ hiện ra trong chốc lát, đủ để các nhân vật khác kịp ghi nhận một ấn tượng,
một “ký họa chân dung” về anh, rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt
ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở của núi cao Sa Pa. Nhân vật anh thanh niên hiện ra đủ để
cho mọi người nhận được rằng “Trong cái im lặng của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người
ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất
nước.
a. Nhân vật anh thanh niên
- Hoàn cảnh sống và làm việc của anh khá đặc biệt: một mình trên đỉnh núi cao, quanh
năm suốt tháng giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo
nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ
sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần
trách nhiệm cao. “Nửa đêm, đúng giờ “ốp" thì dù mưa tuyết, giá lạnh thế nào cũng phải trở
dậy ra ngoài trời làm công việc đã quy định”. Nhưng cái gian khổ nhất là phải vượt qua
được sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một
bóng người - một hoàn cảnh thật đặc biệt
- Điều gì đã giúp anh có thể vượt lên được hoàn cảnh ấy?
+ Trước hết đó là ý thức về công việc của mình và lòng yêu nghề, thấy được công việc
thầm lặng ấy là có ích cho cuộc sống, cho mọi người. Khi được biết là một lần do phát
hiện kịp thời một đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta
bắn rơi nhiều máy bay Mĩ trên bầu trời Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”
+ Anh đã có những suy nghĩ thật đúng và sâu sắc về công việc đối với cuộc sống của
con người: “… Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao lại gọi là một mình được?
Huống chi công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em, đồng chí dưới
kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
Những lời tâm sự ấy giản dị, chất phác quá, hồn nhiên và vô tư quá. Lời tâm sự ấy đã
toát lên một vẻ đẹp nhân cách đáng trân trọng, gây xúc động mạnh mẽ trong lòng người
đọc.Quả là công việc đã trở thành niềm vui, niềm hạnh phúc và là lẽ sống của đời anh.
Động cơ làm việc đúng đắn và phương châm sống cao đẹp của anh: làm việc vì mọi
người, vì Tổ quốc đã khiến cho ông họa sĩ và mỗi chúng ta phải tự nhủ thầm”người con
trai ấy đáng yêu thật”.
+ Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ còn vì anh có một nguồn vui khác nữa
ngoài công việc – đó là niềm vui đọc sách mà anh thấy như lúc nào cũng có người bạn
để trò chuyện.
+ Anh tổ chức, sắp xếp cuộc sống một mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp, chủ động; nào
trồng hoa, nào nuôi gà, tự học và đọc sách ngoài giờ làm việc.
- Ở người thanh niên ấy còn có những nét tính cách và phẩm chất rất đáng mến nữa: sự cởi
mở, chân thành, rất quý trọng tình cảm của mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện
với mọi người (tinh thần của anh với bác lái xe, thái độ ân cần, chu đáo, sự cảm động, vui
mừng của anh khi có khách xa đến thăm bất ngờ…) Anh còn là người khiêm tốn, thành
thực cảm thấy công việc và những đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. Khi ông họa sĩ muốn
vẽ chân dung anh, anh nhiệt thành giới thiệu với ông những người khác đáng cảm phục
hơn nhiều (ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét)

221
=> Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và chỉ cho xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện, tác
giả đã phác họa được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm,
cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc
- Nhân vật anh thanh niên còn được hiện ra qua sự nhìn nhận, suy nghĩ, đánh giá của các
nhân vật khác: bác lái xe, ông họa sĩ, cô gái. Qua cách nhìn và cảm xúc của mỗi người,
hình ảnh anh thanh niên hiện ra thêm rõ nét và đáng mến hơn.
b.Bác lái xe: qua lời kể của nhân vật này, ông họa sĩ và cô gái trong truyện cũng như người
đọc được kích thích sự chú ý, đón chờ sự xuất hiện của anh thanh niên – nhân vật chính
của truyện mà theo lời của bác lái xe là “một trong những người cô độc nhất thế gian”.
Cũng qua lời kể của bác mà ta biết được những nét sơ lược về nhân vật chính và nỗi
“thèm” được gặp người của anh khi mới lên sống một mình trên đỉnh núi cao quanh naă
lạnh lẽo chỉ có cỏ cây và mây mù.
c. Nhân vật ông họa sĩ già: Đây là nhân vật rất gần với quan điểm trần thuật của tác giả.
Qua những quan sát, ý nghĩ của ông họa sĩ già - một người từng trải cuộc sống và am
tường nghệ thuật – nhân vật chính hiện ra rõ nét và đẹp hơn đồng thời lại khơi gợi thêm
nhiều khía cạnh ý nghĩa về cuộc sống, về nghệ thuật.
- Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên, bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao
khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông đã xúc động và bối rối “vì họa
sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định một
tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác…”
- Ông họa sĩ muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí họa, và “người con trai
ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ
về anh. Và về những điều anh suy nghĩ…”
- Những xúc cảm và suy tư của nhân vật họa sĩ về người thanh niên và về những điều khác
nữa (ví dụ về nghệ thuật với cả sức mạnh và sự bất lực của nó về mảnh đất Sa Pa…) được
gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên đã làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng
đẹp và chứa đựng những chiều sâu tư tưởng.
d.Nhân vật cô gái: Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, cả chuyện
anh kể về những người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, cô hiểu thêm cuộc sống một mình
dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh” và
quan trọng hơn nữa là về con đường mà cô đã lựa chọn, cô đang đi tới (việc lên công tác ở
miền núi). Đây là cái “bàng hoàng” đáng lẽ cô phải biết khi yêu, nhưng bây giờ cô mới
biết, nó còn giúp cô đánh giá đúng hơn mối tình nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ và yên tâm hơn
về quyết định đó của mình. Đó là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi
người ta gặp được những ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống, từ tâm hồn của người khác.
Cùng với sự “bàng hoàng” ấy là một tình cảm hàm ơn với người thanh niên, không phải
chỉ vì bó hoa to mà anh tặng cô một cách hết sức vô tư mà còn vì “một bó hoa nào khác
nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”
=>Tóm lại, thông qua những cảm xúc và suy nghĩ cùng thái độ cảm mến của các nhân vật
phụ, hình ảnh nhân vật anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn, gợi ra nhiều ý
nghĩa như là đã được lọc qua thứ ánh sáng tâm hồn trong trẻo và rực rỡ khiến hình ảnh ấy

222
rạng rỡ hơn, ánh lên nhiều sắc màu hơn. Đây là một thủ pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử
dụng thành công trong việc xây dựng nhân vật chính của truyện.
e. Ngoài ra, trong tác phẩm còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ được
giới thiệu gián tiếp, nhưng cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.
- Đó là ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hàng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan sát lấy mật
của ong rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn.
- Đó là anh cán bộ nghiên cứu đã 11 năm ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét tìm tài
nguyên cho đất nước.
- Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên ở trạm khí tượng, những
con người miệt mài lao động khoa học trong lặng kẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất
nước, vì cuộc sống của mọi người.
1. Khái quát, đánh giá
Truyện “LLSP” ngợi ca những con người lao động như anh thanh niên làm công tác khí
tượng và cái thế giới những con người như anh. Tác giả muốn nói với người đọc: “Trong
cái lặng im của Sa Pa (…), có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”.
Đồng thời qua câu chuyện về anh thanh niên, tác phẩm cũng gợi ra những vấn đề về ý
nghĩa và niềm vui của lao động tự giác, vì những mục đích chân chính đối với con người:
dù trong hoàn cảnh đơn độc giữa thiên nhiên vắng lặng quanh năm mà con người vẫn
không cô đơn, buồn tẻ một khi người ta tìm thấy ý nghĩa của công việc và cuộc sống của
mình.
III - Kết luận:
“Lặng lẽ Sa Pa” quả là một truyện ngắn đầy chất thơ của Nguyễn Thành Long. Nó ngân
nga nhẹ nhàng thơ mộng trong ngòi bút tả cảnh với những bức tranh lung linh, kì ảo, nó
đằm thắm ấm áp, lắng sâu trong câu văn tả tình với những mẩu chuyện xúc động, đáng
yêu. Cảnh mơ màng lung linh, còn con người như ta đã thấy, mỗi chân dung, mỗi lời nói, ý
nghĩ, hành động đều như ngân lên những vang âm ngọt ngào, êm ái. Tất cả như làm nên
cái chất thơ của con người, của cuộc sống. Văn xuôi truyện ngắn mà giầu nhịp điệu, âm
thanh, êm ái như một bài thơ…

======================
Đề số 2  : Hãy phân tích nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “lặng lẽ Sa
Pa” của Nguyễn Thành Long. Nhân vật ấy giúp em hiểu thêm nét đẹp gì ở những con
người lao động?
Gợi ý phân tích
I – Mở bài:
Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi đáng chú ý trong những
năm 60 – 70, chỉ chuyên viết về truyện ngắn và kí. “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn nhẹ
nhàng có cốt truyện đơn giản nhưng thật thú vị và ẩn chứa bên trong nhiều ý vị sâu sắc.
Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao
động bình thường mà cao cả, những con người đầy quan tâm, đầy trách nhiệm đối với đất
nước mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác quan trắc khí tượng. Nhân vật anh thanh
niên chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng nổi bật nhất của bức tranh về phẩm

223
chất và tâm hồn tốt đẹp của con người mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc mà tác giả tập trung thể hiện.

II – Thân bài:
1. Hình ảnh anh thanh niên
- Anh không xuất hiện từ đầu mà chỉ hiện ra trong cuộc gặp gỡ chốc lát với bác lái xe,
ông họa sĩ , cô gái trẻ khi xe của họ dừng lại nghỉ. Chỉ chốc lát nhưng cũng đủ để
các nhân vật khác kịp ghi nhận một ấn tượng, một kí họa chân dung về anh, rồi
dường như anh lại khuất lấp vào giữa mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ muôn thuở củ
núi rừng Sa Pa.
- Anh còn hiện ra qua cái nhìn và sự cảm nhận của các nhân vật khác, đặc biệt là ông
họa sĩ già và anh cũng tự bộc lộ qua cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với mọi người
a. Hoàn cảnh sống và làm việc của anh thật đặc biệt.
- Quanh năm suốt tháng, anh sống một mình trên đỉnh núi cao, giữa cỏ cây và mây mù
lạnh lẽo.Tác giả giới thiệu anh qua lời của bác lái xe: “ Anh thanh niên hai mươi bảy
tuổi, người cô độc nhất thế gian, một mình trên trạm khí tượng ở đỉnh cao hai ngàn
sáu trăm mét, rất “thèm người”…”Thử thách lớn nhất đối với chàng trai trẻ ấy chính là
sự cô độc.Sống đơn độc nơi rừng núi mà làm việc thì không phải là chuyện dễ dàng.
Biết bao vất vả, gian lao rình rập, thiếu thốn vật chất..
- Hơn nữa lại phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt. Công việc của anh là đo gió,
đo mưa, tích mây, đo chấn động mặt đất góp phần vào việc dự báo thời tiết hàng
ngày, phục vụ sản xuất và chiến đấu. Gian khổ nhất là vào lúc một giờ sáng, dù mưa
gió, tuyết lạnh thế nào cũng phải trở dậy ra ngoài làm việc.
 Quả thực, điều kiện sống và làm việc đó là một thử thách lớn đối với tuổi trẻ vốn
sung sức và khát khao hành động. Nhưng anh vẫn vượt qua được. Cái gì đã giúp anh
vượt qua được hoàn cảnh ấy ? Đó là ý chí, nghị lực, những phẩm chất và sức mạnh
bên trong của nhân vật đã giúp anh vượt lên tất cả để sống một cuộc đời đầy ý nghĩa
b. Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về cuộc sống và công
việc
- Anh sống gắn bó với sự nghiệp của đất nước, rất có trách nhiệm với cuộc đời. Đất
nước có chiến tranh, anh xin ra trận. Không được ra trận, anh làm công tác khí
tượng trên núi cao. Không ai có thể bắt buộc anh lên cái nơi “khỉ ho cò gáy” này để
làm việc và cống hiến. Trong khi bao nhiêu người sau khi ra trường đã cố chạy chọt
tìm bằng được một nơi làm việc giữa thủ đô thì anh đã khoác ba lô vui vẻ vượt suối
băng rừng để lên công tác ở nơi này. Anh tự nguyện lên đây không phải do sự bốc
đồng nhất thời mà là cả một sự nhận thức chín chắn, đúng đắn, sâu sắc nhất. Anh
thanh niên, một cán bộ vật lý kiêm khí tượng địa cầu, đã sẵn sàng đi đến bất cứ nơi
nào để có thể phát huy tài năng và thực hiện ước mơ của mình. Anh tự đặt và trả lời
câu hỏi : “Mình sinh ra là gì ? Mình để ở đâu ? Mình vì ai mà làm việc ?
- Anh có những suy nghĩ rất đẹp về ý nghĩa của cuộc sống, về hạnh phúc trong đời.
Với anh hạnh phúc là trong công việc. Khi kể lại thành tích nhờ phát hiện kịp thời

224
đám mây khô, không quân ta đã hạ nhiều máy bay Mĩ ở cầu Hàm Rồng, anh nói :
“kể từ hôm đó, cháu sống thật hạnh phúc”.
- Anh rất yêu công việc của mình. Đối với anh, công việc là niềm đam mê cháy bỏng,
là niềm hạnh phúc lớn nhất. Hơn ai hết, anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình
là có ích mọi người, nó gắn liền anh với cuộc sống chung của đất nước. Anh tâm sự
với ông họa sĩ : “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình
được ? Huống chi công việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới
kia.Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
Dù công việc có vất vả nhưng anh không thể sống thiếu nó.
- Cái mà tác giả muốn làm nổi bật ở nhân vật này không phải là những công việc khó
khăn đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao mà là một hoàn cảnh sống và làm
việc thật đặc biệt. Cái khó khăn, thách thức lớn nhất đối với anh chính là sự cô độc.
Đã có những phút anh phải yếu mềm trước cơn “thèm người” đang dâng trào trong
huyết quản. Anh đã làm đủ mọi cách để gặp con người, được nghe họ nói, được thấy
họ cười, dù chỉ trong một giây phút. Những khuôn mặt chưa bao giờ anh gặp sao
bỗng trở nên thân thiết lạ lùng! Nhưng cuối cùng, chàng trai đã vượt qua cơn xúc
động để trở về với cuộc sống bình thường.
- Thậm chí, mặc dù đã sống một mình trên đỉnh núi cao 2600mét nhưng anh vẫn ước
được làm việc ở đỉnh núi cao hơn nữa : Đỉnh Phan xi Păng cao 3143 mét bởi anh
nghĩ : “ Làm công tác khí tượng ở độ cao như thế mới là lý tưởng chứ”.Đó là ước
vọng được vươn cao hơn trong công việc để đạt được mục đích tốt đẹp nhất.
 Những suy nghĩ đẹp ấy khiến anh thêm yêu cuộc sống và con người xung quanh,
“thấy cuộc đời đẹp quá!”, giúp anh có thêm nghị lực để sống một cuộc sống đẹp,
đầy ý nghĩa, gắn bó với mọi người dù một mình đơn độc làm việc trên núi cao.
c. Anh thanh niên còn có phong cách sống rất đẹp
Ngoài ra anh tổ chức cuộc sống của mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp, phong phú
cả vật chất và tinh thần, một cuộc sống chủ động, làm chủ mình và có ích cho đời.
- Anh biết sống cho sự nghiệp chung lớn lao và cũng biết sống cho riêng mình. Anh
trọng cái đẹp : anh trrồng hoa, một vườn hoa đầy mầu sắc. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn
anh và anh hào phóng tặng cho mọi người. Gian nhà của anh sạch sẽ, gọn gàng. Anh
chạy về trước là để pha trà, cắt hoa tặng khách chứ không phải để thu dọn nhà cửa vì
khách tới thăm bất ngờ như họa sĩ tưởng. Anh trồng rau, nuôi gà là để tự cung cấp cho
mình thức ăn.
- Anh còn đọc sách ngoài những giờ làm việc. Sách đã trở thành người bạn thân thiết
của anh. Khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh “mừng quýnh” như cầm được vàng.
Anh nói với cô gái: “ Cô thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là sách
ấy mà. Mỗi người viết một vẻ”. Anh tự lo liệu xoay sở đẻ thường xuyên có sách đọc.
Sách không chỉ giúp anh nâng cao hiểu biết, nâng cao kiến thức, sách còn giúp anh
khuây khoả trong những phút giây rảnh rỗi. Say mê đọc sách là một thói quen, một đức
tính đáng quý ở anh.
- Không chỉ say mê công việc, say mê đọc sách , anh thanh niên còn là một con
người rất đáng mến ở sự cởi mở,chân thành với mọi người. Anh luôn khao khát được gặp

225
gỡ, trò chuyện với những người khác. Anh mừng lắm khi gặp được bác tài và càng mừng
hơn khi được tiếp bác tài, nhà hoạ sĩ, và cô kỹ sư nông nghiệp trẻ mới ra trường tại nơi
làm việc của anh. Chính anh đã nói to lên đầy tiếc rẻ : « Trời ơi, chỉ còn năm phút ». Câu
chuyện của anh tuôn ra như suối khi gặp mọi người. Anh « nói to những điều người ta chỉ
nghĩ và cũng ít nghĩ ». Anh rất hiếu khách : mời khách uống trà, tặng hoa, tặng quà ( giỏ
trứng) cho khách. Và anh rất lưu luyến với khách khi chia tay. Thái độ vui vẻ, niềm nở,
hiếu khách của anh cũng đã để lại trong lòng mọi người những ấn tượng khó quên.
- Dù vậy, trong cuộc sống, anh là một người rất khiêm tốn, luôn đề cao người khác.Thực
tâm, anh thấy công việc và sự đóng góp của mình chỉ là nhỏ bé. Anh luôn say sưa ca ngợi
mọi người. Mặc dù ông hoạ sĩ già hết sức khâm phục anh, ông muốn vẽ chân dung của
anh, nhưng anh một mực từ chối, anh không muốn vì cảm thấy mình không xứng đáng
được hưởng ân huệ ấy. Anh đã kể những người xứng đáng khác. Anh nói thành thực:
“những người khác đáng kể, đáng vẽ hơn anh. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phăng
-xi -păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Cháu giới
thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa!… Hay là bác vẽ đồng chí nghiên cứu khoa
học ở cơ quan cháu…” Và anh say sưa kể về thành tích của những người ấy. Đức tính
khiêm tốn ấy của anh đã làm cho ông hoạ sĩ, bác lái xe và cô gái hết sức yêu mến và khâm
phục.
2. Nhân vật ấy giúp em hiểu thêm nét đẹp ở những con người lao động ở chốn Sa
Pa   :
- Đó là hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ
đẹp, sống có lý tưởng, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư, lặng thầm, cống hiến
hết mình cho đất nước, say mê, miệt mài, khẩn trương làm việc.
- Họ có tấm lòng nhân hậu thật đáng quý, có tác phong sống thật đẹp. Cuộc sống của
họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp biết bao.
III – Kết luận:
Thế đấy, trong cái “lặng lẽ”của Sa Pa trên đỉnh Yên Sơn bốn mùa mây phủ mấy ai
biết được có một chàng trai đang sống, đang âm thầm làm việc. Người cán bộ trẻ ấy được
Nguyễn Thành Long xây dựng khá sắc nét với những đặc điểm, suy nghĩ, hành động tích
cực, một mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ hi sinh nhưng cũng thật
trong sáng, đẹp đẽ. Những trang viết của Nguyễn Thành Long khiến ta thêm yêu con
người và cuộc sống, thấy được trách nhiệm của mình với sự nghiệp chung của đất nước.
Tâm hồn và những việc làm của anh thanh niên trong truyện đã gieo vào lòng em nhiều
tình cảm, thôi thúc em muốn cống hiến, muốn làm gì đó có ích cho xã hội như như một
nhà thơ đã nói: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.

====================

Đề 3: Trong truyện ngắn “LLSP”, tác giả NTL đã gửi gắm chủ đề của câu chuyện vào một
lời nhận xét ngắn gọn: “Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa

226
mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và
lo nghĩ như vậy cho đất nước…””
Hãy phân tích truyện để làm rõ vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa cao quý của
những công việc thầm lặng.
I. Tìm hiểu đề:
- Thể loại: Nghị luận truyện.
- Nội dung nghị luận: Vẻ đẹp của những con người lao động trong “Lặng lẽ Sa Pa”.
- Cách thức nghị luận: phân tích.
II. Lập dàn ý:
A. Mở bài:
- Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi truyện ngắn đáng chú ý trong
văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một cây bút cần mẫn trong lao động nghệ thuật, lại rất
chú trọng trong thâm nhập thực tế. “LLSP” chính là kết quả của một chuyến đi thực tế của
ông.
- Truyện được viết ra năm 1970, trong không khí cả nước đang hào hùng đánh Mĩ và
quyết tâm thắng Mĩ, miền Bắc bên cạnh nhiệm vụ trực tiếp đánh Mĩ và chi viện trực tiếp
cho Miền Nam còn phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng CNXH làm cơ sở vững chắc để
đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
- Trong truyện, tác giả Nguyễn Thành Long đã gửi gắm chủ đề của câu chuyện vào một
lời nhận xét ngắn gọn : « Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kỹ của Sa
Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm
việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước.... ».
II – Thân bài:
1.Giải thích rõ câu văn mang nội dung, chủ đề của tác phẩm “LLSP”: Ca ngợi vẻ đẹp
bình dị nhưng hết sức đẹp đẽ của con người lao động và ý nghĩa cao quý của những công
việc lặng thầm.
2.Phân tích một số nhân vật trong truyện (anh thanh niên, ông kỹ sư dưới vườn rau Sa
Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét) để làm rõ chủ đề của truyện.
a. Anh TN là nhân vật chính của truyện, dù không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ
hiện ra trong cuộc gặp gỡ chốc lát giữa các nhân vật kia với anh, khi xe của họ dừng lại
nghỉ nhưng đã đủ để các nhân vật khác kịp nghi nhận một ấn tượng, một “kí hoạ chân
dung” về anh rồi dường như anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn và cái lặng lẽ
muôn thuở của núi cao Sa Pa.
- Hoàn cảnh sống và làm việc: Một mình trên đỉnh núi cao 2600m quanh năm suốt tháng
cô đơn giữa cỏ cây và mây mù lạnh lẽo. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng,
tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản
xuất và chiến đấu. Ngày đêm 4 lần(1giờ, 4giờ, 11 giờ, 19 giờ) đều đặn và chính xác, đòi
hỏi tinh thần trách nhiệm cao dù mưa nắng, gió bão, nửa đêm tuyết rơi đều phải đi ốp. Tuy
nhiên cái gian khổ của công việc chưa đáng sợ bằng cái gian khổ của hoàn cảnh sống: đó là
sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng
người. Cô đơn đến mức “thèm người” quá phải kiếm kế dừng xe qua đường để được gặp
người.

227
- Quả thực, điều kiện sống và làm việc đó là một thử thách lớn đối với tuổi trẻ vốn khát
khao và hành động nhưng anh đã vượt qua hoàn cảnh ấy.
+ Trước hết đó là ý thức về công việc của mình và lòng yêu nghề, thấy được ý nghĩa cao
quý trong công việc thầm lặng của mình là có ích cho c/s, cho mọi người. Anh không tô
đậm cái gian khổ của công việc, nhưng anh nhấn mạnh niềm hạnh phúc khi biết được mình
đã góp phần phát hiện kịp thời một đám mây khô mà nhờ đó “không quân ta hạ được bao
nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng”.
+ Anh đã có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn và sâu sắc về cuộc sống và công
việc đối với cuộc sống con người. Công việc của anh gắn bó với bao người, hằng ngày anh
vẫn phải 4 lần nói chuyện với trung tâm. Huống chi còn bao người làm việc trong hoàn
cảnh khó khăn, cô độc hơn, chẳng hạn như anh bạn ở đỉnh Hoàng Liên Sơn cao 3142m
mới là độ cao lí tưởng! Nếu không có công việc, không vì công việc thì đó mới là cuộc
sống cô đơn thực sự, buồn đến chết. Có lẽ đây là những tâm sự chân thành mà sâu sắc nhất
của anh: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi
việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của
cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”.
- Nhưng C/s của anh không hề cô đơn vì anh còn có những nguồn vui khác nữa ngoài công
việc - đó là niềm vui đọc sách mà anh thấy như lúc nào cũng có người để trò chuyện. (khi
bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh “mừng quýnh” như bắt được vàng
+ Anh biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống khoa học, ngăn nắp, tươi tắn,chủ động: đọc
sách, chăm hoa, nuôi gà, tự học... Thế giới riêng của anh là công việc : “một căn nhà ba
gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Cuộc sống riêng của
anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”.
- Ở người anh thanh niên ấy còn có nhiều nét tính cách và phẩm chất rất đáng mến:
+ Sự cởi mở, chân thành, rất quý trọng tình cảm của mọi người, khao khát được gặp gỡ
và trò chuyện với mọi người. Biểu hiện (tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo,
tặng gói tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy. Vui mừng đến luống cuống, hấp tấp cùng
thái độ ân cần chu đáo khi tiếp đãi những người khách xa đến thăm bất ngờ: pha nước,
hái hoa tặng khách - cô gái Hà Nội đầu tiên sau 4 năm làm việc, đến thăm anh, thành thực
bộc lộ “những điều mà đáng lẽ người ta chỉ nghĩ” đến cảm động.Đếm từng phút vì sợ hết
mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến
nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám
tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”)
+ Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới thiệu
nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé,
anh vẫn còn thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến trường đánh giặc. Khi
ông hoạ sĩ kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại và nhiệt tình giới thiệu những người khác
đáng vẽ hơn anh nhiều (ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét...)
=>Tóm lại, chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của
truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về
tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc.

228
b. Ngoài ra, trong tác phẩm còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ được
giới thiệu gián tiếp, nhưng cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.
- Đó là ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hàng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan sát lấy mật
của ong rồi tự tay thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn.
- Đó là anh cán bộ nghiên cứu đã 11 năm ròng túc trực chờ sét để lập bản đồ sét tìm tài
nguyên cho đất nước.
- Họ tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên ở trạm khí tượng, những
con người miệt mài lao động khoa học trong lặng kẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất
nước, vì cuộc sống của mọi người.
c. Ý nghĩa cao quý của những lao động thầm lặng qua những suy nghĩ, hành động, lời nói
của nhân vật.
- Đó là hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp,
sống có lý tưởng, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết mình cho
đất nước, say mê, miệt mài, khẩn trương làm việc.
- Họ có tấm lòng nhân hậu thật đáng quý, có tác phong sống thật đẹp. Cuộc sống của họ
âm thầm, bình dị nhưng cao đẹp, làm nên vẻ đẹp đích thực của mỗi con người, có sức
thuyết phục, lan toả với những người xung quanh.
III - Kết luận:
“Lặng lẽ Sa Pa” quả là một truyện ngắn đầy chất thơ của Nguyễn Thành Long.
Cảnh mơ màng lung linh, còn con người như ta đã thấy, mỗi chân dung, mỗi lời nói, ý
nghĩ, hành động đều như ngân lên những vang âm ngọt ngào, êm ái. Tâm hồn và những
việc làm của những con ng ười lao động trong truyện đã gieo vào lòng em nhiều tình
cảm, thôi thúc em muốn cống hiến, muốn làm gì đó có ích cho xã hội như như một nhà
thơ đã nói: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.

----------------------------------------

Bài 3 : CHIẾC LƯỢC NGÀ.

A. Kiến thức cần nhớ.


1. Tác giả :
- Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong
thời kì kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.
Từ sau năm 1954, tập kết ra Bắc công tác tại phòng văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam và
bắt đầu viết văn. Từ đó ông công tác ở Hội nhà văn Việt Nam, làm biên tập cho tuần báo
Văn nghệ và Hội nhà văn. Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, ông tham gia kháng chiến
và tiếp tục sáng tác văn học.
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại : truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch
bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng
chiến cũng như sau hoà bình.

229
- Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị, mộc mạc, nhưng sâu sắc, đậm đà chất
Nam Bộ.
2. Hoàn cảnh sáng tác : « Chiếc lược ngà » được viết năm 1966, khi tác giả hoạt
động ở chiến trường Nam Bộ, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập
truyện cùng tên. Văn bản đoạn trích là phần giữa của truyện, tập trung thể hiện tình cảm
cha con của ông Sáu và bé Thu.
3. Ngôi kể : - Tác giả đã kể chuỵên từ nhân vật “Tôi”- một người chứng kiến câu
chuyện. Ngôi kể này đã tạo được một giọng điệu kể chuyện thủ thỉ, gợi cảm giác chân thực
và gần gũi với người đọc. Khi cần có thể bày tỏ trực tiếp cảm xúc, thái độ đối với sự kiện
và nhân vật.
4- Tên chuỵên “chiếc lược ngà” là cầu nối tình cảm giữa hai cha con ông Sáu. Chiếc
lược ngà là kỉ vật của người cha vô cùng yêu con để lại cho con trước lúc hy sinh....
5. Tình huống cơ bản của truyện. (Truyện ngắn «  Chiếc lược ngà  » đã sáng tạo
được tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Đó là tình huống nào   ? Tình
huống ấy đã thể hiện tâm trạng của người cha và đứa con như thế nào  ? )
- Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau 8 năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không
nhận cha. Đến lúc em nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi
- Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc
làm chiếc lược ngà để tặng con, nhưng chiếc lược chưa gửi đến tay con thì ông Sáu đã hi
sinh.
Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản. Và nếu tình huống này bộc lộ tình cảm
mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha
đối với đứa con.
6. Tóm tắt
- Ông Sáu ở chiến khu về thăm nhà với hy vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách,
hai bố con chưa hề gặp mặt.
- Mấy ngày đầu, do vết sẹo trên mặt ông Sáu khác với tấm hình chụp ở nhà nên bé
Thu không nhận bố.
- Đến hôm ông Sáu phải lên đường, nghe bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu đã
nhận ba của mình.
- Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc
làm cho con gái một chiếc lược chải tóc bằng ngà. Lúc hấp hối (do bị trúng đạn máy bay
Mĩ) ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con.
7. Nghệ thuật trần thuật của truyện :
- Truyện «Chiếc lược ngà » khá tiêu biểu cho những đặc điểm trong nghệ thuật truyện
ngắn Nguyễn Quang Sáng. Là một nhà văn Nam Bộ, rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất
ấy, Nguyễn Quang Sáng, hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong chiến
tranh và sau hoà bình.
- Một trong những điểm tạo nên sức hấp dẫn của truyện là tác giả đã xây dựng được
một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ tự nhiên nhưng hợp lí : Bé Thu
không nhận ra cha khi ông Sáu về phép thăm nhà, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng
nhiệt, đầy xúc động với người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ càng gây được hứng thú

230
cho người đọc khi hiểu được tính hợp lí của các sự việc, hành động bề ngoài có vẻ mâu
thuẫn. Ở phần sau của truyện, tác giả còn tạo thêm một bất ngờ nữa, đó là cuộc gặp gỡ tình
cờ của nhân vật người kể chuyện với Thu, bấy giờ đã thành một cô giao liên dũng cảm,
trong một lần ông cùng một đoàn cán bộ đi theo đường dây giao liên, vươợ qua một quãng
nguy hiểm ở Đồng Tháp Mười.
- Một yếu tố nghệ thuật nữa góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc
lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai một người bạn thân
thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan và kể lại mà còn bày tỏ sự
đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Đồng thời qua những ý nghĩ, cảm xúc nhân vật kể
chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư tưởng
của truyện thêm sức thuyết phục.
+ Truyện được trần thuật theo lời của người bạn ông Sáu, người đã chứng kiến những
cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu xúc động ở nhân vật kể
chuyện : « tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe
thật xót xa. Đó là tiếng « ba » mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng « ba » như
vỡ tung ra từ đáy lòng nó ». Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải
chịu đựng khiến cho ông « bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim ».
+ Chọn nhân vật kể chuyện như vậy khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn.
Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của
mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của
người đọc, người nghe. (VD : trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không
biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy, « cây lược
ngà chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của
anh »)

B.C©u hái luyện tập.

Câu 1  : Vì sao câu chuyện về tình cha con cảm động trong chiến tranh lại được Nguyễn
Quang Sáng đặt tên là «  Chiếc lược ngà  »  ?
Gợi ý  :
- Nhan đề của tác phẩm thường bộc lộ chủ đề của truyện hoặc ít nhiều nói tới cốt
truyện… »Chiếc lược ngà » của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một nhan đề giản dị
và sâu sắc.
- Chiếc lược ngà là kỉ vật thiêng liêng của tình cha con sâu nặng. Với bé Thu : ban
đầu là ước mơ của một cô bé 8 tuổi, một ước ao rất giản dị, trong sáng, rất con gái.
Có lẽ đó cũng là món quà đầu tiên nhưng cũng lại là món quà cuối cùng người cha
tặng cho cô con gái bé bỏng. Nó là tất cả tình yêu thương, kỉ niệm của ba dành cho
Thu khi ba hi sinh. Với bé Thu, chiếc lược ấy chính là hình ảnh người cha (trong tâm
khảm)

231
- Với ông Sáu : Những ngày xa con ở chiến khu, bao nhiêu nhớ thương, day dứt, ân
hận và cải cái niềm khát khao được gặp con, anh dồn cả vào việc làm chiếc lược ngà
rất tỉ mẩn, rất cẩn thận (dũa từng chiếc răng lược chau chuốt). Dường như khi dũa
từng chiếc răng như vậy, anh cũng bớt áy náy vì đã đánh con, đã không phải với con.
Cây lược làm xong, mỗi khi thương nhớ con, anh lại ngắm nhìn cây lược. Phải
chăng với người cha, chiếc lược nhỏ xinh xắn ấy cũng là hình ảnh cô con gái bé
bỏng. Và trước khi anh Sáu hi sinh, chiếc lược ngà chính là lời trăn trối anh gửi lại,
là tất cả tình cảm của người cha dành cho con, cho gia đình.
Câu 2  : ( đề thi vào THPT năm học 2005 – 2006)
Trong tác phẩm « Chiếc lược ngà » của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, đoạn ghi lại cảnh
chia tay của cha con ông Sáu có đoạn viết : « Nhìn cảnh ấy…. trái tim mình ».
a. Vì sao khi chứng kiến cảnh này, bà con xung quanh và nhân vật « tôi » lại có
cảm xúc đó ?
b. Người kể chuyện ở đây là ai ? Cách chọn vai kể đã góp phần như thế nào vào
sự thành công của tác phẩm ?
c. Kể tên hai tác phẩm khác viết về đề tài chống Mĩ, ghi rõ tên tác giả ?
Gợi ý : a.
- Ông Sáu phải chịu đựng quá nhiều sự hi sinh, mất mát : chiến tranh khiến cho ông
mang một nỗi đau về thể xác và trong những ngày phép ngắn ngủi ở nhà, ông lại
phải chịu thêm nỗi đau tinh thần do bé Thu nhất quyết không chịu nhận ông là cha,
không gọi một tiếng « ba » mà ông hằng khao khát suốt 8 năm trời.
- Trong buổi sáng trước giờ phút ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé Thu
đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi « ba » và tiếng kêu
như tiếng xé, rồi « nó vừa kêu vừa chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba
nó », « Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài
bên má của ba nó nữa, « hai tay nó xiết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể
giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi cấu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó
run run ». Như vậy, cho đến lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc
chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc quá ngắn ngủi. Trước cử
chỉ của bé Thu, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên
mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc của một người cha cảm
nhận được tình ruột thịt từ con mình.
- Thì ra trong đêm về nhà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi
khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải toả và ở Thu nảy sinh một trạng thái
như là sự ân hận, hối tiếc. Vì thế trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi nhớ
mong với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối
hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận.
=>Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia
tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn
tay ai nắm lấy trái tim mình.
b. Truyện được trần thuật theo lời của ông Ba- người bạn ông Sáu, nhân vật « Tôi », người
đã chứng kiến những cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu

232
xúc động ở nhân vật kể chuyện : « tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả
ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng « ba » mà nó cố đè nén trong bao nhiêu
năm nay, tiếng « ba » như vỡ tung ra từ đáy lòng nó ». Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi
sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho ông « bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai
nắm lấy trái tim ».
=> Chọn nhân vật kể chuyện như vậy khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn.
Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của
mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của
người đọc, người nghe. (VD : trong cuộc đời kháng chiến của tôi, tôi chứng kiến không
biết bao nhiêu cuộc chia tay, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lần ấy, « cây lược
ngà chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của
anh »)
c. Kể tên hai tác phẩm :
1. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
2. Truyện « Những ngôi sao xa xôi » của Lê Minh Khuê

Câu 3 : Viết lại đoạn văn dưới đây thay vai kể là bé Thu : « Chắc anh cũng muốn ……lấy
cổ ba nó »
================

C. Mét sè ®Ò TẬP LÀM VĂN

Đề bài 1: Cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích « Chiếc lược ngà » của nhà
văn Nguyễn Quang Sáng.
A. Mở bài :
- Truyện « Chiếc lược ngà » được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966, tại chiến trường
Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Truyện viết trong
hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người - cụ thể ở đây là tình
cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đặc biệt tình là tình cảm của ông Sáu - người
cha cán bộ cách mạng đối với đứa con gái nhỏ - Bé Thu thật sâu sắc và cảm động.
B. Thân bài :
1. Tóm tắt qua về cuộc đời của ông Sáu : Ông Sáu là một nông dân Nam Bộ giàu lòng
yêu nước đã tham gia hai cuộc kháng chiến (đánh Pháp và đánh Mĩ), và đã anh dũng hi
sinh. Ông Sáu là một người cha hi sinh cả cuộc đời để gìn giữ tình cha con bất diệt.Vì cuộc
chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã mang vế sẹo trên mặt, đã hi sinh cả vẻ đẹp của
một thời trai trẻ. Đấy là nỗi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi
đau về tinh thần : đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông cha,
không một lời gọi « ba ». Cho đến phút cuối cùng trước lúc chia tay, ông mới được hưởng
hạnh phúc của người cha. Nhưng phút ấy ngắn ngủi quá. Để rồi cuối cùng ông vĩnh viễn
phải xa con. Ông đã ngã xuống lặng thầm mà không một lời trăng trối, không một nấm mồ,
không bia mộ…

233
2. Trong những ngày về phép thăm nhà.
- Ra đi đánh giặc từ năm 1946, mãi đến năm 1954 hoà bình lập lại, ông mới được về phép
thăm nhà và quê hương một vài ngày. Ngày ra đi bộ đội, đứa con gái bé bỏng thân yêu của
ông mới lên một tuổi, ngày về thì con bé đã tám, chín tuổi. Cái khao khát của một người
lính sau những năm dài vào sinh ra tử trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe
con cất tiếng gọi « ba » một tiếng cũng không được trọn vẹn. Đó là bi kịch thời chiến
tranh.
+ Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm
được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con. Ông vừa bước, vừa khom người đưa
tay chờ đón con”, có lẽ ông rất vui, rất xúc động và hạnh phúc, tin rằng đứa con sẽ đến với
mình. Nhưng bé Thu đã từ chối, chạy và kêu thét lên gọi má. Ông Sáu vô cùng buồn bã,
thất vọng, đau đớn.
+ Trong hai ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu không đi đâu chỉ quanh quẩn ở nhà với
con, chăm sóc con nhưng bé Thu không nhận cha khiến ông vô cùng buồn. .....nhưng ông
sẵn lòng tha thứ cho con. Tình yêu thương của người cha dành cho con trở nên bất lực khi
ông Sáu đánh con bé một cái vào mông vì nó đã hất miếng trứng cá mà ông gắp ra khỏi
bát cơm làm cơm văng tung toé.....Bom đạn giặc đã làm thay đổi hình hài ông. Vết thẹo
dài trên má phải - vết thương của chiến tranh – đã làm cho đứa con gái thương yêu, bé
bỏng không nhận ra bóng dáng người cha nữa !
- Cho đến lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông
mới được một khoảnh khắc hạnh phúc khi đứa con gái ngây thơ chợt nhận ra ba mình và
kêu thét lên: “Ba…………. ba!”. Trước cử chỉ của bé Thu, “anh Sáu một tay ôm con, một
tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt sung sướng, hạnh
phúc của một người cha cảm nhận được tình ruột thịt từ con mình.Và ông Sáu đã ra đi với
nỗi thương nhớ vợ con không thể nào kể xiết.
3. Tình cảm của ông Sáu với con đã được thể hiện phần nào trong chuyến về
phép thăm nhà, nhưng biểu hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi ông
Sáu ở trong rừng tại khu căn cứ.
- Trước hết là nỗi nhớ thương xen lẫn sự day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày
vì ông đã đánh con khi nóng giận. Ông Sáu đúng là một người cha hiền lành, nhân hậu,
biết nâng niu tình cảm cha con. Mang lời hẹn ước của con gái ra đi : “Ba về, ba mua cho
con một cây lược ngà nghe ba!” đã thúc đẩy ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà
dành cho con. Ông quả là một người cha chiều con và luôn biết giữ lời hứa với con, đó là
biểu hiện tình cảm trong sáng và rất sâu nặng
- Kiếm được khúc ngà, anh vui sướng như đứa trẻ được quà, rồi để hết tâm trí, công
sức vào việc làm cây lược, cưa răng, chuốt bóng, khắc chữ... tỉ mỉ, cần mẫn, công phu.
Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo một tác
phẩm duy nhất trong cuộc đời. Cho nên nó không chỉ là chiếc lược xinh xắn và quý giá mà
đó là chiếc lược kết tụ tất cả tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, sâu xa, đơn sơ mà kì diệu
làm sao! Cây lược ngà ấy chưa trải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần
nào tâm trạng ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con
và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, cố mài lên mái tóc, cho

234
chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ song người đọc vẫn hình dung
cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi ngày một đẹp lên, trắng ngà, toả sáng lung linh.
Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu.
Chiếc lược nhỏ bé mà thiêng liêng đã làm dịu nỗi ân hận và ánh lên niềm hi vọng khắc
khoải sẽ có ngày anh Sáu được gặp lại con, trao tận tay nó món quà kỉ niệm này.
- Nhưng tình cảnh thật đáng thương, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay cho
con, người cha ấy đã hi sinh trong một trận càn. Trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ
chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một sự uỷ
thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử. Điều đó
đúng như ông Ba nói: “chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Đó là điều trăng trối
không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc.
=> Hình ảnh ông Sáu, hình ảnh người cha trong chuyện “Chiếc lược ngà” là hình ảnh
sâu nặng về tình cha – con. Ông Sáu quả là một người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng vô
cùng độ lượng và tận tuỵ vì tình yêu thương con, một người cha để bé Thu suốt đời yêu
quý và tự hào. Chiếc lược ngà với dòng chữ mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về
bi kịch đầy máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng ta. Ông Sáu là
người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều thử thách, gian
khổ và hi sinh.
C. Kết luận
Câu chuyện về chiếc lược ngà làm người đọc cảm động vì tình cha con thắm thiết, đẹp đẽ.
Nhưng cảm động hơn nữa, nó còn khiến cho ta nghĩ đến những đau thương, mất mát, éo le
mà con người phải gánh chịu vì cuộc chiến tranh. Ông Sáu đã hi sinh trong những ngày
đen tối và gian khổ. Ngôi mộ ông là “ngôi mộ bằng” giữa rừng sâu. Nhưng chỉ có tình cha
con là không thể chết được.
=======================

