You are on page 1of 104

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA NGOẠI NGỮ

TẬP BÀI GIẢNG

TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH

BIÊN SOẠN: THS.NGUYỄN THỊ CHÂU


THS.TRẦN THU THUỶ
LỜI GIỚI THIỆU

Hiện nay có nhiều sách dạy Tiếng Việt thực hành đã được xuất bản. Tùy
theo mục tiêu giảng dạy và học tập của từng đối tượng cụ thể mà nội dung sách
được chọn lựa và biên soạn cho phù hợp. Xuất phát từ yêu cầu rèn luyện kỹ
năng thực hành tiếng Việt cho sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội, cuốn sách
này được xuất bản riêng để làm tài liệu tham khảo cho sinh viên.
Để có được khả năng nói và viết tốt tiếng Việt, sinh viên cần có quá trình
rèn luyện lâu dài. Với mục tiêu biên soạn tài liệu tham khảo cho sinh viên Bách
Khoa rèn luyện kỹ năng viết, nhóm biên soạn tập trung giới thiệu lại những nét
cơ bản của ngữ pháp tiếng Việt và lựa chọn nội dung thực hành rèn luyện kỹ
năng sử dụng chữ viết, dùng từ, đặt câu và làm việc với văn bản thông qua hệ
thống bài tập cụ thể.
Chúng tôi hy vọng sẽ giảm bớt những rắc rối không cần thiết cho sinh
viên khi học môn Tiếng Việt thực hành, một môn học nhìn bên ngoài có vẻ đơn
giản nhưng bên trong lại rất phức tạp. Chúng tôi cũng hy vọng, thông qua cách
dạy của giáo trình do mình biên soạn, các tác giả sẽ đóng góp những kinh
nghiệm quý báu vào việc dạy Tiếng Việt thực hành cho sinh viên.

1
PHẦN LÝ THUYẾT
CHƯƠNG 1. CHỮ VIẾT TRONG VĂN BẢN
1.VẤN ĐỀ CHỮ VIẾT
1.1. NGUYÊN TẮC CHUNG
Chữ viết tiếng Việt (chữ quốc ngữ) hiện nay được viết theo nguyên tắc ghi
âm - âm vị học, nghĩa là về cơ bản đọc sao viết vậy. Cụ thể:
- Mỗi âm thường được ghi bằng một con chữ (chữ cái) hoặc tổ hợp vài con chữ
(2 hoặc 3 con chữ) và ngược lại mỗi con chữ hoặc tổ hợp con chữ chỉ dùng để
ghi một âm.
Nghiêng: có 3 âm (âm vị) là / ŋ /, / ͜ie /, / ŋ / được ghi bằng 3 tổ hợp con
chữ “ngh”, “iê”, “ng”.
- Mỗi âm tiết được ghi bằng một chữ, viết rời, cách biệt nhau.
Rượu ngon không có bạn hiền (6 chữ - 6 âm tiết)
Không mua, không phải, không tiền, không mua. (8 chữ - 8 âm tiết)
- Mỗi âm tiết đều mang một thanh điệu. Tiếng Việt có 6 thanh, trong đó 5 dấu
thanh dùng để ghi 5 thanh điệu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) và một trường hợp
không dấu để ghi thanh ngang (thanh không). Thanh điệu có chức năng khu biệt
như một âm vị, vì vậy không có dấu thanh điệu khi viết có thể khiến người đọc
khó hiểu, hoặc hiểu không đúng điều mà người viết muốn diễn đạt.
NHA MAY CO KHI GIA LAM - nhà máy cơ khí Gia Lâm
- nhà mày có khỉ già lắm
BAT BAN NGAY - bắt ban ngày
- bắt bắn ngay
BO MAT VE NGAY - bố mất về ngay
- bò mất về ngay
1.2. NGOẠI LỆ
- Một âm (âm vị) được ghi bằng nhiều con chữ hoặc tổ hợp con chữ khác nhau:
Âm vị Con chữ
/k/ - c: con cá - k: kẽo kẹt - q: quả quýt
/γ/ - g: gà - gh: ghế
/ŋ/ - ng: ngả -ngh: nghiêng

2
/i/ - i: nghĩ - y: luỹ
/ṷ/ - o: toán - u: tuyến
(âm đệm)
/ṷ/ - u: xíu - o: táo
(bán nguyên âm cuối)
/i/ - y: tay - i: lại
(bán nguyên âm cuối)
- Một con chữ dùng để ghi nhiều âm:
Con chữ “u” - dùng để ghi nguyên âm chính: tu hú
- dùng để ghi âm đệm: quê, huê
- dùng để ghi bán nguyên âm cuối: sau
- Ghép nhiều con chữ để biểu thị một âm: ch, gh, kh, nh, ng, ngh, ph, th, tr, gi
- Nói viết khác nhau: riệu - rượu, thày - thầy, tai - tay, …
Do lỗi cá nhân và tuỳ từng địa phương, nhiều người còn gặp khó khăn trong
phân biệt một số phụ âm đầu:
l và n: màu nâu, lâu đời …
ch và tr: chiến tranh, quả chanh …
s và x: sương gió, xương máu …
r, gi, d: ra vào, gia đình, da thịt …
Một ngôn ngữ thống nhất trên cơ sở một chuẩn chính tả duy nhất trong cả
nước khó tránh được những điều kể trên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà
phương ngữ là một trong những nguyên nhân chính. Mặt khác ngôn ngữ có xu
hướng biến đổi theo thời gian nhưng chữ viết lại có xu hướng bảo thủ nên giữa
nói và viết có sự khác nhau cũng là điều cũng dễ hiểu.
Chữ viết có vai trò quan trọng trong giao tiếp bằng văn bản. Chữ viết có
thể gây thiện cảm hay hoài nghi về thói quen, tính cách thậm chí cả năng lực
của người viết từ phía người đọc. Đành rằng viết đẹp không phải ai cũng thực
hiện được nhưng viết đúng, viết cẩn thận, rõ ràng và dễ đọc lại là một yêu cầu
cần thiết với mọi người. Điều đó thể hiện thái độ trân trọng một tài sản quý giá
của dân tộc và ai cũng có thể làm được.
Việc rèn luyện chữ viết và viết đúng chính tả cần làm ngay từ đầu. Sửa lỗi
chữ viết tức là phải từ bỏ một thói quen nên không dễ, nó đòi hỏi tính tự giác,
lòng kiên nhẫn và sự nghiêm túc.
3
2. VẤN ĐỀ VIẾT HOA
2.1. CHỨC NĂNG CỦA VIỆC VIẾT HOA TRONG TIẾNG VIỆT:
- Đánh dấu sự bắt đầu một câu văn hay một dòng thơ.
- Ghi tên riêng của người, địa danh, chức danh, tên tổ chức chính trị xã hội.
- Biểu thị sự kính trọng một nhân vật, ví dụ: Bác Hồ, Người, …
2.2. QUI TẮC VIẾT HOA

2.2.1. Viết hoa tên người, địa danh


- Tên người việt Nam, tên các địa danh Việt Nam: Viết hoa chữ cái đầu tiên của
tất cả các âm tiết. Ví dụ: Lê Quý Đôn, Trần Hưng Đạo, Hà Nội, Thanh Trì,
Thành phố Hồ Chí Minh, Ba Vì …
- Tên người dân tộc thiểu số, các địa danh được phiên âm từ tiếng dân tộc thiểu
số ở Việt Nam cũng như tên riêng tiếng nước ngoài và địa danh nước ngoài đ-
ược phiên âm ra tiếng Việt thì viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận và giữa các
âm tiết có dấu gạch nối. Ví dụ: Kơ - pa Kơ - lơng, Y - a - li; To - mat E - di xơn,
Niu Đê - li, Xanh Pê - téc - bua …
2.2.2. Viết hoa tên các tổ chức chính trị - xã hội
Tên các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay được viết hoa theo nhiều cách
khác nhau nhưng nguyên tắc chung là cái riêng có chức năng khu biệt thì viết
hoa, cái chung không có chức năng khu biệt thì viết thường. Theo nguyên tắc
này, ta viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu và chữ cái đầu của các âm tiết đầu
các tập hợp biểu thị tính chất riêng. Ví dụ: Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (Trường đại học Bách khoa Hà Nội)…
3. CÁCH GHI TÊN RIÊNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI
Trên sách báo, tạp chí tiếng Việt có nhiều cách ghi tên riêng tiếng nước
ngoài. Hiện nay có ba cách phổ biến nhất đang được sử dụng là:
3.1. VIẾT NGUYÊN DẠNG
Cách viết này được sử dụng trong các sách báo chuyên ngành mang tính
học thuật, luận văn khoa học… Ví dụ: Shakespeare, Singapore Washington,
London …
3.2. CHUYỂN TỰ

4
Chuyển tự là cách viết chuyển chữ cái tiếng nước ngoài sang chữ cái tiếng
Việt rồi viết liền không có dấu gạch nối. Loại này cũng hay được sử dụng trong
các sách báo chuyên môn. Ví dụ: Sêchxpiơ, Oasintơn, Menđêlêev, Moxkva …
3.3. PHIÊN ÂM
Viết theo phiên âm là viết theo cách đọc, được dùng trong sách báo phổ cập,
viết rời từng âm tiết và giữa các âm tiết có ngang nối. Ví dụ: Sếch - xpia, Oa -
sinh - tơn, Men - đê - lê - ep, Mat - xcơ - va …

5
CHƯƠNG 2. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VỀ DÙNG TỪ,
ĐẶT CÂU TRONG VĂN BẢN

1. NHẬN DẠNG VÀ CHỮA CÁC LỖI VỀ TỪ


Theo Từ điển Tiếng Việt (1997, Hoàng Phê chủ biên), “từ là đơn vị ngôn
ngữ nhỏ nhất có nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, dùng để đặt câu”. Như
vậy từ là đơn vị ngôn ngữ học trực tiếp cấu taọ nên câu để câu được sử dụng
trong tư duy và giao tiếp.
Từ là đơn vị ngôn ngữ có nghĩa biểu thị sự vật, hành động, tính chất, số
lượng, biểu thị sự nghi vấn, cảm xúc… Khi nói hay viết đều phải dùng từ. Từ là
đơn vị ngôn ngữ đã có sẵn, thuộc kho từ vựng của ngôn ngữ và tồn tại trong
tiềm năng ngôn ngữ của mỗi người. Khi giao tiếp, vốn từ của từng người tạo ra
lời nói hay văn bản viết. Phong cách ngôn ngữ cá nhân phản ánh sự sáng tạo
trong việc dùng từ. Tuy nhiên việc dùng từ vẫn phải đảm bảo theo các yêu cầu
chung. Những yêu cầu này cũng là những tiêu chuẩn để xác định tính chất đúng
sai của việc sử dụng từ. Sau đây là những lỗi thường gặp khi dùng từ.
1.1. DÙNG TỪ KHÔNG ĐÚNG VỎ ÂM THANH VÀ HÌNH THỨC CẤU TẠO
Mỗi từ đều có âm thanh và hình thức cấu tạo riêng, ứng với âm thanh và
hình thức cấu tạo là ý nghĩa của từ. Một vỏ ngữ âm thường gợi liên tưởng đến
những nét nghĩa nhất định và ngược lại.
Dùng từ đúng là phải tôn trọng sự thống nhất gữa âm thanh và ý nghĩa.
Nếu dùng sai vỏ âm thanh của từ sẽ dẫn đến việc hiểu sai về nghĩa, thậm chí làm
cho người nghe liên hệ tới những khái niệm hoàn toàn xa lạ đối với cái người
nói muốn truyền đạt. Hiệu quả giao tiếp không đạt được như mong muốn.
Lỗi này thường liên quan đến các lỗi về chính tả và phát âm: không nắm
được hình thức âm thanh chuẩn của từ và viết không đúng âm chuẩn của từ. Ví
dụ:
- Nó đi phấp phơ ngoài phố.
- Ông linh cảm có điều bất chắc sắp xảy ra.
- Ross Brown tin vào tương lai sáng lạn của Mercedes GP.
- Nó nghe phong phanh tin tức về cô ấy.

6
Viết sai chính tả và phát âm sai đã dẫn đến dùng sai từ, từ không đúng
nghĩa với đối tượng được miêu tả, văn cảnh trong câu: phấp phơ, bất chắc, sáng
lạn, phong phanh.
1.2. DÙNG TỪ KHÔNG ĐÚNG NGHĨA
Từ dùng trong văn bản cần phải thể hiện đúng nội dung định biểu hiện (sự
vật, hành động, trạng thái, tính chất của hiện thực khách quan hoặc khái niệm
trừu tượng). Hiện tượng dùng từ không đúng nghĩa thường gặp ở các trường hợp
sau:
1.2.1.Không nắm được nghĩa của từ, nhất là các từ Hán Việt
Trong quá trình tiếp xúc và vay mượn từ vựng, nhiều từ đã được Việt hóa,
chuyển nghĩa trở nên thông dụng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều từ Hán - Việt đang
bị sử dụng sai về nghĩa. Ví dụ:
- Hay tẩy xóa khi làm bài là yếu điểm duy nhất của bạn Hoàng.
- Chúng ta cần phải khắc phục cho được trước những biểu hiện bàng quang của
cơ sở.
Thói quen không hiểu nghĩa của từ đã dẫn đến nhầm lẫn giữa các từ có
âm thanh gần giống nhau. Mãi là mua (khi sử dụng khuyến mãi có nghĩa là
khuyến khích người mua còn mại là bán (mại dâm) nhưng vẫn có nhiều người
sử dụng lẫn lộn giữa mua và bán (khuyến mãi viết thành khuyến mại, mãi dâm
thành mại dâm).
1.2.2. Nhầm lẫn các từ gần nghĩa
Các từ gần nghĩa tuy có phần giống nhau về nghĩa hoặc cả về yếu tố cấu tạo
nhưng nghĩa của các từ đó vẫn có sự khác nhau và cần được sử dụng khác
nhau. Ví dụ, giáo điều là những điều căn bản của một tôn giáo, phải nghiêm
chỉnh tuân theo. Giáo huấn là những lời dạy bảo của bề trên về điều hay, lẽ phải
(giáo và huấn đều có nghĩa là dạy). Tương tự như vậy, chúng ta có những nhóm
từ gần nghĩa dễ bị dùng lẫn lộn như giang sơn – non sông – sông núi, giao tế -
giao tiếp – giao thiệp, giao thời, giao thừa – quá độ …
1.2.3.Dùng sai nghĩa biểu cảm
Hiện tượng này thường xảy ra trong nhóm từ đồng nghĩa. Các từ đồng nghĩa
chỉ có thể phân biệt với nhau nhờ sắc thái nghĩa nhất định nào đó như nghĩa tích cực
hay tiêu cực, nghĩa trang trọng hay suồng sã, nghĩa lịch sự hay thô tục …
- Bọn giặc rất ngoan cường không chịu đầu hàng, dù đã bị bao vây tứ phía.

7
- Nhà vua đã chết chỉ sau mấy năm lên ngôi.
- Nó mời tôi xơi gói xôi vừa mua ở gánh hàng rong bên đường.
1.3. DÙNG TỪ KHÔNG ĐÚNG QUAN HỆ KẾT HỢP
Các từ khi được dùng trong câu, trong văn bản luôn có quan hệ kết hợp
với nhau về ngữ nghĩa và ngữ pháp. Chúng nằm trong các mối quan hệ với
những từ đi trước và đi sau. Khi dùng từ cần đảm bảo tạo được những mối quan
hệ ngữ nghĩa và quan hệ ngữ pháp hợp lý, phù hợp với ý nghĩa và đặc điểm ngữ
pháp của mỗi từ. Nếu không tuân thủ nguyên tắc đó, người nói hoặc viết sẽ mắc
lỗi khi dùng từ. Ví dụ:
- Do lượng mưa năm nay kéo dài nên đã gây nhiều thiệt hại cho mùa màng.
- Theo thống kê của Sở Y tế, số người mắc và chết các bệnh truyền nhiễm đã
giảm.
1.4. DÙNG TỪ KHÔNG PHÙ HỢP PHONG CÁCH NGÔN NGỮ CỦA VĂN BẢN
Dùng từ không hợp phong cách là dùng từ không phù hợp với văn cảnh,
hoàn cảnh giao tiếp hoặc thể loại văn bản. Có những từ mang sắc thái trung hòa,
được dùng trong mọi loại văn bản, thậm chí cả trong văn nói lẫn văn viết, được
gọi là từ đa phong cách. Có những từ chỉ được dùng trong một loại văn bản nhất
định, phù hợp với một loại phong cách văn bản riêng được gọi là từ đơn phong
cách.
Khi dùng từ cần phải chú ý tới phong cách ngôn ngữ của văn bản cũng
như hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Nếu người viết không chú ý tới yêu cầu này, từ
có thể sẽ bị dùng sai. Ví dụ:
- Con hổ dùng những cái vuốt nhọn hoắt cấu vào người, vào mặt Viên… nhưng
Viên vẫn rán sức quần nhau với chú hổ.
- Ánh sáng cung cấp năng lượng cho cây xanh quang hợp. Các quá trình sinh
trưởng khác của cây cũng cần những tia sáng ấm áp trong lành. Không có ánh
sáng, cây xanh sẽ chết ngay tức khắc.
1.5. DÙNG TỪ SÁO RỖNG
Từ ngữ sáo rỗng là những từ có nội dung vượt quá tính chất, mức độ cần
thiết muốn diễn đạt, đọc lên tạo cảm giác hoành tráng, cao sang nhưng rỗng
tuếch. Viết văn bản cũng cần tránh bệnh dùng từ sáo rỗng, dùng những từ sáo
mòn, những câu chữ có sẵn bất kể nội dung định diễn đạt thích hợp ở mức độ

8
nào với các từ ngữ ấy. Bệnh sáo rỗng công thức dẫn đến những câu văn đao to
búa lớn mà ý nghĩa nghèo nàn, chung chung. Ví dụ:
- Anh là nhà thơ vĩ đại đã viết nên những tác phẩm tuyệt diệu với một nội dung
trữ tình sâu sắc, một hình thức nghệ thuật điêu luyện, xứng đáng ở đỉnh cao
chói lọi trên văn đàn thơ ca rực rỡ của dân tộc.
- Vào trường đại học này tôi sẽ tìm gặp tiếng nói của lương tâm.
- Nếu đời sống là nguồn cảm hứng dồi dào, mang đạm hương vị mặn mà của
tiếng lòng nhân ái, thì thời đại là ánh hào quang trong băng giá, xua tan mây
mù cho ánh nắng tràn theo với rực rỡ nắng và hoa lung linh màu sắc.
Trong ví dụ trên hàng loạt cụm từ bóng bảy, mượt mà, chau chuốt dùng
ngợi ca thời đại mà chẳng rõ là nhà thơ nào, trường đại học nào hay thời đại
nào. Từ ngữ trong câu không có đặc điểm miêu tả để nhận diện chủ thể nên
người đọc không hiểu được nghĩa của cả câu.
1.6. LẶP TỪ, THỪA TỪ
1.6.1. Lặp từ
Lặp từ là hiện tượng dùng nhiều lần một từ trong câu hay trong những
câu liền kề nhau. Có một số trường hợp, người ta sử dụng phép lặp từ như một
phương tiện ngôn ngữ phục vụ cho mục đích nhất định. Ngoài những trường
hợp cần thiết, việc lặp đi lặp lại một từ trong câu hay trong những câu liền kề
nhau khiến cho câu văn, đoạn văn trở nên nặng nề, vi phạm nguyên tắc giản
lược trong giao tiếp. Ví dụ:
- Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của dòng văn học hiện
thực phê phán. “Tắt đèn” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô
Tất Tố.
- Quá trình vượt núi cao là quá trình con người trưởng thành và lớn lên.
- Truyện dân gian có nhiều chi tiết tưởng tượng kỳ ảo nên truyện dân gian rất
hấp dẫn người đọc.
1.6.2. Thừa từ
Dùng thừa từ ngữ là lỗi rất gần với loại lỗi dùng từ khẩu ngữ. Nó là sản
phẩm của sự tuỳ tiện trong việc sử dụng từ ngữ, phản ảnh một lối tư duy không
mạch lạc. Sự xuất hiện của từ ngữ thừa làm câu văn nặng nề, gây cảm giác khó
chịu cho người đọc. Ví dụ:

9
- Nghề thầy giáo nó khác với các nghề khác là không chỉ dạy kiến thức khoa học
mà còn dạy cách làm người.
- Xuân Diệu, khi còn là cậu học sinh trung học, ông đã làm nhiều bài thơ hay.
Đôi khi người viết còn có thói quen kết hợp từ thuần Việt với từ Hán – Việt
với nghĩa tương đương tạo nên một kết hợp cồng kềnh, thừa thãi. Ví dụ: nghỉ
giải lao, đường quốc lộ, sông Cửu Long giang …
1.7. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT HIỆN VÀ SỬA LỖI
VỀ DÙNG TỪ TRONG VĂN BẢN
Muốn phát hiện và sửa chính xác các lỗi về dùng từ trước hết cần nắm biết
và lĩnh hội chính xác nội dung định diễn đạt. Dựa vào câu, đoạn văn, văn bản,
đồng thời sử dụng cả vốn hiểu biết, kiến thức có liên quan, người viết lựa chọn
sử dụng từ ngữ cho thích hợp.
Khi sửa lỗi về dùng từ, có thể thay, loại bỏ, thêm từ, thậm chí có thể thay đổi
trật tự các từ và cách diễn đạt trên cơ sở tôn trọng tối đa nội dung cần diễn đạt
của người viết.
2. NHẬN DẠNG VÀ CHỮA CÁC LỖI THƯỜNG GẶP VỀ CÂU
2.1. KHÁI NIỆM CÂU TIẾNG VIỆT
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về câu nhưng nhìn chung Câu
là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng thông báo một sự việc, một ý kiến, một
tình cảm hoặc một cảm xúc…
2.2. MỘT SỐ LOẠI CÂU TRONG TIẾNG VIỆT
2.2.1. Câu đơn
Câu đơn là câu chỉ gồm một cụm chủ - vị và cụm chủ - vị đó là nòng cốt
của câu.
- Bé ngủ.
- Ngoài sân, con mèo đang sưởi nắng.
2.2.2. Câu ghép
Câu ghép là câu chứa từ 2 cụm chủ - vị trở lên và các cụm chủ - vị này
không bao hàm lẫn nhau (nằm ngoài nhau). Mối quan hệ giữa các vế trong câu
ghép phức tạp, lệ thuộc nhiều vào nội dung sự tình giữa các vế câu. Cùng một
kiểu quan hệ nhưng có thể có những cách diễn đạt khác nhau. Sau đây là một số
quan hệ dễ nhận biết:
a.Quan hệ nhân quả

10
- Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp thay.
- Trời mưa to nên nước sông dâng cao.
b.Quan hệ điều kiện/ giả thiết - hệ quả
- Giá hắn biết thì có lẽ hắn không cần chửi.
- Trời mưa to, nước sông dâng cao
c.Quan hệ tương phản
- Việc này tuy là việc thể dục nhưng các thầy không được coi thường.
- Trời mưa to mà nước sông không dâng cao.
d.Quan hệ mục đích
- Chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để (cho) buổi học có kết quả cao.
- Chúng tôi bày mâm cỗ ra giữa sân để cả bọn cùng ngồi ngắm trăng và phá cỗ.
e.Quan hệ bổ sung
- Chưa bao giờ hắn tỉnh, và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh táo …
- Gió càng to, lửa càng cao
f.Quan hệ thời gian
- Họ vừa đi vừa hát. (thời gian đồng thời)
- Chúng tôi vừa đến nơi thì xe cũng vừa chuyển bánh. (thời gian nối tiếp đúng
lúc)
2.2.3. Câu phức
2.2.3.1. Khái niệm câu phức
Câu phức là câu chứa từ 2 cụm chủ - vị trở lên, trong đó có một cụm chủ - vị
bao những cụm chủ - vị còn lại. Những cụm chủ - vị bên trong cụm chủ - vị đó
giữ vai trò thành phần câu. Ví dụ:
- Xe này máy còn tốt lắm.
- Chúng tôi chú ý nghe thầy giáo hướng dẫn.
2.2.3.2. Các kiểu câu phức thường gặp
- Câu phức thành phần chủ ngữ. Ví dụ:
Cốc nước sấu dầm làm dịu hẳn cơn khát ngày nắng nóng.
- Câu phức thành phần vị ngữ.
Đứa lớn đứa nhỏ mặt mũi đều lấm lem bùn.
- Câu phức thành phần bổ ngữ.
Nó biếu bà cân cam được hái từ những cây cam đầu tiên trong vườn nhà.
11
- Câu phức thành phần định ngữ.
Núp dưới rừng cọ là căn nhà gỗ xinh xinh của cô ấy.
2.3. CHỮA LỖI CÂU
2.3.1. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp trong câu
Dựa trên các quy tắc ngữ pháp của từng ngôn ngữ, người viết huy động
vốn từ ngữ của mình để tạo câu đáp ứng nhu cầu giao tiếp. Các câu tuy đa dạng
về nội dung ngữ nghĩa nhưng đều dựa trên các qui tắc ngữ pháp chung. Nếu câu
không đáp ứng những yêu cầu về cấu tạo ngữ pháp theo các qui tắc đó thì câu sẽ
sai. Những trường hợp sai về cấu tạo ngữ pháp thường gặp là:
2.3.1.1. Câu không đủ thành phần
a. Câu thiếu thành phần chủ ngữ
- Qua bài thơ này giúp chúng ta hiểu thêm về hình ảnh người chiến sĩ cách
mạng.
- Với thị trường to lớn của ASEAN 10, đã đang và sẽ thu hút sự chú ý của các
cường quốc trên thế giới.
b. Câu thiếu thành phần vị ngữ
- “Hạnh phúc”, điều mà bao đời nay con người chúng ta hằng mơ ước.
- Chị Võ Thị Thắng, người nữ sinh miền nam mà quân thù đã từng kết án 20
năm tù.
c. Câu thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ
- Khi bàn về tinh thần đấu tranh vô cùng anh dũng của phụ nữ ta ở miền Nam
trong công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước.
- Từ những chị dân quân ngày đêm canh giữ đồng quê và bầu trời Tổ quốc, đến
những bà mẹ chèo đò anh dũng trên các dòng sông đầy bom đạn.
d. Câu thiếu bổ ngữ bắt buộc
- Kẻ thù giết chết song giết sao được tinh thần cách mạng trong con người họ.
Động từ giết trong câu trên là một ngoại động từ đòi hỏi bổ ngữ chỉ đối
tượng của hành động luôn đi kèm với nó. Ở đây có động từ giết nhưng giết ai?
Để câu trở thành đúng ngữ pháp và rõ nghĩa, ta chỉ cần thêm bổ ngữ chỉ đối
tượng. Ví dụ: Kẻ thù giết chết những con người yêu nước ấy, song giết sao được
tinh thần cách mạng trong con người họ.
2.3.1.2.Câu không phân định rõ thành phần

12
Khi viết văn bản, có những trường hợp do người viết nhận thức không rõ
ràng nội dung vấn đề định trình bày hoặc do tư duy thiếu mạch lạc, đồng thời
cũng do trình độ diễn đạt bằng ngôn ngữ còn yếu nên đã tạo ra những câu văn
không phân định mạch lạc các thành phần (mà thường gặp nhất là câu không
phân định rõ thành phần trạng ngữ và chủ ngữ do hai thành phần này thường ở
đầu câu). Câu văn vì thế mà lủng củng, tối nghĩa. Ví dụ:
- Về cách làm công nghiệp hóa của nhiều cán bộ khoa học, cán bộ kỹ thuật, cán
bộ quản lý, công nhân, viên chức, các nhà doanh nghiệp tập trung kiến nghị…
- Bằng trí tuệ sắc bén, thông minh của người lao động không những đấu tranh
trực tiếp mà còn đấu tranh gián tiếp chống chế độ phong kiến.
2.3.1.3.Câu sắp xếp sai vị trí các thành phần
Tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập, từ không biến đổi hình thái theo ngôi
– thời – thể - thức – dạng nên các mối quan hệ trong câu đều được thể hiện qua
trật tự từ và hư từ. Sự sắp xếp sai các từ trong câu thường làm câu phản ánh
không đúng ý của người viết hoặc làm câu trở nên mơ hồ về nghĩa, có thể hiểu
theo cách nào cũng được.
- Nhằm tăng cường các hoạt động giáo dục về bảo vệ thiên nhiên trong nhà
trường, ngày 8/3/93 đã diễn ra đại hội thành lập chi hội bảo vệ thiên nhiên…
- Đó là niềm tự hào, niềm tin tất thắng vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của
bác Hồ, của đồng bào Việt Bắc.
2.3.2. Câu thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành phần câu
Trong quá trình đặt câu, người viết ngoài việc phải chú ý đến yêu cầu viết
đúng ngữ pháp còn phải chú ý đến quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ, các thành
phần, các vế trong câu. Ví dụ: những câu như Cái bàn tròn này vuông, hay Cái
bàn gỗ này làm bằng sắt .. là những câu có quan hệ ngữ nghĩa nội tại không
hợp tư duy logic.
Chú ý đến quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ ngữ trong câu là yêu cầu quan
trọng đối với người tạo câu. Thông thường việc tạo câu sai ngữ pháp ít xảy ra
hơn so với việc tạo câu sai về ngữ nghĩa. Trong điều kiện sử dụng ngôn ngữ
bình thường, yêu cầu về quan hệ ngữ nghĩa được cụ thể hóa bằng quy luật tương
hợp nghĩa tức là phải chú ý sao cho các nét nghĩa trong câu không được mâu
thuẫn nhau. Điều đó thể hiện ở:
2.3.2.1. Câu phản ánh sai hiện thực khách quan

13
Ví dụ: Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi quân Minh giành nền
độc lập cho Tổ Quốc.
Việc chữa các câu này thực chất là chữa những kiến thức sai, những hiểu
biết không đúng, không chính xác.
2.3.2.2. Câu có quan hệ ý nghĩa giữa các thành phần, các vế câu không phù
hợp với các phương tiện hình thức thể hiện
Lỗi này thường xảy ra ở các câu (đặc biệt là câu ghép) có dùng các quan
hệ từ nhưng các quan hệ từ này không thích ứng với quan hệ ý nghĩa giữa các vế
câu, nghĩa là người viết đã thiết lập sai mối quan hệ giữa các thành phần, các vế
của câu. Điều này bộc lộ trình độ tư duy người viết còn non yếu cũng như trình
độ ngôn ngữ chưa vững vàng.
- Với sản xuất, nó là người luôn có sáng kiến.
- Phan Bội Châu đã tố cáo bọn thực dân Pháp bóc lột nhân dân ta về thuế má
nhưng ông cũng không ngần ngại vạch mặt bọn chúng đã cướp bóc nhân dân ta.
2.3.2.3.Câu có các thành phần cùng chức không đồng loại
Quan hệ giữa các thành phần đẳng lập phải là quan hệ đồng loại (cùng
một phạm trù ngữ nghĩa). Những câu có các thành phần này thuộc các loại khác
nhau là những câu sai.
- Hãy tìm các ví dụ trong Tắt đèn, truyện Kiều, Hồ Xuân Hương để chứng
minh…
- Người chiến sĩ bị hai vết thương, một vết ở bên đùi trái và một vết ở Quảng
Trị.
2.4. LỖI VỀ DẤU CÂU
Các loại dấu câu trong tiếng Việt (dấu chấm, dấu phẩy, dấu hai chấm, dấu
ba chấm, dấu chấm phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu chấm lửng, dấu
gạch ngang, dấu ngoặc đơn, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc vuông) có nhiều công
dụng khác nhau.
Khi nói, ta có thể dùng các phương tiện phụ trợ như ngữ điệu, cử chỉ, nét
mặt… cùng với từ ngữ được sắp xếp theo kết cấu ngữ pháp riêng để diễn đạt nội
dung. Khi viết, ngoài từ ngữ và kết cấu ngữ pháp thì dấu câu là phương tiện
quan trọng. Các dấu câu có quan hệ mật thiết với việc thể hiện cấu tạo ngữ
pháp, thể hiện các quan hệ ngữ nghĩa trong câu. Các lỗi về dấu câu liên quan
đến lỗi về cấu tạo ngữ pháp và quan hệ ngữ nghĩa trong câu.

