You are on page 1of 16

------------------------------VIỆT

BẮC------------------------------
Phân tích
By me
Part 1: 8 câu đầu_ lượt lời thứ nhất của kẻ ở người về
“ Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Mình và ta là hai đại từ xưng hô quen thuộc trong ca dao xưa, là cách xưng hô bình
dị, thương mến của lứa đôi. Hai câu hỏi tu từ mở đầu bai thơ không tìm kiếm câu
trả lời mà chủ yếu bộc lộ tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Hai câu hỏi tu từ
ấy gợi nhắc đến cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn của lứa đôi mà ta cũng bắt gặp
trong cao dao xưa:
“ Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

“ Mình về có nhớ ta chăng


Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình”
Hay là những cảm xúc lưu luyến, đầy đau xót của cảnh chia ly:
“ Mình về ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo ta đề câu thơ” ;

“ Mình về ta dặn câu này


Dặn dăm câu nhơ dặn vài câu thương “
Tố Hữu đã mượn hình thức ngôn từ quen thuộc của văn học dân gian để gửi gắm
nội dung của tình cảm lớn lao của thời đại mới như cách mà chúng ta gọi nhà thơ
này, nhà thơ của tư tưởng lớn, tình cảm lớn. Việc sử dụng hình thức ngôn từ này là
hoàn toàn có dụng ý nghệ thuật của tác giả, nó làm mờ đi chất chính trị, mờ đi cái
vẻ ngoài khô khan của tình cảm quân dân và làm nổi bật lên được chất trữ tình của
bài thơ. Những câu ca ngọt ngào của tình yêu đôi lứa qua ngòi bút của Tố Hữu đã
chuyển thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ
nhung của người ở lại và người ra về. Câu thơ sử dụng phép lặp “mình- ta” quen
thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ càng trở nên miên man, da diết; cũng đồng
thời góp phần tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở, một trong những cảm xúc chủ
đao của bài thơ: Liệu những người chiến thắng sau khi trở về họ có còn giữ được
tấm lòng thủy chung với những gì đã từng gắn bó và những gì làm nên chiến thắng
ngày hôm nay không? Hai câu thơ lục bát có tới 4 chữ “mình” nhưng chỉ có một
chữ “ta”. Tương quan ngôn từ ấy đem lại cảm giác người ra đi tràn ngập không
gian, đầy ắp nỗi nhớ của người ở lại, cũng đồng thời gợi một chút đơn côi, lặng
thầm cho hình ảnh người ở lại nơi núi rừng hoang vu, hiu hắt. Người ra đi để lại
một khoảng trống khó lấp đầy trong trái tim kẻ ở lại. Bởi lẽ thời gian mà họ sát
cánh bên nhau là quá dài, “ mười lăm năm ấy”.Mười lăm năm ấy là khoảng thời
gian từ khi kháng Nhật (1941-1946) và sau đó là những năm kháng chiến chống
Pháp (1946-1954). Ba chữ mười lăm năm nghe thật thật yêu thương nhưng cũng
thật xót xa. Mười lăm năm đối với một con người đôi khi chỉ là … nhưng đối với
những chiến sĩ cách mạng xa quê chiến đấu thì đó lại là một khoảng thời gian
mang dấu ấn vô cùng đặc biệt trong cuộc đời của họ.Nơi chiến trường xa họ không
chỉ có đồng đội cùng chiến đấu dưới bầu trời đỏ lửa của chiến tranh mà đằng sau
lớp khói đau thương ấy họ còn phải chiến đấu với hiện thực khắc nghiệt của cuộc
sống núi rừng xa lạ nhưng nơi đó luôn có những con người sẵn sàng làm hậu
phương che chở cho các anh, những người dân chốn bản làng mù sương của núi
rừng Việt Bắc. Mười lăm năm cùng nhau gắn bó, mười lăm năm cùng chia sẻ ngọt
bùi đăng cay với biết bao nghĩa tình, biết bao “ thiết tha mặn nồng”, mười lăm năm
máu cùng đổ, mười lăm năm nước mắt cùng rơi, mười lăm năm cùng nhau trường
kì kháng chiến gian khổ để tạo nên một huyền thoại trong lịch sử dân tộc. Giao sư
Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng câu thơ “ Mười lăm năm áy thiêt tha mặn nồng”
mang dáng dấp của một câu thơ trong đại thi phẩm truyện Kiều:
“ Những lá rày mai ước ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Nếu câu hỏi thứ nhất “Mình về mình có nhớ ta” làm xao xuyến lòng người về
nghĩa tình sâu nặng hướng về thời gian và có phảng phất âm hưởng êm ái của tình
yêu thì câu thơ thứ hai “ Mình về mình có nhớ không ?” khiến người nghe phải
dừng lại suy ngẫm về sự tha thiết, nghiêm nghị:
“ Mình về mình có nhớ ta
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn”
Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như “cây”, “sông” và
cả những hình ảnh của miền núi như “núi”, “nguồn”. Nhìn cây nhìn sông là để tâm
hồn lắng lại đưa nỗi nhớ hướng về quá khứ. Hai hình ảnh này cũng có thể coi là
biểu tượng của sự ra đi của người lính, họ trở về sống với quê hương đồng bằng và
thủ đô hoa lệ. Hai chữ “nhìn-nhớ” gợi lên trong ta về sự trăn trở của người ở lại:
liệu những chiến sĩ ra về họ còn nhớ đến mảnh đất của thủ đô kháng chiến mà họ
từng gắn bó suốt mười lăm năm hay không ? Một thời gian gắn bó dài đến như vậy
liệu hai chữ thủy chung có còn lại nơi đó hay không? Người ở lại họ trăn trở chứ,
đau lòng chứ, chiến tranh mang lại chỉ toàn là những đau thương mất mát nhưng
nó cũng mang chúng ta lại gần bên nhau để thấy được tình cảm, nghĩa tình của
quân và dân đoàn kết,nồng ấm, để thấy được sức mạnh dân tộc Việt Nam lớn mạnh
đến nhường nào. Trong câu hỏi thứ hai ngoài nỗi nhớ nhung và băn khoăn, ý thơ
còn đem lại những suy ngẫm về nghĩa tình đạo lý, về cội nguồn chung thủy trong
nét đẹp đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam: uống nước nhớ nguồn, có núi thì
mới có cây, có nguồn thì mới có sông và có Việt Bắc thì mới có ngày giải phóng.
Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã xuất hiện trong thơ của Tố
Hữu:
“ Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sống nhớ suối, có ngày nhớ đêm”
Nói như Albert Schweitzer: “Điều duy nhất có giá trị trong cuôc đời chính là
những dấu ấn của tình yêu mà ta để lại phía sau khi ra đi” và thật vậy mười lăm
năm gắn bó đâu chỉ là làn sương chợt buông xuống rồi chợt tan biến. Qúa khứ dù
có đầy rẫy những đau thương nhưng vẫn còn đó những thứ mà những người lính ấy
để thương để nhớ trong từng nhịp đập trái tim và rồi họ đáp lại những nỗi băn
khoăn, trăn trở của người ở lại bằng những vần thơ đầy cảm xúc:
“ Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Nỗi nhớ nhung và những cảm xúc băn khoăn, trăn trở của người ở lại đã không còn
là một dấu hỏi nữa mà đã được người ra đi thấu hiểu và cảm nhận một cách đầy
chân thành. “Ai” ở đây chính là người ở lại nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại
cảm giác những câu hỏi ở bốn câu đầu là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, chưa
biết rõ tên mà mới chỉ là những âm thanh vang vọng cỏ cây, núi rừng, là tiếng lòng
của người ở lại. Tuy nhiên, sự tri âm, tri kỉ, đồng thanh tương ứng, đã khiến họ
thấu hiểu lòng nhau. Hai chữ “tha thiết” diễn tả một thứ tình cảm đặc biệt, một
trạng thái cảm xúc nhớ nhung cứ canh cánh, đau đáu, không nguôi ngoai trong tâm
trí mỗi người và phải có sự gắn bó sâu nặng lắm mới có thể cảm nhận được điều
này. Người ở lại thiết tha, người ra đi tha thiết, hô ứng, đồng cảm, đồng vọng như
chính Tố Hữu đã từng nói: Thơ ca là điệu hồn của những tâm hồn đồng điệu. Phải
chăng những âm thanh vang vọng đầy cảm xúc kia cứ vương vấn, quấn quít theo
từng bước chân khiến người ra về cũng chẳng thể bước tiếp: “Bâng khuâng trong
dạ bồn chồn bước đi”. Sự đăng đối trong hai vế câu thơ đã góp phần thể hiện sự
đăng đối đồng điệu trong cảm xúc con người. Tác giả sử dụng từ láy “bâng
khuâng” gợi ra những cung bậc cảm xúc khó tả đan xen giữa vui, buồn, nhớ
thương, lưu luyến, bịn rịn khiến con người trở nên thẩn thơ. Trong lòng bâng
khuâng khiến cho những bước chân cũng chẳng thể dứt khoát, “bồn chồn bước đi”.
Từ láy “bồn chồn” không chỉ dừng lại ở những nỗi niềm trong tâm trí mà nó còn
thể hiện ở trong ánh mắt, dáng vẻ, hành động và ở đây nó gợi những bước chân
ngập ngừng, lưu luyến, bịn rịn của người ra đi. Một chân bước mà lòng cứ ngoảnh
lại, bước chân dừng để lòng ta được một lần nữa đắm lại nơi mảnh đất ấy, nơi có
những con người ấy, để thả hồn cảm nhận những gì cụ thể nhất chứ không phải
những âm thanh mơ hồ như có như không kia:
“ Aó chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Hình ảnh áo chàm là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt
Bắc, nghĩa tình, sắc áo chàm có thể nhòa mờ sau làn sương nhưng nó vẫn sẽ mãi là
dấu ấn in đậm trong tâm trí của người về xuôi. Hình ảnh hoán dụ kép về chiếc áo
chàm , trang phục đặc trưng của đa số nhân dân Việt Bắc, để gợi nhắc tới hình ảnh
những người con của mảnh đất VB vừa để khắc họa tính cách mộc mạc, tấm lòng
son sắt của họ đối với cách mạng, với kháng chiến. Chân dừng bước để thả hồn
cảm nhận nhưng càng dừng lại càng thấy càng xót xa nhưng cũng thật cảm phục và
thương mến những con người kiên cường của mảnh đất xa xôi ấy. Trong cảnh chia
tay đầy cảm xúc, khi lời nói dường như đều không thể diễn tả hết tâm tư tình cảm
giữ kín trong lòng thì những cái cầm tay là câu trả lời cho tất cả, là món quà dù chỉ
vỏn vẹn trong giây phút nhưng thể hiện nghĩa tình trọn đời. Sự ngâp ngừng đặc
biệt hiện ra trong nhịp thơ 3/3/2 bồn chồn day dứt thay thế cho nhịp chẵn êm đềm
thông thường của thể thơ lục bát. Trong cái không khí lặng im của cảnh chia tay
ấy, khi tất cả đều trầm lắng, im lặng “ biết nói gì hôm nay” thì cái bắt tay quý giá
lại mang nhiều ý nghĩa vô cùng to lớn, bắt tay để truyền cho nhau hơi ấm, truyền
cho nhau sức mạnh, truyền cho nhau tình cảm, thứ tình cảm mà chỉ lần này nữa
thôi là chẳng thể truyền cho nhau nữa mà ai nấy đều sẽ cất giữ và nâng niu ở một
góc nhỏ nào đó trong tim mang theo đến suốt cuộc đời. Bốn câu thơ vừa là sự đồng
vọng, nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện một cách xúc
động cảnh tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn, sâu nặng nghĩa tình trong ngày chiến
thắng.

16 câu tiếp: lượt lời thứ 2 của kẻo ở người về

Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra những hình ảnh khái quát của quá khứ
mười lăm năm với những gắn bó thiên nhiên như núi, nguồn thì ở những câu hỏi
trong đoạn thơ sau đã hướng tới những kỉ niệm thật cụ thể, xúc động. Sáu câu hỏi
dường như cứ dồn dập , gấp gáp bởi nỗi nhớ cứ trào dâng khi thời gian cho cuộc
chia tay ngày một rút ngắn. Sự đăng đối trong hai vế của câu 8 là yếu tố tạo nên
nhịp điệu ngân nga, dìu dắt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu đó thể hiện tinh tế
nỗi vấn vương, xao xuyến giăng mắc trong nỗi lòng của kẻ ở người về để rồi quá
khứ trở về chảy vào trong thơ với những kí ức mãnh liệt:
“ Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Ở đây vẫn là những câu hỏi không tìm kiếm câu trả lời mà chủ yếu dùng để giải
bày tình cảm, cảm xúc. Những hình ảnh của thiên nhiên Việt Bắc một lẫn nữa xuất
hiện nhưng không hề êm đềm, trữ tình, đầy suy ngẫm như những câu thơ trên mà
trái lại thiên nhiên hiện lên sống động hơn từ những khắc nghiệt như “ mưa
nguồn”, “suối lũ”, “mây-mù” tới những kỉ niệm ấm áp của cuộc sống chiến trường
đầy gian khổ. Chiến đấu với kẻ thù đối diện với mưa bom bão đạn đã là một thử
thách vô cùng lớn đối với những người lính nhưng đâu chỉ có vậy, đằng sau làn
mưa bom bão đạn kia là cuộc sống kháng chiến với những khó khăn, thiếu thốn và
những mối nguy hiểm luôn trực chờ “ mưa nguồn- suối lũ”, những cơn mưa rào rơi
trên mảnh đất đồng bằng thật đẹp, thật nên thơ, thật trữ tình đó chứ nhưng rơi trên
Việt Bắc lại mang tới những cơn lũ như nước đổ từ đầu nguồn cuốn trôi đi tất cả.
Nhưng dù cho có khó khăn như thế nào thứ nâng đỡ tâm hồn và tinh thần họ chính
là tình cảm sẻ chia, đùm bọc nhau mà bác Hồ vĩ đại của chúng ta luôn nhắc nhở “
là lành đùm lá rách”. Dù người dân Việt Băc họ cũ thiếu thốn đủ bề nhưng họ sẵng
sàng là hậu phương chiến dấu, dành dụm những gì tốt nhất, ngon nhất mà họ có
trong tay như “bát cơm chấm muối” còn tỏa nhớ mùi hương. Và đôi khi cũng
chẳng có cơm mà chỉ đơn giản là những củ khoai đợi chờ người lính trở về nghỉ
chân nhưng tác giả lại viết là “bát cơm chấm muối” để ta thấy được tình cảm của
nhân dân dành cho những cán bộ chiến sĩ. Trong những ngày kháng chiến như vậy
có được một “bát cơm chấm muối” đạm bạc, giản dị đã là sơn hào hải vị trong đôi
mắt đầy mệt nhọc của những người lính rồi. Những bữa ăn tiếp sức quá đỗi giản dị
nhưng trách nhiệm và sứ mệnh của họ lại quá lớn, “mối thù nặng vai”. Họ sẻ chia,
đỡ đần, đùm bọc, đầm ấm tình cảm giữa cái lạnh lẽo đau thương của chiến tranh là
vậy đó. Chung một kẻ thù, chung một mối thù, cùng sát cánh hướng tới một mục
tiêu chung , “mình” luôn ở phía sau làm hậu phương tiếp sức cho “ta” chiến đấu
trên tiền tuyến đỏ lửa từ thời mặt trận Việt Minh đến 9 năm kháng chiến chống
Pháp. Sự sẻ chia, đùm bọc trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa
tình thủy chung trong tương lai. Sự gian truân, vất vả càng tô điểm cho vẻ đẹp
trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc dù nghèo khó nhưng sắt son, trung
hậu, nghĩa tình, một lòng với cách mạng, với kháng chiến. Những gắn bó, ân tình
ấy càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhung và cảm giác trống vắng cho cả lòng người và
cả thiên nhiên núi rừng khi chia biệt:
“ Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Câu thơ gợi ra một khoảng trống không thể đo cũng chẳng thể đếm nhưng lại mang
một sức nặng vô hình. Hình ảnh “rừng núi” hoán dụ cho người dân Việt Bắc. Mười
lăm năm máu cùng đổ, lệ cùng rơi, cùng chia sẻ ngọt bùi ấy thế mà giờ đây chỉ còn
“rừng núi” ở lại với núi rừng, hoang sơ, heo hút hoài niệm về quá khứ cùng với
“ai”, chính là “mình”, người ra đi. Nỗi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi
được bộc lộ gián tiếp qua cách nói tránh và cấu trúc nghi vẫn khiến ý thơ càng
thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ của “ai” đã làm tăng thêm nỗi trống vắng cho
người ở lại, hình ảnh của người ra về càng trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ
nhung của người dân Việt Bắc, mộc mạc, giản dị mà sắt son. Câu thơ nhắc đến hai
sản vật vô cùng quen thuộc của núi rừng “trám bùi”, “măng mai” kết hợp với phép
điệp “để rụng- để già” gợi lên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ, núi rừng như
hoang phế sau lưng người ra đi và cũng chỉ còn lại sự hụt hẫng, trống trải trong
lòng người ở lại. Sau khi người ra đi, nỗi nhớ bao trùm không gian, thời gian, trám
bùi trên cây không còn ai để hái lượm, trám bùi rụng xuống cũng chẳng còn ai để
thu hoạch, để san sẻ nữa; măng mai theo năm tháng cũng già úa hoang phí giữa
chốn rừng sâu. Người về rồi, ta cũng chẳng cần hái lượm những sản vật ấy, cuộc
sống vốn đã mộc mạc, giản dị, không có những thứ ấy cũng không hề gì chỉ là hình
ảnh của những thứ ấy xuât hiện càng làm tăng thêm sự hụt hẫng, tạo nên một
khoảng trống lớn hơn bao giờ hết. Đúng như Tố Hữu đã từng nói: “ Thơ chỉ bật lên
khi trong tim anh moi thứ đã thật ứ đầy”. Sự gắn bó nồng ấm trong suốt 15 kháng
chiến từ “ khi kháng Nhật, thuở con Việt Minh” khiến họ thêm thấu hiểu, đồng
cảm và trân trọng từng phút giây chiến đấu cùng nhau:
“ Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Trong những ngày đầu đặt chân lên Việt Bắc, những người lính không chỉ thiếu
thốn về cái ăn, cái mặc mà còn thiếu thốn cả về chốn ở nữa. Phép tương phản giữa
hai vế của câu 8 đã trở thành nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con
người Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang
vắng, buồn bã của rừng núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khó,
thiếu thốn của người dân nơi đây. Những mái nhà đơn sơ còn phải cách xa nhau để
tránh sự truy lùng của kẻ thù nhưng dù khoảng cách có xa như thế nào đi chăng
nữa thì tình cảm của họ dành cho nhau vẫn luôn đong đầy, “đậm đà lòng son”.
Những người dân bản làng mang trong mình những phẩm chất đáng ngưỡng mộ,
ca ngợi, dù nghèo khổ nhưng trung hậu, nghĩa tình, thủy chung. Đồng thời đây
cũng là một lời nhắc nhở đầy xúc động tới người ra về: xin đừng bao giờ quên
những con người dù khốn khó nhưng giàu đức hy sinh, trung hậu, son sắt, kiên
trung, một lòng với cách mạng, với kháng chiến. Và có lẽ chính màu lau xám hắt
hiu của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng đáng trân quý ấy. “Mình đi
mình có nhớ mình”, một câu thơ có tới ba chữ “mình” tuy có nhiều cách hiểu khác
nhau nhưng nổi bật trong đó là một nét nghĩa vô cùng sâu sắc. “Mình” là người ra
đi và khi ấy câu hỏi sẽ là một lời nhắc sâu xa và nghiêm nghị: mình đi mình có nhớ
và có giữ mãi được con người mình ngày xưa ấy, con người mà ta đã yêu mến, trân
trọng, nhớ thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình thủy chung, nhân
hậu đã sát cánh ben ta trong kháng chiến, đã cùng ta chia ngọt sẻ bùi trong suốt
mười lăm năm ấy? Đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn
hoa đô hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng giữa rừng khi đã trở về với ánh đèn của
thành phố, đừng bao giờ quên mình đã vượt qua, đã chiến đấu cùng ta mạnh mẽ
như thê nào trong những tháng năm trường kì kháng chiến khi trở về với cuộc sống
hòa bình. Tố Hữu, một chiến sĩ cách mạng làm thơ đã thể hiện tài năng của mình
trong việ rất khéo léo đưa những sự kiện lịch sử vào trong thơ ca của mình. Hai
hình ảnh “ mái đình Hồng Thái” và “cây đa Tân Trào” được tác giả tách ra thành
hai vế làm cho chất chính trị khô khan mờ đi và nổi bật lên chất trữ tình lãng mạn.
Đó là hai địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc: đình
Hồng Thái là nơi họp Quốc dân đại hội, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng; gốc
đa Tân Trào là nơi phát đi lệnh tổng khởi nghĩa cho đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân. Hai hình ảnh “mái đình-cây đa” là những hình ảnh vô cùng bình dị,
quen thuộc của làng quê Việt Nam. Hai tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó
sâu sắc của người dân và cách mạng: khi Việt Bắc trở thành quê hương của cách
mạng qua ngòi bút tài năng của Tố Hữu những sự kiện lớn lao, quan trọng của cách
mạng và kháng chiến cũng trở thành sự quan tâm sâu sắc, trở nên gần gũi như cây
đa, giếng nước, sân đình; tình cảm giữa quân và dân ấy thế mà cũng trở nên thân
thương hơn như tình làng nghĩa xóm.

Bốn câu cuối đoạn thơ:

Đáp lại nỗi lòng người ở lại, nhà thơ tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thủy chung
son sắt của người ra đi khi từ biệt quê hương cách mạng bằng những vần thơ đầy
cảm xúc:
“ Mình với ta, ta với mình
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Tác giả sử dụng phép lặp đan xen giữa “ta” và “mình” kết hợp cùng từ “với” như
sợi dây gắn kết tạo thành một vòng tròn khép kín về cảm xúc “ Ta với mình, mình
với ta”, tuy hai mà một , tuy một mà hai, quấn quít giao hòa giữa kẻ ở người đi
khăng khit không thể tách rời. Nhân dân yêu thương cán bộ nhiều bao nhiêu thì cán
bộ cũng yêu thương họ nhiều bấy nhiêu. Đạo lý về nghĩa tình trong cuộc sống môt
lần nữa được khẳng định. Sống có trước có sau là đạo lý thủy chung truyền thống
ngàn đời của dân tộc Việt Nam.Tuy nhiên ý thơ không chỉ khẳng định sự thủy
chung mà còn lý giải sự thủy chung một cách sâu xa và thuyết phục. “Sau trước”
còn gợi một khoảng thời gian dài từ trước đến sau, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện
tại tới tương lai, “thức lâu mới biết đêm dài”, thời gian gắn bó càng dài càng khiến
con người ta thêm thấu hiểu lẫn nhau. Khi đã có những gắn bó trong quá khứ, khi
cùng nhau chung tay vượt qua những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ, đùm
bọc, tình cảm giữa họ thêm “mặn mà”, nồng ấm giữa cái lạnh lẽo đau thương của
chiến tranh. Nghĩa tình ấy trước sau như một, mãi mãi vẹn nguyên, bền chặt theo
thời gian, không bao giờ nhạt phai, thay đổi. Nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở
trong câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa “Mình đi mình có nhớ mình” thì người
về cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng cảm, đồng vọng: “Mình đi mình lại nhớ
mình”. Vẫn là cách sử dụng tinh tế đại từ “mình” ở cuối câu thơ với nhiều nét
nghĩa. Nếu hiểu “mình” là người ở lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ
nhung, tha thiết; nếu hiểu mình là người đi, câu thơ sẽ là lời khẳng định: ánh đèn
thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể khiến người trở về quên
được vầng trăng tình nghĩa, khong bao giừ quên quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng
không bao giờ đánh mất chính mình, không bao giờ phụ tình yêu thương của Việt
Bắc. “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”, câu thơ phảng phất âm hưởng
ca dao: “Công cha như núi thái sơn- Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ”.
Câu thơ nhấn mạnh vào sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái
niệm trừu tượng nay được cụ thể hóa, định lượng hóa, hiện hữu hóa như nước
trong nguồn đầy ắp, vô tận cũng như nghĩa tình giữa kẻ ở người về mãi mãi đi
cùng theo chiều dài của năm tháng. Hình ảnh nước trong nguồn còn gợi nhắc đến
những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình đao lí “uống nước nhớ nguồn” mà tác giả
cũng đã gợi nhắc từ những câu thơ đầu tiên. Phải chăng đây là lời khẳng định, một
lời thề sắt son đáp lại sự trăn trở của con người cũng như thiên nhiên Việt Bắc.
PART II: 25-42: Nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi với thiên nhiên, con người Việt
Bắc, với cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến

#1 Nguyễn Khải đã từng nói: Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở
giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc tình
cảm, chứ không phải cái tư tưởng nằm đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của
người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác
phẩm lớn; và ở Việt Bắc ta thấy được tình cảm sâu nặng của tác giả rung lên qua
từng câu, từng chữ, góp phần tạo nên cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ. Cảm xúc
nhớ nhung da diết đưa nỗi nhớ của cán bộ theo gió cuốn về thiên nhiên Việt Bắc,
nơi mà họ đã từng bước đi trong suốt 15 năm gian khổ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

#2 Nói như Maxin Malien: Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng
dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng.
Nhưng tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hóa hoặc ngôn ngữ cuối
cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu
da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống
nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người; nơi mà rung lên những cung
bậc cảm xúc tình cảm của tâm hồn, và ở Việt Bắc ta thấy được tình cảm sâu nặng
của tác giả rung lên qua từng câu, từng chữ, góp phần tạo nên cảm xúc chủ đạo của
cả bài thơ. Cảm xúc nhớ nhung da diết đưa nỗi nhớ của cán bộ theo gió cuốn về
thiên nhiên Việt Bắc, nơi mà họ đã từng bước đi trong suốt 15 năm gian khổ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Ba cặp câu lục bát đều bắt đầu bằng một chữ “nhớ” thật tha thiết, sắc thái và mức
độ của nỗi nhớ được miêu tả qua một phép so sánh đầy ngọt ngào, phảng phất âm
hưởng êm ái của tình yêu: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Từ “gì”’ mang tính chất
phiếm chỉ nhưng thực chất là nhớ tới con người và thiên nhiên Việt Bắc, đây
dường như là một cách nói tế nhị, , không nói thẳng, bộc lộ tình cảm, cảm xúc một
cách gián tiếp mà ví von nỗi nhớ ấy như nỗi nhớ hướng về “người yêu”, ví von
một thứ tình cảm khô khan như tình cảm quân dân với tình cảm của tình yêu đôi
lứa. “Nhớ người yêu” là nỗi nhớ thường trực, da diết và nhiều khi mãnh liệt đến
phi lí như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đã từng viết:
“ Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình với ta”
Một nỗi nhớ khiến ta nhớ tới những vẫn thơ say mê của Xuân Quỳnh:
“ Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Hay đó là nỗi nhớ khắc khoải mà chính Tố Hữu đã từng thốt lên: “ Lạ chưa vẫn ở
bên em- Mà anh vẫn nhớ, vẫn thèm gặp em”. Có thể coi đây là một so sánh thể
hiện sắc thái đặc biệt và mức độ cao nhất cho nỗi nhớ của con người, để ta thấy
được sự gắn bó nghĩa tình và nỗi nhớ thương của cán bộ dành cho mảnh đất và con
người Việt Bắc và phải có một thời gian gắn bó sâu nặng lắm mới có thể viết lên
một so sánh xúc động như vậy. Có lẽ chính sự liên tưởng ngọt ngào tới tình yêu đã
khơi dậy những cơn sóng cảm xúc trong từng nhịp đập trái tim của nhà thơ để rồi
những vẫn thơ tiếp theo dù hướng nỗi nhớ về thiên nhiên nhưng cũng thật êm ái,
lãng mạn phảng phất hương vị tình yêu. Từng cảnh vật của Việt Bắc trong mọi
thời gian và không gian đã liên tiếp, dồn dập hiện ra trong nỗi nhớ của người đi:
Việt Bắc khi thơ mộng với ánh trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi ấm áp
nhạt nhòa trong ánh “nắng chiều lưng nương”, lúc lại mơ hồ, huyền ảo giữa tấm
lưới giăng mắc của “bản khói cùng sương” và nhất là luôn nồng đượm ân tình bởi
sự quấn quít với những hoạt động sinh hoạt kháng chiến của con người khi “sớm
khuya bếp lửa người thương đi về”.Một nỗi nhớ lan tỏa không gian, ngự trị thời
gian. Nỗi nhớ hướng về thiên nhiên nhưng không gợi cảm giác hoang sơ, hiu hắt vì
tất cả cảnh vật và con người đều xoay quanh cái ấm nồng của hình ảnh bếp lửa.
Bếp lửa là hình ảnh vô cùng quen thuộc nhưng thật thân thương với những người
con xa quê, là thứ nâng đỡ tinh thần và tâm hồn mỗi khi hướng về quê hương như
hình ảnh “bếp lửa” mà ta đã từng gặp trong bài thơ cùng tên của Bằng Việt:
“Một bếp lửa chờn vờn sướng sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Người Việt Bắc đã thực sự trở thành người thương trong lòng người về xuôi.
Những cảnh vật của Việt Bắc dù có tên như “Ngòi Thia”, “sông Đáy”, “suối Lê”
hay không tên như “rừng nứa”, “bờ tre” thì tất cả đều in đậm trong nỗi nhớ của
người ra về. Điệp từ “nhớ” và “nhớ từng” cho thấy nỗi nhớ da diết, khắc khoải, sâu
đậm của người đi không chỉ với những cảnh vật cụ thể, thân thuộc mà còn là nỗi
nhớ bao trùm, toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc.
L.Tôn- xtôi đã từng nói: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”, thật
vậy khi trái tim đã thật ứ đầy thì vẫn thơ trào ra thật cảm xúc biết bao, những vần
thơ làm xao xuyến lòng người, làm tan chảy trái tim. Những tưởng những cảm xúc
ấy chỉ có thể xuất phát được từ tình yêu đôi lứa nhưng ở Việt Bắc ta thấy được một
thứ tình cảm thiêng liêng hơn hẳn, không cần phải là tình cảm lứa dôi, mà thứ tình
cảm tưởng chừng như khô khan như tình cảm quân dân lại thật ấm nồng, thiêng
liêng. Thời gian làm lành những vết thương lòng nhưng điều đặc biệt của thời gian
chính là mồi lửa nung nấu lên những tình cảm chân thành, nồng ấm, nghĩa tình.
Những gì không còn đọng lại trên đời sẽ còn đọng lại trong văn chương và Tố Hữu
đã làm độc giả như được sống giữa những con người Việt Bắc qua những vần thơ
cảm động của mình:
“ Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Những ngày đầu đặt chân lên Việt Bắc xa nhà, xa quê hương thật lạ lẫm, thật khó
khăn nhưng họ có đồng bào Việt Bắc luôn cạnh bên, yêu thương họ như những đứa
con trong gia đình. Họ đã cùng bên nhau trong suốt 15 năm trường kì kháng chiến
gian khổ nhưng bom đạn không thể giết chết niềm tin của những con người ấy, dẫu
thiếu thốn, khó khăn bủa vây họ nhưng người Việt Nam là vậy, luôn cùng vai sát
cánh, luôn luôn cạnh bên để chia sẻ cay đắng, ngọt bùi từ “mưa nguồn suối lũ” cho
đến từng “miếng cơm chấm muối”, từng “củ sắn, củ lùi”. “Sắn lùi”, “bát cơm sẻ
nửa”, “chăn sui đắp cùng” là những hình ảnh cụ thể và chân thực cho thấy cuộc
sống kháng chiến thiếu thốn và khó khăn vô cùng. Đối diện với những gì tệ nhất
mà chiến tranh mang lại, những người cán bộ chiến sĩ không chỉ chiến đấu với tinh
thần dũng cảm mà còn với sức mạnh của tình thương. Những động từ “ chia”
“sẻ”,”cùng” thể hiện nghĩa tình cảm động giữa quân và dân. Nghĩa tình cảm động
đó là ngọn lửa sưởi ấm họ qua suốt những ngày dài buốt lạnh của chiến trường và
cũng là động lực để họ kiên cường chiến đấu trên con đường phía trước. Bác Hồ vĩ
đại của chúng ta đã có câu: “Lá lành đùm lá rách”, dù những người dân Việt Bắc
cũng chả đủ đầy, họ cũng nghèo khó, thiếu thốn vô cùng nhưng họ vẫn thầm lặng
vất cả, cố gắng từng ngày trong công việc trên nương rẫy, núi rừng để phục vụ cho
cách mạng, tạo dựng hậu phương vững chắc cho tiền tuyến phía trước: “Nhớ người
mẹ nắng cháy lưng”-“Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. Câu thơ miêu tả hình ảnh
cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống thường nhật của người dân nơi đây: Người mẹ
địu con trên lưng cùng đi làm nương rẫy. Hai thanh sắc liên tiếp trong cụm từ
“nắng cháy” cùng hàm nghĩa ẩn dụ không chỉ gợi ra một vạt nương ngập nắng mà
còn gợi ra cái vất vả, cơ cực của công việc nhưng đổi lại thành quả mà họ nhận lại
chỉ là từng bắp ngô ít ỏi. Không gian, hoàn cảnh lao động đối lập hoàn toàn với
thành quả nhận lại cho thấy sự cực nhọc của con người trong cuộc sống mưu sinh
cũng như trong công cuộc phục vụ cho cách mạng. Đồng thời cũng gợi ra sự xót
xa, nhớ thương của tác giả dành cho những con người tần tảo của mảnh đất này.
Hoàn cảnh khó khăn, vật chất thiếu thốn nhưng đong đầy tình cảm, đó chính là
hành trang vô giá đã cùng họ đi qua 15 năm để cùng nhau viết lên trang sử hào
hùng của dân tộc.
Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp bình yên của thiên nhiên và những kỉ niệm ấm nồng
với con người mà Tố Hữu còn hoài niệm về những ngày tháng sinh hoạt với âm
thanh thân thương, đáng yêu, đáng nhớ hơn bao giờ hết:
“ Nhớ sao lớp học I tờ
Đồng quê đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Mở đầu nỗi nhớ mà âm thanh vọng lại ta bắt gặp hai tiếng “i tờ” đầy ngộ nghĩnh.
Đó chính là tiếng đánh vần đầy ngây ngô tưởng chừng đến từ những em bé mới
chập chững bước vào lứa tuổi học hành nhưng trong thực tế hoàn cảnh chiến tranh
lúc bấy giờ thì không hẳn là vậy, tiếng bập bẹ đánh vần đó đến từ người lớn trong
các lớp học bình dân học vụ. Những ngày tháng mà các cán bộ chiến sĩ mang ánh
sáng của con chữ đến với nhân dân. Nhìn nhận vào hoàn cảnh thời binh lửa lúc bấy
giờ, ta mới thấy được vai trò vô cùng quan trọng của nó, Đảng và chính phủ đã
nhận ra rằng chỉ có con chữ mới giúp đồng bào ta diệt giặc đói, giặc dốt và sau
cùng chúng ta mới có thể chiến thắng được giặc ngoại xâm. Không chỉ dừng lại ở
những âm thanh trên mặt trận phục vụ chiến đấu mà ta còn bắt gặp những âm
thanh của cuộc sống bình dị, thân thuộc nơi núi rừng Tây Bắc, đó chính là tiếng
mõ gọi trâu về vào mỗi buổi chiều “tiếng mõ rừng chiều” hay là tiếng giã gạo
ngoài khe suối thoảng xa vời vợi. Những âm thanh ấy gợi lên cái êm đềm, yên ả,
vừa phảng phất chút hoang vắng vốn có cua núi rừng nơi đây vừa gợi ra cái thắm
thiết, nỗi nhớ thương sâu đậm và nỗi xao xuyến bùi ngùi của người ra đi với cuộc
sống và con người nơi chiến khu Việt Bắc. Nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở những
âm thanh đầy thân thương mà nỗi nhớ ấy như đưa người cán bộ sống lại giữa
những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ cùng đồng bào nhân dân mà ta đã bắt gặp
những vần thơ đồng điệu như thế trong bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ xứ Đoài,
Quang Dũng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Hồn về Viên Chăn xây hồn thơ”
Bom đạn có thể tàn phá, hủy diệt các công trình kiến trúc nhưng hoàn toàn bất lực
trước ý chí kiên cường và tinh thần lạc quan vốn có của con người Việt Nam. Họ
vẫn ca lên những bài hát vang vọng dốc núi, sườn đèo, những bài ca đến từ những
trái tim đầy nhiệt huyêt, đến từ một tinh thần lạc quan tràn đầy nhựa sống, đến từ
những người con đất Việt, một dòng máu anh hùng. Họ vẫn xuân sắc, vẫn đợi chờ,
vẫn tin tưởng vào một cuộc cách mạng thành công thắng lợi.
PART III: Bức tranh tứ bình

[ Dẫn …]
Giới thiệu khái quát về đoạn thơ:
Đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể hiện sinh động, thấm thía nỗi nhớ nhung tha thiết
của người ra đi với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong đoạn thơ, cảnh và
người hòa quện đồng điệu với những sắc màu, dáng vẻ thân thuộc, đẹp đẽ, bình dị
thấm đượm tình thương của người ra đi:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hai măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Một lần nữa tác giả mở đầu đoạn thơ bằng một câu hỏi tu từ không tìm kiếm một
câu trả lời cụ thể nào mà chỉ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc, nỗi bồi hồi, xao xuyến
lúc chia xa: “Ta về mình có nhớ ta”. Bởi vậy mà sau câu hỏi ấy đã là một câu
khẳng định: “ Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Yếu tố điệp của ngôn từ cho
thấy hình ảnh của họ đầ ắp trong lòng nhau, nỗi lưu luyến nhớ thương cứ giăng
mắc như tơ vương quấn quít. Nỗi nhớ ấy hương tới “hoa cùng người”. Hoa có thể
hiểu theo nghĩa tả thực, đó chính là những bông hoa chuối đỏ tươi hay hoa mơ nở
trắng rừng nhưng hoa ở đây chính là hình ảnh hoán dụ cho vẻ đẹp của cảnh sắc nơi
đây. Khi về xuôi, người kháng chiến luôn da diết nhơ về thiên nhiên và con người
Việt Bắc. Hai đối tượng này luôn luôn hòa quện, giao hòa, gắn bó sâu sắc với nhau
được thể hiện ngay qua các từ “những”, “cùng”. Ta có thể nhận thấy một điều vô
cùng độc đáo trong đoạn thơ này, cứ câu 6 viết về thiên nhiên thì câu 8 lại viết về
con người. Điều này chính là yếu tố khiến đoạn thơ như mang bóng dáng của thể
hứng trong ca dao xưa:
“ Trên trời có đám mây xanh- …”. Tuy nhiên, trong ca dao cảnh chủ yếu để tạo
cảm hứng cho tình tức cảnh sinh tình thì trong đoạn thơ này của Việt Bắc, cảnh
chủ yếu làm nền cho sự xuất hiện của con người, vừa là một phần trong nỗi nhớ
của người đi.
Dẫn: Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa” tức trong thơ có tranh nên chăng ta
chuyển thẳng tới tận hưởng cảnh sắc thiên nhiên nên thơ hữu tình giao hòa với con
người trong 8 câu thơ tiếp theo.
Nhà nhơ mở ra tám câu thơ như một bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp của Việt Bắc. Tuy
nhiên khác với những bộ tứ bình truyền thống, tả cảnh theo trình tự: Xuân, Hạ,
Thu, Đông thì bốn mùa ở Việt Bắc lại hiện lên theo trình tự của quá khứ và hiện
tại: Đông, Xuân, Hạ , Thu. Mùa đông, mùa xuân, mùa hạ là những mùa được hiện
lên thật chân thực, rõ nét trong tâm trí của tác giả khi thời gian đã sàng lọc để
những gì đẹp nhất ở lại. Mùa thu là bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình, cảnh thu
không chỉ là cảnh sắc thơ mộng, hữu tình mà còn là mùa thu hòa bình của hiện tại,
là mùa thu với biết bao cảm xúc đan xen lẫn lộn giữa hạnh phúc của ngày hòa bình,
niềm tự hào của chiến thắng nhưng còn đó là cả những nỗi niềm lưu luyến trong
giờ phút chia tay với nhân dân Việt Bắc. Với động từ “nhớ” đầy day dứt, ta có thể
nhận thấy đây là một bức tranh tâm cảnh, khác hoàn toàn với xu hướng miêu tả
ngoại cảnh trong bức tranh tứ bình truyền thống. Mỗi mùa hiện lên đều mang vẻ
đẹp riêng, màu sắc riêng và mở đầu với bức tranh mùa đông đầy tinh tế:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Hai câu thơ vừa mở rộng không gian nghệ thuật theo chiều rộng vừa đưa không
gian ấy lên chiều cao ngút ngàn của đèo núi, chiều cao vời vợi của bầu trời. Trên
nền xanh thăm thẳm của núi rừng bạt ngàn là sắc đỏ tươi của hoa chuối. Hai gam
màu đối lập không tạo nên cảm giác chói chang mà ngược lại đem đến cảm giác
ấm áp bởi mỗi bông hoa chuối đỏ tươi là một ngọn lửa sưởi ấm, làm xua tan đi cái
lạnh lẽo của núi rừng trầm mặc. Sắc đỏ của hoa chuối còn khiến cho bức tranh núi
rừng như tươi sáng hơn. Thêm vào đó, ánh nắng trên đèo cao còn khiến bức tranh
như được mở rộng hơn, phóng khoáng hơn. Sự phối màu vô cùng tinh tế, khéo léo
giữa ánh sáng và màu sắc: giữa sắc đỏ của hoa chuối, màu đỏ tươi của hoa chuối
và ánh nắng vàng của nắng mùa đông khiến cho mùa đông hiện lên trong nỗi nhớ
của người ra về không có bóng dáng của sự khắc nghiệt vốn có của mùa đông mà
hoàn toàn được thay thế bằng vẻ đẹp đầy thơ mộng, ấm áp. Trên nền ấm áp là sự
xuất hiện của con người, càng làm tăng thêm vẻ đẹp thơ mộng cho núi rừng mùa
đông. Hình ảnh con người hiện lên qua bút pháp chấm phá đơn giản mà đầy tính
nghệ thuật “doa gài thắt lưng”. Đây như là một góc nhìn bất ngờ của nghệ thuật
nhiếp ảnh kì thú, tạo hình con người tỏa sáng từ trên cao. Với con dao cài ngang
lưng lấp lánh trên đèo cao ngút ngàn, vóc dáng của con người như mạnh mẽ, lớn
lao, kĩ vĩ hơn bao giờ hết, qua đó cũng làm tăng thêm niềm cảm phục và niềm
thương nhớ cồn cào, da diết trong lòng người về xuôi.
Bên cạnh bức tranh mùa đông sinh động, bức tranh mùa xuân được vẽ lên cũng
làm đắm say lòng người:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Không phải cái rực rỡ trong sắc màu của bức tranh mùa đông, mùa xuân được vẽ
lên với gam màu dịu mát, trẻ trung. Phép đảo ngữ trong cụm từ “trắng rừng” đem
lại ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông, bạt ngàn sắc hoa mơ. Động
từ “nở” cho thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân. Sắc trắng của
hoa mơ không chỉ làm nổi bật lên linh hồn của mùa xuân mà còn gợi ra tâm trạng
bâng khuâng, xao xuyến trong lòng người ra về. Nghê thuật phối màu vô cùng tinh
tế của nhà thơ một lần nữa được thể hiện chỉ qua sắc trắng: trên nền trắng tinh
khiết của hoa mơ là sắc trắng ngà óng của những sợi giang. Và con người hiện lên
cùng công việc hàng ngày của mình cũng thật đẹp, thật thơ mộng. Động tác chuốt
từng sợi giang càng làm rõ hơn vẻ đẹp của người dân Việt Bắc. Đó chính là vẻ đẹp
của sự cần mẫn, chịu thương, chịu khó, vẻ đẹp của sự khéo léo, tinh tế. Mỗi người
đều là người nghệ sĩ trong chính công việc của mình. Không những sắt son, nghĩa
tình mà còn tinh tế, khéo léo, đây cũng chính là nét đáng yêu, để thương, để nhớ
trong lòng người ra về
Không chỉ dừng lại ở sự đa dạng về màu sắc, bức tranh mùa hạ mở ra, đem đến sự
rộn ràng của âm thanh: “ Ve kêu…”. Tiếng ve vang lên báo hiệu mùa hè đã tới, gợi
ra cái náo nức của thời gian qua một dấu hiệu của không gian.

You might also like