Đề bài 2: Cảm nhận của em về đoạn trích : « Chiếc lược ngà » của Nguyễn Quang
Sáng.
I. Tìm hiểu đề :
1. Vấn đề nghị luận : Nội dung và nghệ thuật của đoạn trích « Chiếc lược ngà »
2 : Cách thức nghị luận : cảm nhận (phải nêu được cảm nhận sâu sắc về nội dung và nghệ
thuật của đoạn trích « Chiếc lược ngà »)
II. Lập dàn ý :
A. Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
- « Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở
chiến trường Nam Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng
tên.
- Văn bản đoạn trích là ở phần giữa câu chuyện, tập trung thể hiện sâu sắc và cảm động
tình cha con của ông Sáu và bé Thu qua những tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí.
- Đó không chỉ là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản bền vững, mà còn được thể
hiện trong hoàn cảnh ngặt nghèo, éo le của chiến tranh và trong cuộc sống nhiều gian khổ,
hi sinh của người cán bộ cách mạng. Vì thế, tình cảm ấy càng đáng trân trọng và đồng thời

235
nó cũng cho thấy những nỗi đau mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống bình thường của mọi
người.
B. Thân bài: Tình cảm cha con sâu nặng
1.Luận điểm 1 : Thái độ, tình cảm của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha
-Hoàn cảnh : Ông Sáu đi kháng chiến, xa nhà nhiều năm. Ông chưa được biết mặt đứa con
gái – bé Thu. Tám năm sau, một lần về thăm nhà, trước khi nhận công tác mới, ông được
gặp con nhưng bé Thu nhất định nhận ông Sáu là cha.
- Thái độ của Thu :
+Thoạt đầu, khi thấy ông Sáu vui mừng vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra lảng tránh và
lạnh nhạt, xa cách. (D/c : Nhìn anh Sáu với cặp mắt xa lạ và cảnh giác, dứt khoát không
chịu kêu tiếng “ba”)
+ Cô bé đã có thái độ ngang ngạnh, thậm chí hỗn xược với ông Sáu :D/c :mặc cho người
thân khuyên nhủ, tạo tình thế bắt buộc (chắt nước nồi cơm) để bé Thu phải nhận cha,
nhưng đều thất bại. Thu từ chối sự quan tâm của anh Sáu (hất đổ miếng trứng cá khỏi chén
cơm, khi cha đ ánh ->không khóc, bỏ về nhà ngoại)
+ Được bà ngoại trò chuyện, tìm ra lí do, cô bé đã thay đổi hẳn thái độ.
+ Về nhà để chia tay ba, Thu cảm thấy hối lỗi (chỉ đứng nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn
rầu, khe khẽ nói. Thu muốn nhận ba nhưng không dám gần Ba vì trót làm ba giận (vẻ mặt
nói sầm lại buồn rầu, nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa)
+ Thật bất ngờ, sau lời chào từ biệt của người cha là tiếng kêu “Ba..a…a…ba!” như xé ruột
của bé Thu. Em đã thể hiện tình cảm yêu quý cha một cách mãnh liệt (hôn ba cùng khắp,
hôn cả vết thẹo dài bên má như muốn níu giữ ba).Thực chất bé Thu rất giàu tình cảm và
trong trắng - khi biết ba đánh giặc bị thương thì ân hận vì đã không chị nhận ba và khao
khát được kêu ba. Tinh huống ấy tạo xúc động cho mọi người.
Trước khi ba lên đường, cô bé đã cất tiếng gọi ba và thể hiện tình cảm yêu quý một cách
mãnh liệt (D/c)
=> Qua đoạn trích, người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của bé Thu: yêu thương cha nhưng
rạch ròi xấu - tốt, cá tính mạnh mẽ và cũng rất hồn nhiên ngây thơ. Thực chất hai thái độ
trái ngược là sự thống nhất trong tính cách nhân vật. Qua những diễn biến tâm lí của bé
Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh
động với tấm lòng yêu mến, trân trọng.
Luận điểm 2:  Tình cảm của ông Sáu dành cho con
- Nỗi khao khát gặp lại con sau ba năm xa cách.
+Khi gặp lại con, không chờ xuồng cập bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc
xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con” Anh vừa
bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Anh không ghìm nổi xúc động….
+ Khi bé Thu sợ hãi bỏ chạy, anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt
anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gẫy.
- Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà.
+ Trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực: Suốt ngày anh chẳng đi đâu
xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe

236
một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Anh đau khổ lắm nhưng chỉ
“nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười vì “khổ tâm đến nỗi không khóc được”.
+ Có lúc giận quá, không kìm được, ông đã đánh con và cứ ân hận mãi về việc làm đó (sau
này ở chiến khu)
+ Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ
nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”…
+ Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con
thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái
tóc của con”.
- Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con.
- Ông dồn hết tình yêu thương vào việc làm một cây lược ngà cho con.
+ Tác giả diễn tả tình cảm của ông Sáu xung quanh chuyện ông làm chiếc lược: từ những
cảm xúc của ông khi kiếm được khúc ngà: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu,
anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa
trẻ được quà”. Rồi sau đó, anh dồn hết tâm trí và công sức vào công việc: “anh cưa từng
chiếc lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng có khắc
một hàng chữ nhỏ…….Trong hàng chữ ấy là bao nhiêu trìu mến yêu thương anh dành cho
con gái. Chiếc lược trở thành một vật quý giá, thiêng liêng để mỗi khi nhớ con: “anh lấy
cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Cây lược xoa
dịu được nỗi ân hận vì đánh con.
+ Nhưng rồi ông đã hi sinh khi chưa kịp trao cho con chiếc lược. Trước khi hi sinh, ông
dồn hết sức lực còn lại gửi người bạn mang cây lược về cho con gái
=> Câu chuyện về chiếc lược ngà làm người đọc cảm động vì tình cha con thắm thiết, đẹp
đẽ. Nhưng cảm động hơn nữa, nó còn khiến cho ta nghĩ đến những đau thương, mất mát,
éo le mà con người phải gánh chịu vì cuộc chiến tranh.
Luận điểm 3: Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc của tác phẩm:
- Cốt truyện chặt chẽ với nhiều bất ngờ nhưng hợp lí
+bé Thu không nhận ra cha khi ông Sáu về thăm nhà
+bé Thu biểu lộ tình cảm thật mãnh liệt với người cha trước lúc chia tay…
+ Nguyên nhân dẫn đến những sự việc ấy đã được tác giả giải thích một cách giản dị mà
xúc động
=> Sự bất ngờ càng gây hứng thú cho người đọc.
- Sự gặp gỡ tình cờ nhân vật - người kể chuyện với bé Thu (bấy giờ là cô giao liên dũng
cảm) trong một lần ông cùng đoàn cán bộ đi theo đường dây giao liên vượt qua một quãng
nguy hiểm ở Đồng Tháp Mười.
- Lựa chọn ngôi kể phù hợp: truyện được kể qua lời của một nhân vật trong tác phẩm: Ông
Ba - người bạn thân của ông Sáu. Cách lựa chọn ngôi kể như vậy vừa tạo ra ấn tượng
khách quan vừa có sức thuyết phục, bởi người kể chuyện không chỉ là người chứng kiến và
kể lại câu chuyện mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Những ý nghĩ, cảm
xúc của người kể chuyện làm người đọc hiểu rõ hơn các sự việc và đồng cảm với các nhân
vật trong truyện, tăng thêm chất trữ tình và sức thuyết phục của truyện.
- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật (nhất là trẻ thơ) chính xác, hợp lí, tinh tế

237
- Ngôn ngữ tự nhiên, lời kể hấp dẫn
- Kể xen miêu tả. Giọng kể giầu cảm xúc, chân thực, sinh động, đầy sức thuyết phục.
C. Kết bài:
- Truyện đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le
của chiến tranh
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lí, cách miêu
tả tính cách nhân vật đặc sắc, thể hiện tình cảm sâu sắc của tác giả: cảm thông, sẻ chia, trân
trọng.
===================
Đề bài 3 : Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu trong truyện ngắn : « Chiếc lược
ngà » của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
A.Mở bài.
Chiến tranh tàn khốc đã cướp đi hạnh phúc của biết bao nhiêu trẻ thơ : niềm vui đến
trường, niềm vui sống trong vòng tay êm ấm của cha mẹ, gia đình…. Nhân vật Thu trong
truyện ngắn « Chiếc lược ngà » của nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng là một cô bé đáng
thương để lại trong ta nhiều cảm xúc.
B.Thân bài.
1.Hoàn cảnh của Thu :
- Mỗi chúng ta khi sinh ra và lớn lên đều được cha mẹ dậy dỗ, nâng niu và hết mực
yêu thương. Vậy mà suốt tám năm trời Thu không được một lần gặp cha, không được thấy
cái nhìn âu yếm, trìu mến của cha, một phút vuốt ve đằm thắm tình cha con.Em chỉ biết
mặt cha qua tấm hình ba chụp với má, chưa bao giờ em được cất tiếng gọi « cha ». Ôi !
Chiến tranh tàn khốc đã khiến gia đình Thu li tán, khiến Thu không được đón nhận tình
cảm của cha đến nỗi khi gặp cha, em không nhận ra cha.
- Càng thương Thu, càng thấy Thu thiệt thòi bao nhiêu thì ta càng căm ghét chiến
tranh bấy nhiêu. Tạo hoá đã ban tặng cho con người hai thứ tình cảm rất thiêng liêng : tình
mẫu tử và tình phụ tử. Vậy mà chiến tranh đã cướp đi tình cha con của Thu. Thật khổ cho
bé Thu quá !
2.Diễn biến, thái độ, tình cảm của Thu trong thời gian ông Sáu về phép thăm
nhà.
- Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi, sung
sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Nhưng không Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu
nhận ông Sáu là ba. Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn, ngơ ngác, lạ lùng... khi ông
Sáu đến gần, lặp đi lặp lại: ba đây con ! Nó lạ quá, mặt bỗng tái đi, chớp chớp mắt nhìn
người đàn ông thứ hai (vẫn im lặng) như muốn hỏi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má !
- Đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tránh. Ông Sáu
càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Trong hai ngày đêm tiếp
theo, mặc kệ những lời nói, cử chỉ âu yếm, làm thân, vỗ về tình cảm của anh Sáu, bé Thu
một mực thờ ơ, lạnh lùng đến mức bướng bỉnh, ngang ngạnh bất cần....Ông càng chiều
thương, nó càng lảng tránh. Ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, nó càng
cố tình cự nự. ( D/C : lúc cơm sôi, một mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước, nó

238
sẽ phải cầu cứu người lớn giúp đỡ, người đọc cứ ngỡ rằng nó sẽ phải chịu thua, không thể
chiến tranh lạnh được nữa - nó buộc phải gọi ba ... Nhưng không. Nó vẫn không chịu cất
lên cái tiếng mà ba nó từng mong mỏi. Nói vãn hành động theo sự bướng bỉnh, bất cần - tự
mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu nhượng bộ... )
+ Khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì nó bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng
còn cố ý khua dây cột xuống kêu rổn rảng thật to.
- Nhưng việc Thu không nhận ông Sáu là cha có nguyên nhân của nó. Bởi vì ông Sáu
có vết thẹo dài trên má. với suy nghĩ của một đứa trẻ hồn nhiên và đáng yêu, em luôn
mường tượng ra người cha của nó đẹp như trong ảnh chụp chung với má. Trong sâu thẳm
tâm hồn Thu, em rất yêu cha vì vậy nên nó không muốn người nào khác thế chỗ của ba
mình. Nó muốn giữ mãi hình ảnh người cha đẹp đẽ của nó. Hiểu như vậy, ta thấy sự ương
ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách mà còn có phần đáng yêu. Đó là phản ứng
tâm lí hoàn toàn tự nhiên của một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ. Phản ứng tâm lí của em là
hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc, chân
thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Chính cái thái độ quyết liệt ngang ngạnh đó
lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha - người trong tấm hình chụp
chung với má em.một tình yêu chân thực, sâu sắc và mãnh liệt .
3.Trong buổi sáng cuối cùng, trước giờ phút ông Sáu phải đi xa thì thái độ và hành
động của bé Thu đã đột ngột, thay đổi hoàn toàn.
- Nó đã dành cho ba một tình cảm thật mãnh liệt. Nỗi nhớ mong với người cha xa cách đã
bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối
hận. Giờ đây người cha sắp phải đi xa, xa mẹ, xa con và tiếp tục cuộc đời người lính gian
khổ, Lần đầu tiên, Thu cất tiếng gọi “Ba” và tiếng kêu như tiếng “xé”, không còn là tiếng
kêu biểu lộ sợ hãi mà là tiếng nói của tình yêu thương ruột thịt. Rồi nó vừa kêu vừa chạy
xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó
hôn lên ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài trên má như để nhận lỗi. Hai tay nó siết chặt
lấy cổ , chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi cấu chặt lấy
ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Thu không muốn rời xa cha. Có lẽ Thu đã ân hận,
xót xa vì lỗi lầm của mình. Thì ra trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích
về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải toả và ở Thu
nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: “nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh
thoảng lại thở dài như người lớn”. Giờ đây cô mới vỡ lẽ ra người cha của cô thật đẹp và
thật anh hùng. Cô bé không chỉ yêu cha, thương cha mà còn tự hào về cha. Thu xiết chặt cổ
ba như sự đền bù cho nỗi niềm hụt hẫng đã qua. Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu
rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn.
Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có
người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm
lấy trái tim mình.
4. Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật : Xây dựng tính cách nhân vật qua tâm lí và
hành động.
- Qua biểu hiện tâm lí và thái độ, tình cảm, hành động của bé Thu, ta thấy đó là cô bé có
tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật rứt khoát, rạch ròi. Ở Thu còn có nét cá

239
tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất
cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.
- Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện ta thấy tác giả tỏ ra rất
am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến trân trọng những tình
cảm trẻ thơ.
=> HÌnh ảnh bé Thu và tình yêu cha sâu sắc của Thu đã gây xúc động mạnh trong lòng
người đọc, để lại những ấn tượng sâu sắc.
C. Kết luận
- Đọc « Chiếc lược ngà », ta thấy tình cảm cha con trong chiến tranh có những xa cách,
trắc trở nhưng rất thiêng liêng, mãnh liệt và cao quý.
- Người đọc thực sự xúc động về tình cảm của họ nhưng không khỏi có những trăn trở suy
ngẫm.
==================
Đề bài 3  : Suy nghĩ về đời sống và tình cảm gia đình trong chiến tranh  qua truyện
ngắn «  chiếc lược ngà  » của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
1. Tình cha con : Chiến tranh là 1 nhân tố thử thách
- Xa cách gần 7 năm, không nhìn thấy mặt nhau
- Ống Sáu chỉ được ở lại nhà 3 ngày vì chiến tranh. Trong 3 ngày ấy, bé Thu nhất quyết
không nhận cha.
- Chỉ đến khi ông Sáu sắp đi, bé Thu mới được sống trong tình cha con thật sự, đó cũng là
lần gặp cuối cùng.
=> Dù chiến tranh khốc liệt nhưng tình cha con vẫn luôn sâu đậm, không làm tình thương
yêu ruột thịt ấy phai nhạt.
2. Tình cảm gia đình. : được hi sinh để nhường chỗ cho tình yêu đất nước. Sự hi sinh vật
chất đã lớn lao rồi, nhưng sự hi sinh về gia đình là vô giá. Đó chính là những tình cảm gia
đình : anh Sáu, chị Sáu, bé Thu. Họ đều phải chịu thiệt thòi. Tuổi thơ của bé Thu thiếu đi
tình phụ tử là một thiệt thòi lớn do hoàn cảnh đưa lại  (Liên hệ với bài Bếp lửa của Bằng
Việt. Nếu như tình bà cháu giản dị, gần gũi theo tác giả đến tận nước Nga xa xôi đến suốt
cuộc đời thì tâm hồn bé Thu ít nhiều thiếu hụt tình cảm của người cha. Đó cũng là một sự
hi sinh.
- Với anh Sáu, chị Sáu cũng như thế, với người mẹ, người vợ, tình cảm gia đình cách chia
đằng đẵng, rõ ràng đó là sự hi sinh đặc biệt to lớn, nhất là người phụ nữ. Chị Sáu thiếu
thốn tình cảm người chồng, lại phải thay chồng lo việc nhà, nuôi dạy con cái trưởng thành
giữa những vất vả nhọc nhằn của cuộc sống thời chiến. (Liên hệ với : Khúc hát ru những
em bé lớn trên lưng mẹ … -> sức nặng biểu cảm)
- Rõ ràng là chiến tranh kéo dài « lớp cha trước, lớp con sau » đã bắt con người phải hi
sinh những tình cảm riêng tư kể cả tình cảm gia đình. Đó là một sự hi sinh thầm lặng mà
cuộc kc của chúng ta đi đến đích.
- Những tình cảm của gia đình, dòng họ thì thường rất bền vững, đó là niềm an ủi động
viên lớn, sâu sắc nhất giúp con người vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn.

240
+ Với chị Sáu, vượt rừng thăm chồng, bao nhiêu trắc trở, một thân một mình. Càng thương
nhớ, thuỷ chung với chồng lại càng gắng gỏi hoàn thành công việc gia đình = >Đó cũng là
cuộc sống của người phụ nữ ở hậu phương trong thời chiến.
+ Với anh Sáu, chính tình cảm gia đình, tình cha con, vợ chồng đã thực sự là ngọn lửa
sưởi ấm giúp mọi người chiến sĩ thêm niềm tin, sức mạnh, là nguồn động lực lớn lao nhất.
Phải chăng khi ông Sáu chiến đấu, hi sinh chính là để bảo vệ quê hương, gia đình. Bà mẹ
Tà Ôi mơ cho con lớn lên khoẻ mạnh, làm công dân của đất nước tự do… chính vì thế mà
mẹ không quản nhọc nhằn… Ông Sáu, ông Ba là những người như vậy.
..........................................................................................

Bài 4  BÕn quª

A.Giới thiệu chung.


1. Tác giả  :
NguyÔn Minh Ch©u (1930 -1989) lµ mét trong nh÷ng nhµ v¨n tiªu biÓu cña v¨n häc
VN thêi kú chèng Mü víi nh÷ng thµnh c«ng vÒ tiÓu thuyÕt vµ truuyÖn ng¾n. S¸ng t¸c
cña NguyÔn Minh Ch©u thêi kú nµy lµ thÓ hiÖn kh¸t väng cña nhµ v¨n  ‘®i t×m nh÷ng
h¹t ngäc Èn giÊu trong bÒ s©u t©m hån con ngêi’
Sau kh¸ng chiÕn, «ng lµ ngêi ®i tiªn phong trong c«ng cuéc ®æi míi v¨n häc ®Ó
®¸p øng nh÷ng ®ßi hái cña cuéc sèng ë mét thêi kú míi.
T¸c phÈm cña «ng ®· thÓ hiÖn nh÷ng t×m tßi ®æi míi vÒ t tëng vµ nghÖ thuËt,
g©y ®îc nh÷ng tiÕng vang réng r·i trong c«ng chóng vµ giíi v¨n häc.
2. Tác phẩm : Truyện ngắn « Bến quê » in trong tập truyện ngắn cùng tên của
Nguyễn Minh Châu, xuất bản năm 1985.

B. Một số câu hỏi luyÖn tËp

Câu 1  : Nêu tình huống truyện «  Bến Quê  » và tác dụng của việc xây dựng tình huống
đó.
a. Tình huống.
- Căn bệnh hiểm nghèo khiến Nhĩ, người đã đi đến hầu khắp mọi nơi trên thế giới - hầu
như bị liệt toàn thân không thế tự di chuyển được, dù chỉ là nhích nửa người trên giường
bệnh. Tất cả mọi sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà chủ
yếu là của Liên, vợ anh.
- Tình huống trớ trêu ấy lại dẫn đến một tình huống tiếp theo, cũng đầy nghịch lí. Khi Nhĩ
đã phát thiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhà anh,
nhưng anh biết rằng sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất
gần anh, Nhĩ đã nhờ cậu con trai thực hiện giúp mình cái điều khao khát ấy, nhưng rồi cậu
ta lại sa ào một đám chơi cờ trên hè phố và có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
b. Tác dụng : Tạo ra một chuỗi những tình hống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý
người đọc một nhận thức về cuộc đời : cuộc sống và số phận con người chứa đựng những

241
điều bất thường, những nghịch lí, ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định, ước muốn, cả
những hiểu biết và toan tính củ người ta. Bên cạnh đó, tác giả còn muốn gửi gắm mọi suy
ngẫm : trong cuộc đời, người ta hướng đến những điều cao xa mà vô tình không biết đến
những vẻ đẹp gần gũi ngay bên cạnh mình.

Câu 2  : Tóm tắt truyện «  Bến quê  » khoảng 5 -6 dòng.


Buổi sáng đầu thu. Nhĩ bị bệnh nặng nằm bên cửa sổ để Liên - vợ anh săn sóc. Anh
nghĩ suốt đời mình đã làm vợ khổ. Nhĩ nhìn qua cửa sổ đã phát hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng
của bãi bồi bên kia sông ngay phía trước cửa sổ nhà anh và trong anh bỗng bừng lên khao
khát được đặt chân lên vùng đất ấy, anh cũng biết rằng sẽ không bao giờ thực hiện được
điều ấy. Anh sai thằng Tuấn (con trai) thay anh sang bên kia sông chơi loanh quanh một
lúc. Chàng trai vâng lời nhưng lại ham vui nên muộn chuyến đò. Bọn trẻ hàng xóm sang
giúp anh. Cụ giáo Khuyến ghé vào hỏi thăm. Nhĩ cố sức giơ tay ra ngoài cửa sổ như ra
hiệu khẩn thiết cho một người nào đó.
Câu 3  : Tìm hiểu những hình ảnh, chi tiết trong truyện mang tính biểu tượng   :
Trong truyện « Bến quê », hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa : nghĩa
thực và nghĩa biểu tượng. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực và hai lớp
nghĩa này gắn bó thống nhất với nhau đem đến cho truyện ngắn này một vẻ đẹp riêng : vừa
gợi cảm, sinh động, vừa khái quát triết lí.
- Hình ảnh bãi bồi, bến sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được dựng lên trong truyện
mang ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp gần gũi, bình dị, thân thuộc của quê hương, xứ sở,
của những gì thân thương nhất mà trong một đời người thường dễ dàng lãng quên bởi
chính cái điều vòng vèo hay chùng chình thường mắc phải.
- Những bông hoa bằng lăng nhợt nhạt khi mới nở ; đậm sắc hơn khi đã sắp hết mùa, rồi lại
càng thẫm màu hơ, một màu tím thẫm như bóng tối. Đó là ý nghĩa biểu tượng về không
gian và thời gian : cái đẹp gần gũi bình dị rồi cũng tàn phai bởi thời gian luôn thay đổi với
những bước đi của nhịp hải hà.
- Những tảng đất lở bên bờ sông khi con lũ đầu nguồn đã dồn về, đổ ụp vào trong giấc ngủ
của Nhĩ báo hiệu trước sự sống của nhân vật Nhĩ cũng đã sắp lụi tàn
- Chân dung và cử chỉ của Nhĩ ở đoan cuối truyện : chỉ còn đôi bàn tay với những ngón tay
vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy.. Cánh tay gầy guộc đưa ra ngoài phía cửa sổ khoát khoát như
đang hụt hẫng, cố bám víu hiện tại nhưng lại vô vọng bởi chính cái sự vòng vèo và chùng
chình của người con. Hình ảnh này mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Chân dung của Nhĩ ở
cuối truyện là chân dung của một con người đang đi vào cõi chết nhưng đã thức nhận
được cuộc đời và chính mình trong « một nỗi mê say đầy đau khổ ». khiến mặt mũi « đỏ
rựng một cách khác thường ». Hành động cuối cùng của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn
nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày. Nhưng không
dừng ở cụ thể, hình ảnh này còn mang ý nghĩa khái quát. Cái cánh tay giơ lên khoát khoát
của con người đã bước tới ngưỡng cửa của cái chết phải chăng là ước muốn cuối cùng của
Nhĩ gửi lại cho đời : anh muốn thức tỉnh mọi người hãy sống khẩn trương, có ích, đừng sa
vào những cái « vòng vèo, chùng chình », hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới những giá trị
đích thực, vốn rất giản dị gần gũi và bền vững của gia đình và của quê hương.

242
Câu 4  : Phân tích niềm khao khát của nhân vật Nhĩ trong giờ phút cuối cùng của cuộc
đời.
- Trên giường bệnh, qua khung cửa sổ,. Nhĩ đã nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên
trong một buổi sáng đầu thu với những bông hoa bằng lăng cuối mùa thưa thớt nhưng lại
đậm sắc hơn ; con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra ; vòm trời như cao
hơn ; và sau cùng là điểm nhìn của anh dừng lại ở cái bãi bồi bên kia sông : « Những tia
nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả
một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khung
cửa gian gác nhà Nhĩ một một thứ màu vàng thau xen lẫn màu xanh non- những màu sắc
thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở của đất màu mỡ ». Thật kì lạ, cái bãi bồi vốn quen
thuộc gần gũi ấy bỗng như mới mẻ với anh trong buổi sáng đầu thu này, ngỡ như lần đầu
tiên anh cảm nhận được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó. Bởi đây là một chân trời gần
gũi mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến ». Cho nên trong cái giờ phút cảm thấy sắp từ
giã cõi đời, trong anh bỗng bừng dậy khao khát mãnh liệt là được đặt chân một lần lên cái
bãi bồi bên kia sông- cái bãi bồi thân quen của quê hương mà suốt cả cuộc đời dường như
anh đã quên nó, hờ hững với nó. Giờ đây, thấy lại được vẻ đẹp và sự giàu có của nó thì đã
quá muộn và niềm khát khao ấy tuy bùng lên mạnh mẽ nhưng chỉ là một niềm khát khao
vô vọng, vì hơn ai hết, anh biết chắc mình sẽ chẳng bao giờ đến được đó.
- Sang được bờ sông bên kia, với Nhĩ vừa là ước mơ, vừa là suy ngẫm về cuộc đời. Tính
biểu tượng từ « cái bên kia sông mở ra hai tầng ý nghĩa. Trước hết đó là một ước mơ : con
người ta hãy đi đến cái « bên kia sông » của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh con
sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con đò
qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới ước mơ kia đừng
có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Thế giới ước mơ ấy chẳng qua chỉ là trong tâm tưởng của
con người nên có thể nó sẽ là một ước mơ tuyệt mĩ hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy
nó lại là cái đích mà con người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân,
khổ ải mà chưa chắc đã đến được. Cái vùng « mơ ước tâm tưởng » ấy không phải ai cũng
hiểu được nếu chưa ở độ chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn,
con trai anh, do không hiểu được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng
không hề biết vì sao nó phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và sà vào đám người
chơi phá cờ thế bên hè » là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào
dâng bao nhiêu náo nức. Nó cũng là « một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên ». Hình
ảnh đứa con, hình ảnh của ước vọng từ « cái mũ cói rộng vành  và chiếc sơ mi màu trứng
sáo » cứ chập chờn, khi là đứa con, khi chính là mình. Hình ảnh tuyệt vời, trẻ trung này là
mơ ước của anh.
- Niềm khao khát đó nói lên nhiều điều có ý nghĩa :
+ Sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống - những giá
trị thường bị người ta bỏ qua, lãng quên, nhất là lúc còn trẻ, khi những ham muốn xa vời
đang lôi cuốn con người tìm đến.
+ Đó là sự thức tỉnh « giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn » nhưng
đó là một « sự thức nhận đau đớn sáng ngời của con người » (Lê Văn Tùng)

243
Câu 5  : Tìm hiểu ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Minh Châu ở truyện ngắn này.
- Tinh tế : phát hiện những biến thái tinh tế trong tâm trạng nhân vật. Nhĩ đã nhận ra bằng
trực giác cái giờ phút cuối cùng của cuộc đời đã đến (câu hỏi của Nhĩ vói Liên : « Đêm qua
lúc gần sáng em có nghe thấy tiếng gì không ? » và « Hôm nay đã là ngày mấy rồi em
nhỉ ? ». nhưng tác giả đã không để cho Liên trả lời thì đó chính là nhân đạo. Liên cảm nhận
được tình cảnh của Nhĩ nên chị đã lảng tránh.
- Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng.
Đó là một nhận xét tinh tế của tác giả về Nhĩ khi anh bắt đầu nói chuyện với con để nhờ
cậy nó sang cái bãi bồi bên sông hộ mình. Và trong cuộc đối thoại này, tâm lí Nhĩ đã bộc
lộ thật đúng qua sự miêu tả tinh tế của t ác giả (qua thái độ, lời nói) và chính sự tinh tế này
lại thấm đượm tinh thần nhân đạo ở chỗ nó đã nói lên một cách sâu sắc cái ước muốn nhỏ
nhoi của Nhĩ.
- Cũng như vậy, đoạn Nhĩ nghĩ về con người khi nhận ra thằng con trai của anh đang sà
vào một đám người chơi phá cờ thế có thể sẽ bị lỡ chuyến đò ngang sang sông duy nhất
trong ngày và hình ảnh cuối cùng khi Nhĩ cố hết sức đu mình nhô người ra ngoài, giơ một
cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát… đều là những nét miêu tả tâm lí vừa
tinh tế, vừa nhân đạo của tác giả.

Câu 6  : Phân tích hình ảnh nhân vật Nhĩ ở đoạn cuối truyện
Đây là hình ảnh cuối cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc
trong lòng người đọc. Tác giả miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng
rất khác thường của nhân vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời,
Nhĩ mới thấm thía. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh
phúc cuối cùng. Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy đau khổ. Phải chăng lúc
này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm
nhận được sự ngắn ngủi của đời người ? Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô người ra
ngoài cửa sổ » như để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như
khẩn thiết ra hiệu cho con trai thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như
muốn chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang
vẫy chào con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa
Nhĩ sang sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc
sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần
gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích
của cuộc sống đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc
anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn Minh Châu tới tất
cả chúng ta : hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những
cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng
tới những giá trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững của gia đình và quê hương.

Câu 7  : Em có suy nghĩ gì về những người xung quanh Nhĩ.


- Những người xung quanh Nhĩ là những người rất tốt. Họ có lẽ sống ân tình, quan tâm đến
mọi người. Hình ảnh cụ giáo Khuyến sáng nào đi qua cũng tạt vào thăm Nhĩ là một hình

244
ảnh ân tình ân nghĩa nuôi dưỡng tâm hồn. Một câu hỏi thăm về sức khoẻ, một lời động
viên, an ủi ân cần : « Hôm nay ông Nhĩ có vẻ khoẻ ra nhỉ ? » thật cao quý và ấm áp nghĩa
tình. Các cháu Huệ, Hùng, Vân, Tam, xinh tươi, ngoan ngoãn, nghe Nhĩ gọi, chúng ríu rít
chạy lên, xúm vào, nương nhẹ giúp anh xê dịch chỗ nằm từ mép tấm nệm ra mép tấm
phản, lấy gối đặt sau lưng Nhĩ, làm cho anh như trẻ lại « toét miệng cười với tất cả, tận
hưởng sự thích thú được chăm sóc và chơi với ». Huệ đã giúp nhiều nên đã quen với việc
đỡ cho Nhĩ nằm xuống. Đặc biệt là vợ con Nhĩ. Tuấn không hiểu mục đích của chuyến đi,
nhưng vẫn sẵn sàng nghe lời bố, dẹp thú đọc sách lại để đi sang bên kia sông. Vợ Nhĩ thì vì
chồng mà từ một cô thôn nữ trở thành người đàn bà thị thành, vẫn mặc áo vá, tần tảo và
chịu đựng, không kêu ca một lời. Có gì hạnh phúc hơn khi được sống trong tình yêu
thương của gia đình và quê hương như thế ?

Câu 8  : Nhận xét nào sau đây đúng với câu  : «  Đêm qua lúc gần sáng, em có nghe thấy
tiếng gì không  ? »
A. Chỉ là một câu hỏi bình thường, không có hàm ý gì ?
B. Có hàm ý nói đến việc đất lở ven sông .
C. Có hàm ý nói đến việc đất lở ven sông, gợi sự đổ vỡ, mất mát, gợi sự liên tưởng đau
lòng đến tình trạng nguy kịch của người chồng đang ốm, khiến anh lo buồn thêm.
(Câu C đúng với câu đó)

Cau 9 : Giải thích nhan đề truyện « Bến quê ».


- Đặt tên cho truyện ngắn « bến quê », điều ấy vừa bình thường, vừa có gì khác thường. Nó
bình thường ở chỗ « : Bến quê là nơi sinh hoạt đông vui ở làng quê  như bến nước, mái
đình, cây đa… ; bến quê còn là nơi bến đậu của con đò quen thuộc, của những con người
quê hương đã từng bôn ba đây đó, đã từng trải qua nhiều sóng gió của cuộc đời nay trở về
sống những ngày tháng cuối cùng, cảm thấy được che chở và bình yên. Bến quê với họ lúc
này là nơi trú ngụ êm đềm nhất trong cuộc đời mỗi con người bởi con người ta ai chẳng có
một quê hương để một đời gắn bó. Còn khác thường là ở chỗ : cái bến quê ấy, cái bãi bồi
bên kia mà nhân vật Nhĩ hướng về chưa hẳn là nơi chôn rau cắt rốn của anh ? Có lẽ đó là
quê hương của những người mà anh nhìn thấy : cả một đám khách đợi đò, quê hương của
những người đi bộ hay dắt xe đạp, rõ hơn nữa, trong số ấy có « một vài tốp đàn bà đi chợ 
về đang ngồi kháo chuyện hoặc xổ tóc ra bắt chấy » đằng kia. Với nhân vật Nhĩ, đây chỉ là
một miền tưởng nhớ, một mơ ước xa xôi. Con đò sang bên kia sông cũng là con đò chở
niềm ao ước gần gũi mà xa vời của anh. Và con đò đến bến bờ cũng là thực hiện niềm ao
ước ấy. Nhan đề truyện cho thấy cách lựa chọn đề tài của tác giả thật dung dị nhưng mang
tính biểu tượng sâu sắc. Đó là một đặc điểm nghệ thuật bao trùm của « Bến quê » tạo nên
cách hiểu đa dạng và ý nghĩa nhiều tầng của thiên truyện.

10. Nhận xét nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên trong truyện « Bến quê ».
- Thiên nhiên trong truyện ngắn « Bến quê » không mang vẻ đẹp như thiên nhiên trong
nhiều thi phẩm khác mà ta đã được biết. Nếu như trong các tác phẩm « Cô Tô » của
Nguyễn Tuân, « Sang thu » của Hữu Thỉnh, « Đoàn thuyền đánh cá » của Huy Cận, hay

245
« Lặng lẽ Sa Pa » của Nguyễn Thành Long… cảnh thiên nhiên đẹp rực rỡ, lung linh,
huyền ảo, mộng mơ được cảm nhận qua tâm hồn rung cảm của người nghệ sĩ thì trong
truyện ngắn « Bến quê », thiên nhiên hiện lên dung dị hơn qua cảm nhận của một người
con quê hương. Đoạn truyện đã thể hiện rõ cái cảm quan hiện thực của người viết - một cái
nhìn thiên nhiên, khung cảnh rất đời, rất gần gũi. Trong những giây phút cuối đời, anh nhìn
ra ngoài cửa sổ, nhận thấy những thay đổi rất nhỏ nhặt như « những cánh hoa bằng lăng
dường như thẫm mầu hơn- một màu tím thẫm như bóng tối ». Những tia nắng sớm đang từ
từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu
đời của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khung cửa gian gác nhà Nhĩ
một một thứ màu vàng thau xen lẫn màu xanh non- những màu sắc thân thuộc quá như da
thịt, như hơi thở của đất màu mỡ ». Những sắc màu thân thuộc như khí trời, hơi thở, gần
gũi như đời sống nhưng dường như lần đầu tiên Nhĩ mới nhận ra, mới thấm thía hết vẻ đẹp
của nó. Phải chăng, trong cuộc sống bình dị cũng có những nét đẹp của nó nhiều khi không
dễ nhận ra. Trong câu hỏi anh hỏi vợ : « Đêm qua em có nghe thấy tiếng gì không ? » ta
bắt gặp những âm thanh quen thuộc mà bình thường Nhĩ cũng chẳng bận tâm, nhưng giờ
đây với anh nó thật thân thuộc và quý giá biết bao ! Hình ảnh cánh buồm nâu cứ trở đi trở
lại trên con sông như đọng lại trong tâm tưởng của Nhĩ, anh quá hiểu rằng mình chỉ có thể
sang bờ đất mơ ước trong tâm tưởng mà thôi. Cánh buồm tượng trưng cho sự nghèo đói
của quê hương được nhìn dưới con mắt đầy tình yêu thương và xót xa của Nhĩ. Mảnh vá
trên cánh buồm hay trên tấm áo của Liên…. đó là tất cả hình ảnh quê hương gần gũi, yêu
thương mà nặng trĩu niềm xót xa, thương cảm. Hình ảnh quê hương trong văn học Việt
Nam vốn hiện lên với nét đẹp rất thơ mộng… Trên trang văn của Nguyễn Minh Châu thì
khác hẳn, quê hương vất vả tiêu điều, trong sự tần tảo sớm hôm. Đằng sau sự gắn bó với
quê hương, với bờ bãi bên kia sông gần gũi mà xa lắc, ẩn dưới nó là nỗi niềm day dứt gần
như xót xa. Cái nhìn thiên nhiên của Nhĩ là một cái nhìn rất hiện thực, rất đời, rất tỉnh táo
mà chan chứa tình yêu thương da diết.
Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Nhĩ mới thấm thía. Anh đang
cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy niềm hạnh phúc cuối cùng. Anh run lên
trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy đau khổ. Phải chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và
cái chết mỏng manh như tờ giấy ? Phải chăng anh đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của
đời người ? Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô người ra ngoài cửa sổ » như để được đến
gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho con trai thực
hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn chạm vào, muốn với đến
miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang vẫy chào con đò, tạm biệt con đò
quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang sông trong tâm tưởng,
với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy tay ấy như lời vĩnh
biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét đẹp vĩnh hằng của
đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống đã che lấp khiến cho
chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa. Đó cũng là lời nhắc
nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn Minh Châu tới tất cả chúng ta : hãy sống có ích, đừng
sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ, hãy dứt ra khỏi nó để hướng

246
tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá trị đích thực, vốn giản
dị, gần gũi và bền vững của gia đình và quê hương. ==============

C.Mét sè ®Ò TẬP LÀM VĂN :

Đề 1  : Phát biểu cảm nghĩ về nhân vật Nhĩ trong truyện « Bến quê » của Nguyễn Minh
Châu 
Gợi ý :
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông
là người luôn trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của
mình đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải
nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
- Nhân vật Nhĩ trong câu chuyện là hình bóng một con người rất thực với đời sống nội tâm
phong phú đầy trải nghiệm.
- Qua việc sáng tạo hình tượng nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu đã giúp người đọc thức
tỉnh sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của cuộc sống, quê hương.
B. Thân bài.
1. Hoàn cảnh của Nhĩ
+ Câu chuyện viết về số phận của Nhĩ, nhân vật chính của truyện, một người đàn ông đã
từng bôn ba, được tiếp xúc nhiều nơi, chiêm ngưỡng bao vẻ đẹp kì quan của thế giới nhưng
đến cuối đời lại bị một căn bệnh hiểm nghèo, liệt toàn thân, không thể tự mình di chuyển
và đang sống những ngày cuối cùng, giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn
trái ngược với cái lẽ thường tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác loại tình huống
này để nói lên cái khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc
lân đơn ; Ô- hen ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm nghiệm
một triết lí về đời người.
Nhưng cũng chính lúc này, anh mới phát hiện ra vùng đất bên kia sông- nơi bến quê quen
thuộc của quê vợ - một vẻ đẹp bình mà hết sức quyến rũ mà anh chưa một lần đặt chân
đến. Và cũng chính lúc này, nhận được sự chăm sóc ân cần, chu đáo của vợ, anh mới nhận
ra vẻ đẹp, sự tần tảo, tình yêu và đức hi sinh thầm lặng của vợ. Và anh khát khao cháy
bỏng được đặt chân một lần lên bến quê - bờ bãi bên kia sống, cái miền đất thật gần gũi mà
bây giờ với anh trở nên xa lắc.
=> Phải chăng nhà văn đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong
tình huống với cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một
nhận thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều bất
thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước muốn, cả
những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng định cái triết lí mang
tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời người : Con người ta trên đường đời thật
khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.

247
2. Những cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật Nhĩ
a. Sự thức nhận của Nhĩ thể hiện qua sự cảm nhận của anh về thiên nhiên trong một sớm
đầu thu.
- Thiên nhiên trong buổi sớm đầu thu không đẹp như những bức tranh thiên nhiên trong
nhiều thi phẩm khác chẳng hạn như  : Cô Tô - Nguyễn Tuân, hay « Sang thu » của Hữu
Thỉnh. Cảnh thiên nhiên được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng, bằng những cảm xúc
tinh tế của nhân vật Nhĩ, một con người sắp từ giã cõi đời nên cảnh vật ấy dần hiện ra với
những vẻ đẹp riêng. :
+ Những bông hoa bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại
đậm sắc hơn… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ». Đâu
phải là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của sự
tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó gắn
bó với tâm trạng của con người.
+ Đặc biệt là anh nhận ra vẻ đẹp của bến quê - đó là vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông : H/a
con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Ngay cả cái vòm trời mùa thu
như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ
bãi…. cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với
màu xanh non.. những màu sức thân thuộc quá như da thịt, như hơi thở…. Đó là những
hình ảnh rất thực, rất quen thuộc, gần gũi nhưng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận
ra được như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. có cảm giác như lần đầu tiên anh
mới nhìn thấy.
+ Từ sự thức nhận những vẻ đẹp bình dị nơi bến quê, trong anh có sự so sánh, chiêm
nghiệm : « Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một
chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến » Phải chăng đây là tâm trạng
của một con người đang nặng trĩu những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng một
đời người thường phải li hương, thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo, chùng
chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
- Và bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Anh đang
phải đối mặt với hoàn cảnh bi đát không còn lối thoát. Tuy ngày nào cũng uống thuốc
nhưng bệnh tình không thuyên giảm, hôm nay « cũng chỉ cảm thấy như hôm qua ». Nhấc
mình ra được bên ngoài tấm nệm đang nằm, Nhĩ cảm thấy như mình « vừa bay được một
nửa vòng trái đất ». Lạc quan, hi vọng như Liên làm sao được. Anh chỉ còn biết hài hước
đùa vui để đêm đêm con người thực của anh thao thức, lắng nghe, cái âm thanh mà vợ anh
giả vờ không nghe : ấy là cái bờ đất lở phía bên này  « cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu
dồn về, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ. Có lúc Nhĩ thảng thốt, giật mình như bấm đốt
ngón tay : « hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ ? ». Trước những lời anh hỏi vợ và sự im
lặng của Liên, ta cảm nhận được cuộc sống buồn tẻ, chán ngắt và đầy tuyệt vọng, cái chết
đến dần với anh. Rõ ràng con người suy kiệt về thể xác nhưng lại tỉnh táo, sáng suốt về
tinh thần trong hoàn cảnh ấy rất dễ rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan, hoặc khao khát,
chiêm nghiệm về một cái gì lớn lao thuộc chân lí cuộc đời. Nhĩ ở trường hợp thứ hai.
b. Cảm nhận của Nhĩ về Liên  (vợ anh).