14
2.4.1. Đánh dấu câu ở những vị trí không cần thiết
- Dây đàn bầu có thể gợi dậy trong lòng ta : yêu, ghét, buồn, vui, giận, hờn và
hy vọng.
Quan hệ giữa bộ phận đứng sau dấu hai chấm với cụm từ gợi dậy trong lòng
ta là quan hệ giữa bổ ngữ chỉ đối tượng hành dộng với ngoại động từ biểu thị
hành động. Giữa hai bộ phận này không thể đặt dấu hai chấm.
- Khi bị tiêu chảy, uống nước muối pha đường không được uống kháng sinh.
Câu này thiếu một dấu phẩy gây nên hiện tượng mơ hồ về nghĩa. Câu được
chữa lại là Khi bị tiêu chảy, uống nước muối pha đường, không được uống
kháng sinh.
2.4.2. Không đánh dấu khi cần thiết
Ví dụ: Những năm 60 là thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ về phong cách và
phương pháp sáng tác của một số nhà văn trước Cách mạng Tháng Tám
(Nguyên Hồng với Sóng gầm, nguyễn Tuân với Sông Đà, Nguyễn Huy
Tưởng với Sống mãi với thủ đô… # cũng là thời kỳ chín muồi về phong
cách của một số nhà văn đã được rèn luyện và thử thách trong kháng
chiến chống Pháp (Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Hồ Phương, Hữu
Mai, Chu Văn…)
Câu này chỉ thiếu một dấu phẩy ở ký hiệu # nhưng đã làm cấu trúc câu
thiếu mạch lạc.
2.4.3. Lẫn lộn chức năng của các dấu câu
Lẫn lộn chức năng của các dấu câu thường gặp nhất là các hiện tượng như
đánh dấu chấm hỏi sau những câu không phải câu nghi vấn, đánh dấu chấm than
sau những câu không phải câu cảm thán hay cầu khiến, dùng dấu ngoặc đơn ở
chỗ phải dùng dấu ngoặc kép và ngược lại… Ví dụ:
- Xin bạn đọc miễn hỏi những bài thơ của các danh sĩ xưa khắc trên đá còn hay
mất?
Bổ ngữ những bài thơ của các danh sĩ xưa khắc trên đá còn hay mất được
cấu tạo theo kiểu câu hỏi (có từ để hỏi: còn hay mất), nhưng thực ra nó chỉ có
giá trị nêu điều cần bàn. Toàn bộ câu trên là câu tường thuật. Phải thay dấu ?
bằng dấu (.)
- Tuỳ theo loài cây và khí hậu: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, cây có thể chỉ ra
hoa một lần rồi chết hoặc ra hoa nhiều lần.

15
Viết như trên có thể khiến người đọc hiểu lầm là ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm,
cây đồng chức năng làm thành phần chú thích của khí hậu. Ở đây chỉ có ánh
sáng, nhiệt độ, độ ẩm làm thành phần chú thích của khí hậu. Chúng cần được để
trong dấu ngoặc đơn.

16
CHƯƠNG 3.
RÈN LUYỆN CÁC KĨ NĂNG LÀM VIỆC
VỚI VĂN BẢN TIẾNG VIỆT

1. TỔNG QUAN VỀ VĂN BẢN


1.1. KHÁI NIỆM VĂN BẢN
Con người sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Văn bản là đơn vị ngôn ngữ
cao nhất, hoàn chỉnh nhất được con người sử dụng trong giao tiếp. “Văn bản” là
thuật ngữ được dùng để chỉ sản phẩm giao tiếp cả dạng viết (hình thức chữ viết)
và dạng nói (hình thức âm thanh). Dạng văn bản thường được nhắc đến là văn
bản viết.
Có rất nhiều định nghĩa về văn bản, sau đây là một định nghĩa được chọn
để làm việc với môn học này:
Văn bản là sản phẩm của quá trình sáng tạo lời nói mang tính mục đích,
tính hoàn chỉnh được khách quan hoá dưới dạng tài liệu viết; được trau chuốt
theo một loại hình nhất định; là một sản phẩm gồm tên gọi (đầu đề), các đơn vị
và các kết cấu trên câu được liên kết bằng các phương tiện liên kết, nhằm một
tác động nào đó đến đối tượng nào đó.
1.2. CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN BẢN

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta gặp rất nhiều văn bản thuộc các thể
loại khác nhau: một thông tư của chính phủ, một báo cáo tổng kết, một biên bản
cuộc họp, một đơn xin nghỉ học, một tiểu luận khoa học, một tác phẩm văn học
… Các văn bản dù có loại hình khác nhau nhưng đều là tập hợp của các câu, các
đoạn văn được tổ chức xoay quanh một chủ đề nào đó, nhằm một định hướng
giao tiếp nhất định.
1.2.1. Tính nhất quán về chủ đề

Tính nhất quán về chủ đề là đặc trưng quan trọng nhất của văn bản. Một
văn bản luôn phải hành chức như một thể thống nhất, có chủ đề chung thống
nhất trên cơ sở tất cả các chủ đề bộ phận.
Tính nhất thể được thể hiện trên hai phương diện, trọn vẹn về nội dung và
hoàn chỉnh về hình thức.
1.2.1.1. Tính trọn vẹn về nội dung

17
Một văn bản trọn vẹn là một văn bản mà sau mỗi lần rút gọn lại từ mức
độ này sang mức độ khác vẫn giữ được tính đồng nhất về nội dung, giữ được hạt
nhân thông tin cơ bản.
1.2.1.2. Tính hoàn chỉnh về hình thức
Các văn bản luôn luôn tồn tại dưới những cấu trúc hình thức nhất định. ở
dạng hoàn chỉnh nhất, một văn bản gồm: tiêu đề, phần mở, phần khai triển và
phần kết. Trên thực tế, không phải văn bản nào cũng có đầy đủ các bộ phận như
vậy và cũng không phải văn bản nào cũng có mô hình cấu trúc nghiêm ngặt như
vậy.
Dựa vào mô hình tổ chức văn bản, người ta chia văn bản thành hai nhóm:
- Nhóm các văn bản có mô hình nghiêm ngặt - khuôn mẫu cố định
- Nhóm các văn bản có mô hình mềm dẻo - không có khuôn mẫu cố định.
1.2.2. Tính mục đích
Văn bản luôn có tính mục đích bởi mỗi văn bản được tạo ra luôn để thực
hiện một nhiệm vụ là tác động đến một đối tượng nào đó.
1.3. KẾT CẤU VĂN BẢN

Văn bản có thể đơn giản hay phức tạp ở những mức độ khác nhau. Văn
bản phức tạp thường bao gồm nhiều đoạn văn, mỗi đoạn như vậy mang một chủ
đề bộ phận nằm trong chủ đề chung của văn bản.
Các loại văn bản có thể có kết cấu khác nhau, chẳng hạn một hợp đồng
kinh tế khác với một báo cáo tổng kết, khác với một tiểu luận khoa học … Nếu
không kể đến một số loại văn bản đặc thù thì một văn bản thường gồm 3 phần
chính:
- Phần mở đầu:
Phần mở đầu gồm một số nhận định khái quát về những vấn đề sẽ được
trình bày, nêu lên chủ đề chung và các chủ đề bộ phận. Đồng thời trong phần
này cũng có thể nêu văn tắt phương hướng hay những nguyên tắc được chọn
làm cơ sở để giải quyết vấn đề.
Phần này cần viết sao cho gọn, hấp dẫn, gợi sự chú ý và hứng thú nơi
người đọc.
- Phần khai triển
Phần khai triển có thể gồm một hay nhiều đoạn văn, dài hay ngắn khác
nhau tuỳ thuộc vào số lượng các chủ đề bộ phận, mức độ phức tạp của vấn đề

18
định trình bày. Các đoạn văn này được sắp xếp theo một trật tự logic và được
liên kết với nhau về hình thức.
Phần này cần viết mạch lạc, phát triển ý hợp lí sao cho người đọc tiếp thu
được dễ dàng nhất.
- Phần kết thúc
Phần kết thúc là phần tóm lược, tổng kết lại những luận điểm chính đã
được trình bày trong phần khai triển. Đối với các văn bản nghiên cứu, phần kết
luận có thể có những gợi ý mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo.
1.4. CÁC LOẠI VĂN BẢN

Dựa vào đặc điểm của những phương tiện ngôn ngữ (từ ngữ, câu, cấu
trúc,…) của các văn bản người ta chia văn bản theo các loại khác nhau: văn bản
hành chính, văn bản khoa học, văn bản sinh hoạt, văn bản văn nghệ, văn bản
báo chí…
Sau đây chúng ta tìm hiểu về hai loại văn bản: văn bản khoa học và văn
bản hành chính.
1.4.1. Văn bản khoa học

1.4.1.1. Văn bản khoa học là gì?


Văn bản khoa học là lớp văn bản thể hiện vai của người giao tiếp trong
lĩnh vực khoa học, là phương tiện giao tiếp lí trí của tất cả những ai (nhà khoa
học, nhà nghiên cứu, giáo viên, kĩ sư, sinh viên, học sinh…) tham gia vào việc
nghiên cứu, học tập, giảng dạy, phổ biến khoa học.
Một văn bản khoa học không chỉ thông báo mà còn phải chứng minh,
phân tích, suy luận, lí giải, đánh giá, trình bày những hiện tượng và quy luật của
tự nhiên cũng như xã hội.
1.4.1.2. Các đặc trưng của lớp văn bản khoa học
Văn bản khoa học phải có 3 đặc tính sau:
- Trừu tượng - khái quát
- Logic nghiêm ngặt
- Chính xác - khách quan
Các văn bản khoa học phải đạt tính trừu tượng - khái quát cao bởi khoa
học là phải thông qua khái quát và trừu tượng hoá để nhận thức và phản ánh
hiện thực khách quan, phát hiện ra các qui luật tồn tại của các sự vật hiện tượng.

19
Các văn bản khoa học phải đạt tính logic nghiêm ngặt bởi văn bản khoa
học là lời trình bày để thuyết phục và gợi mở trí tuệ. Lời trình bày đó phải biểu
hiện năng lực tổng hợp của trí tuệ, phải tuân theo qui tắc chặt chẽ của tư duy
logic.
Các văn bản khoa học phải đạt tính chính xác - khách quan bởi khoa học
yêu cầu phản ánh chính xác, chân thực, khách quan các qui luật của tự nhiên và
xã hội.
1.4.1.3. Các dạng / thể loại văn bản khoa học
- Các công trình nghiên cứu khoa học
- Các tạp chí, tập san, báo cáo, thông báo khoa học
- Các sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo
- Các bài thi, tiểu luận, đồ án, luận án, luận văn, …
- Lời bài giảng, lời thuyết trình, lời phát biểu trong các buổi thảo luận khoa học,
hội nghị khoa học
- Lời trình bày, thuyết minh các công trình khoa học, báo cáo khoa học
- Lời hỏi đáp về các vấn đề khoa học
1.4.1.4. Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản khoa học
a. Đặc điểm về từ ngữ
- Từ đơn nghĩa
- Dùng nhiều thuật ngữ khoa học
- Không dùng từ địa phương, từ cảm thán
- Dùng nhiều kí hiệu, sơ đồ, biểu đồ.
b. Đặc điểm về cú pháp
- Chứa nhiều câu phức, câu ghép
- Chủ yếu là các câu đầy đủ không rút gọn
- Nhiều câu vắng chủ ngữ hoặc chủ ngữ không xác định
c. Đặc điểm về cấu trúc
- Cấu trúc của các đoạn văn rất rõ ràng
- Nhiều văn bản có khuôn mẫu nghiêm ngặt về trật tự trình bày (cách trình bày
một luận án, luận văn, đồ án…)
1.4.1.5. Cấu trúc thường gặp của một tiểu luận hay luận văn khoa học

20
Cấu trúc thường gặp của một tiểu luận hay một luận văn khoa học gồm 3
phần chính:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
- Phần kết luận
Ba phần này tạo nên phần chính văn của một tiểu luận hay luận văn khoa
học.
A. Phần mở đầu
Phần mở đầu thường gồm những nội dung sau:
1. Đối tượng nghiên cứu và lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận, luận văn
4. Dự kiến những đóng góp của tiểu luận,luận văn
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
6. Bố cục của tiểu luận, luận văn
B. Phần nội dung
Nội dung là phần trung tâm của tiểu luận, luận văn. Phần nội dung gồm
các chương cụ thể, mỗi chương giải quyết một nhiệm vụ cụ thể trong toàn bộ
tiểu luận, luận văn. Số chương của phần nội dung có thể dao động từ 2 đến 5
chương.
C. Phần kết luận
Phần kết luận trình bày một cách cô đúc các luận điểm, nội dung chính
được rút ra từ toàn bộ tiểu luận, luận văn, bao gồm các phần sau:
- Các luận điểm lí thuyết.
- Các giải pháp cụ thể với tư cách là những đóng góp khoa học của tiểu luận,
luận văn.
1.4.2. Văn bản hành chính
1.4.2.1. Văn bản hành chính là gì?
Văn bản hành chính là lớp văn bản điều hành xã hội trong đó thể hiện vai
của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực hành chính, là phương tiện giao tiếp
của ý chí, của tất cả những ai (nhà luật pháp, người quản lí, người làm biên bản,

21
người kí hợp đồng…) tham gia vào guồng máy tổ chức, quản lí, điều hành các
mặt của đời sống xã hội.
1.4.2.2. Đặc trưng của văn bản hành chính
Một văn bản hành chính luôn đảm bảo 3 đặc tính:
- Chính xác - minh bạch
- Nghiêm túc - khách quan
- Khuôn mẫu nghiêm ngặt
Văn bản hành chính luôn đảm bảo tính chính xác, rõ ràng, đơn nghĩa của
nội dung để chỉ cho phép có một cách hiểu, không gây hiểu lầm.
Văn bản hành chính là để diễn đạt tính xác nhận, khẳng định, chỉ thị
mệnh lệnh.
Văn bản hành chính phải viết đúng theo các mẫu đã được quy định.
1.4.2.3. Các dạng / thể loại văn bản hành chính
Thông báo, thông tư, chỉ thị, nghị quyết, quyết định, đơn từ, báo cáo, biên
bản, phúc trình, giấy khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại, hợp đồng, hoá
đơn, giấy biên nhận, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, … trong kiểu văn bản văn
thư.
Hiến pháp, sắc lệnh, mệnh lệnh, điều lệ, nghị định, thông tư, qui chế,
thông báo,… trong kiểu văn bản pháp luật.
Mệnh lệnh, báo cáo, điều lệnh, hướng dẫn, … trong kiểu văn bản quân sự.
Công điện, giác thư, công hàm, hiệp định, hiệp nghị, hiệp ước, điều ước,
nghị định thư, chứng thư nhà nước,… trong kiểu văn bản ngoại giao.
1.4.2.4. Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản hành chính
a. Đặc điểm về từ ngữ
- Dùng từ đơn nghĩa, rõ ý
- Không dùng từ địa phương
- Không dùng từ cảm thán
- Sử dụng nhiều từ Hán - Việt
b. Đặc điểm về cú pháp
Bên cạnh các câu ngắn, chuẩn trong văn bản hành chính có sử dụng
nhiều câu phức, câu ghép rất dài thậm chí phát triển ra toàn bộ văn bản.

22
- Thường dùng câu vắng chủ ngữ.
- Câu trong văn bản hành chính thường là các câu chủ động dạng đầy đủ, tuy
nhiên các kết cấu bị động hay được sử dụng khi không cần chỉ rõ chủ thể hành
động.
c. Đặc điểm về cấu trúc văn bản
Từng tiểu loại văn bản hành chính có riêng những khuôn mẫu nghiêm
ngặt hoặc mềm dẻo.
Cấu trúc logic của một văn bản hành chính rất rõ ràng.
1.5. ĐOẠN VĂN
1.5.1. Khái niệm đoạn văn
Đoạn văn là đơn vị cơ sở để tổ chức văn bản, thường gồm một số câu gắn
bó với nhau trên cơ sở một chủ đề bộ phận, cùng nhau phát triển chủ đề đó theo
định hướng giao tiếp chung của văn bản.
Như vậy, xét về mặt hình thức, đoạn văn mở đầu bằng chỗ lùi đầu dòng
và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng.
Xét về mặt nội dung, đoạn văn diễn đạt một nội dung nhất định (thể hiện
một chủ đề con của văn bản), tương đối trọn vẹn.
Xét về mặt cấu trúc, đoạn văn bao gồm một số câu mà thông thường nhất
là gồm một câu chủ đề và các câu phụ trợ (khai triển).
1.5.2. Các loại đoạn văn
Mỗi một đoạn văn thường có một ý chính. ý chính là ý chung, ý bao trùm
được rút ra từ tất cả các câu trong đoạn văn. Đối với những đoạn văn có câu
mang ý nghĩa khái quát, gần trùng với ý chính của đoạn đó là câu chủ đề. Các
câu còn lại làm nhiệm vụ minh hoạ, khai triển câu chủ đề. Căn cứ vào vị trí câu
chủ đề, người ta chia đoạn văn thành các loại sau:
a. Đoạn văn có cấu trúc mở - câu chủ đề ở đầu đoạn văn.
b. Đoạn văn có cấu trúc đóng - câu chủ đề ở cuối đoạn văn.
c. Đoạn văn có cấu trúc nửa mở nửa đóng - câu chủ đề ở giữa đoạn văn.
d. Đoạn văn có cấu trúc khung - có hai câu chủ đề: một ở đầu đoạn, một
ở cuối đoạn (câu chủ đề ở cuối đoạn là một cách diễn đạt khác của câu
chủ đề ở đầu đoạn).

23
e. Đoạn văn có cấu trúc song song - toàn bộ các câu trong đoạn văn có
vai trò như nhau về mặt nghĩa.
1.5.3. Cấu trúc đoạn văn
Giống như một văn bản, một đoạn văn hoàn chỉnh nhất có mở đoạn, thân
đoạn và kết đoạn. Ba phần này liên kết chặt chẽ với nhau. Trên thực tế, không
phải lúc nào viết đoạn cũng cần đủ ba phần: phần thân là phần không thể thiếu,
còn phần mở và kết thì có thể thiếu. Khi cần thiết, người ta có thể ghép hai hoặc
ba mô hình cấu trúc đoạn để tạo thành một đoạn ghép.
Như vậy, có thể thấy có 5 loại cấu trúc đoạn văn:
- Đoạn văn gồm phần mở, phần thân, phần kết.
- Đoạn văn gồm phần mở, phần thân.
- Đoạn văn gồm phần thân, phần kết.
- Đoạn văn chỉ có phần thân.
- Đoạn văn ghép.
1.5.4. Các câu trong đoạn văn
Thông thường một đoạn văn bao gồm một số câu và chúng có chức năng riêng.
Câu chủ đề đảm nhiệm chức năng giới thiệu đối tượng, chủ đề sẽ được đề
cập, thảo luận trong đoạn. Không chỉ nêu chung chung, câu chủ đề còn cần phải
nêu nội dung hạn định về chủ đề, tức giới hạn chủ đề ở một hoặc vài phương
diện, tính chất, lĩnh vực chuyên biệt nào đó.
Các câu khai triển có nhiệm vụ thuyết minh, luận giải cho chủ đề, thông
thường là bằng cách nêu nguyên nhân, cho ví dụ, đưa ra các con số thống kê,
trích dẫn, liên hệ với thực tế… Các câu khai triển bao giờ cũng trực tiếp hoặc
gián tiếp có quan hệ với chủ đề đoạn văn và nội dung của chúng thực chất là sự
phát triển, mở rộng, giải thích… cho nội dung hạn định về chủ đề.
Câu kết báo hiệu đoạn văn kết thúc, lưu ý người đọc những điểm, chi tiết
cốt yếu của đoạn văn, đồng thời có thể chuẩn bị cho đoạn văn tiếp theo.
Tuy nhiên trong thực tế, không phải đoạn văn nào cũng đầy đủ ba bộ
phận cấu thành như vậy. Có đoạn văn chỉ gồm một câu, chỉ làm nhiệm vụ đặt
vấn đề hay chuyển tiếp giữa các đoạn văn khác trong văn bản. Có đoạn văn
không có sự phân định rõ nhiệm vụ của các câu. Có đoạn văn không có câu kết
… Đó là chưa tính đến một thực tế là đôi khi các bộ phận cấu thành của một
đoạn văn lại được phân bố ở hơn một khổ viết.
24
1.5.5. Tính nhất thể và tính mạch lạc của đoạn văn
1.5.5.1. Tính nhất thể
Đoạn văn nhất thể là đoạn văn chỉ thảo luận, bàn bạc xoay quanh một ý
chính, một chủ đề hạn định.
Để đoạn văn được nhất thể, các câu khai triển của nó cần phải gắn bó,
quan hệ trực tiếp hay gián tiếp với chủ đề.
1.5.5.2. Tính mạch lạc
Đoạn văn mạch lạc là đoạn văn dễ đọc, các ý, các luận điểm được trình
bày rõ ràng, theo một trình tự dễ tiếp thu nhất.
Mạch lạc của một đoạn văn có được là lo có sự liên kết nội dung và liên
kết hình thức.
Liên kết nội dung thể hiện ở liên kết chủ đề và liên kết logic: các lớp chủ
đề được duy trì và phát triển. Các luận điểm, các ý được sắp xếp theo một trình
tự hợp lý, hợp logic.
Liên kết hình thức thể hiện ở các phép liên kết hình thức. Các phép liên
kết hình thức chỉ có giá trị khi chúng thể hiện những liên kết về nội dung. Có
thể kể đến 4 loại phép liên kết sau:
- Liên kết qui chiếu
Liên kết qui chiếu là liên kết lấy đối tượng, hành động, tính chất hay hoàn
cảnh trong câu này làm điểm gốc qui chiếu cho đối tượng, hành động, tính chất
hay hoàn cảnh trong câu khác. Lặp từ vựng, thế đồng nghĩa, thế đại từ, phép
đối… là những biểu hiện thường gặp của phép liên kết này.
- Liên kết tỉnh lược
Liên kết tỉnh lược là liên kết có được khi lược bỏ một vế câu, một thành
phần câu, một thành tố của đoản ngữ trong câu mà những thành tố được lược bỏ
đó dễ dàng được khôi phục lại nhờ các câu cạnh nó.
- Liên kết liên từ
Liên kết liên từ là liên kết giữa các câu có được nhờ một lớp từ chuyên
biểu thị các quan hệ (liên từ).
- Liên kết theo trường từ vựng
Liên kết theo trường từ vựng là cách liên kết các câu trong văn bản nhờ
việc sử dụng các từ nằm trong trường liên tưởng từ vựng nào đó.

25
1.5.6. Lập luận
1.5.6.1. Khái niệm lập luận
Lập luận là cách sắp xếp lí lẽ một cách thuyết phục, có hệ thống để trình
bày, chứng minh nhằm đưa ra kết luận về một (số) vấn đề.
Nói một cách đơn giản hơn:
Lập luận là đưa ra một hoặc một số lí do nhằm dẫn dắt người nghe,
người đọc đến một kết luận nào đấy mà người viết, người nói muốn đạt tới.
Một lập luận thường có hai thành phần: phần luận cứ (các lí lẽ) và phần
kết luận. Trong khi lập luận, cần dùng các lí lẽ, dẫn chứng có sức thuyết phục để
khẳng định hoặc bác bỏ một nhận xét, một kết luận.
Mỗi đoạn văn thường thể hiện một cách lập luận nhất định. Phát hiện lập
luận là công việc không thể không làm khi phân tích một đoạn văn.
1.5.6.2. Các loại lập luận
Lập luận chỉ có giá trị thuyết phục khi có các luận cứ tin cậy, bảo đảm sự
tương hợp giữa luận cứ và kết luận. Tuy nhiên, để làm rõ tính thuyết phục của
lập luận, đoạn văn cần phải sắp xếp trình tự các câu theo những tiến trình hợp
logic. Có nhiều cách lập luận, song nhìn chung có ba cách lập luận phổ biến: qui
nạp, diễn dịch và tổng phân hợp.
a. Qui nạp
Qui nạp là cách lập luận đi từ cái riêng, cái cụ thể, cái bộ phận đến cái
chung, cái tổng quát, cái toàn thể.
b. Diễn dịch
Diễn dịch là cách lập luận từ cái chung, cái khái quát, cái toàn thể đến cái
riêng, cái cụ thể, cái bộ phận.
c. Tổng phân hợp
Qui nạp và diễn dịch luôn đi đôi với nhau và trong thực tế lập luận ít khi
thấy qui nạp hay diễn dịch tồn tại như một phương pháp duy nhất. Người ta
thường kết hợp vận dụng chúng với nhau để diễn đạt linh hoạt dụng ý của người
viết, từ đó gây nhận thức thêm cao, thêm sâu.
Kiểu lập luận này tương ứng với bố cục ba phần (mở bài, thân bài, kết
bài) của một văn bản hoặc đoạn văn có kết cấu 3 phần (mở đoạn, thân đoạn, kết
đoạn).

26
PHẦN BÀI TẬP

PHẦN BÀI TẬP 1

Hãy đọc các văn bản sau và thực hiện các công việc sau:

- Tìm chủ đề chung và các chủ đề bộ phận


- Khôi phục lại dàn ý của văn bản
- Tóm tắt văn bản

Văn bản 1
NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ STRESS
Nhịp sống hiện nay không nới tay với ai. Tiếng ồn, nạn kẹt xe, sự chạy
đua với thời gian, những lo lắng cho ngày mai, những sự gò ép gia tăng...
Không nhiều thì ít, chúng ta đều bị stress. Trong trí óc chúng ta, điều này có
nghĩa là bị căng thẳng, làm việc quá sức, bị đặt dưới áp lực. Thực ra còn có
nhiều điều mà mỗi người trong chúng ta, tuy có liên hệ, nhưng đôi khi vô tình
không nhận thấy.
Stress ở mức thấp có thể là chất kích thích tự nhiên, nhưng ở mức độ cao
sẽ trở thành độc hại. Stress là phản ứng của cơ thể trước một tình huống khác
thường, hoặc khó khăn, trước sự gò ép từ môi trường chung quanh, vì vậy, đó là
phản ứng đương đầu, đối phó.
Vấn đề là ở chỗ có loại stress tốt (có lợi), và loại stress xấu (có hại).
Một tin vui, một sự sung sướng đã đến đột ngột, làm phát sinh loại stress
tốt, giúp chúng ta tỉnh táo chuẩn bị mọi việc trong cuộc sống. Cũng còn thêm
một dạng stress tốt, giúp chúng ta giữ được bình tĩnh, gan dạ, phản ứng sáng
suốt trước một thử thách, mặc dù trong lúc ấy lòng chúng ta thật sự có một cơn
giông bão. Các hormon, nhất là adrénaline được phóng ra, kích thích cơ thể
ngay lập tức. Máu chạy nhanh trong cơ bắp và trong não, tăng thêm sức mạnh
cơ thể, động viên tối đa sức chú ý.

