You are on page 1of 99

Nói với con

Ngô Thế Vinh cho rằng: “Lời là tiếng nói của con tim, văn chương là cái làm cho
lời dài thêm vậy”. Tức thơ ca nói riêng và văn học nói chung là nơi kí thác những tâm sự,
những nỗi niềm của trái tim thi nhân. Từ ấy, mỗi khi ngâm khẽ tiếng thơ ta luôn giác ngộ
được đâu đây một lời nhắn nhủ chân thành của chính người viết dành cho ai đó, cho nhân
sinh và cho cả cuộc đời. Ngược dòng thời gian trở về với địa hạt thơ ca năm 1980, có một
thi phẩm đặc sắc đã ra đời, đó là "Nói với con" của Y Phương. Bài thơ là một khúc nhạc
đan xen nhiều cung bậc, vừa mộc mạc, nhẹ nhàng vừa hàm súc, cô đọng, vừa thủ thỉ tâm
tình, vừa triết lý sâu xa. Y Phương đã gợi nhắc cho con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi
sinh linh trên cõi đời này, về vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình.
Y Phương là một ngòi bút xuất sắc và tiêu biểu. Tác phẩm của ông khẳng định
được vị thế riêng trong thơ ca hiện đại bởi một “chất giọng” đặc trưng của người Tày,
vừa đậm đà bản sắc “người đồng mình", vừa rộng mở, giao hòa với vùng văn hóa rộng
lớn để hợp lưu thành con sông văn chương Việt Nam. Nhà thơ Y Phương vẫn miệt mài
trên cánh đồng chữ nghĩa, cần mẫn gom nhặt và làm sống dậy những giá trị nhân văn
trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980,
in trong "Thơ Việt Nam 1945 - 1985". Thi phẩm là lời tâm sự của ông với đứa con gái
đầu lòng, cũng là lời tâm sự với chính ông. Ngòi bút Y Phương đã khơi gợi trong lòng
độc giả những xúc cảm dạt dào khi hướng về cội nguồn, về gia đình, về mảnh đất mình
sinh ra và vẻ đẹp của những con người nơi ấy.
Thi phẩm mở ra với khúc nhạc dạo đầu gợi lên hình ảnh một gia đình đầm ấm,
hạnh phúc, ngọt ngào yêu thương:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Xuyên suốt bốn câu thơ là những hình ảnh đối xứng "chân phải - chân trái", “một bước -
hai bước", "tiếng nói - tiếng cười", "cha - mẹ". Bốn câu thơ dùng với 15 thanh trắc, như
15 phím đàn tấu nên những âm điệu gân guốc. Ngâm khẽ tiếng thơ, bất chợt ta mường
tượng đến cảnh đứa trẻ chập chững đi những bước đầu đời, vấp ngã, òa khóc rồi lại khúc
khích đứng lên trong vòng tay chở che dìu dắt, trong ánh nhìn trìu mến của song thân.
Bên phải con là "tình cha ấm áp như vầng thái dương", bên trái con là "nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra", con bước đi trong vòng tay chăm chút, trong niềm mừng vui
đón nhận của gia đình. Mẹ cha cẩn thận đếm từng bước đi của con “một bước”, “hai
bước” với hết thảy những nâng niu, trong chờ, dõi theo từng cử chỉ, từng bước chân bé
nhỏ.Thước phim được chuyển đến cảnh đứa bé bi bo tiếng "cha", tiếng "mẹ" ngọng nghịu
trong niềm tự hào, niềm vui rạo rực và cảm xúc vỡ òa của mẹ cha. Con như sứ giả của
hạnh phúc mà Thượng Đế đã ban tặng cho gia đình mình, biết bao lo toan, mệt nhọc của
cha mẹ đều vượt qua được là nhờ vào "tiếng nói", "tiếng cười" của con. Là một thi sĩ
từng đi lính âm hưởng, trong thơ của Y Phương còn vang lên những tiếng "một - hai",
"một bước - hai bước" như chính khẩu hiệu đi đều của khúc ca hành quân. Tiếng thơ cứ
thế vấn vương, khơi gợi trong "ốc đảo" tâm hồn con thơ và bạn đọc muôn đời một điều
tâm niệm của người cha: gia đình là cội nguồn sự sống là chốn bình yên luôn yêu thương
con vô điều kiện, luôn đón chào, ôm ấp con.
Gia đình trao cho con sinh mạng, và con lớn lên, trưởng thành còn nhờ vào cuộc
sống lao động, văn hoá của người làng mình, nhờ quê hương thơ mộng và thiên nhiên sâu
nặng nghĩa tình:
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Với tình cảm tha thiết, chân thành, Y Phương đã nhắc đến "Người đồng mình" qua
câu thơ chan chứa âm điệu trìu mến, kết đọng trong một từ "yêu". "Yêu" ấy là gắn bó, là
cảm mến và tự hào. Các động từ "đan, cài, ken" nối tiếp nhau gợi đến quá trình lao động
miệt mài, tỉ mỉ. Người đồng mình lao động với bản chất khéo léo, với đôi bàn tay cần
mẫn đan những nan tre, nan nứa để chiếc lờ - một dụng cụ đánh bắt cá bình thường cũng
mang dáng hình của “nan hoa”. Phải chăng "nan hoa" mà tác giả nhắc đến còn phúng dụ
cho sự "đom hoa kết trái", những thành quả của tháng ngày hăng say làm việc. Vách nhà
của người Tày không chỉ được ken bằng ván gỗ mà còn bằng cả câu ca, tiếng hát hồn
nhiên, vui tươi. Khi những tia nắng yếu ớt cuối ngày ngất lịm phía sau lưng đồi, họ quay
quần bên nhau trong một ngôi nhà rong để cùng hát ca, nhảy múa, để cuộc sống thêm tràn
ngập niềm vui. Lối liên tưởng “vách nhà ken câu hát” còn ẩn chứa một nét văn hóa phi
vật thể của người dân tộc. “Vách nhà” là chứng nhân cho tình yêu lứa đôi. Những đêm
trăng sáng lở lửng trên đỉnh đầu, người con trai ngồi ngoài vách, người con gái ở bên
trong vách. Họ cùng nhau tâm sự những vui buồn của cuộc sống, hát cho nhau nghe
những bản tình ca tuổi trẻ, hát tràn đêm đến sáng bạch. Từ những câu hát ấy, tình yêu
được kết tinh, nghĩa vợ chồng son sắt được hình thành.
Khi viết về quê hương, nếu nhà thơ Tế Hanh nhớ về dòng sông quê xanh biếc
"nước gương trong soi tóc những hàng tre" thì Y Phương thì lại viết về núi rừng và
những con đường nghĩa tình. Rừng cho hương sắc của hoa, rừng che chở, cung cấp nguồn
nhựa sống dồi dào và duy trì sinh kế cho người dân tộc. Với người dân chài:
"Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào"
( Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận )
Còn với người dân Tày, những cánh rừng hoa ban trắng xòe tinh khôi hay hồng
tím nhẹ nhàng đã làm đẹp cho cuộc đời và dạy cho họ biết yêu quý thiên nhiên. Dường
như tất cả những gì tinh túy, đẹp nhất mẹ thiên nhiên đều ưu ái ban tặng cho con người.
Không phụ tấm lòng thiên nhiên, người đồng mình đã sống hòa mình gắn bó và trân quý
rừng thiêng sông núi. "Con đường" cũng mở rộng vòng tay chào đón những đứa con về
với làng, với bản, đón chào "những tâm hồn" đôn hậu, bình dị, hồn nhiên, vô tư. Nhờ nó
mà con người có thể đến gần với nhau. Vì thế, con đường là sợi chỉ đỏ kết nối tình cảm,
cũng là sợi tơ duyên để nối kết những tâm hồn, trong đó có cha và mẹ. Hình ảnh “ngày
cưới” là “ngày đầu tiên”, là ngày “đẹp nhất”, đáng nhớ nhất trong đời. Ngày cưới - ngày
mà lời ca của cha mẹ trong những đêm trăng tròn đã tạo nên tình yêu trọn vẹn. Ngày cưới
- ngày khởi đầu ngày đặt nền móng cho hạnh phúc gia đình. Nhìn con khôn lớn, suy
ngẫm về tình nghĩa làng bản quê nhà, nhà thơ muốn con biết chính quê hương đã tạo cho
cha mẹ cuộc sống hạnh phúc, mạnh mẽ, bền lâu. Dặn dò con về quê hương ,về “người
đồng mình “, nhà thơ “chắt” vào con ý thức nhân sinh đẹp đẽ, đó là tình yêu quê hương,
bản quán.
Thi sĩ đã nâng nâng niu, ôm ấp và thổi vào hồn thơ vẻ đẹp phẩm chất của người
dân Tày:
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn"
Mỗi lần nhắc đến "người đồng mình", trái tim Y Phương lại thổn thức cất tiếng "yêu lắm"
và "thương lắm". Thứ tình cảm ấy cứ tha thiết chân thành, ngân dài bất diệt trong xuyên
suốt một bài thơ và cả một đời thơ. Có lẽ từ "thương" mang trong mình một cung bậc
cảm xúc da diết, trìu mến hơn "yêu". “Thương” ấy còn ẩn chứa một cái gì đó nghẹn ngào,
xót xa. Hình ảnh sóng đôi "nỗi buồn - chí lớn" phúng dụ cho phẩm tính của người dân
Tày. "Nỗi buồn" gợi đến đời sống tâm hồn rộng mở của người đồng mình được dựng xây
từ những nỗi niềm trầm tư. Còn "chí lớn" là ý chí quật khởi, khát vọng sống mãnh liệt.
Bằng lối tư duy hình tượng độc đáo, tác giả đã lấy thước đo vô cùng, vô tận của không
gian để thể hiện tầm kích tình cảm, chí hướng của con người. Có thể nói, cuộc sống của
người đồng mình vẫn còn đó những nỗi buồn thầm kín, những nỗi lo mưu sinh, cơm áo
gạo tiền. Song, họ sẽ vượt qua tất cả như hoa hướng dương vươn mình chiêm ngưỡng
cuộc đời, bởi trong họ luôn thường trực ý chí và nghị lực cùng niềm tin vào tương lai tươi
sáng của dân tộc.