248
- Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc âu yếm
vuốt ve bên vai của anh, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh
thầm lặng của vợ.
- Anh nói với chị Liên : « Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm mà em vẫn nín thinh ». Còn
Liên đã trả lời : « Có hề sao đâu, miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của
anh trong gian phòng này »..
- Nhìn vợ bước xuống cầu thang với tiếng bước chân « rón rén quen thuộc suốt cả một đời
người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm », anh đã xót xa vô cùng. Cái bậc gỗ ấy đã mòn
lõm, Nhĩ mới có điều kiện để lắng nghe bước chân thân thuộc ấy và nhớ đến vợ anh thời
con gái còn mặc áo nâu, chít khăn mỏ quạ nay đã là một phụ nữ thị thành mà cuộc đời nào
có khấm khá gì hơn. Điều đó không khỏi làm Nhĩ ngạc nhiên và buồn bã. Giờ đây, anh
mới thực sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc người vợ của mình : « Cũng như cảnh bãi bồi
đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu
đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn
tẩu tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này »
- Thật là đau đớn với anh vì đời người sắp hết mới nhận ra sự thờ ơ của mình trong quãng
đời còn trẻ với những người thân thuộc nhất. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm
để được suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật « anh
ấy » (Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện
ngắn « Cỏ lau » : người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh
hãy nói điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng
chình, im lặng ? Nhưng dẫu sao sự thức nhận muộn màng ấy vẫn còn lấp lánh vẻ đẹp của
lương tâm bởi tuổi trẻ có phải ai cũng nghĩ ra đâu ?
c. Sự thức nhận ấy đã đọng lại trong niềm khát khao cháy bỏng  của anh.
- Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông để được chiêm ngưỡng và tận
hưởng vẻ đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi mà có một thời Nhĩ đã lãng quên nó. Sang được bờ
sông bên kia , với Nhĩ vừa là mơ ước, vừa là suy ngẫm về cuộc đời.
- Tính biểu tượng từ « cái bên kia sông » mở ra hai tầng ý nghĩa, trước hết, nó là một ước
mơ : con người ta hãy đi đến cái « bên kia sông » của cuộc đời mà mình chưa tới. Hình ảnh
con sông Hồng phải chăng là ranh giới giữa cái thực và cái mộng mà chiếc cầu nối là con
đò qua lại mỗi ngày chỉ có một chuyến mà thôi. Muốn đến với cái thế giới mơ ước kia
đừng có do dự, vòng vèo mà bỏ lỡ. Miền đất ấy là ước mơ. Miền đất ấy cũng gợi trong
Nhĩ bao nhiêu suy ngẫm về cuộc đời có thực. Hình ảnh có thực về cuộc đời chứ không
phải danh lam thắng cảnh, nước biếc non xanh, cuộc đời có thực ấy thật nguyên vẹn, thật
dung dị « cả trong những nét tiêu sơ ».
- Thế giới ước mơ ấy chẳng qua chỉ là trong tâm tưởng của con người nên có thể nó sẽ là
một ước mơ tuyệt mĩ hoặc chẳng là cái gì cụ thể cả. Tuy vậy nó lại là cái đích mà con
người ta phải bôn tẩu, kiếm tìm, vượt qua bao nhiêu gian truân, khổ ải mà chưa chắc đã
đến được. Cái vùng « mơ ước tâm tưởng » ấy không phải ai cũng hiểu được nếu chưa ở độ
chín của sự từng trải hoặc quá ngây thơ. Chẳng hạn như Tuấn, con trai anh, do không hiểu
được cái thế giới ước mơ kia của Nhĩ, vâng lời bố mà đi nhưng không hề biết vì sao nó
phải đi, ở bên kia sông có gì lạ. Nó sẵn sàng và sà vào đám người chơi phá cờ thế bên hè  »

249
là lẽ dĩ nhiên. Còn Nhĩ, khi biết thằng bé đã đi, tâm hồn anh trào dâng bao nhiêu náo nức.
Nó cũng là « một cánh buồm vừa bắt gió căng phồng lên ». Những hành động, cử chỉ của
cậu con trai phải chăng chính là hình ảnh của Nhĩ thuở nào. Nhìn đứa con không hiểu được
điều anh nhờ nó, anh đã rút ra triết lí sâu xa đó như nỗi niềm đau đớn pha lẫn sự ân hận của
riêng anh : « con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và
chùng chình »
- Đó là triết lí của một người đã trải nghiệm « Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng
in gót chân khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của
một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia », đã có ước muốn xa vời mà cuộc đời khi còn
trẻ vô tình bỏ qua những cái bình dị ngay bên ta. Vậy là không phải triết lí của một mà của
hai thế hệ anh nhìn thấy nên nó có tính chất quy luật tâm lí của con người. Hiểu được triết
lí ấy ta mới hiểu được ý tưởng sâu xa của tác giả như muốn khuyên mỗi chúng ta đừng
lãng phí thời gian vào những điều vòng vèo chùng chình mà cần trân trọng những giá trị
bền vững, những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời ở ngay bên ta.
d. Hành động cuối truyện :
- Đây là hình ảnh cuối cùng của nhân vật để lại một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong
lòng người đọc. Tác giả miêu tả một nét chân dung khác thường với một cử chỉ cũng rất
khác thường của nhân vật. Giờ đây, trong những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, Nhĩ
mới thấm thía. ». Phát hiện ra cuộc đời ở chiều sâu, được đi tìm nó đối với Nhĩ là một sự
hồi hộp vô biên. Cho nên hai con mắt của con người say mê và đau khổ ấy sáng lên « long
lanh » một cách khác thường. Anh đang cố gắng bấu chặt tay vào cửa sổ như bám chặt lấy
niềm hạnh phúc cuối cùng. Anh run lên trong nỗi xúc động, nỗi mê say đầy đau khổ. Phải
chăng lúc này, ranh giới giữa sự sống và cái chết mỏng manh như tờ giấy ? Phải chăng anh
đang cảm nhận được sự ngắn ngủi của đời người ? Thời gian không thể chờ đợi anh thêm
một chuyến đò khác ! Vì thế anh lấy hết sức « đu mình, nhô người ra ngoài cửa sổ » như
để được đến gần hơn với miền đất mơ ước. Cánh tay gầy guộc như khẩn thiết ra hiệu cho
con trai hãy tiến lên thực hiện niềm mong ước cuối cùng này của mình hay như muốn
chạm vào, muốn với đến miền đất mơ ước ? Cánh tay vẫy vẫy đó cũng như đang vẫy chào
con đò, tạm biệt con đò quen thuộc đã chở nặng mơ ước của Nhĩ, con đò đã đưa Nhĩ sang
sông trong tâm tưởng, với niềm mê say đầy đau khổ với quê hương, với cuộc sống. Cái vẫy
tay ấy như lời vĩnh biệt của anh, vĩnh biệt tất cả những gì là thân thuộc, gần gũi, những nét
đẹp vĩnh hằng của đời sống mà nhiều khi những bận rộn lo toan, mục đích của cuộc sống
đã che lấp khiến cho chúng ta không dễ nhận ra, khi nhận ra thì cũng là lúc anh phải xa lìa.
Đó cũng là lời nhắc nhở đầy xót xa, day dứt của Nguyễn Minh Châu tới tất cả chúng ta :
hãy sống có ích, đừng sa đà vào những điều vòng vèo, chùng chình, những cám dỗ, hãy
dứt ra khỏi nó để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, hãy dứt khỏi nó để hướng tới những giá
trị đích thực, vốn giản dị, gần gũi và bền vững của gia đình và quê hương.
3. Ý đồ của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn
Minh Châu  sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự
nhận thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời. Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật nhiều
điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai mà là cho tất cả.

250
Chính những chiêm nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá vào trong đời sống nội tâm
của nhân vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn cảnh đã
được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề một cách tự nhiên mà sâu
sắc.
C. Kết luận.
- Có thể nói Nguyễn Minh Châu đã rất thành công khi miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ
của nhân vật Nhĩ. Nhà văn đã đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy nghịch lí để
khắc hoạ tính cách, tư tưởng và để thể hiện cái triết lí về cuộc đời.
- Từ những « nhận thức đau đớn và sáng ngời » của Nhĩ, người đọc nhận ra một triết lí sâu
sắc ở đời : Con người trên đường đời thường mắc phải cái vòng vèo hoặc chùng chình ».
Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá trị và vẻ đẹp bình dị, đích
thực và bền vững của cuộc sống, của quê hương ».
- Mỗi chúng ta hãy luôn tự ngẫm về mình, ngẫm về cuộc đời và những hành động của
mình trong lúc chưa quá muộn.
======================

Đề 2 : Bình luận truyện ngắn « Bến quê » của Nguyễn Minh Châu
A. Mở bài :
- Nhà văn Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của nền văn học VN hiện đại. Ông
là người luôn trăn trở, tìm tòi và đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật trong cách viết của
mình đặc biệt là sau năm 1975.
- Truyện ngắn « Bến quê » là một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải
nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
B. Thân bài :
1. Bình luận về tình huống nghịch lí của truyện
+ Nhĩ bị liệt toàn thân, không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng,
giáp ranh giữa sự sống và cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường tình mà
nhiều nhà văn khác thường khai thác loại tình huống này để nói lên cái khát vọng sống
mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người (Giắc lân đơn ; Ô- hen ri), Nguyễn Minh
Châu tạo tình huống nghịch lí này để chiêm nghiệm một triết lí về đời người.
- Cả cuộc đời Nhĩ đã đi khắp mọi nơi nhưng rồi cuối đời anh chỉ muốn nhích tới bên cửa
sổ mà khó khăn « như phải đi hết nửa vòng trái đất ». Cho đến cái bãi bồi bên kia sông
Hồng thật gần gũi nhưng anh chẳng bao giờ có thể đặt chân lên mảnh đất ấy thì đây quả là
thêm một nghịch lí đáng buồn.
- Rồi cậu con trai anh không sao hiểu nổi cái khát vọng kì cục mà lớn lao của bố : Nó sa
vào một đám chơi cờ thế, rất có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày => đó cũng là
một điều nghịch lí.
- Ngay cả người vợ một đời tần tảo, giàu tình yêu thương nhưng phải đợi đến lúc sắp giã
biệt cõi đời, Nhĩ mới cảm nhận thấm thía được lại càng là nghịch lí và trớ trêu…
=> Phải chăng nhà văn đã đặt nhân vật Nhĩ – hay đang hoá thân vào nhân vật vào trong
tình huống với cả một chuỗi những nghịch lí như thế là nhằm hưóng người đọc đi đến một
nhận thức về cuộc đời : Cuộc sống và số phận con người chứa đựng đầy những điều bất

251
thường, những nghịch lí ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những điều dự định và ước muốn, cả
những hiểu biết và toan tính của người ta. Mặt khác còn là để khẳng định cái triết lí mang
tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời người : Con người ta trên đường đời thật
khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình như đã nói ở trên.
2. Bình luận về những cảm xúc của nhân vật Nhĩ.
- Nhĩ nằm đó, trong cái mớ rối rắm bòng bong những nghịch lí để tự hồi tưởng, tự phân
tĩnh, tự sám hối và nhận ra những điều không có gì là xa lạ.
a. Cảm xúc về thiên nhiên.
- Cảnh vật được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng : sự thay đổi sắc màu của những
bông hoa bằng lăng ; của con sông Hồng, của bầu trời thu, của cái bãi bồi bên kia sông,
con đò có cánh buồm nâu bạc…. gợi ra một không gian vừa có chiều sâu, vừa có chiều
rộng.
- Cảnh vật ấy cứ dần dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng và chỉ có thể cảm nhận được bằng
những cảm xúc thật tinh tế của một con người sắp từ giã cõi đời.
+ Những bông hoa bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại
đậm sắc hơn… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối ». Đâu
phải là những màu sắc tươi tắn mà là những sắc màu của sự tàn phải, là dấu hiệu của sự
tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó gắn
bó với tâm trạng của con người.
+ H/a con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra vốn cũng chỉ là hình ảnh
của cái đẹp bình dị, gần gũi, gắn bó bao đời, vậy mà giờ đây bỗng trở nên xa xôi quá, ngăn
cách quá vì cả đời Nhĩ đã vòng vèo, chùng chình nên đến giờ mới nhận ra được điều đơn
giản ấy.
+ Ngay cả cái vòm trời màu thu như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ
mặt nước lên những khoảng bờ bãi…. cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một
thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non.. những màu sức thân thuộc quá như da thịt,
như hơi thở…. Vậy mà cũng chỉ đến sáng hôm nay Nhĩ mới cảm nhận ra được như một
phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. Đây là « một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì
chưa bao giờ đi đến ». Phải chăng đây là tâm trạng của một con người đang nặng trĩu
những từng trải, đau thương : yêu quê hương nhưng một đời người thường phải li hương,
thường hờ hững và mắc vào cái điều vòng vèo, chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối,
xa xôi.
b. Cảm xúc về vợ :
- Phát hiện thấy ở Liên những tình cảm dịu dàng, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng.
+ Liên mặc tấm áo vá, những ngón tay gầy guộc vuốt ve chồng, lảng tránh trả lời khi Nhĩ
hỏi.
+ Nhĩ nhận ra sự nghiệt ngã của thời gian, không còn bao lâu nữa anh sẽ mãi mãi ra đi, Nhĩ
đành phải xót xa nói ra một điều ân hận nhất : « Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em
vẫn nín thinh ! »
+ Liên vẫn ân cần, vẫn yêu thương, lặng thầm hi sinh, chịu đựng : Anh cứ yên tâm.. Miễn
là anh sống, luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này. »

252
- Giờ thì Nhĩ đã hiểu thật sâu, thật đau với một sự thấu hiểu, một sự ân hận và lòng biết ơn
sâu sắc nhưng cũng đã muộn màng. (so sánh với Khúng và Huệ trong « Phiên chợ Giát »).
Tại sao không nương tựa vào nhau để đi qua cuộc đời, qua số phận và bám lấy mảnh đất
quê hương để mà sống, để tạo lập cuộc sống, để khẳng định con người trên mảnh đất này ?
Sao không thể có được một cuộc đời tuy lầm lũi mà hạnh phúc như lão Khúng với mụ Huệ
trong truyện « Phiên chợ Giát » dù cho cuộc đời có thấm đẫm đầy máu và nước mắt ? Phải
chăng cũng bởi những cái vòng vèo, chùng chình không dứt ra được khiến cho Nhĩ từ lâu
đã không nhận ra được tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng ấy của Liên ?
Và để rồi cuối cùng mới nhận ra được cái đẹp trong tâm hồn vợ : cũng như cánh bãi bồi
đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu
đựng hi sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn
tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
- Cách so sánh đầy tính triết lí trên đây của tác giả không chỉ là lời ngợi ca, sự nhìn nhận
xứng đáng dành cho Liên mà còn là một phát hiện vốn cũng rất bình thường nhưng cũng
đã bị chính cái vòng vèo, cái chùng chình làm cho con người ta đã phót lờ nó, xem thường
nó, coi đó như là một lẽ đương nhien. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để được
suốt đời trân trọng, yêu thương như tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật « anh ấy »
(Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành ). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện ngắn
« Cỏ lau » : người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã biết mình sắp chết)… Vậy anh hãy nói
điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ? Vẫn cứ chùng chình, im
lặng ?
c. Cảm xúc về quê hương (từ những cảm nhận về thiên nhiên, cảm nhận về Liên, Nhĩ chợt
nhận ra cái đẹp muôn thuở của quê hương)
- Thì ra « suốt đời  Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất » vậy mà giờ
đây, nằm trong căn phòng nhìn qua cửa sổ, Nhĩ mới thấy được tất cả vẻ đẹp rất đỗi bình dị
và gần gũi của cái bãi bồi bên kia sông khi mình sắp từ giã cõi đời.
d. Cảm xúc về bản thân và bình luận về tâm trạng khao khát của Nhĩ muốn được đặt chân
lên bãi bồi bên kia sông.
- Bãi đất ấy đã làm bừng dậy một niềm khao khát vô vọng là được đặt chân lên một lần đến
đó.
- Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường, sâu xa
trong cuộc sống vốn thường bị người ta lãng quên và chỉ có thể cảm nhận được khi đã ở
cái độ từng trải.
- Thật là đau đớn vì đối với Nhĩ đó cũng là lúc cuối đời, cận kề với cái chết. Cho nên sự
thức tỉnh tình yêu quê hương, yêu cái đẹp dung dị, bình thường, gần gũi có xen lẫn với
niềm ân hận và nỗi xót xa : « hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp
mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi
sông Hồng ngay bờ bên kia ». Và cũng chỉ có anh mới nhận ra được điều đó, ngay cả đứa
con anh cũng không sao hiểu được điều anh mơ ước. Nó ra đi một cách miễn cưỡng rồi bị
cuốn hút vào trò chơi giải cờ thế trên vỉa hè, rất có thể nhõ chuyến đò ngang. Quả thật là
« con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình »
vậy.

253
- Nhĩ thất vọng nhưng ôm nỗi buồn riêng không hề trách móc một ai. Vì « vả lại nó đã
thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu ! » Nhĩ chỉ còn biết thu hết tàn lực vào cái giờ
phút không thể dừng lại được nữa khi thấy con đò ngang vừa chạm vào mũi vào đất lở bên
này sông »… « để đu mình, nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc.. khoát
khoát… »Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau lên kẻo lỡ chuyền
đò ? Phải chăng anh đang cảm nhận cái ngắn ngủi của thời gian không hề chờ đợi anh
thêm một chuyến đò khác. Hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn nữa : đó là ý
muốn của nhân vật (cũng như của nhà văn) là thức tỉnh mọi người về những cái vòng vèo,
chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời. Hãy mau mau dứt ra khỏi nó để
hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.
3. Ý đồ của nhà văn khi xây dựng nhân vật Nhĩ :
- Nhân vật Nhĩ trong truyện cũng như nhiều nhân vật khác trong truyện của « Nguyễn
Minh Châu  sau năm 1975 là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự
nhận thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời vì như trên đã dẫn theo lời của tác giả là
« cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan ». Tác giả đã gửi gắm qua nhận vật nhiều
điều quan sát, suy ngẫm, triết lí : nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai mà là cho tất cả.
Do đó nhận vật không bị biến thành cái loa phát ngôn cho một giai tầng nào đó trong xã
hội hay cho chính nhà văn. Chính những chiêm nghiệm, những triết lí đã được chuyển hoá
vào trong đời sống nội tâm của nhân vật thông qua những diễn biến của tâm trạng, dưới sự
tác động của hoàn cảnh đã được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính luận đề
một cách tự nhiên mà sâu sắc.
4. ĐÁnh giá những thành công về nghệ thuật xây dựng truyện.
- Miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ của nhân vật mang đầy ý nghĩa triết lí về con người.
- Sáng tạo những hình ảnh giầu ý nghĩa biểu đạt và hầu như mọi hình ảnh đều mang hai
lớp nghĩa : nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. (Dẫn chứng : hình ảnh hoa bằng lăng, hình ảnh
bãi bồi bên kia sông, của con đò, của cánh buồm nâu đã bạc mầu… những tảng đất lở bên
bờ sông…. hình ảnh cuối truyện….)
C. Kết luận.
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn đi được xa nhất trên con đường đổi mới văn học, trong
thời kì mà văn học đang « tự thay máu » của mình. Nhân vật thể hiện được những chiêm
nghiệm, những điều trở trăn của một nhà văn nặng lòng với cuộc sống mới sau chiến tranh,
minh chứng cho sự đổi t hay của một thời kì văn học mới.
- Tác phẩm mang phong cách hiện đại, tính nhân văn sâu sắc.

---------------------------------------------------
Bài 5 : NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI

A. Giới thiệu chung.

1. Tác giả :

254
- Lê Minh Khuê sinh năm 1940, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá. Trong kháng
chiến chống Mĩ, gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn vào đầu những năm
1970, chủ yếu viết về cuộc sống chiến đấu của tuôổ trẻ ở tuyến đường Trường Sơn. Sau
năm 1975, tác phẩm của Minh Khuê bám sát những chuyển biến của đời sống xã hội và
con người trên tinh thần đổi mới. Lê Minh Khuê là cây bút chuyên về truyện ngắn.
2. Tác phẩm : Truyện « Những ngôi sao xa xôi » là một trong những tác phẩm đầu
tay của LMK, viết năm 1971, trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt.

B. Một số câu hỏi luyÖn tËp

Câu 1  : Giải thích nhan đề  : Những ngôi sao xa xôi.


- Thoạt đầu, có vẻ như không có gì thật gắn bó với nội dung của truyện. Và chỉ gần đến
cuối câu chuyện, hình ảnh những ngôi sao mới xuất hiện trong những cảm xúc hồn nhiên,
mơ mộng của Phương Định, ngôi sao trên bầu trời thành phố.
- Ánh đèn điện như những vì sao lung linh trong xứ sở thần thiên của những câu chuyện cổ
tích.
+ Biểu hiện cho cho những tâm hồn hết sức hồn nhiên, mơ mộng, lãng mạn của những
cô gái thành phố.
+ Biểu hiện cho những khát vọng, ước mơ trong tâm hồn thiếu nữ về một cuộc sống
thanh bình, êm ả giữa những gì gần gũi khốc liệt của chiến tranh, không khí bàng hoàng
của bom đạn, tất cả như trở nên xa vời.
+ Ánh sáng của các vì sao thường nhỏ bé, không dễ nhận ra, không rực rỡ chói loà như
mặt trời, và cũng không bàng bạc, thấm đẫm bao phủ như mặt trăng. Nhiều khi nhìn lên
bầu trời, ta phải thật chăm chú mới phát hiện ra những ngôi sao ấy.
- Và phải chăng vẻ đẹp của các cô thanh niên xung phong ấy cũng như vậy. Và chúng
lại « xa xôi », vì thế phải thật chăm chú mới nhìn thấy được, mới yêu và quý trọng
những vẻ đẹp như thế.

Câu 2 : Tóm tắt nội dung cốt truyện và nêu ý nghĩa của truyện ?
a. Tóm tắt : Ba nữ thanh niên xung phong làm thành một tổ trinh sát mặt đường tại một địa
điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Họ gồm có : hai cô gái rất trẻ là Định và Nho, còn tổ
trưởng là chị Thao lớn tuổi hơn một chút. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo
khối lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây ra, đánh dấu vị trí các trái bom chưa nổ và
phá bom. Công việc của họ hết sức nguy hiểm vì luôn phải đối mặt với thần chết trong mỗi
lần phá bom và phải làm việc giữa ban ngày dưới bom đạn của quân thù trên một tuyến
đường ác liệt. Tuy vậy, họ vẫn lạc quan yêu đời, vẫn có những niềm vui hồn nhiên của tuổi
trẻ, những giây phút thanh thản, mơ mộng và đặc biệt họ rất gắn bó, yêu thương nhau trong
tình đồng đội, dù mỗi người một cá tính. Cái hang đá dưới chân cao điểm là « ngôi nhà »
của họ đã lưu giữ biết bao kỉ niệm đẹp của ba cô gái mở đường trong những tháng ngày
gian khổ mà anh hùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
b. Ý nghĩa của truyện :

255
- Làm nổi bật tâm hồn tỏng sáng, mơ mộng, tình thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu vô
cùng gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung
phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt
Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.

Câu 3 : Truyện được trần thuật từ nhân vật nào ? Việc chọn vai kể như vậy có tác dụng
gì trong việc thể hiện nội dung truyện ?
- Truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất và những người kể chuyện cũng là nhân vật
chính. Sự lựa chọn ngôi kể như vậy phù hợp với nội dung tác phẩm và tạo thuận lợi để tác
giả miêu tả, biểu hiện thế giới tâm hồn, những cảm xcus và suy nghĩ của nhân vật. Để cho
nhân vật là người trong cuộc kể lại thì câu chuyện sẽ thật hơn, cụ thể và sinh động hơn, tạo
cho người đọc cảm giác tin vào câu chuyện hơn. Và ở đây, truyện viết về chiến tranh, tất
nhiên phải có bom đạn, chiến đấu, hi sinh, nhưng trong truyện này, hiện lên khá rõ là thế
giới nội tâm của các cô gái thanh niên xung phong với vẻ đẹp tâm hồn của một thế hệ trẻ
thời kháng chiến chống Mĩ. Đó cũng là do cách lựa chnj và kể của tác giả - nhất là vai kể ở
đây lại là một cô gái trẻ Hà Nội có cá tính nhiều mộng mơ với những kỉ niệm đẹp của thời
thiếu nữ.

Câu 4 : Tìm hiểu những nét chung và những nét riêng của ba nhân vật cô gái thanh
niên xung phong trong truyện.
a. Nét chung :
- Họ đều thuộc thế hệ những cô gái thanh niên xung phong thời kì kháng chiến chống Mĩ
mà tuổi đời còn rất trẻ (như Phương Định vốn là một cô học sihh thành phố), có lí tưởng,
đã tạm xa gia đình, xa mái trường, tự nguyện vào chiến trường tham gia một cách vô tư,
hồn nhiên. Việc họ lấy hang đá làm nhà, coi cao điểm đầy bom đạn là chiến trường hàng
ngày đối mặt với cái chết trong gang tấc đã nói lên tất cả. Nét chung này không chỉ có ở
đây mà còn được nói đến ở nhiều tác phẩm khác như « Gửi em, cô thanh niên xung
phong » của Phạm Tiến Duật, « khoảng trời hố bom » của Lâm Thị Mỹ Dạ và truyện ngắn
« mảnh trăng cuối rừng » của Nguyễn Minh Châu… Tạo thành biểu tượng gương mặt đẹp
và đáng yêu của những cô gái mở dường thời kháng chiến chống Mĩ.
- Họ đều có những phẩm chất chung của những chiến sĩ thanh niên xung phong ở chiến
trường : tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ, lòng dũng cảm không sợ hi sinh, tình
đồng đội gắn bó. Có lệnh là lên đường, bất kể trong tình huống nào, nguy hiểm không từ
nan dù phải đối mặt với máy bay và bom đạn quân thù, và đã lên đường là hoàn thành
nhiệm vụ ( d/c – sgk). Khi đồng đội gặp tai nạn thì khẩn trương cứu chữa và tận tình chăm
sóc (câu chuyện Nho bị thương khi phá bom). Cuộc sống và chiến đấu ở chiến trường thật
gian khổ, nguy hiểm và luôn căng thẳng nhưng họ vẫn bình tĩnh, chủ động, luôn lạc quan
yêu đời, trong hang vẫn vang lên tiếng hát của ba cô gái.
- Cùng là ba cô gái trẻ với cuộc sống nội tâm phong phú đáng yêu : dễ cảm xúc, nhiều mơ
ước, hay mơ mộng, dễ vui, dễ buồn. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình, ngay cả
trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát,
Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát… Cả ba đều chưa có

256
người yêu, đều sống hồn nhiên tươi trẻ (chi tiết trận mưa đá bất chợt đến và niềm vui trẻ
trung của ba cô gái khi được « thưởng thức » những viên đá nhỏ.
b. Nét riêng :
- Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn, « trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng », có
« cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn » rất dễ thương khiến Phương Định « muốn
bế nó lên tay ». Nho lại rất hồn nhiên – cái hồn nhiên cảu trẻ thơ : « vừa tắm ở dưới suối
lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn kẹo » ; khi bị thương nằm trong hang vẫn nhổm dậy,
xoè tay xin mấy viên đá mưa, nhưng khi máy bay giặc đến thì chiến đấu rất dũng cảm,
hành động thật nhanh gọn : « Nho cuộn tròn cái gối, cất nhanh vào túi », Nho quay lưng lại
chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu » … Và trong một lần phá bom, cô đã bị sập hầm, đất
phủ kín lên người.
- Phương Định cũng trẻ trung như Nho là một cô học sinh thành phố, nhạy cảm và hồn
nhiên, thích mơ mộng và hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô từ về gia đình
và về thành phố của mình. Ở đoạn cuối truyện, sau khi trận mưa đá tạnh, là cả một dòng
thác kỉ niệm về gia đình, về thành phố trào lên và xoáy mạnh như sóng trong tâm trí cô gái.
Có thể nói đây là những nét riêng cảu các cô gái trẻ Hà Nội vào chiến trường tham gia
đánh giặc, tuy gian khổ nhưng vẫn giữ được cái phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ
tình và đáng yêu.
- Còn Thao, tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết
thực hơn, nhưng cũng không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. « Áo lót của
chị cái nào cũng thêu chỉ màu ».Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm.
Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo bạo. ĐẶc biệt là sự
« bình tĩnh đến phát bực » : máy bay địch đến nhưng chị vẫn « móc bánh quy trong túi,
thong thả nhai ». Có ai ngờ con người như thế lại sợ máu và vắt : « thấy máu, thấy vắt là
chị nhắm mắt lại, mặt tái mét ».VÀ không ai có thể quên được chị hát : nhạc sai bét, giọng
thì chua, chị không hát trôi chảy được bài nào. Nhưng chị lại có ba quyển sổ dày chép bài
hát và rỗi là chị ngồi chép bài h át.
=> Những nét riêng đó đã làm cho các nhân vật sống hơn và cũng đáng yêu hơn.

Câu 5  : Viết đoạn văn nêu cảm nhận về nhân vật Phương Định. (khoảng 12 -> 15 câu)
Gợi ý : Triển khai các ý sau :
Phương Định là hình ảnh tiêu biểu của những người con gái Hà Nội vào chiến trường đánh
giặc.
- Cô rất trẻ , có thời học sinh hồn nhiên vô tư bên người mẹ trong những ngày thanh bình
của thành phố.
- Ngay giữa chiến trường ác liệt, Phương Định vẫn không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng :
cô hiện lên rất đời thường, rất thực với những nét đẹp tâm hồn : nhạy cảm, hay mơ mộng
và thích hát. ( Cảm xúc của Đình trước cơn mưa đá)
- Là cô gái kín đáo trong tình cảm và tự trọng về bản thân mình. (Hay ngắm mắt mình qua
gương, biết mình đẹp và được các anh bộ đội để ý nhưng không tỏ ra săn sóc, vồn vã….,
nét kiêu kì của những cô gái Hà thành)

257
- Tình cảm đồng đội sâu sắc : yêu mến hai cô bạn cùng tổ, yêu mến và cảm phục tất cả
những chiến sĩ mà cô gặp trên tuyến đường Trường Sơn. (Chăm sóc Nho khi Nho bị
thương….)
- Ngời lên những phẩm chất đáng quý : có trách nhiệm với công việc, dũng cảm, bình tĩnh,
tự tin….
- Truyện kể theo ngôi thứ nhất (nhân vật kể là nhân vật chính) phù hợp với nội dung truyện
và thể hiện tâm trạng suy nghĩ của nhân vật. Tác giả am hiểu và miêu tả sinh động nét tâm
lí của những nữ thanh niên xung phong.
=> Nhân vật Phương Định đã để lại trong lòng người đọc nỗi niềm đồng cảm, yêu mến và
sự kính phục về phẩm chất tốt đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ.
Đoạn văn mẫu :
Là con gái Hà Nội vào chiến trường đánh giặc, cô mang theo những kỉ niệm đẹp của một
thời học sinh vô tư lự bên người mẹ và những hình ảnh, những kỉ niệm thân thương quá
đối với thành phố của cô (1). Ở chiến trường 3 năm, đã quen với những thử thách nguy
hiểm, giáp mặt hàng ngày với cái chết, nhưng cô không hề  mất đi sự hồn nhiên, trong sáng
và những ước mơ về tương lai : nhạy cảm, mơ mộng và thích được hát(2). Cô hồn nhiên
đến đáng yêu khi gặp cơn mưa đá trên cao điểm : « Tôi chạy vào, bỏ trên bàn tay đang xoè
ra của Nho mấy viên đá nhỏ. Lại chạy ra, vui thích cuống cuồng. Rồi mưa tạnh, tôi bỗng
thẫn thờ tiếc không nói nổi »(3). Cùng với trận mưa đá ấy, những kỉ niệm thời thiếu nữ lại
trào lên trong cô « xoáy mạnh như sóng » biết bao hình ảnh thân thương của gia đình,
thành phố và quê hương (4). Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong
hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến trường (5). Là cô gái xinh đẹp, đầy nữ tính, biết
điệu đà làm dáng nhưng lại rất kín đáo, tế nhị, có chiều sâu trong tình cảm và tự trọng về
bản thân mình (6). Biết mình được các anh lính để mắt, điều đó khiến cô vui và tự hào
nhưng cô không hề tỏ ra vồn vã, săn đón, cô luôn kín đáo giữa đám đông : « đứng ra xa,
khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mìm chặt » (7). Cô yêu mến đồng đội,
đặc biệt là hai người bạn gái cùng tổ, luôn lo lắng sau mỗi lần phá bom : « Tôi phủi áo,
căng mắt nhìn qua khói và chạy theo chị Thao… Chi Thao vấp ngã. Tôi đỡ chị… Tôi moi
đất, bế Nho đặt lên đùi mình », rồi chăm sóc đồng đội như một y tá(8). Cô còn yêu mến và
cảm phục tất cả những chiến sĩ mà cô gặp trên tuyến đường Trường Sơn (9). Trong suy
nghĩ của cô : « những người đẹp nhất, thông mình, can đảm và cao thượng nhất là những
người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ (10). Cuộc sống chiến đấu đối mặt với kẻ thù
hàng ngày, thần Chết luôn đe doạ từng giây phút đã rèn luyện cho cô gái Hà thành đức
tính dũng cảm, gan dạ, tự tin để hoàn thành mọi nhiệm vụ (11). Công việc hàng ngày của
cô và đồng đội rất nhiều và nguy hiểm : phá bom, ít nhất là 3 quả, có ngày 5 quả », công
việc khủng khiếp bóp nghẹt trái tim, nhưng cô nói về chừng ấy công việc gọn gàng, khô
khốc, tĩnh nhẹ như không, cô nghĩ về công việc của mình quá giản dị và còn cho là có cái
thú riêng : « có ở đâu như thê này không. Đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay
đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng ra như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chận chạy
mà vẫn không biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ,
có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ » (12). Chiến tranh và đạn bom giặc Mỹ đã làm

258
cô lớn lên, trở thành dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề biết : « quen rồi. Một ngày tôi phá
bom đến 5 lần. Ngày nào ít : ba lần. Tôi có nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ
nhạt, không cụ thể » (13). Thế đấy, những cảm xúc, suy nghĩ chân thực của cô đã truyền
sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm, yêu mến và sự kính phục (14).Tất cả đã được tác
giả kể chân thực, sinh động và tự nhiên qua tâm lí nhân vật ở những sự việc và chi tiết có ý
nghĩa trong truyện, và những nét tâm lí này lại được chính nhân vật nói lên qua vai kể của
mình nên lại càng thấm thía(15).

Câu 6 : Viết một đoạn văn quy nạp (12 câu): « Những ngôi sao xa xôi » đã khắc hoạ vẻ
đẹp tâm hồn của thanh niên Hà Nội qua hình ảnh Phương Định dũng cảm gan dạ mà
cũng thật trong trẻo, mộng mơ.
Gợi ý :
- Đoạn văn giầu chất thơ (tâm trạng trước trận mưa đá) => cảm xúc bâng khuâng xao
xuyến, niềm vui nỗi buồn chợt đến, chợt đi.
- Niềm tin ấy cứ lấp lánh mãi như ánh sáng của những ngôi sao xa xôi mà không gì, không
một thế lực tàn bạo, khắc nghiệt nào có thể dập tắt được
- Trong cảm xúc bâng khuâng, xao động, thoáng qua của PĐ, hình ảnh ngôi nhà, người mẹ,
những gì thân thuộc gần gũi đến hình ảnh lung linh của những ngôi sao mà tác giả đã hơn
một lần nhắc đến, ánh sáng của đèn điện ngỡ là thực mà như là ảo. Tất cả hiện lên trong
ánh sáng lung lính của kí ức mộng mơ, rất thiếu nữ, rất dung dị của người Hà Nội.

Câu 7 : Trong truyện « Những ngôi sao xa xôi » có đoạn : « Không hiểu vì sao mình gắt
nữa…. đang bắn ».
Những câu văn trên đã thể hiện hiện thực như thế nào ? Nhận xét về hiệu quả diễn đạt của
những câu văn ấy ?
Gợi ý :
- Nhịp điệu dồn dập của những câu văn như những đợt bom đang liên tiếp dội xuống,
như khói đang dồn vào hang => Góp phần tô đậm hiện thực.
- Sợ + lo lắng -> « gắt »
- « Trên cao điểm vắng vẻ, chỉ có »=> Vẫn tiếp tục bằng những câu văn ngắn, rất
ngắn, một loạt các câu đặc biệt diễn tả sự cách biệt của con người trên cao điểm.
- Câu văn « và bom » đặt giữa hai câu => dường như quả bom ngăn cách Định và
đồng đội của cô. TỪ « và » liên kết câu tựa như những ý nghĩ, những suy nghĩ tình
cảm gắn kết PĐịnh với Nho và Thao. Nhưng đồng thời chính ý nghĩ về đồng đọi lại
khiến cho PĐịnh bớt sợ, bớt cô đơn. Cô gái Hà Nội ấy cảm thấy vững lòng hơn khi
thấy « Cao xạ đặt bên kia quả đồi ». Tiếng súng cao xạ - tiếng của những người đồng
chí khiến cô vững tâm hơn.
=> Đoạn văn vừa gợi được sự khốc liệt của chiến tranh, vừa diễn tả được tâm trạng lo
lắng bồn chồn của PĐ đồng thời cũng thể hiện những tình cảm, suy nghĩ về tình đồng
đội rất ấm áp.
============================

259
PHẦN TẬP LÀM VĂN

Đề 1 : Cảm nghĩ về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn « Những ngôi sao xa
xôi » của Lê Minh Khuê
A. Mở bài :
- Giới thiệu con đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ - được coi là biểu tượng
anh hùng của cuộc chiến đấu giành độc lập tự do.
- Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tuyến đường TS máu lửa.
- Những tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung
phong ở đây đã gây được sự chú ý của bạn đọc mà truyện ngắn « những ngôi sao xa xôi »
là một trong những tác phẩm ấy.
- Truyện viết về 3 cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên
tuyến đường TS đạn bom khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật
chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu sắc trong lòng người đọc.
B. Thân bài.
1. Cảm nhận về tính hồn nhiên, ngây thơ, tinh nghịch của Phương Định.
- Phương Định là nữ sinh của thủ đô thanh lịch bước vào chiến trường. Phương Định có
một thời học sinh- cái thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vô tư lự của cô thật vui sướng !
Những hoài niệm của cô về thời học sinh thật đáng yêu  luôn sống trong cô ngay giữa
chiến trường.
- Cơn mưa đá ngắn ngủi đột ngột xuất hiện ở cuối truyện, ngay sau trận phá bom đầy nguy
hiểm cũng thức dậy trong cô bao niềm vui thơ trẻ : cô nhớ về mẹ, cái cửa sổ căn nhà,
những ngôi sao to trên bầu trời thành phố… Nó thức dậy những kỉ niệm và nỗi nhớ về
thành phố, gia đình, về tuổi thơ thanh bình của mình. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm
dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh, khốc liệt và nóng bỏng của chiến trường.
- Những thử thách và nguy hiểm ở chiến trường, thậm chí cả cái chết không làm mất đi ở
cô sự hồn nhiên trong sáng và những ước mơ về tương lai. Phương Định vẫn là người con
gái nhậy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát.
- Cô đem cả lòng say mê ca hát vào chiến trường TS ác liệt. Cô thích hát những hành khúc
bộ đội, những bài dân ca quan họ, dân ca Nga, dân ca Ý. Giọng của Phương Định chắc là
hay lắm nên « chị Thao thường yêu cầu cô hát đấy sao » ? Định còn có tài bịa ra lời bài hát
nữa. Chị Thao đã ghi cả vào sổ những lời hát cô bịa ra….
+ Phương Định là một cô gái xinh xắn. Cũng như các cô gái mới lớn, cô nhạy cảm và quan
tâm đến hình thức của mình. Chiến trường khốc liệt nhưng không đốt cháy nổi tâm hồn
nhạu cảm của cô. Cô biết mình đẹp và được nhiều người để ý : « Tôi là con gái Hà Nội.
Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá….. » ; còn mặt tôi thì các anh lái xe bảo « :
Cô có cái nhìn sao mà xa xăm ». Điều đó làm cô thấy vui và tự hào.
+ Biết mình được cánh lính trẻ để ý nhưng cô « không săn sóc, vồn vã », không biểu lộ
tình cảm của mình, nhưng chưa để lòng mình xao động vì ai : « thường đứng ra xa, khoanh
tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, môi mím chặt ». Đó là cái vẻ kiêu kì đáng yêu của
các cô gái Hà Nội như chính cô đã thú nhận : « chẳng qua là tôi điệu đấy thôi ».

260
- Cô luôn yêu mến đồng đội của mình, yêu mến và cảm phục tất cả các chiến sĩ mà cô gặp
trên truyến đường Trường Sơn.