27
Khi một em bé chạy băng ngang trong khi bạn lái xe, nhờ adrénaline bạn
có thể hãm xe lại với phản ứng “siêu nhanh”. Hormone phóng nhanh như vậy
cũng có lợi trong hoạt động trí não.
Sự cần thiết phải hoàn tất một công việc vào ngày mai tạo nên loại stress
hưng phấn. Máu chảy nhiều hơn trong não, nhờ thế, hoạt động của não được
thúc đẩy và hiệu năng đạt đến đỉnh cao.
Loại stress tốt như vậy giúp chúng ta tăng thêm năng lực trong kỳ thi,
hoặc trong cuộc phỏng vấn tuyển dụng nhân viên.
Tuy nhiên, những loại kích thích như vậy, nếu lên quá cao có thể trở
thành độc hại, gặm mòn nội lực. Hiện tượng này có thể so sánh với việc tiêu
hoá. Để có thể tiêu hoá được thực phẩm, dạ dày tiết ra axit, nhưng nếu quá
nhiều axit, dạ dày sẽ bị loét.
Vì sao lại đi đến chỗ quá “liều lượng” stress, trở thành tai hại?
Theo bác sĩ Patrick Legeron, chuyên gia tâm thần, thuộc bệnh viện Sainte
Anna, Paris, khi nói đến stress quá độ, chúng ta nghĩ ngay đến những biến cố
quan trọng trong đời như: cái chết của một người thân, bị cho nghỉ việc, đau ốm
nặng, hoặc những phiền muộn dai dẳng lo nghĩ về tiền bạc, những cuộc xung
đột vợ chồng, gánh nặng công việc chồng chất. Thực ra, những dấu ấn nho nhỏ
hàng ngày như: nhận được một cú điện thoại làm bực mình, cãi nhau với con
cái, người khác sai hẹn với mình... thường là loại stress ngấm ngầm, nếu tích luỹ
sẽ có tác động làm hỏng sức đề kháng của chúng ta.
Thông thường, chúng ta trải qua ba giai đoạn phản ứng đối với stress.
1. Giai đoạn báo động, trong đó chúng ta phản ứng bằng cách tập trung
để đối phó.
2. Giai đoạn kháng cự, trong đó chúng ta tìm cách thích nghi và duy trì
sự cố gắng.
3. Giai đoạn kiệt sức, trong đó chúng ta thấy nản lòng, cần nghỉ ngơi, cần
sự giúp đỡ.
Trong sinh hoạt nghề nghiệp, một chút stress giúp chúng ta có hiệu lực
hơn trong trí não và thể lực. Quá nhiều stress sẽ đưa đến sự giảm sút hiệu năng,
gây nhầm lẫn, thiếu tập trung, khó giải quyết vẫn đề. Stress là người bạn đồng
hành mà chúng ta không thể nào lẩn tránh, nhất là trong một thế giới sô bồ, vội
vã như ngày nay. Vấn đề là chúng ta phải tạo cho mình một cuộc sống lành

28
mạnh, vị tha, giàu lòng nhân ái, say mê với công việc. Có như vậy chúng ta mới
thường xuyên có được những stress tích cực, hạn chế ở mức tối đa những stress
tiêu cực.
Văn bản 2
THẾ NÀO LÀ THẤT THOÁT?
Các cuộc kiểm tra, thanh tra cơ quan này, đơn vị kinh tế nọ thường có kết
luận: thất thoát chừng này triệu, chừng kia tỷ…
Tôi mở từ điển ra tra thì trong Từ điển Tiếng Việt 1994 không hề có từ
“thất thoát”. Tiền bạc là mồ hôi nước mắt của dân. Ai tham ô thì liệu mà trả lại
công quỹ rồi chuẩn bị tinh thần mà nhận kỷ luật. Nặng quá thì tống cổ về.
Không có cái thói ăn cắp tiền công quỹ, tiền của Nhà nước về xây nhà tầng, mua
kiềng vàng, dây chuyền vàng cho vợ cho con gái, mua một lúc 3,4 cái xe máy
xịn cho con rồi nhăn nhở trước biên bản thanh tra là… thất thoát?!
Cứ như là tiền của dân, trời mưa to, trôi xuống cống mất không bằng!
Cái từ “thất thoát” ấy mới thò mặt ra từ cơ chế thị trường đến nay, trước
làm gì có. Không biết ai đặt ra cái từ này mà siêu thế. Các nhà ngôn ngữ học
chắc phải gọi bằng … cụ!
Đây là một từ mù mờ, nói cho trơn mồm, không nói được bản chất xấu xa
của tham nhũng, ăn cắp.
Phải quy cho rõ ràng trách nhiệm: tiền mất vì ăn cắp thì kẻ ăn cắp phải
đền; tiền mất, tài sản mất vì cán bộ tính toán sai hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm
thì phải xử lý đúng mức… Không có chuyện thất thoát, đừng tin là thất thoát.
Phải chỉ cho đúng tên sự thật.
Trong đời sống, xã hội, kinh tế nên loại trừ từ “thất thoát” này để “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.”
Văn bản 3
BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Ngày 28/11/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân trồng cây gây
rừng. Từ đó, cứ mỗi độ xuân về, như một truyền thống đẹp, toàn Đảng, toàn dân
ta lại nô nức tham gia “Tết trồng cây”. Giữa năm ngoái, Chính phủ quyết định
lấy ngày 28/11 là ngày Lâm nghiệp Việt Nam, nhắc nhở mỗi chúng ta có trách
nhiệm và nghĩa vụ trồng cây, trồng rừng vì sự xanh tươi của quê hương đất
nước.

29
Thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ, trồng cây đã trở thành phong trào quần
chúng rộng khắp, làm cho đất nước ngày một xanh tươi. Là lực lượng tiên
phong trong phong trào trồng cây bảo vệ rừng, ngành lâm nghiệp đã góp phần
không nhỏ vào việc xây dựng đồi rừng, tạo đà phát triển kinh tế – xã hội miền
núi, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc và giữ
vững quốc phòng, an ninh. Hàng nghìn tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa, Anh
hùng lao động, chiến sỹ thi đua và hơn 500 Huân chương Lao động các loại của
ngành này là sự ghi nhận công lao to lớn của những người làm công tác lâm
nghiệp trong 35 năm qua. Ngành đã quy hoạch 19 triệu héc ta đất lâm nghiệp
thành ba loại rừng phòng hộ, đặc dụng và sản xuất để phát triển nền lâm nghiệp
ổn định, xây 60 khu rừng phòng hộ, đặc dụng, mười vườn rừng quốc gia, 49 khu
rừng bảo tồn thiên nhiên và 31 khu rừng văn hoá lịch sử.
Những cố gắng của ngành lâm nghiệp là đáng ghi nhận, nhưng trong
thực tế, thiên nhiên và con người đang hàng ngày, hàng giờ làm mất đi một khố
lượng không nhỏ vốn rừng. Nhiều nơi rừng kiệt quệ, tỷ lệ che phủ thấp, đã và
đang làm ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. Những thảm hoạ thiên tai
mấy năm gần đây đều có nguyên nhân từ khả năng phòng hộ của rừng bị suy
thoái.
Bảo vệ diện tích rừng, đồng thời nhanh chóng phủ xanh đất trống đồi núi
trọc là nhiệm vụ bức xúc hiện nay. Đây cũng là nội dung chủ yếu của Chương
trình 327 đang được Nhà nước đầu tư hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Để làm tốt
việc này, trước hết phải làm cho rừng có chủ. Hiện nay, ngoài đất rừng thuộc
hơn 400 lâm trường quản lý, bảy triệu héc ta rừng, đất rừng đã giao cho hơn một
triệu hộ và tập thể quản lý, vẫn còn một nửa đất rừng và rừng chưa xác định rõ
chủ. Điều đó đòi hỏi các cấp, các ngành có liên quan cần đẩy mạnh công tác
giao đất giao rừng, khoán rừng theo đúng thủ tục và đạt chất lượng cao. Nhà
nước đã phân cấp quản lý, vạch ra các chương trình quản lý rừng. Chủ trương
đó chỉ đi vào cuộc sống một khi các ngành chức năng thực hiện đồng bộ một
loạt biện pháp trên tất cả các mặt kinh tế, kỹ thuật và quản lý… Trước hết phải
quản lý và sử dụng có hiệu quả từng đồng vốn của mỗi chương trình, làm sao để
vốn đầu tư đến tận hộ nông dân không thất thoát ở các khâu khác. Phát triển các
hướng sử dụng nguyên liệu gỗ rừng hợp lý, tiết kiệm. Chuyển nhanh nền lâm
nghiệp thuần tuý quốc doanh, lấy khai thác làm chính sang nền lâm nghiệp xã

30
hội, lấy bảo vệ và phát triển vốn rừng là cơ bản. Xử lý tốt, có hiệu quả mối quan
hệ giữa trồng rừng, bảo vệ, sử dụng gỗ trong tiêu dùng và xuất khẩu,…
Nhân ngày Lâm nghiệp Việt Nam năm nay, nhắc nhở mỗi người chúng ta
thực hiện tốt Lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu năm xưa, đẩy mạnh bảo vệ, trồng
cây, trồng rừng, làm cho môi trường trong sạch, đất nước mãi xanh tươi.

Văn bản 4
HÃY TỪ HIỆN THỰC SỐNG ĐỘNG CỦA LỊCH SỬ...
Tôi không nhớ đã được đọc bao nhiêu bài viết về sân khấu với đề tài lịch
sử, chỉ biết rằng nhiều, nhiều lắm, và lần nào cũng vẫn cứ trội lên một vấn đề,
tính chân thực của các vở diễn lịch sử. Lần này tôi muốn chuyển sang nói về
điều gì mới mẻ, song vấn đề “tính chân thực” vẫn cứ sừng sững trước mặt, cản
mọi lối đi, đòi hỏi phải ưu tiên giải quyết.
Tính chân thực là tiêu chuẩn hàng đầu của mọi tác phẩm nghệ thuật.
Người nghệ sĩ dù dùng cách diễn tả nào, kì lạ đến đâu cũng không được phép
làm mất đi tính chân thực. Nghệ thuật cổ Trung Quốc có câu: “Kì nhi bất thất kì
chân” (Kì mà không làm mất đi cái thật). Đề tài lịch sử lại càng đòi hỏi tính tính
chân thực hơn hết. Đưa một sự kiện lịch sử lên sân khấu không chỉ là kể lại tích
xưa, mà phải làm sao tái hiện lại trên sân khấu cái đời sống phong phú và sinh
động của thời đại mang tích ấy với các phong tục (ăn mặc, nói năng, các lối suy
nghĩ, cách xử thế mang tính riêng biệt) về đời sống vật chất, tinh thần của ông
cha trong từng thời đại lịch sử. Nước ta có lịch sử hàng ngàn năm, thời các vua
Hùng, thời thuộc Hán, thời Đinh, Lê, thời Lí – Trần và thời Lê - Nguyễn sau
này, ngoài những nét chung, mỗi thời đại đều mang bản sắc riêng biệt, độc đáo
về các mặt. Người đến xem sân khấu không đơn thuần là để giải trí, mà họ còn
mong muốn qua những hình tượng sân khấu có thêm sự hiểu biết cụ thể. Sự hiểu
biết này khiến họ càng tăng thêm lòng yêu dân tộc, yêu đất nước.
Đáng tiếc là chúng ta, những người làm sân khấu, chưa thực hiện được
mấy chức năng ấy. Diễn về lịch sử, chúng ta chú ý nhiều tới tích mà coi nhẹ lối
sống của xã hội đương thời. Có thể nói rằng, hầu như chúng ta chỉ có một mẫu
(Anodèle) là đem lối sống của thời Nguyễn, từ triều đình cho đến dân dã, trùm
lên, áp đặt vào các thời đại lịch sử đi trước, nhuộm các thời đại vào cùng một
“gam” màu, khiến cho những vở diễn về đề tài lịch sử, nhất là trong kịch hát

31
dân tộc trở nên giống nhau, nhàm chán và nghiêm khắc mà nói còn phạm lỗi
lịch sử.
Để dẫn chứng, hãy nói về phong tục thời nhà Trần. Theo sách “Kiến văn
tiểu lục” của Lê Quý Đôn, người trong nước thời bấy giờ: “con trai đầu trọc,
người nào có quan chức thì trùm đầu bằng khăn xanh”. Tục cắt tóc này đến
Hoàng Phúc thời nhà Minh mới cấm. “Dân đều đi chân không, giản hoặc có
người đi giầy da, khi đến cung điện thì trút giầy ra… Da chân họ rất dày, trèo
núi như bay, chông gai cũng không sợ. Khăn dùng màu xanh thẫm do tơ nhuộm
chế ra, khi buộc khăn thì dùng dây sắt cài lại, đằng trước cao hai thước mà gập
xuống đến cổ, lấy giải buộc thắt lại đằng sau, trên đỉnh cài cái đinh bằng sắt,
người có quan chức thì có mảnh dải thêu vào đinh sắt này, lúc ở nhà để đầu trần,
gặp khách mới đội khăn, nếu đi ra ngoài thì một người mang khăn theo, duy có
quốc vương búi tóc dùng lụa là phủ lấy búi tóc, trông xa như luân cân của nhà
đạo sĩ, những miếng lụa là miếng đều toả rộng ra hai bên cạnh búi tóc. Người
trong nước đều mặc lụa thâm, áo hoa, quần mỏng cổ áo tròn khâu bằng là, đàn
bà cũng áo thâm, nhưng màu trắng ở trong rộng hơn để viền vào cổ áo rộng 4
tấc… các sắc xanh, hồng, vàng tía tuyệt nhiên không có. Họ chạy nhảy rất
nhanh, đi lại như gió. Đàn bà cắt tóc, để lại 3 tấc tết ở đỉnh đầu, buộc lấy đầu sợi
tóc rồi búi chặt lại và cài bằng trâm… những thứ vòng đeo, nhà giàu dùng vòng
đồi mồi, còn các người khác dùng xương hoặc sừng mà thôi, không có tí vàng
bạc nào cả; nhân dân đều vẽ mình làm thành hình móc câu khuất khúc, trông
như hình lư đồng, đỉnh đồng đời cổ, lại có người xăm chữ vào bụng.”. Chỉ chút
ghi chép này thôi cũng đủ khiến chúng ta hình dung ra được lối sống độc đáo
của cha ông ta cách đây sáu bảy trăm năm, khác xa với những gì được miêu tả
trên sân khấu ngày nay. Họ là những con người sống gần gũi thiên nhiên, đầu
đội trời, chân đạp đất, hoạt bát linh động, vượt mọi chông gai. Chính họ là
người đã đánh lùi quân Nguyên Mông, đã tạo nên sự thăng hoa của nền văn hoá
Đại Việt. Là người đạo diễn tôi mường tượng ngay tới những cảnh sân khấu,
trên đó di động những đầu trọc, những bàn chân Giao Chỉ vững chắc, những
chiếc khăn gài đinh sắt, những nét xăm hình móc trên da thịt, những cánh áo
thâm viền trắng. Lại nữa, những ông vua như đạo sĩ, những ông quan chỉ khác
dân bình thường ở dải lụa gài đầu. Tất cả chuyển dộng hài hoà trong “gam” màu
chủ đạo “đen trắng” giản dị và mạnh mẽ. Những nét phong tục độc đáo của thời

32
đại nhà Trần, khi quân Minh sang đã sợ hãi, vội ra nhiều lệnh cấm để xoá bỏ nó
đi. Lẽ nào ngày nay chúng ta lại không tự hào về nó, không phục hiện nó lên sân
khấu mà lại đi thay thế nó bằng những phong tục của một triều đại đã mang
nhiều yếu tố ngoại lai từ phương Bắc. Cũng nên nhắc tới thái độ tuỳ tiện này đối
với những thời đại trước nữa. Chúng ta chẳng đã thấy ở cuối thời nhà Đinh, một
Dương Vân Nga xiêm áo lộng lẫy như hoàng hậu Đại triều phương Bắc, có diễn
viên lại còn đội trên đầu một mũ miện đầy vàng sắm từ Hồng Kông. Không phải
chỉ tuỳ tiện ở hình thức bên ngoài cuộc sống, chúng ta còn thiếu tôn trọng cả
đến những đặc điểm tinh thần của thời đại. Xem một số vở diễn lịch sử, người ta
thấy Nho giáo đã xâm nhập vào nước ta từ thời các vua Hùng chi phối các quan
hệ xã hội. Thật ra trong suốt các thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần, tư tưởng Phật giáo
giữ vị trí chủ đạo trong xã hội. Vua quan và nhân dân gần gũi nhau như chưa bị
những lễ nghi Nho giáo phân chia, ràng buộc. Cả thời Lý (hơn 200 năm) mà chỉ
có 6 khoa thi cử thì làm thế nào mà Nho giáo ngự trị được. ấy thế mà trong
nhiều vở diễn về thời này, những mối quan hệ xã hội (vua tôi – gia đình – bạn
bè) vẫn thấy bị Nho giáo chi phối là chính. Những tác phẩm sân khấu chưa
chính thức nêu bật lên được cái ý thức dân chủ của các thời trước, nó là sức
mạnh đã khiến cho dân tộc ta đạt được những thành tựu lớn trong xây dựng
cũng như chống ngoại xâm. Nó trở thành truyền thống tiếp tục tồn tại ngay cả
dưới các thời Lê- Nguyễn sau này khi Nho giáo đã được triều đình coi là chính
thống.
Do sự đồng hóa theo một mẫu trong sự miêu tả lịch sử, những nhân vật
lịch sử cũng đồng loạt giống nhau. Vì khi đã không mang được những nét riêng
của thời đại thì khó mà có được những nét độc đáo cá nhân. Ngoài một số ít
thành tựu như nhân vật Ỷ Lan của Tào Mạt, còn trên sân khấu những nhân vật
lịch sử chỉ khác nhau ở cái tên tích mà thôi.
Cần nói thêm một chút về các vở diễn lịch sử: Dã sử là những câu chuyện
lịch sử trải qua những biến hóa và thêm bớt trong dân gian mà trở thành truyền
thuyết. Những tích về Bà Triệu, Bà Trưng đến với chúng ta là dã sử. Chúng ta
sáng tạo ra được nhiều vở diễn dã sử tốt. Song cần ngăn chặn dòng dã sử nguỵ
tạo đang lan tràn trong phong trào sân khấu thương mại. Biểu trưng là dã sử mà
nội dung tích trò lại chẳng có một căn cứ lịch sử nào. Đó chẳng qua chỉ là
những “tuồng kiếm hiệp” xưa mang nhãn hiệu mới mà thôi.

33
Nhìn chung, về đề tài lịch sử, nghệ thuật sân khấu mà chủ yếu là ngành
kịch hát dân tộc đã đạt nhiều thành tựu. Những vở diễn về các anh hùng dân tộc
đã có nhiều thành công đóng góp vào việc động viên, cổ vũ lòng yêu nước của
nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Riêng về chất
lượng nghệ thuật chưa có nhiều tác phẩm hay. Tính chân thực lịch sử còn bị vi
phạm nhiều. Nghệ thuật sáo mòn vì chưa thực sự xuất phát từ hiện thực lịch sử
sống động mà sáng tạo. Phải thấy rằng hiện thực lịch sử rất khó nắm bắt, nó
cách xa ta hàng mấy trăm năm có khi nghìn năm. Người nghệ sĩ nhất thiết phải
dày công nghiên cứu tìm hiểu nó qua sử sách, khảo cổ học,… tìm hiểu để nắm
được những phong tục tập quán, những lề thói ăn nói để nắm được suy nghĩ, nói
tóm lại là các mặt của nền văn hóa thời đại mình miêu tả. Đối với người làm
nghệ thuật thì hiểu biết đến đây vẫn chưa đủ. Phải cụ thể hơn nữa. Nếu như
không gian tích truyện là Thăng Long thời Lê Mạt, người nghệ sĩ phải tìm hiểu
để phác họa một bản đồ thành Thăng Long thời ấy, sông hồ phố phường ra sao,
phải đi thăm thú những di tích còn lại thời ấy, để tất cả di tích cụ thể ấy, có khi
chỉ là một bức tường, một nền nhà cổ kích thích trí tưởng tượng, gợi cảm hứng
khiến người nghệ sĩ hình dung ra được những cảnh sinh hoạt của người Thăng
Long đương thời. Đây là quá trình lao động tất yếu trong sáng tạo một tác phẩm
nghệ thuật về đề tài lịch sử. Nó đòi hỏi công phu. Chỉ một thái độ dễ dãi, tuỳ
tiện có thể dẫn tới một sai làm đáng trách. Ai cũng biết – Bài ca giữ nước – của
Tào Mạt là một vở chèo hay và nổi tiếng – Tào Mạt đã hiểu sâu thời Lý lắm mới
xây dựng nên được một hình tượng lịch sử hoàn chỉnh và đẹp như bà Ỷ Lan,
nhân vật vừa mang tư tưởng thời đại, vừa có tính cách cá nhân rõ rệt. Đáng tiếc
là đến tập 3, ông phạm một sơ suất. Nếu cẩn thận hơn, bỏ công về làng Đông
Cứu (Gia Lương) đọc gia phả nhà họ Lê thì ông đã không biến Lê Văn Thịnh,
một nhân vật lịch sử có nhiều công lao với vua Lý thành một tên phản diện về
mọi mặt.
Đề tài lịch sử là một đề tài khó, nhưng nếu từ nay chúng ta, những tác giả,
đạo diễn, diễn viên, nhạc sĩ, hoạ sĩ sân khấu, đều có ý thức tôn trọng hiện thực
lịch sử, biết từ hiện thực cuộc sống ấy mà sáng tạo thì nhất định sẽ ra đời những
vở diễn chân thực, hay, xứng đáng với lịch sử ngàn năm văn hiến của đất nước
ta.
Văn bản 5

34
NƯỚC MUỐI ĐÂU CHO LẠI
Trước kia, tôi chỉ nghe người ta nói tục khi chửi bới nhau, hay đùa vui khi
câu chuyện buộc phải thế. Bây giờ thì “nó” đã ở khắp nơi, chợ búa, đường sá,
thậm chí du nhập cả vào trường học, công sở… những nơi vốn được coi là
“thâm nghiêm”. Có người mở miệng là một tiếng tục, đầu câu và cuối câu lại
một tiếng tục nữa, “mới đã”… Cơ hồ như không nói tục là không chịu được, ăn
không ngon ngủ không yên. Người lớn nói tục đã đành, còn lây sang cả trẻ nít.
Người xấu lây nhiễm sang cả người tốt. Như một chứng bệnh. Như một thứ
mốt. Thậm chí, thủ trưởng, “ông cốp” cũng nói tục cả ở những nơi lẽ ra phải
thanh nhã. Và khi được một bộ phận thuộc hạ “hưởng ứng”, họ khoái hoạt mà gia
tăng cường độ… tục cho thế mới là bình dân, đại chúng.
Thoạt đầu, nói tục gây dị ứng: phụ nữ đỏ mặt tía tai, đàn ông khó chịu.
Nhưng nghe mãi quen dần, đến độ bão hoà như gặp đám bụi trên đường, mùi
hôi nơi bãi thải, thôi thì nhắm mắt chặc lưỡi cho qua. Và rồi chúng chỉ còn như
một phủ định từ thông thường, không tục nữa (“không phải”, “chẳng phải”, “cóc
phải”, “đ… phải” cũng như nhau về ý nghĩa và cấp độ biểu cảm).
Có người văng được một tiếng tục, viết được một câu tục xem như một
khoái thú, một kì công. Một đại tá mắng mỏ quân sĩ khi không hạ được máy bay
giặc là “Đánh đấm như cục c…”. Một thày giáo lăng mạ học trò là “Mặt đỏ như
… con mẹ nướng tôm”. Thế thì làm sao mà đòi hỏi đám “chúng sinh” phải văn
minh, thanh lịch được.
Quốc nạn tham nhũng dẫn nhiều người vào nhà đá bóc lịch thậm chí xơi
kẹo chì, nhưng “quốc tệ” nói tục không bị phạt, chỉ nhắc nhau sửa chữa.
Ấy thế nhưng nhắc nhở cũng phải khéo léo, tế nhị, không lại rách việc.
Cha nhắc con, bà nhắc cháu, anh nhắc em, vợ bảo chồng, thầy khuyên trò, cứ
nâng dần lên, nới rộng ra, từ trong nhà, trong lớp, rồi ra xã hội, cộng đồng.
Tôi biết một cô giáo “tối kiến” mang chai nước muối tới lớp, hễ trò nào
nói tục phải xúc miệng một lần, lâu dần tệ nói tục trong lớp giảm hẳn. Nhưng về
nhà, ra đường nước muối đâu cho lại với đời. Cuối cùng cũng đành.
Một nhà sư phạm Nga nhắc nhở học sinh không nói tục, nói tục là tự hạ
mình xuống ngang tầm động vật cấp thấp. Ông nói có nặng lời không, ta khoan
bàn, nhưng chúng ta đề ra nếp sống văn hoá mà không có biện pháp hữu hiệu
chống nói tục, chửi bậy cụ thể thì thật suông tình. Phải gây thành tiếng nói

35
chung của cả cộng đồng, trước hết là học sinh, sinh viên, thanh niên, rồi ra toàn
xã hội. (Xin nói nhỏ chị em bây giờ cũng lắm người nói tục không kém gì nam
giới). Làm sao cho mọi người khi nghe nói tục phải khó chịu như khi nhìn thấy
rác bẩn trong công viên, nét vẽ bậy trên tường.
Văn bản 6
NÊN ĐÙA ĐÚNG LÚC
Tục ngữ ta có câu: “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”. Liệu bạn đã
biết cách giúp mọi người tạo ra liều thuốc bổ đó chưa?
Trong cuộc sống hàng ngày, giữa những giờ làm việc căng thẳng, mệt
mỏi hay lúc nhàn rỗi, nói đùa, chọc ghẹo nhau vài câu cho vui cũng là chuyện
bình thường. Nhưng phải đùa thế nào để mọi người cùng vui vẻ, không làm ai
buồn lòng?
“Nhập gia tuỳ tục”, bạn phải tuỳ vào từng đối tượng đang tiếp xúc là ai để
biết cách đùa hợp lý. Nếu là bạn bè thân thiết, đồng nghiệp ngang tuổi, bạn có
thể cười đùa tuỳ thích.
Tuy nhiên, với người lớn tuổi hơn hoặc mới quen biết, bạn nên thăm dò
đối tượng trước. Thử nói vài câu bông đùa xem sao. Nếu đối tượng vẫn lạnh
lùng, không đáp lại, thì dừng ngay bạn nhé.
Với cấp trên cũng vậy, nếu sếp là người vui vẻ, thỉnh thoảng, bạn có thể
chêm vào một một câu nói đùa để tạo không khí thân mật. Nhưng nếu sếp khó
tính, nghiêm túc vẫn là tốt nhất.
Cũng nên để ý tâm trạng của người khác để đùa cợt. Có thể cô bạn cùng
phòng bình thường rất vui vẻ hay đùa giỡn, nhưng hôm nay đang có chuyện
buồn. Cẩn thận đấy! Không khéo lại gặp phải “ổ kiến lửa”, gây cãi vã không
đâu.
Thông thường, mỗi người đều có một vài điều thầm kín riêng tư, không
muốn ai đụng tới. Vì thế, khi nói đùa, bạn cần giữ ý một chút, chớ chạm đến
“điểm nhạy cảm” của họ. Ngoài ra, đừng đem những khuyết tật, nhược điểm
hay hạn chế của người khác ra làm trò vui cho mình. Có câu: “Chửi cha không
bằng pha tiếng”, thật khó chịu nếu một cô bạn vô duyên cứ nhai nhải giọng “nhà
quê” của đồng nghiệp tỉnh lẻ. Đùa như thế chẳng thể mang lại niềm vui cho
người khác.

