You are on page 1of 30

TẬP HỢP MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG

ĐẠI
 Giới thiệu về văn học trung đại.
 Giới thiệu hình tượng người phụ nữ trong giai đoạn này. 
 Hình ảnh người phụ nữ mang vẻ đẹp về ngoại hình, tài năng, nhân cách.
 Người phụ nữ chịu nhiều bi kịch và những đắng cay của cuộc đời
 Người phụ nữ ý thức về phẩm giá của mình và có khát vọng vươn lên.
 Khái quát vẻ đẹp tâm hồn và cốt cách cao đẹp của những người phụ nữ.
 Đánh giá về hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn học trung đại. 
 Tấm lòng nhân đạo của các nhà văn nhà thơ khi viết về họ.
 Cảm nghĩ của bản thân về cuộc sống của những người phụ nữ xưa.
Phần 1. Giới thiệu về bối cảnh xã hội
Để tìm hiểu về hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại, trước tiên ta cần nắm được
bối cảnh xã hội thời bấy giờ.
Có thể thấy, thời kì văn học trung đại là phân khúc đầu tiên của ba thời kì phát triển của văn học
viết Việt Nam. Nó bắt đầu hình thành và phát triển trong khoảng mười thế kỉ (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX)
trong bối cảnh văn hóa, văn học vùng Đông Á, Đông Nam Á có quan hệ với nhiều nền văn học trong khu
vực. Trong thời kì này, các nhà văn, nhà thơ cũng làm rất tốt vai trò của người phản ánh hiện thực
cuộc sống, bên cạnh đó còn thể hiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với quan hệ
quốc gia dân tộc, với xã hội và với chính bản thân mình. 
Để làm tròn những vai trò ấy, các tác giả đã cố gắng đặt tác phẩm của mình vào trong bối cảnh
xã hội. Đối với văn học trung đại, khi đặt vào phông nền của thế kỉ X – đến hết thế kỉ XIX, các nhà văn,
nhà thơ đã tái hiện khá chân thực về một giai đoạn mà lịch sử, xã hội có rất nhiều biến động.
Ở thế kỉ X, sự kiện Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với lịch sử Việt Nam. Sự kiện đã giúp kết thúc ngàn năm đô hộ của giặc phong kiến
phương Bắc, chính thức mở ra một thời kì độc lập, tự chủ cho dân ta. Về mặt chính trị, trong giai đoạn
này chế độ phong kiến Việt Nam ra đời và phát triển và mang đặc trưng của thời kì tam giáo đồng
nguyên đã góp phần thiết lập bộ máy quản lí nhà nước có chính sách và quy củ. 
Tuy nhiên, sau chiến thắng oanh liệt của vị tướng tài nhà Ngô, dân ta không chỉ dốc sức trong việc
xây dựng đất nước mà lại phải tiếp tục hành trình rất dài trên sự nghiệp phá Tống, bình Nguyên, đuổi
Minh với rất nhiều gian khó về sau.
Sang thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII, nhà nước phong kiến triều Lê được ra đời và tồn tại rất thịnh trị
trong lịch sử nước nhà. Nhà Lê lấy Nho giáo làm tôn chỉ để xây dựng chế độ nhưng đến thế kỉ XVIII thì có
dấu hiệu khủng hoảng và sụp đổ không lâu sau đó. Từ thế kỉ XVII, sau sự kiện hai tập đoàn phong kiến
đàng Trong - đàng Ngoài và quân xâm lược Xiêm, Thanh bị đánh bại bởi nghĩa quân Tây Sơn, nhà Tây
Sơn lên nắm quyền nhưng sau đó lại bị lật đổ bởi nhà Nguyên. Những tưởng dân ta sẽ được bình yên
sau đó nhưng sự thật thì ở giai đoạn cuối thế kỉ XVII, những vua Nguyễn lại ăn chơi xa xỉ khiến cho đời
sống nhân dân vô cùng khổ cực, lầm than. Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX đã cho thấy sự suy tàn rõ rệt
của chế độ phong kiến nhưng lại chưa sụp đổ hoàn toàn. Sau đó, việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược,
1
người dân phải sống trong cảnh đất nước có sự tồn tại của chế độ xã hội nửa phong kiến nửa thực dân.
Như vậy có thể thấy, song hành cùng với những biến động của lịch sử, văn học Việt Nam trong giai
đoạn này cũng sẽ phần nào cho thấy bức tranh về đời sống của con người Việt Nam. Đó là một cuộc
sống hiện hữu sự kiên cường, bất khuất của dân tộc với tinh thần yêu nước mạnh mẽ nhưng cũng đầy
rẫy những bất hạnh, đau thương và mất mát đối với con người. 
Đặc biệt với người phụ nữ, họ không chỉ phải đối diện với hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt mà còn bị
áp bức bởi những thế lực tàn bạo trong xã hội, mặc dù vậy họ vẫn cho thấy những nét đẹp cao quý của
bản thân. Điều này sẽ được thể hiện qua ngòi bút của nhiều tác giả của thời đại nhưng tiêu biểu nhất có
thể kể đến là trang viết của các tác giả như Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương…

Phần 2.Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại qua một số tác phẩm

Người phụ nữ mang vẻ đẹp về ngoại hình, tài năng, nhân cách
Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại mang vẻ đẹp ở cả ngoại hình lẫn tài năng và nhân
cách. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Nương đã được tác giả thái độ rất trân trọng khi dành
những lời giới thiệu về nàng đầy thiện cảm: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy
mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chính vì những nét đẹp đó của Vũ Nương mà Trương Sinh đem
lòng yêu mến và “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Qua lời giới thiệu của tác giả, có thể cảm nhận
được vẻ đẹp của Vũ Nương rất đỗi thuần khiết, trong sáng, nàng xuất hiện như một mẫu hình, mực
thước của vẻ đẹp người con gái truyền thống trong quan niệm của dân tộc Việt Nam. 
Đến với trang thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại lại được
đặc tả bằng những nét vẽ hoàn mĩ, tràn đầy sức sống: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Chỉ với hai tình
từ “trắng”, “tròn”, nữ sĩ Xuân Hương cũng phác họa một bức chân dung của người phụ nữ với vẻ đẹp
viên mãn, đầy đặn. Trong một tác phẩm khác, bà cũng lại một lần nữa tái hiện nét đẹp sáng tươi, trong
trắng của người con gái không rõ bao nhiêu tuổi mà cứ thấy ngời lên sắc xuân xanh:
“Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.”
(“Đề nhị mỹ nhân đồ” – Hồ Xuân Hương)
Khi đề cập tài năng miêu tả vẻ đẹp chân dung, thật thiếu sót nếu không kể đến Nguyễn Du vì thông
qua những dòng mở đầu ông viết về hai nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều, thật sự đại thi hào đã để lại trình
diện trước mắt người đọc tuyệt phẩm của vẻ đẹp. Vân đã rạng ngời:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Kiều lại càng thêm bừng sáng:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:

2
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.”
Không chỉ đẹp về ngoại hình, nhân vật nữ của văn học trung đại còn đẹp về nhân cách lẫn tài
năng, đây mới là những điều khiến nét vẽ về bức chân dung của người phụ nữ trở nên hoàn thiện.
Chẳng hạn như trong lời giới thiệu về Vũ Nương, tác giả cũng đã giới thiệu về tính cách của Vũ Nương
trước khi nhắc đến “tư dung tốt đẹp” của nàng. Trong “Bánh trôi nước”, hình ảnh người phụ nữ trong văn
học trung đại hiện lên với nhân cách về sự son sắt, thủy chung, trước sau như một được thể hiện bằng
câu thơ: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Và những nét đẹp về những người phụ nữ này cũng thường đi
liền với tài năng của họ mà Thúy Kiều chính là một trong những gương mặt đại diện của sự toàn sắc,
toàn tài, bao gồm cả cầm, kì, thi, họa:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.”

Người phụ nữ chịu nhiều bi kịch, đắng cay của cuộc đời
Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn hiện lên với qua bi kịch “hồng nhan bạc phận”.
Dù xinh đẹp, tài năng và có những phẩm chất quý giá, thế nhưng họ cũng là nạn nhân của biết bao bi
kịch cuộc đời để rồi phải ngậm đắng, nuốt cay. Đó là bi kịch của chế độ xem trọng nam giới, còn nữ nhi
xếp vào thứ yếu. Thế nên trong hôn nhân, họ phải chịu sống kiếp làm lẽ và hạnh phúc trọn vẹn đối với họ
mà nói dường như chỉ là một định nghĩa quá mong manh. 
Họ cũng hiểu, số phận đó không chỉ của riêng một người nào mà là số kiếp chung của tất cả những
người phụ nữ khi sống trong xã hội trọng nam, khinh nữ. Họ không trách những người phụ nữ khi chia
sớt hạnh phúc của mình, có trách là trách quan niệm của lễ giáo khắc nghiệt:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công”
(“Lấy chồng chung” – Hồ Xuân Hương)
Nếu được chồng yêu thương, thì họ lại phải chịu cảnh xa cách, chia lìa bởi hoàn cảnh chiến tranh.
Ngày tiễn biệt thấy sao đầy lưu luyến:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”
(“Chinh phụ ngâm” – Đặng Trần Côn)
Với người phụ nữ, khi được sống trong sung túc nhưng hạnh phúc chỉ là những gì chắp vá, tạm bợ
thì họ cũng chẳng thiết tha. Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn hiện lên với người cung
nữ trong tác phẩm của Nguyễn Gia Thiều. Dù sống trong nhung lụa nhưng đối với họ đó lại là những
tháng ngày vô cùng buồn bã, cô đơn vì sự lạnh lùng, ruồng bỏ của vua. Tuổi xuân của họ cứ hết ngày
này qua tháng khác bị chôn vùi trong cung cấm với nỗi hờn tủi, xót xa:

3
“Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.”
“Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhị vàng.”
(“Cung oán  ngâm” – Nguyễn Gia Thiều)
Và sau khi tiễn người chinh phu trong quyến luyến, người chinh phụ hiện lên với tâm trạng cô đơn,
lẻ loi đằng đẵng. Không ai có thể chia sẻ nỗi lòng cùng nàng, trong gian phòng đầy ắp những thổn thức,
nhớ thương chỉ còn một ngọn đèn leo lét bầu bạn nhưng cũng không thể giúp nàng khôn nguôi nỗi nhớ:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
(“Chinh phụ ngâm” – Đặng Trần Côn)
Người chinh phu có ra đi, nhưng dẫu sao cũng còn có thể hi vọng có ngày trở về cùng người vợ
yêu quý trong đoàn viên. Còn Vũ Nương trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nàng đã đợi được
ngày vợ chồng đoàn tụ sau những ngày dài chồng đi tòng quân nơi xa xứ, nhưng hạnh phúc lại “ngắn
chẳng tày gang” khi Trương Sinh là một người chồng nghi ngờ tiết hạnh của nàng. Mặc cho Vũ Nương
hết lời minh oan nhưng Trương Sinh vẫn sắt đá không hề lay chuyển. Chính vì vậy, nàng phải tìm đến cái
chết như một sự chứng giám cho phẩm giá trong sạch của mình. 
Hình ảnh người phụ nữ trong văn học trung đại còn thể hiện qua những lời tự sự về cuộc đời Kiều
qua những trang viết của Nguyễn Du, ta càng đau đớn hơn khi nàng phải sống lưu lạc đến tận mười lăm
năm trời, tiếc nuối hơn đó là mối tình như hoa như mộng của nàng với Kim Trọng phải chịu cảnh trâm gẫy
gương tan. Bi kịch của Kiều là bi kịch được tạo nên bởi sự dồn đuổi của các thế lực độc ác, nhẫn tâm của
xã hội nàng sống. Xã hội đầy áp bức, bất công đó đã khiến cho nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn
mất đi niềm hạnh phúc mà nàng xứng đáng có được. Để rồi, sau ngần ấy năm hi sinh vì gia đình, ngần ấy
năm tủi nhục, ngày nàng trở về, trong nàng luôn có sự dằn vặt, đau đớn khi nhận hết mọi lỗi lầm phụ bạc
người yêu về phía mình. Tình yêu đẹp đẽ một thời tuổi xuân, nay nàng xin chàng hãy xem là duyên “cầm
cờ”. Những lời Kiều nói về phận đời của mình với Kim Trọng nghe mà nghẹn ngào, chua xót:
“Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua, bướm lại, đã thừa xấu xa.
Bầy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan?
Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?”
(Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Người phụ nữ ý thức về phẩm giá của mình và có khát vọng vươn lên 
Dù bị bi kịch cuộc đời bủa vây có những lúc tưởng chừng như không còn lối thoát nhưng ở những
người phụ nữ trong văn học trung đại vẫn luôn cho thấy ở họ có một ý thức sâu sắc về phẩm giá của
mình cũng như khát vọng vươn lên để có được một cuộc sống tươi sáng hơn. Hình ảnh người phụ nữ
trong văn học trung đại với vẻ đẹp ấy còn sáng lên qua nàng Kiều trong lần bị đưa đến nhà chứa của Tú
Bà, tình cảnh trớ trêu khiến nàng phải sống và chứng kiến cảnh “bướm lả ong lơi”, Kiều đã khóc thương

4
cho bản thân mình:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.”
Và mặc cho lớp bùn hôi tanh có vùi dập, Kiều vẫn giữ vững tấm lòng sáng trong, tâm hồn thanh
khiết:
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”
Còn người cung nữ nơi cung cấm, ý thức về thân phận, về phẩm giá đôi khi như có lúc như hóa
thành hành động muốn tự tháo cũi sổ lồng để giải thoát cho bản thân:
“Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!”
Đó là ước vọng, mong muốn chính đáng và thông qua hành động ấy, người phụ nữ như đã cất lên
tiếng nói phản kháng trước những thế lực tàn nhẫn đã vùi hoa, dập liễu, khiến họ phải sống trong những
tháng ngày triền miên đau thương, tủi hổ.