2. Cảm nhận về chất anh hùng trong công việc của cô.
- Là một nữ sinh, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng thế hệ của mình « xẻ dọc TS
đi cứu nước – mà lòng phơi phới dậy tương lai » để giành độc lập tự do cho TQ. Cô ra đi
mà không tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến hết mình cho Tổ quốc.
+ Cô kể : « chúng tôi có ba người. Ba cô gái. Chúng tôi ở trong một cái hang dưới chân
cao điểm. Con đường đi qua trước hang bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên
đường không có lá xanh. Chỉ có thân cây bị tước khô cháy. Trên cao điểm trống trơn, cô và
các bạn phải chạy giữa ban ngày phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy
bay địch.
+ Cô nói về công việc của mình gọn gàng khô khốc, tĩnh nhẹ như không : « việc của chúng
tôi là ngồi đây. KHi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom
chưa nổ và nếu cần thì phá bom » .
+ PĐnghĩ về công việc của mình quá giản dị, cô cho là cái thú riêng : « có ở đâu như thế
này không : đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ĩ xa dần. Thần kinh
căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn không hay biết rằng
khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng
nhất định sẽ nổ ». Giản dị mà cũng thật anh hùng. Chiến tranh và đạn bom đã làm cô lớn
lên, trở thành dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề biết. Thật đáng phục !
3. Cảm nhận về tình thần dũng cảm trong một cuộc phá bom đầy nguy hiểm.
- Lúc đến gần quả bom :
+ Trong không khí căng thẳng và vắng lặng đến rợn người, nhưng rồi một cảm giác bỗng
đến với cô làm cô không sợ nữa : « tôi đến gần quả bom . Cảm thấy ánh mắt cás chiến sĩ
dõi theo mình, tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi
khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới ». Lòng dũng cảm của cô như được kích thích
bởi sự tự trọng.
+ Và khi đã ở bên quả bom, kề sát với cái chết có thể đến tức khắc, từng cảm giác của cô
như cũng trở nên sắc nhọn hơn và căng như dây đàn : « thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào
quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi, tôi rùng mình và bỗng thấy
tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí ! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng
lành ». Thần chết nằm chực ở đó chờ phút ra tay. Cô phải nhanh hơn, mạnh hơn nó, không
được phép chậm chễ một giây.
- Tiếp đó là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Thật đáng sợ cái công việc
chọc giận Thần Chết đó. Ai dám chắc là quả bom sẽ không nổ ngay bây giờ, lúc Phương
định đang lúi húi đào đào, bới bới ấy. Thế mà cô vẫn không run tây, vẫn tiếp tục cái công
việc đáng sợ : « tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mình xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Tôi khoả
đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình : liệu mìn có nổ, bom có nổ không ? Không thì làm
cách nào để châm mìn lần thứ hai.. Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái đến váng óc.
Ngực tôi nhói, mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa
tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thanh trong những bụi cây. Mảnh bom xé không khí,

261
lao và rít vô hình trên đầu. Bốn quả bom đã nổ. Thắng rồi ! Nhưng một đồng đội đã bị bom
vùi ! Máu túa ra từ cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào đất. Da xanh, mắt nhắm nghiền, quần
áo đầy bụi… ». Nhưng không ai được khóc trong giờ phút rất cần sự cứng cỏi của mỗi
người.
- Cái công việc khủng khiếp bóp nghẹt trái tim ấy không chỉ đến một lần trong đời mà đến
hàng ngày : « Quen rồi. Một ngày tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tôi có
nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. »
=>Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm
yêu mến và sự kính phục. Một cô nữ sinh nhỏ bé, hồn nhên, giàu mơ mộng và nhạy cảm
mà cũng thật anh hùng, thật xứng đáng với những kì tích khắc nghi trên những tuyến
đường TS bi tráng. Một ngày trong những năm tháng TS của cô là như vậy. Những trang
lịch sử TS không thể quên ghi một ngày như thế.
C. Kết luận.
- Chúng ta luôn tự hào về những chiến sĩ, những thanh niên xung phong TS như Phương
Định và đồng đội của cô. Lịch sử những cuộc kháng chiến và chiến thắng hào hùng của
dân tộc không thể thiếu những tấm gương như cô và thế hệ những người đã đổ máu cho
nền độc lập của Tổ Quốc.
- Chúng ta càng yêu mến tự hào về cô, càng biết ơn và học tập tinh thần của những người
như cô trong công cuộc xây dựng đất nước hôm nay.
====================

Đề 2 : « Những ngôi sao xa xôi » của Lê Minh Khuê là vẻ đẹp tâm hồn của tuổi trẻ
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, vừa có những nét chung đáng
quý, vừa mang những nét riêng của « những ngôi sao xa xôi ». Hãy phân tích.
Dàn ý.
A. Mở bài :
Cách 1 :
- Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã đi qua….. nhưng ánh sáng chói lọi của nó vẫn luôn
tồn tại cùng với lịch sử dân tộc ta qua các tác phẩm văn học như….. Và có những con
người bình dị, đã làm nên cuộc kháng chiến ấy, đó là những người lính, những cô thanh
niên xung phong, những chiến sĩ vô danh…. « Những ngôi sao xa xôi » viết về những con
người như vậy. Ba cô gái thanh niên họp thành một tổ trinh sát mặt đường….
Họ đã sống và chết.
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước.
(Ngã ba Đồng Lộc)
Cách 3 :
- Truyện « những ngôi sao xa xôi » của Lê Minh Khuê được viết năm 1971, khi cuộc
kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt.
- Truyện kể lại cuộc sống của ba cô gái thanh niên xung phong làm công tác trinh sát
và phá bom thông đường trên một cao điểm của Trường Sơn những năm tháng chống Mĩ.

262
Qua đó thể hiện và ca ngợi tâm hồn và phẩm chất cao đẹp của những người con gái Việt
Nam thời chống Mĩ : Hồn nhiên, trong sáng trong cuộc sống, dũng cảm trong chiến đấu và
luôn lạc quan trước tương lai.
- Họ đã để lại một ấn tượng rất sâu sắc, giúp người đọc nhận ra rằng trong chiến thắng
vinh quang của dân tộc trước một cường quốc lớn, có những con người làm việc và hiến
dâng cả tuổi xuân, cả máu của mình cho đất nước.
B. Thân bài.
1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu  :
- Họ ở trong một hang dưới chân một cao điểm giữa một vùng trọng điểm trên tuyến
đường Trường Sơn, tức là ở nơi tập trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt, từng
ngày, từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Có biết bao thương tích vì bom đạn
giặc : đường bị đánh « lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn » tưởng như sự sống bị huỷ diệt :
« không có lá xanh » hai bên đường, « thân cây bị tước khô cháy »…Những cây rễ nằm lăn
lóc, ngổn ngang những hòn đá to…. han rỉ trong lòng đất ».
=>Quả là một hiện thực khô khốc đầy mùi chiến tranh, nó không có màu xanh của sự
sống, chỉ thấy tử thần luôn rình rập.
- Công việc trinh sát, phá bom lại càng đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao
điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch để đo
và ước tính khối lượng đất đá bị bom địch đào xới, đếm những quả bom chưa nổ và dùng
những khối thuốc nổ đặt vào cạnh nó để phá. Đó là một công việc phải mạo hiểm với cái
chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức.
+ Không khí của chiến tranh không giống như tương lai hay quá khứ có một âm điệu
riêng. Chẳng hạn như sự im lặng : « Cuộc sống ở đây đã dậy cho chúng tôi thế nào là sự
im lặng ». Im lặng có nghĩa là cái chết đang rình rập đâu đây, nó ập đến bất cứ lúc nào.
Chưa hết, đó mới chỉ là hiện thực lúc yên tĩnh, còn lúc có bom của địch thì sao ? « Nghe
tiếng bom đầu tiên, có đứa chết giấc, nằm dán xuống đất », rồi « chúng tôi bị bom vùi
luôn. Có khi bò trên cao điểm trở về hang, cô nào cũng chỉ thấy « hai con mắt lấp lánh »,
« hàm răng loá lên » khi cười, khuôn mặt thì « lem luốc ».
2. Vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thanh niên xung phong và cũng là của tuổi trẻ
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
a. Những nét chung : Cả ba cô, cô nào cũng đáng mến, đáng cảm phục
- Họ đều thuộc thế hệ những cô gái thanh niên xung phong thời kì kháng chiến chống Mĩ
mà tuổi đời còn rất trẻ (như Phương Định vốn là một cô học sinh thành phố), có lí tưởng,
đã tạm xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào cái nơi mà cái sự mất còn chỉ diễn ra
trong nháy mắt, một cách vô tư, hồn nhiên, cống hiến tuổi thanh xuân. Họ thực sự là những
anh hùng không tự biết. Nét chung này không chỉ có ở đây mà còn được nói đến ở nhiều
tác phẩm khác như « Gửi em, cô thanh niên xung phong » của Phạm Tiến Duật, « Khoảng
trời hố bom » của Lâm Thị Mỹ Dạ và truyện ngắn « Mảnh trăng cuối rừng » của Nguyễn
Minh Châu… Tạo thành biểu tượng gương mặt đẹp và đáng yêu của những cô gái mở
đường thời kháng chiến chống Mĩ.
- Qua thực tế chiến đấu, cả ba cô gái đều có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ, lòng
dũng cảm không sợ hi sinh, tình đồng đội gắn bó. Có lệnh là lên đường, bất kể trong tình

263
huống nào, nguy hiểm không từ nan dù phải đối mặt với máy bay và bom đạn quân thù, và
đã lên đường là hoàn thành nhiệm vụ ( d/c – sgk).
+ Nghe Phương Định kể lại một lần phá bom : « tôi một quả bom trên đồi. Nho, hai quả
dưới lòng đường. Chị Thao, một quả dưới cái chân hầm ba-ri-e cũ. Cảnh tượng chiến
trường trở nên « vắng lặng đến phát sợ ». Đến với toạ độ chết, đến với quả bom cần phải
phá nổ (mà không biết nó sẽ nổ vào lúc nào , sự cầu viện tâm linh của cô gái (nhân vật tôi)
giống như một ảo ảnh : « Các anh cao xạ có nhìn thấy chúng tôi không ? » Mặc dù « quen
rồi ». Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần » nhưng cái hồi hộp dường như không hề
thay đổi. Như cái cảm giác chờ bom phát nổ : tất cả đều đứng im, cả gió, cả nhịp tim trong
lồng ngực. Chỉ có chiếc đồng hồ : « Nó chạy, sinh động và nhẹ nhàng đè lên những con số
vĩnh cửu…. ». Quả bom có hai vòng tròn màu vàng nằm lạnh lùng trên một bụi cây khô,
một đầu vùi xuống đất. Thần chết đang đợi chờ. Vỏ quả bom nóng. Định dùng lưỡi xẻng
đào đất, có lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Có lúc Định « rùng mình » vì cảm thấy tại
sao mình lại làm quá chậm thế ! ...Hai mươi phút đã trôi qua. Tiếng còi chị Thao rúc lên,,
Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi vào dây mìn. … tiếng
không khí. Đất rơi lộp bộp. Bom nổ váng óc, ngực đau nhói, đôi mắt cay mãi mới mở ra
được. Mồ hôi thấm vào môi, cát lạo xạo trong miệng. Nguy hiểm, căng thẳng không thể
nào kể xiết… .Chị Thao vấp ngã, Nho bị thương. Bom nổ, hầm sập, chị Thao và Định phải
moi đất bế Nho lên. Máu túa ra, ngấm vào đất »…Định rửa vết thương cho Nho, tiêm
thuốc, pha sữa cho Nho, chị Thao nghẹn ngào….
+ Cuộc sống và chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, nguy hiểm và luôn căng thẳng
nhưng họ vẫn bình tĩnh, chủ động, luôn lạc quan yêu đời. Phương Định cho biết : « Tôi có
nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể…. ».
=>Phải nói rằng trong đoạn văn trả cảnh phá bom trên cao điểm, Lê Minh Khuê đã sử dụng
bút pháp hiện thực để tái hiện lại cảnh phá bom vô cùng nguy hiểm, dựng nên một tượng
đài về khí phách anh hùng lẫm liệt của tổ trinh sát mặt đường từ những con người bằng
xương bằng thịt. Chị Thao, Nho, Định như những ngôi sao xa xôi sáng ngời lên những sắc
xanh trong khói lửa đạn bom. Chiến công thầm lặng của họ bất tử với năm tháng và lòng
người như những nữ anh hùng ngã ba Đồng Lộc :
« Đất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết thương đau
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
Đêm đêm, tâm hồn em toả sáng
Những vì sao ngời chói, lung linh…
(Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ)
- Họ đều là những cô gái trẻ với cuộc sống nội tâm phong phú đáng yêu : dễ cảm
xúc, nhiều mơ ước, hay mơ mộng, dễ vui, dễ buồn. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của
mình, ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm
chép bài hát, Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát… Cả ba đều
chưa có người yêu, đều sống hồn nhiên tươi trẻ. Không lúc nào họ không nhớ về Hà Nội.
Một trận mưa đá bất ngờ trở thành nỗi nhớ : « mà tôi nhó một cái gì đấy, hình như mẹ tôi,

264
cái cửa sổ, hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố ». Nỗi nhớ ấy chính là sự nối
dài, quá khứ, hôm nay và khát vọng mai sau.
- Những kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong tâm hồn trong trẻo, ngây
thơ, dịu dàng. Những xúc cảm hồn nhiên như nguồn sống, điểm tựa, giúp họ thêm vững
vàng, sức mạnh vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua nổi.
« Khoảng trời xanh » trong thơ « Phạm Tiến Duật » và khoảng trời xanh của kí ức như có
sức mạnh vô hình đặc biệt là trong tâm hồn những trí thức trên đường ra trận.
=> Quả thực, đó là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng như không thể
cùng tồn tại : vô cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà vẫn hồn nhiên, vô tư trong
cuộc sống. Những người như họ thật đáng trân trọng biết bao !
b. Nét riêng :
- Mỗi người thể hiện cái chung đó theo cách riêng của mình.
+ Chị Thao, tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết
thực hơn, nhưng cũng không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. « Áo lót của
chị cái nào cũng thêu chỉ màu ».Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái
tăm. Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo bạo. ĐẶc biệt là sự
« bình tĩnh đến phát bực » : máy bay địch đến nhưng chị vẫn « móc bánh quy trong túi,
thong thả nhai ». Có ai ngờ con người dày dạn trước sự sống và cái chết hàng ngày như
thế lại sợ máu, sợ vắt: « thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét ».Và không ai
có thể quên được chị hát : nhạc sai bét, giọng thì chua, chị chăm chép bài hát dù chẳng
thuộc nhạc, giọng lại chua, chị không hát trôi chảy được bài nào nhưng chị lại có ba quyển
sổ dày chép bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài h át.
+ Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn, « trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng », có
« cái cổ tròn và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn » rất dễ thương khiến Phương Định « muốn
bế nó lên tay ». Nho rất thích tắm suối ngay cả khi khúc suối đó đang chứa bom nổ chậm
và rất hồn nhiên – cái hồn nhiên của trẻ thơ : « vừa tắm ở dưới suối lên, cứ quần áo ướt,
Nho ngồi, đòi ăn kẹo ». Hồn nhiên là thế nhưng cô lại bình thản vô cùng khi bị thương :
« Không chết đâu. Đơn vị đang làm đường kia mà. Việc gì phải khiến cho nhiều người lo
lắng ». Ngay cả lúc đau đớn như vậy nhưng gặp mưa đá, Nho vẫn nhổm dậy, môi hé mở
xoè tay xin mấy viên đá mưa : « Nào, mày cho tao mấy viên nữa ». Đặc biệt, khi máy bay
giặc đến thì chiến đấu rất dũng cảm, hành động thật nhanh gọn : « Nho cuộn tròn cái gối,
cất nhanh vào túi », Nho quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu » … Và trong
một lần phá bom, cô đã bị sập hầm, đất phủ kín lên người. Có lẽ với những người con gái
ấy, sự sống luôn cao hơn cái chết.
+ Phương Định là cô gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng ta. Phương Định cũng
trẻ trung như Nho là một cô học sinh thành phố xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn, giàu
yêu thương đồng đội. Cô rất nhạy cảm và hồn nhiên, thích mơ mộng và hay sống với
những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô từ về gia đình và về thành phố của mình. (d/c). Ở đoạn
cuối truyện, sau khi trận mưa đá tạnh, là cả một dòng thác kỉ niệm về gia đình, về thành
phố trào lên và xoáy mạnh như sóng trong tâm trí cô gái. Có thể nói đây là những nét riêng
của các cô gái trẻ Hà Nội vào chiến trường tham gia đánh giặc, tuy gian khổ nhưng vẫn giữ
được cái phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng yêu.

265
 Những nét riêng đó đã làm cho các nhân vật sống hơn và cũng đáng yêu hơn. Trái
tim đỏ rực của họ là « những ngôi sao xa xôi » mãi mãi lung linh, toả sáng.
C. Kết luận.
- Chiến tranh đã qua đi, sau hơn ba mươi năm, nhưng đọc truyện « Những ngôi sao xa
xôi » của Lê Minh Khuê, ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước.
Nhà văn khiến lòng ta sống lại hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến công phi thường của tổ
trinh sát mặt đường, của Định, của Nho, của Thao, của hàng ngàn, hàng vạn cô thanh niên
xung phong thời chống Mĩ. Chiến công thầm lặng của họ mãi mãi là một bài ca bất tử.
----------------------------------------------

Chuyªn ®Ò 5: V¨n nghÞ luËn vµ kÞch

BÀN VỀ ĐỌC SÁCH


-Chu Quang Tiềm-

A- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1- Tác giả :
- Chu Quang Tiềm (1897-1986) là nhà mĩ học và lí luận văn học nổi tiếng của Trung
Quốc. Trong những bài viết của mình ông đã nhiều lần bàn về chuyện đọc sách. Riêng bài
viết này là kết quả của quá trình tích luỹ kinh nghiệm, dày công suy nghĩ, là những lời bàn
đầy tâm huyết của người đi trước muốn truyền lại cho các thế hệ sau.
2- Tác phẩm :
a) Nội dung :
- Bàn về đọc sách là bài viết vừa có lí lẽ xác đáng vừa giàu kinh nghiệm thực tế. Văn
bản được trích có bố cục chặt chẽ, hợp lí. Sau khi vào bài, tác giả khẳng định tầm quan
trọng, ý nghĩa cần thiết của việc đọc sách. Tiếp đó bài viết nêu ra các khó khăn, nguy hại
dễ gặp của việc đọc sách trong tình hình hiện nay. Phần chính của bài viết dành để bàn về
phương pháp đọc sách (bao gồm cách lựa chọn sách cần đọc và cách đọc thế nào cho có
hiệu quả).
- Bằng sự phân tích ngắn gọn rõ ràng bài viết đã làm sáng tỏ ý nghĩa của sách trên
con đường phát triển của nhân loại. Sách đã ghi chép, cô đúc và lưu truyền mọi tri thức,
mọi thành tựu mà loài người tìm tòi, tích luỹ được qua từng thời đại, trở thành kho tàng
của cải tinh thần quý báu. Những cuốn sách có giá trị có thể xem là những cột mốc trên
con đường phát triển học thuật của nhân loại. Vì sách có ý nghĩa quan trọng như thế nên
đọc sách là một con đường tích luỹ, nâng cao vốn tri thức rất cơ bản của mỗi người.
- Trong bối cảnh hiện nay, sách vở ngày càng nhiều thì việc đọc càng phải có
phương pháp. Chu Quang Tiềm đã bàn luận, phân tích một cách có lí lẽ, có thực tế rằng
cần biết lựa chọn sách để đọc, kết hợp giữa đọc rộng với đọc sâu, giữa đọc sách thường

266
thức với đọc sách chuyên môn. Việc đọc sách không thể tuỳ hứng mà phải có kế hoạch, có
mục đích kiên định, phải vừa đọc vừa nghiền ngẫm.
b) Nghệ thuật
- Bàn về đọc sách là tác phẩm nghị luận có tính thuyết phục, sức hấp dẫn cao bởi
cách trình bày vừa đạt lí vừa thấu tình, bởi lời văn giàu hình ảnh nhiều chỗ tác giả dùng
cách nói ví von thật cụ thể và thú vị.
- Bố cục bài viết chặt chẽ, hợp lí dẫn dắt tự nhiên.
c) Chủ đề
Đọc sách là con đường quan trọng để tích luỹ nâng cao học vấn. Cần kết hợp giữa
đọc rộng với đọc sâu, giữa đọc sách thường thức với đọc sách chuyên môn. Việc đọc sách
không thể tuỳ hứng mà phải có kế hoạch, có mục đích kiên định, phải vừa đọc vừa nghiền
ngẫm.
B- CÁC DẠNG ĐỀ
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 1 :
Vấn đề nghị luận của bài viết này là gì ? Hãy tóm tắt các luận điểm của tác giả khi
triển khai vấn đề ấy ?
Gợi ý :
- Vấn đề nghị luận : Bàn về đọc sách
- Luận điểm :
+ Tầm quan trọng, ý nghĩa cần thiết của việc đọc sách
-> Sách có ý nghĩa quan trọng trên con đường phát triển của nhân loại
-> Đọc sách là một con đường tích luỹ, nâng cao vốn tri thức.
+ Nêu các khó khăn, các thiên hướng sai lạc dễ mắc phải của việc đọc sách trong
tình hình hiện nay
-> Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu.
-> Sách nhiều dễ khiến ngược đọc lạc hướng
+ Bàn về phương pháp đọc sách
-> Cách chọn sách
-> Cách đọc sách
Đề 2 :
Tóm tắt nội dung chính bài viết “Bàn về đọc sách” của Chu Quang Tiềm trong
khoảng 2 đến 3 câu ?
Gợi ý :
Bài viết nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của việc đọc sách, các khó khăn nguy hại dễ
gặp của việc đọc sách trong tình hình hiện nay. Từ đó đưa ra cách lựa chọn sách cần đọc và
cách đọc như thế nào cho hiệu quả.

2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm

267
Đề 1 :
Qua lời bàn của Chu Quang Tiềm, em thấy sách có tầm quan trọng như thế nào ?
Việc đọc sách có ý nghĩa gì ?
Gợi ý : Học sinh phát biểu nhận thức của mình về ý nghĩa của việc đọc sách trên con
đường phát triển của nhân loại viết thành bài văn ngắn đảm bảo các ý chính sau:
- Sách đã ghi chép cô đúc và lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu mà loài người đã
tìm tòi, tích luỹ qua từng thời đại.
- Những cuốn sách có giá trị có thể xem là những cột mốc trên con đường phát triển
học thuật của nhân loại.
- Sách trở thành kho tàng quý báu của di sản tinh thần mà loài người thu lượm, suy
ngẫm suốt mấy nghìn năm nay.
- Vì ý nghĩa quan trọng của sách nên đọc sách là một con đờng tích luỹ nâng cao tri
thức.
C- BÀI TẬP VỀ NHÀ :
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 2 :
Phân tích lời bàn của Chu Quang Tiềm về phương pháp đọc sách (bao gồm cách
lựa chọn sách để đọc và cách đọc).
Gợi ý : Học sinh đọc kỹ văn bản từ chỗ “Đọc sách không cốt lấy nhiều” cho đến hết. Suy
nghĩ và phân tích theo các ý chính sau :
- Theo tác giả bài viết cần lựa chọn sách để đọc như thế nào, mối quan hệ giữa loại
sách thông thường, loại sách ở lĩnh vực gần gũi, kế cận với chuyên môn của mình và loại
sách tài liệu cơ bản, chuyên sâu ra sao ?
- Lời bàn thật cụ thể của tác giả về cách đọc sách (thái độ, tinh thần, phương pháp
khi đọc).
2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm :
Đề 2 :
Nhận xét về cách lập luận, trình bày của tác giả bài viết. Phát biểu thu hoạch của
em về cách khẳng định, triển khai vấn đề nghị luận sau khi đọc – hiểu văn bản Bàn về đọc
sách ?
Gợi ý :
HS viết thành bài văn đảm bảo được các ý chính sau :
- Nội dung lời bàn và cách trình bày vừa đạt lý vừa thấu tình
- Bố cục bài viết chặt chẽ, hợp lý.
- Sự kết hợp giữa lí lẽ, nhận định với kinh nghiệm, dẫn chứng thực tế.
- Giọng điệu của tác giả cùng cách viết giàu hình ảnh (đặc biệt là lối ví von thật cụ
thể và thú vị).
=> Bài nghị luận có tính thuyết phục, sức hấp dẫn cao.
- Trình bày thu hoạch của mình về cách khẳng định, triển khai luận điểm trong một
bài văn nghị luận (làm thế nào để luận điểm được nổi bật, được giải thích, chứng minh rõ
ràng và giàu tính thuyết phục hấp dẫn).

268
------------------------------------------

TIẾNG NÓI CỦA VĂN NGHỆ


-Nguyễn Đình Thi-

A- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1- Tác giả :
- Nguyễn Đình Thi (1924-2003) là một nghệ sĩ tài năng về nhiều mặt, không chỉ nổi
tiếng với những tác phẩm thơ, văn nhạc kịch ông còn là một cây bút lí luận phê bình sắc
sảo. Ông tham gia vào các hoạt động văn nghệ từ rất sớm, trên mỗi lĩnh vực đều để lại
những tác phẩm nổi tiếng..
- Sáng tác của Nguyễn Đình Thi có nhiều thể loại : thơ, nhạc, văn xuôi, kịch, tiểu
luận phê bình ... Cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của ông gắn bó chặt chẽ với cụôc đời hoạt
động cách mạng, đặc biệt trên mặt trận văn nghệ.
- Các tác phẩm chính : Xung kích (tiểu thuyết) Thu đông năm nay (truyện), Người
chiến sĩ (thơ), Mấy vấn đề văn học (tiểu luận), Bên bờ sông Lô (truyện ngắn), Một số
vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay (tiểu luận), Con nai đen (kịch), Vỡ
bờ (tiểu thuyết) ...
- Tác giả đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
- Tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” đựoc viết 1948, in trong cuốn Mấy vấn đề
văn học (lí luận phê bình, xuất bản 1956), có nội dung lí luận sâu sắc, được thể hiện qua
những rung cảm chân thành của một trái tim nghệ sĩ.
2- Tác phẩm :
a) Nội dung :
- Tiếng nói của văn nghệ được Nguyễn Đình Thi viết năm 1948 thời kỳ đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp. Những năm này chúng ta đang xây dựng một nền văn học nghệ
thuật mới gắn bó với đời sồng kháng chiến vĩ đại của nhân dân, đậm đà tính dân tộc đại
chúng. Vì thế nội dung và sức mạnh kỳ diệu của văn nghệ thường được tác giả gắn với đời
sống phong phú, sôi nổi của quần chúng nhân dân đang chiến đấu và sản xuất. Tiếng nói
của văn nghệ có nội dung lí luận sâu sắc, thể hiện nhiệt tình những rung cảm chân thành
của người nghệ sĩ kháng chiến Nguyễn Đình Thi.
- Bài văn có hệ thống luận điểm như sau :
+ Nội dung tiếng nói của văn nghệ : Cùng với thực tại khách quan là nhận thức mới
mẻ, là tư tưởng, tình cảm của cá nhân nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn là một cách
sống của tâm hồn, từ đó làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ.
+ Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết đối với cuộc sống con người, nhất là trong
hoàn cảnh chiến đấu, sản xuất vô cùng gian khổ của dân tộc.
+ Văn nghệ có khả năng cảm hóa, sức mạnh lôi cuốn của nó thật là kỳ diệu, bởi đó
là tiếng nói của tình cảm, tác động tới mỗi con người qua những rung cảm sâu xa tự trái
tim.

269
b) Nghệ thuật
Là bài văn nghị luận đặc sắc :
- Bố cục chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự nhiên.
- Cách viết giàu hình ảnh, có nhiều dẫn chứng về thơ văn, về câu chuyện thực tế để
khẳng định các ý kiến, các nhận định tăng thêm sức hấp dẫn cho bài tiểu luện.
- Giọng văn chân thành, say sưa, giàu nhiệt huyết, đặc biệt ở phần cuối.
c) Chủ đề
Nguyễn Đình Thi đã khẳng định văn nghệ là mối dây đồng cảm kỳ diệu giữa nghệ sĩ
với bạn đọc qua những rung động mãnh liệt, sâu xa của trái tim. Văn nghệ giúp cho con
người được sống phong phú hơn và tự hoàn thiện nhân cách tâm hồn mình.
B- CÁC DẠNG ĐỀ
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 1 : Vì sao con người cần đến tiếng nói của văn nghệ ?
Gợi ý : HS nêu sự cần thiết của văn nghệ đối với đời sống con người. Cụ thể :
- Văn nghệ giúp chúng ta được sống đầy đủ hơn, phong phú hơn với cuộc đời và với
chính mình. “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng, không
bao giờ nhòa đi, ánh sáng ấy bấy giờ biến thành của ta, và chiếu tỏa lên mọi việc chúng ta
sống, mọi con người ta gặp, làm cho ta thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ”.
- Trong trường hợp con người bị ngăn cách với cuộc sống, tiếng nói của văn nghệ
càng là sợi dây buộc chặt họ với cuộc đời thường bên ngoài, với tất cả những sự sống, hoạt
động, những vui buồn gần gũi.
- Văn nghệ góp phần làm tươi mát sinh hoạt khắc khổ hàng ngày, giữ cho “đời cứ
tươi”. Tác phẩm văn nghệ hay giúp cho con người vui lên, biết rung cảm và ước mơ trong
cuộc đời còn lắm vất vả cực nhọc.
Đề 2 : Theo em nếu không có văn nghệ đời sống con người sẽ ra sao ?
Gợi ý :Thực chất đây là câu hỏi về tác dụng, ý nghĩa của văn nghệ đối với con người
nhưng từ tình huống giả định “nếu không có văn nghệ ...”. Dựa vào tác dụng và ý nghĩa
của văn nghệ đối với con người mà Nguyễn Đình Thi đã nêu để phân tích :
- Nhận thức, đời sống tinh thần của con người sẽ ra sao nếu không có văn nghệ ?
- Nếu không có văn nghệ thì mối quan hệ giữa con người với con người với cuộc
sống sẽ ra sao ?
- Văn nghệ có tác dụng gì đối với đời sống sinh hoạt khắc khổ hàng ngày, đối với
tâm hồn cảm xúc của chúng ta ?
2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
Đề 1 :
Tóm tắt hệ thống luận điểm và nhận xét về bố cục của văn bản Tiếng nói của văn
nghệ ?
Gợi ý :
- Bài văn có hệ thống luận điểm như sau :

270
+ Nội dung tiếng nói của văn nghệ : Cùng với thực tại khách quan là nhận thức mới
mẻ, là tư tưởng, tình cảm của cá nhân nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm nghệ thuật lớn là một cách
sống của tâm hồn, từ đó làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ.
+ Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết đối với cuộc sống con người, nhất là trong
hoàn cảnh chiến đấu, sản xuất vô cùng gian khổ của dân tộc.
+ Văn nghệ có khả năng cảm hóa, sức mạnh lôi cuốn của nó thật là kỳ diệu, bởi đó
là tiếng nói của tình cảm, tác động tới mỗi con người qua những rung cảm sâu xa tự trái
tim.
- Bố cục chặt chẽ, hợp lí, dẫn dắt tự nhiên. Các luận điểm vừa có sự giải thích cho
nhau vừa nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo hướng càng lúc càng phân tích sâu sức
mạnh đặc trưng của văn nghệ.
C- BÀI TẬP VỀ NHÀ :
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 2 :
Tác phẩm nghệ thuật đến với người đọc, người xem bằng cách nào mà có khả năng
kỳ diệu đến như vây ?
Gợi ý : Học sinh cần phân tích con đường văn nghệ đến với người đọc và khả năng kỳ
diệu của nó. Cụ thể các ý chính sau :
- Sức mạnh riêng của văn nghệ bắt nguồn từ nội dung của nó và con đường mà nó
đến với người đọc, người nghe.
- Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Tác phẩm văn nghệ chứa đựng tình yêu, ghét,
nỗi vui, buồn của con người trong đời sống sinh động. Tư tưởng của nghệ thuật không khô
khan, trìu tượng mà lắng sâu, thấm vào những cảm xúc. Từ đó tác phẩm văn nghệ lay động
cảm xúc đi vào nhận thức, tâm hồn chúng ta qua con đường tình cảm ...
- Khi tác động bằng nội dung, cách thức đặc biệt ấy, văn nghệ góp phần giúp mọi
người tự nhận thức mình, tự xây dựng mình. Như vậy văn nghệ thực hiện các chức năng
của nó một cách tự nhiên, có hiệu quả lâu bền sâu sắc.
2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm :
Đề 1 :
Em hãy phân tích nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ.
Gợi ý : Học sinh viết thành bài văn đảm bảo các ý chính sau :
- Tác phẩm văn nghệ phản ánh đời sống thông qua cái nhìn của người nghệ sĩ. Văn
nghệ tập trung khám phá, thể hiện chiều sâu tính cách, số phận con người, thế giới bên
trong của con người. Nội dung tác phẩm văn nghệ còn là tư tưởng, tấm lòng của nghệ sĩ
gửi gắm trong đó.
- Tác phẩm văn nghệ không cất lên những lời thuyết lí khô khan mà chứa đựng tất
cả những say sưa, vui buồn, yêu ghét, mơ mộng của nghệ sĩ. Nó mang đến cho chúng ta
bao rung động, bao ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng rất quen thuộc.
- Nội dung của văn nghệ còn là rung cảm và nhận thức của từng người tiếp nhận. Nó
sẽ được mở rộng, phát huy vô tận qua từng thế hệ người đọc, người xem.

271
Tóm lại, nội dung chủ yếu của văn nghệ là hiện thực mang tính cụ thể, sinh động, là
đời sống tình cảm của con người qua cái nhìn và tình cảm có tính cá nhân của người nghệ
sĩ.
Đề 2 :
Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác
phẩm ấy đối với mình.
Gợi ý : Đây là bài tập nhằm phát huy năng lực cảm thụ văn học, sở thích văn học của mỗi
cá nhân, vì vậy không áp đặt tác phẩm văn nghệ cụ thể để học sinh tự lựa chọn ảnh, tranh,
phim, truyện, thơ ... chỉ yêu cầu học sinh nêu được nội dung, phân tích ý nghĩa, tác động
của tác phẩm ấy đối với mình.
-----------------------------------------------

CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỶ MỚI


-Vũ Khoan-

A- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1- Tác giả :
Vũ Khoan là nhà ngoại giao, nhiều năm làm thứ trưởng Bộ Ngoại Giao, Bộ trưởng
Bộ Thương mại, Nguyên là Phó Thủ tướng Chính phủ.
2- Tác phẩm :
a) Một số điểm cần chú ý về hoàn cảnh ra đời bài viết
- Bài viết “Chuẩn bị hành trang” của Vũ Khoan đăng trên Tạp chí Tia sáng năm
2001 và được in vào tập “Một góc nhìn của trí thức” NXB Trẻ 2002. Khi đưa vào SGK
người biên soạn đặt nhan đề bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới”.
- “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” là bài nghị luận của Phó Thủ tướng Vũ
Khoan đề cập tới những vấn đề vừa có ý nghĩa thời sự, cấp thiết vừa có ý nghĩa lâu dài.
Tác giả viết bài này đầu năm 2001, khi đất nước ta cùng toàn thế giới bước vào năm đầu
tiên của thế kỷ mới. Ở thời điểm chuyển giao thời gian đặc biệt có ý nghĩa, người ta
thường có nhu cầu nhìn lại, kiểm điểm lại mình trên chặng đường đã qua và chuẩn bị hành
trang đi tiếp chặng đường mới. Đối với dân tộc ta, bước vào thế kỷ mới cũng là tiếp tục
một hành trình đầy triển vọng của công cuộc đổi mới toàn diện, nhằm vượt qua tình trạng
chậm phát triển, nghèo nàn, lạc hậu, đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác đây
cũng là con đường đầy khó khăn, thách thức, đòi hỏi mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ phải
thực sự đổi mới vươn lên mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của thời đại.
b) Nội dung
* Đây là bài nghị luận về một đề tài vừa cấp thiết vừa có tính lâu dài, vừa là của đất
nước vừa là của từng người (trước hết là các bạn trẻ), vừa là một bài xã luận, vừa là một
văn bản chỉ đạo, vừa là một ý kiến riêng, vừa là ý kiến của vị lãnh đạo cấp cao, vừa có tính
chất vấn đề đời sống, vừa có tính chất vấn đề tư tưởng, đạo lí đặc biệt bài văn chứa đựng
một triết lý nhân văn có giá trị muôn thuở : “Con người quyết định tất cả”.

272
* Luận điểm cơ bản của bài (vấn đề nghị luận) được nêu ngay từ đầu để làm căn cứ
triển khai “Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt
Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”.
* Hệ thống luận cứ của bài văn :
(1) Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân
con người.
(2) Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất
nước.
(3) Những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam cần được nhận rõ khi bước
vào nền kinh tế trong thế kỷ mới.
- Đây là luận cứ trung tâm, quan trọng nhất của cả bài nên được tác giả triển khai cụ
thể và phân tích thấu đáo.
* Kết luận :
- Từ ba luận cứ được triển khai rất chặt chẽ nói tên tác giả kết thúc bài viết bằng việc
nêu lên những yêu cầu đối với thế hệ trẻ : Bước vào thế kỷ mới, mỗi người Việt Nam đặc
biệt là thế hệ trẻ cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, rèn cho mình
những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ để đáp ứng nhiệm vụ đưa đất nước đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
b) Nghệ thuật
- Bài nghị luận mẫu mực đã phân tích một cách thuyết phục, có lí có tình những
điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam. Tác giả không dùng cách nói theo kiểu
sách vở, uyên bác mà diễn đạt giản dị, thiết thực dựa trên cơ sở thực tiễn, có ví dụ, ví von
cụ thể, có hình ảnh. Đặc biệt cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ “Nước đến chân mới nhảy”,
“Liệu cơm gắp mắm”. “Trâu buộc ghét trâu ăn”, “Bóc ngắn cắn dài”, ...Vì thế bài viết sâu
sắc mà dễ hiểu.
- Khi nêu ưu, nhược điểm của người Việt Nam, tác giả đã không làm một phép liệt
kê đơn giản từ ưu điểm đến nhược điểm mà cứ mỗi khi nêu một ưu điểm tác giả lại đề cập
đến một nhược điểm.
B- CÁC DẠNG ĐỀ :
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 1 :
Giải thích vì sao “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” là văn bản nhật dụng?
Gợi ý :
* Dựa vào hoàn cảnh ra đời và nội dung của bài viết để giải thích.
* Văn bản có nội dung mang tính cập nhật đối với cuộc sống hiện thời. Đề tài là một vấn
đề có tính cấp thiết đối với đời sống xã hội hiện nay. Luận điểm cơ bản của bài (vấn đề
nghị luận) được nêu ngay từ đầu để làm căn cứ triển khai “Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra
những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào
nền kinh tế mới”.

273
Đây là bài nghị luận về một đề tài vừa cấp thiết vừa có tính lâu dài, vừa là của đất
nước vừa là của từng người (trước hết là các bạn trẻ), vừa là một bài xã luận, vừa là một
văn bản chỉ đạo, vừa là một ý kiến riêng, vừa là ý kiến của vị lãnh đạo cấp cao, vừa có tính
chất vấn đề đời sống, vừa có tính chất vấn đề tư tưởng, đạo lí đặc biệt bài văn chứa đựng
một triết lý nhân văn có giá trị muôn thuở : “Con người quyết định tất cả”.
Đề 2 :
“Hành trang” nghĩa là đồ dùng mang theo và các thứ trang bị khi đi xa, vậy từ
“Hành trang” được Vũ Khoan dùng trong “Chuẩn bị hành trang bước vào thế kỷ mới” có
nghĩa như vậy không ? Vì sao ?
Gợi ý :
“Hành trang” được Vũ Khoan dùng trong bài viết có nghĩa là hành trang tinh thần
như tri thức, kỹ năng, thói quen ... để đi vào một thế kỷ mới. Như vậy nghĩa từ “hành
trang” trong bài rộng hơn so với nghĩa từ “hành trang” nhưng trên cơ sở nét nghĩa giống
nhau là các thứ trang bị khi đi xa, khác nhau vật dụng vật chất và vật dụng tinh thần. Đây
là sự phát triển nghĩa của từ theo phương thức ẩn dụ.
2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
Đề 1 :
Dựa vào bố cục văn bản hãy nêu dàn ý chi tiết của bài viết và nhận xét cách trình
bày, lập luận của tác giả.
Gợi ý :
* Đặt vấn đề : Luận điểm cơ bản “Lớp trẻ ... kinh tế mới” (3 cầu đầu)
* Giải quyết vấn đề :
- Luận cứ 1 : Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị
bản thân con người.
+ Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử.
+ Trong thời kỳ nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, vai trò của con người lại
càng nổi trội.
- Luận cứ 2 : Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề
của đất nước.
+ Một thế giới mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, sự giao thoa, hội
nhập giữa các nền kinh tế ngày càng sâu rộng.
+ Nước ta phải đồng thời giải quyết ba nhiệm vcụ thoát khỏi tình trạng nghèo nàn
lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp ; đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và đồng
thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế trí thức.
- Luận cứ 3 : Những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam cần được nhận rõ
khi bước vào nền kinh tế trong thế kỷ mới.
+ Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng
thực hành.
+ Cần cù sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình
công nghệ, chưa quen với cường độ khẩn trương.

274
+ Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc, nhất là trong công cuộc chiến đấu chống ngoại
xâm, nhưng lại thường đố kỵ nhau trong làm ăn và trong cuộc sống thường ngày.
+ Bản tính thích ứng nhanh, nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen và nếp nghĩ,
kỳ thị kinh doanh, quen với bao cấp, thói sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức, thói “khôn
vặt”, ít giữ chữ “tín”.
* Kết thúc vấn đề :
Những yêu cầu đối với thế hệ trẻ : Bước vào thế kỷ mới, mỗi người Việt Nam đặc
biệt là thế hệ trẻ cần phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm yếu, rèn cho mình
những thói quen tốt ngay từ những việc nhỏ để đáp ứng nhiệm vụ đưa đất nước đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đề 2 :
Em hãy trình bày cụ thể cách nêu những ưu nhược điểm của người Việt Nam của tác
giả và phân tích ngắn gọn tác dụng của cách nêu đó ?
Gợi ý :
+ Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng
thực hành.
+ Cần cù sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình
công nghệ, chưa quen với cường độ khẩn trương.
+ Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc, nhất là trong công cuộc chiến đấu chống ngoại
xâm, nhưng lại thường đố kỵ nhau trong làm ăn và trong cuộc sống thường ngày.
+ Bản tính thích ứng nhanh, nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen và nếp nghĩ,
kỳ thị kinh doanh, quen với bao cấp, thói sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức, thói “khôn
vặt”, ít giữ chữ “tín”.
Bài viết này đã mang đến cho bạn đọc cảm giác rất bất ngờ. Tác giả không ca ngợi
một chiều, cũng không chỉ toàn phê phán một cách cực đoan mà nhìn nhận song song, đối
chiếu và đánh giá những điểm mạnh cũng như những điểm yếu của người Việt Nam trong
quan hệ với công việc, trong yêu cầu của sự phát triển xã hội. Đó là sự đánh giá khách
quan và khoa học xuất phát từ thiện chí của tác giả muốn để chúng ta nhìn nhận về mình
một cách đúng đắn chân thực, ý thức được những mặt tốt cũng như mặt chưa tốt của mình
để phát huy hoặc sửa đổi.
C- BÀI TẬP VỀ NHÀ :
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 1 :
Trong những hành trang cần chuẩn bị để bước vào thế kỷ mới, theo tác giả bài viết
này điều gì có ý nghĩa quan trọng nhất ? Suy nghĩ của em về quan niệm ấy?
Gợi ý :
- Câu nêu vấn đề ở phần giải quyết vấn đề (luận cứ 1) “Trong những hành trang ấy,
có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất”.
- Căn cứ vào đặc điểm phát triển của thời đại hiện nay, vai trò của chủ thể con người
trong một xã hội trình bày suy nghĩ của mình về quan niệm ấy.