Người đồng mình dù phải oằn mình trong nghèo khổ, gian nan thì tình cảm thủy
chung gắn bó với quê hương, cội nguồn vẫn mãi vẹn nguyên vẹn toàn:
"Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung
nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc" Ba chữ “dẫu làm sao” đặt ở đầu câu thơ làm nhịp thơ thoáng chốc
ngập ngừng. "Dẫu làm sao” chăng nữa, dẫu cuộc đời có “vạn biến” khó lường, "cha vẫn
muốn" con giữ được tâm thế “bất biến”, không được quên cội nguồn sinh dưỡng. Có lẽ
cõi lòng người cha chứa đầy những dự cảm, đau đáu, lo âu về cái thời kỳ mà "cả xã hội
lúc bấy giờ đang hối hả gấp gáp kiếm tìm tiền bạc". Và nối tiếp dự cảm là khao khát, là
lời nhắc nhở con cũng như căn dặn chính mình phải biết tự hào, gìn giữ và lưu truyền nếp
sống ngàn đời của tổ tiên. Điệp từ “sống”, điệp cấu trúc cùng các hình ảnh "sống trên đá,
sống trong thung" gợi lên cuộc sống đầy những gam màu lao lực, gian khổ. Thành ngữ
"lên thác xuống ghềnh" tạo nhịp vận động không ổn định như chính cuộc sống bấp bênh
của những người con bản làng thắm đẫm môi hôi trên từng thửa ruộng. Có những kiếp
người "dầm chân trong đời nghèo”, triền miên trong nỗi bâng khuâng "quê tôi còn nghèo
lắm"( Tiếng hát tháng giêng) nhưng họ vẫn "không chê" đá, nghĩa là không chê mảnh đất
nghĩa nặng tình sâu. "Không chê" thung, nghĩa là không chê cuộc sống lam lũ, nghèo khổ
và "không lo", không ngại nhọc nhằn, thiếu thốn. Với sự lạc quan, nghị lực cùng tình yêu
xứ sở, đồng bào nơi đây tìm mọi cách để thích nghi và vươn lên cái khắc nghiệt, để ươm
mầm hạnh phúc và hy vọng. Một lòng dành trọn tâm tư cho quê hương, nhà thơ Y
Phương vẫn giữ nguyên vẹn những "rung động bằng trái tim suối nguồn và suy tư bằng
sừng sững đá”. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi đến sức sống bền bỉ, sống
giao hòa với thiên nhiên bốn bề. Người đồng mình sống với tâm hồn tràn đầy sinh lực,
rộng mở, lãng mạn và khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ
tựa như dòng sông trong veo và ngọt lành đã tưới mát những tâm hồn lạc lõng giữa muôn
trùng nỗi buồn. Tiếng thác suối thì thầm vang vọng, mang theo cả bóng dáng quê hương
khắc tạc vào linh hồn người Tày, giúp họ thêm kiên định "sinh hoạt như những người
Tày ngay giữa lòng Thủ đô..."
Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã ngợi ca nét đẹp tự lập từ cường và tinh thần
tự tôn dân tộc của người đồng mình:
"Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục."
Tác giả đã gặt hái được thành công nhờ hình ảnh đối lập tương phản giữa hình
thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong. Người miền núi bàn tay chai sạn, da thịt thô
ráp, và chính sự "thô sơ da thịt" ấy đã tạo cho người Tày một nét đẹp chất phác, thật thà.
Song, người quê mình “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Bởi trong họ, ý chí nghị lực đã
thấm nhuần máu xương, cốt cách tự tôn đã ăn sâu da thịt và niềm tin, niềm kiêu hãnh
chưa bao giờ vơi cạn. Giản dị, hồn hậu mà mạnh mẽ, kiên gan đã trở thành phẩm chất
ngàn đời của người miền núi. Hình ảnh "tự đục đá" gợi về một nét văn hóa gắn liền với
cuộc sống của "người đồng mình". Đó là việc họ đẽo đá kê chân cột nhà, làm nên những
lối đi nghĩa tình... Sự liên hoàn của ba thanh trắc " tự - đục - đá" tạo nên thứ âm điệu trúc
trắc nhằm tái hiện nỗi nhọc nhằn của “người đồng mình” trong việc kiến tạo quê hương
trên đá. Sự liên hoàn của các thanh bằng “kê - cao - quê - hương” lại mở ra hình ảnh một
thế đứng, một tầm vóc cao vời vợi của quê hương giữa mênh mang đất trời. Bằng chính
đôi bàn tay khéo léo cùng tinh thần tự lực tự cường, họ đã xây đắp và nâng đỡ quê hương
thăng hoa trên những nấc thang phát triển. Âm điệu chuyển từ trúc trắc đến nhẹ nhàng tựa
như một thước phim về hành trình của quê hương từ thuở “khai thiên lập địa” đầy khó
nhọc, nặng nề đến khi ung dung, khoan khoái đứng vững trên những “gập ghềnh” của đá.
Chính cuộc hành trình phảng phất những giọt mồ hôi, nước mắt ấy đã làm nên truyền
thống, làm nên phong tục cho mảnh đất quê hương. Và những truyền thống tốt đẹp của
bản quán là nền tảng, là điểm tựa tinh thần vững chắc để từ đó ta được lớn lên, được
trưởng thành, được "sống đàng hoàng như một con người".
Bốn câu thơ ngắn dài đan xen ở cuối thi phẩm vừa khép lại "khúc nhạc đàn tính" -
Nói với con, vừa khơi gợi trong lòng người đọc biết bao suy tư về lời thủ thỉ thiết tha,
chân tình của Y Phương dành cho con:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
Tiếng gọi "con ơi" được lặp đi lặp lại trong bài thơ như chan chứa niềm mong mỏi
rằng lời dạy của cha sẽ mãi bên con, cùng con vượt qua sự đời "thương hải tang điền". Ý
thơ “Tuy thô sơ da thịt” một lần nữa được xướng lên càng trở nên da diết, sâu sắc hơn.
Có lẽ dụng ý của nhà thơ là muốn mượn cái hình thức giản dị bề ngoài của thôn làng đơn
sơ để gợi nhớ đến truyền thống vĩ đại của quê hương, khắc sâu trong con những phẩm
chất cao đẹp của “người đồng mình”. Rồi một mai này đây, con chẳng còn chập chững
những bước đi đầu đời, con bắt đầu khăn gói "lên đường", va vấp với xã hội ngoài kia.
Rồi một mai này đây, cha thấy bóng lưng đứa trẻ năm nào đang rảo bước trên con đường
đời, con đường của chân trời mới, con đường dẫn đến thế giới của "người trưởng thành".
Mong rằng khi ấy, con phải thật mạnh mẽ, vững vàng, không được "ôn nghèo kể khổ",
yếu mềm buông xuôi trước những thách thức của cuộc đời. Cách nói “nghe con” như một
lời khuyên chí tình dành cho con, cũng như thế hệ trẻ được nuôi nấng trong tình thương
của buôn làng. Hãy nhớ rằng gia đình và quê hương luôn dõi mắt theo những bước chân
của con như một người cha, luôn dang rộng vòng tay ôm con vào lòng như một người
mẹ, để chữa lành những vết xước trong con, để con có thêm dũng khí, sức mạnh và niềm
tin. Bởi vậy, con hãy sống sao cho xứng đáng với truyền thống của quê hương, với cái
nôi linh thiêng của mình.
Bài thơ có bố cục chặt chẽ, phong cách miền núi với ngôn ngữ “thổ cẩm” rất độc đáo.
Hình ảnh đối xứng, mộc mạc giàu liên tưởng. Thi phẩm còn là sự hòa hợp nhuần nhuyễn
giữa tư duy hình tượng của người dân tộc và tư duy thơ Tượng trưng, Siêu thực hiện đại.
Chất miền núi thấm sâu, lan tỏa trên từng câu thơ song hành cùng giọng điệu thiết tha trìu
mến như đã góp phần làm sáng toả, nổi bật lên những lời thủ thỉ, tâm tình mà "Nói với
con" muốn truyền tải. Nhà thơ Y Phương đã chọn cách sáng tạo thơ rất nhạy bén, sâu sắc,
tinh tế, liền mạch và tự nhiên thể hiện tình yêu của mình đối với con, với quê hương xứ
sở.
Chất thơ sung mãn, lối viết khoáng đạt giàu hình ảnh, giàu sắc thái dung hòa con người
với tự nhiên đã tạo cho "Nói với con" của Y Phương một sức sống bền bỉ. Sức sống ấy
không chỉ ở ngôn từ, mà nó đã bật trào ra khỏi con chữ và phập phồng trên trang giấy.
Tiếng thơ là lời răn dạy của người cha, mong rằng dẫu mai này con có đi vào biển người
tấp nập, dấn thân vào nơi hào nhoáng của đô hội, con cũng phải biết "uống nước nhớ
nguồn", biết rằng mình sinh ra là nhờ cái nôi hạnh phúc của gia đình, nhờ những truyền
thống tốt đẹp của quê nhà. Cha cũng mong con phải khắc cốt ghi xương hai tiếng "quê
hương" vào tâm hồn và trái tim như Xuân Quỳnh từng viết:
"Mỗi người có một quê
Ngày dại thơ để ở
Tuổi thiếu niên để yêu
Và lớn lên để nhớ…"
"Nói với con" đã lẳng lặng trở thành một bài thơ đời. Để rồi có những phút ngã
lòng, ta vịn vào thi phẩm để thêm yêu gia đình, để biết tự hào, giữ gìn và phát huy những
giá trị tích cực của văn hoá dân tộc ta.
Viếng lăng Bác.
"Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh
Môi ta thầm kêu Bác: Hồ Chí Minh!"
( Sáng tháng năm - Tố Hữu )
Bác Hồ - tiếng gọi trìu mến trên môi mọi người, tiếng gọi thân thương đã hoà vào
dòng máu của những người con đất Việt. Người là nguồn cảm hứng bất tận trong làng
văn học nước nhà, "tên Người là cả một niềm thơ". Mỗi thi phẩm viết về Bác tựa như một
ô cửa mở ra cảm xúc dạt dào, lòng kính yêu cùng niềm rung động khôn nguôi. Chế Lan
Viên viết "Người đi tìm hình của nước” - một bài thơ mang âm hưởng sử thi để tái hiện
hành trình kéo dài từ khi rời xa quê hương đến phút giây Bác trở về hôn lên hòn đất Tổ
quốc. Còn Viễn Phương, ông đã chấp bút viết nên một "Viếng lăng Bác" với hết thảy
những tình cảm kính trọng, yêu quý và niềm thương nhớ dành cho người cha già của dân
tộc. Đến với tiếng thơ, ta được ngắm nhìn quang cảnh trước lăng Bác và đắm mình trong
dòng cảm xúc của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác và trước lúc ra về.
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ
giải phóng ở miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông mang hơi thở
của sự dung dị, cảm xúc sâu lắng thiết tha, ngôn ngữ thơ đậm đà màu sắc Nam Bộ.
"Viếng lăng Bác" là thi phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy, cũng là hồn thơ nổi tiếng
khiến ông có được vị trí trong lòng độc giả. Một năm sau khi đất nước được giải phóng,
lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, trong một lần ra Bắc, thăm lăng Bác,
nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc chân thành, dào dạt của mình và nhân dân miền Nam dành
cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc khi Người đã đi xa qua bài thơ “Viếng lăng Bác”. Thi
phẩm được sáng tác vào tháng 4/1976, in trong tập thơ "Như mây mùa xuân" ( 1978 ).