36
Một điều hết sức tế nhị nữa là bạn đừng bao giờ mượn lời nói đùa để
khiêu khích, làm nhục người khác.
Một hai câu nói vui sẽ làm người khác thấy thoải mái. Nhưng nếu cứ thừa
thắng xông lên, nhí nha nhí nhố, trò đùa sẽ trở nên nhạt nhẽo.
Đặc biệt, trò quá lố hay dùng lời lẽ tục tĩu rất dễ gây phản tác dụng.
Trong các nơi nghiêm trang, những buổi lễ trang trọng, nghiêm túc như
toà án, tang lễ, bạn không nên nói đùa bừa bãi.
Thử tưởng tượng không khí sẽ như thế nào nếu trong đám ma, có một nhóm
bạn trẻ cứ vô tư nói cười trước nỗi đau của người khác?
Lời nói đùa, một trò chọc ghẹo dễ thương xuất phát từ lòng chân thành
mới ý nghĩa làm sao! Nếu mỗi người biết cách đùa, cả làng sẽ cùng vui.
Văn bản 7
NHÀ VĂN
Chúng ta thường nói nhà văn là kỹ sư tâm hồn. Nói kỹ sư là để nhấn
mạnh trình độ kỹ thuật của một nghề nghiệp, thế nhưng vấn đề quan trọng bậc
nhất lại là ở hai chữ “tâm hồn”.
Nhà văn trước hết phải là một Con người với đúng nghĩa của nó, con
người với đầy đủ tính người để chuẩn bị bước vào một thế kỷ mà kỹ thuật phát
triển như vũ bão, không thể lường trước được. Nhân loại sẽ giàu có lên rất nhiều
về của cải vật chất nhưng cũng có nguy cơ sẽ nghèo đi rất nhiều về nhân cách
nếu như không thường xuyên được giáo dục, rèn luyện, nâng cao về mặt tâm
hồn.
Sinh ra nhà văn trước hết là để làm việc đó. Dùng cái đẹp của văn học
nghệ thuật để giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách cho con người luôn luôn
ở thế cao hơn của cải vật chất, cao hơn kỹ thuật, cao hơn đồng tiền.
Người ta không thể cho người khác cái mà mình không có hoặc có rất
ít.Người cầm bút thiếu nhân cách thì còn nói gì đến vai trò là kỹ sư tâm hồn.
Lực lượng viết văn hiện nay khá đông đảo. Hội nhà văn chúng ta đã có
500-600 hội viên và còn tăng lên nữa trong thời gian tới. Mỗi nhà văn với tư
cách là “một đơn vị sản xuất tinh thần” đặc biệt, bằng cái riêng, cái độc đáo
trong sản phẩm của mình đóng góp vào cái chung, cái phong phú, đa dạng của
nền văn học dân tộc tiên tiến, hiện đại. Không có cái riêng, không bồi dưỡng cái

37
riêng thì chúng ta chỉ còn là một dàn đồng ca mờ nhạt, mặc đồng phục và hát
cùng một giọng.
Sự phong phú của cái riêng nhà văn không dung nạp những tác phẩm
phản văn hóa, phản con người và kỹ thuật, dẫu là kỹ thuật viết văn điêu kuyện
đến đâu đi nữa, không thể bào chữa, che dấu sự giả dối, nghèo hèn trong tâm hồn
người cầm bút.
Bồi dưỡng, rèn luyện nhân cách chính là một nội dung quan trọng nếu
không muốn nói là quan trọng bậc nhất trong việc bồi dưỡng, rèn luyện nhân tài,
để chúng ta có nhiều nhà văn thuộc về con người, thuộc về nhân dân, được nhân
dân yêu mến và ngưỡng mộ.
Xã hội càng phát triển, vai trò nhà văn trong xã hội càng quan trọng.
Tâm hồn con người sẽ trở nên trong sáng, phong phú, đa dạng hay vẩn
đục nghèo nàn, cô đơn trong thế giới kỹ thuật đồ sộ. Con người sẽ có thêm thời
gian nhàn rỗi để thưởng thức văn học nghệ thuật, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn
của mình hay bế tắc, đi tìm “cảm giác mạnh” trong bạo lực, chiến tranh hoặc trốn
mình trong tháp ngà của sự cô đơn tuyệt vọng.
Đó là yêu cầu xã hội và là thách thức đối với các nhà văn với thiên chức
cao cả của mình là góp phần nâng cao chất lượng sống, giá trị sống của cộng
đồng dân tộc hiện tại và cả trong tương lai.
Văn bản 8
VẤN ĐỀ TÊN RIÊNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT
1. Khái niệm tên riêng và vấn đề tên riêng tiếng nước ngoài
“Tên riêng là tên gọi của từng cá nhân có thể phân biệt với những cá
nhân, cá thể khác cùng loại” (Từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê (chủ biên)). Nói
một cách cụ thể hơn thì “tên riêng là những đơn vị định danh một cá thể người,
vật, địa điểm (quốc gia, thủ đô, sông, núi, vùng đất...), tổ chức (tổ chức chính trị
– xã hội, cơ quan, trờng học, bệnh viện, công ty, doanh nghiệp, hãng...), sự
kiện... (Vũ Quang Hào)
Như vậy có thể thấy, trong các văn bản tiếng Việt sẽ tồn tại rất nhiều loại
tên riêng. Dựa vào những tiêu chí khác nhau chúng ta có thể phân chúng theo
các cách khác nhau. Song xét về mặt nguồn gốc thì có thể chia tên riêng thành
hai loại lớn: tên riêng tiếng Việt và tên riêng tiếng nước ngoài. Trong đó thì việc
xử lý và đăng tải tên riêng tiếng nước ngoài là một vấn đề hết sức nan giải

38
không chỉ riêng trong lĩnh vực báo chí. Song có thể nói đối với báo chí thì sự
nan giải của vấn đề lại tăng lên gấp bội bởi rất nhiều lý do mà nổi lên hai lý do
chính đó là tính thời sự, tính phổ thông của báo chí.
Vấn đề cách viết tên riêng tiếng nước ngoài trên sách báo tiếng Việt nói
chung và trên báo chí tiếng Việt nói riêng đã rất được quan tâm. Đã có rất nhiều
những bài viết của những nhà chuyên môn lẫn những độc giả, có nhiều hội nghị,
nhiều cuộc thảo luận trên báo chí, hội thảo khoa học dành riêng cho vấn đề này.
Cũng đã có những văn bản mang tính pháp lý đã được hướng dẫn sử dụng trong
thực tế. Song cho đến nay, cách viết tên riêng tiếng nước ngoài trên sách báo
tiếng Việt nói chung và trên báo chí nói riêng vẫn được đặt ra như một vấn đề
hoàn toàn mới mẻ, phức tạp và dường như chưa có một giải pháp nào thoả đáng.
2. Thực trạng tên riêng tiếng nước ngoài trên báo chí tiếng Việt và
nguyên nhân của thực trạng
Trong quá trình phát triển lâu dài, không một ngôn ngữ nào trên thế giới
lại không có sự tiếp xúc với ngôn ngữ khác và tiếng Việt cũng không nằm ngoài
quy luật chung đó. Trong quá trình tiếp xúc đó, tên riêng tiếng nước ngoài vào
tiếng Việt là một hiện tượng tất yếu và hết sức bình thờng. Song sự không bình
thường là nó vào một cách ồ ạt, từ đa dạng các ngôn ngữ khác nhau và cũng
xuất hiện trên báo chí với số lượng hết sức lớn. “Chỉ tính riêng từ 1986 đến nay
(từ khi công cuộc đổi mới được khởi xướng ở Việt Nam), tần số đó đã ra tăng rõ
rệt. Năm 1986, tần số xuất hiện tên riêng tiếng nước ngoài trung bình trên một
số báo khoảng 50 – 60 lần. Đến năm 1990, từ 100 đến 140 lần. Và đến năm
1993, trung bình mỗi tờ báo có tới 250 – 300 lần tên riêng tiếng nước ngoài xuất
hiện”. Mặt khác, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm, trong khi tên riêng tiếng n-
ước ngoài đã, đang và sẽ vào nó phần lớn lại thuộc các ngôn ngữ đa âm, song lại
không được xử lý triệt để hợp lý theo giải pháp thống nhất ở các báo khác nhau
trong những thời điểm khác nhau tạo nên sự tuỳ tiện không nhất quán rất đáng
lo ngại:
- Có sự thiếu nhất quấn giữa báo trung ương và các báo địa phương,
mặc dù ở báo địa phương tên riêng tiếng nước ngoài thờng chỉ xuất hiện ở
trang cuối cùng và với số lượng, tần số thấp.

39
- Độc giả không tìm được nét chung nào giữa các báo trung ương
trong việc phản ánh tên riêng tiếng nước ngoài trên mặt báo. Cùng một tên
riêng nhưng báo này viết thế này, báo khác viết thế khác.
- Có sự khác biệt đáng ngại giữa các số báo khác nhau của cùng một
báo trong việc viết tên riêng tiếng nước ngoài.
Và để có thể có sự thống nhất thì cần phải đa ra được một giải pháp nhất
quán nào đó. Đã có hai giải pháp được đưa ra:
1/ Viết đúng dạng chữ trong nguyên ngữ
2/ Phỏng theo cách đọc trong nguyên ngữ rồi viết bằng chữ quốc ngữ
Vấn đề đến đây tưởng hết sức đơn giản song lại không hề đơn giản chút
nào bởi sử dụng giải pháp nào thì cũng gặp khó khăn ngay từ phía người tạo lập
văn bản:
Nếu viết đúng dạng chữ trong nguyên ngữ thì sẽ nảy sinh hai vấn đề:
- Nếu chủ trương viết đúng dạng chữ tên nước ngoài thì những thứ
chữ mà người viết không biết thì làm thế nào để viết?
- Nếu chủ trương viết đúng dạng chữ tên nước ngoài thì tên riêng của
các nước không sử dụng ngôn ngữ theo mẫu tự La tinh (như tiếng Hán, Ấn
Độ, Ả Rập, Thái, Hàn Quốc...) sẽ được viết như thế nào và làm thế nào để in
ấn?
Nếu phỏng theo cách đọc trong nguyên ngữ rồi viết bằng chữ quốc ngữ
thì sẽ nảy sinh ba vấn đề:
- Nếu chủ trương viết theo cách đọc thì tên phiên âm đợc viết trong
khuôn khổ hệ thống ngữ âm và chữ viết tiếng Việt hay có sử dụng thêm các
vần và chữ cái của ngôn ngữ khác
- Nếu chủ trương viết theo cách đọc đối với những tên riêng mà
người viết không biết cách đọc trong nguyên ngữ thì sẽ làm thế nào?
- Nếu chủ trương viết theo cách đọc, tức phiên âm thì nên viết liền
các chữ lại hay viết rời ra, có ngang nối ở giữa các chữ, có dùng dấu thanh
như trong chữ quốc ngữ không?
Và cũng sẽ có ít nhất ngần đấy khó khăn từ người tiếp nhận văn bản.
Nguyên nhân cốt lõi của vần đề là ở chỗ, giữa các nhà nghiên cứu chưa
có một quan niệm chung thoả đáng về bản chất ký hiệu và thuộc tính chức năng

40
của tên riêng nói chung và tên riêng tiếng nước ngoài trong tiếng Việt nói riêng.
Những người quá chú trọng tính cá biệt của tên riêng là chỉ có quan hệ với một
sự việc riêng lẻ và cần có tính khu biệt tuyệt đối giữa tên gọi sự vật này với sự
vật khác, thì chủ trương phải giữ nguyên dạng chữ trong nguyên ngữ, không
quan tâm đến thuộc tính ký hiệu của ngôn ngữ trong hệ thống tiếng Việt. Còn
người quá nhấn mạnh yêu cầu Việt hoá của tên riêng nước ngoài, thì đòi hỏi tên
riêng nước ngoài phải được Việt hóa hoàn toàn mà không tính đến chức năng
của tên riêng loại này. Cả hai quan niệm trên đều không thoả đáng và trong thực
tế đã dẫn đến những giải pháp cực đoan: hoặc chỉ dùng cách viết nguyên dạng,
loại bỏ cách phiên âm, hoặc chỉ dùng lối viết phiên âm, không chấp nhận cách
viết nguyên dạng.
Song trong thực tế khi sử dụng thì không hoàn toàn như vậy. Trong
những bối cảnh giao tiếp khác nhau theo những mục đích và cho những đối t-
ượng khác nhau lại có những đòi hỏi riêng cho từng giải pháp. Báo chí là ph-
ương tiện truyền thông hữu dụng nhất, tức thời nhất, phổ thông nhất, với đa
dạng đối tượng tiếp nhận ở mọi trình độ, với mọi mục đích... Do vậy, việc xử lý
tên riêng tiếng nước ngoài trên báo chí gặp rất nhiều bất cập, không có giải pháp
thống nhất. Trên báo chí tiếng Việt mấy năm vừa qua, tên riêng tiếng nước
ngoài đã được thể hiện theo tám kiểu sau:
1/ Viết nguyên dạng: Australia, New York, Michael Jackson...
2/ Viết theo tiếng Anh và tiếng Pháp (đã phổ biến trên sách báo nớc
ngoài) đối với những tên riêng không dùng văn tự La tinh: Boris Yensin,
Norodom Sihanouk, Ucraine, Saudi Arabia...
3/ Phiên âm (có dùng ngang nối và dấu thanh hoặc không): Mát – xcơ - va
hoặc Matxcơva, Malayxia hoặc Ma – lay – xi – a...
4/ Viết dưới dạng chuyển tự - chuyển từng con chữ từ nguyên ngữ sang
con chữ Việt tương đương: KAZAKHXTAN
5/ Viết dưới dạng tắt theo quy ước quốc tế: UNESCO, FAO, ADB... hoặc
vừa dịch vừa viết tắt: LHQ, hoặc viết kết hợp dịch dạng tắt - chua nguyên dạng:
“Liên hiệp quốc tế các hội người cao tuổi gọi tắt là FIAPA (Fédération
Internationale des Associations de Personnes âges)...
6/ Viết theo âm Hán – Việt: Ý, Úc, Hà Lan, Luân Đôn,...

41
7/ Viết dưới dạng dịch nghĩa: báo Sự thật, Nhà Trắng, ...
8/ Viết theo lối nửa vời: vừa phiên âm vừa viết nguyên dạng: Ả-Rập
Saudi..., vừa phiên âm vừa chuyển chữ: Lev Tônstôi..., nửa dịch nghĩa nửa phiên
âm: Thượng Karabắc...
Tám lối viết trên đây đã đưa tên riêng tiếng nước ngoài trên báo chí tiếng
Việt đến tình trạng lộn xộn không thể chấp nhận được. Trong đó riêng lối phiên
âm đã tạo ra nhiều biến thể nhất cho tên riêng và do đó bức tranh tên riêng vốn
không rành rẽ đã ngày càng trở nên rối rắm hơn. Lý do là ở chỗ: cùng dùng lối
phiên âm nhưng trong những trường hợp cụ thể khác nhau các tên riêng lại được
xử lý khác nhau, ít nhất là ở các điểm sau:
+ Viết rời từng tiếng / âm tiết, dùng dấu ngang nối hoặc viết liền,
+ Đánh dấu thanh trên những tiếng / âm tiết có thể được hoặc không đánh
dấu thanh,
+ Phiên âm qua một ngôn ngữ trung gian chẳng hạn qua tiếng Pháp, tiếng
Anh, tiếng Trung Quốc hoặc trực tiếp từ nguyên ngữ.
Song việc viết theo nguyên dạng không phải không có vấn đề. Viết theo
nguyên dạng rất đơn giản đối với tên riêng các nước có chữ viết dùng mẫu tự La
tinh và các tên riêng không dùng mẫu tự La tinh nhưng đã áp dụng dạng La tinh
hoá tên riêng của nước mình. Ví dụ: Gandhi (Ấn Độ), Mohammed (Ả Rập).
Song không hề đơn giản hay đúng hơn là không thể làm được đối với những tên
riêng không thuộc loại trên.
3. Giải pháp cho vấn đề tên riêng nước ngoài trên báo chí tiếng Việt
Trước hết cần phải xác định rằng, tên riêng tiếng nước ngoài được sử
dụng trong bất cứ ngôn ngữ nào trong lãnh thổ một quốc gia nào cũng chịu tác
động của hai áp lực: áp lực của quy luật ngôn ngữ và áp lực xã hội. Cụ thể ở đây
là áp lực của tiếng Việt và xã hội Việt Nam.
Trong tiếng Việt hiện đại ở vị trí đầu âm tiết chỉ có một phụ âm và là phụ
âm đơn. Chính âm của tiếng Việt có những nguyên âm mang dấu mũ và dấu
phụ. Những nguyên âm này là những âm vị độc lập, có giá trị khác căn bản các
nguyên âm có cùng tự dạng nhưng không có dấu mũ và dấu phụ. Ở vị trí cuối
âm tiết, tiếng Việt chỉ được phân bổ tám phụ âm: m, p, n, t, ng, k, nh, ch và hai
bán nguyên âm –u, -i. Cấu trúc âm tiết tiếng việt chỉ tồn tại ở hai dạng: CwVC
hoặc CVC, CV, VC. Mỗi âm tiết tiếng Việt luôn luôn có một thanh điệu. Ngoài
42
các đặc điểm về âm tiết như trên, cách viết các âm tiết trong từ tiếng Việt cũng
có tính chất khác biệt so với từ của các ngôn ngữ khác. Cụ thể, trong từ tiếng
việt các âm tiết thường mang một ý nghĩa rõ rệt và được viết tách rời. Điều này
liên quan trực tiếp đến việc viết có ngang nối giữa các âm tiết trong tên phiên
âm bằng tiếng Việt. Do có những nét dị biệt rất lớn giữa cấu trúc âm tiết tiếng
Việt với cấu trúc âm tiết các ngôn ngữ khác (đặc biệt là các ngôn ngữ Ấn - Âu -
là những ngôn ngữ đã, đang có số lượng lớn tên riêng vào tiếng Việt), nên tên
riêng tiếng nước ngoài vào tiếng Việt thường phải cấu trúc lại cho phù hợp với
khuôn khổ, đặc điểm ngữ âm và chữ viết tiếng Việt. Thực chất của việc làm này
là phải tìm ra được các cặp đối ứng âm – chữ và vần giữa hệ thống âm, chữ, vần
tiếng việt với hệ thống âm, chữ, vần các tiếng nước ngoài có tên riêng vào tiếng
Việt. Trong các hệ đối ứng đó thì tiếng Việt là hệ thống trục, cố định có vai trò
như một bộ lọc mà tất cả các tên riêng của các nước khi chuyển vào tiếng Việt
đều phải qua bộ lọc đó để hoà nhập tự nhiên vào hệ thống tên riêng tiếng Việt.
Áp lực xã hội chính là mục đích sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài trong
từng lĩnh vực, từng phạm vi, từng đối tượng cụ thể. Báo chí là một lĩnh vực mà
việc sử dụng, đăng tải tên riêng tiếng nước ngoài diễn ra hết sức phức tạp. Bởi
vì hơn bất cứ lĩnh vực nào, báo chí là địa hạt phải động chạm đến tên riêng tiếng
nước ngoài một cách trực tiếp nhất, nhiều nhất, thường xuyên nhất và tức thời
nhất.
Để giải quyết vấn đề đáp ứng được sự chi phối của cả hai áp lực: quy luật
ngôn ngữ và xã hội trên địa hạt báo chí thật không đơn giản. Tuy nhiên khi đi
tìm giải pháp lâm thời cho báo chí, có lẽ giới báo chí cần phải ưu tiên tính đến
những điểm sau:
1/ Đặc biệt lưu tâm đến đặc thù tức thời và rộng rãi của báo chí. Chính
tính tức thời đó đã đòi hỏi một sự tiện lợi trong giải pháp cho tên riêng tiếng
nước ngoài. tiện lợi được hiểu theo nghĩa sau: cho phép người viết đơn giản,
gọn, nhanh và dễ nhất quán (đối với người viết báo); dễ đọc chuẩn và đọc được
nhất quán (đối với phát thanh viên); dễ đọc, dễ nhớ, dễ nghe (đối với độc giả,
khán giả và thính giả ở mọi trình độ); trong thời gian ngắn nhất có thể kịp in,
phát (đối với nhà xuất bản, đài truyền thanh, truyền hình).
2/ Báo chí tiếng Việt trước hết và chủ yếu phục vụ người Việt Nam. Do
vậy cần chú ý đến tâm lý ngôn ngữ và truyền thống ngôn ngữ của người Việt.

43
Người Việt có truyền thống nói tắt – tỉnh lược các thành tố của tiếng, của từ
trong phát âm cũng như trong cấu tạo từ. Họ có ấn tượng sâu sắc về những đối
lập: ch/tr; x/s; d/gi/r. Đặc biệt là quen viết rời từng âm tiết.
3/ Giới báo chí cần tiến hành những cuộc điều tra xã hội học với quy mô
lớn ở đối tượng phục vụ của mình về khả năng của họ trong tiếp nhận tên riêng
tiếng nước ngoài.
4/ Giới báo chí nên sớm soạn thảo quy định lâm thời cho việc dùng tên
riêng tiếng nước ngoài trên báo chí tiếng Việt trong thời gian nhất định. Quy
định đó sẽ là chỗ dựa tạo sự nhất quán cho ít nhất là những người làm báo và
những người tiếp nhận báo chí.
Tóm lại, khi chưa có một quy định cụ thể, khi chưa có được giải pháp phù
hợp theo chúng tôi trong lĩnh vực báo chí nên áp dụng hai cách viết sau:
1/ Phiên âm từ nguyên ngữ ra tiếng Việt rồi viết rời các âm tiết, có dấu
ngang nối, các âm có dấu mũ và dấu thanh đầy đủ.
2/ Đối với các tên riêng đã quá phổ biến, đã có cách viết phiên truyền
thống theo âm Hán - Việt thì nên viết theo truyền thống.
Chắc chắn là không thể có sự áp dụng triệt để chỉ hai cách viết này song
theo chúng tôi với hai cách viết này chúng ta đã xử lý được với phần lớn tên
riêng tiếng nước ngoài trong báo chí tiếng Việt. Còn đối với những trường hợp
khác thì tuỳ từng trường hợp nên có sự xử lý hợp lý.
Văn bản 9
LÒNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN TA
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước.
Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước
của nhân dân ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời
đại Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Chúng ta
phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc vì các vị ấy là tiêu biểu của
một dân tộc anh hùng.
Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ
những cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước

44
ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến
miền xuôi ai cũng một lòng yêu nước ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt
trận chịu đói mấy ngày để bám lấy giặc, đặng tiêu diệt giặc, đến những công
chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội; từ những phụ nữ khuyên chồng
con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ
chiến sĩ săn sóc, yêu thương bộ đội như con đẻ của mình; từ những nam nữ công
nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất không quản khó nhọc để góp phần
vào kháng chiến cho đến đồng bào điền chủ quyên ruộng đất cho chính phủ,
những cử chỉ cao quý đó tuy khác nhau nơi việc làm nhưng đều giống nhau nơi
lòng nồng nàn yêu nước.
Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày
trong bình pha lê rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất dấu kín đáo trong
rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm sao cho những của quý kín đáo
ấy được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức,
lãnh đạo làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành
vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến.
Văn bản 10
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mĩ. Suy rộng
ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói:
”Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợoi và phải luôn luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình
đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng
trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

45
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân
chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau
ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản
dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhiều nhà tù hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết
những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm nòi giống của ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột nhân dân ta dến tận xương tuỷ, khiến cho dân ta
nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất,
hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và
dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công
nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm
căn cứ đánh đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước
ta rước Nhật. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiêng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, dân
ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ
Quảng trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân Pháp. Bọn thực dân
Pháp hoặc bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo
hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên
minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng
bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết
nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng
và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều

46
người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật
và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ
không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả
nước ta nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ
tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đánh đổ các xiềng
xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta
lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng
hoà.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ nước Việt Nam mới, đại
biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp,
xoá bỏ hất những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi
đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của
bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc
dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cự Kim Sơn, quyết không thể
không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một
dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.

47
PHẦN BÀI TẬP 2
Viết câu kết hoặc đoạn văn kết cho các văn bản sau:
Văn bản 1
TUYÊN TRUYỀN
Anh Tăng, học trò của cụ Khổng, là một người đạo đức, được mọi người
quí mến. Một hôm, Tăng đi đốn củi, quá trưa mà không về. Một người bà con
đến nói với mẹ Tăng: “Nghe nói Tăng phạm tội giết người”. Mẹ Tăng im lặng
và nghĩ: “Chắc là họ đồn nhảm, con mình hiền lành lắm sao có thể giết người.”
Lát sau một người khác lại đến và báo: “Nghe nói Tăng bị bắt rồi…”. Bà
cụ Tăng bắt đầu lo sợ nhưng vẫn bình tĩnh. Vài phút sau lại một người khác nữa
nói: “Nghe nói Tăng bị giải lên huyện rồi”. Bà cụ Tăng bỏ cả công việc chạy
cuống cuồng. Không ai hiền lành bằng Tăng. Không ai hiểu anh và tin anh bằng
mẹ anh. Thế mà có người đồn qua, kẻ đồn lại dù không đúng sự thật, mẹ Tăng
cũng đâm lo sợ hoang mang.
Văn bản 2
HAI THẦY TRÒ VÀ CON CỌP
Hai thầy trò đang đi thám hiểm trong rừng. Sau một lúc đi lang thang, họ
bỗng phát hiện một con cọp từ xa phóng về phía họ với một tốc độ khủng khiếp.
Hai người bỏ chạy hết tốc lực. Bỗng anh học trò dừng lại và lôi trong ba lô ra
một đôi giầy thể thao. Người thầy ngoái lại hét to: “Đồ ngốc! Trò biết rõ là
chúng ta không thể chạy thoát mà. Con cọp đó đang đuổi theo chúng ta với một
tốc độ kinh hồn!” Anh học trò mỉm cười và đáp: “Thưa thầy đó không phải là
vấn đề. Vấn đề đích thực là chỉ có một con cọp, giữa thày và em ai là người
chạy nhanh hơn.”
Văn bản 3
THA THỨ
Câu chuyện về một người cha và một cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu
niên. Mối quan hệ cha con của họ không được tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối
cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé đã bỏ nhà ra đi. Tuy giận dữ và đau
lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để
trưởng thành. Vậy nên ông đã bôn ba khắp nơi để tìm đứa con nổi loạn ấy. Cuối
cùng khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông

48
cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa toà soạn. Mọi
tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con”.
Chiều hôm đó, người cha đến toà soạn thật sớm vì ông không muốn trễ
bất cứ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới
đó ông đã gặp … 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và
đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng
tay dang rộng thương yêu.
Vâng, đôi lúc có những người bạn thương yêu lại làm tổn thương bạn,
làm bạn rất đau lòng, và bạn lại càng đau lòng hơn khi nghĩ rằng tại sao họ
không nói lời xin lỗi bạn, tại sao họ lại không có gì là ân hận, chẳng lẽ họ lại
không biết rằng bạn buồn đến thế nào sao…? Họ biết chứ, họ ân hận chứ.
Nhưng vì lòng tự ái, vì nỗi sợ tỏ ra rằng họ yếu thế, và vì e ngại rằng họ không
được tha thứ đã ngăn họ lại.
Văn bản 4
TÔ MÌ CỦA NGƯỜI LẠ
Tối hôm đó Sue cãi nhau với mẹ, rồi không mang gì theo cô đùng đùng ra
khỏi nhà. Trong lúc đang lang thang trên đường, cô mới nhớ ra rằng mình chẳng
có đồng bạc nào trong túi, thậm chí không có đủ mấy xu để gọi điện về nhà.
Cùng lúc đó, cô đi qua một quán mì. Mùi thơm bốc lên ngào ngạt làm cô
chợt cảm thấy đói ngấu. Cô thèm một tô mì lắm nhưng lại không có tiền!
Người bán mì thấy cô đứng tần ngần trước quầy hàng bèn hỏi: “Này cô
bé, cô có muốn ăn một tô mì không?”.
“Nhưng…nhưng cháu không mang theo tiền …” – cô thẹn thùng trả lời.
“Được rồi, tôi sẽ đãi cô - người bán nói – Vào đây, tôi nấu cho cô một tô
mì.”
Mấy phút sau, ông chủ quán bưng tới cho cô một tô mì bốc khói . Ngồi ăn
được mấy miếng, Sue bật khóc.
“Có chuyện gì vây?” – người bán hàng hỏi.
“Không có gì. Tại cháu cảm động quá!” – Sue vừa nói vừa lấy tay quệt
nước mắt.
“Thậm chí một người không quen ngoài đường còn cho cháu một tô mì,
còn mẹ cháu, khi cháu cãi đã đuổi cháu ra khỏi nhà. Chú là người lạ còn tỏ ra
quan tâm đến cháu, còn mẹ cháu… bà ác độc quá!” - cô bé nói với người bán mì…

49
Nghe Sue nói, ông chủ quán thở dài: “Này cô bé, sao lại nghĩ như vậy?
Hãy thử nghĩ lại xem, tôi mới chỉ đãi cô có một tô mì mà cô đã cảm động, còn mẹ
cô đã nuôi cô từ khi cô còn nhỏ xíu, sao cô lại không biết ơn mà lại dám cãi lời mẹ
nữa?”.
Sue giật mình ngạc nhiên khi nghe điều đó.
“Tại sao mình lại không nghĩ ra nhỉ? Một tô mì của người lạ mà mình còn
cảm thấy mang ơn, còn mẹ mình đã nuôi mình hàng bao năm qua thì mình lại
chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến mẹ dù chỉ một chút. Vậy mà chỉ vì một chuyện
nhỏ mình lại cãi mẹ”.
Trên đường về, cô thầm nghĩ trong đầu những điều cô sẽ nói với mẹ: “Mẹ
ơi, con xin lỗi. Con biết đó là lỗi của con, xin mẹ tha thứ cho con…”.
Khi bước lên thềm cửa, cô nhìn thấy mẹ đang mệt mỏi và lo lắng vì đã
tìm kiếm cô khắp nơi. Nhìn thấy Sue, mẹ cô nói: “Sue, vào nhà đi con. Chắc con
đói bụng lắm rồi phải không? Cơm nước mẹ nấu xong nãy giờ rồi, vào mà ăn ngay
cho nóng…”.
Không thể kiềm giữ được nữa. Sue oà khóc trong tay mẹ.