275
2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm :
Đề 1 :
Nêu những dẫn chứng trong thực tế xã hội và nhà trường để làm rõ một số điểm
mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam : cần cù, thông minh, sáng tạo; kém khả năng
thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn. Bản thân em có những
điểm mạnh và điểm yếu nào ? Phương hướng khắc phục những điểm yếu ?
Gợi ý :
- HS suy nghĩ nêu dẫn chứng thực tế
- Liên hệ bản thân và nêu phương hướng khắc phục.
Đề 2 : (dạng bài tập củng cố, hệ thống kiến thức)
Tổng kết nội dung bài học “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” bằng sơ đồ?
Gợi ý :
CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỶ
MỚI
(Vũ Khoan)

Đặt vấn Giải quyết vấn đề Kết thúc vấn


đề đề

Lớp trẻ Việt


Nam cần LC1 : Chuẩn bị hành trang vào Mỗi người VN
nhận ra thế kỷ mới thì quan trọng nhất đặc biệt là thế hệ
những cái là sự chuẩn bị bản thân con trẻ cần phát huy
mạnh, cái yếu người những điểm
của con mạnh, khắc phục
người Việt những điểm yếu,
Nam để rèn LC2 : Bối cảnh của thế giới rèn cho mình
những thói hiện nay và những mục tiêu, những thói quen
quen tốt khi nhiệm vụ nặng nề của đất nước. tốt ngay từ
bước vào nền những việc nhỏ
để đáp ứng
nhiệm vụ đưa
LC3 : Những cái mạnh, cái yếu
của con người Việt Nam cần
được nhận rõ khi bước vào nền
kinh tế trong thế kỷ mới.

----------------------------------------------

276
TỔNG KẾT PHẦN VĂN BẢN NHẬT DỤNG

A- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1- Một số vấn đề về khái niệm và đặc điểm, nội dung của văn bản nhật dụng
a) Văn bản nhật dụng không phải là khái niệm về thể loại hay kiểu văn bản mà để
chỉ những văn bản có nội dung mang tính cập nhật đối với đời sống hiện thời. Đề tài của
văn bản nhật dụng phải là những vấn đề có tính cấp thiết đối với đời sống xã hội và con
người hiện nay. Tuy nhiên đó cũng là vấn đề đã có ý nghĩa lâu dài chứ không phải chỉ là
nhất thời. Vì thế, phần văn bản nhật dụng là một bộ phận thể hiện rõ và trực tiếp nhất sự
gắn bó với đời sống của môn ngữ văn trong nhà trường.
b) Hình thức văn bản nhật dụng: có thể thuộc nhiều thể loại và kiểu văn bản: truyện
ký, báo chí, nghị luận, thư từ, có thể cả văn bản hành chính, văn kiện chính trị. Mỗi văn
bản nhật dụng có thể sử dụng một hoặc nhiều phương thức biểu đạt phối hợp với nhau : tự
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, lập luận.
c) Nội dung văn bản nhật dụng trong chương trình Ngữ văn THCS :
- Lớp 6 : Về di tích lịch sử (Cầu Long Biên – Chứng nhân lịch sử), về danh lam
thắng cảnh (Động Phong Nha), về quan hệ giữa thiên nhiên và con người (Bức thư của thủ
lĩnh da đỏ).
- Lớp 7 : Về giáo dục, vai trò của người mẹ (Cổng trường mở ra – Mẹ tôi), về gia
đình và trẻ em (Cuộc chia tay của những con búp bê), về di sản văn hóa tinh thần (Ca Huế
trên sông Hương).
- Lớp 8 : Về môi trường (Thông tin về ngày trái đất năm 2000), tệ nạn ma túy, thuốc
lá (Ôn dịch, thuốc lá), dân số và tương lai loài người (Bài toán dân số).
- Lớp 9 : Hội nhập với thế giới và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc (Phong cách Hồ
Chí Minh), về chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình (Đấu tranh cho một thế giới hòa bình),
về quyền con người (Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển
của trẻ em), yêu cầu thế hệ trẻ phải thực sự đổi mới vươn lên mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu
của thời đại (Chuẩn bị hành trang bước vào thế kỷ mới).
2- Phương pháp học văn bản nhật dụng
- Lưu ý đến chú thích về các sự kiện có liên quan đến vấn đề đặt ra trong văn bản
- Liên hệ vấn đề được đặt ra với cuộc sống bản thên cũng như đời sống cộng đồng.
- Cần có ý kiến quan điểm riêng ở một số trường hợp cụ thể và đề xuất những kiến
nghị và giải pháp.
- Vận dụng các môn học khác để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong văn bản nhật
dụng.
- Cần căn cứ vào đặc điểm hình thức của văn bản và phương thức biểu đạt trong lúc
phân tích nội dung.
B- CÁC DẠNG ĐỀ
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 1 :

277
Hãy nêu tên các văn bản nhật dụng đã học theo từng thể loại và kiểu văn bản :
thuyết minh, thư từ, truyện ngắn, nghị luận ?
Gợi ý :
+ Thuyết minh : Động Phong Nha, Ca Huế trên sông Hương.
+ Thư từ : Bức thư của thủ lĩnh da đỏ.
+ Truyện ngắn : Cuộc chia tay của những con búp bê
+ Nghị luận : Phong cách Hồ Chí Minh, Đấu tranh cho một thế giới hòa bình.
2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm
Đề 1 :
Chọn ra một văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn THCS, chỉ ra sự phối hợp các
phương thức biểu đạt trong đó và tác dụng của sự phối hợp ấy ?
Gợi ý : Học sinh chọn một trong những văn bản sau để xác định và phân tích tác dụng của
các phương thức biểu đạt :
- Cầu Long Biên – Chứng nhân lịch sử : kết hợp miêu tả, thuyết minh, biểu cảm.
- Bức thư thủ lĩnh da đỏ : kết hợp miêu tả, thuyết minh, biểu cảm.
- Đấu tranh cho một thế giới hòa bình : kết hợp nghị luận, biểu cảm.
- Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới : kết hợp nghị luận, miêu tả.
C- BÀI TẬP VỀ NHÀ :
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
Đề 2 :
Em hiểu tính cập nhật của văn bản nhật dụng chủ yếu là gì ?
Gợi ý :
- Cập nhật có nghĩa là kịp thời, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày,
cuộc sống hiện tại. Tính cập nhật thể hiện rõ nhất ở chức năng và đề tài : đề cập, bàn luận,
thuyết minh, tường thuật, miêu tả, đánh giá ... những vấn đề, hiện tượng ... gần gũi bức
thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng.
2- Dạng đề 5 hoặc 7 điểm :
Đề 2 :
Em hãy tìm trong các báo hoặc tạp chí bài viết về các vấn đề có tính cập nhật như :
môi trường, gia đình, nhà trường, quyền trẻ em ... và giới thiệu tóm tắt nội dung hai bài
viết đó ?
Gợi ý :
- HS có thể tìm ở các mục Diễn đàn (báo Nhân dân), Cùng bàn luận (Báo Quân đội
nhân dân), các trang về văn hóa – xã hội, giáo dục (báo Giáo dục và thời đại) chọn bài
ngắn gọn có nội dung đề cập tới các vấn đề nêu trên và tóm tắt nội dung.

------------------------------------------

KỊCH “BẮC SƠN”

278
-Nguyễn Huy Tưởng-

A- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1- Tác giả:
Nguyễn Huy Tưởng(1912-1960) quê ở huyện Đông Anh – Hà Nội, là nhà văn, nhà
viết kịch, đã có tác phẩm được chú ý từ trước năm 1945. Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
thường khai thác đề tài lịch sử và cách mạng, đề cập đến những vấn đề trọng đại của vận
mệnh dân tộc và xây dựng những hình tượng anh hùng.
- Năm 1996 ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật.
2- Tác phẩm
a) Nội dung
* Giới thiệu về loại hình kịch và các thể kịch : thuộc loại hình nghệ thuật sân khấu.
Phương thức thể hiện là bằng ngôn ngữ trực tiếp (đối thoại, độc thoại) và hành động nhân
vật. Kịch phản ảnh đời sống qua những mâu thuẫn, xung đột thể hiện ra thành hành động
kịch.
- Các thể loại kịch : ca kịch, kịch thơ, kịch nói, bi kịch, chính kịch, kịch ngắn, kịch
dài ...
- Cấu trúc một vở kịch : hồi, lớp (cảnh); thời gian và không gian trong kịch.
* Bắc Sơn là vở kịch nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, là tác phẩm mở đầu
của kịch nói cách mạng. Tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu về ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn và sức mạnh cảm hóa của cách mạng với quần chúng.
- Tóm tắt vở kịch : SGK 165.
- Đoạn trích hồi 4 của vở kịch Bắc Sơn : hai lớp kịch tập trung vào một tình huống
bất ngờ để bộc lộ rõ xung đột kịch và thể hiện bản chất, tính cách của bốn nhân vật : Ngọc,
Thơm, Thái, Cửu. Qua một tình huống bất ngờ, vở kịch đã khẳng định chính nghĩa của
cách mạng có sức cảm hóa cả nhưng người ở tầng lớp trung gian, ngay cả khi phong trào
cách mạng đang bị địch đàn áp.
b) Nghệ thuật
Đoạn trích khẳng định nghệ thuật sáng tạo tình huống để bộc lộ xung đột, tổ chức
đối thoại, thể hiện tâm lí và tính cách nhân vật của tác giả.
c) Chủ đề
Khẳng định chính nghĩa của cách mạng có sức cảm hóa cả nhưng người ở tầng lớp
trung gian, ngay cả khi phong trào cách mạng đang bị địch đàn áp.
B. CÁC DẠNG ĐỀ:

279
1. Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
* Đề 1: Tóm tắt nội dung vở kịch “Bắc Sơn”của ( Nguyễn Huy Tưởng).
* Gợi ý:
Học sinh trình bày tóm tắt theo SGK 165 (Vở kịch lấy bối cảnh là .... Ngọc trúng
đạn của quân Pháp và chết).
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:
* Đề 1: Em hãy phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Thơm qua hai
lớp kịch trong đoạn trích hồi 4 của vở kịch “Bắc Sơn”( Nguyễn Huy Tưởng).
* Gợi ý:
a) Mở bài:
- Giới thiệu tóm tắt gia cảnh Thơm (bố, mẹ, em trai, chồng).
- Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra cô đứng ngoài cuộc, mặc dù cha và em là những quần
chúng tích cực tham gia khởi nghĩa.
- Thơm vẫn chưa hẳn mất đi bản chất trung thực, lòng tự trọng, lòng thương người.
b) Thân bài:
- Chính vì có bản chất trung thực, có lòng tự trọng, lòng thương người mà Thơm rất
quý trọng ông giáo Thái. Khi lực lượng cách mạng bị đàn áp, cả cha và và em đều hy sinh,
Thơm rất ân hận và càng bị giày vò khi nhận ra rằng Ngọc làm tay sai cho địch dẫn quân
Pháp về đánh úp lực lượng khởi nghĩa.
- Tâm trạng và hành động của nhân vật Thơm qua hai lớp kịch:
+ Hoàn cảnh: Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, cha và em hy sinh, mẹ bỏ đi lang thang,
Thơm chỉ còn người thân duy nhất là Ngọc, nhưng y đã dần lộ rõ bộ mặt Việt gian.
+ Sự day dứt, ân hận của Thơm: Hình ảnh người cha trong lúc hy sinh, những lời
cuối cùng, khẩu súng trao lại cho Thơm; sự hy sinh của em trai; tình cảnh thương tâm của
người mẹ, tất cả những hình ảnh và sự việc ấy luôn ám ảnh và dày vò tâm trí cô.
+ Sự băn khoăn nghi ngờ đối với Ngọc ngày càng tăng.
+ Tình huống bất ngờ (Thái và Cửu chạy nhầm vào nhà Thơm) đã khiến Thơm phải
lựa chọn dứt khoát. Thơm hành động một cách mau lẹ và khôn ngoan, không sợ nguy hiểm
để che giấu Thái và Cửu ngay trong buồng của mình, bình tĩnh che mắt Ngọc để bảo vệ hai
người cách mạng.
- Bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh và tình huống gây cấn, tác giả đã làm bộc lộ
đời sống nội tâm và chuyển trong hành động của nhân vật
c) Kết bài
- Nhấn mạnh sự thay đổi trong tâm trạng và hành động của Thơm là do khả năng
thức tỉnh quần chúng của Cách mạng.

280
- Khẳng định con người Việt Nam luôn đứng về phía chính nghĩa quốc gia, yêu hoà
bình tự do và độc lập dân tộc.
C- BÀI TẬP VỀ NHÀ
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm:
Đề 2: Nhập vai một trong ba nhân vật Thái, Cửu hoặc Thơm kể lại ngắn gọn tình huống “
chạy trốn” của Thái và Cửu ở nhà Thơm.
* Gợi ý:
+ Vai Thái hoặc Cửu:
- Lưu ý khi chạy nhầm vào nhà Thơm, gặp Thơm thái độ hai người không giống
nhau. Cửu thì hoảng hốt, tự trách mình đã gây ra tình thế ấy; anh không tin Thơm vì cho
rằng “Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian”, thậm chí lúc mới vào, thấy Thơm anh còn rút
súng định bắn. Còn Thái thì bình tĩnh tìm cách thoát khỏi tình thế ấy. Là một người cách
mạng dày dạn Thái hiểu và tin vào quần chúng, kể cả những người như Thơm. Thái đã hỏi
thẳng Thơm: “Cô có định bắt tôi không?” và trước sự nghi ngờ của Cửu Thái đã khẳng
định: “Anh đừng nghi dòng máu cụ Phương. Tôi tin như thế”. Khi bọn địch đến gần,Thái
không muốn để liên luỵ đến Thơm nên đã quyết định chạy ra ngoài. Chính thái độ của Thái
đã làm tăng thêm sức cảm hoá đối với Thơm, để cô có được hành động táo bạo cứu hai
người cách mạng.
+ Vai Thơm:
- Kể theo diễn biến tâm trạng.
- Khi hai người cán bộ chạy vào nhà mình, Thơm tưởng họ đến để bắt Ngọc nhưng
rồi khi biết họ đang bị chính Ngọc dẫn người truy đuổi, Thơm từ ngạc nhiên đến lo lắng,
hốt hoảng, lúng túng, đấu tranh tư tưởng quyết liệt… cứu người hay bỏ mặc, cứu bằng
cách nào? Để hai người rơi vào tay giặc thì lòng cô day dứt không yên; mà cứu họ thì nguy
hiểm đến tính mạng bản thân…, nhưng rồi cô quyết định không thể tiếp tay cho giặc.
- Khi Ngọc sắp về Thơm đã nghĩ cách bảo vệ hai người cán bộ bằng hành động hết
sức mau lẹ, kịp thời, dứt khoát (giấu họ trong chính buồng của mình). Đây không phải là
hành động tuỳ hứng mà có nguyên nhân chủ quan, khách quan.
Đề 3: Em hiểu “kịch tính” trong đoạn trích hồi 4 của vở kịch “Bắc Sơn” là gì?
* Gợi ý:
- Nghệ thuật thể hiện xung đột: Xung đột của vở kịch đến hồi 4 đã bộc lộ gay gắt sự
đối đầu giữa Thái, Cửu và Ngọc trong hoàn cảnh cuộc khởi nghĩa bị đàn áp và Ngọc đang
cùng đồng bọn truy lùng ráo riết những người cách mạng. Đồng thời xung đột kịch cũng
diễn ra trong nội tâm nhân vật Thơm, thúc đẩy diễn biến tâm trạng nhân vật để đi tới bước
ngoặt quan trọng.
- Nghệ thuật xây dựng tình huống: Tình huống éo le, bất ngờ, bộc lộ xung đột và
thúc đẩy hành động phát triển.

281
- Ngôn ngữ đối thoại: Đối thoại với các nhịp điệu, giọng điệu khác nhau, phù hợp
với hành động kịch.
2. Dạng đề 5 hoặc 7 điểm:
* Đề 2: Nhận xét về nhân vật Ngọc, Nguyễn Huy Tưởng đánh giá là “ kẻ thù không đơn
giản”. Ý kiến của em ?
* Gợi ý:
a. Mở bài:
- Giới thiệu sơ lược về vở kịch Bắc Sơn và về nhân vật Ngọc; vốn chỉ là tên nho lại
thấp hèn trong bộ máy cai trị của thực dân, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thoả mãn
lòng ham muốn địa vị, quyền lực, tiền tài.
b. Thân bài:
- Khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, bộ máy cai trị ở châu Bắc Sơn bị đánh đổ,
Ngọc thù hận cách mạng. Y rắp tâm làm tay sai cho giặc, dẫn quân Pháp về đánh Vũ Lăng-
căn cứ của lực lượng khởi nghĩa; gián tiếp gây ra cái chết của bố và em vợ.
- Ở hồi 4 Ngọc càng thể hiện bản chất Việt gian, y ra sức truy lùng những người
cách mạng đang ẩn trốn trong vùng, đặc biệt là Thái và Cửu. Mặt khác Ngọc ra sức chiều
chuộng vợ nhằm giấu Thơm bản chất và hành động của mình.
- Nhưng tâm địa và tham vọng của Ngọc vẫn cứ lộ ra trước Thơm. Khi thấy Thơm
nghi ngờ Ngọc đi lùng bắt Thái và Cửu thì Ngọc đã nói thác là đi bắt hai tên tướng cướp và
lảng sang chuyện khác. Nhưng tất cả sự toan tính và bản chất của Ngọc đã không giấu
được Thơm.
- Xây dựng một nhân vật phản diện như Ngọc, tác giả không chỉ tập trung vào
những cái xấu xa, tàn ác mà vẫn chú ý khắc họa tính cách của một con người, nhất quán
nhưng không đơn giản. Ngọc cũng yêu vợ, rất chiều vợ. Cũng có lúc có chút lương tâm
còn sót lại y cảm thấy việc mình làm là xấu, nhưng rồi y lại tự biện bạch cho việc lùng bắt
những người cách mạng.
c) Kết bài: Khẳng định ý kiến của em: Ngọc là nhân vật phản diện, là kẻ thù không
đơn giản. Nhận xét của tác giả quả là đúng, thật tinh tế và chính xác.
------------------------------

TÔI VÀ CHÚNG TA
( Trích cảnh ba)

A- TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN


1- Tác giả

282
- Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) quê Đà Nẵng, vừa là nhà thơ vừa là nhà viết kịch nổi
tiếng. Các tác phẩm của ông đều đề cập đến những vấn đề có tính nóng hổi trong cuộc
sống đương thời.Từ năm 1980 đến cuối đời tài năng thơ và vốn hiểu biết về sân khấu của
ông đã kết tinh trong hơn 50 vở kịch. Lưu Quang Vũ được xem là tác giả tiêu biểu của kịch
trường Việt Nam thời kì những năm 80 của thế kỉ XX.
2. Tác phẩm
a) Nội dung
- Vở kịch Tôi và chúng ta có 9 cảnh, đoạn trích là cảnh ba phản ánh hiệp đầu giao
phong giữa hai phái mới và cũ, tiến bộ và bảo thủ tại xí nghiệp Thắng Lợi.
- Qua câu chuyện làm ăn của xí nghiệp Thắng Lợi vở kịch Tôi và chúng ta phản ánh
cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi phương thức tổ chức, quản lí, lề lối hoạt động sản xuất
trên đất nước ta ở thời kì có nhiều biến chuyển mạnh mẽ. Lúc này, nhiều nguyên tắc, quy
chế, nhiều phương thức sản xuất cũ ngày càng tỏ ra xơ cứng, lạc hậu trước sự vận động
sinh động của cuộc sống. Những con người tiên tiến đã nhận ra điều ấy và khát khao thay
đổi mạnh mẽ phương thức quản lí, tổ chức. Nhưng họ đã vấp phải sự chống đối khá quyết
liệt của những kẻ bảo thủ, xu nịnh mượn danh bảo vệ truyền thống. Cuộc đấu tranh giữa
hai phái ấy thật gay gắt nhưng tất yếu chiến thắng sẽ thuộc về con người mới.
- Với cái tên Tôi và chúng ta, vở kịch cũng đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa cá nhân và
tập thể. Trong khi thể hiện sự xung đột giữa hai phái tiên tiến và lạc hậu, bảo thủ, tác giả
đồng thời khẳng định rằng không có thứ chủ nghĩa tập thể chung chung. Cái "chúng ta"
được hình thành từ nhiều cái "tôi" cụ thể, vì thế cần quan tâm, chăm chút đến quyền lợi,
hạnh phúc từng cá nhân con người.
b) Nghệ thuật
- Tác giả xây dựng tình huống kịch với những xung đột, những mẫu thuẫn căng thẳng,
diễn tả các hành động kịch cụ thể, sinh động để làm nổi bật chủ đề tư tưởng và tạo cơ sở để
các nhân vật bộc lộ tính cách.
c) Chủ đề
Là cuộc đấu tranh gay gắt giữa cái cũ và cái mới. Đó là vấn đề nóng bỏng của thực
tiễn đời sống sinh động. Tuy gay go nhưng cuối cùng phần thắng sẽ thuộc về cái mới, cái
tiến bộ góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước.
B- CÁC DẠNG ĐỀ
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
* Đề1: Viết đoạn văn ngắn (15 đến 20 dòng) về vấn đề cơ bản của vở kịch Tôi và chúng ta
đặt ra và ý nghĩa của nó đối với thực tiễn phát triển của xã hội ta thời kì bấy giờ.
* Gợi ý
1. Mở đoạn

283
- Vở kịch Tôi và chúng ta phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi phương thức tổ
chức, quản lí lề lối hoạt động của xí nghiệp Thắng Lợi nói riêng và các xí nghiệp khác nói
chung của đất nước ta những năm đầu thập niên 80 của thể kỉ XX.
2. Thân đoạn
- Vấn đề vở kịch Tôi và chúng ta đặt ra là: Không thể cứ khư khư giữ lấy nguyên tắc
cơ chế đã trở thành cứng nhắc, lạc hậu mà phải mạnh dạn thay đổi phương thức tổ chức,
quản lí thúc đẩy sản xuất phát triển đừng chạy theo chủ nghĩa hình thức mà cần coi trọng
thực tiễn, coi trọng hiệu quả thiết thực của công việc.
- Không có thứ chủ nghĩa tập thể chung chung. Cái ”chung” được tạo thành từ những
cái ”tôi” cụ thể. vì thế cần quan tâm một cách thiết thực đến cuộc sống, quyền lợi của mỗi
cá nhân con người.
3. Kết đoạn
- Vở kịch Tôi và chúng ta phản ánh tình hình đất nước ta những năm lúc bấy giờ có ý
nghĩa thực tiễn thật lớn lao. Nó là vấn đề cấp thiết từ đời sống thực tiễn, thực tế xã hội có ý
nghĩa trực tiếp đối với sự phát triển chung của đất nước.
2. Dạng đề 5 đến 7 điểm
* Đề 1: Phân tích cảnh ba vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ.
* Dàn bài
1. Mở bài
- Giới thiệu Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) và bút pháp sắc sảo nhạy bén đề cập hàng
loạt vẫn đề nóng bỏng của thời kì đổi mới những năm 80 của thế kỉ XX.
- Đoạn trích là cảnh ba phản ánh hiệp đầu giao phong giữa hai phái mới và cũ, tiến bộ
và bảo thủ tại xí nghiệp Thắng Lợi.
2. Thân bài
- Hoàng Việt giám đốc và Nguyễn Chính phó giám đốc là hai đối thủ trong cuộc xung
đột giữa hai phái mới và cũ.
- Nguyễn Chính cho rằng muốn sản xuất theo đúng kế hoạch " cấp trên", tuyển công
nhân phải thì theo chỉ tiêu biên chế; còn bà trưởng phòng tài vụ cho biết " không có quỹ
lương cho thợ hợp đồng", mọi mua sắm nguyên liệu, vật tư " phải làm đúng những quy
định".
- Giám đốc Hoàng Việt tuyên bố chủ động đặt ra trong kế hoạch, phải tuyển thêm thợ
hợp đồng, mức sản xuất của xí nghiệp sẽ tăng lên năm lần, lương mỗi công nhân sẽ tăng
lên bốn lần. Dừng việc xây nhà khách để trả lương cho công nhân trong hai tháng sau đó sẽ
hoàn lại. Muốn tăng sản xuất thì phải đầu tư, trước tiên là con người để chấm dứt tình trạng
vô lí, bất công. Những chức vụ vô tích sự như quản đốc Trương sẽ được bố trí làm việc
khác. Ai làm được nhiều sản phẩm sẽ được hưởng lương cao, ai làm tồi sẽ bị phạt bằng
tiền. Muốn phát triển sản xuất thì cần mua thêm nguyên, vật liệu...

284
- Phái bảo thủ Nguyễn Chính chống trả quyết liệt, có khi lại lên cao giọng đạo đức ân
tình.
- Quan điểm của Hoàng Việt mới mẻ, tiến bộ.
- Qua đó, ta thấy tư tưởng bảo thủ và cơ chế bao cấp quan liêu đã bị tư tưởng đổi mới
giáng những đòn mạnh mẽ quyết liệt nhưng thế lực bảo thủ đâu đã chịu đầu hàng. Nguyễn
Chính một kẻ vô cùng xảo quyệt vả lại sau lưng hắn còn có những thế lực như Trần Khắc,
ban thanh tra bộ.
- Cái "tôi" mà Hoàng Việt nêu lên là một tư tưởng lớn: Chúng ta hăng say lao động, vì
sự ấm no hạnh phúc của chúng ta, vì sự giàu đẹp của đất nước.
3. Kết bài
- Tôi và chúng ta là đổi mới. Hơn hai mươi năm sau, trước sự đổi mới tốt đẹp của đất
nước, ta càng thấy rõ vở kịch của Lưu Quang Vũ là vở kịch hay và sâu sắc.
C. BÀI TẬP VỀ NHÀ
1- Dạng đề 2 hoặc 3 điểm
* Đề 1: Tóm tắt cảnh 3 vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ bằng một đoạn văn.
* Gợi ý
- Sau một năm về làm quyền giám đốc xí nghiệp Thắng Lợi, Hoàng việt đã quyết định
củng cố lại xí nghiệp và thực thi phương án làm ăn mới, dứt khoát không tuân thủ theo
những lối mòn, các nguyên tắc lạc hậu đã kìm hãm sự phát triển của xí nghiệp. Những ý
kiến của Hoàng Việt về kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới của xí nghiệp
không được sự đồng thuận và chia sẻ của những con người bảo thủ đang là cộng sự của
mình. Những mâu thuẫn đó đã tạo nên xung đột kịch, mâu thuẫn dồn dập giữa hai tuyến
nhân vật tiên tiến và bảo thủ đã làm cho cảnh diễn trở lên hấp dẫn và lôi cuốn người đọc,
người xem.
* Đề 2: Xu thế phát triển và kết thúc của xung đột kịch của vở kịch ”Tôi và chúng ta” của
Lưu Quang Vũ.
* Gợi ý Học sinh trình bày nhận thức của mình trong đó có hai vấn đề chính sau :
- Cuộc đấu tranh giữa hai phái bảo thủ và đổi mới là cuộc đấu tranh có tính tất yếu và
gay gắt. Tình huống xung đột mà vở kịch nêu lên là vấn đề nóng bỏng của thực tiễn đời
sống sinh động. Các quan niệm, cách làm mới, táo bạo ở giai đoạn đầu tất nhiên sẽ vấp
phải nhiều cản trở.
- Cuộc đấu tranh này gay go nhưng cuối cùng phần thắng thuộc về cái mới, cáo tiến
bộ. Cách nghĩ cách làm của các nhân vật thuộc phái đổi mới phù hợp với yêu cầu của thực
tế đời sống, thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã hội. Họ không đơn độc mà được sự ủng hộ
của công nhân xí nghiệp.
2. Dạng đề 5 đến 7 điểm
* Đề 1 : Tình huống kịch và mâu thuẫn cơ bản trong cảnh ba của vở kịch Tôi và chúng ta.

285
* Gợi ý
1. Mở bài
- Cảnh ba trong vở kịch Tôi và chúng ta là đoạn trích để lại trong lòng độc giả nhiều
ấn tượng sâu sắc về tình huống kịch và những mâu thuẫn gay gắt giữa hai truyến nhân vật:
Tiên tiến dám nghĩ, dám làm với những người dập khuôn máy móc.
2. Thân bài
- Tình trạng ngừng trệ sản xuất của xí nghiệp Thắng Lợi đã đến lúc phải giải quyết
bằng những quyết định táo bạo. Sau quá trình tìm hiểu và củng cố lại xí nghiệp giám đốc
Hoàng Việt quyết định công bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới.
- Anh đã công khai tuyên chiến với cơ chế quản lí lỗi thời. Những lời công bố của
Hoàng Việt liên tiếp gây bất ngờ với nhiều người và bị phó giám đốc Nguyễn Chính, quản
đốc phân xưởng Trương phản ứng gay gắt.
+ Phản ứng của trưởng phòng tổ chức lao động, trưởng phòng tài vụ liên quan đến
biên chế, quỹ lương.
+ Phản ứng của quản đốc phân xưởng Trương liên quan đến hiệu quả tổ chức, quản lí
khi Hoàng Việt khẳng định không cần chức vụ này.
+ Phản ứng ngày một gay gắt của phó giám đốc Nguyễn Chính dựa vào cấp trên và
nguyên tắc vào nghị quyết Đảng uỷ của xí nghiệp.
3. Kết bài
- Với tình huống kịch và những mâu thuẫn quyết liệt giữa hai tuyến nhân vật tiên tiến
dán nghĩ, dám làm và những người bảo thủ máy móc đã chứng tỏ muốn mở rộng quy mô
sản xuất cần phải có những thay đổi mạnh mẽ và đồng bộ.
* Đề 2: Phân tích tính cách của các nhân vật tiêu biểu trong cảnh ba vở kịch Tôi và
chúng ta của Lưu Quang Vũ.
* Gợi ý
1. Mở bài.
- Cảnh ba của vở kịch Tôi và chúng ta phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt công khai giữa
hai phái đổi mới và bảo thủ diễn ra tại phòng làm việc của giám đốc Hoàng Việt.
- Qua hành động và ngôn ngữ, các nhân vật đã tự bộc lộ tính cách của mình.
2. Thân bài.
- Giám đốc Hoàng Việt - nhân vật trung tâm. Một người lãnh đạo có tinh thần trách
nhiệm cao, năng động, dám ghĩ, dám làm vì sự phát triển của xí nghiệp và quyền lợi của
anh chị em công nhân. Anh cũng là người trung thực, thẳng thắn kiên quyết đấu tranh với
niềm tin và chân lý. Đó là mẫu người lãnh đạo thời kì đổi mới đầu tiên.
- Kĩ sư Lê Sơn: Một kĩ sư có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi, từng gắn bó
nhiều năm tại xí nghiệp. Dù biết cuộc đấu tranh sẽ rất khó khăn nhưng anh vẫn chấp nhận,
sẵn sàng cùng Hoàng Việt cải tiến toàn diện hoạt động của đơn vị.

286
- Phó giám đốc Nguyễn Chính: Tiêu biểu cho loại người máy móc, bảo thủ nhưng
cũng gian ngoan nhiều mánh khoé. Nguyễn Chính luôn vin vào cơ chế, các nguyên tắc dù
đã trở thành lạc hậu để chống lại sự đổi mới. Anh ta khéo luồn lọt, xu nịnh cấp trên.
- Quản đốc phân xưởng Trương: Là người suy nghĩ và làm việc như cái máy, khô cằn
tình người thích tỏ ra quyền thế, hách dịch với anh chị em công nhân.
3. Kết bài.- Cảnh ba đã tập trung cao độ những xung đột kịch có nhiều kịch tính. Sự
phát triển của tình huống kịch và ngôn ngữ, hành động đã khắc hoạ rõ nét tính cách của
từng nhân vật.

LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN

HƯỚNG DẪN CHUNG


I. Thế nào là đoạn văn?
Khái niệm đoạn văn ở trường phổ thông hiện nay được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
- Cách hiểu thứ nhất (đoạn ý): Đoạn văn được dùng với ý nghĩa để chỉ sự phân đoạn nội
dung, phân đoạn ý của văn bản. Một văn bản bao gồm nhiều đoạn văn: Đoạn mở đầu văn
bản, những đoạn khai triển văn bản, đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn phải có sự hoàn chỉnh
nhất định nào đó về mặt ý, về mặt nội dung. Nhưng thế nào là một nội dung, một ý hoàn
chỉnh thì không có tiêu chí để xác định rõ ràng. Một văn bản, tuỳ theo người đọc cảm nhận
mà phân chia ra thành các đoạn, sự phân chia có thể không thống nhất giữa những người
đọc: có người chia theo ý lớn, có người chia theo ý nhỏ. Ý lớn là đoạn bài có hai hoặc ba ý
nhỏ được khai triển từ ý lớn, bao gồm hai hoặc ba đoạn văn ngắn, mỗi đoạn ngắn đó là một
ý nhỏ, các đoạn này hợp ý với nhau thành một ý lớn; ý nhỏ là ý được khai triển từ ý lớn, về
mặt nội dung chỉ triển khai theo một phương diện, một hướng cụ thể, mỗi ý nhỏ là một
đoạn.
Cách hiểu này khiến cho cách phân đoạn thiếu tính khách quan. Với cách hiểu này,
diện mạo đoạn văn không được xác định ( đoạn văn bắt đầu từ đâu, như thế nào, các câu
văn trong đoạn có mối liên kết với nhau như thế nào,…) cho nên việc xây dựng đoạn văn
trở nên khó khăn, phức tạp, khó rèn luyện các thao tác để trở thành kĩ năng kĩ xảo.
- Cách hiểu thứ hai (đoạn lời): Đoạn văn được hiểu là sự phân chia văn bản thành những
phần nhỏ, hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức: một đoạn văn bao gồm những câu văn
nằm giữa hai dấu chấm xuống dòng.
Cách hiểu này không tính tới tiêu chí nội dung, cơ sở ngữ nghĩa của đoạn văn. Với
cách hiểu này, việc rèn luyện xây dựng đoạn văn càng trở nên mơ hồ, khó xác định vì đoạn
văn không được xây dựng trên một cơ sở chung nào vì hình thức bao giờ cũng phải đi đôi
với nội dung, bao chứa một nội dung nhất định và phù hợp với nội dung mà nó bao chứa.
- Cách hiểu thứ ba (đoạn văn xét thao cả hai tiêu chí về ý và về lời): Đoạn văn vừa là kết
quả của sự phân đoạn văn bản về nội dung ( dựa trên cơ sở logic ngữ nghĩa) vừa là kết quả
của sự phân đoạn về hình thức ( dựa trên dấu hiệu hình thức thể hiện văn bản).
Về mặt nội dung: đoạn văn là một ý hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định nào đó về
logic ngữ nghĩa, có thể nắm bắt được một cách tương đối dễ dàng. Mỗi đoạn văn trong văn

287
bản diễn đạt một ý, các ý có mối liên quan chặt chẽ với nhau trên cơ sở chung là chủ đề của
văn bản. Mỗi đoạn trong văn bản có một vai trò chức năng riêng và được sắp xếp theo một
trật tự nhất định: đoạn mở đầu văn bản, các đoạn thân bài của văn bản ( các đoạn này triển
khai chủ đề của văn bản thành các khía cạch khác nhau), đoạn kết thúc văn bản. Mỗi đoạn
văn bản khi tách ra vẫn có tính độc lập tương đối của nó: nội dung của đoạn tương đối hoàn
chỉnh, hình thức của đoạn có một kết cấu nhất định.
Về mặt hình thức: đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh. Sự hoàn chỉnh đó thể hiện ở
những điểm sau: mỗi đoạn văn bao gồm một số câu văn nằm giữa hai dấu chấm xuống
dòng, có liên kết với nhau về mặt hình thức, thể hiện bằng các phép liên kết; mỗi đoạn văn
khi mở đầu, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và viết lùi vào so với các dòng
chữ khác trong đoạn.
Đây là cách hiểu hợp lí, thoả đáng hơn cả giúp người đọc nhận diện đoạn văn trong
văn bản một cách nhanh chóng, thuận lợi đồng thời giúp người viết tạo lập văn bản bằng
cách xây dựng từng đoạn văn được rõ ràng, rành mạch.
Ví dụ về đoạn văn:
“ Vì ông lão yêu làng tha thiết nên vô cùng căm uất khi nghe tin dân làng theo
giặc(1). Hai tình cảm tưởng chừng mâu thuẫn ấy đã dẫn đến một sự xung đột nội tâm dữ
dội( 2). Ông Hai dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo
Tây mất rồi thì phải thù( 3). Đây là một nét mới trong tình cảm của người nông dân thời kì
đánh Pháp(4). Tình cảm yêu nước rộng lớn hơn đã bao trùm lên tình cảm đối với làng
quê(5). Dù đã xác định như thế, nhưng ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình yêu đối với quê
hương; vì thế mà ông xót xa cay đắng”(6).
Về nội dung:
- Chủ đề của đoạn văn trên là: tâm trạng mâu thuẫn của ông Hai khi nghe tin làng mình
theo giặc. Chủ đề này tập trung khái quát ở câu1,2.
- Đoạn văn trên có ba phần:
+ Câu 1,2 là phần mở đoạn. Phần này chứa đựng ý khái quát của cả đoạn văn, gọi là câu
chủ đề. Câu chủ đề có thể là một hoặc hai câu văn.
+ Câu 3,4,5 là phần thân đoạn. Phần này triển khai đoạn văn, mỗi câu văn đề cập tới một
biểu hiện cụ thể của chủ đề, liên quan tới chủ đề của đoạn văn.
+ Câu 6 là phần kết đoạn. Phần này khắc sâu chủ đề của đoạn văn.
- Đây là đoạn văn có kết cấu đầy đủ cả ba phần: mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Khi
viết đoạn văn, không phải bao giờ cũng nhất thiết có đủ ba phần như vậy. Ví dụ: Đoạn quy
nạp, câu mở đầu đoạn không chứa đựng ý khái quát mà là câu cuối cùng; đoạn diễn dịch,
câu cuối cùng kết thúc đoạn không chưa đựng ý khái quát, chủ đề đã được nêu rõ ở câu mở
đoạn.
Về hình thức:
- Đoạn văn trên được tạo thành bằng 6 câu văn được liên kết với nhau bằng các phép
liên kết hình thức: phép thế, phép lặp.
- Đoạn văn trên được viết giữa hai dấu chấm xuống dòng, chữ cái đầu đoạn được viết
lùi vào một chữ và viết hoa.

288
II. Mét sè kiªu ®o¹n v¨n thêng gÆp.
Trong văn bản, nhất là văn nghị luận, ta thường gặp những đoạn văn có kết cấu phổ
biến: quy nạp, diễn dịch, tổng phân hợp; bên cạnh đó là đoạn văn có kết cấu so sánh, nhân
quả, vấn đáp, đòn bẩy, nêu giả thiết, hỗn hợp,…
1. Đoạn diễn dịch.
Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu
đoạn, các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ, cụ thể. Các câu
triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận; có
thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận của người viết.
Ví dụ: Đoạn văn diễn dịch, nội dung nói về cá tính sáng tạo trong sáng tác thơ:
“ Sáng tác thơ là một công việc rất đặc biệt, rất khó khăn, đòi hỏi người nghệ sĩ phải hình
thành một cá tính sáng tạo(1).Tuy vậy, theo Xuân Diệu - tuyệt nhiên không nên thổi phồng
cái cá biệt, cái độc đáo ấy lên một cách quá đáng(2). Điêù ấy không hợp với thơ và không
phải phẩm chất của người làm thơ chân chính(3). Hãy sáng tác thơ một cách tự nhiên, bình
dị, phải đấu tranh để cải thiện cái việc tự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ
nghĩa(4) .Trong khi sáng tác nhà thơ không thể cứ chăm chăm: mình phải ghi dấu ấn của
mình vào trong bài thơ này, tập thơ nọ(5). Chính trong quá trình lao động dồn toàn tâm
toàn ý bằng sự xúc cảm tràn đầy, có thể nhà thơ sẽ tạo ra được bản sắc riêng biệt một cách
tự nhiên, nhà thơ sẽ biểu hiện được cái cá biệt của mình trong những giây phút cầm
bút”(6)..
Mô hình đoạn văn: Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn gọi là câu chủ đề. Bốn
câu còn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ đề. Đây là đoạn văn giải thích có
kết cấu diễn dịch.

2. Đoạn quy nạp.


Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể nhằm hướng tới ý
khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác minh hoạ, lập luận,
cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
Ví dụ: Đoạn văn quy nạp, nội dung nói về đoạn kết bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
“ Chính Hữu khép lại bài thơ bằng một hình tượng thơ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo(1).
Đêm khuya chờ giặc tới, trăng đã xế ngang tầm súng(2). Bất chợt chiến sĩ ta có một phát
hiện thú vị: Đầu súng trăng treo(3). Câu thơ như một tiếng reo vui hồn nhiên mà chứa
đựng đầy ý nghĩa(4). Trong sự tương phản giữa súng và trăng, người đọc vẫn tìm ra được
sự gắn bó gần gũi(5). Súng tượng trưng cho tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm
lược(6). Trăng tượng trưng cho cuộc sống thanh bình, yên vui(7). Khẩu súng và vầng trăng
là hình tượng sóng đôi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam bất
khuất và hào hoa muôn thuở(8). Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạng bay bổng đã hoà
quyện lẫn nhau tạo nên hình tượng thơ để đời(9).

289
Mô hình đoạn văn: Tám câu đầu triển khai phân tích hình tượng thơ trong đoạn cuối bài
thơ “Đồng chí”, từ đó khái quát vấn đề trong câu cuối – câu chủ đề, thể hiện ý chính của
đoạn: đánh giá về hình tượng thơ. Đây là đoạn văn phân tích có kết cấu quy nạp.
3. Đoạn tổng phân hợp.
Đoạn văn tổng phân hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu mở đoạn nêu ý
khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu kết đoạn là ý khái quát bậc
hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu khai triển được thực hiện bằng thao tác
giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất
nhận định đối với chủ đề, tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Ví dụ: Đoạn văn tổng phân hợp, nội dung nói về đạo lí uống nước nhớ nguồn:
“ Lòng biết ơn là cơ sở của đạo làm người(1). Hiện nay trên khắp đất nước ta đang dấy
lên phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, những bà mẹ anh hùng,
những gia đình có công với cách mạng(2). Đảng và Nhà nước cùng toàn dân thực sự quan
tâm, chăm sóc các đối tượng chính sách(3). Thương binh được học nghề, được trợ vốn làm
ăn; các gia đình liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng được tặng nhà tình nghĩa, được các
cơ quan đoàn thể phụng dưỡng, săn sóc tận tình(4). Rồi những cuộc hành quân về chiến
trường xưa tìm hài cốt đồng đội, những nghĩa trang liệt sĩ đẹp đẽ với đài Tổ quốc ghi công
sừng sững, uy nghiêm, luôn nhắc nhở mọi người, mọi thế hệ hãy nhớ ơn các liệt sĩ đã hi
sinh anh dũng vì độc lập, tự do…(5)Không thể nào kể hết những biểu hiện sinh động,
phong phú của đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta(6). Đạo lí này là nền tảng
vững vàng để xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp(7).
Mô hình đoạn văn: Đoạn văn gốm bảy câu:
- Câu đầu (tổng): Nêu lên nhận định khái quát về đạo làm người, đó là lòng biết ơn.
- Năm câu tiếp ( phân): Phân tích để chứng minh biểu hiện của đạo lí uống nước nhớ
nguồn.
- Câu cuối (hợp): Khẳng định vai trò của đạo lí uống nước nhớ nguồn đối với việc xây
dựng xã hội.
Đây là đoạn văn chứng minh có kết cấu tổng phân hợp.
4. Đoạn so sánh
4.1. So sánh tương đồng.
Đoạn so sánh tương đồng là đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng: so
sánh với một tác giả, một đoạn thơ, một đoạn văn,… có nội dung tương tự nội dung đang
nói đến.
Ví dụ 1: Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về câu thơ kết trong bài “ Nghe tiếng
giã gạo” của Hồ Chí Minh:
Ngày trước tổ tiên ta có câu: “ Có công mài sắt có ngày nên kim”(1). Cụ Nguyễn Bá
Học , một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà
khó vì lòng người ngại núi e sông”(2). Sau này, vào đầu những năm 40, giữa bóng tối ngục
tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đã đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp
nhận gian lao qua bài thơ “ Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “ Gian nan rèn luyện
mới thành công”(3). Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời
còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta(4).