Bài thơ mở đầu với thứ âm hưởng thật tự nhiên, như một lời bộc bạch nhẹ nhàng,
một lời thông báo reo vui:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"
Cặp từ xưng hô đậm chất Nam Bộ "Con – Bác" sao mà gần gũi, thân thiết như
những người sống chung dưới một mái nhà, ăn chung bữa cơm và cùng dìu dắt lẫn nhau
đi qua những nắng gió cuộc đời. Tựa như mối liên kết giữa Bác và miền Nam, không có
khoảng cách vời vợi xa xôi, không có bức tường hay ranh giới nào giữa vị lãnh tụ và dân
thường. Đối với Bác, miền Nam yêu quý luôn ở trong tim. Đối với miền Nam, Người là
anh, là bác, là cha. Tình cảm ruột thịt thân thương, mộc mạc, đầy trìu mến ấy cứ cũng
xuất hiện trong hồn thơ Tố Hữu:
"Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha"
Với Viễn Phương, với hàng triệu người dân của mảnh đất hình chữ S này, Bác mãi
sống trong trái tim chúng ta. Đây hẳn là lí do mà tác giả sử dụng từ "thăm", một cách nói
giảm nói tránh đầy tinh tế. Mang theo cả trái tim miền Nam đang từng ngày mong mỏi,
thiết tha hướng về Bác Hồ, mang theo nỗi niềm của một người con dành cho cha, Viễn
Phương đến thăm Người, một chuyến thăm từ miền Nam. Chuyến thăm từ mảnh đất "đi
trước về sau", chịu bao nỗi đau chia cắt dưới gót giày của kẻ xâm lân. Chuyến thăm từ
Nam Bộ quật khởi, bất khuất, sáng mãi danh hiệu "Thành đồng Tổ Quốc".
Trong niềm vui, niềm hân hoan, rạo rực vì được viếng lăng Bác đang dào dạt dâng
lên, nhà thơ xúc động ngắm nhìn quang cảnh trước lăng Bác:
"Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp, mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Từ xa, nhà thơ đã nhận ra trước hết, qua làn sương trắng, hình bóng yêu thương, quen
thuộc của hàng tre Việt Nam, được miêu tả qua những từ láy "xanh xanh", "bát ngát".
Thán từ “Ôi!” dùng để bộc lộ cảm xúc mãnh liệt, tha thiết khi nhìn thấy hàng tre đĩnh
đạc, uy nghiêm không khác gì những anh chiến sĩ trung kiên ngày đêm đứng gác, canh
giữ cho giấc ngủ an lành, bình yên của Bác Hồ kính yêu. Hẳn rằng, cũng như mọi người
dân Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre đã trở thành tri âm tri kỉ đời đời gắn bó,
thân thuộc với quê hương làng xóm. Tre là biểu tượng cao đẹp nhất, là hình ảnh ẩn dụ
cho phẩm chất con cháu Lạc Hồng. Dáng dấp tre hiên ngang, bất khuất, thách thức cả
“bão táp mưa sa” gợi tư thế quật cường, mạnh mẽ của một đất nước nhỏ bé trên bản đồ
thế giới. Chính quốc gia ấy đã ghi tạc tên mình trong những trang sử chói lọi, hùng tráng,
như một thần thoại oanh liệt. Tre không cao lớn, tre chẳng phải loài cây đáng giá ngàn
vàng, nhưng tre mãi vững vàng trước bão giông. Như Bác Hồ ta suốt đời sống giản dị,
chẳng khoa trương mà cứ lặng lẽ, kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Mạch cảm xúc của Viễn Phương ngày càng xao động khi hoà nhập trong dòng
người vào thăm lăng Bác. Bao suy tưởng của ông cũng được thắp sáng qua những dòng
thơ:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
Mặt trời trong tư cách thực thể tự nhiên là chúa tể của vũ trụ. Mặt trời ấy ngày
ngày ban ánh sáng đến muôn loài, truyền cho thiên nhiên sức sống, để mầm non trỗi dậy,
để hoa nở rộ, để trái cây ngọt lành. Mặt trời ló dạng cũng là thời điểm con người bắt đầu
ngày mới với bộn bề cuộc sống. Thế nhưng luồng ánh sáng linh thiêng của vũ trụ cũng
ngỡ ngàng, im lặng thao thức trước một mặt trời cao cả, vĩ đại trong lăng. Với nghệ thuật
liên tưởng, ẩn dụ đặc sắc, Viễn Phương đã khéo léo ví Bác như một mặt trời chân lí "rất
đỏ". Người xuất hiện như một vầng dương bừng sáng giữa rặng núi xa xăm, mang đến
những giọt nắng ban mai xua tan đi đám mây đen mù mịt, tăm tối bao trùm lên chữ S,
sưởi ấm đêm đông lạnh lẽo, đớn đau. Dưới sự soi đường, dẫn lối của ánh sáng cách mạng
mà Bác mang đến, những đời nô lệ câm lặng, những kiếp người lầm than đang thoi thóp
trong bàn tay quân thù đã đứng lên với gạy tre, giáo mác, cuốc, gươm mà anh dũng bẻ
gãy đi mọi cùm gông, xiềng xích, khép lại quá khứ "một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một
trăm năm đô hộ giặc Tây..."(Trịnh Công Sơn). Mặt trời của thiên nhiên có khi chói chang
như hòn lửa, khi lại khuất bóng hoàng hôn. Nhưng những tư tưởng của Bác là chân lý
sáng ngời, trường kì bất tử.
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Điệp từ “Ngày ngày” được nhắc đi nhắc lại như khắc sâu một quy luật đều đặn,
một vòng tuần hoàn của thời gian. Ngày ngày, những dòng người trầm lặng gác lại mọi lo
toan, công việc để đến thăm Bác, mang theo hành lí là tình cảm thương nhớ khôn nguôi,
lòng yêu quý, kính trọng không gì có thể xóa mờ, che lấp được. Nhà thơ Viễn Phương đã
liên tưởng dòng người kéo dài ấy là một tràng hoa vô tận dâng lên Bác. Những cánh hoa
được kết lại từ niềm tiếc thương thẫm đẫm vào dòng máu, từ lòng thành kính khắc ghi
mãi tên Người vào trái tim. "Bảy mươi chín mùa xuân" của một đời người, một kiếp
sống. Đó là những tháng năm Bác đã cống hiến vì toàn dân, đã đem ánh sáng của chân lí,
của cách mạng lan toả từ rừng sâu hẻo lánh đến đỉnh đồi xa xâm, từ thị thành phố huyện
đến đồng nội xanh rì.
Niềm xúc động nghẹn ngào đã chiếm lĩnh mạch suối tâm tưởng của thi sĩ khi ông
đứng trước linh cữu của vị lãnh tụ:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng diệu hiền"
Tác giả lại một lần nữa sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh, Bác chỉ đang ngủ
một giấc thật dài sau những đêm canh cánh trăn trở vì "thương đoàn dân công", vì lo nghĩ
cho tương lai đất nước. Một "giấc ngủ bình yên" gợi đến sự ra đi thanh thản, nhẹ nhàng,
an yên bởi Người đã toại nguyện mong ước của mình như chính Bác xác định “Nay dù
phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận...”. Nhận thức của Tố Hữu về
sự ra đi của Bác cũng vậy:
"Như thế, Người đi... Phút cuối cùng
Nhẹ nhàng, thanh tịnh, rất ung dung"
Trọn đời, Bác cứ bình lặng, giản dị, ân cần như một "vầng trăng sáng dịu hiền".
Vẻ đẹp hiền từ, đôn hậu, giản dị của Người cứ hiện lên trong trí óc của ông, như ánh
trăng thanh khiết, vĩnh hằng treo lơ lửng trên quả tim. Không khó để nhận ra vầng trăng
vằng vặc sáng là thi liệu quen thuộc trong thơ Bác -thánh địa của trăng, như Hoài Thanh
nhận xét:"Thơ Bác đầy trăng." Dẫu trong cảnh "Mười bốn trăng tê tái gông cùm”, với
người tù Hồ Chí Minh ánh trăng muôn đời trong sáng ấy luôn là bạn thơ, là tri âm tri kỉ:
"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Ngắm trăng)
Trăng huyền diệu, làm thi vị thêm "việc quân", mở ra cảm xúc bồi hồi trước tin
thắng trận:
"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về."
(Tin thắng trận)
Giờ đây vầng trăng ấy đang kề bên, hội nhập vào giấc ngủ vĩnh hằng của Bác.
Giọng thơ đang nhẹ nhàng, êm ái bỗng chuyển đổi đột ngột như xoáy sâu vào
niềm tiếc thương, nỗi lòng tái tê của Viễn Phương:
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Cụm từ "vẫn biết, mà sao" càng tô đậm nỗi đau đớn trong lòng nhà thơ. Vẫn biết
"vầng trăng, trời xanh" là những thứ mãi mãi vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ. Vẫn biết
sinh - lão - bệnh - tử là quy luật ngàn đời của tạo hoá. Dù muốn hay không muốn con
người vẫn phải kinh qua những ngưỡng cửa ấy. Nhưng nhà thơ vẫn không kìm được mà
bật ra một từ “nhói” như một tiếng nấc nghẹn ngào thấm đẫm tâm hồn. Một từ "nhói" đủ
sức nói lên tất cả, nó có chút gì đó đột ngột, xoáy sâu vào tâm can, day dứt khôn nguôi.
Trước sự ra đi của Bác, Viễn Phương vẫn quặn lên những nỗi đau vô tận, cơn đau như xé
lòng, như có bàn tay vô hình nào đó bóp nghẽn trái tim ông. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tên
Người sống mãi với hồn thiêng sông núi, với hai tiếng Việt Nam, sống đời đời trong trái
tim mỗi người dân, trong lý tưởng của thanh niên. Vậy mà mỗi khi chợt nghĩ về cái ngày
trái tim ấy ngừng đập, ngày cả dân tộc phải gánh chịu sự mất mát quá lớn lao, cõi lòng ta
vẫn thấy đớn đau và đất trời Việt Nam vẫn ngậm ngùi rơi lệ trong niềm tiếc thương:
"Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…"
("Bác ơi" - Tố Hữu )
Bài thơ khép lại trong dòng cảm xúc trước khi ra về của Viễn Phương. Chạnh nghĩ
đến nay mai về lại miền Nam, xa Bác tác giả không kìm được nỗi niềm thương nhớ:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Miền Nam thốt lên tiếng “thương" ngân dài, gợi về miền đất xa cách lăng Bác.
Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của
Người. Tiếng "thương" ấy còn là nỗi đau xót khi mất Bác. Những cảm xúc quyến luyến
dâng lên dào dạt, kéo đến như từng lớp thủy triều khuấy động trong tim. Để rồi nước mắt
trực trào, chân thành rơm rớm, đong đầy khóe mắt. Thương yêu vô hạn đó hóa thành
những điều ước chan chứa nghĩa tình của đứa con phương xa dành cho Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh Lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Nhà thơ muốn hoá thân, một sự hoá thân chân thành và khiêm nhường. Âm hưởng
bài thơ được nhấn mạnh qua điệp từ "Muốn", để ta càng thấy rõ những mong ước của nhà
thơ thật bình dị, giản đơn nhưng lại vô cùng mãnh liệt. Ông muốn hoá thành con chim,
dùng tiếng hót trong trẻo, lảnh lót của mình để bầu bạn bên Người, để hát cho Người
nghe bản giao hưởng của thiên nhiên, đất trời. Ông muốn hoá thành đoá hoa để điểm tô
cho lăng Bác thêm lung linh sắc màu, để những làn hương bát ngát quyện vào không
gian. Và trong niềm cảm xúc dào dạt Viễn Phương muốn trở thành cây tre “trung hiếu”
nghiêm trang, thẳng hàng đứng quanh lăng Bác. Khúc nhạc dạo đầu lẫn kết thúc của bài
thơ đều xuất hiện hình ảnh cây tre như lời tâm niệm thiết tha ấp ủ trong trái tim Viễn
Phương. Phải chăng nhà thơ đã khắc cốt ghi tâm điều Bác nói "Trung với nước, hiếu với
dân". Xuyên suốt khổ thơ không hề có sự xuất hiện của "tôi", "ta" hay bất kì một danh
xưng cá nhân nào khác. Đây chẳng phải là một sự ngẫu nhiên mà là ẩn ý của Viễn
Phương. Những ước nguyện trên không hạn hẹp trong phạm vi "của riêng ông" hay "của
riêng ai" mà đó là ước nguyện của toàn dân, của những người con đang chảy trong tim
dòng máu Việt Nam anh hùng.