Đánh giá chung:


Bằng những sáng tác cả về chữ Hán và chữ Nôm, bằng những thể loại đa dạng (truyện, thơ, ngâm
khúc…), nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật, các tác giả đã gửi gắm vào nhân vật của mình niềm thương
cảm, chia sẻ với những đớn đau, tủi nhục mà họ phải gánh chịu. 
Không chỉ vậy, các nhà văn, nhà thơ còn bày tỏ sự trân trọng những vẻ đẹp quý giá của họ. Đó là
vẻ đẹp về cả ngoại hình, tài năng, nhân cách và đặc biệt hơn cả là dù sống trong hoàn cảnh như thế nào,
họ vẫn cho thấy ở họ có một ý thức sâu sắc về thân phận của mình và khát vọng vươn lên để có được tự
do và hạnh phúc.
Tóm lại, thông qua những nhân vật nữ, các tác giả văn học trung đại đã thể hiện tinh thần nhân đạo
sâu sắc, đặc biệt là việc họ quan tâm đến số phận của con người trong hoàn cảnh trớ trêu, nghiệt ngã.
Qua hình tượng người phụ nữ, họ đồng thời cũng cất lên tiếng nói tố cáo thế lực tàn bạo chà đạp lên
hạnh phúc con người và ca ngợi những vẻ đẹp đạo đức quý giá mà đến mãi muôn đời, thiết nghĩ vẫn sẽ
được gìn giữ, trân trọng.

Tư liệu 2.
Bối cảnh xã hội phong kiến xưa
Xã hội Việt Nam từ thế X đến nửa đầu thế kỷ XIX có nhiều chuyển biến mạnh mẽ về chế độ xã hội,
kinh tế, giáo dục, văn hóa. Một trong những thay đổi quan trọng nhất chính là sự xuất hiện của chế độ
phong kiến cùng với hệ tư tưởng Nho giáo. Hệ tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi phương
diện của cuộc sống, đặc biệt là người phụ nữ.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ phải gánh chịu nhiều bất công của quan niệm “trọng nam
khinh nữ”. Họ không được quyền quyết định cuộc đời mình. Tất cả mọi giá trị, nhân sinh quan của người
phụ nữ bị bó buộc trong “tam tòng tứ đức”. (Giải thích: Tam tòng = tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử; tứ đức = công,dung, ngôn , hạnh) Người phụ nữ không được học hành cũng không được

5
tham gia bàn bạc quyết định mọi việc từ lớn đến nhỏ, từ cuộc đời mình đến việc nhà việc nước. Có thể
thấy, thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị gò bó cả về tinh thần lẫn thể xác.
Chính vì thế, cuộc sống của họ chỉ quẩn quanh chốn khuê phòng, quẩn quanh với “cầm, kỳ, thi,
họa” hay chuyện “nữ công gia chánh”. Sự bó buộc của quan niệm xã hội đã khiến người phụ nữ rơi vào
nhiều bi kịch. Đó cũng là lý do quan trọng khiến văn học giai đoạn này thường đề cập đến thân phận
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Tìm hiểu thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua một số tác phẩm
Nhắc đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nguyên nhân dẫn đến bi kịch chính của
cuộc đời người phụ nữ đó chính là tư tưởng nam quyền, “trọng nam khinh nữ”. Trong xã hội, điều này
được hiện thực hóa qua các chuẩn mực khắt khe đối với người phụ nữ. Còn trong văn học, điều đó được
thể hiện qua những lời thơ đầy chua xót, đắng cay về thân phận người phụ nữ của các tác giả văn học.
Số phận người phụ nữ khi là nạn nhân của xã hội phong kiến
Từ việc tìm hiểu thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ta thấy họ có thể làm được nhiều
việc lớn cho đất nước xã hội. Nhìn vào lịch sử ta vẫn còn thấy những chiến công, sự hi sinh anh dũng của
biết bao nữ anh hùng. Nhưng trong quan niệm Nho giáo, xã hội lại không đề cao vai trò của người phụ
nữ. Họ sống chỉ như cái bóng bên cạnh người đàn ông. Dù tài sắc đến đâu, dù thông minh đến đâu thì họ
cũng không có cơ hội phát huy, bởi “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô”. Hay chính Tú Xương cũng cảm
thấy bất lực trước tình cảnh hiện tại của mình và hoàn cảnh của vợ. 
Đọc bài thơ Thương vợ của Tú Xương, ta thấy hình ảnh Bà Tú vất vả biết mấy: 
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
(Thương vợ)
Chua chát, cay đắng hơn khi bà Tú mưu sinh không chỉ vì “năm con” mà còn vì chồng. Tú Xương
thương vợ và cũng ý thức được hoàn cảnh của mình – quan tại gia, “ăn lương vợ”. Nhưng ngặt vì định
kiến xã hội, ông không thể làm gì cả không thể làm thầy đồ vì không hợp tính cách, không thể ra phụ giúp
công việc buôn bán của vợ vì định kiến trói buộc kẻ sĩ. Càng ý thức được thực tại thì càng bất lực, một
vòng bi kịch luẩn quẩn không sao thoát khỏi. Khi phân tích thân phận người phụ nữ trong xã hội phong
kiến qua hình ảnh bà Tú, ta không khỏi nghẹn ngào.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến với tư tưởng trọng nam khinh nữ
Từ tư tưởng “nam tôn nữ ti” (trọng nam khinh nữ) dẫn đến nhiều bi kịch nối tiếp của thân phận
người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Sự bất công lên đến đỉnh điểm khi người phụ nữ không có quyền
tự chủ đối với cuộc đời mình. Họ không có quyền định đoạt làm chủ cuộc đời mình ngay cả hạnh phúc cả
đời người – tình yêu và hôn nhân họ cũng không được quyết định. Đó là lời hát than thân của người phụ
nữ trong ca dao
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

6
(Ca dao)
Mở đầu “thân em” là một mô-típ quen thuộc trong ca dao, gợi âm điệu xót xa, ngậm ngùi. Cụm từ
“thân em” gợi nhắc đến thân phận người phụ nữ. Đây cũng là lời chung của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Hình ảnh so sánh “tấm lụa đào” cho thấy người con gái ý thức sắc đẹp, tuổi xuân, giá trị của
bản thân mình. Từ láy “phất phơ” gợi chỉ sự chuyển động trong gió, và đó cũng chính là số phận người
phụ nữ mong manh, chông chênh không có một điểm tựa vững chắc. “Chợ” là nơi kẻ qua người lại,
người tốt lẫn kẻ xấu. tiếc thay cho một tấm lụa đẹp, dù giá trị đến mấy nhưng lại không được lựa chọn
bến đỗ chỉ có thể mãi là một món hàng chờ người đến mua.
Nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ta thấy Hồ Xuân Hương lại ví von họ với
hình ảnh chiếc thuyền.
Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Giong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
(Tự tình III)
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng bấp bênh như chiếc thuyền kia. Chỉ có thể
bất lực buông xuôi nhìn dòng đời xô đẩy. Từ đó nói lên một cách thấm thía nỗi đau của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến thân phận bị phụ thuộc, giá trị không ai biết đến. Dù làm việc vất vả, chịu mọi khó
nhọc nhưng mọi việc người phụ nữ làm không được đánh giá cao – đó là những bổn phận mà người phụ
nữ buộc phải thực hiện.
Đồng cảm với điều đó, các tác giả trung đại đã lên tiếng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người phụ
nữ.
Nguyễn Dữ ngợi ca tấm lòng thủy chung của Vũ Nương. Khi tìm hiểu về giá trị nội dung và nghệ
thuật của truyện Kiều, ta thấy Nguyễn Du đã khắc họa Thúy Kiều với vẻ đẹp của chữ hiếu “làm con
trước phải đền ơn sinh thành”, sự chung tình của nàng với Kim Trọng. Hay trong góc nhìn của Hồ Xuân
Hương, thân phận người phụ nữ có những nét tương đồng với hình ảnh “bánh trôi nước”. 
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(Bánh trôi nước)
Hồ Xuân Hương không miêu tả một cách dửng dưng, lạnh nhạt mà luôn trải lòng, hóa thân vào đối
tượng để tiếp cận, để thấu hiểu sẻ chia. Trong cách miêu tả của nhà thơ, chiếc bánh trôi dường như đã
trở thành một thân phận nhỏ bé, gần như bị động chịu sự xô đẩy của cuộc đời.Sự xuất hiện của thành
ngữ “bảy nổi ba chìm” đã gợi ra thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là một cuộc đời
thăng trầm, liên kết với hình ảnh câu thơ trên gợi ra số phận nhỏ bé, bất công của người phụ nữ. Điều
này đã được nói đến rất nhiều trong ca dao. Nhưng nếu trong ca dao chỉ dừng lại ở việc than trách thân

7
phận thì Hồ Xuân Hương lại thể hiện cá tính mạnh mẽ đầy ý thức bản lĩnh cá nhân. Người phụ nữ không
được tự làm chủ cuộc đời, họ đành cam chịu, phó thác cho số phận. Cái duy nhất họ làm chủ được là
tấm lòng mình. Lời khẳng định mạnh mẽ ấy được thể hiện qua kết cấu tương phản “Dù…nhưng”. Mặc
dầu trong tay kẻ nặn, trong thế bị động, vẻ ngoài có thể thay đổi nhưng tấm chân tình ấy mãi không thay
đổi. Đưa cái trạng thái bên ngoài “rắn nát” đối lập với tính chất “tấm lòng son” bên trong, nhà thơ đã
khẳng định: người phụ nữ sẽ vẫn giữ sự thủy chung trước mọi phong ba của cuộc đời. Một lời nói thể
hiện niềm tự hào về phẩm chất, thủy chung của người phụ nữ. Chính cách diễn đạt này đã thể hiện khát
khao giữ gìn, vươn tới cái đẹp, cái thiện của người phụ nữ.
Bên cạnh đó, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” lại dẫn đến một bi kịch khác của người phụ nữ
– bi kịch của tình yêu dở dang, bi kịch kiếp “chồng chung” và cũng chính là một trong những bi kịch
của thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Việc “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ
có một chồng” đè nặng khiến người phụ nữ không thể có được một tình yêu trọn vẹn viên mãn. Họ đã
không được quyền quyết định nghe theo trái tim, nay càng đau đớn hơn khi phải san sẻ mối tình của
mình với kẻ khác. Trong tình yêu, ai cũng muốn ích kỷ không muốn chia sẻ dù chỉ là “mảnh tình san sẻ tí
con con”. Nhưng người phụ nữ trong xã hội phong kiến lại phải chia sẻ chồng mình với người khác.
Trong đời Hồ Xuân Hương đã thực sự đôi lần làm lẽ, nữ sĩ sẽ càng cay đắng bởi chính mình là một
người có tài năng cũng như có ý thức sâu sắc về giá trị bản thân. Nữ sĩ đã cay đắng lên tiếng, có thể vừa
cho chính thân phận mình, cho cả những người cùng cảnh ngộ.
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
(Làm lẽ)
Một lời “chém cha” thốt ra như chứa đựng biết bao nhiêu oán hờn, đau đớn và cũng đủ cho thấy cái
“kiếp chồng chung” bất công và đắng cay thế nào với người phụ nữ. Nỗi niềm cô đơn ấy không sao kể
xiết.
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn.
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
(Tự tình II)
Nỗi cô đơn ấy bủa vây tràn ngập cả không gian và thời gian. Hạnh phúc tưởng chừng sẽ đến nhưng
rồi cuối cùng cũng chỉ là “vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Thời gian dần trôi, tuổi xuân của người
phụ nữ cũng vơi dần theo năm tháng nhưng cuối cùng nhìn lại chỉ còn một mình nàng trơ trọi, cô độc
giữa không gian. Có thể thấy, thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến thật xót xa biết bao. Cô
độc, đắng cay nhìn tuổi trẻ trôi qua, nhìn bóng hình mình phai tàn – “trơ cái hồng nhan với nước non”.
Mượn men rượu để quên đi nỗi sầu tủi hiện tại nhưng men rượu chỉ khiến nàng thêm quặn thắt cõi lòng.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu kiếp chồng chung, san sẻ tình yêu đầy đau
đớn.

8
Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi là những người tài hoa bạc mệnh
Trong văn học trung đại Việt Nam, các tác giả còn hướng ngòi bút của mình đến với thân phận
người phụ nữ trong xã hội phong kiến – những con người “tài hoa bạc mệnh” bị cuộc sống vùi dập. Đây
cũng là một đối tượng được Nguyễn Du dùng hết cái tài, cái tâm của mình để sáng tác. Những hình ảnh
ấy cứ trở đi trở lại trong thơ của Nguyễn Du.
Đó là nàng Tiểu Thanh trong “Đọc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du. Đọc Tiểu Thanh Kí đã khắc họa
rõ nét về cuộc đời của nàng Tiểu Thanh có tài có sắc nhưng lại làm vợ lẽ người khác và sống một cuộc
sống đau buồn, đầy những nỗi uất ức. Bản thân cuộc đời Tiểu Thanh đã làm cho Nguyễn Du nảy sinh mối
đồng cảm vô hạn trước số phận nghiệt ngã và tiếng lòng ấy được bật lên thành lời thơ.
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Đọc Tiểu Thanh kí)
“hoa uyển’ trong câu đầu là vườn hoa, là tượng trưng cho quá khứ và quãng thời gian thanh xuân
tươi đẹp. ‘Tận thành khư’ là tất cả hóa thành bãi hoang tàn, là sự biến hóa của thời gian trước dòng đời
tấp nập. Ở ngay câu đầu tiên, Nguyễn Du đã mượn hình ảnh của không gian nơi Tiểu Thanh từng sống
để nói lên cảm nhận của chính ông về những biến đổi của thời gian. Tây Hồ là nơi cảnh đẹp hữu tình
nhưng lại hóa gò hoang vắng, heo hút vì có một người con gái đã mãi mãi chôn vùi tuổi thanh xuân của
mình ở đây. Sự biến thiên dâu bể của cuộc đời không sao có thể đoán định được, cảnh đẹp ngày xưa
nay chỉ còn là phế tích, chỉ còn lại dấu ấn về một thời đã qua.Từ ‘Độc’ có nghĩa duy nhất, đơn độc. Còn
cụm ‘Nhất chỉ thư’ là một quyển sách, một tập giấy còn sót lại. Trong không gian điêu tàn, Nguyễn Du
xuất hiện với dáng vẻ hững hờ và đồng thời cũng thể hiện sự lắng sâu trầm tư trong những nét cô đơn.
Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc những tập sách về cuộc đời nàng Tiểu Thanh tội nghiệp. Một mình đối
diện trước sự bất lực của nàng Tiểu Thanh về số phận của chính mình. Sự tồn tại của con gái tài sắc một
thời chỉ được biết đến qua một tập sách, phần dư còn sót lại khiến ông không thể không bật lên những
nỗi xót thương cho nàng. Xưa Tiểu Thanh luôn cô độc đến lúc mất, nay Nguyễn Du cũng viếng nàng một
mình bên khung cửa thể hiện sự thông hiểu sâu sắc của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh. Câu thơ là sự
đồng cảm giữa hai tâm hồn cô đơn. Thời gian và không gian không thể ngăn cách được tấm lòng “Đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Nguyễn Du khóc cho Tiểu Thanh cũng chính là khóc thương
cho chính số phận cay đắng, đau khổ của chính mình. Đây cũng là số phận điển hình về thân phận
người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Thương thay cho những tấm hồng nhan bị người đời ghẻ lạnh,
những con người đã hiểu rất rõ về giá trị của bản thân nhưng lại phải bất lực trước sự chông gai trên
đường đời.
Ta thấy rõ sự khắc nghiệt của xã hội đối với những người tài hoa và mong muốn khát khao hạnh
phúc của họ. Như những câu thơ đau đớn mà Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều. Thúy Kiều là
người con gái tài sắc vẹn toàn
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

9
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
(Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, Truyện Kiều)
Nhưng cuối cùng trước những giông tố của cuộc đời nàng phải đành chính tay dập tắt mối tình đầu
mới chớm với Kim Trọng và bắt đầu chuỗi ngày lưu lạc đầy bi kịch.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến


khi là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa
Cảm nhận Chinh phụ ngâm, ta thấy thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến khi còn là
nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Khi nhắc đến chiến tranh người ta thường quan tâm đến số phận, sự
hi sinh của người lính nơi chiến trường biên ải xa xôi, nhưng các tác giả trung đại còn quan tâm đến số
phận của người chinh phụ.
Đầu đời Lê Hiển Tông, phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi
dẹp loạn. Điều đó dẫn đến việc nhiều gia đình rơi vào cảnh ly biệt kẻ ở người đi, vợ mất chồng, mẹ mất
con. Số phận và bi kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực
thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn. Để từ đó, ông viết nên tác phẩm “Chinh phụ ngâm”.
Người chinh phụ chỉ có thể chờ đợi trong mỏi mòn, hi vọng rồi lại tuyệt vọng.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
(Chinh phụ ngâm)

Thời gian được lặp lại đều đặn, đơn điệu trong vòng tròn của sự nhớ nhung đợi chờ từ đêm gà gáy đến
ngày bóng hòe. Dịch giả đã dùng rất thành công từ láy “eo óc” và “phất phơ”.  “Eo óc” là từ láy tượng
thanh gợi tả âm thanh buồn bã, gợi cảm giác vắng vẻ, tịch mịch. Còn “phất phơ”là từ láy tượng hình gợi
tả hình ảnh thưa thớt gợi cảm giác cô đơn, trống trải. Hai từ láy không chỉ gợi tả được không gian mà còn
gợi tả được tâm trạng, hoàn cảnh của người chinh phụ. Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trông
ngóng người chinh phu, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, buồn rầu. Cái âm thanh “eo
óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên khô khốc đối lập với sự tĩnh
lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng không mênh mông, hiu quạnh,
khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương.
Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau
đớn hơn, cô độc hơn. Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ“ cũng khiến
người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh
phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về bi kịch đời mình – về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong
kiến.
Cảnh đó nhưng người xưa giờ nơi đâu lựa có thể quay về bên nhau như ngày xưa. Có thiên nhiên,
có âm thanh nhưng bức tranh ấy không tươi vui mà đầy những màu sắc mơ hồ, u ám như chính tương lai
của nàng. Nỗi buồn của nàng đã thấm vào cảnh vật hay chính cảnh vật khơi gợi những nỗi buồn trong
lòng nàng. Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những
thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ.

10
Từ láy “Đằng đẵng” gợi thời gian kéo dài lê thê vô thủy vô chung. Còn “Dằng dặc” thì gợi không
gian mênh mông vô cùng tận. Không gian và thời gian không còn mang tính cố định của không thời gian
vật lý mà mở ra theo chiều kích của nỗi nhớ. Đó là không gian thời gian tâm trạng của người chinh phụ.
Với nghệ thuật so sánh kết hợp với việc vận dụng từ láy, từng cặp đối tượng hiện lên “khắc giờ” với
“niên”, “mối sầu” với “miền biển xa”.
Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi
của nàng. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài
“đằng đẵng”. Trong những ngày tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân dang dở,
về cuộc đời không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Nỗi buồn của
người chinh phụ càng triền miên, không có hồi kết.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến còn là nàng Vũ Nương trong Chuyện người con
gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Khi Trương Sinh tòng quân đi lính, một mình nàng phải quán xuyến mọi
việc nhà chăm lo cho cả mẹ chồng và con. Một mình nàng vừa làm cha vừa làm mẹ. Đến khi chồng trở
về, những tưởng nàng sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn nhưng chỉ vì bản tính đa nghi gia trưởng của
chồng mà cuối cùng gia đình nàng vun vén bấy lâu lại tan vỡ. Nàng nguyện dùng cái chết để chứng minh
sự trong sạch của bản thân cho thấy được sự chung thủy của nàng. Chính chiến tranh phi nghĩa khiến
nàng không có một gia đình trọn vẹn, khiến nàng phải lâm vào cảnh cô đơn gánh vác mọi việc. Và cũng
chính chiến tranh tuy kết thúc nhưng những hệ lụy kéo theo ấy không thể giải quyết được. Cuối cùng, Vũ
Nương lại rơi vào bi kịch. Thân phận người phụ nữ vốn đã bấp bênh nhưng trong những biến cố của xã
hội, thân phận ấy lại càng thêm mỏng manh.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến tuy phải chịu nhiều bi kịch, bấp bênh nhưng họ
luôn mang trong mình một tình yêu cuộc sống cháy bỏng, khát khao hạnh phúc mãnh liệt. Điều đó là
những điểm sáng trong bức tranh cuộc đời của người phụ nữ. Vì vậy, những tác phẩm viết về thân phận
người phụ nữ không chỉ thấm đẫm giá trị hiện thực mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc.

Nhận xét thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua các tác phẩm
Nhìn chung, thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa phải chịu nhiều thiệt thòi, áp bức
bóc lột của giai cấp cường quyền.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị rẻ rúng biết bao. Họ không được làm chủ chính
cuộc sống của mình, phải thuận theo những khuôn phép chật hẹp trói buộc cuộc đời họ trong những
khung sắt giam giữ tâm hồn. Một xã hội mà đặc biệt chỉ coi trọng “tam tòng, tứ đức” thì đã biến cuộc đời
mỗi phụ nữ khi được sinh ra là phải luôn sống và hy sinh cho người khác. Đó chính là cuộc sống mà sống
vì người khác không phải cho mình.

Tư liệu 4. Hình ảnh con người trong văn học trung đại Việt Nam
* Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh, Phú Yên.

Con người là đối tượng lớn nhất, quan trọng nhất trong bất cứ thời đại văn học, bất cứ nền
văn học nào. Văn học dù viết về con người hay không viết về con người thì cuối cùng mục đích
cao cả nhất của nhà văn vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người” (Chữ dùng
của Hemingway).
11
Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy hai dòng riêng giữa một dòng chung. Một
dòng hướng về những chuẩn mực, hướng về những chủ đề, quan niệm mang tính công thức.
Dòng này tạo nên kiểu văn học mang tính quan phương, cung đình, chủ yếu là tụng ca vua sáng tôi hiền,
đề cao lễ nghĩa nhà Nho. Con người xuất hiện trong dòng văn học này, lẽ dĩ nhiên là con người cộng
đồng, con người quân quốc… mang lí tưởng “trí quân trạch dân”, mang khát vọng xây dựng một xã hội
“Nghiêu Thuấn”. Dòng thứ hai vượt thoát ra ngoài khuôn phép, luật lệ để những cảm xúc thật,
những tình cảm thật được thăng hoa. Ở dòng thứ hai này, con người cá nhân có dịp bứt phá, quẫy
đạp bằng một cái tôi tự do mạnh mẽ, phóng khoáng. Nếu lấy những quy tắc, điển phạm trong mỹ học
phong kiến làm tâm thì có thể xem dòng văn học thứ nhất là dòng “văn học hướng tâm” và dòng văn học
thứ hai là dòng “văn học ly tâm” (Chữ dùng của Nguyễn Hữu Sơn).
Sự thể hiện con người trong văn học trung đại theo chiều “hướng tâm” hay “li tâm” gắn liền
với cá tính sáng tạo của nhà văn, đồng thời gắn liền với sự vận động của lịch sử. Mỗi thời đại văn
học với những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa riêng sẽ hình thành quan niệm nghệ thuật về con người
của riêng thời đại ấy. Có thể nhận thấy điều này qua nghiên cứu sự vận động của văn học trung đại Việt
Nam trong suốt mười thế kỉ hình thành và phát triển của nó. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là giai đoạn phục
hưng và phát triển đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc. Giai đoạn này cũng là giai đoạn mà dân tộc ta
không ngừng đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm phương Bắc để gìn giữ cõi bờ. Chính vì thế, cảm
hứng chính trong văn học là cảm hứng yêu nước, con người được đề cao trong văn học là con người
cộng đồng - con người “hướng tâm”, tức là những con người sống theo những chuẩn mực đạo đức của
cộng đồng (thời trung đại chuẩn mực ấy là đạo đức Nho giáo). Từ thế kỉ XVI về sau, hiện thực trở nên
phức tạp hơn rất nhiều, xã hội phong kiến rơi vào khủng hoảng, các thế lực phong kiến chém giết, tàn hại
lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Vận
mệnh, quyền sống của con người bị đặt bên bờ vực thẳm. Lúc này văn học nói lên tiếng nói của mình để
bênh vực, ngợi ca, yêu thương, trân trọng con người. Chính vì thế văn học chuyển từ cảm hứng yêu
nước sang cảm hứng nhân văn, nhân đạo. Con người được đề cao trong văn học là con người cá nhân.
Những con người có sự cựa quậy về cái tôi bản ngã, phản ứng lại lễ giáo phong kiến, những con người
mất dần niềm tin vào những giá trị của đạo đức nhà Nho, cảm nhận được sự cô độc, bi thảm của cuộc
đời đồng thời không ngừng khát khao về tình yêu và hạnh phúc.
Dưới đây là một số hình ảnh con người tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam
 Con người sử thi
Con người sử thi là hình ảnh những con người đại diện cho sức mạnh, bản lĩnh, phẩm chất của cả
cộng đồng, dân tộc trong những thời điểm đặc biệt của lịch sử như thời chiến tranh vệ quốc hay giai đoạn
trùng hưng đất nước. Đây là mẫu người lý tưởng mang tầm vóc thời đại, là những người “khổng lồ” mà
qua đó ta nhìn thấy vẻ đẹp của cả một thời đại oanh liệt, hào hùng. 
Trong bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, tác giả đã thể hiện sâu sắc hình ảnh con người sử thi
qua hình tượng người tráng sĩ thời Trần với vẻ đẹp hùng tráng, hào sảng được thể hiện qua một thế
đứng hiên ngang, lẫm liệt “Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy thu”. Người tráng sĩ dù rong
ruổi sa trường chưa lúc nào ngơi nghỉ mà vẫn tự nhận rằng chưa trả xong nợ công danh, vẫn cảm thấy
“thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu”. Nghĩa là con người ấy vẫn chưa tự bằng lòng với chính mình, vẫn thấy
mình cống hiến chưa đủ, vẫn khao khát lập nhiều chiến công hơn nữa. Nỗi thẹn ấy vì thế là nỗi thẹn cao
cả, nỗi thẹn làm nên nhân cách khiến hình tượng người tráng sĩ trở nên đẹp rạng rỡ, hào hùng.

12
Cuối thời Trần, khi non sông rơi vào tay giặc, hình ảnh con người sử thi lại được thể hiện sâu sắc
qua vẻ đẹp bi tráng của người tráng sĩ trong bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung. Đó là hình ảnh một con
người tuy lâm vào hoàn cảnh bế tắc nhưng nhiệt tình cứu nước vẫn sục sôi, hào khí vẫn lẫm liệt. Người
tráng sĩ mang hoài bão lớn lao muốn giúp chúa xoay chuyển tình thế, khôi phục đất nước nhưng lại cảm
thấy bất lực vì “việc đời còn rối bời mà ta đã già rồi”. Ấy vậy mà khí phách, khát vọng của người anh hùng
vẫn tỏa sáng ngay trong cảnh ngộ thất cơ, lỡ vận “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỉ độ long tuyền đái
nguyệt ma” (Thù nước trả chưa xong mà đầu đã bạc/ Bao đêm rồi ngồi mài gươm dưới bóng
trăng). Trong hai câu thơ, người anh hùng hiện lên tuyệt đẹp; lồng lộng, hiên ngang ngay cả khi rơi vào bi
kịch. Nhiệt tình cứu nước không lúc nào suy giảm dù tóc trên đầu đã bạc vì sương gió chiến chinh.
 
Con người ưu ái
Con người ưu ái là những con người nặng lòng với non sông đất nước, lúc nào cũng thường trực
một tình yêu, một nỗi âu lo dành cho cuộc sống của nhân dân. Họ mang trong mình lý tưởng “trí quân
trạch dân”, khát khao xây dựng một xã hội thịnh trị, giúp cho cuộc sống nhân dân yên ổn, thanh bình. Và
khi xã hội rơi vào loạn lạc, cuộc sống nhân dân lầm than, lòng họ nặng trĩu bao nhiêu xót xa, cay đắng. 
Trong văn học trung đại Việt Nam, hình ảnh con người ưu ái ấy xuất hiện trong thơ Trần Nguyên
Đán “Tam vạn quyển thư vô dụng xứ/ Bạch đầu không phụ ái dân tâm” (Đọc ba vạn cuốn sách mà thành
vô dụng/ Bạc đầu luống phụ lòng thương dân - Nhâm dần lục nguyệt tác), trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
“Ưu thời thốn niệm bằng thùy tả/ Duy hữu hàn san bán dạ chung” (Nỗi lòng lo đời biết nói cùng ai/ Chỉ có
tiếng chuông chùa trên núi vắng lúc nửa đêm san sẻ - Tân Quán ngụ hứng). Nhưng sâu sắc nhất có lẽ là
trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Trong thơ Nguyễn Trãi, ta thường xuyên bắt gặp hình ảnh một con người ưu
ái, suốt đời âu lo cho vận mệnh của đất nước, cho hạnh phúc nhân dân. Nguyễn Trãi từng viết câu thơ
nổi tiếng “bình sinh độc bão tiên ưu chí” (Hải khẩu dạ bạc hửu cảm). Ông nguyện trở thành người “lo thì
lo trước thiên hạ, vui thì vui sau thiên hạ”. Sở nguyện của đời ông là làm sao cho đất nước trị bình, cuộc
sống nhân dân được hạnh phúc, ấm êm “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/Dân giàu đủ khắp đòi phương”
(Bảo kính cảnh giới 43). Nỗi lòng ấy ông gọi là “lòng ưu ái”, “lòng trung hiếu”: “Bui một tấc lòng trung lẫn
hiếu/ Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen” (Thuật hứng 24), “Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn
cuộn nước triều đông” (Thuật hứng 5). Từ hình ảnh con người ưu ái trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, ta nhìn
thấy ở ông một nhân cách trong sáng, một tấm lòng cao đẹp, nói như Lê Thánh Tông “Ức Trai tâm
thượng quang khuê tảo”.
 
Con người tự phản tỉnh
Phản tỉnh là tự thức tỉnh để nhìn lại, nhận thức lại, phán xét lại chính mình từ đó nhận ra sai lầm mà
ăn năn, sám hối, từ đó hướng đến những giá trị cao đẹp hơn. Tinh thần phản tỉnh là một một biểu hiện
nhân văn góp phần hình thành vẻ đẹp nhân cách của con người. Hình ảnh con người tự phản tỉnh ấy
được thể hiện sâu sắc trong rất nhiều tác phẩm văn học trung đại.
Trong Dạ Vũ của Trần Minh Tông, tinh thần tự phản tỉnh thể hiện trong hình ảnh một con người
thao thức, một mình nằm nghe mưa rơi để nhận ra lỗi lầm của mình 30 năm về trước khiến  cõi lòng
giằng xé trong bao nhiêu day dứt, ăn năn: “Thu khí hòa đăng thất thự minh/ Bích tiêu song ngoại đệ tàn
canh/ Tự tri tam thập niên tiền thác/ Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh” (Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ
đi ánh sáng ban mai/ Giọt mưa trên tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn/ Tự biết sai lầm của mình

13
ba mươi năm trước/ Đành ôm nỗi sầu ngồi nghe mưa rơi).
Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều ban đầu đặt rất nhiều niềm tin,
hy vọng vào “đấng quân vương”, mơ ước được sống một cuộc sống nhung lụa vàng son theo kiểu “Một
ngày tựa mạn thuyền rồng/ Còn hơn mãn kiếp ngồi trong thuyền chài”. Nàng mong muốn được sống giàu
sang vinh hiển, khát vọng đạt được hạnh phúc tột đỉnh. Đối với nàng, cuộc sống đúng nghĩa phải là cuộc
sống nơi lầu vàng gác tía, nàng coi thường cuộc sống thường dân: “Lan mấy đóa lạc loài sơn dã/ Uổng
mùi hương vương giả lắm thay”. Thế nhưng  khi bị thất sủng, phải đối mặt với một thực tại chua xót, bẽ
bàng, đối mặt với bao nhiêu đau khổ, uất ức,  nàng dần dần đánh mất niềm tin vào những thứ trước đây
nàng tin tưởng. Giấc mộng lầu son giờ đổ vỡ, mọi ảo tưởng, ngộ nhận tiêu tan. Nàng bắt đầu phản tỉnh
để nhận thức được rằng hóa ra những thứ mà trước đây nàng cho là tốt đẹp, cao quý lại là những
thứ “mồi”, thứ “bả”. Nàng hiểu ra rằng hạnh phúc không phải được tạo nên từ lầu vàng điện ngọc, từ phù
phiếm, xa hoa. Hạnh phúc chỉ đến từ tình yêu chân thành, chung thủy. Cuộc sống êm đẹp nhất là cuộc
sống vui vẻ sum vầy, có chồng có vợ. “Kìa điểu thú là loài vạn vật/ Dẫu vô tri cũng biết đèo bòng/ Có âm
dương có vợ chồng/ Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê”.
 
Con người cô đơn, lạc lõng
Hình ảnh con người cô đơn, lạc lõng trong văn học trung đại thường xuất hiện khi xã hội phong kiến
Việt Nam ở vào giai đoạn suy tàn. Mọi trật tự tôn ti sụp đổ, mọi giá trị lộn nhào. Lúc ấy con người, đặc biệt
là những người trí thức vốn đặt niềm tin vào lý tưởng nhà Nho cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, mất phương
hướng, khủng hoảng niềm tin một cách trầm trọng.  Đó là hình ảnh một con người bơ vơ, lạc lõng, không
biết trôi dạt về đâu trong thơ Lê Hữu Trác: “Tìm đường về Hán chưa xong/ Sang Tần là việc đã không
nên rồi/ Bể hồ trôi dạt đôi nơi/ Cho người tráng chí ra người cuồng ngông” (Y tông tâm lĩnh). Đó là con
người mang nặng một nỗi bấn loạn khiến cõi lòng nhàu nhĩ, bi thương trong thơ Nguyễn Du:“Tráng sĩ
bạch đầu bi hướng thiên/ Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên” (Người tráng sĩ đầu bạc buồn ngẩng mặt
nhìn trời/ Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt cả - Tạp thi). Đó là một con người sụp đổ niềm tin, chán
ngán trước tất cả trong thơ Nguyễn Công Trứ“Ngồi buồn mà trách ông xanh/ Khi vui muốn khóc, buồn
tênh lại cười/ Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo” (Vịnh cây thông).
Hình ảnh con người cô đơn lạc lõng trong văn học trung đại cũng thường xuất hiện khi mà quyền
sống, quyền được hưởng tình yêu, hạnh phúc của con người bị chà đạp. Lúc ấy, hạnh phúc đổ vỡ, tình
duyên hẩm hiu, con người trở về với chính cõi lòng mình để nỗi cô đơn dâng trào trong tâm trạng. Trong
bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương, ta bắt gặp hình ảnh một người phụ nữ đơn độc, lẻ loi, trơ “cái
hồng nhan” ra cùng tuế nguyệt. Nàng chìm sâu vào bị kịch với bao nhiêu tuyệt vọng, chán chường “Ngán
nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con”. 
Nàng Kiều trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng không ít lần rơi vào trạng thái cô đơn,
tuyệt vọng như vậy. Đó là sau khi tự mình trao duyên, trao tình yêu cho em, nàng trở về với chính cõi lòng
mình để bao nhiêu buồn tủi, xót xa lan tỏa trong tâm hồn “Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước
chảy hoa trôi lỡ làng”. Đó là giây phút nàng tỉnh rượu sau  những “cuộc vui đầy tháng trận cười suốt
đêm”, đối diện với một đêm khuya quạnh vắng, nỗi cô đơn như tan chảy trong sâu thẳm cõi lòng “Khi tỉnh
rượu lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa”.
Nhìn lại toàn bộ tiến trình văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy một sự vận động không
ngừng của quan niệm nghệ thuật về con người. Hình tượng con người trong văn học phát triển theo

14
chiều hướng ngày càng mang bản sắc riêng, có sự dịch chuyển từ tuân thủ chuẩn mực đến sáng tạo
trong thể hiện khiến hình tượng con người ngày càng trở nên phong phú và giàu sức hấp dẫn hơn. Sự đa
dạng, phong phú trong sự thể hiện con người ấy đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc, tạo nên
vẻ đẹp nhân văn lấp lánh trong nền văn học.
________
Tư liệu 5. Quan niệm của Nguyễn Du về con người và thân phận con người
Lê Thị Lan(*)
Nguyễn Du đã xuất phát từ quan niệm “đời là bể khổ” để đi đến những nhận định về nhân
sinh trên nền tảng tâm thế Việt – lấy tình cảm, tình yêu thương làm chỗ dựa. Đối với ông, một mặt,
sự đối lập giữa tài năng và số phận (luật" “tài mệnh tương đố”) là sự bất công cơ bản và lớn nhất;
mặt khác, con người vẫn có thể cải hoá được số phận nếu nỗ lực tu tâm, hành thiện. Quan niệm
về số phận con người là sự cụ thể hoá nhân sinh quan ấy. Nguyễn Du cho rằng, thân phận mỗi
người là sự tồn tại theo duyên cảnh, là tất nhiên và mang tính tiền định. Khi xem xét thân phận
con người, Nguyễn Du đặc biệt chú ý đến người tài và phụ nữ. Quan niệm về cuộc đời và thân
phận con người của Nguyễn Du đã góp một sắc thái đặc biệt trong nền triết lý nhân sinh Việt Nam.

Hai trăm năm nay, Nguyễn Du được mọi thế hệ người Việt Nam biết tới trước hết như một đại thi
hào dân tộc với tác phẩm thơ bất hủ Đoạn trường tân thanh, còn gọi là Truyện Kiều. Các giá trị văn học,
nghệ thuật, tư tưởng trong tác phẩm của ông đã được nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu quan tâm, phát
hiện khiến cho chúng ta ngày càng hiểu biết hơn về chiều sâu, bề rộng và tầm xa của tư tưởng Nguyễn
Du. Nhưng dường như các nghiên cứu đó vẫn chưa thoả mãn nhu cầu người đọc và chưa khai thác hết
chiều kích các giá trị được truyền tải trong tác phẩm của Nguyễn Du bởi tính cập nhật của các vấn đề xã
hội, tư tưởng, nghệ thuật mà ông đặt ra qua các tác phẩm của mình. Bài viết tìm hiểu quan niệm của
Nguyễn Du về cuộc đời và thân phận con người trên phương diện triết học với mong muốn cung cấp cho
bạn đọc một quan niệm nhân sinh đặc sắc của đại thi hào.
1. Quan niệm về cuộc đời
Quan niệm của Nguyễn Du về cuộc đời chịu nhiều ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo và Lão
giáo. Trải qua nhiều biến cố dồn dập của cuộc sống, cuộc đời trôi dạt nhiều nơi, tận mắt chứng kiến
những sự kiện vật đổi sao dời, những cảnh đời thương tâm, ngang trái…, Nguyễn Du thấm thía triết lý
của đạo Phật coi cuộc đời là vô thường. Ông nhìn cuộc đời bằng con mắt của một nhà nhân đạo chủ
nghĩa, yêu thương, xót xa cho thân phận con người:
“Cuộc đời trăm năm biết bao nhiêu chuyện thương tâm”(1).
Câu thơ nặng trĩu nỗi niềm xúc cảm của nhà thơ. Xúc cảm ấy trong mạch văn ấy biểu lộ nỗi đau đời
khôn nguôi, nỗi thương đời vô hạn do chính cảm nhận chân thực của nhà thơ về cuộc đời, nên có sức
mạnh  truyền cảm, lan toả đến muôn đời sau. Chính vì thế, mệnh đề triết lý Nguyễn Du nêu lên, tuy không
mới so với triết lý “đời là bể khổ” của Phật giáo, nhưng lại tạo ra một hiệu quả, một sự tương thông trong
cộng đồng những người cùng ngôn ngữ, cùng bối cảnh văn hoá với ông.
Hơn nữa, câu thơ của Nguyễn Du còn cho thấy tâm thế khái quát sự vật, khái quát cuộc đời của
ông. Ông không phải là người ngoài cuộc trong cuộc đời đầy rẫy những bi ai này. Những nỗi đau đời của
người khác cũng là nỗi đau đời của chính Nguyễn Du. Ông là người quan sát, người đồng cảm, người
cùng chia sẻ, người trong cuộc. Cái tâm thương cảm, đồng cảm, chia sẻ của Nguyễn Du đã khiến cho

15
triết lý cuộc đời của ông tràn đầy chủ nghĩa nhân văn. Do vậy, Nguyễn Du được thừa nhận là đại diện cho
tiếng nói của quảng đại người dân, bởi thơ ông thấm nhuần hơi thở của nhân dân, phản ánh chính những
nỗi niềm, suy tư, mong đợi của người dân.
Xuất phát từ cách nhìn chung về cuộc đời trên quan điểm nhân văn thấm đượm triết lý Phật giáo
như vậy, Nguyễn Du tiếp tục triển khai tư tưởng nhân sinh của mình theo hướng kết hợp Nho, Phật và
Lão trên nền tảng tâm thế Việt: lấy tình cảm, tình yêu thương làm điểm tựa cho những nhận định về nhân
thế.
 Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhận định, luật “tài mệnh tương đố” là một trong những “luật
đời” khiến con người chịu nhiều đau khổ nhất:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
Sự đối lập giữa tài năng và số phận được Nguyễn Du coi là một trong những sự bất công cơ bản và
lớn nhất trong cuộc đời con người. Tài là khả năng, là năng lực của mỗi con người. Mệnh là tính quy định
đã có sẵn trước khi mỗi con người sinh ra trên đời, mang tính ấn định, không thể thay đổi về số phận của
mỗi con người. Như vậy, mỗi cá nhân sinh ra trên đời, bất chấp khả năng, năng lực tài giỏi hay hạn chế
đến đâu, đều có một số mệnh định sẵn, xác quyết số phận của họ là khổ đau hay hạnh phúc, sung sướng
hay lầm than. Thậm chí, người càng tài giỏi thì số mệnh lại càng éo le, bạc bẽo, đa đoan và ngược lại.
Với sự đối lập hiển nhiên đầy bất công đó, tạo hoá, ông trời bắt đầu trò chơi đùa giỡn với con người, bất
chấp những nỗ lực của con người:
“Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”(2).
Con người dường như quá nhỏ bé, bất lực trước sức mạnh vô hình nhưng hết sức hiện thực của
"ông trời". Cái nhìn bi quan về cuộc đời như vậy đã đẩy Nguyễn Du đi tới những quan niệm mang nhiều
ảnh hưởng của Lão-Trang. Ông quan niệm: “Mắt xem việc đời như đám phù vân”(3), “Cuộc trần thế trăm
năm chỉ là giấc mộng khi mở mắt”(4). Chính nhận thức về sự bất công xuyên suốt cuộc đời con người đã
khiến Nguyễn Du, có những lúc, kiếm tìm những giải pháp tiêu cực, yếm thế:
“Cuộc đời trăm năm, chỉ mong say suốt ngày.
Thế sự như đám mây nổi, thật đáng buồn!”(5).
Những tư tưởng trốn tránh cuộc sống, trốn tránh danh lợi, bạc tiền nêu trên cũng đã từng chế ngự
tâm hồn ông, đặc biệt là khi cuộc đời ông trở nên quẫn bách, bế tắc, không lối thoát trong giai đoạn cuộc
nội chiến giữa các thế lực phong kiến ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII:
“Phú quý trước mắt chẳng khác gì phù vân. Người đời nay chỉ biết cười người đời xưa. Người xưa
chết, mồ mả ngổn ngang đó, người nay sao vẫn bôn tẩu rộn ràng?
Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ còn trơ lại nắm đất. Không ai vượt qua cửa ải sống chết.
Khuyên anh uống rượu rồi vui chơi…”(6).
 Tuy nhiên, đó không phải là tư tưởng quán triệt của Nguyễn Du. Xem xét toàn bộ di sản nghệ thuật
mà ông để lại, ta lại thấy một Nguyễn Du tràn đầy niềm yêu thương cuộc sống, yêu thương con người.
Đặc biệt, trong Truyện Kiều, thông qua xử lý diễn biến số phận nàng Kiều, chúng ta thấy rõ một Nguyễn
Du đau đời, thương đời nhưng cũng tràn đầy lạc quan vào chân - thiện - mỹ sẽ chiến thắng trong cuộc

16
đời, khi đưa ra thông điệp về nỗ lực tu tâm, hành thiện con người sẽ cải hoá được số phận, từ đó thay đổi
được thiên mệnh. Cổ vũ mục đích cuối cùng của con người là hướng tới một cuộc sống hài hòa chân - 
thiện - mỹ, Nguyễn Du đã nói lên được mơ ước, niềm mong mỏi hướng tới tương lai tốt đẹp của quảng
đại nhân dân. Những con người chịu nhiều đau khổ, tầng lớp bình dân sẽ không thể tồn tại nếu họ thiếu
niềm hy vọng, trước hết và tột cùng, rằng chân lý, sự công bằng, tốt đẹp sẽ ngự trị sau khi con người đã
nỗ lực phấn đấu cho sự thay đổi, hoán cải bằng toàn bộ trái tim, sức lực cuộc đời của mình, như cô Kiều
sau 15 năm lưu lạc lại được đoàn tụ, vui vầy cùng gia đình. Hy vọng đó, chân lý đó, theo cách biểu đạt
của Nguyễn Du, là khúc khải hoàn của chữ “tâm”:
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”(7).
Như vậy, Nguyễn Du đã diễn giải quan niệm về cuộc đời trong Truyện Kiều qua những bước đi tuần
tự: sự đối lập giữa tài năng và số phận là luật tất yếu của cuộc đời; con người sinh ra phải tuân thủ luật
đó; song trong quá trình sống, bằng sự tu tâm, bằng sự nhận thức lẽ thiện và nỗ lực thực hành điều thiện,
con người có thể cải hóa được số phận định sẵn.
Trong quá trình nhận thức đó, yếu tố tư duy mang sắc thái Việt Nam, yếu tố tình cảm, sự duy tình,
tình yêu thương con người đã là nền tảng chi phối và hướng dẫn chiều hướng tư duy của Nguyễn Du,
đưa tư tưởng ông đạt tới sự nhận thức và phản ánh chân thực tâm nguyện, hy vọng của dân chúng. Đó
là thành công lớn của Nguyễn Du và chính điều đó đã khiến ông trở thành nhà thơ của nhân dân, được
nhân dân tôn vinh. Vì vậy, cho dù quan niệm về cuộc đời của Nguyễn Du mang màu sắc duy tâm chủ
quan cực đoan, chúng ta cũng không thể phủ nhận những nhân tố hợp lý, độc đáo và giàu tính nhân văn
của nó. Những nhân tố đó càng trở nên đáng quan tâm hơn khi chúng đã có những tác động tích cực
trong việc hướng dẫn, định chuẩn hệ giá trị sống của cha ông ta suốt chiều dài lịch sử của dân tộc và có
lẽ, còn góp phần tích cực vào cuộc sống hiện nay nếu những tư tưởng đó được khai thác và được công
chúng hoá hơn nữa.
2. Quan niệm về thân phận con người
Quan niệm của Nguyễn Du về thân phận con người là sự cụ thể hoá và triển khai thêm những nhận
định về cuộc đời của ông vào những mẫu hình cụ thể - các nhân cách, như những minh chứng cho nhận
định của ông.
Xã hội mà Nguyễn Du mô tả, suy ngẫm, chiêm nghiệm là xã hội của những con người mê lầm,
chưa tự ý thức, chưa tự giác ngộ được về bản chất cuộc đời và ý nghĩa của sự tồn tại người. Theo quan
niệm Phật giáo, đó là những người vẫn còn đang ở bến mê, theo quan niệm Nho giáo, đó là những con
người đang là trò chơi của tạo hoá, của định mệnh. Những mối quan hệ xã hội chằng chịt, đan xen được
Nguyễn Du tháo gỡ và sắp xếp theo dòng chảy của các quy luật Phật giáo, như luật nhân quả, duyên
nghiệp, giác ngộ… Tất cả những thân phận, từ đấng anh hùng như Từ Hải, kẻ tu hành như vãi Giác
Duyên, người làm quan như Hồ Tôn Hiến, kẻ sĩ như Kim Trọng, tới số phận truân chuyên như Thuý Kiều,
lưu manh như Mã Giám Sinh… đều được nhìn dưới góc độ triết lý Phật giáo, là những thân phận phải
hứng chịu mọi kiếp nạn đã bị quy định từ các hành vi của kiếp trước:
“Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau.
Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ”(8).

17
Mỗi con người bước vào cuộc đời với một nghiệp riêng do kiếp trước quy định, là sung sư ớng, là
anh hùng, là khổ đau, là bất hạnh…, cho đến khi rời cõi thế cũng mỗi người một vẻ chết khác nhau không
ai giống ai, nhưng tất cả đều có một điểm chung, đó là đều chung thân phận bơ vơ, lạc loài. Nếu như lý
luận về tha nhân của chủ nghĩa hiện sinh khẳng định sự lạc loài, phi lý của kiếp người trên chính cuộc đời
trần thế thì, với Nguyễn Du, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết lý Phật giáo, sự lạc loài phi lý đó là thuộc
về thế giới phi trần gian, ở những linh hồn đã rời cõi thế, không nơi nương tựa, lang thang phiêu bạt đi
tìm điểm dừng của duyên nghiệp, đi tìm tới cái ngã đích thực tồn tại trong vĩnh cửu. Với Nguyễn Du,
những thân phận con người trong cõi thế vẫn là sự tồn tại theo duyên cảnh, không mang tính phi lý, mà là
một tất nhiên và mang tính tiền định:
“Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”(9).
Những thân phận này, dù có cố gắng đến nhường nào, nhưng nếu chưa giác ngộ được lẽ vô thư-
ờng, chưa ngộ được chân tâm thì vẫn không thoát khỏi số phận trớ trêu mà trời đã định. Trong cuộc đời
mà mỗi thân phận người tồn tại theo tự tính trời ban của mình, theo số phận đã định của mình, thì tính
chủ thể của con người trở nên thật là bé nhỏ và vô vọng:
“Kẻo khi sấm sét bất kỳ
Con ong cái kiến kêu gì được oan”(10).
Trong quan niệm về con người, Nguyễn Du đặc biệt chú ý tới hai loại người - người tài và người
phụ nữ. Chính ở đó, quan niệm của ông về con người chứa đựng những nét đặc sắc nhất. Đồng thời, sắc
thái tư duy Việt trong tư tưởng Nguyễn Du về con người cũng bộc lộ rõ nhất khi ông thể hiện các quan
niệm này. Trước Nguyễn Du, trong văn học Việt Nam nói chung, trong quan niệm về con người nói riêng
luôn đặt trọng tâm sự chú ý của xã hội vào người quân tử, vào người làm quan, người có học vấn, bậc
Nho sĩ. Theo quan niệm của họ, chỉ nam giới mới được coi trọng, được đánh giá là có tài hay không có
tài; cái tài chỉ được thể hiện qua con đường duy nhất là văn chương, thơ phú, cử nghiệp. Nhưng tới
Nguyễn Du, và gần như đồng thời với ông là Hồ Xuân Hương, người tài không còn là độc quyền của nam
giới nữa. Hồ Xuân Hương đã làm một việc quan trọng, mở đường cho việc đưa hình tượng người phụ nữ
vào trung tâm điểm của văn học và vào nhận thức của dân tộc giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX,
đó là phê phán tận gốc những mặt trái đằng sau hình tượng người quân tử theo quan niệm cũ, đưa
những nhu cầu tình cảm, tâm lý, khát vọng sống của người phụ nữ lên thành những quyền cơ bản của
con người, có quyền và có giá trị bình đẳng với nam giới. Tới Nguyễn Du, ông đã làm tiếp một việc quan
trọng nữa, và là sự kế tiếp như một quy luật tất yếu, cần phải có trong sự tự nhận thức của dân tộc, đó là
tôn vinh người phụ nữ như những tinh hoa, anh tài của xã hội.
Trong Truyện Kiều, ông đã gửi gắm tất cả niềm yêu thương, xót xa và kỳ vọng vào người phụ nữ
khi xây dựng hình tượng nàng Kiều, một phụ nữ đa tài, đa sắc, lại thánh thiện và nhân ái. Trọn vẹn những
lý tưởng thẩm mỹ, đạo đức và con người lý tưởng của Nguyễn Du được ông gửi gắm vào nàng Kiều. Đó
là hình tượng người phụ nữ đẹp nhất mà văn học Việt Nam thời phong kiến đã đạt được. Nhân vật “nàng
Kiều” là sự hình tượng hoá các phẩm chất cao quý của người phụ nữ: tài năng, giàu đức hy sinh, biết
dũng cảm đương đầu với số phận, thách thức số phận, chiến thắng số phận bằng chính sự tôi luyện theo
lẽ thiện, vì thế cải biến được số phận. Chưa có nhân vật văn học nào trước đó được xây dựng công phu,
đẹp đẽ và chinh phục trái tim người dân đến thế. Tính tích cực của chủ thể thể hiện ở cả nhận thức và
hành động của nàng Kiều như khúc khải hoàn chiến thắng của con người trước số phận, là lời gửi gắm

18
tâm nguyện của Nguyễn Du đối với cuộc đời.
Khi đề cập đến người tài, Nguyễn Du đã thừa nhận luật “tài mệnh tương đố”. Với Nguyễn Du, người
tài không chỉ là các văn nhân, trí thức Nho giáo, mà bao gồm cả phụ nữ; cái tài không chỉ thể hiện trong
thơ phú, chính trị, cử nghiệp, mà cả trong các năng lực khác như đàn hát, hội hoạ. Theo ông, người có tài
luôn là tinh hoa của trời đất, được đồng loại coi trọng, xót thương và ca ngợi, bởi chính họ đã làm cho
cuộc đời ngày càng đẹp hơn, nhân ái hơn:
“Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách còn là tinh anh”(11).
Những người tài hoa khi sống phải chịu số phận long đong như một sự chuộc tội cho nhân quần,
bởi họ cũng chính là những con người có tình nhất, yêu thương đồng loại nhất và là những người cảm
biết được trách nhiệm của mình trước đồng loại, nên dù thấy chết vẫn tự nguyện chấp nhận như một tất
yếu, giống như nàng Kiều coi việc bán mình chuộc cha là nghĩa vụ đương nhiên của người con thực hiện
đạo hiếu. Những người tài hoa ấy, dù thể xác đã trở về với cát bụi, nhưng những giá trị tinh thần, những
ảnh hưởng tinh tuý của họ vẫn tồn tại như những hiện hữu tất yếu. Đó mới là sự tồn tại đáng kể. Và biết
bao nhiêu thân phận đi qua trái đất này đã để lại những đóng góp của họ vào cuộc sống tinh thần chung
của xã hội, được người đời coi trọng, gìn giữ và làm nên các giá trị chung nhất, gọi là văn hoá.
 Nguyễn Du đã dùng minh triết (sự giác ngộ) và thiện tâm, hai phương tiện duy tâm làm chìa khoá
giải mã những bất công của cuộc đời. Tuân thủ những nguyên lý minh triết của Phật giáo và những sắc
thái duy tình của người Việt, Nguyễn Du đã đưa ra lời giải của ông cho vấn nạn nhân sinh. Tính chân lý,
khả năng ứng dụng, phạm vi giải đáp của con đường ấy tới đâu còn tuỳ thuộc vào sự tiếp cận của mỗi
thế hệ hậu sinh với triết lý cuộc đời và thân phận con người của Nguyễn Du. Tuy nhiên, con đường minh
triết và thiện tâm mà Nguyễn Du cổ vũ đã và đang làm nên một công cụ điều chỉnh đầy tính nhân văn cho
xã hội.                   

Tư liệu 5. Tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều


4 Tháng Hai, 2020
Trần Thanh
(Vanchuongphuongnam) – Nguyễn Du đã có những đóng góp to lớn cho diện mạo của nền
văn học nước nhà, để lại nhiều tư tưởng tiến bộ, nhân văn cho thế hệ hôm nay và mai sau thông
qua những tác phẩm văn chương độc đáo. Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của đại thi hào.
Tác phẩm cho chúng ta thấy được một tâm hồn lớn, một tư tưởng lớn vượt thời đại của nhà thơ
lỗi lạc Nguyễn Du.

Truyện Kiều của Nguyễn Du


Khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh
Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng đại thi hào đã sáng tạo nên giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật
hoàn toàn mới, trở thành tác phẩm truyện thơ kinh điển của chính Nguyễn Du.
Đọc truyện thơ Truyện Kiều, ban đầu có tên gọi là Đoạn trường tân thanh, chúng ta thấy nổi lên
những giá trị nội dung tư tưởng lớn mang tầm vóc vượt thời đại khiến chúng ta suy ngẫm.
Truyện Kiều là sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ trước nỗi đau về số phận con người, đặc biệt là
thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái. Điển hình trong tác

19
phẩm Truyện Kiều là hình tượng nhân vật Thúy Kiều, một người con gái trẻ tuổi có tài, thông minh hơn
người:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm”
Và nàng Kiều sắc nước hương trời, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành”:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Tài sắc vẹn toàn là thế nhưng lại hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố “Sắc đành họa một, tài
đành họa hai”. Nàng Thúy Kiều bị vùi dập, chà đạp, đau đớn đến tận cùng. Từ một tiểu thơ đoan trinh, tiết
hạnh, sống trong cảnh hạnh phúc bên gia đình:
“Êm đềm trướng rũ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Gia đình Thúy Kiều lại gặp cơn gia biến. Cha và em nàng bị bắt. Nàng phải bán thân mình để chuộc
cha. Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh mua và trả giá giống như một thứ hàng hóa với giá rẻ mạt:
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Nàng Kiều bị Mã Giám Sinh cướp đi cái ngàn vàng của người con gái. Kiều bị bán vào lầu xanh. Tú
Bà hành hạ, đánh đập nhằm ép nàng tiếp khách làng chơi. Nàng tìm đến cái chết để kêt thúc cuộc đời
tăm tối “một dao oan nghiệt đứt dây phong trần”.
Mặt khác, Nàng bị Sở Khanh lừa tình, cứ tưởng gã sẽ đưa nàng thoát khỏi chồn bùn nhơ. Thúy
Kiều lại bị Hoạn Thư, người đàn bà ghen tuông cay độc đã làm nàng phải dày vò thể xác lẫn tinh thần.
Kiều nhẹ dạ, cả tin nên bị mắc lừa Hồ Tôn Hiến khiến cho chồng nàng phải chết đứng, sự nghiệp công
danh của Từ Hải tan thành mây khói. Hồ Tôn Hiến ép nàng phải lấy hắn. Sự nghiệt ngã khi “giết chồng
mà lại lấy chồng” nên Kiều đã nhảy sông Tiền Đường để giải thoát trần ai khổ lụy.
Có thể nói, cuộc đời nàng Kiều đầy những phong ba, bão táp. Nàng đã phải chịu sống trong cảnh
tủi nhục ê chề “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Cả đời Thúy Kiều không được hưởng hạnh phúc trọn
vẹn.  Mười lăm năm lưu lạc gia đình với bao nhiêu cay đắng mùi đời đã khiến cho Nguyễn Du, nhà thơ
nhân văn vĩ đại phải thốt lên những tiêng nấc nghẹn ngào, cảm thông sâu sắc trước nỗi đau khổ của
nàng cũng như là số phận người phụ nữ lúc ấy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Sống dưới thời phong kiến, đêm trường trung cổ là nỗi ám ảnh nhất đối với người phụ nữ, vì sự
trọng nam khinh nữ đã làm mất đi cái quyền sống của họ. Và thiên tài Nguyễn Du đã rưng rưng nước mắt
khi thấy sự bất công đối với người phụ nữ. Ông đã lên tiếng nói bênh vực Thúy Kiều, linh hồn của tác
phẩm. Chính điều đó đã làm đại thi hào vượt lên tư tưởng thời đại. Cho đến ngày nay, xã hội mới có sự
công bằng hơn về nhân quyền, người phụ nữ được coi trọng hơn.
Truyện Kiều chính là sự ca ngợi tình yêu tự do của nam nữ. Đại thi hào đã táo bạo khi xây dựng
mối tình Kim Kiều đẹp đẽ, vượt lễ giáo gia phong, vượt định kiến xã hội. Tình cảm yêu đương của đôi
nam thanh nữ tú ấy đến với nhau một cách tự nhiên, là sự rung động của hai con tim, không có sự can
thiệp của một ai cũng như không có sự bó buộc hay gượng ép:
“Người quốc sắc, kẻ thiên tài

20
Tình trong như đã mặt ngoài còn e”
Kim Trọng đã phải lòng Kiều nên đã ôm mộng tương tư:
“Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không”
Và Kiều cũng đã phải lòng chàng Kim từ lần gặp đầu tiên:
“Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo”
Thúy Kiều và Kim Trọng đã yêu nhau bằng một tình yêu tự do, trong sáng, tự do hò hẹn. Nàng Kiều
chủ động đi tìm người yêu ngay trong đêm khuya:
“Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Kim Kiều đã trao kỷ vật thề hẹn “chiếc vành với bức tờ mây”. Cả hai người tự nguyện đính ước có
vầng trăng làm minh chứng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song”
Tình yêu là đề tài muôn thuở để các thi nhân khơi nguồn cảm hứng sáng tác. Nhưng ở thời đại
Nguyễn Du, tình yêu trong tác phẩm của ông là thứ tình yêu tự do. Đây là những điều cấm kỵ của xã hội
đương thời. Đại thi hào đã vượt rào luân lý thời đại mình để hướng tới một sự tiến bộ tất yếu của nhân
loại.
Truyện Kiều còn là khát vọng về sự tự do của con người. Hình tượng nhân vật Từ Hải là mẫu người
anh hung lý tưởng:
“Râu hùm hàm én mài ngài
Vai năm tất rộng thân mười thướt cao”
Từ Hải còn là mẫu người của sự ung dung, tự do, tự tại và cũng đầy bản lĩnh, khí phách:
“Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nữa gánh non song một chèo”
Hay:
“Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”
Và cũng không có gì để ngăn cản, dù là tình yêu sâu đậm với Thúy Kiều “nữa năm hương khói
đượm nồng” . Từ Hải bước chân ra đi như cánh chim đại bang giữa trời rộng lớn:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió đưa bằng tiện đến kì dặm khơi”
Mặc dù sống trong thời tập đoàn giai cấp thống trị đầy uy quyền, cai trị tất cả mọi thứ:
“Rằng: năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn bề phẳng lặng hai kinh vững vàng”
Từ Hải vẫn không chấp nhận, không khuất phục một triều đình cường quyền của chế độ phong kiến
thống trị a dua, nhũng nhiễu, bất công, phi lý, gò bó, xem thường tính mạng con người. Từ Hải như rạch
ròi, lập ra giang sơn cho riêng mình:
“Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà”

21
Sống trong thời đại có nhiều biến cố lịch sử nên Nguyễn Du đã khai thác người anh hùng Từ Hải
thật sâu sác và đầy ý nghĩa về sự khao khát tự do. Đó cũng chính là ước mơ chân chính nhất của người
dân.
Truyện Kiều còn là khát vọng về quyền công lý của con người. Nhân vật Từ Hải cũng là mẫu người
thay mặt cho quyền công lý, bênh vực những con người đau khổ, bé nhỏ, bị chà đạp, đòi lại công bằng, lẽ
phải cho mọi người. Từ Hải đã lập ra màng báo ân báo oán. Chàng “đùng đùng nổi trận lôi đình sấm
vang” khi biết về nỗi đau quá khứ của phu nhân mình:
“Khi Vô Tích, khi Lâm Truy
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương
Tấm thân nay đã nhẹ nhàng
Chút còn ân oán đôi đường chưa xong”
Từ Hải mở phiên tòa xét xử và tận tay giao quyền cho Thúy Kiều luận tội những kẻ đã xô đẩy cuộc
đời nàng đến bế tắc, đoạn trường, đồng thời là báo ân đối với những người đã cứu giúp nàng trong cơn
nguy biến:
“Từ rằng ân oán hai bên
Mặc nàng xét xử báo đền cho minh”
Hay:
“Báo ân ròi sẽ báo thù
Từ rằng việc ấy để cho mặc nàng”
Và cuối cùng, những kẻ xấu, kẻ ác như: Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh… đều bị trừng trị thích
đáng:
“Máu rơi thịt nát tan tành
Ai ai trông thấy hồn kinh phách trời”
Ơn đền oán trả. Đó là luật trả vay. Nguyễn Du đã đưa những số phận bé cổ, thấp họng được làm
chính mình, được làm người, được quyền công lý trong tay.
Gấp cuốn sách Truyện Kiều lại mà chúng ta cảm thấy tư tưởng lớn lao, tiến bộ vượt thời đại, đến
ngày nay còn nguyên giá trị. Số phận con người nói chung và người phụ nữ nói riêng được thiên tài
Nguyễn Du bênh vực, dành cho những tình cảm yêu thương bao la, nồng hậu, tha thiết. Đại thi hào cũng
đã có những khát vọng cháy bỏng về sự tự do, con người được giải phóng khỏi chế độ phong kiến còn
nhiều hạn chế và ước mơ giản dị về tình yêu nam nữ tự nguyện. Đồng thời,  Nguyễn Du hướng đến một
nền công lý thuộc về quần chúng nhân dân, bảo vệ quyền sống con người. Đó là những tư tưởng tích
cực nhất, đẹp đẽ nhất. Chình vì vậy, đại thi hào Nguyễn Du đã đem đến cho dân tộc một tuyệt tác văn
chương Truyện Kiều bất hủ, lưu danh đến tận ngàn sau.
Nguyễn Du vốn đã rất vĩ đại nhưng ông trở nên vĩ đại hơn khi tiếng khóc thương vì số phận con
người của ông được cả nhân loại nghe thấy. Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành máu thịt,
hồn cốt của dân tộc, được dịch ra hơn 20 thứ tiếng với hơn 35 bản dịch, khiến nhân loại phải đi sâu tìm
hiểu và chiêm ngưỡng. Bản dịch gần đây nhất của các nhà thơ Nga và Việt Nam ra mắt bạn đọc đầu
tháng 11 năm 2015, thêm một lần nữa khẳng định giá trị to lớn của tác phẩm này. Nhà thơ Nga Va-xi-li
Pô-pôp, người dịch Truyện Kiều sang tiếng Nga đã nói: “Đọc xong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi đã trở
thành một con người khác”. Năng lượng tỏa ra từ Truyện Kiều thật vô tận, Nguyễn Du đã giúp chúng ta
nối dài vòng tay với nhân loại, gắn kết thế giới bằng chữ Tâm, chữ Tình. Truyện Kiều giống như một viên

22
ngọc nhiều màu sắc, càng mài càng sáng, mà mỗi một con người và mỗi một dân tộc tự soi vào đó đều
thấy số phận của mình…
Những giá trị nghệ thuật trong di sản văn học của Nguyễn Du, đặc biệt là tác phẩm Đoạn trường tân
thanh (mà chúng ta quen gọi là Truyện Kiều) của ông là kết quả tài năng xuất chúng của cá nhân Đại thi
hào, nhưng cũng là kết tinh của tiến trình mấy nghìn năm phát triển của văn hóa, văn học dân tộc kết hợp
với những thành tựu của văn hóa khu vực Đông Á và Đông - Nam Á... Những giá trị văn hóa kiệt xuất ấy
đã thuộc về nhân dân, thuộc về dân tộc và thuộc về nhân loại, sẽ trường tồn cùng thời gian. Có được
điều đó bởi sự nghiệp văn học mà Nguyễn Du để lại cho nhân loại với những tập thơ chữ Hán đầy chất
suy tư, trắc ẩn, chứa đựng những giá trị hiện thực lớn lao của cả một thời đại như Bắc hành tạp lục,
Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, bài Văn tế thập loại chúng sinh khóc thương cho thân phận
chúng sinh, cho những con người bất hạnh trong xã hội như các em bé mồ côi không nơi nương tựa, các
cô gái làm nghề kỹ nữ và bao kiếp người đau khổ khác… Đặc biệt, Truyện Kiều bất hủ đã thể hiện một
cách sinh động chủ nghĩa nhân đạo cao cả, lòng thương yêu con người tha thiết, ca ngợi vẻ đẹp thể chất
và tâm hồn con người, khát vọng giải phóng họ khỏi sự áp bức, bất công, vươn tới tự do, bình đẳng,
hạnh phúc. Những tác phẩm ấy đã tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, vẻ đẹp của thơ ca, của cốt
cách và tâm hồn Việt Nam, khẳng định vị trí số một của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc và từng
bước chiếm lĩnh văn đàn thế giới như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nhân loại.
Nguyễn Du từng đi sứ sang Trung Hoa, quê hương của Nho giáo và trên con đường thiên lý đầy
hiểm nguy, trắc trở nơi xứ người, ông đã thấu triệt chân lý: ở nơi đâu thì những người dân lành, đặc biệt
là người phụ nữ, người tài hoa đều có số phận đau khổ giống nhau, họ đều phải chịu biết bao sự đọa
đày, bóc lột từ những kẻ có quyền lực trong một thể chế bộc lộ bản chất phi nhân tính. Ông yêu thương,
xót xa cho họ và viết lên những tác phẩm bất hủ có sức mạnh tố cáo mãnh liệt và cũng chứa đựng những
tình cảm yêu thương mãnh liệt. Trong ông, những giáo điều mang tính sách vở đã dần tan vỡ trước thực
tế khắc nghiệt; đã lớn dậy một tình yêu thương nhân loại sâu thẳm. Tình yêu thương ấy không chỉ dành
cho những sinh linh đất Việt mà cho cả những con người bất hạnh khốn cùng nơi Trung Hoa bạt ngàn gió
bão, cho cả nhân loại chúng sinh. Nguyễn Du là một nhà tư tưởng lớn và ở ông có nhiều nhận thức mới
mẻ đi trước thời đại, đặc biệt tập trung trong những giá trị nhân văn nổi bật của các tác phẩm, trong vấn
đề thay đổi nhận thức về thực trạng tư tưởng và thực trạng xã hội...
Đoạn trường tân thanh được viết bằng truyện thơ Nôm - một thể loại văn học thuần túy dân tộc, có
nguồn gốc sâu xa từ truyện thơ dân gian đã được bác học hóa và là sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du,
của văn học thế kỷ XVIII - XIX. Thể thơ mà Nguyễn Du lựa chọn là lục bát, cũng là một thể thơ thuần túy
dân tộc, đã tồn tại trong văn học dân gian từ lâu đời, là hình thức thể hiện của những bài ca dao, dân ca
làm say lòng người trong các lễ hội dân gian trải dài khắp mọi miền đất nước. Nhưng cũng chính thể thơ
lục bát qua bàn tay thiên tài của Đại thi hào đã được gọt rũa thành những viên châu ngọc ngời sáng vẻ
đẹp dân tộc. Lục bát, ca dao, dân ca sau Truyện Kiều đã trở thành một thứ lục bát, ca dao, dân ca đẹp
hơn, dân tộc hơn, vừa cao sang, vừa gần gũi. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã trở thành người “phục
hưng” những giá trị văn hóa, văn học mang tính bản địa của dân tộc, và ông đã phát triển đến đỉnh cao
những thành tựu tinh thần này, khiến chúng trở thành bản sắc của văn học Việt Nam trong khu vực và thế
giới.
Số phận con người, cũng như sự phê phán những mặt trái, hạn chế của chế độ phong kiến, đã trở
thành vấn đề cấp bách, được đặt ra một cách đầy gay gắt trong sáng tác của nhà thơ. Con người với thế

23
giới tâm hồn phong phú, với đời sống nội tâm sâu sắc, phức tạp và thân phận bi kịch của họ đã được
Nguyễn Du khám phá, phát hiện ở những tầng bậc sâu xa nhất. Ông trở thành một trong số rất ít nghệ sĩ
bậc thầy trên thế giới về nghệ thuật miêu tả tâm lý. Đại thi hào đã cho chúng ta thấy nỗi đau tinh thần, sự
giằng xé trong nội tâm con người còn đớn đau, vật vã hơn nhiều so với nỗi đau thể xác. Đây là một trong
những thành tựu nghệ thuật hết sức to lớn của văn học dân tộc mà Nguyễn Du là tiêu biểu.
Lòng thương xót, sự cảm thông, việc đề cao nhân cách, tài năng của người phụ nữ được Nguyễn
Du kế thừa từ tinh thần nhân văn của văn hóa dân tộc mà truyền thống tôn trọng người phụ nữ, tín
ngưỡng thờ mẫu đề cao vai trò người mẹ là những giá trị tiêu biểu. Những giá trị nhân văn trong các tác
phẩm của Nguyễn Du còn được Đại thi hào kế thừa từ tinh thần nhân đạo và dân chủ của văn hóa, văn
học dân gian, từ các giá trị nhân bản của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và từ tín ngưỡng, phong tục, tập
quán dân tộc. Tuy nhiên, nhà thơ không chỉ kế thừa mà đã nâng các giá trị nhân văn đó lên một bước
mới, đem lại cho nó giá trị nhân loại. Nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du đã
thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và những phẩm chất truyền thống cao quý của người phụ nữ Việt Nam như tấm
lòng thủy chung son sắt, sự nết na, thùy mỵ, bản lĩnh và nghị lực, thái độ coi trọng nhân cách, coi trọng
sự trắng trong của tâm hồn và thể xác... Nguyễn Du ca ngợi tài năng đặc biệt của Kiều - những thứ tài
không những không được người đời chấp nhận mà còn bị khinh rẻ, dập vùi. Sự tài hoa đã trở thành tiêu
chí của cái đẹp, cái thẩm mỹ. Ông không xây dựng nhân vật của mình thành một thánh nữ. Thúy Kiều
của Nguyễn Du hết sức đời thường, gần gũi, như bước vào trang sách từ chính cuộc đời thực.
Khác với quan niệm gò bó của Nho giáo, Nguyễn Du thông qua các tác phẩm của mình đã cho
chúng ta thấy chính tình yêu thương, trong đó có tình yêu đôi lứa, đã cảm hóa con người, làm con người
trở nên nhân đạo hơn, tốt đẹp hơn. Thúy Kiều của Nguyễn Du trong những giờ phút khắc nghiệt nhất của
cuộc đời đã nghĩ đến mối tình đầu với Kim Trọng và điều đó giúp nàng vượt lên khỏi cái chết, sự đau khổ
để tiếp tục sống và giữ gìn nhân phẩm của mình. Quan niệm của Nguyễn Du về chữ “trinh”, về nhân cách
con người thật mới mẻ, nhân đạo, phá vỡ những chuẩn mực đạo đức giáo điều xa rời thực tế của tư
tưởng chính thống. Thiên nhiên trong Đoạn trường tân thanh ở các đoạn miêu tả tình yêu đôi lứa đều hết
sức đẹp đẽ, rung động bởi nó mang tâm trạng và niềm vui của con người.
Khát vọng tự do, công lý, khát vọng chính nghĩa đều là những chủ đề lớn của văn học thế kỷ XVIII -
nửa đầu thế kỷ XIX được thể hiện một cách mãnh liệt trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đặc
biệt qua hai nhân vật Từ Hải và Thúy Kiều. Những khát vọng đó cũng là khát vọng của bao đời, được thể
hiện một cách mãnh liệt trong văn học dân gian và trong văn học viết dân tộc, đã được thể hiện một cách
tài hoa trong tác phẩm của Đại thi hào.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: “Trời còn để có hôm nay /Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa
trời”..; “Sen tàn cúc lại nở hoa..” hay “ Đến bây giờ mới thấy đây/ Mà lòng đã chắc những ngày một hai”...
Từ nửa thế kỷ trước, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, đất nước còn muôn vàn gian khổ, cùng với
Nghị quyết của Ủy ban Hòa bình thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã tổ chức Kỷ niệm 200 năm Ngày sinh
Nguyễn Du. Truyện Kiều đã cùng bao thế hệ thanh niên ra trận, đã ru những đứa bé trong hầm trú ẩn,
vang lên trong xưởng máy, trên ruộng đồng, ngõ xóm, cùng tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày
hôm nay, Nguyễn Du lại cùng chúng ta bước vào một kỷ nguyên mới của dân tộc: kỷ nguyên của hòa
bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, hội nhập với thế giới, sánh bước cùng nhân loại. Truyện Kiều đã có
những ảnh hưởng hết sức lớn lao trong đời sống xã hội, trong văn hóa và văn học, trở thành cuốn sách
của mọi người, tạo nên chung quanh nó một môi trường văn hóa đặc biệt với những hình thức như bói

24
Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, chèo Kiều, cải lương Kiều, v.v… Những người nông dân Hà Tĩnh quê hương
Đại thi hào đã cầm cuốn Kiều soi lên ánh mặt trời để cố tìm xem đằng sau những dòng chữ kia có chứa
đựng sức mạnh gì mà ghê gớm đến vậy? Vì sao mà nó có thể làm lay động lòng người sâu sắc đến
nhường vậy? Ngẫm thay, sức mạnh đó chính là sức mạnh của tình người, của những giá trị nhân văn,
nhân đạo sâu thẳm. Truyện Kiều chính là vật báu vô giá muôn đời của dân tộc luôn khiến nhân loại mãi
sững sờ chiêm ngưỡng. Những giá trị nghệ thuật mang bản sắc dân tộc của Nguyễn Du đã trở thành tài
sản chung của cả nhân loại.
Từ Đại lễ long trọng kỷ niệm 250 năm Ngày sinh Nguyễn Du, chúng ta mong muốn những tư tưởng
nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du sẽ được các thế hệ người Việt Nam và toàn thế giới biết đến nhiều
hơn nữa, bởi đây chính là chiếc cầu nối dân tộc ta với nhân loại. Đây cũng là dịp để tất cả chúng ta trân
trọng kế thừa, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, giới thiệu bản sắc văn hóa với bạn bè năm
châu, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước mà Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) đã đề ra. Di sản nghệ thuật của Nguyễn Du nói chung, kiệt tác Truyện Kiều
nói riêng mãi trường tồn, mãi mãi đồng hành cùng chúng ta trong công cuộc xây dựng một xã hội dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.

Tư liệu 9. Nguyễn Dữ và tác phẩm bất hủ Truyền kỳ mạn lục


THỨ BẢY, 04/07/2009 08:32:12
Nguyễn Dữ là con trai Nguyễn Tường Phiên, đỗ tiến sĩ năm Hồng Đức thứ27 đời Lê Thánh
Tông (1496), làm quan tới chức Thừa chánh sứ, sau khi mất, được phong chức Thượng thư và
được phong làm Phúc thần.
Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân xưa, nay là thôn Đỗ Lâm, xã Phạm Kha (Thanh
Miện). Chưa rõ ông sinh và mất năm nào. Nhưng căn cứ vào tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của ông và bài
tựa của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất đời Mạc Phúc Nguyên (1574) cùng những ghi chép
của Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, ta có thể khẳng định, Nguyễn Dữ là người cùng thời với Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491-1585).
Từ nhỏ, Nguyễn Dữ đã ham học, học giỏi, đọc rộng, nhớ nhiều và đã ôm ấp lý tưởng hành đạo.
Ông đã đi thi Hương, đỗ cử nhân; rồi đi thi Hội, đạt trúng trường và được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền,
nay là huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhưng chỉ được một năm, Nguyễn Dữ từ quan về quê phụng
dưỡng mẹ, ẩn cư nơi thôn dã, không hề bước chân trở lại chốn thị thành. Chính thời gian mấy mươi năm
xa rời cảnh bon chen, ông dồn tâm sức vào viết sách và đã để lại một tác phẩm bất hủ cho văn chương
Việt Nam: Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm văn chương kỳ lạ này ngay từ khi ông hoàn thành đã được
người đương thời trân trọng đón nhận. Hà Thiện Hán, một danh nho cùng thời với Nguyễn Dữ đã viết bài
tựa và một người cùng thời khác là Nguyễn Thế Nghi đã dịch Truyền kỳ mạn lục ra văn Nôm. Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống văn chương nước nhà đương thời cũng
như văn chương các thế kỷ nối tiếp. Nhiều danh sĩ ở thế kỷ XVI và thế kỷ XVII đã bình phẩm, hết lời ngợi
ca cái hay, cái lạ của bút lực Nguyễn Dữ. Sang thế kỷ XVIII, Vũ Khâm Lân, một tác gia lớn, đã đánh giá
Truyền kỳ mạn lục là "Thiên cổ kỳ bút"
Truyền kỳ là một loại hình văn học, thường được gọi là văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết, hoặc đoản
thiên tiểu thuyết, cổ điển tiểu thuyết, xuất hiện ở Trung Quốc vào cuối triều Tùy (581-618). Đến đời

25
Đường (618-907), văn chương truyền kỳ phát triển mạnh mẽ. Truyện truyền kỳ có đặc điểm là nhiều tình
tiết mang tính thần dị, lạ kỳ, bắt nguồn từ loại truyện chí  quái thời Lục triều. Loại hình truyền kỳ có vị trí
quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Ở nước ta, loại hình văn học truyền kỳ xuất hiện đầu tiên là tác phẩm Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên, đời Trần. Tiếp theo là Lĩnh nam chích quái của Trần Thế Pháp, thế kỷ thứ XV. Tập Thánh Tông di
thảo gồm 19 truyện của Lê Thánh Tông là những truyện truyền kỳ khá đặc sắc và đậm đà bản sắc Việt
Nam, đặc biệt là nhiều truyện mang tính ngụ ngôn. Nếu Thánh Tông di thảo là tác phẩm văn chương
truyền kỳ đánh dấu mốc quan trọng về sự trưởng thành của văn chương Việt Nam viết bằng chữ Hán thế
kỷ XV thì sang thế kỷ thứ XVI, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một thành tựu thật to lớn của văn
chương nước nhà. Và văn chương truyền kỳ của Nguyễn Dữ đã trở thành mẫu mực về thể loại này của
Việt Nam kể từ khi nó ra đời cho đến các đời sau.
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ kể về nhiều nhân vật, nhiều sự kiện kỳ lạ xảy ra từ thời Lý, Trần,
Hồ và thời Lê sơ. Với một tầm hiểu biết sâu sắc về con người, về cuộc sống và trí tưởng tượng phong
phú, một bút pháp linh hoạt, Nguyễn Dữ dẫn người đọc vào một thế giới huyền bí, lạ lùng, vừa có người,
vừa có thần. Xuyên qua lớp mù kỳ dị, linh ảo mà Nguyễn Dữ tạo ra một cách tài tình, ông khiến người
đọc nhận rõ cái thế giới thực của đời sống con người,  trong đó có nhiều kẻ quyền thế, độc ác, đồi bại. Đó
chính là những hình ảnh của xã hội mà Nguyễn Dữ đang sống, cái xã hội phong kiến vào thời kỳ suy yếu,
mục ruỗng. Tuy vậy, giữa xã hội mà cái xấu, các ác tác yêu, tác quái, Nguyễn Dữ vẫn nhìn rõ những
phẩm giá đầy tình yêu thương, cái chân, cái thiện vĩnh hằng trong dân chúng và ông đã miêu tả với tất cả
tấm lòng đẹp đẽ nhất của mình.
Trong Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, tất cả đều thể hiện thật rõ ràng thái độ nhân sinh, ý tưởng
đạo đức, quan điểm chính trị của Nguyễn Dữ. Ở cuối mỗi truyện, ông đều có một lời bình. Mỗi lời bình
hầu như là một sự tổng kết mang ý nghĩa triết lý do Nguyễn Dữ đúc rút từ những suy ngẫm của ông về
truyện đời, về tất cả buồn, vui, sướng, khổ của con người. Như trong truyện Chức phán sự điền Tản
Viên, kể về Ngô Tử Văn cương trực "thấy sự gian tà không chịu được", đã không khuất phục trước quyền
uy, Nguyễn Dữ  bình về nhân cách kẻ sĩ: "Than ôi, người ta vẫn nói cứng quá thì gẫy. Nhưng kẻ sĩ chỉ lo
không cứng được, còn gẫy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước sẽ gẫy mà chịu đổi cứng ra
mềm?...". Trong lời bình truyện Đối đáp của người tiều phu núi Nưa, Nguyễn Dữ như muốn mượn truyện
nhà Hồ để nói nên cái đạo trị nước mà các bậc vua chúa phải hiểu: "Bậc làm vua chúa cần lấy việc giữ
ngay lòng mình để làm cái gốc chính cho triều đình; cần sửa cho trăm quan ngay thẳng, sửa cho muôn
dân ngay thẳng, đừng để các kẻ ẩn dật nơi rừng núi phải bàn ra, nói vào, là tốt hơn cả".
Có thể nói trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã vượt ra khỏi sự gò bó, khắt khe, đầy hạn chế
của ý thức hệ đương thời. Vì vậy, văn chương của ông trở nên khoáng đạt, rộng rãi, nhất là khi ông viết
về tình yêu nam nữ. Nguyễn Dữ tỏ ra rất táo bạo, phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối.
Truyện của ông hấp dẫn người đọc chính vì ông đã biểu đạt vừa táo bạo, vừa sâu sắc cả sự đam mê,
lòng hân hoan, nỗi đau thương của cuộc sống con người. Nghệ thuật dựng truyện, xây dựng nhân vật
của Nguyễn Dữ đã vượt xa các tác giả trước ông vốn ít chú trọng đến đời sống riêng tư, ít chú trọng đến
tính cách nhân vật. Đó chính là giá trị to lớn của Truyền kỳ mạn lục, là đóng góp không nhỏ của Nguyễn
Dữ vào quá trình phát triển của văn học nước nhà.
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ - tư dung tốt đẹp, tài sắc vẹn toàn  nhưng lại có số phận đầy
bi thương, bị xã hội chà đạp, tước đoạt đi hạnh phúc, quyền được sống. Ấy vậy mà họ vẫn luôn toát lên

26
những phẩm chất, cao quý, tốt đẹp. Văn học trung đại Việt Nam đã khắc họa bức tranh hiện thực xã hội
đầy bất công oan trái mà người phụ nữ phải cam chịu và phẩm chất sáng ngời của họ. Tiêu biểu là các
tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân
Tiên của Nguyễn Đình Chiểu...

II. Phân tích điểm giống và khác nhau


1. Phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ.
Trong xã hội phong kiến, dường như tất cả mọi thứ đều bất công với người phụ nữ. Tình yêu
không, hạnh phúc không, tiếng nói cũng không. Nhưng, chính những áp bức đó đã làm sáng ngời lên
những đức tính, phẩm hạnh đáng quý, đáng trân quý của người phụ nữ. Người phụ nữ ngày xưa xuất
hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách.
Đọc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, ta thấy Vũ Nương đúng là một mẫu mực
của phụ nữ phong kiến với những phẩm chất đáng quý. Nàng «thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp», là chuẩn
mực của người phụ nữ Việt Nam. Trong đạo vợ chồng, nàng hết sức khôn khéo, hết sức chú trọng «giữ
gìn khuôn phép» để hy vọng có được một mái ấm gia đình hạnh phúc.
Rồi chiến tranh loạn lạc, nàng tiễn chồng ra trận với lời tống biệt dịu dàng, thiết tha mà chân thành:
«Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ
xin ngày về mang được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi … ». Đó là một tấm lòng của người phụ nữ Việt
Nam dung dị, không màng danh lợi, chỉ mong vun quén cho một mái ấm gia đình. Trong những năm
tháng đằng đẵn chồng còn ngoài nơi chiến địa, người thiếu phụ đáng thương ấy đã ra sức tần tảo nuôi
con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng, ngày đêm giữ gìn tiết hạnh hầu vun đắp dưỡng nuôi cho cái nguồn
hạnh phúc mà nàng đang mong đợi. Đối với mẹ chồng, nàng giữ vẹn đạo làm dâu thảo. Vũ Nương hết
lòng săn sóc, lo thuốc thang khi mẹ ốm đau và cả việc lo ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất… Còn gì quý
hơn là lời của người mẹ chồng  nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời. Trong
đôi mắt của người mẹ chồng, nàng là người có «lòng lành». Sự đảm đang hiếu nghĩa ấy cũng biểu hiện
phần nào tấm lòng son sắt của nàng đối với Trương Sinh. Có thể nói, đạo làm con, làm vợ, làm mẹ tất cả
đều được Vũ Nương thực hiện trọn vẹn… Và có lẽ vẻ đẹp tâm hồn nàng đẩy lên đến cao độ qua hình ảnh
chiếc bóng trên vách. Một chi tiết tưởng đơn giản ấy nhưng bao hàm biết bao ý nghĩa về lòng yêu
thương, thủy chung son sắt của nàng đối với chồng. Dù chiến tranh ngăn cách nhưng trong tâm hồn
nàng, hình bóng Trương Sinh vẫn khắng khít, gắn bó với nàng như hình với bóng không rời nhau. 
Đến với Nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, một trang tuyệt sắc giai nhân, một người con
có hiếu, một tấm lòng vị tha bao dung.
khi gia đình gặp tai biến Kiều đã quyết định hy sinh mối tình riêng để cứu cha và em. Hành động đó
khiến người đọc thật cảm phục:
“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”
Sống nơi đất khách quê người, nỗi nhớ về người yêu- biểu hiện của tình cảm chung thuỷ không hề
vơi đi trong tâm hồn người con gái đáng thương này: «Tấm som gột rửa bao giờ cho phai ? ». Kiều đã
không giấu nỗi nhớ nhung da diết mãnh liệt của mình đối với chàng Kim. Vừa mới hôm nào cùng với Kim
Trọng nặng lời ước hẹn trăm năm mà nay Kiều đã phải cắt đứt mối tình duyên ấy một cách đột ngột. Ngòi
bút Tố Như thật tinh tế khi kể về tình cảm Thúy Kiều nhớ về người yêu cũng phù hợp với qui luật tâm lí và
27
bộc lộ cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Chén rượu thề nguyền hôm nào dư vị còn đọng trên bờ môi, vầng
trăng như vẫn còn kia, mà lại xa xôi cách trở. Kiều đau đớn nhớ tới người yêu, tưởng như lúc này chàng
vẫn chưa hay biết việc nàng đã phải trầm luân trong gió bụi cuộc đời nên đang mong ngóng chờ đợi tin
tức của nàng một cách uổng công vô ích !
Còn về phần nàng thì “ Bên trời góc bể bơ vơ ”, biết đến bao giờ mới phai được tấm lòng son mà
nàng đã quyết định dành cho chàng từ cái buổi “thề non hẹn biển” hôm ấy. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao
giờ cho phai” có thể hiểu là tấm lòng son sắt, nỗi nhớ thương kim Trọng không bao giờ nguôi hoặc có thể
hiểu là tấm lòng son sắt, nỗi nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi hoặc có thể hiểu tấm lòng son
của Kiều đã bị dập vùi hoen ố biết bao giờ mới gột rửa được. Càng thương nhớ người yêu, Kiều càng
thấm thía tình cảnh bơ vơ trống trải của mình, nàng càng nuối tiếc những kỉ niệm đẹp đẽ của mối tình đầu
thơ ngây trong sáng.
Kiều còn quên hết nỗi đau riêng của mình mà dành tất cả tình cảm thương nhớ cho cha mẹ, nàng
thật là người có long vị tha:
“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ ?”
Những câu hỏi tu từ cứ sâu xoáy trong lòng người đọc về đắng cay cuộc đời.
Trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa vẻ đep của Kiều Nguyệt Nga nết na, ân tình,
son sắt của một cô gái khuê. Cách xưng hô “quân tử”, “tiện thiếp”, cách nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực
thước: “Làm con đâu dàm cãi cha”, “Chút tôi liễu yếu đào thơ - Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần”,
cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết thể hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình:
“Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.”
Nguyệt Nga là một con người rất mực đằm thắm, ân tình. “Ơn ai một chút chẳng quên”, huống hồ
đây lại là một cái ơn rất lớn, không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời con gái trong trắng của
nàng:
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.”
Và cuối cùng nàng tự nguyện gắn bó cuộc đời với chàng trai khẳng khái, hào hiệp đó, và đã dám
liều mình để giữ trọn ân tình thuỷ chung với chàng. Sự thuỷ chung ấy còn khắc hoạ đậm nét con người
ân tình của Kiều Nguyệt Nga.
2. Số phận bất hạnh, bi kịch:
"Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."
Lời ai oán trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du giống như một
điệp khúc rùng rợn. Đây không phải là một lời nói quá mà điều này lại được thể hiện khá phổ biến trong
văn học Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến suy tàn lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé
nhỏ, long đong, lận đận. Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ
điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ). Vũ
Nương là một bi kịch của gia đình, của số phận phũ phàng của người phụ nữ trong xã hội đầy bất công
oan trái. Niềm vui hạnh phúc gia đình không được bao lâu, rồi chiến tranh loạn lạc, nàng phải một mình
một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua

28
hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến,
bóng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ
vô tình mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không hỏi cho rõ ràng mà đánh
đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh.Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ
Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người trong oan khuất. Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch
gia đình.
Bên cạnh Vũ Nương, một hình ảnh nổi bật nữa là nhân vật Thuý Kiều trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du. Ngay từ đầu tác phẩm, nhận định của tác giả "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" đã
dự báo cho điều đau đớn này. Thuý Kiều mang một vẻ đẹp đằm thắm, mảnh mai là thế, tài sắc lại vẹn
toàn hiếu nghĩa, đáng ra nàng phải được sống hạnh phúc, êm ấm, vậy mà do một biến cố trong gia đình
nàng đã phải bán mình chuộc cha. Bất hạnh này mở đầu cho hàng loạt bất hạnh khác mãi cho tới khi
nàng tìm tới sông Tiền Đường để chấm dứt số kiếp trầm luân. Dẫu biết kết chuyện Thúy Kiều được về
sum họp với gia đình nhưng cả một kiếp người trôi nổi truân chuyên ấy đã vùi dập cả một giai nhân tài
sắc vẹn toàn. Độc giả đã khóc cho bao lần chia phôi vĩnh viễn, những tháng ngày sống không bằng chết
trong lầu Ngưng Bích, những nỗi tủi nhục vò xé thân mình của Thuý Kiều. Số phận bi đát ấy. Bi kịch tình
yêu của người con gái tài sắc đã khiến muôn đời sau phải thốt lên "Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”
(Tố Hữu).
Còn Kiều Nguyệt Nga trong Truyện Lục Vân Tiên, một cô gái thủy chung son sắt, một tấm lòng
trọng nghĩa, hiền thục thì bị cường quyền hãm hại phải đi cống giặc Ô Qua, đến đỗi nàng phải trầm mình
tự vẫn.
Có lẽ bi kịch của Vũ Nương và Thúy Kiều hay Kiều Nguyệt Nga không phải là trường hợp cá biệt
mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế
độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát.
Đó không chỉ là tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực
và tiền bạc lộng hành, đồng thời cũng gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh
đau đớn. Với chế độ nam quyền: "Trọng nam khinh nữ ", người phụ nữ đã bị tước đoạt mọi quyền lợi
chính đáng, nhân phẩm họ bị rẻ rúng. Họ bị ràng buộc bởi những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt như đạo
"tam tòng ", hay các quan niệm lạc hậu như "nữ nhân ngoại tộc"… Số phận của người phụ nữ hoàn toàn
bị phụ thuộc, chà đạp, thậm chí còn bị coi như món hàng trong bi kịch cuộc đời.
Điểm hội tụ nét đẹp của văn chương chính là sự đồng điệu trong tâm hồn của trái tim nhà nghệ sĩ
đó chính là tinh thần nhân đạo cao đẹp, là ước mơ về hạnh phúc cuộc đời. Nguyễn Dữ đã thể hiện thế
giới thủy cung tuy huyền bí, hoang đường nhưng vẫn đầy ấp nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Du tái hợp
Kim – Kiều trong “mang duyên cầm sắt đổi duyên cầm kỳ” dẫu có đôi chút gượng gạo nhưng vẫn ánh lên
tình đời bao dung, Nguyễn Đình Chiểu đã để Lục Vân Tiên đoàn tụ Kiều Nguyệt Nga cũng là điểm son
nhân hậu. 
III. Đánh giá chung:
Thời gian đã lùi xa hàng bao thế kỉ nhưng những tác phẩm tâm huyết trên vẫn gây xúc động sâu xa,
nhức nhối trong lòng người dọc. Bởi lẽ các tác phẩm đã lên tiếng phản ánh xã hội phong kiến bất công
gây đau khổ cho người phụ nữ. Song song đó, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện lên thật đáng trân
trọng và tự hào về người phụ nữ Việt với những phẩm chất tuyệt vời. Đó là vẻ đẹp truyền thống: đảm
đang, vị tha, thủy chung son sắt, giàu đức hi sinh. Vẻ đẹp đó mãi mãi là hạt ngọc đáng trân quý./.

29
30

You might also like