290
Mô hình đoạn văn: Câu nói của tổ tiên, câu nói của Nguyễn Bá Học (câu 1,2) có nội dung
tương đương với nội dung câu thơ của Hồ Chí Minh (4). Đây là đoạn văn mở bài của đề bài
giải thích câu thơ trích trong bài “ Nghe tiếng giã gạo” của Hồ Chí Minh có kết cấu so sánh
tương đồng.
Ví dụ 2: Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về hình ảnh “vầng trăng” trong bài
“Ánh trăng” của Nguyễn Duy:
“ Tuổi thơ Nguyễn Duy gắn bó với trăng và cả khi trở thành người lính thì trăng vẫn là
người bạn tri kỉ:
“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thảnh tri kỉ”.(1)
Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ vẻ đẹp tình nghĩa, thuỷ chung của hai
người bạn: trăng và người lính, người lính và trăng(2). Cuộc sống trong rừng thời chiến
tranh biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng vẫn đến với người lính bằng một tình cảm
chân thành, nồng hậu, không chút ngần ngại(3). Trăng đến toả ánh sáng dịu mát cho giấc
ngủ người chiến sĩ “ Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” ( Hồ Chí Minh) (4).
Trăng đến bên người chiến sĩ cùng chờ giặc tới trong những đên khuya sương muối: “Đầu
súng trăng treo” ( Chính Hữu)(5). Ánh trăng cùng với người lính qua biết bao năm tháng
gian khổ của đất nước để vượt lên mọi sự tàn phá của quân thù:
“Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao”. ( Phạm Tiến Duật) (6).
Trăng với người lính trong thơ thật gần gũi và gắn bó (7). Đặc biệt, trong thơ Nguyễn Duy
ánh trăng đã trở thành một biểu tượng cao đẹp: “ vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình
nghĩa” (9).
Ví dụ 3: Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về lòng yêu làng, yêu nước của ông
Hai trong tác phẩm “ Làng” của Kim Lân:
Trong con người ông Hai, tình cảm dành cho làng gắn liền với lòng yêu nước. Tình yêu
quê hương là cội nguồn của lòng yêu nước. Đúng như I – li – a Ê – ren – bua, một nhà văn
Liên Xô cũ đã viết: “ Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất…
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu Tổ quốc”. Với ông Hai, chân lí
ấy càng đúng hơn bao giờ hết. Từ chỗ yêu con đường làng, yêu những mái nhà ngói,…tình
cảm của ông Hai đã tiến dần lên lòng yêu nước mà lòng yêu nước sâu nặng thầm kín ấy lại
bừng sáng rực rỡ, lung linh trong tâm hồn ông. Tình yêu làng được nâng cao, được vút lên
thành đỉnh cao của vẻ đẹp trong nhân vật ông Hai mà Kim Lân tập trung khắc hoạ, tô đậm
rõ nét. Vì yêu nước nên ông Hai căm thù bọn người phản bội đất nước. Khi nghe tin làng
chợ Dầu theo Tây ông đã rít lên: “ Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này!”. Tiếng rít ấy thể hiện sự căm giận
đang bốc lên ngùn ngụt, thể hiện sự dồn nén kìm hãm đã ghê gớm lắm rồi trong lòng ông.
Lời nói ấy ẩn chứa biết bao nhiêu oán trách, khinh bỉ, khổ đau. Cũng vì yêu nước mà chiều
nào ông cũng tìm đến phòng thông tin nghe tin tức về cuộc kháng chiến. Ông hả lòng, hả
dạ, sung sướng, tự hào trước những chiến tích anh hùng của mọi người dân trong cả nước.
Điều đó thể hiện chân thực tấm lòng ông Hai dành cho đất nước.
4.2. So sánh tương phản.

291
Đoạn so sánh tương phản là đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung ý tưởng:
những hình ảnh thơ văn, phong cách tác giả, hiện thực cuộc sống,…tương phản nhau.
Ví dụ 1: Đoạn văn so sánh tương phản, nội dung nói về việc học hành :
Trong cuộc sống, không thiếu những người cho rằng cần học tập để trở thành kẻ có tài, có
tri thức giỏi hơn người trước mà không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo đức, lễ nghĩa vốn là
giá trị cao quý nhất trong các giá trị của con người( 1). Những người ý luôn hợm mình,
không chút khiêm tốn, đôi khi trở thành người vô lễ, có hại cho xã hội(2). Đối với những
người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của cổ nhân: “ Tiên học lễ, hậu học
văn”( 3).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là nói về quan niệm của việc học: học để làm
người. Câu 1,2 nêu nội dung trái ngược với ý tưởng; câu 3 nêu ý tưởng. Nội dung tương
phản với ý tưởng bao giờ cũng được đề cập trước, sau đó dẫn đến nội dung chính của ý
tưởng. Đây là đoạn văn mở bài, giải thích câu nói của Khổng Tử “ Tiên học lễ, hậu học
văn”.
Ví dụ 2: Đoạn văn so sánh tương phản, nội dung nói về phẩm chất của con người
mới trong “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long:
Thực lòng mà nói, giữa bao lo toan hối hả của cuộc sống thường ngày, có khi nào
ta dành ra được những phút tĩnh lặng của cuộc đời, để lắng nghe nhịp đập bên trong thầm
lặng của cuộc sống. Đọc “ Lặng lẽ Sa Pa”, ta giật mình bởi những điều Nguyễn Thành
Long nói tới mà ta quen nghĩ, quen nhìn hời hợt, nông cạn theo một công thức đã có sẵn
mà không chịu đi sâu tìm tòi, phát hiện bản chất bên trong của nó: “ Trong cái lặng im của
Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến
chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và suy nghĩ” hết mình cho đất nước, cho
cuộc sống hôm nay.
5. Đoạn nhân quả.
5.1. Trình bày nguyên nhân trước, chỉ ra kết quả sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần, phần trước trình bày nguyên nhân, phần sau trình bày kết
quả của sự việc, hiện tượng, vấn đề,…
Ví dụ 1 : Đoạn văn nhân quả, nội dung nói về chi tiết Vũ Nương sống lại dưới thuỷ cung
trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ:
“ Câu chuyện lẽ ra chấm hết ở đó nhưng dân chúng không chịu nhận cái tình thế đau đớn
ấy và cố đem một nét huyền ảo để an ủi ta(1). Vì thế mới có đoạn hai, kể chuyện nàng
Trương xuống thuỷ cung và sau lại còn gặp mặt chồng một lần nữa(2).”
Ví dụ 2: Đoạn văn nhân quả, nội dung nói tới lời khuyên về lòng biết ơn của con cái
với cha mẹ trong một bài ca dao:
Núi Thái Sơn là núi cao nhất, đồ sộ nhất, vững chãi nhất ở Trung Quốc, cũng như tình cha
mạnh mẽ, vững chắc(1). Chính người đã dạy dỗ hướng cho ta về lẽ phải và truyền thêm
cho ta sức mạnh để bay vào cuộc sống(2). Và thông qua hình tượng nước trong nguồn,
dòng nước tinh khiết nhất, mát lành nhất, dạt dào mãi chẳng bao giờ cạn, ta cảm nhận ró
được tình yêu của mẹ mới thật ngọt ngào, vô tận và trong lành biết bao nhiêu(3). Từ những
hình ảnh cụ thể ấy mà ta có thể thấy được ý nghĩa trừu tượng về công cha nghĩa mẹ(4).
Công ơn đó, ân nghĩa đó to lớn sâu nặng xiết bao; chính vì vậy mà chỉ có những hình

292
tượng to lớn bất diệt của thiên nhiên kì vĩ mới sánh bằng(5).Vì thế mà người xưa mới
khuyên nhủ chúng ta phải làm tròn chữ hiếu, để bù đắp phần nào nỗi cực nhọc, cay đắng
của cha mẹ đã phải trải qua vì ta”(6).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là giải thích ý nghĩa câu ca dao. Sáu câu trên
giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng của hình ảnh trong câu ca dao, nêu nguyên nhân. Câu 6 là
kết luận về lời khuyên, nêu kết quả

5.2. Chỉ ra kết quả trước, trình bày nguyên nhân sau.
Đoạn văn có kết cấu hai phần. Phần đầu nêu kết quả, phần sau nêu nguyên
nhân.
Ví dụ: Đoạn văn nhân quả, nội dung nói về lòng hiếu nghĩa của Kiều trong lúc lưu lạc:
Chính trong hoàn cảnh lưu lạc quê người của nàng ta mới thấy hết được tấm lòng chí hiếu
của người con gái ấy(1). Nàng biết sẽ còn bao cơn “ cát dập sóng vùi” nhưng nàng vẫn chỉ
lo canh cánh lo cho cha mẹ thiếu người đỡ đần phụng dưỡng vì hai em còn “ sân hoè đôi
chút thơ ngây”(2). Bốn câu mà dùng tới bốn điển tích “người tựa cửa”, “ quạt nồng ấp
lạnh”, “sân lai”, “ gốc tử(3)”. Nguyễn Du đã làm cho nỗi nhớ của Kiều đậm phần trang
trọng, thiết tha và có chiều sâu nhưng cũng không kém phần chân thực(4).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn bình về lòng hiếu của Kiều. Câu 1 nêu kết quả, ba
câu còn lại nêu nguyên nhân

6. Đoạn vấn đáp.


Đoạn văn vấn đáp là đoạn văn có kết cấu hai phần, phần đầu nêu câu hỏi, phần sau trả lời
câu hỏi. Nội dung hỏi đáp chính là chủ đề của đoạn văn. Trong kiểu kết cấu này, phần sau
có thể để người đọc tự trả lời.
Ví dụ: Đoạn văn vấn đáp, nội dung nói về cái hồn dân tộc trong bài “Ông đồ” của Vũ
Đình Liên:
Cứ đọc kĩ mà xem, sẽ thấy cái xót xa thấm đậm quay cuồng trong câu hỏi cuối: “ Những
người muôn năm cũ”, những người ấy là những tâm hồn đẹp thanh cao bên câu đối đỏ của
ông đồ, hay những ông đồ trên phố phường Hà Nội xưa(1)? Tôi nghĩ là cả hai(2). Thắc
mắc của tác giả rất có lí, và chính vì có lí nên nó thật tàn nhẫn và đau lòng(3). Những cái
đẹp cao quý sâu kín, cái đẹp của hồn người Hà Nội, cái đẹp của hồn Việt Nam cứ ngày
càng mai một, càng bị cuộc sống với những quy tắc rất thực tế lấn át, chà đạp và xô đẩy
sang lề đường để rồi biến mất như ông đồ già kia, và có lẽ sẽ mãi mãi không còn nếu như
không có những Vũ Đình Liên đáng khâm phục(4). “Hồn ở đâu bây giờ”(5)? Câu hỏi ấy là
tiếng chuông cảnh tỉnh người đọc ở mọi thế hệ mọi thời đại, thức dậy những gì sâu xa đã bị
lãng quên, chon vùi dưới cuộc sống ồn ào náo nhiệt(6). Làm sao để tìm lại cái hồn thanh
cao cho mỗi con người Việt Nam, để khôi phục lại cái hồn cho cả dân tộc, đó là điều nhà
thơ Vũ Đình Liên muốn nhắn gửi chúng ta(7).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là giải thích và bình về hai câu thơ. Phần nêu
câu hỏi là câu 1, phần trả lời là câu 2,3,4.
7. Đoạn đòn bẩy.

293
Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện
hoặc những đoạn thơ văn có nội dung gần giống hoặc trái với ý tưởng ( chủ đề của đoạn)
tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra.
Ví dụ: Đoạn văn đòn bẩy, nội dung nói về hai câu thơ tả cảnh xuân trong “ Truyện
Kiều” của Nguyễn Du:
Trong “ Truyện Kiều” có hai câu thơ tả cảnh mùa xuân rất đẹp:
“ Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lên trắng điểm một vài bong hoa”(1).
Thơ cổ Trung Hoa cũng có hai câu thơ tả cảnh đầy ấn tượng:
“ Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa(2).
…Tác giả Trung Quốc chỉ nói : “ Lê chi sổ điểm hoa” ( trên cành lê có mấy bông hoa(3)).
Số hoa lê ít ỏi như bị chìm đi trong sắc cỏ ngút ngàn(4). những bông lê yếu ớt bên lề đường
như không thể đối chọi với cả một không gian trời đất bao la rộng lớn(5). Nhưng những
bông hoa trong thơ Nguyễn Du là hoàn toàn khác: “ Cành lê trắng điểm một vài bông
hoa”(6). Nếu như bức tranh xuân ấy lấy phông nền là màu xanh của của cỏ thì những bông
hoa lê là một nét chấm phá vô cùng sinh động và tài tình(7). Sắc trắng của bông hoa lê –
cái sắc trắng chưa từng xuất hiện trong câu thơ cổ Trung Hoa- nổi bật trên nền xanh tạo
ra thanh khiết trong sáng vô cùng(8). Tuy chỉ là một vài chấm nhỏ trên bức tranh nhưng
lại là điểm nhấn toả sáng và nổi bật trên bức tranh toàn cảnh(9). Những bông hoa “trắng
điểm” thể hiện sự tài tình gợi tả gợi cảm trong lời thơ(10). Cành hoa lê như một cô thiếu
nữ đang e ấp dịu dàng(11). Câu thơ cũng thể hiện bản lĩnh hội hoạ của Nguyễn Du(12).
Hai sắc màu xanh và trắng hoà quyện với nhau trong bức tranh xuân vừa đẹp vừa dào dạt
sức sống đầy xuân sắc, xuân hương và xuân tình(13).
Mô hình đoạn văn: Ý tưởng của đoạn văn là bình giảng câu thơ với hình ảnh thơ đặc sắc.
Câu 3,4,5 phân tích câu thơ cổ Trung Quốc làm điểm tựa để năm câu còn lại (câu
6,7,8,9,10) làm rõ được chủ đề đoạn.
8. Nêu giả thiết.
Đoạn văn nêu giả thiết là đoạn văn có kết cấu: mở đoạn nêu giả thiết, để từ đó đề cập tới
chủ đề đoạn.
Ví dụ: Đoạn văn nêu giả thiết, nội dung nói về chi tiết “ cái bóng” trong “ Chuyện
người con gái Nam Xương”:
Giáo sư Phan Trọng Luận không sai khi nói: “ Cái bóng đã quyết định số phận con
người”, đây phải chăng là nét vô lí, li kì vẫn có trong các truyện cổ tích truyền kì(1)?
Không chỉ dừng lại ở đó, “ cái bóng còn là tượng trưng cho oan trái khổ đau, cho bất hạnh
của biết bao người phụ nữ sống dưới xã hội đương thời(2). Nỗi oan của họ rồi cũng chỉ là
những cái bóng mờ ảo, không bao giờ được sáng tỏ(3). Hủ tục phong kiến hay nói đúng
hơn là cái xã hội phong kiến đen tối đã vùi dập, phá đi biết bao tâm hồn, bao nhân cách
đẹp, đẩy họ đến đường cùng không lối thoát(4). Để rồi chính những người phụ nữ ấy trở
thành “ cái bóng” của chính mình , của gia đình, của xã hội(5). Chi tiết “ cái bóng” được
tác giả dùng để phản ánh số phận, cuộc đời người phụ nữ đầy bất công ngang trái nhưng
cũng như bao nhà văn khác ông vẫn dành một khoảng trống cho tiếng lòng của chính nhân

294
vật được cất lên, được soi sáng bởi tâm hồn người đọc(5). “ Cái bóng” được đề cao như
một hình tượng đẹp của văn học, là viên ngọc soi sáng nhân cách con người(6). Bạn đọc
căm phẫn cái xã hội phong kiến bao nhiêu thì lại càng mở lòng yêu thương đồng cảm với
Vũ Nương bấy nhiêu(7). “ Cái bóng” là sản phẩm tuyệt vời từ tài năng sáng tạo của
Nguyễn Dữ góp phần nâng câu chuyện lên một tầm cao mới: chân thực hơn và yêu thương
hơn(8).
Mô hình đoạn văn: Đoạn văn có câu thứ nhất nêu giả thiết về chi tiết “cái bóng”. Các câu
tiếp theo khẳnh định giá trị của chi tiết đó.
9. Đoạn móc xích.
Đoạn văn có mô hình kết câu móc xích là đoạn văn mà ý các câu gối đầu lên nhau, đan xen
nhau và được thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ ở câu trước trong câu sau.
Ví dụ: Đoạn văn móc xích, nội dung nói về vấn đề trồng cây xanh để bảo về môi trường
sống:
Muốn làm nhà thì phải có gỗ. Muốn có gỗ thì phải trồng cây gây rừng. Trồng cây gây rừng
thì phải coi trọng chăm sóc, bảo vệ để có nhiều cây xanh bóng mát. Nhiều cây xanh bóng
mát thì cảnh quan thiên nhiên đẹp, đất nước có hoa thơm trái ngọt bốn mùa, có nhiều lâm
thổ sản để xuất khẩu. Nước sẽ mạnh, dân sẽ giàu, môi trường sống được bảo vệ.
Mô hình đoạn văn: Các ý gối nhau để thể hiện chủ đề về môi trường sống. Các từ ngữ
được lặp lại: gỗ, trồng cây gây rừng, cây xanh bóng mát.

-------------------------------------------------

LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN

Phần I: Luyện viết đoạn văn theo nội dung đọc - hiểu văn bản nghệ thuật.

Để đọc hiểu một tác phẩm văn học, bạn đọc nói chung và bạn đọc trong nhà trường là học
sinh nói riêng thường đọc hiểu theo một quy trình chung:
- Đọc và tìm hiểu chung về tác phẩm: tìm hiểu về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm, tóm tắt tác phẩm (nếu là tác phẩm tự sự), tìm hiểu nhan đề tác phẩm…từ đó bước
đầu xác định chủ đề của tác phẩm.
- Đọc và tìm hiểu chi tiết: đọc phân tích từng phần như phân tích đoạn văn, đoạn thơ,
phân tích nhân vật, phân tích hình tượng, hình ảnh, chi tiết, hiệu quả nghệ thuật của biện
pháp tu từ,…từ đó đọc ra tư tưởng, thái độ tình cảm của tác giả trước vấn đề xã hội, trước
hiện thực cuộc sống được gửi gắm trong tác phẩm. Trên cơ sở kiến thức về đọc hiểu tác
phẩm, để kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kĩ năng nói viết của bạn đọc học sinh
về những kiến thức đọc hiểu cụ thể, cần có những bài tập rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn.
Các loại đoạn văn cần luyện viết theo nội dung đọc - hiểu thường là:
1. Đoạn văn giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
2. Đoạn văn tóm tắt tác phẩm.
3. Đoạn văn giải thích ý nghĩa nhan đề của tác phẩm.
4. Đoạn văn phân tích một chi tiết quan trọng, từ ngữ đặc sắc của tác phẩm.

295
5. Đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật.
6. Đoạn văn phân tích hiệu quả nghệ thật của biện pháp tu từ.
7. Đoạn văn phân tích, cảm nhận về một đoạn văn, đoạn thơ.

Những bài tập luyện viết đoạn văn trong nhà trường thường có yêu cầu phối hợp giữa yêu
cầu về nội dung, đề tài với yêu cầu về hình thức diễn đạt.
Ví dụ: Viết một đoạn văn diễn dịch, kết thúc đoạn là một câu cảm thán, phân tích lòng yêu
nghề, say mê công việc của anh thanh niên trong tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn
Thành Long.
Thông thường, các thao tác viết đoạn được diễn ra như sau:
- Người viết đọc kĩ bài tập, xác định đúng những yêu cầu của bài tập về nội dung và
hình thức. Với bài tập trên, yêu cầu về nội dung là phân tích lòng yêu nghề, say mê công
việc của nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long; yêu cầu về hình thức là viết đoạn văn theo mô hình diễn dịch, kết thúc đoạn là một
câu cảm than.
- Người viết lập ý cho đoạn văn và định hình vị trí các câu trong đoạn ,phương tiện
liên kết đoạn; đặc biệt là các yêu cầu cụ thể về viết câu (câu cảm thán, câu hỏi tu từ, câu
ghép,…) trong đoạn.
+ Tìm ý cho đoạn văn. Với bài tập trên: đây là đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật, đặc
điểm nổi bật của anh thanh niên trong tác phẩm là lòng yêu nghề, say mê công việc. Vậy
muốn tìm ý cần trả lời các câu hỏi: nghề nghiệp, công việc cụ thể của anh là gì? Công việc
đó có ý nghĩa như thề nào? Anh có những suy nghĩ gì về công việc của mình? Em có nhận
xét, đánh giá về suy nghĩ của anh thanh niên như thế nào?...
+ Xác định mô hình cấu trúc đoạn văn: Với đề bài trên là đoạn diễn dịnh: câu mở đoạn là
câu chủ đề, nội dung giới thiệu khái quát về đặc điểm nổi bật của nhân vật anh thanh niên
là yêu nghề, say mê công việc và có tinh thần trách nhiệm cao. Những câu khai triển tiếp
theo nêu ra công việc cụ thể của nhân vật, phân tích thái độ, tinh thần, ý nghĩa công việc mà
nhân vật làm, nêu nhận xét đánh giá của người viết về nhân vật,…
+ Xác định và định hình kiểu câu và vị trí kiểu câu đó trong đoạn văn cần viết; hoặc phép
liên kết cần viết trong đoạn văn đó. Với bài tập trên, kết thúc đoạn là câu cảm thán: câu
cuối đoạn nhận xét và thể hiện thái độ tình cảm của người viết theo hướng ngợi ca tinh thần
trách nhiệm, nhận thức hoặc suy nghĩ của nhân vật anh thanh niên.
- Người viết dùng phương tiện ngôn ngữ (lời văn của mình) để viết đoạn văn. Khi viết cần
chú ý diễn đạt sao cho lưu loát, mạch lạc. Giữa các câu trong đoạn không chỉ có sự liên kết
về nội dung theo chủ đề của đoạn mà còn có sự liên kết hình thức bằng các phép liên kết;
phối hợp nhiều kiểu câu để lời văn sinh động; từ ngữ dùng cần chính xác, chân thực, mang
tính hình tượng và hợp phong cách; chữ viết đúng chính tả.
- Đọc lại và sửa chữa. Viết xong, người viết cần đọc kiểm tra lại xem đoạn văn đã đáp ứng
được những yêu cầu của bài tập về nội dung và hình thức chưa; nếu thấy chỗ nào chưa ổn
cần chỉnh sửa lại.
Sau đây là phần hướng dẫn viết một số loại đoạn văn theo nội dung đọc hiểu.

296
1. Đoạn văn giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Hướng dẫn viết.
Yêu cầu về nội dung:
- Nêu chính xác tên tác phẩm, tên tác giả của tác phẩm đó, năm sáng tác, in trong tập sách
nào,...Ví dụ: “ Sang thu” ( Hữu Thỉnh) được viết cuối năm 1977, in trong tập “Từ chiến
hào tới thành phố” xuất bản tháng 5.1985.
- Nêu hoàn cảnh rộng:
Thời đại, hoàn cảnh xã hội mà tác giả sống:
Hữu Thỉnh viết “ Sang thu” vào cuối năm 1977, khi đất nước đã được thống nhất, người
lính xe tăng thiết giáp như Hữu Thỉnh từ cuộc chiến trở về trong đời thường hoà bình, thời
trai trẻ đã trôi qua trong cuộc chiến tranh ái quốc nay chợt thấy mình đã “ sang thu” .
Cuối thế kỉ XVIII, người anh hùng dân tộc Nguyễn Hụê đã xuất hiện: vị chiến tướng dùng
mưu hạ thành Phú Xuân, vị thống tướng đó đã tiêu diệt ba vạn quân Xiêm xâm lược tại
Rạch Gầm – Xoài Mút trong một trận thuỷ chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh
hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chốn Bắc Hà rồi kết duyên
cùng Ngọc Hân công chúa. Nguyễn Huệ - vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh
xâm lược, xây nên gò Đống Đa lịch sử bất tử. “Hoàng Lê nhất thống chí” đã phản ánh hiện
thực đó.
Thời đại, hoàn cảnh xã hội của cuộc sống được nói tới trong tác phẩm - chỉ nêu những yếu
tố có ảnh hưởng tới sự ra đời cụ thể của tác phẩm, có ảnh hưởng tới sáng tác của tác giả. Ví
dụ : Truyện “ Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XVI như
một bức tranh toàn cảnh về xã hội thời Lê thu nhỏ lại. “ Chuyện người con gái Nam
Xương” là một truyện ngắn hay rút trong tác phẩm này.
- Nêu hoàn cảnh hẹp: Hoàn cảnh cụ thể ra đời của tác phẩm.
Đó có thể là hoàn cảnh gia đình rất đặc biệt: Bằng Việt chủ yếu sống với bà ngoại nên khi
đi xa nhớ về bà, hình ảnh bà ngoại gắn liền với “bếp lửa” .
Đó có thể là hoàn cảnh của bản thân trước một sự kiện, hiện tượng, hình ảnh, …trong cuộc
sống, tác giả nảy sinh ý tưởng, cảm hứng muốn gửi gắm ý tưởng , tình cảm, tư tưởng thái
độ,… của mình qua sáng tác:
Tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” ( Huy Cận) được sáng tác trong chuyến đi thực tế năm
1958 ở Cẩm Phả, Hòn Gai (Quảng Ninh) giữa lúc miền Bắc nước ta phấn khởi lao động
xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhà thơ hướng tới những con người
lao động làm nghề đánh bắt cá biển là chủ nhân trong cuộc sống mới.
Tác phẩm “ Mùa xuân nho nhỏ” ( Thanh Hải) được làm năm 1980, trong khung cảnh hoà
bình, xây dựng đất nước nhưng khi ấy nhà thơ bệnh nặng, chỉ ít lâu sau đó ông đã mất, vậy
mà thi phẩm vẫn chan chứa tình yêu cuộc sống.

297
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông viết bài thơ
“ Bếp lửa” vào tuổi 19, đó là năm 1963 khi còn là sinh viên đang học Đại học ở nước
ngoài.
Từ mái trường Đại học Hà Nội, Phạm Tiến Duật bước vào đời lính chiến đấu và hoạt động
(công tác tuyên huấn) trên con đường chiến lược Trường Sơn những năm tháng đánh Mĩ ác
liệt nhất. Khói lửa chiến trường, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, những cô gái thanh niên
xung phong, những chiến sĩ lái xe dũng cảm,…in dấu chói lọi, kì vĩ như những tượng đài
trong thơ Phạm Tiến Duật. “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho hồn thơ Phạm
Tiến Duật trong “ Vầng trăng - Quầng lửa” là bài ca chiến trận thấm đẫm màu sắc lãng
mạn ghi lại hình ảnh người chiến sĩ lái xe vận tải trên con đương Trường Sơn, con đường
huyết mạch của Tổ Quốc trong cuộc chiến.
- Nêu đề tài hoặc nội dung chính, đặc sắc của tác phẩm:
Phạm Tiến Duật bằng giọng thơ chắc khoẻ, đượm chất văn xuôi, đã tạo nên giọng nói riêng
biệt, mới mẻ trong nền thơ ca chống Mĩ. Thơ ca của anh, đặc biệt trong “ Vầng trăng -
Quầng lửa” không phải là sự chắt ra từ đời sống mà là toàn vẹn đời sống thường nhật ở
chiến trường. Phạm Tiến Duật đã góp vào vườn thơ đất nước một hình tượng chiến sĩ khá
độc đáo với “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (1969). Bài thơ đã ghi lại những nét ngang
tàng dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời
chống Mĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ một thời máu lửa.
Chế Lan Viên viết bài thơ “ Con cò” vào năm 1962, in trong tập “ Hoa ngày thường, chim
báo bão” (1967). Bài “ Con cò” mang âm điệu đồng dao, nhịp thơ và giọng thơ thấm vào
hồn ca dao, dân ca một cách đằm thắm, nhẹ nhàng. 51 câu thơ tự do, câu ngắn nhất 2 chữ,
câu dài nhất 8 chữ, đan xen, kết chuỗi thành lời ru ngân nga, ngọt ngào, biểu hiện tình
thương và ước mơ của người mẹ hiền đối với con thơ!
Đây là yêu cầu về nội dung của đoạn văn mang tính trọn vẹn, đầy đủ. Khi viết đoạn
văn giới thiệu về hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm cụ thể, tuỳ theo sự hiểu biết của mình
mà người viết có thể nêu đầy đủ hoặc lược bớt một vài ý, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo cho
người đọc nắm được xuất xứ chung, chủ đề của tác phẩm.
Yêu cầu về hình thức:
- Đoạn văn bao gồm những câu văn gắn kết với nhau theo một cấu trúc nhất định,
cùng hướng về giới thiệu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, được liên kết bằng các phương
tiện liên kết, phối hợp các kiểu câu. Đoạn văn phải được diễn đạt mạch lạc, từ ngữ dùng
chính xác, chân thực, có tính hình tượng.
- Luyện viết đoạn văn theo yêu cầu cụ thể: viết đoạn văn có câu ghép và phương tiện liên
kết; đoạn văn có câu hỏi tu từ, đoạn văn kết bằng câu cảm thán,…
Để viết đoạn văn giới thiệu hoàn cảnh ra đời cầu tác phẩm theo yêu cầu cụ thể như
có sử dụng câu ghép, một hoặc hai phương tiện liên kết, người viết trước hết phải có ý,
nghĩa là đã có nội dung để viết, sau đó xác định câu ghép (ghép ý nào với ý nào trong các ý
đã xác định), tiếp theo là xác định phép liên kết sẽ sử dụng là gì. Sau khi đã xác định yêu
cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức của đoạn văn cần viết, người viết bắt tay vào viết.
Cuối cùng, cần kiểm tra lại đoạn văn vừa viết xem đã hoàn chỉnh chưa, đã đáp ứng những
yêu cầu đề ra chưa.

298
Ví dụ1:
- Bài tập: Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác
giả Phạm Tiến Duật bằng một đoạn văn ngắn (khoảng 5 câu), có sử dụng câu ghép và phép
thế.
- Đoạn văn minh hoạ: “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (1969) là tác phẩm thuộc chùm
thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 –
1970, sau in trong tập “ Vầng trăng - Quầng lửa” (1). Năm1964, rời mái trường Đại học
Sư phạm Hà Nội với tuổi 23, chàng sinh viên quê Phú Thọ Phạm Tiến Duật bước vào đời
lính chiến đấu và hoạt động (công tác tuyên huấn) trên con đường chiến lược Trường Sơn
những năm tháng đánh Mĩ ác liệt nhất (2). Thơ ca của Phạm Tiến Duật không phải là sự
chắt ra từ đời sống mà là toàn vẹn đời sống thường nhật ở chiến trường( 3). Khói lửa chiến
trường, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, những cô gái thanh niên xung phong, những chiến sĩ
lái xe dũng cảm,…in dấu chói lọi, kì vĩ như những tượng đài trong thơ ông (4). Ông đã góp
vào vườn thơ đất nước một hình tượng người lính khá độc đáo với “ Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” - người chiến sĩ lái xe dũng cảm, lạc quan và có chút bốc tếu ngang tàng trên
tuyến đường huyết mạch Trường Sơn thời đánh Mĩ (5).
( Câu 3 là câu ghép; dùng phép thế đại từ: Phạm Tiến Duật – ông).
Ví dụ 2:
- Bài tập: Viết đoạn văn ngắn trình bày hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Đoàn thuyền
đánh cá” của Huy Cận, trong đó có sử dụng câu hỏi tu từ ( gạch chân câu văn đó).
- Đoạn văn minh hoạ:
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào “ Thơ mới” giai đoạn 1932 – 19459(1). Sau
Cách mạng, thơ Huy Cận có phần chững lại(2). Năm 1958 các văn nghệ sĩ đi thực tế tìm
hiểu cuộc sống mới để lấy đề tài, cảm hứng sáng tác, nhà thơ Huy Cận đã đi thực tế dài
ngày ở Quảng Ninh(3). Vẻ đẹp của vùng biển Hòn Gai cùng với không khí làm ăn sôi nổi,
hào hùng tràn đầy niềm tin trong những năm đầu xây dựng XHCN ở miền Bắc làm cho hồn
thơ của Huy Cận “nảy nở” trở lại(4). Ông đã sáng tác bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá”
trong thời gian ấy, bài thơ được in trong tập thơ “ Trời mỗi ngày lại sáng”(5). Phải chăng
bài thơ là “ món quà vô giá” mà nhà thơ tặng lại vùng biển Hòn Gai yêu dấu?(6) Bài thơ
làm bằng cảm hứng lãng mạn kết hợp với cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ tạo ra những
hình ảnh thơ rực rỡ, huy hoàng, tráng lệ(7). Nó không chỉ ca ngợi vẻ đẹp lung linh, kì ảo
của biển Hòn Gai mà còn ca ngợi không khí là ăn tập thể của HTX ngư dân trong những
năm đầu xây dựng CNXH(8).
( Câu 6 là câu hỏi tu từ)
Ví dụ 3:
- Bài tập: Viết đoạn văn trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”
của nhà thơ Thanh Hải, trong đó có câu mở rộng thành phần ( gạch chân câu đó).
- Đoạn văn minh hoạ:
Thanh Hải là một nhà thơ cách mạng, tham gia hai cuộc kháng chiến, bám trụ ở quê hương
Thừa – Thiên - Huế(1). Ông có công trong việc xây dựng nền văn học cách mạng miền
Nam từ những ngày đầu kháng chiến (2). Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác
tháng 11 năm 1980, chỉ ít lâu sau thì nhà thơ qua đời(3). Mặc dù bị bệnh trọng, đang nằm

299
trên giường bệnh nhưng với tình yêu đời, yêu cuộc sống, Thanh Hải mở rộng hồn mình để
cảm nhận mùa xuân thiên nhiên của đất nước, mùa xuân của Cách mạng(4). Bài thơ như
một lời tâm niệm chân thành, gửi gắm thiết tha của nhà thơ để lại cho đời trước lúc ông đi
xa (5).
( Câu 4 là câu mở rộng thành phần)
Ví dụ 4:
- Bài tập: Nêu hoàn cảnh ra đời cảu tác phẩm “ Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh bằng
một đoạn văn có sử dụng phép thế.
- Đoạn văn minh hoạ:
Nhà thơ Hữu Thỉnh quê ở Tam Dương, Vĩnh Phúc. Ông trưởng thành trong kháng chiến
chống Mĩ. Từ một người lính tăng - thiết giáp, ông trở thành cán bộ văn hoá, tuyên huấn
trong quân đội và sang tác thơ. Hữu Thỉnh là nhà thơ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài
thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ “ Sang thu” được sáng tác
vào cuối năm 1977, in lần đầu tiên trên báo Văn Nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng
khuâng, xao xuyến của nhà thơ trước những chuyển biến tinh tế của đất trời và là bức tranh
thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu.
Luyện tập:
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Vũ trung tuỳ bút” của tác giả Phạm Đình Hổ, bằng
một đoạn văn ngắn có sử dụng câu ghép.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái,
bằng một đoạn văn ngắn, có sử dụng phép nối.
- Viết một đoạn văn ngắn ( khoảng 5 câu), trong đó có sử dụng phép thế: Nêu hoàn cảnh ra
đời của tác phẩm “ Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu.
- Viết một đoạn văn ngắn ( khoảng 5 câu), trong đó có sử dụng phép nối: Nêu hoàn cảnh ra
đời của tác phẩm “ Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt bằng một đoạn văn
ngắn ( khoảng 5 câu), trong đó có sử dụng phép thế.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ” của nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng một đoạn văn ngắn ( khoảng 5 câu), trong đó có sử dụng
phép lặp từ ngữ.
- Viết một đoạn văn ngắn ( khoảng 5 câu), trong đó có ít nhất một câu ghép và một phép
liên kết: Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Làng” của nhà văn Kim Lân bằng cách viết một
đoạn văn ngắn ( khoảng 5 câu), trong đó có ít nhất một câu ghép và một phép liên kết.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” của nhà Nguyễn Thành Long bằng
một đoạn văn ngắn khoảng 5 câu, trong đó có một câu ghép và một phương tiện liên kết.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Chiếc lược ngà” của nhà Nguyễn Quang Sáng.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.
- Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “ Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương.
- Viết đoạn văn quy nạp, có sử dụng phép nối: Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “
Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh.

300
- Viết một đoạn văn theo kiểu diễn dịch, phân tích tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần
dũng cảm của cô thanh niên xung phong Phương Định trong tác phẩm “ Những ngôi sao xa
xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê. Trong đoạn văn, sử dụng ít nhất hai phép liên kết câu
(gạch dưới những từ ngữ này)

2. Đoạn văn tóm tắt tác phẩm.


Yêu cầu về nội dung:
- Nêu được những sự việc chính theo trình tự của cốt truyện, sự việc mở đầu, các sự việc
phát triển trong đó có sự việc đỉnh điểm của cốt truyện, sự việc kết thúc.
- Đoạn văn tóm tắt tác phẩm phải đảm bảo giữ đúng cốt truyện, các nhân vật chính và ý
nghĩa xã hội của truyện (đảm bảo đúng chủ đề của truyện).
Yêu cầu về hình thức:
- Nối kết các sự việc chính của truyện thành đoạn văn hoàn chỉnh, ngắn gọn bằng lời của
người viết.
- Đoạn văn có kết cấu nhất định, giữa các câu có sử dụng các phép liên kết về nội dung và
hình thức.
Ví dụ 1:
- Bài tập:
Viết đoạn văn ngắn, tóm tắt “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
- Đoạn văn minh hoạ:
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là người con gái thuỳ mị nết na, xinh đẹp được Trương
Sinh cưới về làm vợ. Trương Sinh là con nhà khá giả, ít học lại có tính đa nghi. Cuộc sống
gia đình đang êm ấm thì chàng Trương phải đi lính. Ở nhà, ít lâu sau, Vũ Nương sinh con
trai và đặt tên là Đản. Bà mẹ Trương Sinh vì nhớ con mà sinh bệnh, Vũ Nương hết lòng
chăm sóc, thuốc thang nhưng bà không qua khỏi. Năm sau, Trương Sinh trở về, bé Đản
không chịu nhận chàng là cha mà một mực nói cha Đản buổi tối mới đến. Trương Sinh nghi
ngờ vợ, mắng nhiếc, đuổi Vũ Nương đi. Vũ Nương oan ức nên gieo mình xuống sông
Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm dười ngọn đèn dầu, bé Đản chỉ bóng Trương Sinh bảo đó là
cha. Trương Sinh tỉnh ngộ, thấn nỗi oan của vợ nhưng chuyện đã quá muộn. Vũ Nương
trẫm mình nhưng được các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu sống, nàng ở trong cung điện của
Linh Phi. Một lần Linh Phi mở tiệc khoản đãi Phan Lang ( người cùng làng với Vũ Nương,
là ân nhân của Linh Phi bị chết đuối được Linh Phi cứu sống), trong bữa tiệc, tình cờ Phan
Lang nhận ra Vũ Nương. Vũ Nương bày tỏ nỗi oan khuất và nàng nhờ họ Phan gửi cho
chồng chiếc thoa vàng làm tin, mong chồng lập đàn giải oan cho mình. Trương Sinh tin lời,
lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện lên giưã dòng sông trong khung cảnh lộng lẫy, rực
rỡ cờ hoa. Nhưng nàng chỉ hiện lên trong chốc lát, nói với chồng mấy lời từ biệt “ Xin đa tạ
tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” rồi biến mất.
Ví dụ 2:
- Bài tập: Tóm tắt đoạn trích “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng bằng một đoạn
văn ngắn, có sử dụng thành phần biệt lập ( gạch chân câu có thành phần biệt lập).
- Đoạn văn minh hoạ:

301
Ông Sáu, một cán bộ cách mạng, sau tám năm đi xa giờ mới được về thăm nhà, thăm con
gái tám tuổi từ ngày sinh chưa một lần được gặp ba. Ông vô cùng hồi hộp, xúc động khi
gặp con, nhưng bé Thu - con ông - lại sợ hãi bỏ chạy. Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà. Ông
dành tất cả tình yêu thương, gần gũi, chăm sóc con bế, nhưng con bé xa lánh, lạnh nhạt,
khước từ mọi cử chỉ yêu thương của ông và nó nhất định không gọi ông là cha. Một lần
trong bữa ăn ông gắp cho nó một miếng trứng cá rất ngon, nó bất ngờ hất tung ra mâm.
Giận quá, ông Sáu phát vào mông con, con bé bỏ sang bà ngoại. Được bà ngoại giải thích
về vết thẹo, con bé mới hiểu rằng ông Sáu đích thị là cha nó. Nó trở về, đó cũng là ngày
cuối cùng ông Sáu phải lên đường. lúc chia tay, ông Sáu chỉ khẽ chào con, vì sợ nó bỏ
chạy. Không ngờ đúng lúc ấy, tình cha con trỗi dậy, bé thét lên gọi ba, ôm hôn ba, bộc lộ
tất cả tình yêu mãnh liệt của mình với ba. Khi chia tay con, ông Sáu hứa sẽ mua một cây
lược cho con. Ông Sáu không ra Bắc tập kết mà ở lại rừng hoạt động cách mạng. Ông luôn
nhớ về con, hối hận vì đánh con. Một lần ông bắt được khúc ngà, ông tỉ mỉ, kì công làm
chiếc lược ngà cho con. Ông mong được gặp con, nhưng ông chưa thực hiện được điều đó
thì đã hi sinh trong một trận càn. Người bạn ông – ông Ba – hứa với ông trước lúc ông ra
đi, sẽ đưa chiếc lược đến tận tay bé Thu thay ông.
Ví dụ 3:
- Bài tập: Tóm tắt truỵên ngắn “ Làng” của Nguyễn Thành Long bằng một đoạn văn
tổng phân hợp, trong đó có sử dụng câu ghép.
- Đoạn văn minh hoạ:
Nhân vật ông Hai tiêu biểu cho những người nông dân thời kì đầu kháng chiến chống Pháp
có sự chuyển biến mới trong nhận thức và tình cảm: tình yêu làng quê gắn bó với tình yêu
đất nước và tinh thần chiến đấu chống xâm lăng. Ông Hai là người làng Chợ Dầu ở Bắc
Ninh. Ông tự hào, kiêu hãnh về cái làng Chợ Dầu quê ông – cái gì cũng hơn hẳn các làng
khác. Ông mắc tật “ khoe làng” với mọi người. Theo lệnh của uỷ ban kháng chiến, ông Hai
phải đưa vợ con đi tản cư, tránh những cuộc càn quét bất ngờ của giặc Pháp. Ở nơi tản cư,
ông luôn nhớ tới làng, mong muốn được trở về cùng du kích lập làng kháng chiến. Nghe tin
làng Chợ Dầu làm “ Việt gian” theo giặc, ông Hai đau đớn, phẫn nộ và tủi nhục, không dám
gặp ai, nhìn ai. Ông rơi vào tâm trạng đầy mâu thuẫn: vừa yêu thương, vừa căm giận, vừa
tin tưởng, vừa ngờ vực. Được chủ tịch xã thông báo dân làng Chợ Dầu vẫn bền gan chiến
đấu chống Pháp, ông Hai vui mừng khôn xiết, lại hớn hở đi khắp nơi cải chính tin đồn thất
thiệt và hết lời ca ngợi dân làng Chợ Dầu yêu nước. Ông Hai đã buồn vui, sướng khổ, đã
kiêu hãnh tự hào về làng Chợ Dầu quê hương ông. Đó chính là vẻ đẹp mới trong tâm hồn
người nông dân thời kì kháng chiến chống pháp đã được nhà văn kim Lân khám phá và thể
hiện rất thành công.
Ví dụ 4:
- Bài tập: Tóm tắt ngắn gọn ( không quá nửa trang giấy thi) tác phẩm “ Bến quê” của
nhà văn Nguyễn Minh Châu bằng đoạn văn diễn dịch, trong đó có câu hỏi tu từ.
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Bến quê” là truyện ngắn chứa đựng những suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn
trước cuộc đời, thức tỉnh mọi người về những vẻ đẹp và giá trị cao quý của những điều
bình dị, gần gũi quanh ta. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Nhĩ. Anh đã đi hầu hết các

302
nơi trên thế giới, mấy năm nay không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo nên phải sống
nốt quãng đời còn lại trên chiếc giường kê cạnh cửa sổ, trông ra bến sông. Chính vào thời
điểm ấy, anh đã phát hiện ra vẻ đẹp của những gì gần gũi xung quanh: vẻ đẹp của nơi bến
quê thân thuộc. Nhĩ khao khát được một lần đặt chân lên bờ bãi bên kia sông, mảnh đất giờ
đây đã trở nên xa xôi đối với anh. Anh đành nhờ con trai thực hiện giúp mình ước muốn ấy
nhưng con trai anh lại quá vô tình, không hiểu được ý định của bố. Nhĩ sợ con sẽ lỡ mất
chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Từ trong cửa sổ nhìn ra, Nhĩ nhìn thấy cảnh vật
thiên nhiên thật đẹp. Anh say mê thưởng thức như mới được nhìn thấy lần đầu. Khi sắp giã
biệt cuộc đời, Nhĩ mới thấy thấm thía về phẩm chất tốt đẹp, dung dị của người vợ hiền
thục, tần tảo, giàu đức hi sinh. Anh nhận ra rằng gia đình có vai trò rất lớn đối với con
người và là nơi nương tựa đáng tin cậy nhất. Anh cũng nhận ra rằng mọi người xung quanh
ta dù là những em bé hay người già đã về hưu đều đáng yêu, đáng quý bởi họ luôn có tấm
lòng nhân ái “ thương người như thể thương thân”. Và, phải chăng cũng với sự chiêm
nghiệm của mình, anh đã nhận ra rằng người ta thường dễ bỏ qua những giá trị bền vững
và sâu sắc của cuộc sống, lúc thức tỉnh thì đã quá muộn?
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn diễn dịch.
Câu mở đầu là câu chủ đề đoạn, nêu ý khái quát, giới thiệu chủ đề của truyện ngắn “ Bến
quê”.
Các câu sau khai triển: tóm tắt theo các sự kiện chính để làm rõ chủ đề của tác phẩm.
Câu cuối cùng là câu hỏi tu từ.