Bielinxki quan niệm rằng: "Nội dung và hình thức gắn bó như tâm hồn và thể
xác". Nghĩa là nội dung nào - hình thức ấy. Hình thức nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn đã góp
phần làm sáng toả, nổi bật lên những đường nét của nội dung mà "Viếng lăng Bác" muốn
truyền tải. Viễn Phương đã vận dụng tài tình các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, ẩn
dụ, từ láy, từ cảm thán... Ngôn ngữ xuyên suốt thi phẩm thật bình dị, hồn nhiên, trang
trọng và giàu cảm xúc, khơi gợi nơi lòng người những âm vang thổn thức. Hình ảnh sáng
tạo, có chọn lọc, vừa thực, vừa liên tưởng, mang đậm ý nghĩa biểu trưng. Thể thơ 8 chữ,
gieo vần linh hoạt, nhịp chậm, thể hiện sự nghiêm trang, thành kính. Giọng thơ đồng điệu
với tình cảm, cảm xúc của tác giả, vừa nghiêm trang, vừa sâu lắng, vừa đau xót thiết tha,
xen lẫn niềm xúc động nghẹn ngào.
"Viếng lăng Bác" ngời sáng trong vườn địa đàng thơ ca nhờ giọng điệu nhẹ nhàng,
tha thiết mà lắng đọng nơi hồn người cùng hình ảnh, ngôn ngữ chọn lọc, giản dị, trang
trọng và giàu cảm xúc. Bài thơ như sự tinh đọng của thứ quả chín tròn mọng, ngọt ngào,
như sự sung mãn thơm tho của những vạc hoa đẹp ngát hương. Thi phẩm là lời tưởng
niệm chân thành, là tấm lòng thành kính của tác giả nói riêng và triệu triệu người con đất
Việt nói chung dành cho vị cha già dân tộc.
Tiếng thơ trầm lắng, da diết ấy cứ vấn vương mãi với đời, để lại trong bến tâm hồn
người đọc niềm xúc động nghẹn ngào cùng nỗi nhớ thương trong cái buồn man mác:
"Bác đã đi rồi sao Bác ơi". Ngâm khẽ tiếng thơ, ta thầm biết ơn những năm tháng hy sinh
của Người để dành trọn cho ta hoà bình, độc lập. Từ ấy, bản thân phải không ngừng cố
gắng vì đất nước, tiếp bước con đường của Bác như lời thơ Tố Hữu đã nói:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”.
Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải
Cuộc đời là giọt nắng ban mai, là hạt mưa vội vã, là cơn gió dịu mát. Nhà thơ phải
đưa tay hứng lấy những hồn, những sắc của cuộc sống và rót vào đoá hoa thi ca, để bông
hoa vươn mình dâng lên cho đời mật ngọt quý giá, hương nhụy trong lành. Hẳn rằng, đã
là người nghệ sĩ, có ai cất đi những rung động của trái tim vào chiếc rương khóa chặt, có
ai giã từ bốn chữ "tận tâm tận tụy" mà mặc nhiên để "tâm nhãn" ngủ đông khi đứng trước
những biến thiên của thế gian. Hiểu được một điều tất lẽ dĩ ngẫu ấy, Thanh Hải đã chắp
bút viết nên hồn thơ "Mùa xuân nho nhỏ" khi nhịp thở dần yếu ớt, khi miền đất chết đã
cận kề. "Mùa xuân nho nhỏ" là tiếng lòng của người thi nhân đang hấp hối nhưng chớ
lầm tưởng rằng tiếng lòng ấy sẽ bi quan, u uất. Thi phẩm là viên ngọc được kết tinh từ
niềm ái mộ tha thiết của nhà thơ trước thiên nhiên, đất nước và cũng là nơi Thanh Hải gửi
gắm niềm ước nguyện của mình.
Thanh Hải, một trong những thi nhân được nuôi dưỡng trong tiết trời của xứ Huế,
gắn bó cả đời người bên người mẹ thứ hai mang tên "Huế". Ông là một nhà thơ luôn
hướng ngòi bút của mình vào lý tưởng sống và tình yêu để từ ấy góp sức vào sự nghiệp
dựng xây nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ "Mùa xuân
nho nhỏ" được sáng tác lúc ông đang ở trên giường bệnh vào những ngày cuối đời. Với
giọng thơ hồ hởi, thiết tha đan xen những hình ảnh hồn xuân, sắc xuân, Thanh Hải đã dẫn
bạn đọc đến với một mùa xuân tràn đầy tin yêu của mảnh đất Huế kinh kì hoa mộng, của
đất nước Việt Nam. Ông còn gửi vào thi phẩm âm hưởng của niềm hi vọng về những vị
lai đất nước sẽ tươi sáng hơn, thể hiện một niềm tự hào cùng khát khao tận hiến cho quê
hương xứ sở.
Mở đầu tác phẩm, ông đã trở thành người hoạ sĩ vẽ nên một bức tranh về một mùa
xuân rất Huế với những gam màu thật ấm áp:
"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc."
"Mọc" là vươn lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau
một giấc ngủ đông. Bằng việc vận dụng nghệ thuật đảo ngữ, từ "mọc" đặt ở đầu câu thơ
càng tô đậm sức sống mãnh liệt đến bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật khi khoác lên mình
chiếc áo của sự khởi đầu và hứng lấy những tinh chất quý giá của ngày xuân. Cũng góp
vào thi đàn hồn thơ nàng xuân, Chế Lan Viên đã viết "Xuân Về", về trên màu xanh của tà
áo chuối non, màu đỏ của những chùm pháo trước nhà và sắc hồng dịu dàng của hoa đào.
Còn Thanh Hải, ông chọn cho mình những gam màu dịu dàng, nên thơ và rất đặc trưng
của Huế. Đó là khúc sông uốn lượn tựa như tấm lụa đào thướt tha của dải đất miền Trung
quanh co. Phải chăng đó chính là dòng Hương Giang êm đềm, hiền từ ? Dòng sông đó đã
hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một "dòng sông xanh".
Chấm phá trên phông nền xanh xanh ấy là hình ảnh "một bông hoa tím biếc". Xuân miền
Nam là hoa mai nhuộm màu vàng rạo rực của nắng. Xuân miền Bắc là cành đào e thẹn
nép sau chiếc váy màu hồng nhạt. Còn mùa xuân của Huế, mùa xuân của Thanh Hải là
một màu tím biếc. Chẳng biết tự bao giờ, mỗi lần nhắc đến tên gọi của vùng đất Thần
Kinh thương nhớ, người ta lại mường tượng ra một sắc tím thủy chung ôm trọn cả bầu
trời. Đến với hồn thơ của Thanh Hải, ta lại thấy sắc tím bình dị thắp thoáng giữa dòng
Hương như một biểu tượng ngàn năm của xứ Huế trầm tư, cổ kính.
Cổ nhân từng nói:"Thi trung hữu nhạc" tức trong thơ trữ tình có nhịp điệu hòa
quyện với nhạc, chứa đựng những thanh âm của nhà hát cuộc đời. Có lẽ vì vậy, Thanh
Hải đã thả trọn những vang vọng của thiên nhiên đang độ xuân về vào vần thơ của mình:
"Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời."
Có thứ âm hưởng thật ngọt ngào, dịu dàng trong "ngôn ngữ Huế". Thanh Hải là một
người gắn bó với xứ Huế bằng tình yêu tha thiết, chân thành nên trong giọng thơ trìu
mến, thân thương của ông tồn tại hình bóng của từ "Ơi" mộc mạc, gần gũi và lời trách
yêu "hót chi mà". Trong bản trường ca mùa xuân, chàng nghệ sĩ chiền chiện đã cất cao
tiếng hát trong veo, thánh thót và ngân nga. Hàng ngày ngồi bên cửa sổ phòng bệnh, màu
tím biếc của hoa, sắc xanh của dòng nước và điệp khúc của tiếng chim cứ gợn trong mắt,
âm vang bên tai nhà thơ. Đó đều là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân cố
đô.
Ông đã nâng lên chén rượu kính đời và "say” trong niềm thổn thức trước thiên
nhiên. Tâm trí của nhà thơ như con thuyền nhỏ đi từ bến cõi thực sang bến cõi mộng.
Sóng xanh, hoa tím, tiếng chim...đều kết tinh thành giọt:
"Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
"Giọt long lanh" - hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái. Đó phải
chăng là dư âm của trận mưa đọng lại trên phiến lá ? Hay mùa gió xuân đã thổi những hạt
phấn của nắng sớm phủ lên giọt sương mai nơi kẽ lá, như những viên pha lê xinh đẹp ?
Có lẽ là tất cả và còn nhiều hơn nữa. Đó cũng là giọt hạnh phúc của tình đời đượm thắm
cả đất trời, hòa quyện vào tâm hồn thi sĩ. Trong mối liên kết với câu thơ trước, tiếng chim
hồn nhiên, trong trẻo mà da diết dưới vòm trời cao rộng đã kết đọng lại thành từng "giọt
âm thanh" rơi xuống hồn người, chạm vào cõi sâu lặng, khuấy lên bao nỗi niềm của nhà
thơ. Bằng tâm hồn tinh tế và điểm nhìn nghệ thuật độc đáo, ông đã hình tượng hóa tiếng
chim như suối nguồn âm thanh tuôn chảy trong ánh sáng rạng rỡ. Tiếng chim từ chỗ được
lắng nghe bằng thính giác chuyển sang thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình. Thi nhân vội vàng đưa
đôi bàn tay để "hứng" lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng
niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm
vào thinh vắng. Đại từ "tôi" được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được ôm trọn vào
lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà
tấu mùa xuân. Như vậy, chỉ với vài nét hoạ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã
phác họa được một kiệt tác tuyệt sắc mang điệu hồn thơ mộng, trữ tình của mùa xuân đất
Huế căng tràn sức sống. Từ đó, bộc lộ niềm say xưa, ngây ngất của tác giả trước thiên
nhiên đất trời mùa xuân.