50
PHẦN BÀI TẬP 3
Sắp xếp trật tự các đoạn văn thành văn bản hoàn chỉnh:
Văn bản 1
PHẦN THƯỞNG
1. Những ngón tay của Burt siết chặt vào tờ giấy bạc. Trong đầu cậu bé
những món đồ mà cậu có thể mua được với số tiền to lớn đó lần lượt hiện ra. Rất
dễ để trả lời: “Con không thấy tờ giấy bạc nào hết” và bước đi. Nhưng thay vào
đó, cậu bé rút tờ giấy bạc ra, đưa cho bà lão và nói: “Con lượm được nó đây”. Sự
vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt đầy lo âu của bà lão làm ấm lòng cậu bé.
2. Ngôi sao điện ảnh Burt Lancaster nhớ lại đó là giây phút hạnh phúc
nhất trong cuộc đời ông. Và ông vẫn luôn thấy ấm lòng mỗi khi nhớ lại câu
chuyện đó.
3. Một ngày kia đi ngang qua một ngân hàng, cậu bé Burt bất chợt thấy
một tờ 20 đôla nằm ở dưới đất chỗ bãi đậu xe. Đó là số tiền lớn nhất mà Burt
từng thấy khiến tim cậu như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Cậu cúi xuống lượm
đồng tiền bỏ vào túi quần và liên tưởng ngay đến những que kem cũng như
những món đồ chơi mà cậu hằng mong ước. Nhưng ngay lúc đó có một phụ nữ
đứng tuổi với vẻ mặt hoảng hốt đi đi lại lại tìm kiếm dưới đất. Thấy cậu bé bà
liền hỏi: “Con có thấy tờ 20 đôla của bà đánh rơi không?”. Bà giải thích đó là số
tiền mà cả gia đình đông đúc của bà phải nhờ vào để sinh sống cho hết tháng
này, vừa kể bà vừa khóc: “Bà không biết sẽ phải làm gì nếu không tìm ra nó.
Chắc có lẽ nó rớt đâu đây thôi…”
4. Khi nghệ sĩ lừng danh Burt Lancater còn là một đứa bé nghèo ở thành
phố New York, ông vẫn thường có những giấc mơ con trẻ về những que kem
sôcôla quyến rũ. Lúc đó đồng 25 cent đối với ông là cả một gia tài.
Văn bản 2
TIẾNG THÉT TỪ LIDICE
1. Cuộc thảm sát xảy ra vào ngày 10-6-1942. Từ sáng sớm, hàng chục xe
chở đầy lính Đức đã bao vây làng Lidice. Toàn bộ nam giới trên 16 tuổi trong
làng (gồm 173 người) bị dồn vào một nhà tắm hơi. Sau đó, họ bị bắn vào gáy
theo từng toán 10 người ngay trong vườn của điền trang Horak. Cuộc hành hình
diễn ra từ sáng cho đến 4 giờ chiều. Phụ nữ và trẻ em bị nhốt trong ngôi trường
trung học Kladno. Ngoài 7 phụ nữ bị giết tại chỗ, 195 người còn lại phải gánh

51
chịu những nôi đau và sự giày vò đến cùng cực trong trại tập trung
Ravensbrueck (Đức), trong số này về sau có 49 người chết vì đói và kiệt sức, 7
người bị đẩy vào phòng hơi ngạt. Sau ba ngày giam giữ, 105 trẻ em bị phân loại
theo tiêu chuẩn chủng tộc. Trừ những đứa trẻ còn đang ẵm ngửa và một số em
được gửi vào các gia đình Đức, tất cả số còn lại bị đẩy vào phòng hơi ngạt tại
trại tập trung Chelm do phát xít Đức lập ra trên lãnh thổ Ba Lan. Lính Đức đã
dùng mìn san bằng làng Lidice, kể cả ngôi nhà thờ St.Martin’s xây từ năm 1352.
2. Lidice, một ngôi làng nhỏ cổ kính nằm cách Prague 20 km và cách thị
trấn Kladno 8km, đã trở thành một trong các biểu tượng về sự tàn ác, dã man
của chủ nghĩa phát xít. Sau khi Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng, viên chỉ
huy lực lượng SS Reinherd Heydrich được cử làm phó toàn quyền Đức tại
Bohemia và Moravia. Ngày 29-5-1942, Heydrich bị thương trong một vụ nổ
bom do Jan Kubis và Josef Gabeik – những người lính nhảy dù thuộc chính
quyền Tiệp lưu vong tại Anh – thực hiện. Heydrich chết vào ngày 4-6.
3. Cuộc tàn sát tại Lidice được ghi nhận trong các báo cáo và được quay
phim bởi chính tay những tên đao phủ. Sau này, tại Toà án quốc tế Nuremberg
năm 1946 xét xử những tên đầu xỏ của chủ nghĩa phát xít, những báo cáo và
những thước phim này đã trở thành chứng cứ buộc tội dưới một hồ sơ mang số
379. Tuy đoạn phim quay đen trắng và không có tiếng nhưng những người xem
dường như vẫn nghe thấy tiếng súng và tiếng thét tuyệt vọng của các nạn nhân.
4. Từ một bức thư có nội dung mập mờ gửi cho một người phụ nữ làm
việc tại một xưởng nhỏ ở Slany gần Lidice và việc gia đình Horak ở Lidice có
một người con trai tham gia quân đội Tiệp ở Luân Đôn, Gestapo ở Kladno cho
rằng có mối liên hệ giữa vụ ám sát Heydrich và gia đình này. Cuộc điều tra và
khám xét không tìm được bất kỳ chứng cứ nào cũng như vũ khí hay máy thu
phát vô tuyến. Tức tối điên cuồng, bọn phát xít quyết định nhắm vào những
thường dân vô tội của làng Lidice để trả thù.
5. Cũng vào tháng 6-1944 đã diễn ra vụ thảm sát Oradour-sur-Glane
(Pháp), trong đó hơn 200 trẻ em vô tội bị giết hại. Thảm kịch Lidice và
Oradour-sur-Glane đã trở thành tiếng thét kêu gọi loài người hãy bảo vệ trẻ em.
Chính từ hai sự kiện này từ tháng 1-1949, Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc tế
trong phiên họp tại Matxcơva đã có sáng kiến coi ngày 1-6 hàng năm kể từ năm
1950 trở đi là ngày Quốc tế bảo vệ thiếu nhi.

52
6. Chiến tranh kết thúc. Ngày 10-6-1945, chính phủ Tiệp Khắc công bố
quyết định xây lại làng Lidice. Trong số 503 cư dân nay trở về với mảnh đất
hoang tàn chỉ còn 143 phụ nữ. Sau hai năm tìm kiếm, cũng chỉ có 17 đứa trẻ trở
về với mẹ. Tháng 5 – 1948, những viên gạch đầu tiên cho làng Lidice mới gồm
150 ngôi nhà được đặt xuống ở địa điểm cách vị trí của ngôi làng cũ 300mm.
Trên nền đất cũ của Lidice đã mọc lên một di tích bao gồm khu mộ tập thể,
tượng đài, bảo tàng. Giữa làng mới và khu di tích là Công viên Hoà bình và Hữu
nghị được khánh thành vào ngày 19-6-1955 với hàng chục ngàn bông hồng
được lấy giống từ 31 nước.
Văn bản 3
CÚN
1. Lão Hạ dần dần hoàn hồn. Hoá ra chẳng có ma quỷ nào cả! Hú hồn hú
vía! Ma quỷ đã bỏ mất một cơ hội để rình chộp lão!
2. Lão Hạ là lão ăn mày ở chợ. Hôm ấy, không hiểu sao lão Hạ lần ra
cống. Đứng trên đường, lão nghe thấy tiếng khóc. Tiếng khóc như từ dưới đất
vọng lên, như từ âm phủ vọng lên. Lão rùng mình hãi sợ. Chiều đang xuống,
nắng đã tắt, ráng mây mỡ gà ở phía chân trời hắt xuống mặt đất một vệt ánh
sáng lạnh lẽo và kinh dị. Gió bấc đuổi nhau hun hút quanh các lều chợ lụp xụp
không một bóng người. Lão Hạ run cầm cập. Quanh cảnh này, hồn ma rất dễ
hiện về. Đây là thời khắc xuất hiện ma quỷ. Gần cả đời người, lão Hạ sống như-
ng không sợ người, người chỉ làm lão yêu hay lão ghét, thích hoặc không thích,
lão Hạ chỉ sợ cái gì không phải là người.
3. Lão Hạ bò về phía cống, thò tay kéo đứa bé ra. Chân tay đứa bé lạnh
buốt. Lão Hạ ôm đứa bé về lều chợ. Lão đặt tên nó là Cún. Và từ đó Cún ở cùng
với lão Hạ.
4. Lão Hạ cuống cuồng chạy xuống vệ sông. Lão vừa chạy vừa ngã.
Tiếng khóc níu lão lại. Lão nhìn bên đường và nhận ra đứa bé nằm trong cống.
5. Lão Hạ sợ quá, bủn rủn hết cả chân tay. Tiếng khóc ngắn ngặt đúng là
có thật. Lão giỏng tai nghe. đúng là tiếng khóc trẻ con.
6. Hơn chục năm trước, người ta thấy Cún ở một cái cống bên con sông
đào ngoại ô thành phố. Con sông đen ngòm nước thải, đầy rác, giấy vụn và
những đám bèo tây lá đầy bụi bặm. Cái cống xi măng vỡ nằm ngang con đường
đất nhỏ, hứng gió cả ở bên phía bờ sông, cả ở bên phía cánh đồng. Cún nằm tím

53
ngắt vì gió. Chẳng hiểu sao Cún không chết ngay khi ấy? Chắc vì lão Hạ. Nếu
Cún không gặp lão Hạ, chắc Cún chết ngay rồi.
Văn bản 4
ĐĨA COMPACT
1.Sau nhiều năm nghiên cứu, Russell tìm ra một nguyên lí mới cho hệ
thống của ông: thu, phát âm thanh, hình ảnh nhờ ánh sáng thay vì phải tiếp xúc
như loại đĩa nhựa trước đây. Âm thanh, hình ảnh được ghi trên đĩa cảm quang
dưới dạng “bít” nhị phân và sau đó được đọc lại bằng tia laser. Sáng chế của
Russell nhận tổng cộng 22 giải thưởng, nhưng mãi đến năm 1980 công ty của
Russell, Battelle mới đăng kí bằng sáng chế.
2. Mặc dù hệ thống của Russell đã được cải tiến để phù hợp việc tiếp thị
và sử dụng trong các hộ gia đình, nhưng về cơ bản thì CD mà mọi người trên
khắp thế giới đang sử dụng ngày nay không khác biệt nhiều so với nguyên mẫu
của Russell cách đây hơn 30 năm.
3. Vào những năm 60, người ta nghe nhạc bằng một loại máy hát dùng
đĩa nhựa. Là người say mê âm nhạc, Russell rất bực mình vì các đĩa nhựa
thường dễ hỏng và chất lượng âm thanh rất kém, nên ông quyết tâm sáng chế
một hệ thống cho phép thu phát âm thanh một cách trung thực nhất và có thể sử
dụng trong thời gian dài.
4. Đĩa CD mà chúng ta thường dùng nghe nhạc, xem phim hay học ngoại
ngữ trên máy vi tính được sáng chế vào năm nào? Câu trả lời chính xác là năm
1965, bởi James T. Russell.
5. Hiện nay Russell vẫn tiếp tục niềm say mê nghiên cứu hệ thống thu
phát âm thanh với hy vọng sẽ tạo ra một loại siêu CD cho thế kỉ 21.
6.Năm 1985, hai tập đoàn điện tử Philips và Sony mua lại quyền sản xuất
hệ thống trên và bắt đầu đưa vào sản xuất đại trà.
Văn bản 5
CHÚNG TA QUYẾT ĐỊNH SỐ PHẬN CHÍNH MÌNH...
1. Leonardo Da Vinci vẽ bức Bữa tiệc ly mất bảy năm liền. Đó là bức
tranh vẽ Chúa Jesus và 12 vị tông đồ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị
môn đồ Judas phản bội.
2. Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 12 vị tông đồ, chỉ còn có Judas,
vị môn đồ đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Họa sĩ muốn tìm một người đàn

54
ông có khuôn mặt hằn lên sự hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả và cực kỳ tàn ác.
Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ sẵn sàng bán đi người bạn thân
nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình…
3. Được sự cho phép đặc biệt của đức vua, người tù được đưa tới Milan,
nơi bức tranh đang vẽ dở. Mỗi ngày, tên tù ngồi trước Da Vinci và người họa sĩ
thiên tài cần mẫn với bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.
4. Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông
mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện, một tính cách thanh
khiết tuyệt đối làm mẫu vẽ Chúa Jesus. Da Vinci làm việc không mệt mỏi suốt
sáu tháng liền trước chàng trai, và hình ảnh Chúa Jesus đã hiện ra trên bức vẽ.
5. Da Vinci lập tức lên đường đến Roma. Trước mặt ông là một gã đàn
ông nước da đen sạm với mái tóc dài bẩn thỉu xoã xuống gương mặt, một khuôn
mặt xấu xa, hiểm ác, hiển hiện rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hoá. Đúng,
đây là Judas!
6. Khi nét vẽ cuối cùng hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt cái ác một
thời gian dài, Vinci quay sang bảo lính gác: “Các ngươi đem hắn đi đi…”. Lính
canh túm lấy kẻ tử tù, nhưng hắn đột nhiên vùng ra và lao đến quỳ xuống bên
chân Da Vinci, khóc nức lên: “Ôi, ngài Da Vinci! Hãy nhìn con! Ngài không
nhận ra con ư?”.
7. Câu chuyện này là có thật, như bức tranh Bữa tiệc ly là có thật. Chàng
trai từng được chọn làm hình mẫu của Chúa Jesus, chỉ sau hơn 2000 ngày đã tự
biến mình thành hình tượng hoàn hảo của kẻ phản bội ghê gớm nhất trong lịch
sử.
8. Cuộc tìm kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất,
độc ác nhất Vinci đều thấy vẫn chưa đủ để biểu lộ cái ác của Judas. Một hôm,
Vinci được thông báo có một kẻ mà ngoại hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông.
Hắn đang ở trong một hầm ngục ở Roma, bị kết án tử hình vì giết người và
nhiều tội ác tày trời khác…
9. Da Vinci quan sát kẻ mà sáu tháng qua ông liên tục nhìn mặt. Cuối
cùng ông đáp: “Không, ta chưa từng nhìn thấy ngươi cho đến khi ngươi được
đưa đến từ hầm ngục Roma…”. Tử tù kêu lên: “Ngài Vinci… Hãy nhìn kỹ tôi!
Tôi chính là người mà bảy năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Jesus…”.

55
10.Tương lai không hề được định trước. Chính chúng ta là người quyết
định số phận của chính mình…
Văn bản 6
NHỮNG SỰ KIỆN ĐẦU THẾ KỈ...
1. Để biểu dương, LHQ quyết định trao giải thưởng 12 triệu USD (với ý
nghĩa tương trưng 12 triệu đơn vị rác) cho con người chiến đấu không mệt mỏi
vì một hành tinh xanh.
2. Uỷ ban Môi trường LHQ chọn ông qua bức ảnh đầy xúc động của một
phóng viên quốc tế ghi lại lúc nửa đêm. Khi ấy, với hai tay hai que móc, trên
lưng là một bao tải rác tổng hợp, ông đang cố chinh phục đỉnh rác hùng vĩ
quanh năm khói phủ của thành phố.
3. Ngay sau ngày công bố phần thưởng, tất cả báo chí đã phải dành gần
nửa số trang cho mục “Tìm người thân khẩn cấp”. Đây là nghĩa cử của các báo
đáp lại nhu cầu bức xúc của nhiều người đang bị nỗi nhớ thương người thân
hành hạ. Nội dung các mẩu nhắn tin đều na ná nhau: người “bị” tìm thất lạc đã
lâu, trường hợp lâu nhất là 81 năm. Người tìm cha ruột, người tìm chồng chính
thức, kẻ tìm ông nội, người tìm ông ngoại. Có trường hợp lại tìm ông cố nuôi,
tìm dượng, anh trai, chú, cậu, em nuôi, bố két nghĩa… Tuy tên gọi có khác,
nhưng người được rao tìm đều có chung đặc điểm: mắt mờ, lưng còng, chân to
nứt nẻ, tóc không đen…
4. Hay tin chẳng lành, 78.000 thân nhân của ông và các con cháu từ các
nơi đổ về bao kín bệnh viện. Ai cũng đòi được quyền chôn cất ông. Giao thông
đường phố tắc nghẽn. Lực lượng cảnh sát được đặt trong tình trạng báo động để
đề phòng trường hợp xấu nhất là có kẻ liều lĩnh cướp thi hài ông mang đi.
5. Sau đúng một tuần. Thống kê trên các báo cộng với hồ sơ tìm người
nộp tại các toà án và nhiều văn phòng luật sư tổng công có 78.000 trường hợp
tìm người thân hoàn toàn giống nhau. Cơ quan pháp luật cũng xác định ngay
người được tìm đúng là ông lão nhặt rác nổi tiếng nọ. Phần ông lão, khi được tin
rất đông người nhiệt tình tìm kiếm mình nên xúc động quá mạnh và đã lìa đời.
6. Đầu thế kỉ 2x. Một sự kiên chấn động thế giới: một người Việt Nam
đươc giải thưởng lớn của Liên Hiệp Quốc (LHQ). Người này là một ông lão vô
gia cư 81 tuổi. Trong 30 năm ông đã đào, bới, gom nhặt được cả thảy 12 triệu

56
đơn vị rác thải gồm nhiều thứ: bao nilông, vỏ hộp, lon bia, nồi thủng, bàn chải
cùn… (còn đủ hoá đơn thu mua của các cửa hàng phế liệu).
7. Sau sự kiện này, thành phố chúng tôi bỗng rối tung lên. Hàng ngàn công
nhân vệ sinh phối hợp với các điểm thu mua phế liệu đồng loạt xuống đường đòi
quyền có việc làm. Lí do: thành phố không còn lấy một cọng rác. Cuối cùng chính
quyền thành phố phải ra lệnh cấm trữ rác trong nhà và khuyến khích xả rác tự do.
Nhưng mãi cả năm sau cuộc sống mới đi vào ổn định.
8. Thế là diễn ra một đám tang lớn chưa từng thấy với 441.000 người
cùng chịu tang (78.000 người tranh chấp cùng con cháu). Sau ngày mở cửa mả
cho ông, LHQ thông báo “12 triệu USD sẽ được chia đều (vì ai cũng là người
thân của ông cả) cho 441.000 con cháu Mittơ X., mỗi phần trị giá 27,21 USD, sẽ
được phát tại trụ sở của LHQ ở New York trong thời hạn một tháng. Phương
tiện di chyển: tự túc…”
9. Hết thời hạn một tháng, 78.000 gia chủ vì đau buồn đều bỏ quyền thừa
kế. LHQ cũng rất buồn đành bỏ 12 triệu USD vào quĩ Bảo vệ Môi trường.
10. LHQ cử ngay một phái đoàn đến Việt Nam chia buồn và chấn an toàn bộ
số thân nhân đột xuất của ông. Trong điếu văn, đại diện LHQ nhấn mạnh: “Các vị ai
cũng đủ điều kiện để hưởng 12 USD thừa kế cả. Nhưng LHQ yêu cầu mọi người
phải chịu tang cho ông đúng lễ nghĩa”. Nghe xong điếu văn, ai cũng cũng đều vừa
buồn đau vừa phấn khởi, có người gọi điện đặt vé máy bay ngay.
Văn bản 7
MỘT MẦM VĂN HOÁ CỦA THẾ GIỚI NẢY SINH TỪ QUÁN RƯỢU NHẬT
1. Inoue là người đệm nhạc trên phím và vibraphone tài ba. Anh chơi tại
một quán rượu ở thành phố Kobe. Những người hát không chuyên rất thích anh
vì họ hát dở đến mấy anh cũng có thể đệm nương theo để họ hát được đúng
nhịp. Chính anh thì không hát, nhưng anh chơi nhạc đệm như một chiếc máy
karaoke.
2. “Gã hát tệ hết chỗ nói: cung bậc, nhịp điệu đều sai bét. Vì thế tôi cố
tình thu băng bài đệm sai nhịp. Kết quả thế nào các bạn biết không. Anh ta rất
hài lòng với kết quả! Còn tôi thì, tôi không thể nào chơi nhạc được hay nếu
không nhìn dòng nhạc mà nhạc mới thì cứ tiếp tục ra đời hết bản này đến bản
khác, vì thế tôi nghĩ có lẽ một chiếc máy có thể giúp tôi nhẹ gánh bớt. Về một

57
khía cạnh nào đó, tôi phát minh ra nó là vì tôi lười quá không muốn học nhưng
bài hát mới”.
3. Karaoke là từ viết tắt của hai từ: kara (không có tiếng hát) và oke (dàn
nhạc). Nhiều năm trước, karaoke là một thuật ngữ giới âm nhạc dùng để chỉ
nhạc đệm cho các ca sĩ chuyên nghiệp hát khi họ thu băng. Năm 1970, karaoke
phát triển thành một cách giúp mọi người hát để giải trí. Người chế tạo ra chiếc
máy nhỏ đầu tiên là anh inoue Daisuke ở Nishinomiya, tỉnh Hyogo.
4. Inoue không xin cấp bằng phát minh, vì vậy chẳng mấy chốc, những
tiệm đĩa nhạc và những hãng khác cho ra nhiều loại giống như vậy. Rồi karaoke
được ưa chuộng nhanh chóng, nhất là tại vùng Osaka.
5. Inoue nhờ một số bạn bè giúp đỡ: một chuyên viên điện tử, một anh
thợ mộc, và một thợ sơn đánh bàn ghế. Sau ba tháng, họ chế xong chiếc máy
karaoke cho anh, có đầy đủ bộ phận như micrô và hiệu ứng âm thanh. Họ gọi
chiếc máy là “8 - Juke”. Người muốn hát chỉ cần bỏ vào một đồng cắc 100 yên,
chỉ 5 giây sau, nhạc đệm sẽ vang lên, Inoue cải biên các khoá nhạc rồi thu băng
cho ai cũng dễ hát theo. Thoạt đầu họ chỉ làm 11 cái, nhưng phát minh trên
được ưa thích đến nỗi họ phải sản xuất thêm 10.000 cái nữa.
6. Ngày nay, karaoke là đã trở nên phổ biến và là một phần văn hoá
chung của thế giới.
7. Chiếc máy karaoke của anh ra đời như thế này: một người khách của
quán rượu mời Inoue tham gia chuyến du lịch do công ty của ông tổ chức cho
nhân viên, để chơi nhạc đệm cho ông hát trong buổi tiệc. Inoue bận quá không
đi được nên thu phần nhạc đệm vào băng trao cho người khách.
Văn bản 8
MOOCGAN VỚI DI TRUYỀN HỌC
1. Công trình đầu tiên của ông trên lĩnh vực này là bài “Sự di truyền liên
kết với giới tính ở ruồi giấm” công bố vào năm 1910. Trong các thí nghiệm với
ruồi giấm, ông đã xây dựng nên thuyết nhiễm sắc thể của tính di truyền, một
phát minh vĩ đại mà theo N.K.Kônxôp, nó đã chiếm “một vị trí trong sinh học như
thuyết phân tử trong hoá học và thuyết cấu trúc nguyên tử trong vật lí học”.
2. Năm 1926, Moocgan cho xuất bản cuốn “Học thuyết về gen”. Chỉ 2
năm sau, cuốn sách đã được tái bản. Từ năm 1933, Moocgan đã có những nhận
định: gen là đơn vị của tính di truyền và là những phân tử có mạch phức tạp và

58
có khả năng tái tạo lại chính mình. Gen là đơn vị của tính di truyền và là thành
phần cấu trúc của nhiễm sắc thể. Trong những trường hợp cá biệt, gen có thể bị
biến đổi và những biến đổi đó có thể duy trì cho thế hệ sau. Những nhận định đó
sau này đã được nhiều công trình xác nhận và giữ nguyên giá trị cho tới nay.
3. T.Moocgan sinh ngày 25 - 9 - 1866 tại bang Kentuca (Mĩ). Năm 20
tuổi, tốt nghiệp đại học; năm 24 tuổi, nhận học vị tiến sĩ khoa học và năm 25
tuổi, trở thành giáo sư trường Đại học Tổng hợp Côlombia ở Niuoóc. Ông được
tăng giải thưởng Nôben năm 1933, là chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Mĩ
(1927 - 1931), Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Nga (1924), Viện sĩ
danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (1932). Từ năm 1890, Moocgan
nghiên cứu phôi sinh học thực nghiệm. Vào thập kỷ đầu của thế kỷ XX, ông
mới quan tâm đến các vấn đề di truyền học. N.I.Vavilôp đã từng đánh giá:
“Trong số những nhà sinh học của thế kỉ XX, T. Moocgan nổi bật như một nhà
di truyền học lỗi lạc, một nhà nghiên cứu có tầm cỡ cực kì rộng lớn”.
4. Có thể nói, T.Moocgan và các học trò xuất sắc của ông đã để lại một di
sản quý báu cho Di truyền học, chính xác hơn đã “cứu vớt” Di truyền học. Các
công trình của T. Moocgan đã giải thích thoả đáng cơ chế của các định luật
Menden ở cấp độ tế bào, gắn “nhân tố di truyền” - những nhân tố thời bấy giờ
đang bị coi là thần bí và duy tâm của Menden với cấu trúc bên trong của tế bào,
tạo nên sự liên minh khăng khít giữa di truyền học và tế bào học. Nếu Menden
chỉ có thể nghiên cứu qui luật di truyền riêng rẽ của từng cặp tính trạng thì trên
đối tượng ruồi giấm, Moocgan đã đi sâu phân tích tỉ mỉ sự biểu hiện của các tính
trạng khác nhau qua nhiều thế hệ cũng như theo dõi được các tính trạng mới
xuất hiện với tần số thấp.
5. Tên tuổi của Moocgan mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Menđen như
những người sáng lập ra di truyền học.
6. Moocgan và những người cộng tác đã chọn một đối tượng nghiên cứu
hết sức độc đáo là ruồi giấm (Drosophila melanogaster). Cũng chính vì vậy mà
phòng thí nghiệm của ông đã trở nên nổi tiếng với biệt hiệu “căn phòng ruồi” và
cho tới nay, ruồi giấm vẫn được sử dụng trong các phòng thí nghiệm di truyền
học ở khắp nơi trên thế giới.

59
PHẦN BÀI TẬP 4
Sắp xếp trật tự các đoạn văn thành văn bản hoàn chỉnh và đặt tên cho văn
bản đó:
Văn bản 1
1. Cuối cùng có một ngày câu lấy hết can đảm đi đến cửa hàng. Cậu lại
mua một chiếc đĩa như mọi ngày và cô gái lại gói cẩn thận. Cậu đưa tay nhận
chiếc đĩa từ cô gái và nhân lúc cô không để ý, cậu vội vàng để lại số điện thoại
lên bàn rồi bỏ chạy…
2. Cậu đi đến cuối phố nơi có rất nhiều cửa hàng. Khi đi ngang qua một
cửa hàng bán băng đĩa, cậu nhìn thoáng vào một giây rồi lại bước đi tiếp, chợt
cậu đứng khựng lại rồi như sực nhớ ra điều gì đó, câu quay gót nhìn vào cửa
hàng một lần nữa và ngay lập tức cậu hiểu thế nào là tiếng sét ái tình. Cậu mở
cửa bước vào, mắt nhìn chăm chú vào một cô gái chạc tuổi cậu. Cậu bước đến
gần hơn, gần hơn nữa cho đến lúc cậu đứng ngay trước quầy hàng của cô gái.
3. Có một cậu thanh niên 18 tuổi từ lâu mắc một căn bệnh ung thư không
thể chữa khỏi. Căn bệnh có thể cướp đi mạng sống của cậu bất cứ lúc nào. Suốt
ngày cậu chỉ quanh quẩn trong nhà dưới bàn tay chăm sóc và tình yêu thương
của mẹ. Hầu như cậu không đi ra ngoài. Nhưng ở nhà mãi cũng buồn nên một
hôm cậu xin phép được đi dạo phố.
4. Cô gái nhìn lên hỏi: “Anh cần gì ạ?” Cô mỉm cười và cậu nghĩ rằng đó
là nụ cười đẹp nhất cậu từng thấy. Cậu muốn hôn cô gái ngay lúc đó. Cậu trả
lời: “ừm… à … tôi muốn mua một đĩa CD”. Cậu lấy đại một đĩa rồi trả tiền.
“anh có cần gói lại không ạ?” – cô gái nhẹ nhàng hỏi, đôi môi lại nở nụ cười
duyên dáng. Cậu gật đầu, cô gái đi ra phía sau rồi quay lại với chiếc đĩa đã được
gói cận thận trao cho cậu. Cậu nhận đĩa, bước ra khỏi cửa hàng. Từ đó, ngày nào
cậu cũng đến cửa hàng mua một đĩa CD và cô gái lại gói thật đẹp. Cậu đem
chiếc đĩa về cất vào tủ. Cậu vẫn còn quá e thẹn, không dám mời cô đi uống
nước dù cậu rất muốn. Bà mẹ biết chuyện và bảo con trai hãy can đảm ngỏ lời
với cô gái.
5. Người mẹ nhấc điện thoại. Đầu dây bên kia chính là cô gái bán đĩa CD.
Cô xin gặp chàng trai, bà mẹ khóc nức nở: “Cháu không biết gì sao? Con trai
bác vừa qua đời hôm qua…”. Thoáng sững sờ bên đầu dây bên kia rồi im lặng,
chỉ còn tiếng khóc của bà mẹ. Tối hôm đó bà bước vào phòng của con trai mình.

60
Bà mở tủ quần áo của con trai vì muốn thấy từng bộ đồ con trai mình đã mặc.
Ngăn tủ mở ra, trước mắt bà là hàng chồng đĩa CD tất cả còn nguyên chưa bóc
ra. Bà rất ngạc nhiên và cầm một chiếc lên từ từ mở lớp giấy gói, một mảnh
giấy nhỏ rơi xuống. Mảnh giấy có ghi “Xin chào … em nghĩ anh rất đáng yêu.
Anh có muốn đi dạo với em không? Thương Jacquenlyn”. Người mẹ lại mở một
chiếc đĩa khác… lại có một mảnh giấy khác với dòng chữ “Xin chào … em nghĩ
anh rất đáng yêu. Anh có muốn đi dạo với em không? Thương Jacquenlyn”.
6.RRRRREEEEEEENG…
Văn bản 2
1. Trong đời Hậu Lê và đời Nguyễn, có rất nhiều tác giả viết về Thăng
Long và đời sống văn hóa ở đấy, bao gồm cả văn hoá dân gian.
2. Sử sách của nước ta ghi chép về phong vật của Kinh đô nước đại Việt
từ đời lý đến nay thì đời nào cũng có. Trước hết, phải kể đến bài Chiếu dời đô
của Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ. Trong bài Chiếu dời đô, Lý Thái Tổ đã phân
tích sâu sắc ý nghĩa địa lý – chính trị (géo - politique) của nơi đóng đô mới mà
nhà vua sẽ đặt tên là Thăng Long. Nhà vua viết rằng nơi ấy “ở vào chính giữa
bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, vị trí thích trung với bốn
phương đông, tây, nam, bắc, tiện cả núi sông quay vào ngoảnh ra. Địa thế vừa
rộng rãi lại vừa bằng phẳng, đất đai cao ráo lại vừa sáng sủa, dân cư không khổ
vì tối tăm ẩm thấp, muôn vật đều phong phú tốt tươi”.
3. Trong sách Việt điện u linh (viết năm 1329) của Lý Tế Xuyên và sách
Lĩnh Nam chích quái do Trần Thế Pháp (thế kỷ XIV) và Vũ Quỳnh, Kiều Phú
(cuối thế kỷ XV) kế tục nhau biên soạn đều có những bài, những truyện liên
quan đến Thăng Long. Đó hoặc là những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh
hoặc là nhân vật, sản vật và sinh hoạt văn hóa của Thăng Long từ thế kỷ XIV
trở về trước.
4. Nguyễn Trãi viết sách Dư địa chí năm 1435 trong điều mục thứ 15, đã
miêu tả Thượng Kinh (tức Thăng Long, Đông Đô) với 36 phố phường với các
sản phẩm thủ công, mỹ nghệ nổi tiếng.
5. Trong thời Bắc thuộc, người Trung Quốc cũng có ghi chép về thành
Tống Bình (ở địa phận quận Ba Đình ngày nay) và về thành Đại La. Đáng chú ý
là việc ghi chép sự tích quan đô hộ nhà Đường tên là Lý Nguyên Gia đi trên

61
dòng sông Tô Lịch để tìm địa thế lập phủ thành đô hộ và sau đó xây thành Đại
La.
6. Các bộ sử như Đại Việt sử lược (đời Trần), Đại Việt sử ký toàn thư (đời
Lê), Việt sử thông giám cương mục (đời Nguyễn) đều có nhiều đoạn viết về
Thăng Long và các sinh hoạt văn hóa ở đấy.
7. Các tác giả cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX như Lê Hữu Trác với
Thượng Kinh ký sự, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án với Vũ Trung tuỳ bút và
Tang thương ngẫu lục, Vũ Phương Đề với Công dự tiệp ký.
8. Nhận thức về kinh đô Thăng Long của Lý Thái Tổ sẽ trở thành nhận
thức của các nhà cầm quyền cũng như các nhà văn hóa nước Đại Việt trong
hàng nghìn năm. Và các nhà văn hóa Đại Việt viết khá nhiều về Thăng Long -
Đông Đô - Hà Nội.
Văn bản 3
1. Trong khi đó Bill ý thức rằng ngôi làng này cần nước thì các làng khác
cũng phải có nhu cầu thiết yếu đó. Thế là anh ta phác thảo lại kế hoạch kinh
doanh của mình, đi chu du xây dựng hệ thống cấp nước nhanh chóng, số lượng
lớn, chi phí thấp và chất lượng sạch cho mọi ngôi làng trên thế giới. Anh ta chỉ
kiếm có mỗi xu một thùng nước nhưng anh ta lại cung cấp hàng tỷ thùng nước
mỗi ngày. Cho dù anh ta có làm việc hay không, hàng tỷ người vẫn tiêu thụ
hàng tỷ thùng nước và mọi số tiền kiếm được đó đều chảy vào tài khoản ngân
hàng của Bill.
2. Người thứ nhất trong hai người đó tên là Ed, lập tức lên chợ mua hai
thùng thiếc mạ kẽm và ngược xuôi chở nước từ hồ cách đó khoảng một dặm về
làng. Với hai thùng nước đó, anh ta làm việc từ sáng sớm đến chiều tối và nhanh
chóng kiếm ra tiền. Ed đổ nước trong thùng vào một bể chứa nước đúc bằng bê
tông to đùng trong làng. Cứ mỗi buổi sáng, anh ta là người thức dậy trước nhất
để đảm bảo lượng nước đủ dùng cho cả làng. Công việc thật cực nhọc, nhưng
anh ta cảm thấy rất hạnh phúc khi làm ra tiền và đã thắng một trong hai hợp
đồng duy nhất trong cả làng.
3. Vào buổi khai trương, Bill trịnh trọng tuyên bố nguồn nước cung cấp
của mình sạch hơn của Ed. Trước đó, Bill đã nghe thấy nhiều phàn nàn của dân
làng về bụi cặn trong nguồn nước do Ed cung cấp. Bill còn tuyên bố sẽ cung cấp
nước liên tục cho làng 24 giờ mỗi ngày và 7 ngày trong tuần. Trong khi Ed chỉ

62
cung cấp nước 5 ngày trong tuần vì cuối tuần anh ta nghỉ làm việc. Tiếp theo
Bill tuyên bố sẽ chỉ lấy giá bằng 75% giá của Ed. Cả làng hoan hô Bill và ùn ùn
xếp hàng trước vòi nước đường ống do Bill xây dựng.
4. Ngày xửa ngày xưa có một ngôi làng nhỏ bé đáng yêu. Ngôi làng ấy là
một chỗ tuyệt vời nhưng tiếc thay lại gặp một vấn đề nghiệm trọng. Khi trời
không mưa, làng chẳng có một tí nước nào. Nhằm giải quyết dứt điểm vấn đề,
các già làng quyết định gọi thầu cung cấp nguồn nước hàng ngày cho dân làng.
Có hai nhân vật đứng ra nhận thầu, và các già làng ký hợp đồng với cả hai. Các
già làng cho rằng sự cạnh tranh nho nhỏ giữa hai bên vừa có thể làm cho giá cả
giảm xuống, lại vừa đảm bảo có đủ nước dự trữ cho làng.
5. Bill sống hoàn toàn hạnh phúc sau đó, trong khi Ed phải làm việc cực
nhọc suốt đời mà vẫn lận đận về tiền bạc.
6. Để cạnh tranh, Ed lập tức hạ giá xuống còn 75% so với giá trước đây,
mua thêm hai thùng nước và nắp đậy, rồi bắt đầu tăng công suất lên bốn thùng
cho mỗi chuyến đi. Nhằm cung cấp dịch vụ tốt hơn, anh ta mướn hai người con
của mình phụ giúp làm ca đêm và vào những ngày nghỉ cuối tuần. Khi hai đứa
con lên tỉnh nhập học, anh ta nói với chúng: “Các con hãy nhanh chóng quay về
vì sự nghiệp kinh doanh này sẽ thuộc về các con”. Vì một lý do nào đó, hai
người con của Ed sau khi tốt nghiệp không trở về làng. Anh ta cuối cùng phải
thuê mướn nhân công và từ đó bắt đầu gặp rắc rối với Công đoàn Lao động.
Công đoàn yêu cầu tăng lương, chu cấp thêm phúc lợi cho công nhân.
7. Người nhận thầu thứ hai tên là Bill biến mất đi một thời gian. Cả làng
không nhìn thấy anh ta trong nhiều tháng. Thay vì đi mua hai thùng nước, Bill
phác thảo một kế hoạch kinh doanh, thành lập công ty, tìm thêm bốn đối tác đầu
tư, thuê một giám đốc quán xuyến công việc và trở về với một nhóm thợ xây sau
sáu tháng biệt tăm. Trong vòng một năm, nhóm thợ của Bill hoàn tất công trình
lắp đặt một đường ống dẫn nước bằng i-nốc từ hồ vào thẳng trong làng.

63
PHẦN BÀI TẬP 5
Các văn bản sau đây đã bị xoá ranh giới giữa các đoạn văn. Hãy phân đoạn
và nói rõ lý do
Văn bản 1
NGHỆ THUẬT VÀ TUYÊN TRUYỀN

Chúng tôi xin nói về nghệ thuật và tuyên truyền. Có bạn cho rằng nghệ
thuật là nghệ thuật, tuyên truyền là tuyên truyền; hai cái không thể lẫn lộn với
nhau. Tác phẩm tuyên truyền chỉ có giá trị nhất thời, vụ lợi và thiển cận. Tác
phẩm tuyên truyền thường làm vội, không phải là nghệ thuật hiểu đúng theo
nghĩa của nó, nghệ thuật là thuần tuý, siêu thoát, vĩnh cửu, vượt lên trên mọi
chuyện hàng ngày…Có bạn lại cho rằng tuyên truyền và nghệ thuật là một,
không có nghệ thuật nào mà không phải là nghệ thuật tuyên truyền. Theo chúng
tôi, hai ý kiến đều có chỗ không đúng. Nghệ thuật và tuyền truyền không hoàn
toàn khác nhau, nhưng cũng không hoàn toàn giống nhau. Tuyên truyền cũng
chỉ là một thứ nghệ thuật. Nghệ thuật tuyên truyền là một phần trong nghệ thuật
nói chung. Và bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào cũng có ít nhiều tính chất tuyên
truyền. Nhưng nói như thế không phải có thể kết luận rằng nghệ thuật và tuyên
truyền chỉ là một. Tuyên truyền cao đến mức nào đó thì tuyên truyền trở thành
nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực tới một mức nào đó thì nghệ thuật có tính chất
tuyên truyền rõ rệt. Cho nên, có thể có những người tuyên truyền không phải
hoặc chưa phải là nghệ sĩ, nhưng cũng không thể có những nghệ sĩ hoàn toàn
không phải là người tuyên truyền. Có bạn còn nói, nghệ thuật là chân lí, còn
tuyên truyền ít nhiều có tính chất giả dối, bịa đặt thêm ra. Vì vậy, nghệ thuật và
tuyên truyền khác nhau. Không đúng. Đành rằng nghệ thuật chân chính là chân
lí, nhưng trong xã hội có phân hoá giai cấp, có nghệ thuật nhiều chân lí, có nghệ
thuật ít chân lí, nhưng cũng có “nghệ thuật” phản chân lí. Nghệ thuật phục vụ
cho mục đích chính nghĩa là nghệ thuật hợp chân lí. Nghệ thuật phục vụ cho
mục đích phi nghĩa là “nghệ thuật” phản chân lí hoặc “nghệ thuật” không phải là
nghệ thuật. Tuyên truyền cũng có hai thứ: tuyên truyền của phe xâm lược, phản
động là tuyên truyền phản chân lí; tuyên truyền của phe cách mạng là tuyên
truyền chân thực, phù hợp với chân lí rõ ràng. Tuyên truyền chính nghĩa rất có
thể đạt được trình độ nghệ thuật chân chính. Dù sao, chúng tôi tán thành có
những tác phẩm văn nghệ là kịp thời để dùng ngay tức khắc, cũng có những tác
64
phẩm làm kĩ và lâu để cho nghệ thuật được trau dồi và nâng cao hơn. Tuy rằng
có những tác phẩm văn nghệ làm vội để phục vụ ngay cho kháng chiến vẫn
không kém phần nghệ thuật, chúng ta cũng không nên lẫn lộn nghệ thuật nói
chung với nghệ thuật tuyên truyền. Văn nghệ sĩ nào có đủ điều kiện hoặc cao
hứng, muốn sáng tác kĩ và lâu để cho nghệ thuật được “vĩnh cửu”, xin cứ làm.
Một điều chắc chắn là nếu văn nghệ sĩ đó trung thành với thời đại, đi sát cuộc
chiến đấu của dân tộc và đời sống của nhân dân ta, thì tác phẩm của họ, nghệ
thuật càng cao càng có ý nghĩa tuyên truyền mạnh.
Văn bản 2
Ý VÀ LỜI

Lời và ý có liên hệ mật thiết với nhau như hồn và xác. Một đoạn văn hay
thì chẳng những hay về ý mà hay cả về lời; cho nên một câu chải chuốt mà ý
tầm thường, hoặc ý xác đáng mà lời vụng về thì cũng không thể nào lưu truyền
được.Ý và lời quan trọng như nhau, nâng đỡ nhau. Chắc bạn đã nghiệm thấy
rằng hễ kiếm được một ý hay thì tự nhiên cũng dễ kiếm được lời để phô diễn.
Những lúc ý đã hiện mà bạn bóp trán chưa kiếm được lời là tại bạn chưa chịu
suy nghĩ kỹ, chưa chịu đào sâu như người Pháp nói. Ý mới mờ mờ, nên lời còn
ẩn úp. Có phải khi nào bạn cảm xúc nồng nàn thì kiếm ngay được những lời
mạnh mẽ để diễn tả cảm xúc đó không? Vì vậy, những người nhà quê, không
học làm văn bao giờ mà thỉnh thoảng cũng tìm được những tiếng xác đáng để tỏ
tình cảm của họ. Đọc ca dao, bạn đã khâm phục tài của những thi sĩ vô danh
trong quần chúng đó. Chẳng hạn hai câu: “Duyên sao cắc cớ hỡi duyên, Cầm
gương gương tối, cầm vàng vàng phai”. Hay ở lời chăng? Hay ở ý chăng? Ở cả
hai. Phải là một người đàn bà đau đớn ê chề về cảnh huống, đã nhiều lần than
thân tủi phận mới kiếm được những lời đó. Ý ảnh hưởng tới lời, và lời cũng ảnh
hưởng tới ý vì lời là để diễn ý. Hễ sửa một lời sao cho đẹp hơn thì ý cũng hay
hơn, mới hơn. Chẳng hạn, bạn viết: “Gió đã hơi lạnh rồi”. Nhưng thấy lối phô
diễn ấy thường lắm, không làm cho độc giả chú ý tới được, bạn sửa: “Đã nghe
rét mướt luồn trong gió” thì đâu phải bạn chỉ thay lời, mà còn thay cả ý nữa đây.
Hoặc nếu bạn nói: “Tôi buồn lắm”, rồi bạn thấy lời đó chưa đủ mạnh để diễn tả
nỗi sầu ngùn ngụt của bạn, bạn bèn sửa: “Vạn lý sầu lên, núi tiếp mây” thì ai
dám bảo rằng ý của bạn đã không thay đổi.
Văn bản 4
65
SÓNG SÁNH MÀU RƯỢU VANG

Nhấp một ngụm nhỏ rượu vang, bạn cảm thấy vị cay nồng xông lên mũi.
Nhấp thêm một ngụm nữa, hương thơm nhẹ nhàng, tinh khiết từ các loại nho
chín mọng sẽ khiến bạn ngất ngây. Tuy nhiên, bạn phải biết cách thưởng thức,
cất giữ cũng như chọn loại rượu nào dùng với món gì. Lúc đó, hương vị mới
thật sự độc đáo. Vang có hai loại: trắng và đỏ, được chế biến từ các loại nho
ngon, để lên men tự nhiên trong thùng gỗ. Vì thế, nồng độ vang cao nhất chỉ ở
khoảng 130, không chứa cồn, rất dễ uống. Các nhà sản xuất thường dùng 5 – 10
kg nho tươi để cho ra một chai rượu vang 750ml. Vang càng cất giữ lâu năm,
hương vị càng đậm đà. Nếu loại rượu được sản xuất từ những giống nho thu
hoạch trễ vụ, hương vị sẽ thơm ngon hơn. Uống vang là cả một nghệ thuật. Hình
dáng của ly cũng tác động ít nhiều đến việc thưởng thức. Khi dùng vang trắng,
bạn nên sử dụng loại ly nhỏ, hình hoa tulip. Loại ly lớn, hơi bầu tròn dành cho
vang đỏ. Điều quan trọng là bạn không nên uống vội. Đầu tiên, hãy giữ ly trước
mũi, ngửi vài giây rồi mới nâng cốc lên nhấp một ngụm nhỏ. Theo các chuyên
gia thử rượu, vang trắng dùng để khai vị và uống cùng các món hải sản, cá, thịt
gia cầm. Vang đỏ nên dùng với các loại thịt đỏ. Khai vị với vang trắng, chất xúc
tác sẽ kích thích bạn dùng bữa chính ngon miệng hơn nhờ mùi thơm và vị chua
nhẹ. Ngoài ra, vang còn là một loại gia vị đặc biệt, ướp vào thức ăn sẽ tạo nên
hương vị hấp dẫn. Chẳng hạn khi chế biến các món thịt hoặc cá, nếu ướp thêm
chút rượu vang, món ăn sẽ thơm hơn, độ béo và mùi tanh cũng giảm đi. Bạn nên
cất giữ các loại vang ở nhiệt độ khoảng 140C. Trước khi uống, lấy rượu ra ngoài
khoảng vài phút để rượu “thở”. Lúc ấy, hương vị sẽ ngon hơn. Khi đã mở nắp,
bạn nên dùng hết trong ngày. Nếu không, bạn có thể cho vang vào tủ lạnh,
nhưng chỉ dùng tối đa 3 ngày. Các nhà nghiên cứu cho biết, mỗi ngày uống một
lượng vang đỏ vừa đủ (khoảng 120ml) có thể làm giảm nguy cơ các bệnh về tim
mạch, đột quỵ, cải thiện não, điều hòa huyết áp. Đặc biệt, vang còn có tác dụng
chống ung thư nhờ trong quả nho làm nên rượu chứa nhiều chất antioxydant
(chất chống ô-xy hoá). Mới đây, trên tạp chí Y tế ở Anh, các nhà khoa học thuộc
trường Đại học Hoàng gia Anh đã công bố: rượu vang đỏ còn giúp làm giảm
nguy cơ viêm phổi do hút thuốc lá.
Văn bản 5

66
NHÀN ĐÀM VỀ VĂN HỌC

Văn học dù có vẻ hoang đường đến đâu cũng bắt đầu từ cuộc sống xã hội
và luôn luôn phản ánh cuộc sống ấy ở mặt này, mặt khác. Vì thế, văn học thay
đổi tuỳ theo sự thay đổi của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Xã hội thế nào,
văn nghệ thế ấy”. Mà xã hội bao giờ cũng là xã hội của một cộng đồng nhất
định. Do đó văn học bao giờ cũng có tính dân tộc. Văn học nhận thức thế giới
không giống với các môn khoa học. Các nhà khoa học dùng lý trí, suy nghĩ,
phán đoán. Nhà văn khám phá thế giới bằng toàn bộ tâm hồn mình, bao gồm cả
lý trí, tình cảm, cảm xúc. Tất cả được huy động trong những giây phút sáng tạo
đầy cảm hứng. Ngôn ngữ văn học bắt nguồn từ ngôn ngữ của đời sống thông
thường nhưng được chọn lọc gọt giũa để xây dựng hình tượng văn học. Ngôn
ngữ văn học phải phong phú, trong sáng, hàm súc, giàu tính biểu cảm, nhưng
quan trọng nhất là phải chính xác theo yêu cầu riêng rất tinh vi của văn học.
Nghĩa là phải chọn đúng từ ấy chứ không phải từ khác, phải đặt đúng chỗ ấy
chứ không thể chuyển sang vị trí khác. Có như thế mới đúng được cảnh ấy, dáng
điệu ấy, đúng được cái tình ấy, ý ấy. Văn học hết sức tôn trọng người đọc. Nó
tránh đưa ra những lời răn dạy trực tiếp đã đành mà còn thấy không nhất thiết
phải xây dựng những hình tượng nêu gương. Nó chú trọng khêu gợi những vấn
đề này khác để đối thoại, tranh luận một cách bình đẳng với người đọc. Đấy là
văn học tham gia cải tạo cuộc sống.

67
PHẦN BÀI TẬP 6

Các văn bản sau đây đã bị xoá ranh giới giữa các đoạn văn. Hãy phân
đoạn, nêu ý chính và đặt tên cho văn bản
Văn bản 1
Từ một cậu bé thất học, Alêcxây Pêscôp đã vươn lên trở thành M. Goocki
– nhà văn nổi tiếng thế giới, nhà văn bậc thầy của giai cấp vô sản, con người
được nhân dân thế giới kính trọng vì một vốn hiểu biết văn hóa vừa rộng lớn
vừa sâu sắc. Nhờ đâu? Nhờ một nghị lực sống phi thường đã tìm gặp được một
thứ tài sản phi thường: sách. Nói đến M. Goocki , không thể không nói đến tự
học, do đó không thể không nói đến sách. Chính ông đã nói đến tác động tuyệt
diệu của sách đối với mình trong một lời phát biểu giản dị: “Sách mở rộng ra
trước mắt tôi những chân trời mới”. Từ lâu, con người đã biết đến sự kỳ diệu
của sách. Sách, đó là cái thần kỳ trong những cái thần kỳ mà nhân loại đã sáng
tạo nên. Thật không thể hình dung một nền văn minh mà không có sách. Từ
hàng nghìn năm trước, khi chưa có chữ in, khi chưa có máy in, chưa có cả giấy
bút nữa, thì nhân loại đã nghĩ đến sách rồi, đã có những hình thức đầu tiên của
sách rồi. Sách là cái cần có để con người lưu giữ và truyền lại cho người khác,
cho thế hệ khác những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh, những khám
phá về vũ trụ và con người, cả những ý nghĩ, những quan niệm, những mong
muốn về cuộc sống cần gửi đến cho mọi người và trao gửi đến đời sau. Sách, đó
là kho tàng chứa đựng những hiểu biết mà con người đã khám phá, chọn lọc, thử
thách, tổng hợp. Sách là nơi kết tinh những tư tưởng tiên tiến nhất của các thời
đại, những hoài bão mạnh mẽ nhất, những tình cảm tha thiết nhất của con người.
Chỉ có những gì mà con người cảm thấy bức xúc cần nói lên, cần truyền lại, mới
đi vào sách. Tác động của sách không hề bị giới hạn bởi thời gian và không
gian. Con người ngày nay không hề giảm sút hứng thú tìm lại những trang sách
đã có hàng mấy nghìn năm nay, từ những hình vẽ bí hiểm trên những phiến đất
sét, những chữ cái từ lâu đã trở nên lạ lùng trên các tấm da cừu, những con chữ
tượng hình trên các thẻ tre… cho đến hôm nay, những cuốn sách được in hàng
loạt bằng những máy in điện tử hiện đại. Một người sống ở một làng hẻo lánh
châu Á cũng có thể đọc được cuốn sách của một người viết từ một đất nước xa
xôi ở châu Mỹ. Thật có thể nói không ngoa rằng: có sách, các thế kỷ và các dân

68
tộc xích lại gần nhau. Sách đưa đến cho người đọc những hiểu biết mới mẻ về
thế giới xung quanh, về vũ trụ bao la, về những đất nước và những dân tộc xa
xôi. Những quyển sách khoa học có thể giúp người đọc khám phá ra vũ trụ vô
tận với những quy luật của nó, hiểu được trái đất tròn mang trên mình nó bao
nhiêu đất nước khác nhau với những điều kiện tự nhiên khác nhau. Những
quyển sách xã hội học lại giúp ta hiểu biết về đời sống con người trên các phần
đất khác nhau đó với những đặc điểm về kinh tế, lịch sử, văn hóa, những truyền
thống,... Sách, đặc biệt là những cuốn sách văn học , giúp ta hiểu biết về đời
sống bên trong của con người, qua các thời kỳ khác nhau, ở các dân tộc khác
nhau, những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, những khát vọng và
đấu tranh của họ. Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ
mình là ai giữa vũ trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào
với người khác, với tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng
nhân loại này. Sách còn giúp cho người đọc hiểu đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi
khổ của mỗi người và phải làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời
thật sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và khát vọng… Hàng ngàn năm
qua, con người đã sáng tạo ra sách và ham mê đọc sách. Nhưng nếu xưa kia
niềm vui ấy chỉ là đặc quyền của một số người rất nhỏ thì ngày nay là niềm vui,
là quyền lợi của cả những con người nhỏ bé bình thường. Sách vẫn tiếp tục phát
huy tác dụng kỳ diệu của nó. Ta không thể hình dung một thế giới không có
sách. Không còn sách, nền văn minh nhân loại cũng sẽ không còn.
Văn bản 2
Một nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới đã tuyên bố: “Một phụ nữ sẽ không
xứng đáng là phụ nữ nữa nếu phải thuyết phục cô ta dùng nước hoa”. Điều ấy
khẳng định trong cuộc sống của một người phụ nữ, nước hoa là một đặc tính
giống như hơi thở. Nó như một cảm xúc làm tăng sự quyến rũ của người phụ nữ
lên đến tột cùng. Hơn thế nữa, nó có thể tạo nên nét đặc biệt riêng của cá nhân
người sử dụng. Giống như một đoá hoa mà ngoài vẻ đẹp, hương thơm của nó
cũng làm ngây ngất lòng người. Không riêng gì phụ nữ, nam giới cũng sẵn lòng
dành cho những sản phẩm quyến rũ này một vị trí quan trọng. Với công nghệ
sản xuất ngày càng tinh vi, cao cấp, mỗi mùi hương đều toát lên những nét đặc
trưng riêng, thích hợp với đủ loại màu da, mồ hôi, lứa tuổi, thành phần. Từ
người bình dân cho đến giới trung lưu, thượng lưu trong xã hội đều có thể sử

69
dụng nước hoa một cách thoải mái và tự tin. Tuỳ theo ý thích, họ có thể “để
dành” nước hoa cho những dịp đặc biệt như lễ hội, cưới hỏi... hoặc sử dụng
thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày như một thói quen. Hương thơm đi vào
cuộc sống tự nhiên và kỳ diệu như vậy đó. Người ta lựa chọn nước hoa theo bản
năng và lạ thay – theo tính khí của mình. Có người chỉ “chung thuỷ” với một
mùi hương trong suốt cả cuộc đời, bất chấp mùi hương ấy đã trở nên “cổ lỗ”
trước những mùi mới lạ. Người khác thì háo hức tìm tòi, thử nghiệm tất cả
những mùi hương để chọn cho mình những mùi thích hợp với cá tính, những
mùi riêng cho buổi sáng, trưa, chiều, tối, đáp ứng được nhu cầu thụ hưởng tinh
tế, hợp thời trang. Nước hoa có bốn loại khác nhau, từ thơm nhẹ đến thơm đậm
đặc. Bạn có thể chọn mua tất cả bốn loại, nhưng hãy cẩn thận khi sử dụng, bởi
nếu bạn chỉ vô tình hoặc cẩu thả một chút thôi, có thể bạn đã biến mình thành
đối tượng khó chịu hoặc chế giễu của những người khác. Đó là khi bạn sử dụng
mùi thơm quá nồng, quá đậm đặc khi đi làm, đi hội họp ở cơ sở. Hoặc khi bạn đi
dự các buổi tiệc lớn, mùi nước hoa quá dịu sẽ bị chìm lấp, biến mất trong hàng
trăm mùi nước hoa của những người hiện diện. Hãy khéo léo để mùi nước hoa
bạn chọn, chỉ là biểu trưng riêng của bạn mà thôi. Đừng quên rằng sử dụng
nước hoa cho hợp tình, hợp cảnh, hợp cá tính cũng là một nghệ thuật sống, nó
có thể giúp bạn tự tin hơn trước đám đông. Điều không kém quan trọng khi sử
dụng nước hoa là, nước hoa chỉ giữ được mùi khi được bôi trên da. Khi xịt trên
áo quần, nước hoa sẽ bay mùi nhanh chóng khi ra ngoài trời. Nếu bôi chúng vào
những nơi có mạch máu đập trên cơ thể như thái dương, cổ tay, các nếp gấp
khuỷu tay, dưới ức, sau thuỳ tai, mùi hương sẽ hoà vào hơi ấm của cơ thể và toả
ra rất tuyệt. Người ta vẫn nói: “Chiếc túi xách của người phụ nữ chứa đựng cả
thế giới bí ẩn”. Thật đáng yêu khi trong thế giới kỳ bí đó có một lọ nhỏ chứa
đựng một thế giới khác nữa – thế giới của những mùi hương kỳ diệu.

70
PHẦN BÀI TẬP 7

Sắp xếp các câu sau thành một đoạn văn hoàn chỉnh

Bài 1:

1. Ở Na - Uy, nơi có lẽ có tuyết và băng trong vòng gần bảy tháng trong
một năm, luật pháp yêu cầu tất cả các ôtô phải được lắp những lốp xe có đầu
đinh đặc biệt.
2. Những người lái ôtô tình cờ gặp phải những dải băng mỏng có lẽ sẽ
thấy mình bị trượt khỏi đường.
3. Một biện pháp như thế nói chung là thoả đáng đối với những cơn mưa
tuyết ngắn ngủi.
4. Các đội bảo trì đường sá cố gắng làm giảm hiểm nạn trượt ngã bằng
cách rải cát lên mặt đường.
5. Trở ngại chính của nó là nếu có trận mưa tuyết mới thì người ta phải
lập lại cả quá trình ấy, và nếu như mưa tuyết cứ tiếp tục rơi, việc giúp cho lốp
xe có cách để bám đường càng trở nên vô hiệu.
6. Những lốp xe này ngăn chặn trượt ngã có hiệu quả trong điều kiện thời
tiết khắc nghiệt cho đến khi người ta dọn sạch tuyết tơi xốp một cách đều đặn.
7. Bất cứ khi nào có tuyết ở Anh, một số con đường nông thôn có thể có
lớp băng mỏng trong suốt phủ trên mặt.
8. Ở nước Anh, tuy nhiên, các đầu đinh đóng cá bằng vonfram sẽ làm
thủng mặt đường rải nhựa mỏng thành từng mảng ngay khi lớp tuyết hoặc băng
bảo vệ tan ra.
9. Do đó, chúng ta phải chấp nhận phương pháp được mô tả trên, coi là
điều ít tệ hại hơn trong hai điều phải chọn.
10. Các đầu đinh của chúng ghim chặt vào bề mặt đóng băng và làm cho
người lái ô tô quẹo cua an toàn ở mọi nơi mà lốp xe không có đinh sẽ gây ra tai
hoạ.’

71
Bài 2.

1. Trong hệ thống vốn từ của một ngôn ngữ, tên riêng làm thành một lớp
tên gọi có cấu trúc đặc biệt với số lượng không xác định.
2. Bên cạnh những thành phần chủ yếu có tính chất ngôn ngữ học, tên
riêng còn chứa đựng trong nó những thông tin đủ loại mang tính lịch sử, truyền
thống, văn hoá, xã hội và nhiều thứ khác đặc trưng cho mỗi một cộng đồng dân
tộc.
3. Chính vì vậy tên riêng đã trở thành đối tượng quan tâm của nhiều
ngành khoa học xã hội khác nhau như: Sử học, Dân tộc học, Xã hội học, Tâm lí
học và Ngôn ngữ học.
4. Trong ngôn ngữ học, tên riêng được nghiên cứu trong một chuyên
ngành riêng biệt - đó là môn Tên riêng học hay Danh xưng học.

Bài 3.

Phần văn bản sau gồm một số câu đã thay đổi trật tự. Anh/ chị hãy
sắp xếp lại trật tự các đoạn văn, các câu của những phần văn bản trên cho
đúng với trật tự vốn có của nó.

Về phía Bắc, người Việt cổ, chủ nhân văn hóa Đông Sơn có quan hệ tiếp
xúc và giao lưu văn hóa với các cư dân miền Nam Trung Quốc. Đó là những cư
dân không phải Hán, có văn hóa gần gũi với văn hóa Đông Nam Á. Trong thời
tiền sử và sơ sử, vùng đất từ phía nam sông Dương Tử nên coi là thuộc khu vực
văn hóa Đông Nam Á thì đúng hơn là thuộc Đông Á.

1. Người Tấn Ninh hay miêu tả thú, nhất là thú cắn xé nhau, người Đông
Sơn thích miêu tả người, có vẽ chim muông trong dáng nhởn nhơ, bay
lượn.
2. Bên cạnh đó, có những trống đồng, đồ đồng, bắt chước kiểu mẫu Đông
Sơn những vẫn lộ rõ phong cách Tấn Ninh.
3. Ở Vân Nam, những cư dân bản địa ở đây cũng đã xây dựng một nền văn
hóa sơ kì sắt phong phú, đó là văn hóa Tấn Ninh, với những đồ đồng thau
rất đẹp.

72
4. Ở Tấn Ninh, tìm được những trống đồng Đông Sơn, có hoa văn và hình
người, hình chim khắc họa theo phong cách Đông Sơn.
5. Loại dao găm được trang trí đẹp, có mép lưỡi uốn lượn, tìm được trong
các tỉnh Hà Tuyên, Bắc Thái và Vĩnh Phú, có thể là biểu hiện một ảnh
hưởng Tấn Ninh.
6. Văn hóa Tấn Ninh có những nét gần gũi văn hóa Đông Sơn, nhưng phong
cách nghệ thuật hoàn toàn khác nhau.
7. Nhưng không nghi ngờ gì nữa, văn hóa Tấn Ninh đã chịu ảnh hưởng rõ
ràng của văn hoá Đông Sơn.
8. Nhưng quan hệ giao lưu văn hóa giữa người Đông Sơn và người Tấn
Ninh khá rõ ràng.
9. Có người cho rằng tượng thú trên nắp thạp đồng Vạn Thắng (Vĩnh Phú)
cũng mang phong cách Tấn Ninh.
10. Người Đông Sơn đã nhận một số ảnh hưởng nào đó từ Tấn Ninh.
11. Phong cách Tấn Ninh chuộng chi tiết, bám sát cái thực; phong cách Đông
Sơn ưa cách điệu, chú trọng cái thần.

Ảnh hưởng của Đông Sơn còn đến nhiều vùng khác ở Hoa Nam. Chẳng
hạn, mới đây, dao găm cắm hình người bằng đồng, một di vật đặc trưng cho văn
hóa Đông Sơn, đã được phát hiện ở Trường Sơn (Hồ Nam). Dao găm cán hình
người cũng tìm được trên đảo Đài Loan nhưng không giống hẳn loại dao găm
Đông Sơn. Có thể cư dân bản địa Đài Loan đã tạo ra loại dao này do ảnh hưởng
của văn hóa Đông Sơn lan đến đây.

73
PHẦN BÀI TẬP 8
Điền dấu câu cho các đoạn văn sau
1. Câu là một trong những đơn vị của hệ thống ngôn ngữ, chúng gồm có
hai mặt nội dung và hình thức việc đi sâu nghiên cứu hai mặt này hết sức cần
thiết nên đã được SGK tiếng Việt lớp 10 và lớp 11 quan tâm mặt hình thức cấu
tạo câu được trình bày ở chương III Câu Tiếng Việt 10 gồm các bài Giản yếu về
câu 6 tiết Câu trong văn bản 4 tiết Lỗi về cấu tạo câu 1 tiết mặt ngữ nghĩa được
trình bày ở chương IV Ngữ nghĩa của câu Tiếng Việt 11 gồm các bài Câu và
phát ngôn 1 tiết Các thành phần nghĩa của phát ngôn 2 tiết Nghĩa tường minh 1
tiết Nghĩa hàm ẩn 1 tiết Phân tích nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn trong văn
chương 3 tiết bài viết của chúng tôi đi sâu tìm hiểu biểu hiện của hai mặt này ở
cấp độ câu được trình bày trong SGK và cách tiếp nhận có hiệu quả
2. Cá nhân con người khi sinh ra lớn lên lấy vợ lấy chồng rồi chết đi đều
phải trải qua những chặng đường được xác định về mặt văn hoá thời thơ ấu thời
niên thiếu thời thành niên thời già lão gia đình cũng vậy lớn lên phát triển và trải
qua nhiều giai đoạn ba giai đoạn chườm lên nhau của chu kì phát triển của gia
đình được Portes phân định đặc trưng là giai đoạn mở rộng phân ly và thay thế
giai đoạn mở rộng kéo dài từ lúc thành hôn của đôi vợ chồng cho đến khi hoàn
thành việc sinh con đẻ cái giai đoạn phân ly kéo dài từ khi người con đầu tiên
lập gia đình cho đến hết thảy mọi con cái của họ có vợ có chồng giai đoạn thay
thế kết thúc lúc bố mẹ qua đời Portes 1958 bất cứ lý tưởng văn hoá của xã hội
như thế nào gia đình không hề nhất thành bất biến rất nhiều biến thiên trong tầm
vóc và cơ cấu gia đình đã diễn ra là do bởi giai đoạn mà các gia đình phải trải
qua trong chu kì gia đình của họ
3. Đá quí muốn mang tên ngọc phải hội tụ đủ những yếu tố đặc sắc mà
các loại đá thường không có đầu tiên nó phải hoàn toàn trong suốt không có bọt
cát hoặc bụi nghĩa là đạt đến độ hoàn hảo với kim cương thì phải hoàn toàn
không màu ruby hồng ngọc phải có màu đỏ máu bồ câu saphia lam ngọc màu
xanh lục phơn phớt sáng emerald ngọc bích màu xanh lá cây sáng đó là chuẩn
để tăng giá trị viên đá tính quí phái của đá còn nằm ở đặc tính chiết quang tán
sắc mạnh tạo ra vẻ sáng rực rỡ lóng lánh ngũ sắc đầy quyến rũ ngoài ra độ cứng
vô địch của kim cương và nhóm cương thạch corundum làm cho đá quí bền

74
vững với năm tháng không bao giờ bị cát bụi thời gian làm phai mờ vẻ sáng
độc đáo vốn có
4. Số 0 không phải tự nhiên mà có mà là một phát minh lớn của loài
người vào thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên các nhà bác học người Babilon phía
nam Irắc ngày nay lần đầu tiên nghĩ ra con số 0 họ sử dụng nó trong cách đếm
hết sức đặc biệt hàng đơn vị không gồm 10 con số mà là những 60 vào khoảng
600 năm sau Công nguyên các nhà bác học Ấn Độ cũng nghĩ ra con số 0 họ
truyền nó cho người Ả Rập cùng với cách viết hàng chục hàng trăm hệ đếm thập
phân đến lượt mình người Ả Rập lại truyền con số 0 cùng các chữ số khác đã
được cải biên cho người châu Âu điều này xảy ra vào khoảng năm 1000 đó
chính là 10 con số mà chúng ta thường dùng ngày nay
5. Cuộc đời tôi là một chuỗi nếu như từ nhỏ tôi chỉ muốn làm một ông
chủ trang trại như bố tôi và không chịu học nếu như mẹ tôi không bắt tôi sống ở
London tôi sẽ thi trượt trong kỳ thi vào đại học Y nếu như tôi không phải là một
thành viên giỏi bơi lội có thể đại diện cho nhà trường trong những Olympic thể
thao của sinh viên tôi sẽ suốt đời làm một thầy thuốc nông thôn nếu như giáo sư
Wright không chọn tôi làm phụ tá cho ông trong phòng thí nghiệm riêng nơi tôi
tìm ra penicilin phát minh này tôi dự tính phải 15 đến 20 năm mới triển khai
được trong thực tế nếu như chiến tranh thế giới chưa xảy ra thương vong không
nhiều đến mức các loại thuốc chưa kiểm tra cũng được phép sử dụng thì
penicilin chưa chứng minh được công hiệu của mình và bản thân tôi chưa được
giải Nobel
6. Về mặt sinh học tất nhiên là mọi đứa trẻ đều phải có bố mẹ song cương
vị làm cha và làm mẹ cũng như các quan hệ họ hàng khác là có tính xã hội chứ
không đơn thuần là quan hệ sinh học có nghĩa là cung cách ứng xử người làm
cha hoặc làm mẹ cần phải được xác định về mặt văn hoá vì bố mẹ theo nghĩa
sinh học có khi khác với bố mẹ được xác định về mặt văn hoá nên các nhà nhân
học dùng những thuật ngữ đặc biệt để phân biệt vai trò sinh học với vai trò xã
hội người bố sinh học được gọi là genitor người đàn ông sinh sản và tên của
người mẹ sinh học là genetrix người đàn bà sinh sản người đóng vai ngươì cha
được thừa nhận về mặt xã hội gọi là pater cha tiếng Latinh và người mẹ được
thừa nhận về mặt xã hội là mater mẹ tiếng Latinh vai trò sinh học và vai trò xã
hội thường tách ra trong trường hợp con bố mẹ nuôi bố mẹ nuôi đóng vai trò

75
pater và mater dù cho họ không phải là geniter hay genitrix song cũng có những
trường hợp ít rõ ràng hơn trong các xã hội phụ hệ chẳng hạn như xã hội của
người Karen thường có tình hình là người pater được xác định là chồng của
người phụ nữ mặc dù người ta biết ông ta không phải là genitor Leach 1970
7. Từ canada có nguồn gốc là kanata có nghĩa là làng lần đầu tiên được
Jacquer Cartier dùng để chỉ địa điểm mà ngày nay là thành phố Québec Canada
là một đất nước song ngữ với hai ngôn ngữ được sử dụng chính thức là tiếng
Anh và tiếng Pháp lịch sử tiếng Anh ở Canada cũng giống như lịch sử của đất
nước Canada chính là lịch sử của quá trình nhập cư cho đến nay nhiều người
vẫn cho rằng tiếng Anh sử dụng tại Canada không phải là một ngôn ngữ chính
thống mà chỉ là một biến thể của tiếng Anh thậm chí người dân Canada vẫn nghi
ngờ về thứ tiếng Anh mà họ sử dụng hàng ngày do vậy tại Canada người dân
Canada vẫn sử dụng cả hai loại từ điển từ điển tiếng Anh của người Anh và từ
điển tiếng Anh của người Mĩ các nhà nghiên cứu ngôn ngữ từ rất lâu đã xem
tiếng Anh ở Canada như một ngôn ngữ thực thụ real language Avis coi tiếng
Anh ở Canada không phải là tiếng Anh của người Mĩ hay của người Anh Avis
1955 – 1956 trong khi nghiên cứu Eric Partridge khẳng định người Canada có
những biến thể khác hẳn so với tiếng Anh khác xa những gì được nói ở Anh ở
Australia đó là thứ tiếng Anh hoàn toàn khác Partridge 1951 tại Canada tiếng
Anh là một ngôn ngữ chiếm ưu thế hơn so với tiếng Pháp vậy thì tiếng Anh ở
Canada khác như thế nào so với tiếng Anh ở Anh các nhà nghiên cứu thấy rằng
người Canada sử dụng tiếng Anh tuy có khác biệt với tiếng Anh chính thống
nhưng không đến nỗi quá khó nghe như người Australia sử dụng sự khác biệt đó
có thể dễ dàng tìm thấy được trong từ vựng và cách phát âm còn trong ngữ pháp
thì sự khác biệt không nhiều người Canada rất dễ tính khi một người nước ngoài
nói không đúng theo tiếng Anh của họ họ sẽ sửa cho đúng theo cách nói của
người Canada
8. Tàu Titanic là thành tựu và niềm tự hào một thời phải chăng vì thế mà
việc con tàu bị chìm ngoài khơi Bắc Đại Tây Dương đêm 15 tháng 4 năm 1912
làm hơn 1500 người thiệt mạng đã không ngừng làm đề tài cho bao tác phẩm
văn chương nghệ thuật Titanic có nghĩa là vĩ đại đặt tên như thế cho con tàu
con người muốn nói lên niềm kiêu hãnh cho một công trình có một không hai
vào thời bấy giờ nhưng cái vĩ đại mà con người tưởng mình có thể đạt được

76
trong tiến bộ khoa học kỹ thuật ấy không là gì trước sức mạnh thiên nhiên sau
khi con tàu vĩ đại ấy bị đắm một tờ báo xuất bản ở Anh đã đăng kề nhau hai bức
ảnh minh họa có nội dung như sau trong bức ảnh thứ nhất người ta thấy con tàu
va vào tảng băng bên dưới có dòng chữ sự yếu đuối của con người và sức mạnh
của thiên nhiên còn bức ảnh thứ hai người ta lại thấy một người đàn ông nhường
chiếc phao cấp cứu của mình cho người đàn bà đang bế con trên tay lần này bức
ảnh được chú thích bằng dòng chữ sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của
con người sức mạnh sự vĩ đại đích thực của con người hẳn không nằm trong khả
năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên mà chính là trong khả năng chế ngự
được bản thân vượt thắng sự ích kỉ Mahatma Gandhi người giành độc lập cho
Ấn Độ bằng cuộc đấu tranh bất bạo động đã nói sức mạnh vĩ đại nhất mà con
người có trong tay chính là tình yêu

77
PHẦN BÀI TẬP 9
Tìm ý chính của các đoạn văn sau
1. Trọng âm từ, xuất phát điểm của việc nghiên cứu nhịp điệu tiếng Anh.
Chúng tôi đặt vấn đề như vậy bởi lẽ tiếng Anh là một trong các ngôn ngữ có
hiện tượng trọng âm từ ảnh hưởng đến việc phân biệt từ loại, thông tin của phát
ngôn, ngữ điệu và nhịp điệu của nó. Các từ trong tiếng Anh thường là đa âm tiết
nên có hiện tượng âm tiết có trọng âm và có âm tiết không có trọng âm hoặc
mang trọng âm phụ (ngay trong bản thân một từ). Do đó, trong khi nói, nghe
tiếng Anh, chúng ta thấy có hiện tượng nhấn âm và không nhấn âm diễn ra trong
một khoảng thời gian tương đối đều nhau từ trọng âm này đến trọng âm kia, bất
kể số lượng âm tiết trong mỗi khoảng cách ấy có tương đương nhau hay không.
Mỗi khoảng cách ấy được gọi là một đơn vị nhịp điệu tiếng Anh và mỗi đơn vị
nhịp điệu ấy đều có một trọng âm rơi vào âm tiết cố định của một từ nào đó. Do
vậy, muốn nghiên cứu nhịp điệu tiếng Anh, chúng ta phải bắt đầu từ trọng âm từ
– một trong các hiện tượng ngôn điệu (prosodic events) vẫn luôn được nhắc đến
trong quá trình nghiên cứu, mô tả tiếng Anh.
2. Trọng âm từ trong tiếng Anh là một trong những hiện tượng ngôn điệu
rất quan trọng, được coi là xuất phát điểm của việc nghiên cứu nhịp điểu tiếng
Anh, và rộng hơn nữa, là xuất phát điểm của việc nghiên cứu ngữ điệu tiếng
Anh (English intonation). Chính vì vậy, nếu không hiểu biết đầy đủ về trọng âm
từ sẽ vô thức làm hỏng nhịp điệu và ngữ điệu tiếng Anh trong khi giao tiếp,
khiến người lĩnh hội khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin.
3. Chí Phèo đã chết, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Anh phải
chết vì xã hội không cho anh được sống. Và cũng chính vì anh không tìm ra
đường sống. Kẻ thù đã bị đền tội, nhưng “tre già, măng mọc” thằng ấy chết còn
thằng khác. Cuộc sống vẫn tối sầm.
4. Ca dao là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng trẻ thơ (hát ru). Ca dao là hình
thức trò chuyện tâm tình của những chàng trai, cô gái (hát ví, hát xoan, hát
ghẹo). Ca dao là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức tổ tiên và anh linh những
người đã khuất (bài ca lễ hội). Ca dao là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hoặc
lòng hân hoan của những người sản xuất (hò, lý).
5. Sự nhất quán kì lạ ở con người Hồ Chí Minh: vừa dân tộc vừa quốc tế,
vừa rất mực nhân từ vừa triệt để cách mạng. Rất uyên bác và cực kì khiêm tốn.

78
Vừa nhìn xa trông rộng vừa thiết thực cụ thể. Vừa vĩ đại vừa bình dị. Vừa là
chiến sĩ và là nhà thơ: “Giữa dòng bàn bạc việc quân, Khuya về bát ngát trăng
ngân đầy thuyền”.
6. “Nhật ký trong tù” canh cánh một tấm lòng nhớ nước. Chân bước đi
trên đất Bắc mà lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong cảnh lầm than, có
lẽ nhớ cả tiếng khóc của bao nhiêu em bé Việt Nam qua tiếng khóc của một em
bé Trung Quốc, nhớ người đồng chí đưa tiễn đến bến sông, nhớ lá cờ nghĩa
đang tung bay phấp phới. Nhớ lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ.
7. Thơ thiên nhiên trong tập “Ngục trung nhật ký” thật sự có những bài
rất hay. Có những phác họa sơ sài mà chân thật và đậm đà, càng nhìn càng thú
vị, như một bức tranh thuỷ mặc cổ điển. Có những cảnh lộng lẫy sinh động như
những tấm thảm thêu nền gấm chỉ vàng. Cũng có bài làm cho người đọc nghĩ tới
những bức sơn mài thâm trầm, rộn rịp…
8. Giáo sư Lê Trí Viễn nổi tiếng là người làm việc rất nghiêm. Hồi là chủ
nhiệm khoa, thầy “chấm bài” ngay trên đơn xin nghỉ học của sinh viên, gạch
những chỗ sai sót về chính tả, câu, chữ và bắt người làm đơn viết lại. Viết sai
lần hai thì không giải quyết đơn ấy nữa. Các học viên sau đại học bây giờ cũng
khiếp thầy về kỷ luật học hành. Vào lớp thầy điểm danh. Sách tham khảo chưa
kịp đọc, cụ la. Đi muộn cũng vậy.

79
PHẦN BÀI TẬP 10
Hãy xác định lập luận của các đoạn văn sau và viết lại theo cách lập luận
khác
1. Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không một mẫu đất nào là không
có dấu vết công trình thảm đại kinh dinh của tổ tiên ta để giành lại quyền sống
với tạo vật. Suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không
mộtkhúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta
để mở rộng hy vọng cho tương lai. Cái văn hoá của tổ tiên ta đã gây dựng trong
hai nghìn năm để sinh trưởng giữa những điều kiện tự nhiên ác liệt của xứ này,
đã có một sinh khí thật mạnh mẽ.
2. Một nửa loài người trên thế giới không đọc quảng cáo. Một nửa số
người có đọc thì cũng không để ý đến thôngbáo của anh. Một nửa số người có
để ý đến thì lại không coi nó quan trọng. Một nửa số coi là quan trọng thì không
tin vào thông báo. một nửa số tin vào thông báo thì lại không mua hàng của anh
vì họ không cần đến. Bởi vậy việc quảng cáo cần phải thông minh.
3. Xóm làng ta xưa kia lam lũ quanh năm mà vẫn quanh năm đói rách.
Làng xóm ta ngày nay bốn mùa nhộn nhịp cảnh làm ân tập thể. Đâu đâu cũng có
trường học, nhà giữ trẻ, nhà hộ sinh, câu lạc bộ, sân và kho hợp tác xã, nhà mới
của xã viên… Đời sống vật chất càng ấm no, đời sống tinh thần ngày càng tiến
bộ. (Hồ Chí Minh)
4. Ai trồng cây đào, cây mận thì mùa hè được bóng mát nghỉ, mùa thu
được quả ngon ăn. Ai trồng cây lật lê thì mùa hè không có bóng mát, mùa thu
chỉ được những chông gai. Cứ như vậy thì có phải là tại do cây mình trồng lúc
trước không? Nay ông sở dĩ đến nỗi thế, là vì ông gây dựng cho những kẻ không
ra gì. Cho nên người quân tử phải chọn người trước rồi sau mới gây dựng.
5. Ý ảnh hưởng tới lời mà lời cũng ảnh hưởng tới ý vì lời là để diễn đạt ý.
Hễ sửa một lời cho đẹp hơn thì ý cũng hay hơn, mới hơn. chẳng hạn, bạn viết:
“Gió đã hơi lạnh rồi”. Nhưng thấy lối phô diễn ấy thường lắm, không làm cho
độc giả chú ý tới được, bạn bèn sửa: “Đã nghe rét mướt luồn trong gió” thì đâu
phải bạn chỉ thay lời, mà còn thay cả ý nữa đấy. Hoặc nếu bạn nói:”Tôi buồn
lắm” rồi bạn thấy lời đó chưa đủ mạnh để diễn tả nỗi sầu ngùn ngụt của bạn, bạn
bèn sửa lại: “Vạn lí sầu lên núi tiếp mây” thì ai dám bảo rằng ý của bạn đã
không thay đổi. (Nguyễn Hiến Lê)

80
6. Đồng tiền cơ hồ đã thành một thứ thế lực vạn năng. Tài hoà, nhan sắc,
tình nghĩa, nhân phẩm, công lý đều không có ý nghĩa gì trước thế lực của đồng
tiền. Tài tình, hiếu hạnh như Kiều cũng chỉ còn là một món hàng không hơn
không kém. Ngay Kiều nữa, việc dại dột nhất, tội lỗi nhất trong suốt cuộc đời
nàng, cái việc nghe lời Hồ Tôn hiến, khuyên Từ Hải ra hàng, một phần cũng bởi
xiêu lòng vì ngọc vàng của Hồ Tôn Hiến. (Hoài Thanh)
7. Trong xã hội truyện Kiều, đồng tiền đã trở thành một sức mạnh tác
quái ghê gớm. Nguyễn Du không phải không nhắc đến tác dụng của đồng tiền.
Có tiền Thúc Sinh, Từ Hải mới chuộc được Kiều, Kiều mới cứu được cha và sau
này mới báo được ơn cho người này người nọ. Đó là những khi đồng tiền nằm
trong tay người tốt. Nhưng chủ yếu Nguyễn Du vẫn nhìn về mặt tác hại. Vì
Nguyễn Du thấy rõ cả một loạt hành động gian ác bất chính đều là do đồng tiền
chi phối. Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí; sai nha vì tiền mà buôn thịt bán
người; Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm; Khuyển Ưng vì tiền mà làm
những điều ác. Cả một xã hội chạy theo đồng tiền. (Hoài Thanh)
8. Điều dễ nhận thấy và có lẽ sẽ ít người phản đối là hút thuốc lá rất có
hại. Theo thống kê của các cơ quan y tế, số người nghiện thuốc lá có nguy cơ
ung thư phổi dẫn đến tử vong cao hơn gấp năm lần so với người bình thường.
Chất nicotin trong thuốc lá là một trong những yếu tố trực tiếp dẫn đến các bệnh
về tim mạch, gan, dạ dày. Không những thế, về mặt tài chính, người nghiện
thuốc lá đã vô tình đốt theo khói thuốc một số tiền không nhỏ. Nếu tính cả đời
người, số tiền ấy có thể lên đến hàng chục, hàng trăm triệu đồng. Đó là chưa kể
đến những phiền toái nhiêu khê do thuốc lá gây ra. Chẳng hạn vàng hay đen
răng, chẳng hạn như gây khó chịu cho người xung quanh, nhất là phụ nữ, chẳng
hạn như sẽ bứt rứt, khó chịu khi thiếu thuốc…

81
PHẦN BÀI TẬP 11

Hãy chữa lỗi dùng từ cho các câu sau đây:

1. Anh ấy có thái độ bàng quang trước sự việc đó.


2. Anh ấy rất tốt chỉ có một yếu điểm là hơi nhút nhát.
3. Nó nghiễm nhiên bước vào lớp mà không xin phép cô.
4. Tôi vừa lòng chấp nhận sự thật.
5. Chuyến hàng này được trở lên Sa Pa.
6. Bài kiểm tra này tôi phải được tám điểm chở lên.
7. Anh ấy đã trở nên thân thiện hơn.
8. Thầy giáo truyền đạt ý kiến cho học sinh.
9. Chiếc đầu hắn chọc lốc.
10. Cô ấy đã hoàn thành chọn vẹn nhiệm vụ.
11. Bộ tóc của cô ấy thật là đẹp
12. Mẹ rất vừa lòng với công việc tôi làm sáng nay.
13. Anh ấy đã tặng tôi món quà nhân ngày Tình yêu.
14. Đây là lần đầu tiên tôi xa nhà đi học tập.
15. Tôi luôn giành thời gian dù ít ỏi cho việc ấy.
16. Họ đã khắc phục hoàn nguyên được chiếc bình cổ đó.
17. Đoàn viên thanh niên là lực lượng hậu bị của Đảng.
18. Nó đột nhiên đưa ra một câu nói hết sức đường đột.
19. Sau hai tháng họ đã chiếm được điểm cao Đồng văn.
20. Hoa là một người con có hiếu, sớm hôm nâng nhấc mẹ già.
21. Anh ấy đã quá lạm dụng quyền hành của mình.
22. Nó tiếp tục khuyếch chương thanh thế.
23. Bố phải ra tận nơi tôi trọ học để xem sự thế tình hình ăn ở của tôi.
24. Tên gọi “Lụa Hà Đông” được dệt ở Hà đông bằng tơ tằm.
25. Hắn tống một cú đá vào bụng ông Hoạt.
26. Bác sĩ Hoàng đã tự bức tử mình bằng cách treo cổ.
27. Có thể nói Chí Phèo có thể trở thành người lương thiện nếu xã hội Chí
Phèo sống là một xã hội khác.
82
28. Inđônêxia là một quốc đảo có khoảng 2000 quần đảo với khoảng 1763
hòn đảo lớn nhỏ.
29. Toà án đang thẩm tra tên Quân về tội danh giết người.
30. Greenland rộng hơn Đan Mạch gấp 50 lần.
31. Vua chúa thi đấu với dân dã.
32. Hắn là kẻ không biết giữ mồm giữ miệng của mình.
33. Một nhóm các nhà chuyên gia người Anh đã chế tạo thành công một thiết
bị sử lý nước thải mới.
34. Họ vô cũng hãnh tiến vì có cô con gái xinh đẹp.
35. Túi hắn lúc nào cũng rủng rẻng hàng xấp tiền.
36. Nhà văn cần phải thường xuyên xâm nhập thực tế.
37. Sáng ấy có một cô con gái trẻ tới thăm tôi.
38. Đột nhiên nó đến không báo trước.
39. Nụ cười là một phần nghiêm trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt.
40. Ý thức trách nhiệm nhiễm sâu vào cán bộ.
41. Họ cười to quá, quên cả quy luật của giờ nghỉ.
42. Qua những cuộc chiến đấu oanh liệt, nhân dân ta đã đánh đuổi mọi chế độ
xâm lược đất nước ta như Mông Cổ, Nhật, Pháp, Mỹ…
43. Không biết hiện giờ ở biên phòng thời tiết có rét không?
44. Cháu rất bái phục nỗi làm việc của chú.
45. Hãy đem chiếu rải ở đây ngồi cho mát.
46. Đang lo bị thầy mắng về tội không nộp bài đúng hạn nhưng thầy chỉ ôn
tồn nhắc nhở, tôi cảm thấy nhẹ nhàng cả người.
47. Phải dùng những ống nghiệm đã diệt trùng vào việc cấy phôi sinh vật.
48. Trong thời kỳ đổi mới, nước ta đã thành lập quan hệ ngoại giao với hầu
hết các nước trên thế giới.
49. Do thiếu máu não, ông bị đột tử nhưng may mắn được cứu sống.
50. Anh chăm chú nghe ngóng ý kiến của thẩm phán và các luật sư bào chữa.
51. Những lời nói chân tình tự đáy lòng khiến mọi người rất cảm xúc.
52. Chuyện này là tuyệt mật nhất đấy nhé!

83
53. Vì tình hình chiến sự nên anh phải đến ăn ở tập thể chung với đội.
54. Anh ấy làm việc rất là năng lực.
55. Anh phải vào phòng 502 để được chuẩn đoán bệnh trước đã.
56. Hầu hết con gái ở quê tôi từ 18 đến 20 tuổi đều đã có người cập kê.
57. Nguyễn Trãi là tác gia cuốn Quốc âm thi tập.
58. Những quả giao bóng đầy uy quyền của Mạnh Cường đã không thể hạ
gục đối thủ.
59. Người cận thần nói với vua: “Tôi xin nghe theo ý bệ hạ.”
60. Đó là những tác giả kinh điển thời Phục hưng
61. Phòng chỉ có 5 người mà cứ lục sục đấu đá nhau hoài.
62. Chỉ vì một cơn gió độc, ông ấy đã vĩnh viễn ra đi không một lời trăn trối.
63. Phải giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhất.
64. Năm 51 tuổi, ông được phong làm quan nước Lỗ nhưng ông đã không nhận
chức sắc này để được làm nghề dạy học và thực hiện ý nguyện của mình.
65. Tôi thường hát những bài ca khúc mang âm hưởng dân ca.
66. Lại một ông đứng ngay trước mặt tôi hỏi sóng sượt.
67. Người ta dự đoán những cái chum này đã có cách đây 3000 năm.
68. Đó là quan điểm hết sức khác xa với quan điểm của chúng ta.
69. Liệu nỗi ước mơ ấy có toại nguyện không?
70. Bên ta có một thương vong.
71. Người dân đã mượn trí tưởng tượng của mình để xây dựng nên những
hình tượng kỳ vĩ.
72. Trong các câu chuyện ấy, người nguyên thuỷ đã được nhân cách hóa rất
linh động.
73. Chúng tôi đang phát triển kinh nghiệm này trong sản xuất.
74. Anh ấy không thể tài nào biết được việc ấy.
75. Xét về mức độ “yêu công việc”, đàn ông Nhật Bản đạt giải quán quân
tuyệt đối.

84
PHẦN BÀI TẬP 12

Hãy chữa lỗi cho các câu sau đây:

1. Khi những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, họ đã mang theo
các ngôn ngữ của mình cùng với hàng trăm các ngôn ngữ của người da đỏ
bản địa, bức tranh ngôn ngữ của đất nước này đã được tô thêm màu sắc.
2. Dân tộc Hán và dân tộc Việt từ cách đây trên 2000 năm đã có sự tiếp xúc
ngôn ngữ và sự tiếp xúc ấy kéo dài cho đến ngày nay bắt đầu từ sự có mặt
của người Hán trên lãnh thổ Việt Nam.
3. Mặc dù không thể phủ nhận vai trò của ngữ điệu nhưng nó thường được
nhắc đến trong quá trình dạy và học tiếng Anh.
4. “I” trong tiếng Anh không có khả năng chứa nét nghĩa lịch sự nhưng trong
tiếng Việt tính lịch sự được chuyển tải trong vỏ vật chất của đại từ xưng hô,
mà phải nhờ đến những yếu tố khác ở bên ngoài nó.
5. Người học dù ở trình độ cao khi thực hiện hành vi ngỏ lời đã mắc nhiều lỗi
do nhiều nguyên nhân khác nhau.
6. Con đường dẫn chiếc xe lượn sát bờ vực, đâm xuyên qua cánh rừng thông
rồi 15 phút sau từ từ đỗ trước cổng một ngôi biệt thự xinh xắn.
7. Trong xã hội cũ, cái xã hội làm cho con người chỉ biết sống vì mình, sống
chà đạp lên lương tâm, danh dự lên tất thảy mọi thứ.
8. Quê nội của em ở đồng bằng nên có biển và những cánh đồng lúa bát ngát.
9. Tính đến thời điểm này tôi đã học tập và nghiên cứu môn tiếng Anh được
hơn 10 năm.
10. Mùa xuân là mùa đã được không ít các nhà văn nhà thơ miêu tả trong thơ
văn như mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ”…
11. Tiếng hát đâu đây chợt làm thức dậy trong tôi bao kỉ niệm êm đềm về miền
quê yêu dấu, nơi tôi được sinh ra và lớn lên trong tuổi thơ vụng dại.
12. Tôi nhớ lắm con sông Hồng đỏ lặng phù sa. Tôi nhớ mẹ tôi dáng hao gầy
dưới đòn tre trĩu nặng.
13. Làng quê tôi rất đẹp. Nó cũng giống như bao làng quê trung du của Việt
Nam khác.
85
14. Sự sử dụng vô tuyến quá nhiều lại có những ảnh hưởng xấu nhất là đối với
trẻ em.
15. Mẹ tôi chỉ là một người nông dân chân lấm tay bùn nhưng trong mắt chúng
tôi mẹ luôn là người tuyệt vời nhất.
16. Quê hương là nơi tôi được sinh ra, được cất tiếng khóc oe oe chào đời.
17. Bà là người đưa tôi đến với lòng yêu sách, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.
18. Tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng việc học ở trường đại học khác hẳn khi
chúng ta còn ở trường trung học.
19. Sau khi mọi người đã ăn cơm tối xong, họ quây quần bên nhau kể chuyện
xóm làng.
20. Ngày nay, tiếng Anh ngày càng phổ biến rộng rãi vì nó có rất nhiều ích lợi.
21. Ông đã nhiều lần trao đổi với những nhà nghiên cứu tiếng Việt của nước
ngoài.
22. Hồ Tây là một danh thắng của Hà Nội do đó nó trở thành một địa điểm
không thể thiếu cho những người muốn tìm hiểu về Hà Nội.
23. Tuy chưa có sự tập luyện chuyên nghiệp nhưng với trang thiết bị thô sơ
đoàn thể thao khuyết tật Việt Nam đã giành chiến thắng ròn rã.
24. Mỗi chúng ta ai chẳng trải qua cái thời mới lớn ngây thơ và bồng bột ấy mà
theo Xuân Diệu gọi là “mơ theo trăng và thơ thẩn cùng mây”.
25. Trong tình bạn có thể dẫn đến tình yêu, với nhiều sắc thái và cung bậc khác
nhau.
26. Trong truyện Trạng Quỳnh đã thể hiện tinh thần phản phong quyết liệt của
nhân dân ta.
27. Với bài điếu Trương Công Định của Nguyễn Đình Chiểu đã nói lên lòng
yêu nước sâu sắc của tầng lớp sĩ phu lúc bấy giờ.
28. Nghĩa quân trong chiến đấu với lòng nồng nàn yêu nước.
29. Ý chí tự lập của anh trong mọi hoàn cảnh, dù là hoàn cảnh bình thường hay
éo le.
30. Nhà văn ưu tú của giai cấp vô sản khi sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật để
phục vụ cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, để giác ngộ quyền

86
lợi giai cấp cho những người bị áp bức, bóc lột và làm rung động sâu xa
tình cảm giai cấp của họ.
31. Nguyễn Viết Xuân, người anh hùng liệt sĩ nổi tiếng với câu nói còn vang mãi
trên trận địa.
32. Nguyễn Đình Chiểu, nhà thi sĩ mù, yêu nước của dân tộc Việt Nam.
33. Lòng tin sâu sắc của các thế hệ cha anh vào lực lượng măng non và xung
kích sẽ bước tiếp mình.
34. Hình ảnh người dũng sỹ mặc áo giáp sắt, đội mũ sắt, cưỡi ngựa sắt, vung gậy
sắt, xông thẳng vào quân thù.
35. Khoa học tự nhiên nói chung, môn Văn nói riêng, đòi hỏi người nghiên cứu
phải đọc nhiều ghi chép nhiều.
36. Vai trò của giáo viên không phải là thuyết trình, giảng giải mà chủ yếu ở chỗ
gợi ý, kết luận, động viên sáng tạo, xử lí các tình huống khi có mắc mứu.
37. Nguyễn Du không phải không nhắc đến tác dụng tốt của đồng tiền.
38. Xã có 21 trẻ từ dưới 6 - 16 tuổi bị dị dạng, dị tật.
39. Các cháu được học chữ, học vẽ, luyện tập phục hồi chức năng, bác sĩ khám
sức khoẻ định kì và được nuôi ăn 6.000đ/ngày chia làm một bữa chính và
một bữa phụ theo thực đơn dinh dưỡng của trạm Y tế.
40. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác đã cho phép chúng ta tìm hiểu và đánh
giá đúng đắn giá trị văn chương của Nguyễn Đình Chiểu.
41. Thành Cổ, nay mang tên thị xã Quảng Trị, điểm dừng chân đầu tiên của
nhà Nguyễn thời khai thiên lập địa mở mang bờ cõi đất nước.
42. Những người đã được gặp Bác Hồ.
43. “Hạnh phúc”, điều mà bao đời nay con người chúng ta hằng mơ ước.
44. Chị Võ Thị Thắng, người nữ sinh miền Nam mà quân thù đã từng kết án 20
năm tù.
45. Khi bàn về tinh thần đấu tranh vô cùng anh dũng của phụ nữ ta ở miền
Nam trong công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước.
46. Những câu chuyện cần phải được sống mãi về cuộc sống và cái chết cũng
thiêng liêng như nhau trên mảnh đất đắt hơn cả vàng mười này.

87
47. Về cách làm công nghiệp hóa của nhiều cán bộ khoa học, cán bộ kỹ thuật,
cán bộ quản lý, công nhân, viên chức, các nhà doanh nghiệp tập trung kiến
nghị…
48. Bằng trí tuệ sắc bén, thông minh của người lao động không những đấu
tranh trực tiếp mà còn đấu tranh gián tiếp chống chế độ phong kiến.
49. Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi quân Minh giành nền độc
lập cho Tổ quốc.
50. Truyện Kiều là tác phẩm kiệt tác của Nguyễn Công Hoan.
51. Qua nhân vật chị Dậu, ta thấy được bản chất xấu xa thối nát của chế độ
thực dân phong kiến.
52. Hãy tìm các ví dụ trong Tắt đèn, truyện Kiều, Hồ Xuân Hương… để chứng
minh điều đó.
53. Người chiến sĩ bị hai vết thương, một vết ở bên đùi trái và một vết ở Quảng
Trị.
54. Họ úp cái nón lên mặt, nằm xuống ngủ một giấc cho đến chiều.
55. Mới vào bộ đội, chúng ta thường được nghe cán bộ phổ biến: chiến sĩ trai
phải cắt tóc ngắn; chiến sĩ gái thì cuộn, tết tóc lên cao, râu phải cạo nhẵn.
56. Chúng ta, những học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa.
57. Quân đội ta từ khi còn là những đội quan du kích nhỏ chiến đấu trên địa thế
hiểm trở của núi rừng.
58. Lòng tin sâu sắc của thế hệ cha anh vào lực lượng măng non và xung kích
sẽ tiếp bước mình.
59. Trong xã hội cũ, cái xã hội làm cho con người ta chỉ biết sống vì mình.
60. Trong lúc hàng nội địa đang bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi hàng ngoại.
61. Anh sĩ quan 21 tuổi đang nhìn trộm cô gái đang ở tuổi trăng tròn 17 xinh
đẹp cùng quê.
62. Với nghệ thuật so sánh của tác giả đã làm nổi bật sự hi sinh to lớn của
những bà mẹ Việt Nam.
63. Để tạo điều kiện cho hành khách đi lại trên các tuyến đường bay trong
nước bằng máy bay của Việt Nam Airlines.

88
64. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
65. Cặp mắt long lanh của Thái Văn A mà Xuân Miễn gọi là thần canh biển.
66. Truyền thống đấu tranh của người phụ nữ Việt Nam ngày càng mạnh mẽ và
sôi nổi khắp nơi.
67. Hình ảnh chị Dậu mà Ngô Tất Tố đã khắc hoạ trong Tắt đèn ngày xưa là
bản chất sẵn có của người phụ nữ Việt Nam.
68. Hồ Tây, hồ Trúc Bạch và một số đầm ao lân cận chẳng những là nơi sản
xuất cá giàu có mà còn là một thắng cảnh của thành phố.
69. Mặc dù bị khủng bố đán áp rất dã man, quân thù vẫn không dập tắt được
phong trào.
70. Ngoài sự áp bức của vua chúa, nạn đói khổ, phu phen tạp dịch đè nặng lên
đầu người nông dân, ca dao trào phúng làm nhiệm vụ phản phong mãnh
liệt.

PHẦN BÀI TẬP 13

Anh/chị hãy chọn từ thích hợp cho sẵn để điền vào chỗ trống trong các câu
sau đây:

1. a. Cuộc đời không phải là……………..


b.Không nên ……………về con người ấy.
ảo mộng ảo tưởng ảo vọng
2. a. Đề nghị các đồng chí …………đúng thông tư và chỉ thị của Chính phủ.
b. Khoa học lý luận và khoa học……………..
c. ……………..những điều học được.
ứng dụng áp dụng vận dụng
3. a. Điều này đã được …………….. bằng văn bản
b.Mọi việc đã được …………….. cụ thể.
c. …………….. là vạch ra một cách xác định thành kế hoạch mà làm việc.
hoạch định quy định ấn định
4. a. Anh ấy đã ……………..hoàn thành công việc.

89
b. Cậu nên gửi thư
bảo đảm đảm bảo
5. a. Chăm sóc cha mẹ là ……………...của con cái.
b. Việc ấy không phải là ……………...của giám đốc.
c. ……………...là từ chung nhất chỉ phần việc mình phải gánh vác
d.Đó là……………... của văn hóa trước lịch sử.
trách nhiệm sứ mệnh
bổn phận nhiệm vụ
6.a. Tôi ……………... sẽ hoàn thành nhiệm vụ trước kì hạn.
b. Việc ấy, tôi đã ……………... với anh rồi, không thể khác được.
c. Hai bên đã ……………... với nhau, có văn bản làm bằng.
kí kết cam đoan cam kết
7. a. Bộ Ngoại giao vừa ……………... danh sách những người trúng tuyển.
b. Chính phủ vừa ……………... chính sách đối ngoại của Nhà nước ta.
công bố tuyên bố
8.. a. ……………...là lời bình luận công bằng, cũng có nghĩa là lời bàn của
công chúng.
b. Nó chẳng quan tâm đến ……………...cứ làm bừa.
c.……………...thường là đúng, đáng tôn trọng còn ……………...nhiều khi
chưa hẳn là đúng.
công luận dư luận
9. a. Với……………... là giám đốc, ông ấy không nên hành động như vậy.
b. Anh ấy có một ……………... xứng đáng với tài năng.
c. ……………... của môn Tiếng Việt trong chương trình mới.
vị trí cương vị địa vị
10. a. Nó là con ông ta, ……………... được hưởng gia tài ông ta để lại.
b. Lẽ phải thuộc về anh ta, đưa ra toà ……………... anh ta sẽ được kiện.
c.Anh ta chẳng có tài cán gì nhưng có người che chở, ……………... được
hưởng mọi đặc quyền đặc lợi.
d.Học chăm ……………... phải giỏi.

90
e. Không biết mà làm, ……………... hỏng việc.
f.Việc như thế mà anh ấy vẫn ……………....
g. Được hưởng thừa kế tài sản lớn, anh ta ……………... trở thành ông chủ.
tất nhiên nghiễm nhiên
tự nhiên điềm nhiên
đương nhiên dĩ nhiên
11. a……………... giờ này anh ấy phải đến rồi chứ.
b.……………..., anh phải học giỏi hơn em vì anh chăm hơn em nhiều.
đáng lẽ đáng lí
12. Đó là đứa con …………... của gia đình anh ta.
Cách ấy có lẽ là cách …………... để thành công.
duy nhất độc nhất
13. …………... là tư cách con người. …………... là đạo đức, là chất lượng.
…………... giá là giá trị con người. …………... là tính nết tốt của con người.
phẩm giá phẩm hạnh
phẩm cách phẩm chất
14. …………...là ý muốn cụ thể khi làm việc gì đó. …………...là ý muốn làm
việc gì có tính toán và kín đáo, vốn không có hàm ý xấu nhưng nhiều người
dùng để nói ý định xấu
ý đồ ý định
15. a.Phải…………... đi, đừng kéo dài nữa.
b.Đối với nó thì phải …………..., không nên nhu nhơ.
dứt khoát dứt điểm
16. …………... là cơ sở chữa bệnh, nhỏ hơn bệnh viện. …………... là cơ sở
chữa bệnh nhỏ ở xã, phường, cơ quan.
bệnh xá trạm xá
17. a.Cuộc họp thu hút nhiều …………...đến dự.
b.…………...là người hoạt động chính trị nói chung.
nhà chính trị chính khách
18. a. …………... là số đông người chứng kiến hay thưởng thức.

91
b. …………... dùng để chỉ số đông người trong xã hội.
quần chúng công chúng
19. Không nên …………... vào kiến thức sách vở.
…………... kinh tế nước ngoài thì chính trị cũng không độc lập được.
tuỳ thuộc lệ thuộc phụ thuộc
20. a. Quy định đó…………...với nguyện vọng của đông đảo nhân dân.
b. Sách này …………..với trình độ học sinh.
thích hợp phù hợp

92
PHẦN BÀI TẬP 14

Anh (chị) hãy ghi vào ô vuông chữ cái a – b – c – d cho phù hợp giữa từng
nội dung với từng từ đúng nhất

1. a. không chịu phục tùng, dùng sức mạnh để tự vệ.


b. không chịu phục tùng, chống lại với thái độ đối địch.
! chống cự ! chống đối
2. a.người đứng đầu một cấp hành chính, một tổ chức, trong hội nghị là người
ngồi điều khiển.
b. ngồi điều khiển hội nghị.
c. đứng ra gánh vác, điều khiển một công việc.
! chủ trì ! chủ tịch ! chủ toạ
3. a. tầm thường
b. thiếu lịch sự, không nhã nhặn,ý nặng hơn dung tục
c. thông thường, phổ biến trong dân gian.
! dung tục ! thông tục ! thô tục
4. a. bày ra với mục đích triển lãm.
b. bày ra với mục đích khoe khoang.
! chưng bày ! trưng bày
5. a. cất nhắc lên địa vị cao hơn, đề đạt là chuyển lên cấp trên, nói về đơn từ, ý
kiến.
b. giới thiệu lên cấp trên để thu dùng hoặc giới thiệu với quần chúng để quần
chúng bầu và lựa chọn.
c. trình ý kiến và nguyện vọng lên cấp trên
d. đưa vấn đề ra để xem xét, giải quyết
! đề xuất ! đề cử ! đề bạt ! đề xuất
6. a. tìm thấy sau khi điều tra, xem xét.

93
b. tìm thấy, có khi vì tình cờ, không hẳn do điều tra, xem xét.
! phát hiện ! khám phá
7. a. công kích, nêu khuyết điểm của người khác để làm giảm uy tín.
b. châm chọc
! kích bác ! khích bác
8. a. điều tra, xem xét, chỉ công tác của cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra và giám sát.
b.kiểm tra, xem xét
! kiểm soát ! kiểm sát
9. a. dành sẵn để khi thiếu thì bổ sung.
b. là chuẩn bị trước.
! trù bị ! hậu bị ! dự bị ! trừ bị
10. a. cách tổ chức các bộ phận nhằm tạo nên một chỉnh thể của một đối tượng
nào đó.
b. cách thức thực hiện một quá trình nào đó
c. chịu cảnh sống cơ cực
d. toàn bộ nhà cửa, vườn tược, ruộng đất và những tài sản khác chứng tỏ một
sự làm ăn phát đạt, vững chãi
! cơ cầu ! cơ cấu ! cơ chế ! cơ ngơi
11.a. tìm thấy những điều sẵn có trong tự nhiên, dùng để nói về những hiện tượng
khoa học
b. do sáng kiến mà chế tạo ra được một cái gì mới.
! phát kiến ! phát minh
12.a. tiếp xúc, bày tỏ với nhau điều gì, nay thường dùng với nghĩa tiếp đãi người
nước ngoài.
b. chỉ việc người nọ tiếp xúc với người kia
c. là tiếp xúc xã giao với tư cách cá nhân
! giao tiếp ! giao thiệp ! giao tế

94
PHẦN BÀI TẬP 15

Anh/chị hãy chọn từ đúng trong các cặp từ sau đây:

1. biểu ngữ biển ngữ

2. cảm khái cảm khoái

3. cấu kết câu kết

4. phản ánh phản ảnh

5. phiêu bạt phiêu bạc

6. sáp nhập sát nhập

7. thuỷ mặc thuỷ mạc

8. xử dụng sử dụng

9. sáng lạng xán lạn

10. tâm khảm tâm cảm

11. tham quan thăm quan

12. kiểm sát kiểm soát

13. bàn quang bàng quan

14. trìu tượng trừu tượng

15. khuyếch trương khuếch trương

khích bác kích bác

95
PHẦN BÀI TẬP 16

Anh/chị hãy chọn từ thích hợp trong các câu sau đây:

1. Những người có trên …………………. thế giới đều lên án chiến tranh phi
nghĩa của bọn đế quốc.
a. lương tri
b. lương tâm/ lương tri
c. lương tâm
2. Những điều đồng chí …………………. không hoàn toàn đúng sự thật.
a. phản ảnh
b. phản ánh
c. phản ảnh/ phản ánh
3. Đó là những lời …………………. bổ ích không bao giờ quên.
a. giáo huấn / giáo điều
b. giáo điều
c. giáo huấn
4. …………………. là những điều cơ bản của một học thuyết.
a. nguyên lý
b. nguyên tắc
c. nguyên lý/ nguyên tắc
5. Mặc dù chúng nó đe dọa, chúng ta cũng không ………………….
a. nhân nhượng
b. nhượng bộ/ nhân nhượng
c. nhượng bộ
6. Ở nhà này, nó chẳng làm gì, chỉ …………………..
a. phá hoại/ phá hại
b. phá hại
c. phá hoại
7. …………………. là những câu chuyện hoang đường.

96
a. thần thoại
b. huyền thoại/ thần thoại
c. huyền thoại
8. Theo tôi, đó chỉ là hành động …………………. của anh ấy.
a. bộc phát
b. bột phát/ bộc phát
c. bột phát
9. Tôi nghe …………………. là cậu ấy sắp lấy vợ.
a. phong thanh/ phong phanh
b. phong phanh
c. phong thanh
10 . “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã trở thành một câu
…………………..
a. châm ngôn
b. phương ngôn
c. châm ngôn/ phương ngôn

97
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Ảnh, Tiếng Việt thực hành, NXB Thanh niên 1999
2. Trương Chính, Giải thích các từ gần âm, gần nghĩa dễ nhầm lẫn, NXB
Giáo dục 1999
3. Nguyễn Tài Cẩn – Ngữ pháp tiếng Việt., NXB Giáo dục Hà Nội, 1975
4. Nguyễn Đức Dân, Tiếng Việt (dùng cho Đại học đại cương), NXB Giáo
dục 1997
5. Nguyễn Đức Dân, Lôgích và Tiếng Việt , NXB Giáo dục, Hà Nội 1999
6. Trần Trí Dõi, Bài tập Tiếng Việt thực hành, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội 2002
7. Hữu Đạt, Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục 1995
8. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Thanh Lan – Cơ sở tiếng Việt, NXB Văn hoá -
Thông tin, 2000.
9. Đinh Văn Đức - Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại)- NXB ĐH&THCN, 1986.
10. Nguyễn Thiện Giáp - Từ vựng học tiếng Việt , Nhà xuất bản Giáo dục – Hà
nội, 1999.
11. Cao Xuân Hạo – Tiếng Việt văn Việt người Việt, NXB Trẻ, 2001
12. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà - Phong cách học tiếng Việt.
NXB Giáo dục, Hà Nội 1995.
13. Vương Hữu Lễ (chủ biên) - Tiếng Việt thực hành, Nhà xuất bản Địa học
Quốc gia, Hà Nội 2002
14. Hoàng Trọng Phiến - Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt , Nhà xuất bản
Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp – Hà Nội, 1992.
15. Nguyễn Kim Thản - Lược sử Ngôn ngữ học (tập 1). Hà Nội, 1984
16. Trần Ngọc Thêm – Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Nhà xuất bản
Giáo dục – Hà Nội, 1985
17. Đoàn Thiện Thuật - Ngữ âm tiếng Việt - Nhà xuất bản Đại học và Trung
học chuyên nghiệp - H., 1980.
18. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) – Nguyễn Văn Hiệp, Tiếng Việt thực

98
hành, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1996
19. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) – Nguyễn Văn Hiệp, Tiếng Việt thực
hành, NXB Giáo dục 1997
20. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) – Nguyễn Văn Hiệp, Thành phần câu
Tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 1999
21. Bùi Minh Toán – Lê A - Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo
dục 1997
22. Nguyễn Văn Tu – Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Hà Nội, 1976
23. Nguyễn Như Ý- Từ điển ngôn ngữ học .-Nhà xuất bản Giáo dục - H.,
1997.
24. Viện Ngôn ngữ học – Từ điển tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội 2000
25. Viện Ngôn ngữ học - Ngôn ngữ dẫn luận và việc nghiên cứu tiếng nói -
Trường ĐHKHXH&NV tp HCM, 2000.

99
MỤC LỤC

PHẦN LÝ THUYẾT ........................................................................................2


CHƯƠNG 1. CHỮ VIẾT TRONG VĂN BẢN ................................................2
1.Vấn đề chữ viết.............................................................................................2
1.1. Nguyên tắc chung .....................................................................................2
1.2. Ngoại lệ (những bất hợp lí) ......................................................................2
2. Vấn đề viết hoa ............................................................................................3
2.1. Chức năng của việc viết hoa trong tiếng Việt: .........................................4
2.2. Qui tắc viết hoa ........................................................................................4
2.2.1. Viết hoa tên người, địa danh .................................................................4
2.2.2. Viết hoa tên các tổ chức chính trị - xã hội.............................................4
3. Cách ghi tên riêng tiếng nước ngoài............................................................4
3.1. Viết nguyên dạng ……………………………………………………….4
3.2. Chuyển tự ………………………………………………………………4
3.3. Phiên âm ……………………………………………………………….4
CHƯƠNG 2. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VỀ DÙNG TỪ, ĐẶT CÂU VĂN
BẢN…………………………………………………………………………….…6
1. Nhận dạng và chữa các lỗi về từ .................................................................6
1.1. Dùng từ không đúng vỏ âm thanh và hình thức cấu tạo...........................6
1.2. Dùng từ không đúng nghĩa .......................................................................7
1.2.1.Không nắm được nghĩa của từ, nhất là các từ Hán Việt ........................7
1.2.2. Nhầm lẫn các từ gần âm, gần nghĩa ....................................................7
1.2.3.Dùng sai nghĩa biểu cảm ........................................................................7
1.3. Dùng từ không đúng quan hệ kết hợp ......................................................8
1.4. Dùng từ không phù hợp phong cách ngôn ngữ của văn bản ....................8
1.5. Dùng từ sáo rỗng .....................................................................................8
1.6. Lặp từ, thừa từ ..........................................................................................9
1.6.1. Lặp từ ....................................................................................................9
1.6.2. Thừa từ ..................................................................................................9
100
1.7. Một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình phát hiện và sửa lỗi về dùng từ
trong văn bản ................................................................................................10
2. Nhận dạng và chữa các lỗi thường gặp về câu ..........................................10
2.1. Khái niệm câu tiếng Việt ........................................................................10
2.2. Một số loại câu trong tiếng Việt .............................................................10
2.2.1. Câu đơn ...............................................................................................10
2.2.2. Câu ghép ..............................................................................................10
2.2.3. Câu phức..............................................................................................11
2.3. Chữa lỗi câu ...........................................................................................12
2.3.1. Lỗi về cấu tạo ngữ pháp trong câu ......................................................12
2.3.2. Câu thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành phần câu .............13
2.4. Lỗi về dấu câu ........................................................................................14
CHƯƠNG 3. RÈN LUYỆN CÁC KĨ NĂNG LÀM VIỆC VỚI VĂN BẢN TIẾNG
VIỆT…………………………………………………………… …………..17
1. Tổng quan về văn bản ..............................................................................17
1.1. Khái niệm văn bản ..............................................................................17
1.2. Các đặc trưng của văn bản ..................................................................17
1.3. Kết cấu văn bản ...................................................................................18
1.4. Các loại văn bản ..................................................................................19
1.4.1. Văn bản khoa học ................................................................................19
1.4.2. Văn bản hành chính .............................................................................21
1.5. Đoạn văn ................................................................................................23
1.5.1. Khái niệm đoạn văn.............................................................................23
1.5.2. Các loại đoạn văn ................................................................................23
1.5.3. Cấu trúc đoạn văn ................................................................................24
1.5.4. Các câu trong đoạn văn .......................................................................24
1.5.5. Tính nhất thể và tính mạch lạc của đoạn văn ......................................25
1.5.6. Lập luận ...............................................................................................26
PHẦN BÀI TẬP ..........................................................................................27

101
Phần bài tập 1 ................................................................................................27
Phần bài tập 2 ................................................................................................48
Phần bài tập 3 ................................................................................................51
Phần bài tập 4 ................................................................................................60
Phần bài tập 5 ................................................................................................64
Phần bài tập 6 ................................................................................................68
Phần bài tập 7 ................................................................................................71
Phần bài tập 8 ................................................................................................74
Phần bài tập 9 ................................................................................................78
Phần bài tập 10 ..............................................................................................80
Phần bài tập 11 ..............................................................................................82
Phần bài tập 12 ..............................................................................................85
Phần bài tập 13 ..............................................................................................90
Phần bài tập 14 ..............................................................................................93
Phần bài tập 15 ..............................................................................................95
Phần bài tập 16 ..............................................................................................96
Tài liệu tham khảo .........................................................................................98

102
103

You might also like