Luyện tập:
- Viết đoạn tổng phân hợp, có sử dụng hai phép liên kết: tóm tắt tác phẩm “ Truyện Kiều”
của thi hào Nguyễn Du ( không qua nửa trang giấy thi).
- Tóm tắt ngắn gọn ( không quá nửa trang giấy thi) về tác phẩm “ Chuyện người con gái
Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ bằng đoạn văn tổng phân hợp, có sử dụng một câu
hỏi tu từ.
- Tóm tắt ngắn gọn ( không quá nửa trang giấy thi) tác phẩm “ Chuyện cũ trong phủ Chúa
Trịnh” của nhà văn bằng đoạn văn quy nạp, có sử dụng câu ghép.
-Tóm tắt ngắn gọn ( không quá nửa trang giấy thi) tác phẩm “ Hoàng Lê nhất thống chí ”
của Ngô gia văn phái bằng đoạn văn quy nạp.
- Giới thiệu ngắn gọn ( không quá nửa trang giấy thi) về tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” của nhà
văn Nguyễn Thành Long bằng một đoạn văn có sử dụng phép thế bằng một đoạn văn có sử
dụng phép nối.
- Tóm tắt ngắn gọn ( không quá nửa trang giấy thi) tác phẩm “ Bến quê” của nhà văn
Nguyễn Minh Châu bằng đoạn văn diễn dịch, trong đó có câu hỏi tu từ.
- Tóm tắt ngắn gọn ( không quá nửa trang giấy thi) tác phẩm “ Những ngôi sao xa xôi” của
nhà văn Lê Minh Khuê bằng đoạn văn tổng phân hợp, có sử dụng phép nối.

3. Đoạn văn giải thích về ý nghĩa nhan đề tác phẩm.


Hướng dẫn viết đoạn.

303
Nhan đề của tác phẩm thường được tác giả đặt bằng một từ, một cụm từ. Nhan đề
tác phẩm thường chứa đựng đề tài, nội dung hoặc chủ đề của tác phẩm mà tác giả muốn gửi
gắm vào đó. Đôi khi nhan đề tác phẩm đồng thời cũng là một điểm sáng thẩm mĩ, là tín
hiệu nghệ thuật cần khai thác để làm sáng tỏ chủ đề tác phẩm. Có nhan đề nêu lên đề tài
của tác phẩm ( “Làng” – Kim Lân), có nhan đề hướng vào tư tưởng chủ đề của tác phẩm ( “
Lặng lẽ Sa Pa” - Nguyễn Thành Long), có nhân đề gửi gắm một thông điệp sâu sắc nào đó
(“Bến quê” - Nguyễn Minh Châu),…Bởi vậy, để hiểu được nhan đề của tác phẩm, cần phải
đọc kĩ tác phẩm, tìm hiểu nội dung, tìm hiểu các tầng nghĩa của hình tượng, xâu chuỗi
những hiểu biết về chi tiết, hình ảnh, hình tượng trong tác phẩm để xác định đúng chủ đề
tác phẩm. Từ đó quay lại tìm hiểu về ý nghĩa nhan đề tác phẩm, đọc ra dụng ý mà tác giả
gửi gắm trong đó.
- Yêu cầu về nội dung:
- Nêu được chính xác tên tác phẩm, tên tác giả.
- Xác định ý nghĩa nhan đề tác phẩm thể hiện về phương diện gì: đề tài, nội dung, tên nhân
vật chính, chủ đề, …mối quan hệ giữa tên tác phẩm và chủ đề tác phẩm.
- Khẳng định giá trị của nhan đề tác phẩm. Cũng có thể kết hợp đánh giá về tác giả, tác
phẩm.
Yêu cầu về hình thức:
- Viết đoạn văn ngắn từ 5 – 7 câu, các câu văn được liên kết với nhau theo mô hình kết cấu
nhất định, sử dụng các phép liên kết nội dung và hình thức.
- Sử dụng linh hoạt các kiểu câu để viết đoạn văn.
Ví dụ 1:
- Bài tập:
Tác phẩm “ Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du được nhân dân gọi là “ Truyện Kiều”.
Viết một đoạn văn ngắn giải thích mối quan hệ giữa nhan đề của tác phẩm với nội dung, tư
tưởng chủ đề của tác phẩm qua hai cách đặt tên trên, trong đó có một câu cảm thán.
- Đoạn văn minh hoạ:
Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc đã sáng tác “ Truyện Kiều”, truyện thơ bằng chữ Nôm,
một kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm đó được nhà thơ lấy tên là “ Đoạn
trường tân thanh” với nghĩa là tiếng kêu mới xé lòng đứt ruột. Ngay trong nhan đề, tác
phẩm đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của thi nhân. Ông thương cảm, xót xa
cho số phận bất hạnh của nàng Kiều, một người con gái tài hoa bị vùi dập trong kiếp đoạn
trường đau khổ. Viết về Kiều, về cuộc đời trầm luân bể khổ của nàng, tác giả muốn nói lên
những tiếng kêu than xé lòng đứt ruột, thương cho kiếp đời tài sắc nhưng bất hạnh của
người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhan đề tác phẩm thể hiện rõ nội dung, tư tưởng tác phẩm;
nhưng nhân dân ta đã đặt tên lại, gọi ngắn gọn là “ Truyện Kiều”. Cái tên này nôm na, dễ
nhớ, dễ hiểu, lấy tên nhân vật chính ( nàng Thuý Kiều) đặt tên cho tác phẩm. Đây là cách
đặt tên thường thấy trong văn học dân gian. Tác phẩm tự sự này xoay quanh kể về cuộc đời
của nhân vật chính là nàng Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bị những thế lực hắc
ám vùi dập, đoạ đày thật thương tâm. Thương thay cho số phận bất hạnh của nàng Kiều,
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa! Như vậy cùng một tác phẩm nhưng mỗi tên
gọi thể hiện một dụng ý là như thế đó!

304
Câu kết thúc đoạn văn là câu cảm thán.
- Ví dụ 2:
- Bài tập: Viết một đoạn văn ngắn giải thích nhan đề của truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long ( trong đó có sử dụng một câu hỏi tu từ kết thúc đoạn).
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Chúng ta đều biết: nhan đề tác phẩm thường thể hiện đề tài, nội dung hoặc tư tưởng chủ
đề của tác phẩm; với nhan đề “ Lặng lẽ Sa Pa”, truyện ngắn của Nguyễn Thành Long đã
thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Bề ngoài Sa Pa có vẻ lặng lẽ, êm đềm, thơ mộng.
Đó là xứ sở của sương mù, của những dinh thự cũ xưa mà người ta đến để nghỉ ngơi. Ở đó
có những cảnh đẹp nên thơ mê hồn; có những con bò đeo chuông ở cổ, có những rừng
thông đẹp lung linh kì ảo dưới ánh nắng mặt trời. Đằng sau vẻ đẹp lặng lẽ nên thơ của Sa
Pa, đã và đang có những con người đang thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước. Đó là
anh cán bộ làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu một mình trên đỉnh Yên Sơn ở độ
cao 2600 mét, đang thầm lặng làm việc để góp phần dự báo thời tiết. Đó là ông kĩ sư vườn
rau, anh cán bộ chuyên nghiên cứu bản đồ sét,…tất cả đang âm thầm lặng lẽ làm việc và
cống hiến. Như vậy nhan đề của tác phẩm vừa thể hiện được vẻ đẹp kì ảo của thiên nhiên
Sa Pa vừa thể hiện được sự cống hiến, âm thầm lặng lẽ nhưng lớn lao , cao đẹp của những
con người nơi đây. Với việc đặt nhan đề như vậy, phải chăng tác giả muốn lấy địa danh
làm nền để làm nổi bật vẻ đẹp của con người?”
Câu kết thúc đoạn văn là một câu hỏi tu từ.
Ví dụ 3:
- Bài tập: Viết đoạn văn ( khoảng 5 câu) theo cách tổng phân hợp thể hiện sự cảm nhận của
em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Bến quê” của Nguyên Minh Châu.
- Đoạn văn minh hoạ:
Có những tác phẩm tuy đã khép lại nhưng những dư âm, những trăn trở vẫn còn mãi
trong lòng người đọc. Nhan đề “ Bến quê” phải chăng cũng ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa?
Bến quê là nơi ghi dấu bao kỉ niệm từ thời thơ ấu cho đến lúc trưởng thành. Ở đó mỗi con
người đã được nuôi dưỡng và lớn lên cả về thể chất lẫn tâm hồn. Bến quê là điểm tựa bình
yên cho cả một cuộc đời mỗi con người. Được sống trong tình yêu thương của mọi người,
được bao bọc trong vẻ đẹp bình dị của quê hương mới thật là hạnh phúc. Đó là “ Bến quê”
của tâm hồn mỗi chúng ta. Những điều tác giả gửi gắm đến người đọc càng trở nên tự nhiên
nhờ sự miêu tả tâm lí tinh tế, nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng. Cách xây dựng tình
huống truyện, đặc biệt là trần thuật theo dòng tâm trạng của nhân vật chính. Thật chân thực,
gần gũi khi những điều Nguyễn Minh Châu thể hiện lại được bộc lộ qua suy nghĩ, lời nói
của nhân vật chính là Nhĩ. Lấy “ Bến quê” làm nhan đề truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu
đã gửi gắm những suy nghĩ, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời,
thức tỉnh ở mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi của gia đình,
của quê hương.
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn tổng phân hợp.
Câu mở đầu đoạn là câu chủ đề bậc 1: Nêu cảm nhận chung về nhan đề tác phẩm “
Bến quê”.
Các câu tiếp theo phân tích, lí giải về nhan đề truyện.

305
Câu kết thúc đoạn là câu chủ đề bậc 2: Khẳng định ý nghĩa nhan đề của truyện.
Ví dụ 4:
- Bài tập: Viết một đoạn văn ngắn giải thích nhan đề của tác phẩm “ Mùa xuân nho nhỏ”
của Thanh Hải ( trong đó có sử dụng phép thế và một câu hỏi tu từ kết thúc đoạn).
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tươi
đẹp của đất nước, một mùa xuân tươi vui, tràn đầy sức sống. Tác giả của bài thơ là người
sống hết mình thuỷ chung cho đất nước, đem cả cuộc đời phục vụ cho Tổ quốc. Khi đất
nước bị mĩ - Diệm và bè lũ tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật
trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm
động hơn nữa là bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, khi nhà thơ đang nằm trên
giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời. Bởi thế nên “ Mùa xuân nho nhỏ” không chỉ
thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước của tác giả mà còn thể hiện tình yêu
trước cuộc đời của người nghệ sĩ. Nhan đề bài thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc: mỗi con
người hãy trở thành “ một mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân bất tuyệt của đất nước.
Ai cũng phải có ích cho đời. “ Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý
tưởng: “ Mỗi cuộc đời đã hoá núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Nhà thơ Thanh Hải đã
góp cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Tuy một tâm hồn, tài năng
thơ đã khép lại, nhưng những gì thuộc về chất ngọc trong trái tim, tấm lòng nhà thơ còn để
đời cho hậu thế trân trọng nâng niu. Làm sao không quý, không yêu những vần thơ của một
hồn thơ đáng kính nhường này?”
Phép thế đại từ: Thanh Hải, nhà thơ, ông, hồn thơ.
Câu kết thúc đoạn văn là câu hỏi tu từ.

Luyện tập:
- Viết đoạn văn ( khoảng 5 câu) theo cách tổng phân hợp, có sử dụng câu ghép, thể hiện sự
cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Đồng chí” của Chính Hữu.
- Viết đoạn văn ( khoảng 5 câu) theo cách tổng phân hợp, có sử dụng câu mở rộng thành
phần, thể hiện sự cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Bếp lửa” của Bằng Việt.
- Viết đoạn văn ( khoảng 5 câu) theo cách diễn dịch, có sư dụng câu ghép, thể hiện sự cảm
nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”
của Nguyễn Khoa Điềm.
- Viết đoạn văn ( khoảng 5 câu) theo cách quy nạp, cs sử dụng câu hỏi tu từ, thể hiện sự
cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy.
- Viết đoạn văn ( khoảng 5 câu) theo cách tổng phân hợp thể hiện sự cảm nhận của em về ý
nghĩa nhan đề tác phẩm “ Sang thu” của Hữu Thỉnh.
- Viết đoạn văn ( khoảng 5 câu) theo cách diễn dịch, có sử dụng phép liên kế câu, thể hiện
sự cảm nhận của em về ý nghĩa nhan đề tác phẩm “ Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh
Khuê.

306
4. Đoạn văn phân tích một chi tiết quan trọng hoặc một từ ngữ, hình ảnh đặc
sắc trong tác phẩm.
Hướng dẫn viết đoạn:
Yêu cầu về nội dung:
- Giới thiệu chi tiết quan trọng hoặc từ ngữ, hình ảnh đặc sắc trong tác phẩm cần phân tích.
- Phân tích chi tiết (từ ngữ, hình ảnh) đó hay, đặc sắc như thế nào về nội dung, hình thức.
- Nó có ý nghĩa gì trong việc thể hiện nội dung chủ đề của tác phẩm.
Yêu cầu về hình thức: như yêu cầu chung về hình thức của đoạn văn.
Ví dụ 1:
- Bài tập: Trong truyện “ Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ có rất nhiều chi tiết,
nhưng theo em chi tiết nào đặc sắc nhất trong tác phẩm? Hãy viết một đoạn văn ngắn phân
tích ý nghĩa của chi tiết đó.
- Đoạn văn minh hoạ:
Trong tác phẩm văn học có rất nhiều chi tiết nhưng có những chi tiết rất đặc sắc. Chi
tiết đặc sắc là chi tiết quan trọng mà nhờ đó cốt truyện mới phát triển được, đồng thời nó
góp phần thể hiện nội dung chủ đề của tác phẩm. Chi tiết đặc sắc nhất trong truyện “
Chuyện người con gái Nam Xương” chính là chi tiết “ cái bóng”. “ Cái bóng” thắt nút mâu
thuẫn, đẩy kịch tính của câu chuyện lên đến cao trào và đỉnh điểm mâu thuẫn. Song cuối
cùng chính “cái bóng” cởi nút mâu thuẫn, giải oan cho Vũ Nương. Không có cái bóng sẽ
không có sự hiểu lầm, không có oan tình, không có cái chết oan khuất của Vũ Nương. Mặt
khác, “ cái bóng” ẩn chứa những tình cảm đẹp của Vũ Nương với chồng con. Nàng nhớ
chồng thương con nên đã nghĩ ra trò đùa như vậy. Nhưng “ cái bóng” đã gây nên nỗi oan
tình khiến nàng phải trẫm mình xuống dòng sông Hoàng Giang mà chết oan khuất. “ Cái
bóng” trong lời nói của bé Đản là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nương.
Qua cái chết của Vũ Nương, người đọc hiểu hơn số phận bi thảm của người phụ nữ trong
xã hội xưa, hiểu được chế độ nam quyền độc đoán, bất công, vô nhân đạo. Như vậy “ cái
bóng” là chi tiết quan trọng góp phần thể hiện nội dung chủ đề của tác phẩm.
Ví dụ 2:
- Bài tập: Em hãy chọn một chi tiết đặc sắc thể hiện tình yêu tha thiết làng quê mình của
ông Hai trong tác phẩm “ Làng” của Kim Lân, viết một đoạn văn ngắn phân tích chi tiết đó
( sử dụng câu hỏi tu từ cuối đoạn).
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Tình yêu làng trào dâng như sóng và trở thành một niềm cảm hứng mãnh liệt trong
ông Hai. Bằng cách để nhân vật tự kể về mình, nhà văn đã giúp ta hiểu phần nào tâm trạng
của ông Hai. Niềm vui sướng của ông khi kể chuyện làng lan sang cả trang sách, len lỏi vào
lòng người đọc. Không những vật, ông còn tự hào về làng mình có những đường hầm, hào
liên tiếp, có những ụ giao thông, những buổi tập quân sự của các cụ phụ lão cứu quốc…
Điều đó thể hiện một tình cảm sâu kín thấm vào da thịt ông rất giản dị mà cao quý. Tình
cảm đó càng được nhân lên gấp bội khi ông nghe tin làng chợ Dầu đi Việt gian: “ Cổ ông
nghẹn đắng lại, da mặt ông tê rân”…Chỉ bằng một chi tiết nhỏ nhưng rất đặc sắc, Kim
Lân đã diễn tả thành công sự đau khổ đang giày vò, giằng xé tâm can ông Hai. Nhà văn rất
tài tình khi xây dựng, dâng tình tiết truyện lên đến kịch tính, đưa câu chuyện lên đến đỉnh

307
cao mâu thuẫn để bộc lộ đáy sâu tâm hồn ông Hai. Biết tin sét đánh này, ông nghẹn ngào,
choáng váng, nói không ra lời như một cái gì nuốt không nổi. Suy cho cùng, nỗi đau đớn ấy
cũng xuất phát từ tình yêu làng của ông mà ra. Bởi vì yêu làng quá, tin làng quá nên ông
mới xấu hổ, tủi hổ khi nghe cái tin ấy. Tình yêu làng của ông thật cao đẹp, to lớn biết
nhường nào?”
Câu kết thúc đoạn là câu hỏi tu từ.
Ví dụ 3:
- Bài tập: Em hãy chọn một chi tiết đặc sắc thể hiện sự chiêm nghiệm của Nhĩ trong tác
phẩm “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu, viết một đoạn văn ngắn, có câu hỏi tu từ, phân
tích chi tiết đó.
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Bến quê” là một truyện ngắn thấm đẫm ý vị triết lí về con người và cuộc đời. Bài
học về lẽ sống được đặt ra trong tác phẩm thật cảm động. Nhĩ là nhân vật trung tâm của tác
phẩm. Anh là người thành đạt, bước chân của anh đã in dấu nhiều nơi trên trái đất, giờ đây
lại bị cột chặt vào giường bệnh. Chính vào thời điểm này, thời điểm đối mặt với cái chết,
đối mặt với chính mình Nhĩ mới chợt nhận ra, chợt thấu hiểu giá trị đích thực của cuộc
sống. Vậy điều chiêm nghiệm lớn lao nhất của Nhĩ là gì? Nằm bên cửa sổ, trông ra bến quê
Nhĩ lúc này mới phát hiện ra vẻ đẹp thầm kín, bình dị của bãi bồi bên kia sông Hồng “ một
chân trời gần gũi mà lại xa lắc”. Trong anh chợt bừng lên một niềm khao khát vươn tới:
sang bên kia sông. Thoạt nghe tưởng chừng lạ lùng nhưng thực ra đó là điều mong muốn
chính đáng. Nhĩ bệnh trọng nên anh trao niềm mong muốn đó cho con trai anh - thằng
Tuấn, hi vọng con trai thay thay mình khám phá được vẻ đẹp của mảnh đất thân thuộc. Đến
đây Nhĩ gặp phải nghịch lí: đứa con không hiểu được ước muốn của cha. Tuấn còn trẻ - cái
độ tuổi chưa đủ chín chắn, do đó Tuấn làm một cách miễn cưỡng và hờ hững để rồi lại bị
cuốn hút vào trò chơi phá cờ thế trên đường phố. Nhưng Nhĩ không trách con mà anh chỉ
buồn bởi Tuấn dẫm theo vết xe đổ của bản thân mình. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng
nhiều hình ảnh mang lớp nghĩa biểu tượng để thể hiện điều chiêm nghiệm của tác giả qua
suy nghĩ của nhân vật Nhĩ. Trò chơi phá cờ thế trên hè phố chính là tượng trưng cho những
cám dỗ, những điều hấp dẫn khiến con người đi sai hướng. Mà cơ hội thì khó xuất hịên hai
lần như chuyến đò ngang chở khách qua sông duy nhất một lần trong ngày. Đó cũng là quy
luật phổ biến của đời người: “ Con người trên đường đời thật khó tránh được những
điều vòng vèo hoặc chùng chình”. Đây chính là điều mà đến lúc sắp giã biệt cuộc đời Nhĩ
mới kịp nhận ra nhưng cũng đã muộn, đây cũng chính là điều chiêm nghiệm lớn lao nhất
của Nhĩ. Con đường trong tâm thức Nhĩ là vòng vèo, chùng chình vì nhiều người bị lạc
đường, lạc hướng, thiếu trí tuệ. Hình ảnh con đò cập bến phải chăng là biểu tượng cho con
đò đưa Nhĩ đến bến bờ hư không của một kiếp người? Chính giây phút đó, Nhĩ sắp từ giã
cõi đời mà anh vẫn chưa thực hiện được mong muốn cuối cùng. Cái mảnh đất đầy phù sa
bên kia sông vẫn cứ xa lắc. Hình ảnh kết thúc truyện cứ ám ảnh mãi trong lòng người đọc
với hình ảnh Nhĩ cố giơ tay ra hiệu cho người con trai khi chiếc đò cập bến. Nhưng mọi cố
gắng của anh dường như là vô vọng…Hình ảnh này cứ xoáy váo tâm trí người đọc một cảm
xúc khó tả đến nao lòng.

308
Ví dụ 4:
- Bài tập: Trong đoạn thơ sau:
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Em thích hình ảnh nào nhất? Hãy viết một đoạn văn quy nạp, phân tích hình ảnh đó.
- Đoạn văn minh hoạ:
“Đoàn thuyến đánh cá” là bài thơ hay của nhà thơ Huy Cận, miêu tả nhiều cảnh của một
chuyến ra khơi đánh cá của một đoàn thuyền từ lúc “ mặt trời xuống biển” chiều hôm trước,
đến tận lúc “ mặt trời đội biển nhô màu mới” sáng hôm sau mới trở về. Đoàn thuyến ra
khơi đi tìm được luồng cá trong lòng biển. Lưới đã thả và luồng cá hiện ra. Những con cá
hiện ra thật đẹp “ cá nhụ cá chim cùng cá đé”. Có rất nhiều loại cá và ta có thể nhận thấy
đó là những loài cá quý. Trong tầm nhìn, từng đàn cá chen nhau đông đúc. Dưới ánh trăng,
thân hình cá lấp lánh lung linh, và giữa các đàn cá đó, nổi bật lên hình ảnh:
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
Đoạn thơ cho ta thấy đầy đủ sắc màu rực rỡ của con cá song. Đặc biệt hình ảnh đuôi cá
được miêu tả thật độc đáo, sống động: “ Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Giữa muôn
ngàn cá, con nào cũng đẹp, nhưng cá song nổi bật lên không chỉ ở màu sắc rực rỡ như ngọn
đuốc của cá làm cho trăng đẹp hơn, sáng hơn mà là ở cái đuôi “ quẫy” khiến trăng “ vàng
choé”. Chính cử động ấy đã làm tâm hồn nhà thơ rung động và bật lên tiếng “ em” trìu
mến. Câu thơ đã góp phần làm cho bức tranh cá đầy màu sắc, ánh sáng, có hồn, và có giá trị
thẩm mĩ đặc sắc: gợi tả và ca ngợi biển quê hương giàu đẹp.
Ví dụ 5:
- Bài tập: Trong phần thứ nhất của bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải viết:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Đoạn thơ đẹp như một bức tranh. Em thích nhất hình ảnh nào trong bức tranh đó? Hãy viết
một đoạn văn, có sử dụng câu ghép, phân tích hình ảnh ấy.
- Đoạn văn minh hoạ 1:
“ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải là một bài thơ ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên
tươi đẹp của đất nước, một mùa xuân vui tươi, tràn đầy sức sống. Sáu câu thơ đầu đẹp như
một bức tranh, bức tranh thơ được vẽ bằng nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, bằng một
niềm yêu mến thiết tha cảnh sắc thiên nhiên đất nước. Khung cảnh mùa xuân đã khơi nguồn
cho bao thi sĩ. Mùa xuân trong thơ Trần Nhân Tông với hình ảnh:

309
“Song song đôi bướm trắng
Phất phới sấn hoa bay”.
( Xuân hiểu)
Hay trong thơ Nguyễn Trãi đó lại là hình ảnh:
“ Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”
( Cuối xuân tức sự)
Trong thơ Nguyễn Du ta mới bắt gặp hình ảnh:
“ Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
( Truyện Kiều)
Ta đã được chiêm ngưỡng nhiều bức tranh về mùa xuân song bức tranh mùa xuân
trong thơ Thanh Hải lại mang một nét đẹp hoàn toàn mới mẻ, tạo cho người xem một
nguồn cảm hứng hoàn toàn mới lạ nhưng cũng dạt dào tha thiết. Trong bức tranh mùa xuân
này, hình ảnh thơ ấn tượng nhất là:
“ Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Ở đây tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ với dụng ý là làm nổi bật lên hình ảnh bông
hoa tím biếc giữa dòng sông xanh. Lẽ ra phải viết là: “ Một bông hoa tím biếc - Mọc giữ
dòng sông xanh” thì tác giả lại viết: “ Mọc giữa dòng sông xanh - Một bông hoa tím biếc”
để diễn tả sự trầm trồ ngạc nhiên trước tín hiệu đầu xuân. Dòng sông xanh được nói đến là
con sông Hương – bài thơ trữ tình của cố đô Huế. Đúng là một bức tranh đẹp với những nét
vẽ tài hoa của người nghệ sĩ, một bức tranh có đủ đường nét màu sắc. Ở đây các gam màu
được phối hợp một cách hài hoà: giữa cái nền xanh của dòng sông nổi lên sắc tím biếc của
bông hoa. Phải nói rằng Thanh Hải có một cái nhìn rất tinh tế của một hoạ sĩ thực thụ trong
sự hoà phối các gam màu để tạo nên cho bức tranh xuân một vẻ đẹp dịu dàng nhưng thật
đằm thắm, tạo cảm giác êm ái trong lòng người đọc mỗi khi xuân về.
- Đoạn văn minh hoạ 2:
Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào năm 1980, trong khung cảnh
hoà bình, xây dựng đất nước. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang. Sáu câu thơ
đầu như một tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Tín hiệu đầu xuân là bông
hoa tím biếc mọc trên dòng sông xanh của quê hương. Màu xanh của nước hoà với màu “
tím biếc” của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Bức tranh thơ ấy sống
động hơn, có giá trị thẩm mĩ đặc sắc bởi một hình ảnh thơ gợi tả gợi cảm: tiếng chim. Đứng
trước dòng sông xanh, bông hoa tím, ngẩng nhìn bầu trời, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe
chim chiền chiện hót. Chim chiền chiện còn gọi là chim sơn ca, bạn của nhà nông. Từ “ơi”
cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Hai tiếng “ hót chi” là giọng điệu thân thương của người dân Huế được tác giả đưa
vào diễn tả cảm xúc thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót gọi xuân về,

310
tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem đến bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn
bông hoa đẹp, nghe chim hót, nhà thơ bồi hồi sung sướng:
“ Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
“Đưa tay…hứng” là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. “
Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng
chim chiền chiện? Sự chuyển đổi cảm giác ( thính giác - thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm
mĩ của âm thanh. Chỉ với ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và đặc biệt là tiêng
chim chiền chiện hót …,Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và dáng yêu vô
cùng. Đó là vẻ đẹp đầy sức sống mặn mà của đất nước vào xuân.
Ví dụ 6:
- Bài tập: Phân tích cách dùng từ “ nghĩa là” của Phạm Tiến Duật trong khổ thơ sau
bằng đoạn văn quy nạp :
“ Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe không lính ngắn ngủi mà thắm tình đồng
chí, đồng đội. Đời lính rất giản dị, bình dị mà lại rất sang trọng. Giữa chiến trường ác
liệt đầy bom đạn họ vẫn đàng hoàng “ Bếp Hoàng cầm ta dựng giữa trời”. Giữa trời là
giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có bát canh rau rừng, có lương khô…
thế mà rất đậm đà: “ Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Một chữ “ chung” rất hay
gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm người lính. Tiểu đội xe không kính trở thành
một tiểu gia đình chan chứa tình thương. “ Thơ là nữ hoàng nghệ thuật” thì ngôn từ là
chiếc áo của nữ hoàng. Hai chữ “ nghiã là” chỉ dùng để đưa đẩy nhưng dưới ngòi bút
của những nhà thơ tài hoa thì nó trở nên óng ánh, duyên dáng, đậm đà. Với Xuân Diệu,
mùa xuân, tuổi trẻ, thật đáng yêu, một đi không trở lại:
“ Xuân đang tới nghĩ là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân đã già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cững mất…”
( “ Vội vàng” – 1938)
Với Tố Hữu, người thanh niên cộng sản quyết chiến đấu và hi sinh vì một lí tưởng cách
mạng cao đẹp thì hận, nhục, tranh đấu là lẽ sống thiêng liêng:
“ Tôi chưa chất nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc!”
( “Tâm tư trong tù” 1939)
Và Phạm Tiến Dụât, 1969, thì tình đồng đội cũng là tình anh em ruột thịt, vô cùng thân
thiết:
“ Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

311
Thi sĩ có thực tài mới có thể thổi hồn vào ngôn từ. Chỉ qua hai chữ “ nghĩa là”, ta đủ
thấy nhà thơ trẻ rất xứng đáng với các thi sĩ đàn anh. Sau một bữa cơm thân mật, một
vài câu chuyện thân tình lúc nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường, tiền phương
đang vẫy gọi:
“ Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Điệp ngữ “ lại đi” diễn tả nhịp bước hành quân, những cung đường, những chặng
đường tiến quân lên phía trước của tiểu đội xe không kính. Hình ảnh “ trời xanh thêm”
là một nét vẽ rất tài hoa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: lạc quan, yêu đời, chứa chan
hi vọng. Là hi vọng, là chiến công đang chờ. Đây là đoạn thơ thể hiện sinh động sinh
hoạt vật chất và tinh thần người lính thời đánh Mĩ, rất hay, rất độc đáo mà ta ít gặp
thời ấy”.
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn quy nạp.
Các câu trên phân tích cảm nhận từng từ ngữ, hình ảnh thơ.
Câu chủ đề: câu cuối cùng kết lại đánh giá chung về khổ thơ.

Luyện tập:
- Phân tích chi tiết cái chết của ông Sáu trong truyện ngắn “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn
Quang Sáng để làm sáng tỏ nhận xét của nhân vật ông Ba trong tác phẩm : “ Hình như chỉ
có tình cha con là không chết được”.
- Viết một đoạn văn phân tích cảnh chia tay cảm động của cha con ông Sáu trong truyện “
Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng để làm rõ cảm giác của nhân vật ông Ba trong
truyện “ Nhìn cảnh ấy, bà con xung quanh có người không cầm được nước mắt, còn tôi
bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai đó nắm lấy trái tim tôi”.
- Viết một đoạn văn ngắn phân tích chi tiết mang tính biểu tượng ở cuối tác phẩm “Bến
quê” của nguyễn Minh Châu: “ Nhĩ đang thu hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để
đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y
như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”.
- Viết một đoạn văn phân tích hình ảnh hàng tre trong khổ thơ sau:
“ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
( “ Viếng lăng Bác” - Viễn Phương)
- Viết một đoạn văn, có sử dụng câu hỏi tu từ, phân tích hình ảnh vầng trăng trong khổ thơ
cuối bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:
“ Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.
- Viết một đoạn văn, có sử dụng câu mở rộng phành phần, phân tích hình ảnh đám mây
trong hai câu thơ sau:
“ Có đám mây mùa hạ

312
Vắt nửa mình sang thu”
( “ Sang thu” - Hữu Thỉnh)

5. Đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật


Hướng dẫn viết đoạn văn:
Đoạn văn phân tích đặc điểm nhân vật là đoạn văn độc lập. Ở đó có thể phân tích
một đặc điểm nào đó của nhân vật hoặc cũng có thể phân tích đặc điểm chung nhất của
nhân vật. Muốn phân tích được tốt đặc điểm của nhân vật, người viết cần nắm chắc chủ đề
của tác phẩm, cốt truyện và hệ thống nhân vật, đặc biệt là các đặc điểm của nhân vật chính.
Các đặc điểm đó có thể chia theo từng giai đoạn cuộc đời nhân vật: Nhân vật Vũ Nương
( trong truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ) khi về nhà chồng và
sống bên chồng, nàng là người phụ nữ đức hạnh, nết na, gia giáo, hạnh phúc của nàng là sự
bình yên, là tổ ấm gia đình. Khi chồng đi lính, nàng là người phụ nữ đảm đang, tháo vát,
yêu thương con trẻ, thuỷ chung và rất hiếu thảo. Khi chồng trở về, nàng bị vướng vào vòng
oan nghiệt, nàng lấy cái chết để bày tỏ phẩm hạnh của mình, mong được minh oan. Cũng
có thể nêu đặc điểm theo phẩm chất của nhân vật: ông Hai ( trong truyện ngắn “ Làng” của
Kim Lân) là con người có tình yêu làng quê hoà quyện với tình yêu nước và tinh thần
kháng chiến chống Pháp; nhân vật Lục Vân Tiên được khắc hoạ thành mẫu người người
anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp: giàu lòng thương người, dũng cảm và vị nghĩa cao cả,…
Yêu cầu về nội dung:
- Giới thiệu nhân vật cần phân tích với một vài nét chính như tên nhân vật, nhân vật của tác
phẩm, tác giả nào, đặc điểm cần phân tích.
- Dùng lí lẽ, dẫn chứng phân tích làm rõ đặc điểm đó.
- Đánh giá nhân vật.
Yêu cầu về hình thức: như yêu cầu về hình thức chung của đoạn văn.
Ví dụ 1:
- Bài tập: Viết đoạn văn tổng phân hợp dài 10 – 12 câu, phân tích Quang Trung là bậc kì tài
quân sự (qua hồi 14 trong tác phẩm “ Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái).
- Đoạn văn minh hoạ 1:
Đọc hồi thứ 14 “ Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái, ta thấy tác giả đã
xây dựng được một hình tượng kì vĩ tráng lệ là người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ;
Nguyễn Huệ ( xưng vương là Quang Trung) là một bậc kì tài quân sự(1). Khi nghe được tin
cấp báo quân Thanh sang xâm lược nước ta, ông vạch phương hướng ràng(2). Ông trực tiếp
chỉ huy đại binh tiến ra Bắc thần tốc, bí mật chưa từng thấy trong lịch sử(3). Ông có tài
điều binh khiển tướng, tài đó được thể hiện rõ trong lời dụ của ông trước ba quân và thể
hiện trong cách xử tướng(4). Lời dụ của ông trước quân tướng sang sảng, hùng hồn như lời
hịch lúc ra quân, kích thích lòng yêu nước, khơi gợi chí căm thù và khích lệ tinh thần xả
thân cứu nước(5). Cách đánh giặc của ông đa dạng, linh hoạt, phong phú, luôn ở thế chủ
động khiến giặc trở tay không kịp(6). Khi thì bao vây đánh giặc ở Hà Hồi, lúc thì áp sát
đánh giặc dũng cảm sáng tạo ở Ngọc Hồi, lúc đánh nghi binh ở đê Yên Duyên, khi mai
phục ở Đầm Mực,…(7)Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Quang Trung tiến quân như vũ
bão khiến giặc đại bại “ thây chất đầy đồng, máu trôi đỏ nước’, tướng Sầm Nghi Đống “

313
thắt cổ tự vẫn”, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy về nước “ ngựa không kịp đóng yên”,…(8)Quả thật,
Quang Trung là bậc anh hùng lão luyện, là nhà quân sự đại tài mà lịch sử đời đời ghi nhớ,
nhân dân ta đời đời biết ơn(9). Xây dựng và khắc hoạ hình tượng người anh hùng Nguyễn
Huệ là một thành công đặc sắc của các văn sĩ trong “ Ngô gia văn phái” (10). Nó làm cho
trang văn “ Hoàng Lê nhất thống chí” thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng
Đại Việt (11).
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn tổng phân hợp:
Câu chủ đề bậc 1: câu 1. Giới thiệu Quang Trung là bậc kì tài quân sự.
Các câu triển khai: câu 2 đến câu 8. Tài cầm quân của Nguyễn Huệ.
Câu chủ đề bậc 2: câu 9,10, 11( chùm câu đánh giá: nhân vật, tác giả, tác phẩm)
- Đoạn văn minh hoạ 2:
Đọc Hồi thứ 14 “ Hoàng Lê nhất thống chí” ( Ngô gia văn phái), hình tượng người
anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta ấn tượng không phai mờ(1).
Nguyễn Huệ thật “ lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân”(2). Ngày 24 tháng Chạp năm
Mậu Thân ( 1788) nhận được tin cấp báo về thế giặc ở Thăng Long, để danh chính ngôn
thuận xuất quân đánh giặc cõi Bắc, ông lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung(3).
Ngày 25 còn ở Thuận Hoá thế mà ngày 19 đã hành quân tới Nghệ An, mộ thêm binh tinh,
tổ chức duyệt binh và truyền hịch đánh giặc cứu nước(4). Chỉ hơn một ngày đêm, ông dã
kéo quân tới Tam Điệp, lệnh cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn đến mùng 7 vào thành Thăng
Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành 5 đạo binh lớn “ gióng trống lên đường
ra Bắc”( 5). Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc: bắt sống toàn bộ quân giặc do
thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi; bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc
bị giết “ thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối”(6). Tại Đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc
Thanh bị bủa vây “ quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người”( 7).
Trong khi đó, một trận “ rồng lửa” diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành
12 gò cao như núi(8). Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào “ Tướng ở trên trời
rơi xuống, quân chui dưới đất lên”, làm cho Tôn Sĩ Nghị “ sợ mất mật ngựa không kịp
đóng yên, người không kịp mặc áo giáp…nhắm hướng bắc mà chạy”(9). Trưa mùng 5,
Nguyễn Huệ và đại quân kéo vào thành Thăng Long trước kế hoạch tác chiến 2 ngày( 10).
Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu ( 1789) đã dựng lên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ về vua
Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:
“ Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình”
( “ Ai tư vãn” - Ngọc Hân công chúa) (11).
Mô hình cấu trúc doạn văn: Đoạn văn tổng phân hợp:
Câu chủ đề bậc 1: câu 1. Giới thiệu nhận định về Nguyễn Huệ.
Các câu khai triển: câu 2 -10. Chứng minh tài cầm quân của Nguyễn Huệ.
Câu chủ đề bậc 2: câu 11. Cảm nghĩ về hình tượng người anh hùng.
Ví dụ 3:
- Bài tập: Viết một đoạn văn diễn dịch, phân tích lòng yêu nghề, say mê công việc của anh
thanh niên trong tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long (kết thúc đoạn là một
câu cảm thán).