Vẻ đẹp của mùa xuân kinh thành Huế chính là một nét hoạ thần tình tô đậm cho vẻ
đẹp của chốn thiên đường mang tên "mùa xuân con người, mùa xuân đất nước" :
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao"
Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Hải sử dụng hình thức sóng đôi nhịp nhàng với
hai hình ảnh “người cầm súng" và "người ra đồng”. Bởi lẽ họ là những người đại diện
cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của
đất nước ta là chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc. Nét
đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “lộc”. Lộc biếc rũ bỏ quá khứ điêu
tàn, cũ kĩ để vươn lên sau những cơn mưa xuân rét mướt, những ngày đông giá lạnh trong
kén lá đang ngỡ ngàng nhìn vạn vật. Lộc giắt đầy trên lưng "người cầm súng", phơi phới
bước chân ra trận gợi liên tưởng đến cành lá ngụy trang của người chiến sĩ. Lộc mà người
chiến sĩ mang đến cho chúng ta là mồ hôi, là giọt lệ, là xương máu mà các anh đổ xuống
vì toàn dân, là thành quả của những năm tháng dốc toàn sức toàn lực bảo vệ mùa xuân
thanh bình của tổ quốc, là phong bì đỏ của niềm hạnh phúc, an lành gửi đến mọi nhà
phong. Lộc trải dài vô tận trên nương mạ do những đôi tay chai sạn của "người ra đồng"
gieo trồng. Những người nghệ nhân ấy đã tô điểm thêm cánh diều xanh của niềm tin, hi
vọng đang tung bay trong mùa gió xuân. Lộc mà người nông dân dành tặng cho người,
cho đời là rãy bắp, bãi dâu, là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt.
Người cầm súng mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng gieo mùa xuân trên
từng thửa ruộng. Họ đã mang cả hương vị mùa xuân ra trận địa của mình để gặt hái mùa
xuân về cho đất nước. Tất cả "như hối hả", "như xôn xao" mà hoà quyện trong sự phồn
thực của mùa xuân. Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả, xôn xao” làm cho
nhịp thơ trở nên sôi động, lời thơ chan chứa niềm hân hoan, rung động. Tác giả đã mang
đến âm hưởng của nét sống rộn ràng, nhộn nhịp, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Cung bậc cảm xúc của thi nhân bất giác gói gọn trong nỗi chạnh lòng khi thước
phim bốn ngàn năm lịch sử của quê hương, đất nước chợt sống dậy trong nhịp thơ trầm
tư, sâu lắng:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên "Lịch sử", móc thời gian "bốn ngàn
năm" đã đi vào tâm thức của biết bao thế hệ. Mô ̣t lời tổng kết về lịch sử đất nước “bốn
ngàn năm” với bao “vất vả”, “gian lao", với muôn vàn những thăng trầm, gian truân,biến
động. Cái nghèo cái đói chẳng buông tha, bão giông, nắng lửa chẳng nương tay, những
cơn thủy triều của sự đau thương, mất mát cứ xé nát tâm can. Song, Thanh Hải đã sử
dụng hình ảnh so sánh "Đất nước như vì sao" để khẳng định sức mạnh lớn lao, ý chí bất
khuất và bản lĩnh can trường của tổ quốc Việt Nam. Vì sao ấy luôn luôn tỏa ra vầng hào
quang rạng ngời, sáng tỏa, vững vàng bay lên từng nấc thang của bầu trời rộng lớn để
ngày càng văn minh, hạnh phúc. Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất
nước bốn ngàn năm, đất nước như vì sao” diễn tả nhịp vận động đi lên của lịch sử và
khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước. Dằng dặc bốn ngàn năm, ta vẫn là ta, là
một quốc gia nhỏ bé trên bản đồ thế giới nhưng lại khiến toàn nhân loại thán phục với
những chiến công hiển hách. Đó là ba lần thắng lợi trước đoàn quân Mông - Nguyên
hung hãn. Là Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử - mồ chôn của bao đế chế ngông
cuồng. Là những năm tháng đấu tranh ngoan cường khiến Mĩ và Pháp phải thua cuộc.
Hình ảnh một quốc gia dẫu trải qua bao nhiêu khó khăn, dẫu phải đứng trước những kẻ
thù to lớn vẫn không bao giờ cam tâm quỳ xuống đã đi vào hồn thơ của Hạ Văn Thịnh:
"Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truân
Nhưng chữ S chẳng thể nào gục gãy
Người trước ngã, người sau đứng dậy"
Từ "cứ" vang lên như một nốt thăng với khí thế hào sảng. Tiếng thơ là một lời
khẳng định hùng hồ và chan chứa niềm tin, niềm tự hào bất diệt của Thanh Hải vào sức
sống của dân tô ̣c, vào sự phát triển không ngừng trong tương lai của đất nước.
Tận sâu nơi cõi lòng của nhà thơ dâng trào một nỗi khao khát, một nguyện vọng
hiến dâng cho đời tựa như một tia sáng vụt lên khỏi vực thẳm tâm tối nhuốm bệnh hiểm
nghèo, như một dòng suối ấm nóng len lỏi đến mọi ngõ ngách của trái tim người thi nhân
và người thưởng văn:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.
Thanh Hải đã đặt bàn tay xám ngắt của mình lên chiếc vĩ cầm "thơ ca" để tấu lên
giai điệu ngọt ngào, du dương, êm ái rót vào tâm hồn, nhẹ nhàng xoa dịu trái tim. Giai
điệu ấy hiện lên trong những thanh bằng liên tiếp, những luyến láy, điệp ngữ “ta làm…ta
làm...ta nhập”. Tiếng thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về niềm ước nguyện của nhà thơ.
Thi nhân muốn hoá thân đến tốt độ, hóa thân đến trọn vẹn hồn cốt - một sự hoá thân diệu
kì. Đó hẳn là nguyên do mà ông sử dụng các động từ "làm" , "nhập". Cái "ta" ở đây
không phải là của riêng tác giả hay một cá thể đơn thân nào khác."Ta" giờ đây là là một
quần thể, một dân tộc. "Ta" đã đồng thanh, đồng điệu với mọi người, chân trời riêng đã
hoà quyện với chân trời chung. Những hình ảnh "con chim hót", "một cành hoa", "một
nốt trầm" dẫu nhỏ bé, đơn sơ nhưng lạ phúng dụ lẽ sống cao đẹp của Thanh Hải. Ông
muốn làm một "con chim" trong muôn vàn loài chim, góp vào đời tiếng hót tươi vui, tha
thiết làm đắm say lòng người. Ông chỉ xin được làm "một cành hoa" trong xứ sở hoa với
đủ đầy những gam màu từ rạng rỡ đến âm trầm. Và người thi sĩ ấy chỉ ước mong được
làm "một nốt trầm" lặng lẽ, âm thầm cứ mãi du dương để lại dư âm bồi hồi, xao xuyến
trong lòng người. Bản giao hưởng cuộc đời không thể thiếu những nốt trầm ấy. Thanh
Hải - "nốt trầm" trong bản hoà ca muôn điệu của đất nước đã để lại trong lòng người đọc
hình ảnh một thi sĩ sống với điều tâm niệm thật chân thành, giản dị và tha thiết. Khát
vọng được cống hiến của tác giả cũng gặp được nét đồng điệu với nhạc sĩ Trương Quốc
Khánh:
"Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Là người, tôi sẽ chết cho quê hương"
Khát vọng cống hiến sức nhỏ, cống hiến những gì tinh túy nhất của đời người cho
đất nước đã làm sáng lên hồn thơ, làm ngân lên âm hưởng của một lẽ sống khiêm tốn, cao
cả:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Mùa xuân là thước đo của thời gian, hạn định của không gian. Song, Thanh Hải đã
sử dụng từ láy "nho nhỏ" đã định hình cho khái niệm trừu tượng,thể hiện ước vọng khiêm
tốn, dung dị. Tính từ “lặng lẽ” cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách
không ồn ào, khoa trương. Ông tự nguyện cả cuô ̣c đời cho đi một cách lặng lẽ mà không
hề đòi hỏi người ta sẽ nhớ đến danh xưng, ghi tạc vào sử sách. Ví như người lao công
lặng lẽ giữ sạch đường phố, người bác sĩ lặng lẽ cứu lấy những sinh mệnh đang hấp hối.
Lặng lẽ thôi mà sao ý nghĩa, đẹp đẽ biết bao. Lặng lẽ thôi mà sao như dòng suối mát lành,
như ngọn lửa ấm áp. Ngâm khẽ những vần thơ "Mùa xuân nho nhỏ", bức thư tự tình của
tác giả khiến ta nhớ đến một Sapa lặng lẽ nhưng không tầm thường, những con người cứ
lặng lẽ mà miệt mài cống hiến thanh xuân và sức trẻ cho đất nước. Hay trong Áo xanh
của Quách Tỉnh Xuân Trường có đoạn:
"Đất nước hòa bình,tôi vẫn mải miết đi
Tiếp bước cha anh,đâu nghĩ gì danh lợi
Ở trong trái tim,cờ sao bay phấp phới
Lý tưởng trau dồi,mãi mãi một niềm tin
Cống hiến sức mình,chẳng cần đợi gọi tên"
Điệp ngữ "dù là" cùng hình ảnh đánh dấu hai móc son quan trọng của đời người “tuổi hai
mươi” và “ khi tóc bạc” khiến cho lời thơ khẳng khái như một lời hứa, lời tự nhủ rằng sẽ
trọn đời cống hiến của nhà thơ. Trên lưng đồi từ tuổi trẻ đến những ngày vãn niên, khát
vọng hiến dâng, lí tưởng sống thầm lặng và cao đẹp đã trở thành một lời tuyên thề vững
bền, một tâm nguyện thủy chung in sâu vào trái tim người thi sĩ ấy. Tuổi hai mươi với
nguồn năng lượng dạt dào, căng tràn sức sống, ông đầy kiên nghị và sôi nổi, hết mình
sống vì sự nghiệp xây dựng đất nước. Khi thời gian lưu lại dấu vết trên mái tóc bạc màu,
ngọn lửa nhiệt huyết vẫn không bao giờ tắt lịm. Ngọn lửa ấy cứ bập bùng cháy mãi, mùa
xuân ấy cứ nho nhỏ mà lại tận tâm tận tụy hoà nhịp cùng "Chín mươi triệu người lấy thân
mình chở che Tổ quốc linh thiêng". ( Nguyễn Phan Quế Mai )
Xuân Diệu quan niệm:"Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác , hay cả bài". Thơ hay là hay
từ vẻ đẹp bên ngoài đến cốt cách bên trong. "Mùa xuân nho nhỏ" chính là một thi phẩm
không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn mang những nghệ thuật đặc sắc.Ta dễ
dàng nhận thấy bài thơ có cấu tứ “lộ thiên” theo chiều không gian mở. Mạch thơ đi theo
trình tự: Xuân thiên nhiên – Xuân con người – Xuân đất nước – Xuân thi sĩ và cuối cùng
là Xuân đất Huế quê hương. Nhờ có những biện pháp ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ... đã góp
phần làm nổi bật cấu tứ, hình ảnh, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm. Mỗi câu thơ đều
giàu sức gợi tình, gợi cảm. Đây quả là một bài thơ kết hợp hài hòa bốn yếu tố : ý - tình -
hình - nhạc. "Bài thơ không chỉ hay về ý tứ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ 5 tiếng
ngắt nhịp 3/2 xen với 2/3 linh hoạt...Không chỉ ngắt nhịp linh hoạt, nhà thơ còn chú ý
dùng vần trắc cuối năm khổ thơ, tạo một âm vang giòn giã như thể nhịp phách tiền..."
(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn). Thả hồn vào "Mùa xuân nho nhỏ", ta có thể cảm nhận
được chất thi vị trong hồn thơ Thanh Hải.
"Mùa xuân nho nhỏ" là ngọn lửa diệu kì ủ ấm đôi tay xám ngắt của thi nhân. Ngọn
lửa ấy như có phép màu truyền hơi thở, truyền tình yêu vào mạch huyết, vào trái tim của
nhà thơ. Thi phẩm là tiếng hát của thiên nhiên đất trời, là tiếng nói ngân vang của cõi
lòng người con xứ Huế với tình yêu dạt dào dành cho quê hương, đất nước, với khát vọng
dâng hiến trọn đời vì tổ quốc. Hồn thơ cứ nhẹ nhàng mà thấm thía, lặng lẽ mà chạm đến
ngưỡng rung động vĩnh hằng của trái tim người đọc. Tác phẩm là một minh chứng cho
"nghệ thuật vị nhân sinh” bởi lẽ nó đã tác động và khơi gợi được "những ngọn lửa" tư
tưởng tích cực, tiến bộ neo đậu trong trái tim độc giả trẻ rằng ta phải sống ý nghĩa, cống
hiến hết mình vì dân tộc. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc trở thành ca khúc
vượt thời gian để người đời hiểu thêm nhân cách một thi sĩ, một chiến sĩ.
Sang Thu
Nhà phê bình Chu Văn Sơn cho rằng:"Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh
thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người." Muốn viết được những câu
thơ tuyệt bích ấy, anh phải bật tung cửa phòng để nhìn ngắm thế giới như một vị hoạ sĩ
đang ước lệ vẽ đẹp của cuộc sống. Anh phải nhắm mắt, nghiêng tai lắng nghe những
chuyển động tế vi của đất trời như một nhà soạn nhạc tài ba đang góp nhặt thanh âm của
trần thế. Và Hữu Thỉnh đã thực thi trọn vẹn những công đoạn ấy. Để một "Sang Thu" ra
đời, nhẹ nhàng mà tha thiết, cô đọng trong sáu mươi chữ mà cứ mãi vấn vương trong
lòng người đọc. Thi phẩm là sự hòa hợp giữa cảm nhận tinh tế của tác giả trước những tín
hiệu mùa thu và dòng suy ngẫm của ông về nhân sinh cuộc đời.
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ cứu nước. Ông đến với thi giới và in "vân chữ" của mình trên vùng đất ấy bằng
phong cách thơ "đằm thắm, hồn hậu, nghiêng về phía rợp mát, cái trầm lắng yêu thương
lấn át cái ồn ào sôi sục"( Lưu Khách Thơ ). Trong tiết trời hanh hao cuối hạ đầu thu với
nắng vàng và gió nhẹ, dường như mọi chuyển động của thiên nhiên khi ấy đã gõ cửa trái
tim Hữu Thỉnh, khiến nhà thơ không thể kìm lòng mà cầm bút lên và viết "Sang Thu".
Thi phẩm được sáng tác năm 1977, in trọng tập thơ "Từ chiến hào đến thành phố". Bài
thơ là dòng chia sẻ chân thành của một tâm hồn tinh nhạy trước phút giao mùa, cũng là
nơi gửi gắm những suy ngẫm, chiêm nghiệm kín đáo của ông.
Một trong những khâu quan trọng trước khi đưa tác phẩm của mình dấn thân vào
thi đàn văn học là việc trăn trở tìm kiếm cho nó một danh xưng. Tên thi phẩm chính là
một nốt lắng, một "nhãn tự" ẩn chứa những ý vị sâu xa. Nếu nhan đề "Mùa xuân nho
nhỏ" gợi đến khát vọng cống hiến cùng lẽ sống khiêm nhường của Thanh Hải thì "Sang
Thu" đã truyền tải thành công dụng ý của nhà thơ Hữu Thỉnh. Không phải là "Thu sang"
mà là "Sang thu", nghĩa là vạn vật không dặm chân, ngóng cổ đợi chờ mùa thu ghé thăm
mà thiên nhiên, đất trời đã chuyển mình một cách chủ động và sinh động như một đứa trẻ
tinh nghịch muốn sà vào vòng tay của nàng thu. Thiên nhiên sang thu và lòng người cũng
sang thu. Tâm hồn con người dường như đã đồng thanh đồng điệu với những biến chuyển
của tạo vật. Trái tim con người dường như đã hòa chung nhịp đập với trái tim của đất mẹ
nghĩa tình, của vòm trời cao rộng.
Khoảnh khắc chớm thu, mọi tín hiệu khe khẽ, nhẹ nhàng như một bản ballad ngân
vang giữa bốn bề không gian. Nhịp điệu vận động của ngoại cảnh tuy mơ hồ, nhạt nhòa
nhưng vẫn hữu hình trong tâm cảnh của Hữu Thỉnh, để rồi thi nhân phải giật mình thảng
thốt:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh một cách rất riêng, chẳng như "lá thu rơi rụng đầu ghềnh"
của Tản Đà, không phải là "ao thu lạnh lẽ nước trong veo" như Tam Nguyên Yên Đổ, lại
càng khác với "ngô đồng lác đác” trong trang thơ Tuệ Nga khi trời hiu hắt thu sang. Tác
giả đã ngõ ngàng, "bỗng nhận ra" hơi thở đầu tiên của mùa thu hoà quyện trong hương ổi
thơm lừng, chân quê và mộc mạc. Mùi hương ấy góp mặt vào những tháng năm tuổi thơ
được cùng bè bạn trèo cây hái ổi. Mùi hương của thứ "quà quê" cứ quyến luyến, vấn
vương trong lòng những đứa con xa xứ. Mùi hương của xóm làng dân dã, của tiếng nô
đùa, của yên bình và hạnh phúc. Thứ hương kia không "bay", không “quyện” mà “phả”,
là xộc thẳng vào khứu giác. Thi sĩ đã sử dụng rất đắt từ ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ
gợi liên tưởng đến một mùi hương như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc, nồng nàn
du ngoạn trong miền gió, được làn gió chở đến gõ cửa những ngôi nhà tranh, mang đi
khắp ngõ ngách của làng quê. Câu thơ không chỉ đơn thuần là tả mà còn khiến người đọc
liên tưởng đến màu vàng ươm, vị ngọt, giòn, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi quê nhà.
Phải chăng hương ổi đã lan tỏa, chiếm lĩnh gió se. Để giờ đây cơn gió heo mây lành lạnh
kia nương náu vào hương ổi, nhờ vào hương ổi mà trở nên độc đáo hơn. Gió se hanh hao,
nồng nàn hương ổi khác với làn gió xuân ấm áp, không trùng lặp với thứ gió mang màu
nắng của mùa hạ hay từng đợt gió lạnh buốt của trời đông. Hương ổi và gió se đã trở
thành sứ giả của mùa thu, nó đến khẽ khàng, “khẽ” đến mức nếu ta chẳng cẩn thận để tâm
thì sẽ không thể nhận ra được. Và nếu ta đã tinh ý nhận ra thì những sự vật ấy sẽ neo đậu
lại trong tâm trí ta một ấn tượng khó phai.
Trong cái không gian cuối hạ lởn vởn mùi thu, thấp thoáng nơi ngõ nhỏ bóng dáng
"sương chùng chình" lướt nhẹ như một nàng thơ e thẹn, thướt tha đi qua từng triền đê,
thôn làng, ngõ đường. Làn sương bảng lảng giăng trắng lối được tác giả nhân hóa qua từ
láy “chùng chình”. Sương hóa thành một người lữ hành đi qua cửa ngõ của thời gian, rồi
được thời gian kéo tay níu lại. Sương chập chững, cố ý bước đi chậm chạm qua những
ngõ đường lộng gió, vườn ổi chín mọng và đồng nội xanh rì. Để rồi người lữ khách ấy đã
lưu luyến sinh cảnh, đã chẳng có ham muốn tan vào không gian vô định. Sương bỡ ngỡ
trước khoảnh khắc giao mùa như chính sự ngỡ ngàng của con người trước những dao
động nhỏ nhặt của đất trời phương Bắc. Dù nhiều giác quan đã mách bảo rằng "thu đã về"
nhưng nhà thơ vẫn thấy mơ hồ, vẫn còn chưa dám tin, chưa dám chắc chắn. Thành phần
tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán nửa tin nửa ngờ, nửa khẳng định, nửa kia lại hoài
nghi. Cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên ấy cũng xuất hiện trong hồn thơ của Từ Dạ Thảo:
"Hình như bên kia là mùa thu
Ngàn lá rụng mang theo lời tiễn biệt..."
Có lẽ những tín hiệu chớm thu quá đổi mờ nhạt, chưa đủ làm nên mùa thu trọn vẹn. Và
có lẽ chính tâm hồn thi sĩ cũng chưa kịp sẳn sàng để chào đón một diện mạo mới của tạo
vật.
Tiếp nối sự giao thoa của đất trời, sang đến khổ thơ thứ hai những dấu hiệu của
mùa thu dần hữu hình với những đường nét rõ ràng, chân thật hơn:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Bằng việc vận dụng tài tình biện pháp nhân hóa, cảnh vật trong thơ Hữu Thỉnh trở nên
sống động, như một con người có linh hồn và hơi thở. Dòng sông lúc sang thu không còn
chảy xiết, cuộn từng xoáy tròn hình trôn ốc như ngày hạ chí mà bỗng trở nên "dềnh
dàng", thông thả, lững lờ trôi. Nó gợi ra trong ta bóng dáng những con người sống chậm,
sống nhẹ nhàng giữa lòng thị thành tấp nập ngược xuôi, như "người khách bộ hành phiêu
lãng" ( Tế Hanh ) khoan thải và thư thái ngắm nhìn vẻ đẹp của thế gian. Đối lập với hình
ảnh dòng sông là những cánh chim "vội vã" tìm về "bức tranh thủy mặc" phương Nam để
tránh rét, vội vã như những đứa con thấy cảnh vật đổi thay liền nhớ chốn xưa người cũ,
gấp rút bắt chuyến xe cuối cùng trở về cố hương. Hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã
quay về tổ ấm thân thương trước khi hoàng hôn tắt nắng, nhường lại bầu trời cho màn
đêm tĩnh mịch. Tác giả đã vận dụng khéo léo các từ ngữ "được lúc" và "bắt đầu" để đặc
tả những chuyển động chỉ xảy ra vào khoảnh khắc trời chạng vạng chớm thu, những thay
đổi rất "thu" của đất trời phương Bắc. Trong "Dagestan của tôi", Rasul Gamzatoz đã đề
cập đến đặc trưng của thơ ca, rằng mỗi thi phẩm đều có “những câu thơ hay nhất trong
bài thơ”. Không nằm ngoài quy luật ấy, Hữu Thỉnh đã chắt chiu, kí thác tinh hoa của một
tâm hồn thi sĩ, tinh túy của một tác phẩm thi ca vào đôi dòng thơ:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”
Câu thơ ngân lên với một sự liên tưởng độc đáo. Nếu mây chùng lại vắt ngang sườn núi
thì ta còn có thể nhìn, có thể cảm nhưng đám mây trong "Sang Thu" tựa như một dải lụa
đào trải rộng, trôi lững lờ trên nền trời trong trẻo. Thứ lụa ấy chia làm hai nửa thuộc về
hai mùa. Nửa bên được nhuộm bằng dáng hình mùa hạ, "nửa mình" bên kia "vắt" sang
gam màu của mùa thu. Hạ và thu, làm sao định hình được là vuông hay tròn. Ấy vậy mà
nhà thơ đã hoạ nên một ranh giới mỏng manh, hư ảo phân cách giữa hai mùa. Trong
“chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết:
"Đám mây trên Việt Yên
Rủ bóng về Bố Hạ”
Cố nhiên, đám mây kia là thực, nhưng ranh giới của mùa là ảo. Nếu trong Triết
học, Jules Lagneau cho rằng không gian và thời gian không thể tách rời nhau được thì
đến với văn học, ta bắt gặp một Hữu Thỉnh đã tinh tế dùng hình ảnh của không gian để
diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Bầu trời vẫn đang chuyển đổi nhẹ nhàng
sang sắc thu để rồi đến một lúc nào đó "Trời thu càng rộng càng cao" ( Tố Hữu ), nhẹ
nhàng và xanh ngắt hơn.
Hai câu thơ trên còn chất chứa cả những suy tư, trăn trở của chính tác giả, những
bâng khuâng, tiếc nuối như muốn níu kéo chút chói chang, nồng nàn của mùa hạ. Khi viết
bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám mây trọn vẹn một
màu thu. Thế nhưng, khi cảm xúc bật trào thành câu chữ, có một thứ gì đó đã quyến
luyến, níu giữ ngòi bút thi nhân theo chiều hướng “một nửa”. Có lẽ mây mùa hạ giống
như một bức tranh muôn màu muôn sắc. Đó là màu rạo rực của những hoài bão, những
ước mơ của tuổi trẻ bứt phá ngông cuồng. Đó là màu của sức sống mãnh liệt, của nhiệt
huyết dâng trào. Có một mùa hạ như thế đấy, một mùa hạ vô ưu vô lo, một mùa hạ lãng
mạn và rạng ngời, mùa hạ của những giấc mơ. Vậy mà giữa mơ và thực luôn tồn tại một
lằn ranh đỏ vô hình nào đó khiến chúng khó mà hoà làm một, khó mà trọn vẹn. Sự dở
dang, mất mát là một hiện thực mà ta dù muốn hay không cũng phải học cách chấp nhận.
Có chăng vì vậy, đám mây chỉ có thể "vắt nửa mình sang thu". Những đồng đội, những
người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã nằm lại ở ngưỡng tuổi
sung mãn nhất của đời người, "Có tuổi hai mươi thành sóng nước" ( Lê Bá Dương).
"Sóng nước" bỏ lại tuổi trẻ, bỏ lại tương lai và những hoài bão kia sẽ vĩnh viễn vùi chôn
nơi chiến trường. Một kiếp lính kết thúc, những hoài bão cũng theo đó chẳng bao giờ trở
về, tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả đã ngủ say trong hai tiếng
"hồi ức"…
Thiên nhiên, đất trời chính thức "sang thu" và hồn người cũng vào thu, mùa thu
trong những ngẫm suy, trăn trở của tác giả về nhân sinh cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Vậy là mùa thu đã đong đầy rót vào lòng phố hạ. Mùa thu đã về, và hạ chí ngậm ngùi
phai dấu. "Nắng”, “mưa”, “sấm" là những hiện tượng đặc trưng của tiết trời mùa hạ. Nhà
thơ đã tinh tế kết hợp những hình ảnh ấy với các từ chỉ mức độ "vẫn còn", "bao nhiêu",
"vơi dần" để gợi tả tần suất thưa thớt, lắng lại, chừng mực và ổn định hơn. Nắng vẫn nơi
sân đình, nhưng chẳng còn vang ươm rạo rực, chang chang đổ lửa. Mưa vẫn nơi hiên nhà,
nhưng chẳng còn ào ạt trắng xóa, rào rào dồn dập. Sấm vẫn nơi trời cao, nhưng chẳng còn
ì ầm vang động, dữ dội bất ngờ. Tất cả những gì đặc sắc nhất của mùa hạ dường như đều
mờ phai, nhạt dần và nhẹ nhàng hơn. Hình ảnh nhân hóa "hàng cây đứng tuổi" hiểu theo
nghĩa tả thực chính là những cái cây trăm tuổi đã trải qua bao mùa thay lá, đã sống lâu
năm, sống bền bỉ với đời.
Song, bằng việc vận dụng phép ẩn dụ đầy nghệ thuật, đằng sau đôi dòng thơ cuối
bài là một tầng nghĩa với bao trầm ngâm, chiêm nghiệm. Tiếng sấm là những vang động,
biến thiên bất thường, những vệt sáng của gian truân, của khó khăn luôn hiện hữu trong
cuộc đời mỗi con người. Còn "hàng cây đứng tuổi" ngụ ý chỉ những người đã bước vào
cái ngưỡng trưởng thành, trải nghiệm và dấn thân nhiều hơn, họ kinh qua những cảm xúc
từ mất mát tang thương đến vỡ òa hạnh phúc. Bởi vậy, những người từng trải trở nên dày
dặn kinh nghiệm, điềm tĩnh và vững vàng hơn. Chuyển biến của thời cuộc, phong ba bão
táp của ngoại cảnh đã chẳng còn tác động quá lớn đến họ. Họ biết dung hòa cảm tính và lí
tính, bình tâm và suy nghĩ thấu đáo hơn, không còn nóng nảy, bồng bột như xưa. Đời một
người đã gần tám mươi, biết bao sóng gió, thăng trầm, khi làm dân, lúc làm lính, làm cán
bộ, hết chiến tranh đến hòa bình, Hữu Thỉnh đã "đưa thơ về phía chiều sâu của tạo vật,
của lòng người", của niềm trầm tư sâu lắng.
"Sang thu" về không gian nghệ thuật là chiến tranh và hòa bình thể hiện qua "chìa
khóa" được đề ở cuối bài: "Thu 1977". Đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của
người lính vừa bước ra khỏi trận chiến đổ máu và đổ lửa. Thu 1977 - trên đầu không còn
tiếng máy bay, tiếng động cơ phản lực, bên tai chẳng phải nghe âm vang tiếng súng nổ,
tiếng bơm rơi. Thu 1977 - đất nước hòa bình được hai năm, người lính được trở về với
hương thơm, trái ngọt, lá vàng mơ mộng của quê hương. Thu 1977 - mùa thu quý giá của
những người bộ đội thời chiến.
Hình thức nghệ thuật đã góp phần chạm khắc cho "Sang Thu" những góc cạnh tinh
tế để bài thơ trở thành "viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời’” (Sóng Hồng). Thi
phẩm ngân lên với giọng điệu nhẹ nhàng, chậm rãi, du dương và dạt dào yêu thương. Kết
cấu mỗi khổ thơ trong "Sang Thu" đều có bốn câu với ba hình ảnh đặc sắc mang đến ba
thông tin. Nghĩa là mỗi khổ đều có một cặp hai câu cùng diễn đạt một ý tứ. Và chính
những câu thơ vắt dòng này đã mang lại cho thi phẩm vẻ duyên dáng, uyển chuyển, tạo
liên tưởng bất ngờ và thú vị. Tác giả đã vận dụng thành công một số biện pháp tu từ như
nhân hóa, ẩn dụ… Chỉ với vài hình ảnh thơ mộc mạc, gần gũi song hành cùng ngôn ngữ
sáng tạo, chọn lọc, thi sĩ đã bắt trọn được cái hồn của cảnh vật qua ngòi bút nghệ thuật
thanh, nhẹ và tài hoa.
"Sang Thu" là một bức hoạ hữu tình, thơ mộng, tả ít mà gợi nhiều. Mỗi câu thơ
như một nét vẽ tinh vi và sống động. Hình ảnh hiện lên giàu sức gợi với biết bao cảm
mến nồng hậu. Hữu Thỉnh khi tự bạch về nghề viết chỉ nói rất gọn gàng rằng: "Thơ là
kinh nghiệm sống”. Từ chiến hào đến đến thành phố, từ chiến tranh đến hòa bình, chính
những "kinh nghiệm sống" đã giúp Hữu Thỉnh chưng cất nên một "Sang Thu" - khúc giao
mùa nhẹ nhàng, bâng khuâng và khép lại trong thầm thì triết lý nhân sinh. "Sang Thu"
chẳng còn hạn hẹp trong thơ tạo vật mà đã vươn lên thành thơ cuộc đời. Tìm đến hồn thơ
ấy, ta có dịp trầm mình trong hơi thở của đất trời để cảm nhận những chuyển động khe
khẽ của thiên nhiên, để lòng mình được lắng lại mà ngẫm suy về ý vị sâu xa đằng sau một
tiếng thơ bịn rịn qua những nẻo đường thời gian.
LÀNG_KIM LÂN
🍀 TÂM THỨC “LÀNG NƯỚC” QUA NHÂN VẬT ÔNG HAI
Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, là tấm gương phản chiếu đời sống, văn hóa.
Cho nên, tiếp cận tác phẩm từ văn hoá cũng là một hướng tiếp cận khả dĩ. Ví như đọc
truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, nếu không hiểu “làng” trong tâm thức văn minh lúa
nước có chiều dài tới cả nghìn năm thì cũng khó mà cảm nhận hết vẻ đẹp của những
người nông dân “nguyên thuỷ”. Nguyên thuỷ trong nếp sống, nếp nghĩ, trong tình cảm,
trong ứng xử, trong niềm vui và nỗi buồn...Làng ở đồng bằng Bắc Bộ nói chung được
hình thành một cách tự nhiên theo quan niệm dân gian “đất lành chim đậu” để an cư lạc
nghiệp. Làng có luỹ tre bao bọc, đó là “cương giới” giữa làng này với làng khác. Làng có
đình, chùa, bến sông, cây đa... Mỗi sự vật là một biểu tượng có ý nghĩa nhất định, nó
khiến cho cư dân làng có quyền tự hào về nó.
Hiểu theo nghĩa đúng đắn thì “làng” là một tế bào mà mỗi thành viên trong đó đều
có quan hệ gắn bó bền vững, đó là quan hệ hàng dọc trong mỗi gia tộc từ đời ông, cha
cho đến tận đời con, cháu và quan hệ hàng ngang giữa các gia tộc với nhau. Có thể nói,
“làng” là đơn vị tổ chức hành chính đầu tiên của người Việt, sau đó “làng” được mở rộng
thành “nước. Mối quan hệ mật thiết giữa “làng” với “nước” có thể gói gọn trong một câu:
“Sống ở làng, sang ở nước!”.
Diễn giải dài dòng như trên để nói rằng: từ hàng nghìn năm qua, người nông dân
Việt Nam luôn có niềm tự hào hồn nhiên và chân thành về ngôi làng của mình- nơi có
giếng nước gốc đa, có những người hàng xóm thân thuộc, có những lần hội làng nô nức.
Khi có giặc ngoại xâm thì làng nào đánh giặc giỏi, làng ấy sẽ được tôn vinh, ngưỡng mộ;
ngược lại làng nào theo giặc sẽ bị xa lánh, tẩy chay.
Những hiểu biết trên sẽ góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu vẻ đẹp của nhân vật
ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Ở truyện ngắn “Làng”, tình huống làm bộc lộ sâu sắc lòng yêu làng, yêu nước ở
nhân vật ông Hai là: trong khi ở nơi tản cư, lúc nào ông cũng da diết nhớ về làng với một
niềm tự hào không giấu giếm thì bỗng nghe tin làng mình đã lập tề theo giặc. Chính tình
huống này đã cho thấy lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến luôn bao trùm và chi phối
tình cảm quê hương ở ông Hai, đồng thời làm bộc lộ sâu sắc và cảm động tình yêu làng,
yêu nước của ông.
Trong lúc tâm trạng đang phấn chấn vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được
trong phòng thông tin thì cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đến với ông Hai quá đột ngột.
Từ đây bắt đầu những diễn biến tâm trạng căng thẳng với nhiều nỗi day dứt ở nhân vật
được ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tường của tác giả thể hiện rất sinh động.
Ban đầu là những cảm xúc đột ngột hiện ra bằng các trạng thái cơ thể: cổ nghẹn
ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi tưởng chừng không thở được. Rồi tiếp đó là nỗi xấu hổ,
đau xót khiến ông cúi gằm mặt mà đi. Nỗi đau đớn, tủi hổ về việc làng mình theo giặc
khiến ông Hai cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, không
dám ló mặt ra đến ngoài. Sau cùng thì tâm trạng của ông Hai được biểu hiện dưới hình
thức trò chuyện với đứa con út, mà thực chất là lời tự minh oan và khẳng định tấm lòng
thuỷ chung của mình đối với kháng chiến để làm vợi bớt phần nào nỗi khổ tâm nặng nề
từng dằn vặt ông.
Ở đoạn kết, khi cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính thì một lần nữa tình
yêu làng, yêu nước ở ông Hai lại được thể hiện một cách thành thực và cảm động . Ông
đã thay đổi hẳn: “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm
bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy...”. Ông vui mừng phô với bác Thứ về cái
tin làng Chợ Dầu theo giặc là sai sự thật. Và ông còn hào hứng khoe cả việc nhà mình bị
Tây đốt nhẵn. Rồi ông vội vã, lật đật đến các nhà trong xóm để kể, để khoe về những điều
đó.
Tác giả đã rất am hiểu tâm lí của người nông dân, đặc biệt là tình cảm với làng
quê, và tâm lí cộng đồng của họ. Tâm lí nhân vật ông Hai được thể hiện từ ngoại hình, cử
chỉ đến ngôn ngữ, hành động. Không chỉ diễn tả chính xác, tinh tế các trạng thái tâm lí
mà tác giả còn miêu tả thành công quá trình vận động, chuyển biến trong tâm trạng của
nhân vật.
Nét riêng của truyện ngắn này trong việc khai thác đề tài về tình yêu quê hương là
đã nêu được mối quan hệ giữa tình cảm làng quê và tình yêu nước trong hoàn cảnh chiến
tranh. Bằng cách tạo ra một tình huống có sự xung đột giữa hai tình cảm ấy, truyện đã
cho thấy lòng yêu nước là tình cảm lớn bao trùm trong con người kháng chiến, nó chi
phối các tình cảm khác. Tình yêu làng quê, dù có sâu nặng đến đâu cũng phải nằm trong
tình yêu nước, không thể đi ngược lại với lòng yêu nước, với quyền lợi của cả dân tộc.
Ngoài nhân vật ông Hai cũng phải kể đến những nhân vật phụ chỉ thoáng qua
trong tác phẩm nhưng vẫn kịp lưu lại cái tâm thức “làng nước” thật sâu sắc và cảm động,
ví như nhân vật bà chủ nhà nơi gia đình ông Hai tản cư hoặc một nhân vật vô danh là
“người đàn bà cho con bú”. Bà chủ nhà có hai câu nói ngắn gọn, một là khi có tin đồn
làng Chợ Dầu theo giặc và một là sau khi tin đồn ấy được cải chính. Trước, bà nói: “Trên
này họ đồn giăng giăng ra rằng thì là làng dưới nhà ta đi Việt gian theo Tây đấy, ông bà
đã biết chưa nhỉ?...Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng Chợ Dầu khỏi vùng
này không cho ở nữa”.
Sau, bà nói: “A, thế chứ! Thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét
ghê ấy...Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết bao
nhiêu”.
Còn “người đàn bà cho con bú” thì thật ngoa ngoắt, quyết liệt: “Cha mẹ tiên sư
nhà chúng nó! Đời khổ ăn cắp ăn trộm được người ta còn thương. Cái giống Việt gian
bán nước thì cứ cho mỗi đứa một phát!”.
“Làng nước” không chỉ là không gian sinh tồn của mọi con dân nước Việt, mà còn
là nơi thờ cúng tổ tiên và các bậc tiên liệt - tức là cõi tâm linh thiêng liêng bất khả xâm
phạm; do đó nỗi đau đớn nhất là nỗi đau bị giặc ngoại xâm giày xéo mồ mả tổ tiên và nỗi
nhục lớn nhất là nỗi nhục cam tâm làng tay sai cho giặc. Và tình cảm yêu làng yêu nước
là một tình cảm tự nhiên, nhưng trong truyện ngắn “Làng” thì tình cảm đó dường như đã
trở thành một chuẩn mực đạo đức để đối nhân xử thế , có thể coi đây là sự trưởng thành
về ý thức của những người nông dân như ông Hai, bà chủ nhà, “người đàn bà cho con
bú”... Họ có thể ít chữ nghĩa nhưng lại có một sự mách bảo cực kì nhạy bén của tình cảm
và lương tâm. Từ khía cạnh này mà xét thì truyện ngắn “Làng” của Kim Lân không chỉ là
một tác phẩm văn học đơn thuần, mà còn có dáng dấp của một tuyên ngôn chính luận,
rằng: Có thể chấp nhận mất tất cả, hi sinh tất cả, nhưng không thể để mất nước, mất tự
do!

🌿LÝ GIẢI GIỌT NƯỚC MẮT ÔNG HAI TRONG TRUYỆN NGẮN
"LÀNG" CỦA NHÀ VĂN KIM LÂN
Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người
nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những
đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện
trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.
“Làng” của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quê
hương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhân vật
chính của tác phẩm - ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác, hồn hậu
như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đất nước thật
đặc biệt.
Tác phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân
ông Hai là người dân làng Chợ Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông cùng gia đình tản
cư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về cái làng thân yêu của mình
với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động...
Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất... như bao
người nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mở giãi
bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộc kháng
chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự
kiện nổi bật của cuộc kháng chiến... Ông Hai không biết chữ, ông rất ghét những anh nào
“ra vẻ ta đây” biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho người khác còn
biết. Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mình theo giặc ông
sung sướng nói to với mọi người: “Toàn là sai sự mục đích cả!”.... Tất cả những điều đó
không làm ông Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông đáng yêu, đáng
mến hơn.
Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết.
Và biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt. Cái làng đối với người nông dân quan
trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời.khác, người
nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là
hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố
rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang
hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm
bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán. Nên ông thấm thía
lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào
về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức,
say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái dinh
phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được
như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên
tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả
động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi
người, là kẻ thù cùa cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập
đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy" Bây giờ ông
khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối",
rồi những buối tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào cùa làng
ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư.
Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói,
ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những
ngày làm việc cùng với anh em: sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...]
Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng
ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin
kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư vừa cho con bú vừa
ngấm nguýt khi nhắc đến làng Dầu. Cô ta cho biết làng Dầu đã theo giặc chẳng “tinh
thần” gì đâu. Ông Hai nhận cái tin ấy như bị sét đánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diện
tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà
văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động
trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành
động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng
hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được. Một lúc lâu
ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "ông Hai cúi gằm
mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái
gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ
con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy?
Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục
nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ''Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng
Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán
mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt
gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi,
hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng
thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của
gian nhà." ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong
nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là
"chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài"
vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi
gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng
thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống!
[..] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính
sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến
đâu.".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái
làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ... Và
"nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao
nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng
đứa con thơ dại:
“- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đẩu vào ngực bố trả lời khe khẽ: Có.
Ông Lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
-À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt: Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
-Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.”
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy
danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng
chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành
và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông: “Anh em đồng chí biết
cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là
như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân
lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về
làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điếm tâm lí vì cộng đồng, vui
cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái
tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình
phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng cùa ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì
khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc,
sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ỏng Hai như người vừa được hồi sinh.
Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình:
"Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu,
cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt
nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả., "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ậ.
Đốt nhẵn.[... ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra
ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi
cái ách "người làng Việt gian" Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía
kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp
tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này
cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.

Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như
thế. Lúc ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm
ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó",
"không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vườn", "có bao giờ dám đơn
sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn
của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân
ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiếu hết.
Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn
ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thông hiểu về lề thói, phong tục
của làng quê. Kim Lân đả vận dụng những hiểu biết đó hết sức khéo léo vào việc xáy
dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào
mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn
riêng, ấn tượng riêng, độc đáo.
Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với
nơi ông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: “Tình yêu làng xóm trở nên tình yêu
quê hương đất nước”. Và bởi thế, tình yêu làng của ông Hai gắn bó chặt chẽ với tình yêu
nước với tinh thần kháng chiến đang lên cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là biểu hiện
chung của tình yêu đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống
Pháp.
Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên một
ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung
của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị,
một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng
như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà vàn Kim
Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi
thì phải.
Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người
nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những
đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện
trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm).
🌿 CẢM NHẬN NHÂN VẬT ÔNG HAI

Có người từng nói: "Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ
không thể tách quê hương ra khỏi con người."- dù con người và quê hương có bị cách trở
bởi địa lí nhưng những tình cảm thì không gì ngăn cách. Đó là chân lí của cuộc sống và
cũng là chân lí của văn chương. Cho đến khi đọc truyện ngắn "Làng" của nhà văn kim
Lân- một nhà văn am hiểu, gắn bó với cuộc sống nông thôn, dường như ta lại càng cảm
nhận sâu sắc hơn chân lí ấy. Qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhà văn đã gửi gắm vào
tác phẩm những lời nhắn nhủ, tư tưởng mới mẻ: tình yêu làng quê thống nhất với tình yêu
đất nước.

Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác,
nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác
nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi
người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông
dân trong truyện ngắn "Làng", không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình
yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng
lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dâu bước chuyển biến tích cực trong
hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.

Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với
làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó
chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là
quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm
hãnh diện. "Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông
sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động." Tình yêu làng đã biến ông Hai thành
một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư.
Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi
nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông
hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai
không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và
cũng để thỏa nỗi nhớ làng. "Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày
cùng làm việc với anh em. [...] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào
đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá." Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi,
động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em
thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc,
nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông
Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng
đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong
