You are on page 1of 19

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM

MÔN: KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH

NHÓM 2 - ĐỀ TÀI SỐ 2

1. Hà Ngô Vi Hương
10. Lê Thị Nhiên
2. Bùi Thị Thanh Huyền
11. Phạm Thị Cẩm Nhung
3. Phạm Thị Thu Huyền
12. Bùi Văn Sang
4. Nguyễn Thị Thùy Linh
13. Đào Xuân Sáng
5. Trần Mỹ Linh
14. Nguyễn Thị Thu
6. Nguyễn Thanh Loan
15. Lê Văn Toàn
7. Nguyễn Thị Lương
16. Đặng Minh Tuyến
8. Phạm Ngọc Mỹ
17. Phạm Thanh Tuyền.
9. Trần Thị Ngân

Hà Nội, tháng 07/2021

0
BÀI TẬP NHÓM 2:

Môn: KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH

(Lớp VB2 – K1)

ĐỀ 2:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Linh C và chị Hoàng Thị M

Trú tại xã H, huyện Y, tỉnh Hưng Yên.

Bị đơn: Uỷ ban nhân dân huyện Y

Nội dung vụ án

Năm 2000, bà Nguyễn Linh C được UBND xã H cho sử dụng phần đất giáp
mặt đường liên xã thuộc thôn K, xã H, huyện Y, tỉnh Hưng Yên để làm chỗ buôn
bán. Tháng 7/2011, UBND xã H đã tổ chức thực hiện đấu giá 18 lô đất tại khu vực
giáp mặt đường liên xã thuộc địa bàn thôn K, xã H và có chủ trương cho các gia đình
đang sử dụng đất được mua đất đang sử dụng theo giá khởi điểm do UBND huyện Y
ấn định mà không phải thông qua đấu giá. Vào thời điểm đó, gia đình bà C đang sử
dụng 2 lô đất số 17 và 18, nhưng bà chỉ có điều kiện mua 1 lô đất nên đã để cho gia
đình con gái bà là chị Hoàng Thị M và con rể là anh P tham gia mua 1 lô đất thuộc
tiêu chuẩn của mình. Gia đình chị M mua 1 lô đất số 17 và có diện tích là 150m2 và
gia đình chị M đã nộp 150.000.000 đồng tiền đấu giá đất, bà C mua 1 lô đất số 18 có
diện tích là 150m2 và đã nộp 170.000.000 đồng tiền đấu giá (Lô đất số 18 của bà ở
ngoài cùng giáp 2 mặt đường nên xã thu thêm 20.000.000 đồng).

Việc đấu giá đất đã được UBND huyện Y ra quyết định Công nhận kết quả
trúng đấu giá quyền sử dụng đất ngày 29/09/2011. UBND phường MK đã giao đất
trúng đấu giá cho bà C và gia đình chị M anh P tại thực địa, người giao trực tiếp đất
đấu giá là ông Hà - Cán bộ địa chính xã H, khi giao đất ông không lập biên bản giao
1
mốc giới. Ngay sau đó, gia đình chị M và gia đình bà C xây tường xung quanh mốc
giới được giao. Đến năm 2014, bà C có xây dựng một ngôi nhà 2 tầng và cửa hàng
kinh doanh trên lô số 18. Ngày 15/7/2014 UBND thành phố H đã cấp GCNQSD đất
số BA 225159 cho người sử dụng đất là gia đình anh chị M diện tích đất là 150m2
tại thửa đất số 254 tờ bản đồ số 10 thuộc thôn K, xã H, (thửa đất số 17), đồng thời
cấp GCNQDSD đất số BA 225158 cho người sử dụng là bà C diện tích đất là 150m2
tại thửa đất số 255 tờ bản đồ số 10 thuộc thôn K, xã H (thửa đất số 18).

Ngày 25/10/2017, UBND huyện Y ban hành Thông báo số 160/TB-UBND


với nội dung: Kết luận số 169/KL-TTR của Thanh tra huyện Y kết luận GCNQSD
đất số BA 225158 cấp ngày 17/5/2014 cho bà Nguyễn Linh C diện tích đất là 150m2
tại thửa đất số 255 tờ bản đồ số 10 và GCNQSD đất số BA 225159 cho chị Hoàng
Thị M diện tích đất là 150m2 tại thửa đất số 254 tờ bản đồ số 10 là không đúng vị trí
đất các hộ gia đình đã được UBND xã H giao cho sử dụng từ năm 2012, không đúng
với đối tượng sử dụng đất. Sau 30 ngày, kể từ ngày gửi thông báo mà bà C, chị M
không có khiếu nại thì UBND huyện Y quyết định thu hồi và cấp lại GCNQSD đất
theo quy định của luật đất đai.

Kể từ khi nhận được thông báo số 160/TB-UBND ngày 25/10/2017, ngày


28/10/2017 bà C và chị M đã có đơn khiếu nại. Đến ngày 12/11/2017, Chủ tịch
UBND huyện Y đã ban hành quyết định số 5726/QĐ-UBND về việc giải quyết
khiếu nại lần đầu của bà Nguyễn Linh C và chị Hoàng Thị M với nội dung: Không
công nhận nội dung khiếu nại của bà C và chị M khiếu nại thông báo số 160/TB-
UBND ngày 25/10/2017 của UBND huyện Y.

Ngày 10/12/2017, bà Nguyễn Linh C và chị Hoàng Thị M đã nộp đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

Hủy thông báo kết luận của Thanh tra huyện Y về thẩm tra GCNQSD
đất đã cấp số 160/TB-UBND ngày 25/10/2017 của UBND huyện Y, tỉnh
Hưng Yên.

2
Hủy Quyết định số 5726/QĐ- UBND ngày 12/11/2017 của Chủ tịch
UBND huyện Y về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Linh C và chị
Hoàng Thị M (lần đầu).

Ngày 12/12/2017 TAND tỉnh Hưng Yên đã phân công thẩm phán Đinh Trọng
K giải quyết đơn khởi kiện của bà Nguyễn Linh C và chị Hoàng Thị M. Sau khi xem
xét, đánh giá đơn khởi kiện, ngày 12/12/2017 Thẩm phán K đã ra thụ lý đơn khởi
kiện của bà C và chị M, sau đó đã thông báo cho bà K và chị C biết để họ nộp tiền
tạm ứng án phí và người khởi kiện đã nộp tiền tạm ứng án phí đấy đủ (bà C và chị M
đã nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí vào cùng ngày này). Ngày 16/12/2017,
TAND tỉnh Hưng Yên đã thông báo bằng văn bản cho UBND huyện Y, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án và VKSND tỉnh Hưng Yên
về việc Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án.

Sau khi nhận được thông báo, VKSND đã phân công KSV thực hiện nhiệm vụ
và thông báo cho Tòa án biết. Cụ thể, KSV đã vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát
thông báo thụ lý theo quy định của Luật TTHC năm 2015. Tuy nhiên, trong quá
trình kiểm sát việc thụ lý vụ án, VKSND phát hiện và cho rằng Thông báo số
160/TB-UBND và Quyết định số 5726/QĐ-UBND không là đối tượng khởi kiện của
vụ án hành chính và Tòa án không có thẩm quyền giải quyết vụ án. Vì vậy, căn cứ
theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 143 Luật TTHC năm 2015 dẫn chiếu đến
điểm đ Khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015, vụ án đã bị đình chỉ giải quyết.

BÀI LÀM
3
Tiến hành phân tích và đánh giá tình huống:

I/ Xác định đối tượng khởi kiện:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật TTHC và hướng dẫn tại khoản 1
Điều 1 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/11/2011 của Hội đồng Thầm phán
Tòa án nhân dân tối cao thì quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu
cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức
quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan
hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ
quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức
hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý vụ
việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó)

bao gồm:

Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải
quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.Quyết định hành
chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế,
huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính đã được cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý những việc cụ thể trong hoạt động quản lý
hành chính.

Căn cứ khoản 1 Điều 3 của Luật TTHC và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 Nghị
quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/11/2011 của Hội đồng Thầm phán Tòa án nhân
dân tối cao thì Quyết định số 5726/QĐ-UBND ngày 12/11/2017 huyện Y là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính.
4
Quyết định giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính cũng là đối tượng
khởi kiện vụ án hành chính. Vì quyết định giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành
chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người
có thẩm quyền trong các cơ quan đó ban hành để giải quyết khiếu nại đối với hành vi
hành chính nào đó, nhưng thực chất là quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt
động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng
cụ thể. Như vậy tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án.

Thông báo số 160/TB-UBND của huyện Y ngày 25/10/2017 có chứa đựng nội
dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối
tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà người
khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn
bản thông báo của cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức
trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên
quan đến việc giải quyết, xử lý vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức đó) => do vậy Thông báo số 60/TB-UBND huyện Y cũng là đối tượng khởi
kiện vụ án hành chính và tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án.

Như vậy, VKSND không có căn cứ để cho rằng “Thông báo số 160/TB-
UBND và Quyết định số 5726/QĐ-UBND không là đối tượng khởi kiện của vụ án
hành chính và Tòa án không có thẩm quyền giải quyết vụ án”.

II/ Xác định thời hiệu:

1/ Thời hiệu khiếu nại:

Trong Thông báo số 160/TB-UBND của huyện Y ngày 25/10/2017 có nội


dung: “ Kết luận số 169/KL-TTR của Thanh tra huyện Y kết luận GCNQSD đất số
BA 225158 cấp ngày 17/5/2014 cho bà Nguyễn Linh C diện tích đất là 150m2 tại
thửa đất số 255 tờ bản đồ số 10 và GCNQSD đất số BA 225159 cho chị Hoàng Thị
M diện tích đất là 150m2 tại thửa đất số 254 tờ bản đồ số 10 là không đúng vị trí
đất các hộ gia đình đã được UBND xã H giao cho sử dụng từ năm 2012, không
đúng với đối tượng sử dụng đất. Sau 30 ngày, kể từ ngày gửi thông báo mà bà C, chị
5
M không có khiếu nại thì UBND huyện Y quyết định thu hồi và cấp lại GCNQSD đất
theo quy định của luật đất đai.”

Thực tế, kể từ khi nhận được thông báo số 160/TB-UBND ngày 25/10/2017,
ngày 28/10/2017 bà C và chị M đã có đơn khiếu nại. Như vậy chỉ trong 03 ngày thì
bà C và chị M đã có đơn khiếu nại.

Căn cứ vào Điều 9 Luật Khiếu nại 2011 thì Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính,
hành vi hành chính. Do vậy,Bà C và c M đã gửi đơn khiếu nại theo đúng quy định.

“Đến ngày 12/11/2017, Chủ tịch UBND huyện Y đã ban hành quyết định số
5726/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của bà Nguyễn Linh C và chị
Hoàng Thị M với nội dung: Không công nhận nội dung khiếu nại của bà C và chị M
khiếu nại thông báo số 160/TB-UBND ngày 25/10/2017 của UBND huyện Y.”Căn cứ
Điều 28 Luật Khiếu nại 2011 và Điều 37 Luật Khiếu nại 2011 thì UBND huyện Y đã
ban hành quyết định giải quyết khiếu nại đúng thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy
định của pháp luật

2/ Thời hiệu khởi kiện:

“Ngày 10/12/2017, bà Nguyễn Linh C và chị Hoàng Thị M đã nộp đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy thông báo kết luận của Thanh tra huyện Y về
thẩm tra GCNQSD đất đã cấp số 160/TB-UBND ngày 25/10/2017 của UBND huyện
Y, tỉnh Hưng Yên. Hủy Quyết định số 5726/QĐ- UBND ngày 12/11/2017 của Chủ
tịch UBND huyện Y về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Linh C và chị Hoàng
Thị M (lần đầu).”

Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015, thì bà C và
chị M đã nộp đơn khiếu kiện theo đúng quy định (30 ngày kể từ ngày nhận được
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh).

III/Xác định thẩm quyền giải quyết:

6
Khi kiểm sát việc thụ lý vụ án hành chính cần xem xét có hay không việc
đương sự vừa khởi kiện vụ án hành chính vừa khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại tiếp theo nhưng Tòa án vẫn thụ lý. Theo đó, cần xem xét nội
dung đơn khởi kiện của đương sự có cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hay không (theo quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 118 Luật Tố tụng hành chính năm 2015). Đồng thời, xem xét việc Tòa
án có tiến hành xác minh, thu thập tài liệu về việc đương sự có đồng thời khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải quyết không. Từ đó có căn cứ xác định việc khởi kiện
của đương sự đảm bảo về điều kiện khởi kiện vụ án theo quy định của pháp luật.

Như vậy thì với tình huống cụ thể này thì bà C và chị M không đồng thời gửi
đơn khiếu nại đến UBND huyện Y và gửi đơn khởi kiện đến TAND tỉnh Hưng Yên.

Căn cứ vào Điều 31, khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính 2015 thì thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính thuộc TAND tỉnh như vậy đã đúng thẩm quyền.

IV/Về thu thập tài liệu, chứng cứ, áp dụng pháp luật của Tòa án:

Khi kiểm sát việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án, Kiểm sát viên cần
nghiên cứu kỹ hồ sơ để đánh giá xem việc thu thập chứng cứ của Tòa án có khách
quan, đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định không. Trong đó, cần lưu ý trường
hợp: trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu,
chứng cứ nhưng đương sự chưa cung cấp mà không có lí do chính đáng; sau đó, khi
Tòa án đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì đương sự cung cấp tài liệu,
chứng cứ đó cho Tòa án; nhưng Hội đồng xét xử vẫn sử dụng làm chứng cứ để giải
quyết vụ án. Đây là những vi phạm thường gặp của Tòa án trong quá trình giải quyết
vụ án gây ảnh hưởng đến quyền lợi của một trong các bên đương sự. Kiểm sát viên
khi phát hiện vi phạm này phải kịp thời yêu cầu hoặc kiến nghị đối với Tòa án.

Khiếu kiện liên quan đến đất đai thường phức tạp, kéo dài nên khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án, áp dụng pháp luật, Kiểm sát viên cần chú ý đến thời điểm ban hành
quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu kiện để từ đó xác định
văn bản pháp luật đang có hiệu lực tại thời điểm đó để đánh giá tính có căn cứ, hợp
7
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, về nguyên tắc chung khi áp
dụng văn bản pháp luật theo quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015: “Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt
đầu có hiệu lực; Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra
tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực
trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.

V/ Thụ lý vụ án hành chính:

Cụ thể:

“Sau khi xem xét, đánh giá đơn khởi kiện, ngày 12/12/2017 Thẩm phán K đã
ra thụ lý đơn khởi kiện của bà C và chị M, sau đó đã thông báo cho bà K và chị C
biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí và người khởi kiện đã nộp tiền tạm ứng án phí
đấy đủ (bà C và chị M đã nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí vào cùng ngày này).
Ngày 16/12/2017, TAND tỉnh Hưng Yên đã thông báo bằng văn bản cho UBND
huyện Y, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án và
VKSND tỉnh Hưng Yên về việc Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án.”

Căn cứ Điều 117,118,119,120,121 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì giải
sử quy trình về nộp đơn và tiếp nhận đơn đúng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Điều Điều 125 Luật Tố tụng hành chính 2015 về thụ lý vụ án hành
chính:
“- Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo cho người
khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí; trường hợp người khởi kiện được miễn
nộp tiền tạm ứng án phí hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì thông báo cho
người khởi kiện biết về việc thụ lý vụ án.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án
phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai cho Tòa án.Thẩm
phán thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí.
Trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc không phải
8
nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày Thẩm phán thông báo cho
người khởi kiện biết việc thụ lý. Việc thụ lý vụ án phải được ghi vào sổ thụ
lý.Trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà người khởi kiện mới
nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí thì giải quyết như sau:
+ Trường hợp chưa trả lại đơn khởi kiện thì Thẩm phán tiến hành thụ lý vụ
án;
+ Trường hợp đã trả lại đơn khởi kiện mà người khởi kiện chứng minh được
là họ đã nộp tiền tạm ứng án phí đúng thời hạn quy định, nhưng vì sự kiện bất khả
kháng hoặc trở ngại khách quan nên họ nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho
Tòa án không đúng hạn thì Thẩm phán yêu cầu họ nộp lại đơn khởi kiện, tài liệu,
chứng cứ kèm theo và tiến hành thụ lý vụ án; trường hợp này ngày khởi kiện là ngày
nộp đơn khởi kiện lần đầu;
+ Trường hợp sau khi Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện mới
nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, nếu
không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Thẩm phán yêu cầu họ
nộp lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành thụ lý vụ án; trường
hợp này ngày khởi kiện là ngày nộp lại đơn khởi kiện.Trường hợp hết thời hạn quy
định tại khoản 1 Điều này mà người khởi kiện không nộp cho Tòa án biên lai thu
tiền tạm ứng án phí thì Tòa án thông báo cho họ biết về việc không thụ lý vụ án với
lý do là họ không nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp này, người khởi kiện có
quyền nộp đơn khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.Sau khi Thẩm phán thụ
lý vụ án mà Tòa án nhận được đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan theo quy định tại Điều 129 của Luật này để giải quyết trong cùng một
vụ án hành chính thì ngày thụ lý vụ án được xác định như sau:
+ Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được miễn hoặc không
phải nộp tiền tạm ứng án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày Tòa án nhận được đơn
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng tài liệu, chứng cứ
kèm theo;

9
+ Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp tiền tạm ứng
án phí thì ngày thụ lý vụ án là ngày người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nộp cho
Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí;
+ Trường hợp có nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập thì ngày thụ lý vụ án là ngày Tòa án nhận được đơn yêu cầu độc lập cuối cùng,
nếu họ đều thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí
hoặc là ngày người nộp cuối cùng cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí, nếu
họ thuộc trường hợp phải nộp tiền tạm ứng án phí.Khi nhận biên lai thu tiền tạm
ứng án phí của đương sự thì Tòa án phải cấp cho họ giấy xác nhận về việc nhận
biên lai thu tiền tạm ứng án phí.”
Giả sử các điều kiện theo đúng quy trình của luật. Với trường hợp tình huống
cụ thể này nhà bà C là trường hợp phải nộp án phí theo quy định“ Trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải
nộp tiền tạm ứng án phí và nộp biên lai cho Tòa án.” => người khởi kiện (bà C và
chị M) đã tuân thủ đúng quy định điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí cùng ngày
với Tòa án thông báo thụ lý đơn khởi kiện.
Căn cứ Điều 126 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: Trong thời hạn 03
ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán đã thụ lý vụ án phải thông báo
bằng văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
giải quyết vụ án và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và công
bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Văn bản thông báo phải có các
nội dung chính sau đây:
+ Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo;
+ Tên, địa chỉ Tòa án đã thụ lý vụ án;
+ Tên, địa chỉ của người khởi kiện, người bị kiện;
+ Những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết;
+ Vụ án được thụ lý theo thủ tục thông thường hoặc thủ tục rút gọn;
+ Danh mục tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;

10
+ Thời hạn người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp ý
kiến bằng văn bản về yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo
hoặc yêu cầu độc lập (nếu có) cho Tòa án;
+ Hậu quả pháp lý của việc người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của người khởi
kiện.”
Thực tế ngày VKSND thụ lý vụ án là 12/12/2017. Sau 3 ngày làm việc kể từ
ngày thụ lý vụ ántức là ngày 15/12/2017, Thẩm phán đã thụ lý vụ án phải thông báo
bằng văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết vụ án và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án và công bố
trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), nhưng ngày 16/12/2017, TAND
tỉnh Hưng Yên mới có thông báo bằng văn bản cho UBND huyện Y, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án và VKSND tỉnh Hưng Yên về việc
Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án. Như vậy, TAND tỉnh Hưng Yên đang vi phạm
thời hạn thông báo theo Điều 126 Luật tố tụng hành chính năm 2015.

VI/ Đối với quyết định đình chỉ vụ án hành chính:

“Căn cứ theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 143 Luật TTHC năm 2015
dẫn chiếu đến điểm đ Khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015, vụ án đã bị đình chỉ
giải quyết.”

Như đã phân tích ở phần I thì“Thông báo số 160/TB-UBND và Quyết định số


5726/QĐ-UBND là đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính và Tòa án có thẩm
quyền giải quyết vụ án. Do vậy không thể căn cứ vào các quy định trên để đình chỉ
giải quyết vụ án. Vụ án vẫn sẽ được thực hiện theo các quy định tại luật tố tụng hành
chính 2015.

VII/Một số quy định đối với vụ án hành chính về thu hồi đất:

Khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính liên quan đến thu hồi đất cần
xem xét về thẩm quyền thu hồi đất; trình tự, thủ tục thu hồi đất; xác định các trường

11
hợp thu hồi đất; căn cứ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu
hồi đất. Cụ thể:

a/ Thẩm quyền thu hồi đất:

Khi xác định thẩm quyền thu hồi đất cần căn cứ vào quy định tại Điều 66 Luật
Đất đai năm 2013. Trong đó, nội dung cần chú ý: Đối với trường hợp trong khu đất
thu hồi gồm đất của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, đất của tổ chức thì
thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Do đó, quyết định hành chính do
Ủy ban nhân dân huyện ký ban hành phải được Ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền bằng
văn bản cho Ủy ban nhân dân huyện quyết định thu hồi đất. Nếu không có ủy quyền
bằng văn bản thì quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân huyện được xem là trái
về mặt thẩm quyền.

Như vậy UBND huyện Y sẽ ra quyết định thu hồi đất và cấp lại GCNQSD đất
theo quy định của luật đất đai là không đúng thẩm quyền.

b/ Thẩm quyền được tổ chức đấu giá:

Căn cứ vào khoản 3 điều 59 Luật đất đai năm 2013 có quy định về cơ quan có
thẩm quyền giao đất thì UBND cấp xã, phường không được đấu giá để chuyển
nhượng (bán) đất đai mà chỉ có thẩm quyền cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiêp
sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường. Và thực hiện bán đấu giá phần đất
nông nghiệp trên của UBND xã sẽ tùy thuộc vào việc diện tích đất trên có nằm trong
quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích hay không? Đáp ứng đủ những
điều kiện trên thì UBND xã mới đủ điểu kiện tổ chức đấu giá cho thuê đất.

Căn cứ quy định Khoản 6 Điều 11 Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày


31/12/2017 của Chính phủ và Điểm a Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 151/2017/NĐ-
CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ, đối với đất, nhà, công trình và các tài sản khác
gắn liền với đất là tài sản công và thuộc đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Nghị
định số 167/2017/NĐ-CP thì trường hợp thực hiện bán tài sản trên đất, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thì việc xác định giá khởi điểm được thực hiện theo đúng
quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 24 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.
12
Cụ thể : “Tháng 7/2011, UBND xã H đã tổ chức thực hiện đấu giá 18 lô đất
tại khu vực giáp mặt đường liên xã thuộc địa bàn thôn K, xã H và có chủ trương cho
các gia đình đang sử dụng đất được mua đất đang sử dụng theo giá khởi điểm do
UBND huyện Y ấn định mà không phải thông qua đấu giá”

Như vậy về quy định thì UBND xã đã sai thẩm quyền về việc giao đất đấu giá
bán đất, và UBND huyện ấn định giá khởi điểm mà không qua đấu giá cũng là sai
quy định trên.

c/ Thẩm quyền giao đất:

Giả sử đã thực hiện đúng quy trình đấu giá thì căn cứ vào Điều 13 trong quy
chế kèm theo QĐ số 216/2005/QĐ-TTg ngày 31 tháng 8 năm 2005  của Thủ tướng
Chính phủ về việc Giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người
trúng đấu giá. “1. Căn cứ vào quyết định phê duyệt kết quả đấu giá của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và giấy xác nhận đã nộp đủ tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê
đất của người trúng đấu giá, cơ quan tài nguyên và môi trường trình cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật
đất đai hiện hành.

2. Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Phòng
Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền được
phân cấp có trách nhiệm bàn giao đất trên thực địa, lập hồ sơ đất, cấp hoặc trình cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật và các giấy tờ liên quan khác cho người trúng đấu giá theo đúng
biên bản đấu giá và quyết định giao đất, cho thuê đất, đăng ký  quyền sử dụng đất
và làm các thủ tục cho người được sử dụng đất. 
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định thời hạn thực hiện các nhiệm vụ trên đây
của cơ quan tài nguyên và môi trường phù hợp với quy định hiện hành của pháp
luật đất đai.
3. Quyết định giao đất, cho thuê đất, văn bản đấu giá và các giấy tờ có liên
quan khác là căn cứ để người được giao đất, thuê đất đăng ký quyền sử dụng đất.

13
Thực tế thì “UBND phường MK đã giao đất trúng đấu giá cho bà C và gia
đình chị M anh P tại thực địa, người giao trực tiếp đất đấu giá là ông Hà - Cán bộ
địa chính xã H, khi giao đất ông không lập biên bản giao mốc giới” Như các căn cứ
ở trên thì UBND phường MK không có thẩm quyền giao đất mà Phòng tài nguyên
môi trường của huyện theo thẩm quyền được phân cấp có trách nhiệm bàn giao đất
trên thực địa, lập hồ sơ đất, cấp. Không phải trực tiếp Cán bộ địa chính xã H giao đất
và không lập biên bản giao mốc giới như vậy cũng là sai theo quy định Điều 11
Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 quy định về việc xác định ranh
giới thửa đất, lập bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất. Cán bộ địa chính xã H chỉ
có nghĩa vụ phối hợp cùng phòng tài nguyên môi trường của huyện để đo đạc,
….theo quy định.
d/ Các trường hợp Thu hồi đất và cách thức thu hồi đất:
Căn cứ điểm d khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai quy định: “Giấy
chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất,
không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử
dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của
pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp giấy chứng nhận đó đã thực
hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu gắn liền với đất theo quy định
của pháp luật đất đai”.
Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d
khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của
Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản
có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai”.
Căn cứ khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định về “Thủ tục
thu hồi Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp…
Trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp
luật về đất đai tại điểm d Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai được thực hiện như
sau:
14
Trường hợp cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra có văn bản kết luận Giấy
chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, nếu kết luận đó là đúng thì quyết định thu
hồi Giấy chứng nhận đã cấp; trường hợp xem xét, xác định Giấy chứng nhận đã cấp
là đúng quy định của pháp luật thì phải thông báo lại cho cơ quan điều tra, cơ quan
thanh tra;
Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng
nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật đất đai thì thông báo bằng văn bản
cho cơ quan thanh tra cùng cấp thẩm tra; nếu kết luận là Giấy chứng nhận đã cấp
không đúng quy định của pháp luật thì thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý
do; sau 30 ngày kể từ ngày gửi thông báo cho người sử dụng đất mà không có đơn
khiếu nại thì ra quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp;
Khoản 56 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 03/3/2017 sửa đổi, bổ
sung điểm b và c khoản 4 Điều 87 quy định như sau: “b) Trường hợp cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định
của pháp luật về đất đai thì kiểm tra lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý
do và quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định;
Trường hợp người sử dụng đất phát hiện Giấy chứng nhận đã cấp không đúng
quy định của pháp luật về đất đai thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có trách
nhiệm kiểm tra, xem xét quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy
định của pháp luật về đất đai”.
Như vậy sau khi Cơ quan Thanh tra huyện C đã xác minh và kết luận Giấy
chứng nhận quyền sử không đúng đối tượng sử dụng, đã có thông báo đến người sử
dụng đất thì UBND tỉnh có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo phân tích ở luật trên.
15
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM 2 – LỚP VB2K1


Hôm nay, ngày 10 tháng 9 năm 2021, nhóm 2 lớp VB2K1 tổ chức họp nhóm với
các nội dung sau:
I. THÀNH PHẦN THAM GIA
Nhóm chia thành nhóm nhỏ để sắp xếp phân công công việc cho chi tiết.

16
Nhóm 1 Nhóm 2
1. Hà Ngô Vi Hương 10. Lê Thị Nhiên
2. Bùi Thị Thanh Huyền 11. Phạm Thị Cẩm Nhung
3. Phạm Thị Thu Huyền 12. Bùi Văn Sang
4. Nguyễn Thị Thùy Linh 13. Đào Xuân Sáng
5. Trần Mỹ Linh 14. Nguyễn Thị Thu
6. Nguyễn Thanh Loan 15. Lê Văn Toàn
7. Nguyễn Thị Lương 16. Đặng Minh Tuyến
8. Phạm Ngọc Mỹ 17. Phạm Thanh Tuyền.
9. Trần Thị Ngân
II. NỘI DUNG CÔNG VIỆC
Các thành viên nhóm đã họp và phân công công việc làm bài tập nhóm môn Kiểm
sát việc giải quyết các vụ án hành chính, cụ thể như sau:
STT Nội dung công việc Người thực hiện Ghi chú
1 Tóm tắt nội dung vụ án Nhóm 1

2 Giải quyết tình huống Nhóm 2

3 Nhận xét tình huống Nhóm 1


4 Đánh giá tình huống Nhóm 2
5 Tổng hợp các nội dung bài tập Phạm Thị Cẩm Nhung
Lê Văn Toàn
6 Lập Biên bản, thư kí Đặng Minh Tuyến
7 Chỉ đạo phiên làm việc Phạm Thị Thanh Huyền

III. Ý KIẾN CỦA CÁC THÀNH VIÊN NHÓM: Hoàn toàn đồng ý theo như đã
thống nhất.
THƯ KÝ NHÓM TRƯỞNG

Đặng Minh Tuyến Bùi Thị Thanh Huyền

17
18

You might also like