314
- Đoạn văn minh hoạ:
Anh thanh niên trong truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một
người yêu nghề, say mê công việc, có tinh thần trách nhiệm cao. Công việc của anh là làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu với nhiệm vụ cụ thể là đo gió, đo mưa, tính nắng,
tính mây, đo sự chấn động của vỏ trá đất. Anh làm việc đó một mình ở đỉnh Yên Sơn cao
2600 mét , nơi chỉ có cây cỏ và sương mù bao phủ quanh năm. Công việc anh làm gian
khổ, thầm lặng nhưng có ý nghĩa giúp dự báo thời tiết để nhân dân ta sản xuất và chiến đấu.
Phải là người yêu nghề, say mê với công việc, anh mới trụ vững ở đỉnh Yên Sơn, mới chiến
thắng được sự cô đơn một mình. Đam mê với công việc nên anh tìm thấy niềm vui trong
công việc “ Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao có trể gọi là một mình được”. Thật
cảm động khi anh tâm sự bày tỏ với ông hoạ sĩ “ Công việc gian khổ như thế đấy, nhưng
cất nó đi, cháu buồn chết đi được”. Suy nghĩ của anh chính là suy nghĩ của thế hệ trẻ ở
thập niên 70 của thế kỉ XX, thật đẹp biết bao!”
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn diễn dịch:
Câu chủ đề: câu 1. Nêu đặc điểm bao quát của anh thanh niên.
Các câu sau triển khai chứng minh cho đặc điểm đó.
Câu kết đoạn đánh giá suy nghĩ về lẽ sống đẹp của anh.
Ví dụ 4:
- Bài tập:
Viết một đoạn văn khoảng 10 – 12 câu, theo cách lập luận diễn dịch phân tích về đặc
điểm nổi bật của nhân vật ông Hai trong truyện Ngắn “ Làng” của Kim Lân. Đoạn văn có
sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm (gạch chân yếu tố miêu tả, biểu cảm đó).
- Đoạn văn minh hoạ:
Ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” của kim Lân là nhân vật điển hình cho người
nông dân trong kháng chiến chống Pháp có tình yêu làng, yêu nước cảm động. Ông Hai
yêu làng Chợ Dầu của mình nên thường khoe và tự hào làng của ông là làng cách mạng,
làng kháng chiến. Vì hoàn cảnh ông phải đi tản cư, ông luôn nhớ về làng “ Chao ôi, lão
thấy nhớ làng mình quá!”. Gặp đoàn tản cư ông lão hỏi thăm tin tức làng Chợ Dầu thì được
người tản cư cho biết làng ông làm Việt gian theo Tây. Ông cảm thấy đau đớn, xấu hổ “ da
mặt tê rân rân, cổ nghẹn đắng lại, không thở được ”, “ông cúi gằm mặt, lảng đi về nhà”.
Tin dữ ám ảnh ông, biến ông thành con người khác, chỉ ru rú ở nhà không dán ra ngoài, hay
cáu bẳn, gắt gỏng. Khi mụ chủ nhà có ý định đuổi khéo gia đình ông, ông rơi vào trạng thái
bế tắc, tuyệt vọng. Ở hoàn cảnh đó ông đấu tranh giằng xé: hay là về làng? Nhưng vừa nghĩ
ông đã gạt phắt đi vì về làng tức là theo Tây, bỏ Cụ Hồ, bỏ kháng chiến. Trong sự bế tắc
đó, ông tâm sự với con út như một cách ngỏ lòng mình rằng: ở ông, tình yêu làng, trung
thành với cách mạng, với kháng chiến không bao giờ thay đổi. Khi được tin cải chính, ông
Hai như người chết sống lại, ông lại sung sướng đi khoe làng bị đốt, nhà mình bị cháy. Đó
là minh chứng hùng hồn chứng minh làng ông là làng Cách mạng, làng kháng chiến.
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn diễn dịch:
Câu chủ đề là câu mở đoạn: nêu đặc điểm nổi bật của nhân vật ông Hai.
Các câu sau triển khai chứng minh lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai.
Ví dụ 5:

315
- Bài tập: - Viết một đoạn văn theo kiểu quy nạp, phân tích tâm hồn trong sáng, mơ
mộng, tinh thần dũng cảm của cô thanh niên xung phong Phương Định trong tác phẩm “
Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê. Trong đoạn văn, sử dụng ít nhất hai
phép liên kết câu (gạch dưới những từ ngữ này)
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Những ngôi sao xa xôi” của nữ nhà văn Lê Minh Khuê kể về ba nữ thanh niên xung
phong là Nho, Phương định và chị Thao làm thành “tổ trinh sát mặt đường”. Họ ở trên một
cao điểm giữa một vùng trong điểm trên tuyến đường Trường Sơn – con đường huyết
mạch, con đường nối hậu phương miền Bắc với tiền phương miền Nam, con đường trọng
yếu của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh. Cả ba cô gái trong tác phẩm đều đáng mến,
đáng cảm phục. Nhưng người đọc vẫn có ấn tượng sâu sắc nhất với Phương Định. Vốn là
một cô gái thành phố, thích mơ mộng, cô có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư bên người
mẹ, một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh. Những kỉ niệm ấy luôn sống lại trong cô
ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn cô
trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt. Vào chiến trường đã ba năm, đã quen với những thử
thách và nguy hiểm, giáp mặt hằng ngày với cái chết, nhưng ở cô cũng như ở đồng đội
không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng và những ước mơ về tương lai. Định còn là một cô
gái rất hồn nhiên, yêu đời và thích hát. Định hát ngay trong những khoảnh khắc “im lặng”,
khi máy bay trinh sát bay rè rè. Cô hát cả khi “ máy bay rít, bom nổ, nổ trên cao điểm, cách
cái hang này khoảng 300 mét”. Đúng là “ tiếng hát át tiếng bom”. Cô yêu quý hai người
đồng đội, đặc biệt cô dành tình cảm và niềm cảm phục cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp
hằng đêm trên trọng điểm của con đường ra mặt trận. Cũng giống như những cô gái mới
lớn, Phương Định nhạy cảm và quan tâm tới hình thức của mình: “ Nói một cách khiêm tốn
tôi là một cô gái khá, hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa
kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: Cô có cái nhìn sao mà xa xăm!” . Cô biết mình
được nhiều người, nhất là các anh lính trẻ để ý và có thiện cảm. Điều đó làm cô thấy vui và
cả tự hào nhưng chưa dành riêng tình cảm của mình cho một ai. Nhạy cảm nhưng cô lại
không hay bộc lộ tình cảm của mình, tỏ ra kín đáo giữa đám đông, tưởng như là kiêu kì.
Phương Định hay hồi tưởng về những kỉ niệm của tuổi học trò hồn nhiên, vô tư pha một
chút tinh nghịch và mơ nộng của một thiếu nữ: “Cô hay ngồi trên thành cửa sổ để hát, hát
say sưa đến nỗi suýt lộn nhào xuống đất”! Công việc phá bom đối với cô là một công việc
quen thuộc nhưng cũng rất nguy hiểm. Thậm chí một ngày phá tới năm quả bom. Mỗi lần
là một thử thách với giây thần kinh cho tới từng cảm giác. Nhân vật Phương Định còn để
lại trong lòng người đọc những tình cảm sâu sắc bởi chính tâm hồn trong sáng, mộng mơ
của cô. Giữa tuyến lửa Trường Sơn, cô vẫn dành một khoảng tâm hồn mình nhớ về hình
ảnh người mẹ, nhớ về Hà Nội, nhớ về những ngôi sao trên bầu trời thành phố, nhớ về cái
vòm tròn của nhà hát. Tất cả những kỉ niệm đó chính là niềm động viên, khích lệ cô gái
hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Hình ảnh của Phương Định cùng các đồng đội ,với
vẻ đẹp của lòng dũng cảm, vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, vẻ đẹp của tâm hồn trong
sáng mãi mãi lung linh, toả sáng như những ngôi sao trên bầu trời.
Mô hình cấu trúc đoạn văn: Đoạn văn quy nạp:
- Các câu trên phân tích, chứng minh những vẻ đẹp của nhân vật Phương Định.

316
- Câu kết đoạn nêu cảm nhận, đánh giá về nhân vật.
Phép liên kết:
- Phép nối: Cả… nhưng.
- Phép thế: nữ thanh niên…họ…đồng đội; Phương Định…gô gái…cô.

Luyện tập:
- Viết một đoạn văn có sử dụng phép lặp, phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “
Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ.
- Viết một đoạn văn có sử dụng phép nối, phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm “
Làng” của Kim Lân.
- Viết một đoạn văn có sử dụng phép thế, phân tích nhân vật anh thanh niên trong tác phẩm
“ Lặnh lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
- Viết một đoạn văn quy nạp có sử dụng than từ, phân tích tình yêu ba mãnh liệt của bé Thu
trong truyện “ Chiếc lựơc ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
- Viết một đoạn văn theo kiểu diễn dịch, phân tích tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần
dũng cảm của cô thanh niên xung phong Phương Định trong tác phẩm “ Những ngôi sao xa
xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê. Trong đoạn văn, sử dụng ít nhất hai phép liên kết câu
(gạch dưới những từ ngữ này)

6. Đoạn văn phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ.
Hướng dẫn viết đoạn:
Yêu cầu về nội dung:
- Xác định chính xác câu thơ, câu văn trích trong tác phẩm nào, của tác giả nào, nội
dung phản ánh là gì; biện pháp tu từ được sử dụng trong câu đó là biện pháp gì.
- Phân tích hiệu quả tu từ của biện pháp tu từ trong việc thể hiện nội dung.
- Đánh giá câu thơ, câu văn đó.
Yêu cầu về hình thức: như yêu cầu về hình thức chung của đoạn văn.
Ví dụ 1:
- Bài tập:
Viết một đoạn văn phân tích giá trị gợi hình và biểu cảm của các từ láy trong hai câu
thơ sau:
“ Một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”.
( “ Bếp lửa” - Bằng Việt)
- Đoạn văn minh hoạ:
Đây là hai câu thơ mở đầu bài thơ “ Bếp lửa”, khơi nguồn cho kí ức Bằng Việt từ nơi xa
nhớ về quê hương, nhớ về người bà kính yêu của mình:
“ Một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”.
Nhà thơ nhớ về những kỉ niệm gắn với hình ảnh “ bếp lửa”: “ Một bếp lửa chờn vờn trong
sương sớm”. Từ láy tượng hình “ chờn vờn” gợi ánh lửa cháy bập bùng được nhìn qua làn
sương mỏng giăng giăng buổi sớm. Đó là một hình ảnh thực in dấu trong tâm khảm, được

317
nhà thơ nhớ lại nó thành một hình ảnh huyền ảo trong ánh hồi quang, mang đầy kỉ niệm
đẹp về bếp lửa quê hương. Từ hình ảnh ấy nhà thơ cảm nhận được một sức ấm nóng toả ra
không chỉ từ bếp lửa hồng sớm mai: “ Một bếp lử ấp iu nồng đượm”. Từ láy tượng hình “
ấp iu” trong câu thơ có giá trị biểu cảm cao, gợi đôi bàn tay nhóm lửa khéo léo, tần tảo,
chịu thương, chịu khó của bà “ mỗi sớm, mỗi chiều lại bếp lửa bà nhen”. Đồng thời từ “ấp
iu” còn gợi tấm lòng chăm chút yêu thương của tình bà dành cho cháu trong suốt những
năm tháng tuổi thơ sống bên bà. Tình cảm bà cháu lớn lên cùng hình ảnh bếp lửa ngày càng
“nồng đượm”. Với sự góp mặt của hai từ láy “ chờn vờn”, “ấp iu” khiến cho câu thơ mang
nặng kỉ niệm về kí ức ân tình, về bếp lửa, về tấm lòng bà, về tình bà cháu thiêng liêng.
Ví dụ 2:
- Bài tập:
Viết một đoạn văn tổng phân hợp trình bày cảm nhận của em về hai câu thơ:
“ Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
( “Truyện Kiều” - Nguyễn Du)
( Trong đó có sử dụng câu văn đánh giá, so sánh câu thơ của Nguyễn Du với câu thơ cổ
Trung Quốc có nội dung tương tự).
- Đoạn văn minh hoạ:
Hai câu thơ trên trích trong bài “ Cảnh mùa xuân” ( “ Truyện Kiều” - Nguyễn Du) là
hai câu thơ đặc sắc tả cảnh thiên nhiên mùa xuân trong tiết thanh minh. Nguyễn Du
không miêu tả nhiều mà ông chỉ chọn tả một số hình ảnh đặc sắc, tiêu biểu, đó là hình
ảnh “ cỏ non xanh” tận chân trời, “ cành lê trắng” điểm vài bông hoa. Cỏ xanh non, tươi
tốt mơn mởn, mỡ màng được trải dài đến tận chân trời dường như còn được nối với
xanh của bầu trời mùa xuân. Thảm cỏ non làm nền để làm nổi bật vẻ đẹp của mấy cành
lê đang ra hoa, hoa nở điểm xuyết trên cành. Bằng nghệ thuật đảo ngữ “ trắng điểm”, tác
giả đã tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh, tô đậm sắc trắng tinh khiết của hoa lê nổi
bật trên nền xanh non của cỏ. Hai câu thơ của Nguyễn Du thực ra có mượn hai câu thơ
cổ của Trung Quốc:
“ Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa”
( Cỏ thơm liền với trời xanh
Cành lê có điểm một vài bông hoa)
Hai câu thơ cổ Trung Quốc chỉ gợi mà không tả, còn hai câu thơ của Nguyễn Du tả rõ
màu sắc khiến câu thơ sinh động, có hồn với màu sắc tươi tắn đậm chất hội hoạ. Từ câu
thơ ngũ ngôn mang phong vị Đường thi, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du thành câu
thơ lục bát uyển chuyển mang đậm hồn thơ dân tộc. Chỉ với hai câu thơ tả cảnh với bút
pháp chấm phá, Nguyễn Du cho ta cảm nhận được bức tranh xuân tươi tắn, tràn đầy
sức sống phơi phới của mùa xuân.
Đoạn văn có mô hình cấu trúc tổng phân hợp:
- Câu mở đoạn là câu chủ đề bậc 1: Nêu ấn tượng chung về hai câu thơ
Nguyễn Du.

318
- Các câu tiếp triển khai phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của hai câu
thơ đó, có so sánh với hai câu thơ cổ Trung Quốc.
- Câu kết đoạn là câu chủ đề bậc 2: Nêu nhận xét về giá trị hai câu thơ đó.
Ví dụ 3:
- Bài tập:
Viết một đoạn văn ngắn phân tích hiệu quả nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ
sau ( trong đó có sử dụng câu mở rộng thành phần, gạch chân câu đó):
“ Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
( “ Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ” - Nguyễn Khoa Điềm)
- Đoạn văn minh hoạ:
Trong chiến tranh gian khổ, xuất hiện những con người giàu đức hi sinh, cống hiến hết
mình cho đất nước. Tiêu biểu cho những con người đó là bà mẹ Tà – ôi, Nguyễn Khoa
Điềm đã khắc hoạ hình ảnh của bà mẹ:
“ Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
Với hai câu thơ này, người đọc thấy hiện ra trước mắt hình ảnh bà mẹ Tà – ôi địu con
lên núi Ka – lưi trỉa bắp thật thân thương. Trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm có dãy núi
hoang sơ, có nương bắp đang trồng, có mặt trời trên đỉnh núi, có “ mặt trời” trên lưng
mẹ. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của tự nhiên, của vũ trụ toả sáng
đem sự sống đến cho vạn vật. Còn ở câu thơ thứ hai, hình ảnh mặt trời mang ý nghĩa ẩn
dụ thật độc đáo. Em bé Cu – tai nằm trên lưng mẹ được tác giả ví như “ mặt trời của
mẹ”. Em là mặt trời bé bỏng, đáng yêu, ấm áp của lòng mẹ. Em là ánh sáng là niềm vui,
là báu vật, là hạnh phúc của đời mẹ. Hai hình ảnh sóng đôi “ mặt trời của bắp”, “ mặt
trời của mẹ” tạo nên một sự liên tưởng bất ngờ, thú vị. Mặt trời có ý nghĩa với muôn
loài thế nào thì em Cu – tai có ý nghĩa thiêng liêng với đời mẹ như thế. Với cách viết
như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một câu thơ hay, độc đáo trong thơ hiện đại.

Câu mở rộng thành phần bổ ngữ: Với hai câu thơ này, người đọc thấy hiện ra trước
mắt hình ảnh bà mẹ Tà – ôi địu con lên núi Ka – lưi trỉa bắp thật thân thương.
- Đề ngữ: Với hai câu thơ này.
- Chủ ngữ: người đọc.
- Vị ngữ: thấy hiện ra trước mắt hình ảnh bà mẹ Tà – ôi địu con lên núi Ka –
lưi trỉa bắp thật thân thương.
- Động từ trung tâm: thấy.
- Bổ ngữ: hiện ra trước mắt hình ảnh bà mẹ Tà – ôi địu con lên núi Ka – lưi
trỉa bắp thật thân thương.
- Trong bổ ngữ có:
+ Chủ ngữ: mắt hình ảnh bà mẹ Tà – ôi địu con lên núi Ka – lưi trỉa bắp.
+ Vị ngữ: thật thân thương.
Ví dụ 4:

319
- Bài tập: Viết một đoạn văn phân tích giá trị tu từ của những thanh bằng trong câu thơ
cuối của khổ thơ sau:
“ Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.
- Đoạn văn minh hoạ:
Khổ thơ thứ tư, nhà thơ lại tiếp tục ghi lại những gian khổ mà người lính đã trải qua:
-“ Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa mau khô thôi”.
Lại một lần nữa, người đọc bắt gặp hình ảnh người lái xe trong cái vẻ ngang tang,
chấp nhận mọi thử thách: “Ừ thì ướt áo” như một tiếng tặc lưỡi. Luôn luôn là một thái
độ bất cần, bất chấp hoàn cảnh. Khó khăn, gian khổ cũng không làm ảnh hưởng đến ý
chí của họ, không gì ngăn nổi bánh xe lăn, không gì cản được trái tim người chiến sĩ
hướng về tiến phương. Nhiệt tình cách mạng của người lái xe không còn là trừu tượng
nữa mà được tính bằng cung đường “ lái trăm cây số nữa”. Những cung đường ấy trong
mưa bom bão đạn phải trả bằng mồ hôi xương máu. Gian khổ là vậy, nhưng hình ảnh
người lái xe vẫn phơi phới niềm tin, tràn đầy nghị lực đã được thể hiện qua câu thơ cuối
khổ bốn:
“ Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.
Một câu thơ với cấu trúc khá đặc biệt, có bảy từ mà đến sáu thanh bằng góp phần
diễn tả sự lâng lâng bay bổng. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã không chỉ ở mưa bom bão
đạn của kẻ thù mà còn là “mưa rừng Trường Sơn” - những cơn mưa lũ xối xả, người
chiến sĩ lái xe không hề chùn bước, ngại ngùng. Trái lại, như thép đã tôi luyện, họ càng
dày dạn, vững vàng, coi mưa gió là chuyện thường. Ngồi sau vô lăng, chạy xe trong
mưa rừng, tranh thủ từng phút vượt qua cung đường dài đầy nguy hiểm để đưa hàng tới
đích phục vụ tiền phương. Câu thơ không chỉ là miêu tả, không chỉ là lời tự động viên,
đằng sau câu thơ là một tâm hồn yêu đời lạc quan, một tính cách trẻ trung đầy chất lính.
Ví dụ 5:
- Bài tập: Viết một đoạn văn phân tích giá trị tu từ của biện pháp hoán dụ trong khổ thơ
cuối bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:
“ Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
- Đoạn văn minh hoạ:
Khổ cuối đã làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh. Chiếc xe mang đầy
thương tích:
“ Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”

320
Hai dòng thơ với sự tập hợp của ba cái “ không có” và chỉ có một cái “ có”. Tất cả
đã khắc hoạ lên trước mắt người đọc hình ảnh những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy
thương tích chiến tranh. Nhưng những chiếc xe không kính đó vẫn chạy bon bon trên
đường Trường Sơn với một niềm tự hào, khẳng định dáng đứng và tâm thế của người lính -
thể hiện tuổi trẻ Việt Nam:
“ Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Hình ảnh hoán dụ “ trái tim” là biểu tượng của ý chí, của bầu nhiệt huyết, của khát vọng tự
do, hoà bình cháy bỏng trong tim người chiến sĩ. Không mà lại có, cái có của người lính lái
xe là một trái tim, một người yêu nước, một lòng khao khát giải phóng miền Nam thì tất cả
những cái thiếu kia đâu có hề gì. Vậy đó, khí phách ngang tàng mà vẫn tha thiết yêu
thương, đó là anh lính lái xe thời chống Mĩ của Phạm Tiến Duật.

Luyện tập:
- Phân tích ý nghĩa của các từ láy trong đoạn thơ:
“ Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềng bắc ngang
Sè sè nắm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
( Trích “ Truyện Kiều” - Nguyễn Du).
- Trong câu thơ “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu
từ gì? Nêu rõ hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ấy.
- Em hãy phân tích cái đặc sắc của hai câu thơ sau:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
( Trích “Đồng chí” – Chính Hữu)
- Nói về nỗi nhớ gia đình, quê hương của anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm
dài máu lửa, Chính Hữu đã viết: “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Em hãy
cho biết cái hay của câu thơ là ở chỗ nào?

- Xác định và chỉ rõ tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng ở câu cuối cùng
của bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ( Phạm Tiến Duật): “ Chỉ cần trong
xe có một trái tim”.

- Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau:
“ Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
( Trích “Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận)
- Em hãy phân tích ý nghĩa của biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

321
( Trích “ Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận).
- Phân tích ý nghĩa tu từ trong hai câu thơ sau:
“ Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
( Trích “ Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận)

- Em hãy phân tích ý nghĩa của biện pháp tu từ trong đoạn thơ sau:
“ Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
( Trích “ Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận).
- Phân tích ý nghĩa tu từ trong đoạn thơ sau:
“ Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ấp ủ
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Trích “ Bếp lửa” - Bằng Việt)
- Phân tích ý nghĩa tu từ trong đoạn thơ sau:
“ Mặt trời của bấp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ , em nằm trên nương”
( Trích “ Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ” - Nguyễn Khoa Điềm)
- Em hãy phân tích ý nghĩa của biện pháp tu từ trong những câu thơ sau đây:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
( Trích “ Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải)
- Em hãy phân tích ý nghiã biện pháp tu từ trong những câu thơ sau đây:
“ Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
(Trích “ Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải)
- Xác định và chỉ rõ tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng ở trong những câu thơ
sau:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
( Trích “ Viếng lăng Bác” - Viễn Phương)
- Xác định và chỉ rõ tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong những câu thơ
sau:
“ Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.

322
( Trích “ Viếng lăng Bác” - Viễn Phương)
- Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong những câu thơ sau:
“ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
( Trích “ Viếng lăng Bác” - Viễn Phương)
- Viết đoạn văn tổng phân hợp trong đó có sử dụng câu hỏi tu từ, phân tích cái hay
được sử dụng trong khổ thơ cuối bài “ Đồng chí” của Chính Hữu:
“Đêm nay, rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
- Viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về hai câu thơ sau ( trong đó có sử dụng
một câu ghép):
“ Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
( “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Phạm Tiến Duật)

7 . Đoạn văn phân tích, cảm nhận về một đoạn văn, đoạn thơ.
Hướng dẫn viết đoạn:
Yêu cầu về nội dung:
- Xác định chính xác đoạn thơ, đoạn văn trích trong tác phẩm nào, của tác giả nào.
- Đặc sắc về nội dung hoặc nghệ thuật của đoạn là gì, phân tích nội dung và hiệu quả
của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung đó.
- Đánh giá đoạn thơ, đoạn văn đó ( có thể kết hợp đánh giá về tác giả, tác phẩm).
Yêu cầu về hình thức: như yêu cầu về hình thức chung của đoạn văn.
Ví dụ 1:
- Bài tập:
Viết một đoạn văn phân tích giá trị gợi hình và biểu cảm của hai hình ảnh thơ song đôi
trong khổ thơ sau:
“ Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quang lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trải đầy nương mạ”.
( “ Mùa xuân nho nhỏ”- Thanh Hải)
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ ngũ ngôn trường thiên của Thanh Hải ra đời vào
những ngày tháng cuối năm 1980. Nó được phổ nhạc thành ca khúc mùa xuân làm
xao xuyến và say đắm lòng người. Bài thơ có những hình ảnh xuân của thiên nhiên,
của đất nước, của con người thật đẹp, trong đó có bốn câu thơ nói về mùa xuân sản
xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Cấu trúc thơ song hành đối xứng để chỉ rõ hai
nhiệm vụ chiến lược ấy:
“ Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quang lưng.

323
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trải đầy nương mạ”.
“ Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc.
“ Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của
đất nước. Người lính khoác trên lưng vành lá nguỵ trang xanh biếc, mang theo sức sống
mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân, đem mồ hôi và
sức lao động cần cù làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “ trải dài nương mạ” bát ngát
quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm
mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.
Ví dụ 2:
- Bài tập: Viết đoạn văn diễn dịch trong đó có câu ghép (gạch chân câu ghép đó): phân
tích khổ thơ đầu bài thơ “ Sang thu” của hữu Thỉnh:
“ Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
- Đoạn văn minh hoạ:
“ Từ chiến hào tới thành phố” là tập thơ – đoá hoa đầu mùa của Hữu Thỉnh, xuất bản
vào tháng 5.1985. Cái duyên của nhà thơ- người lính lái xe thiết giáp này thể hiện khá
đậm đà ở một số bài thơ ngũ ngôn, trong đó có bài “ Sang thu”. Mở đầu bài thơ là một
nét chớm thu nơi đồng quê êm đềm, dịu dàng và thơ mộng được cảm nhận và diễn tả
một cách tinh tế, tài hoa:
“ Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
Mùa thu là mùa đẹp nhất, đáng yêu nhất. nắng vàng tươi, trời xanh trong bao la. Có
trăng sáng, có gió mát. Nhiều thi sĩ xưa nay đã nói thật hay, thật đẹp về thu:
“ Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng”
( Nguyễn Du)
‘ Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”
( Nguyễn Khuyến)
Hữu Thỉnh cũng góp cho thơ thu dân tộc một nét thu: đất trời, quê hương ngày đầu thu,
buổi chớm thu. Hình như đã nhiều ngày đêm chờ mong thu về, sớm nay nhà thơ khẽ reo
lên:
“ Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu”
Mùa thu là mùa của trái chín: chuối tiêu trứng cuốc, chuối ngự vàng khươm, trái hồng
đỏ mọng,…Hương vị thu là “ hương cốm mới”, là hương thơm ngọt ngào của trái cây.
Với HữuThỉnh, cái tín hiệu báo mùa thu đang tới là hương ổi nơi vườn quê; cái hương

324
thơm nồng nàn ấy, thân thuộc ấy đang “ phả vào trong gió se”. Gió thu lành lạnh, khô
khô, se se . Hương ổi toả ra nồng nàn như “ phả” vào cảnh vật, được gió thu mang đi,
làm ngây ngất hồn người. Hương ổi là một thi liệu độc đáo thể hiện bút pháp nghệ thuật
Hữu thỉnh. Chữ “ bỗng” trong câu thơ “ Bỗng nhận ra hương ổi” diễn tả sự ngạc nhiên,
niềm vui bất ngờ chợt đến, mới cảm nhận được, mới phát hiện ra. Không chỉ là hương
ổi, là gió se, tín hiệu sang thu còn có sương thu:
“ Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Hai chữ “ chùng chình” đã nhân hoá sương thu. Sương thu ngập ngừng vấn vương, chờ
đợi… một chút gì bang khuâng. Nhìn thấy sương trắng nhạt phủ mờ ngõ nhỏ, nhà thơ
cảm thấy thu đã về. Hai chữ “ hình như” là phỏng đoán, nửa tin nửa ngờ. Nhà thơ cảm
nhận bước đi của mùa thu trong khoảnh khắc chớm thu không chỉ bằng khứu giác (nhận
ra hương ổi), không chỉ bằng xúc giác (gió se), bằng thị giác ( sương chùng chình qua
ngõ) mà còn bằng tất cả sự rung động của tâm hồn, linh hồn . Bâng khuâng, rạo rực,
rung động và xôn xao. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ
thuật đồng hiện khá tinh tế, đầy chất thơ.
Mô hình cấu trúc đoạn văn : Đoạn văn diễn dịch:
- Câu chủ đề: “ Mở đầu bài thơ …tinh tế, tài hoa” nêu đặc sắc khổ thơ.
- Các câu khai triển phân tích cảm nhận những đặc sắc đó.
Câu ghép được gạch chân.
Ví dụ 3:
- Bài tập: Viết một đoạn văn phát biểu cảm nhận của em về tình mẹ qua đoạn thơ sau
trong bài thơ “ Con cò” của Chế Lan Viên ( trong đó, kết thúc đoạn là một câu hỏi tu
từ):
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cành có mềm,mẹ đã sẵn tay nâng!
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân!
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”
- Đoạn văn minh hoạ:
Tình mẫu tử thiêng liêng tự cổ chí kim là đề tài muôn thuở của các văn nhân, thi sĩ.
Mỗi tác giả khai thác đề tài này ở những khia cạnh khác nhau. Chế Lan Viên với bài thơ
“ Con cò” đã nói về sự nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ đối với các con. Bài
thơ mở đầu là lời ru của mẹ bên nôi, đưa con vào giấc nhủ êm đềm, chập chờn cánh cò,
cánh vạc trong ca dao xưa…rồi hình ảnh cò mẹ lặn lội kiếm ăn ban đêm để nuôi đàn con
bé bỏng, chẳng may “ đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao”…lời ru của mẹ chứa đựng
nỗi ngậm ngùi xót thương cho những thân phận vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống thời
xưa. Ngắm nhìn con ngủ say, mẹ càng thấy con của mẹ may mắn được sống đầy đủ, no
ấm trong vòng tay mẹ:
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cành có mềm,mẹ đã sẵn tay nâng!

325
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân!
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”
Mẹ đã dành cho con thơ tất cả: cánh tay dịu hiền của mẹ, lời ru câu hát êm đềm của mẹ,
dòng sữa ngọt ngào của mẹ. những hoán dụ nghệ thuật ấy đã hình tượng hoá tình mẫu tử
bao la. Nhịp thơ cũng là nhịp võng, nhịp cánh nôi nhẹ đưa, vỗ về. Điệp ngữ “ngủ yên”,
“ con chưa biết” và “con cò” láy đi láy lại nhiều lần làm cho giọng thơ trở nên đầm ấm,
ngọt ngào, tha thiết dìu dịu chan chứa hạnh phúc yêu thương. Lời ru đậm đà tình nghĩa,
ẩn chứa lời dạy về đạo lí làm người, qua âm hưởng, nhịp điệu trầm bổng theo tháng
ngày mà thấm vào máu thịt, vào tâm hồn của đứa con yêu. Đọc những câu thơ như thế,
ai mà không xúc động trước tình mẹ mênh mông như biển rộng, bất tận như suối
nguồn?
Câu kết đoạn là câu hỏi tu từ.
Ví dụ 4:
- Bài tập:Viết một đoạn văn quy nạp nêu cảm nhận của em về đoạn văn miêu tả tâm lí
nhân vật ông Hai ( trong “ Làng” của Kim Lân) khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
- Đoạn văn minh hoạ:
Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm
anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái tin “dữ” cả làng Chợ Dầu “Việt
gian theo Tây”… “vác cờ thần ra hoan hô” lũ giặc cướp! Ông tủi nhục cúi gằm mặt xuống
mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một
cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con ông vừa buồn vừa sợ, “ gian
nhà lặng đi, hiu hắt”. Ông sợ mụ chủ nhà…có lúc ông nghĩ quẩn “ hay là quay về làng”…
nhưng rồi ông lại kiên quyết: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù!”. Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông là một tình tiết cảm động và thú vị:
…- “À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?”
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má…lòng trung thành của
cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên
định. Vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế khi
miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ, …của người nông dân về cái làng quê của mình.
Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài
học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho chúng ta. Đọc xong đoạn văn,
chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình
huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân.
Ví dụ 5:
- Bài tập: Viết một đoạn văn tổng phân hợp, phát biểu cảm nhận của em khi đọc đoạn
văn sau trong tác phẩm “ Bến quê” của Nguyễn Minh Châu:
“ Bên kia những cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đế cho con sông Hồng một
màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm
đang từ từ chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù

326
sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của
gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những sắc màu thân
thuộc quá như da thịt da thịt, hơi thở của đất màu mỡ…”.
Đoạn văn minh hoạ:
Vẻ đẹp của thiên nhiên trong một buổi sáng đầu thu được miêu tả qua cái nhìn và
cảm xúc tinh tế của nhân vật Nhĩ. Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ từ gần đến
xa, tạo thành một không gian có nhiều sâu, chiều rộng. Đầu tiên, anh nhìn thấy những bông
bằng lăng tím ngay phía ngoài cửa sổ, rồi đến con sông Hồng với màu nước đỏ nhạt và sau
cùng là bãi bồi bên lia sông. Cảnh vật thiên nhiên hiện ra với vẻ đẹp vô cùng quyến rũ.
Không gian và những cảnh vốn quen thuộc, gần gũi, nhưng hầu như rất mới mẻ đối với
Nhĩ. Tưởng chừng như lần đầu trong đời, anh cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của nó. Từ
hoàn cảnh cụ thể của mình, Nhĩ đã quan sát, suy nhẫm để rút ra quy luật giống như một
nghịch lí của đời người. Vào buổi sáng hôm ấy, khi nhận ra vẻ đẹp bình dị, gần gũi của
cảnh vật qua ô của sổ, đồng thời cũng hiểu rằng mình sắp giã biệt cõi đời, trong tâm thức
Nhĩ bừng lên một nhát khao vô vọng là được đặt chân một lần lên cái bãi bồi bên kia sông.
Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững của những điều bình
thường và sâu sắc của cuộc sống thường bị người ta bỏ qua hoặc lãng quên. Sự thức tỉnh
của Nhĩ xen lẫn niềm ân hận, xót xa: Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót
chân khắp mọi phương trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái
bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia.
Luyện tập:
- Viết đoạn văn quy nạp( 5 -6 câu), trong đó có sử dụng phép nối, nhận xét về nghệ
thuật tả người trong đoạn trích “ Chị em Thuý Kiều” ( Trích “Truyện Kiều” - Nguyễn
Du).
- Viết khoảng đoạn văn diễn dịch ( 5 - 6 câu), trong đó có sử dụng ít nhất một phép
liên kết câu, nhận xét về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ “ Cảnh ngày xuân”
trích trong “ Truyện Kiều” ( Nguyễn Du).
- Nhận xét về nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua đoạn trích “ Mã Giám Sinh
mua Kiều” ( Truyện Kiều) bằng một đoạn văn tổng phân hợp ( 5 – 6 câu), trong đó có
sử dụng một câu hỏi tu từ.
- Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nội tâm của Nguyễn Du qua đoạn trích “ Kiều ở lầu
Ngưng Bích” ( Truyện Kiều) bằng một đoạn văn diễn dịch ( 5 – 6 câu), trong đó có
một câu hỏi tu từ.
- Suy nghĩ về nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích “ Lục Vân Tiên cứu Kiều
Nguyệt Nga” ( Trích “ Lục Vân Tiên” - Nguyễn Đình Chiểu) bằng một đoạn văn tổng
phân hợp ( Khoảng 5 – 6 câu), trong đó có sử dụng ít nhất một phép liên kết câu.
( Chú ý: Gạch chân từ ngữ dùng làm phương tiện liên kết câu).
- Trong bài thơ “ Đồng chí”, Chính hữu viết rất xúc động về người chiến sĩ trong
kháng chiến chống Pháp:
“ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

327
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Dựa vào đoạn thơ trên, hãy viết một đoạn văn ( khoảng 10 câu) theo cách lập luận tổng
phân hợp trong đó có sử dụng phép thế và một câu phủ định để làm rõ sự đồng cảm, sẻ
chia giữa những người đồng đội.

- Khổ thơ sau gợi lên hình ảnh của người chiến sĩ lái xe:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
( Trích “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Phạm Tiến Duật)
Em hãy viết một đoạn văn ( 10 câu) theo phép lập luận diễn dịch, trong đó có sử
dụng phép thế và một câu có tình thái từ.

- Trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, có đoạn:
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.
Em hãy viết một đoạn văn ( 8 – 10 câu) cảm nhận về đoạn văn trên theo phép lập luận
diễn dịch, trong đó có sử dụng một câu tình thái từ, với câu chủ đề: “ Chỉ với bốn câu
thơ ấy, Huy Cận đã cho ta thấy một bức tranh kì thú về sự giàu có và đẹp đẽ của biển cả
quê hương”.
- Trong bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt có đoạn:
“ Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”
Hãy viết một đoạn văn ( 8 – 10 câu) nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa trong
đoạn thơ trên theo phép lập luận tổng phân hợp, trong đó có sử dụng ít nhất hai phép
liên kết câu.( Chú ý: Gạch chân từ ngữ liên kết câu)

328
- Viết một đoạn văn ( khoảng 10 câu) phân tích đoạn thơ sau theo phép lập luận diễn
dịch trong đó có một câu hỏi tu từ:
“ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ
Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang trỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng

- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a- kay hỡi


Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…”
- Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn khoa Điềm là
lời hát ru có ba khúc với kết cấu giống nhau, đều kết thúc bằng lời ru trực tiếp của
người mẹ. Hãy chép lại từng lời ru trực tiếp của người mẹ và viết một đoạn văn ( 10
câu) theo phép lập luận tổng phân hợp về cấu trúc tình cảm của lời ru.
- Viết một đoạn văn quy nạp có sử dụng phương pháp liên kết câu ( 8 - 10 câu), với đề
tài: Cảm nghĩ của em về hình ảnh người mẹ Tà Ôi trong bài thơ “ Khúc hát ru những
em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
- Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang nhiều tầng ý
nghĩa. Em hãy làm rõ ý kiến trên bằng một đoạn văn diễn dịch ( 10 – 12 câu), trong
đó có câu hỏi tu từ.
- Trong bài thơ “ Việt Bắc” sáng tác năm 1954, có đoạn là lời của nhân dân Việt Bắc
nhắn nhủ cán bộ miền xuôi:
“ Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn nhớ núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
( Tố Hữu)
Từ đoạn thơ của Tố Hữu và bài thơ “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy, em hãy
viết một đoạn văn phát biểu cảm nghĩ của mình theo phương pháp quy nạp ( khoảng
10 câu) với câu chủ đề sau: “ Dù sáng tác ở hai thời điểm khác nhau, nhưng những
vần thơ của Tố Hữu và Nguyễn Duy đã gặp gỡ ở lời nhắn nhủ: Hãy sống ân tình
thuỷ chung”.
- Viết một đoạn văn ( 8 – 10 câu) trong đó có sử dụng lời dẫn gián tiếp, phân tích tâm
trạng lo âu, đau khổ của ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” ( Kim Lân ) khi nghe
được tin “ cả cái làng Dầu Việt gian theo Tây” .
- Viết một đoạn văn ( 8 – 10 câu) trong đó có sử dụng lời dẫn trực tiếp, phân tích tâm
trạng hả hê sung sướng của ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” ( Kim Lân) khi được
tin làng Dầu không phải “ Việt gian theo Tây” như lời đồn.

329
- Viết một đoạn văn ( 8 – 10 ) theo phép lập luận tổng phân hợp, trong đó có sử dụng
lời dẫn trực tiếp, phân tích những phẩm chất tốt đẹp của anh thanh niên làm công tác
khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn trong truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa” (
Nguyễn Thành Long).
- Viết một đoạn văn diễn dịch có sử dụng phép lặp từ ngữ ( 8 – 10 câu) nên cảm nghĩ
của em về những nhân vật trong “ Lặng lẽ Sa Pa” ( Nguyễn Thành Long) với câu mở
đầu: “Đây là những nhân vật, những tâm hồn trong trẻo, bình dị, hồn hậu và tràn
ngập tình thương”.
- Tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” ( Nguyễn Thành Long) và tác phẩm “ Những ngôi sao xa
xôi” ( Lê Minh Khuê) đều viết về vẻ đẹp trong lối sống, tâm hồn của con người Việt
Nam trong lao động và trong chiến đấu. Em hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về vẻ
đẹp đó bằng một đoạn văn diễn dịch ( khoảng 10 câu), có dùng phép lặp từ ngữ, với
câu chủ đề: “ Vẻ đẹp của các nhân vật đều mang màu sắc lí tưởng, họ là hình ảnh
của con người Việt Nam mang vẻ đẹp của thời kì lịch sử gian khổ hào hùng và lãng
mạn của dân tộc”.
- Viết đoạn văn tổng phân hợp ( 10 câu) phân tích ý nghĩa của hai tình huống trong
truyện “ Chiếc lược ngà” ( Nguyễn Quang Sáng).
- Viết một đoạn văn tổng phân hợp, có sử dụng phương pháp liên kết câu ( khoảng 6 –
8 câu) với đề tài: Cảm nhận của em về nhân vật bé Thu trong tác phẩm “ Chiếc lược
ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
- Trong bài thơ “ Con cò ” ( Chế Lan Viên) có đoạn:
“ Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi”
Em hãy viết một đoạn văn tổng phân hợp ( 8 - 10 câu), trong đó có sử dụng phép lặp
từ ngữ, cảm nhận về lời ru trong đoạn thơ trên.
- Trong bài thơ “ Nói với con” của Y Phương có đoạn:
“ Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng”.

Hãy viết một đoạn văn ( 7 - 8 câu) cảm nhận về đoạn thơ trên, theo phép lập luận diễn
dịch, trong đó sử dụng ít nhất hai phép liên kết câu.
- Bài thơ “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương có đoạn:
“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt

330
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn là cây tre trung hiếu chốn này”
Hãy viết một đoạn văn ( 8 - 10 câu) cảm nhận về đoạn thơ trên, theo phép lập luận
diễn dịch, trong đó có sử dụng ít nhất hai phép liên kết câu.
- Viết đoạn văn cảm nhận của em trước lòng kính yêu tha thiết của nhân dân miền Nam đối
với chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài thơ “ Viếng lăng Bác ”, theo phép lập luận diễn dịch
( khoảng 10 câu) trong đó có dùng phương pháp liên kết câu. ( Chú ý: Gạch chân từ ngữ
được sử dụng làm phương tiện liên kết câu).
- Viết một đoạn văn cảm nhận về vẻ đẹp trong lối sống, tâm hồn của nhân vật Phương
Định trong truyện “ Những ngôi sao xa xôi ” ( Lê Minh Khuê), theo phép lập luận
quy nạp trong đó có sử dụng phép thế ( khoảng 10 câu).
- Viết một đoạn văn theo phương pháp diễn dịch ( khoảng 6 – 8 câu), trong đoạn văn
có sử dụng một câu hỏi tu từ, phân tích ý nghĩa của đoạn thơ sau:
“ Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra trận
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
( Trích “ Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải)
- Trong bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải viết:
“ Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa”.
Kết thúc bài “ Viếng lăng Bác”, Viễn Phương viết:
“ Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác”.
Hai bài thơ của hai tác giả viết về đề tài khác nhau nhưng có chung chủ đề: ước
nguyện chân thành, khiêm nhường, bình dị muốn được góp phần dù nhỏ bé vào cuộc
đời chung. Từ hai đoạn thơ trên, viết một đoạn văn phát biểu cảm nghĩ của em bằng
một đoạn văn diễn dịch khoảng 8 – 10 câu, trong đó có dùng phép liên kết câu. ( Chú
ý: Gạch chân những từ ngữ dùng làm phương tiện liên kết câu).
- Bài thơ “ Đồng chí ” ( Chính Hữu) viết về hình ảnh người lính trong kháng chiến
chống Pháp, bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” ( Phạm Tiến Duật) viết về
hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Mĩ.
Em hãy viết một đoạn văn diễn dịch, có sử dụng phương pháp liên kết câu, về hình
ảnh người lính qua hai bài thơ trên, với câu chủ đề: “ Hình tượng anh bộ đội trong

331
thơ ca thời kì chống Pháp và chống Mĩ vừa mang những phẩm chất chung hết sức
đẹp đẽ của người lính Cụ Hồ vừa có những nét cá tính riêng khá độc đáo”.

332

You might also like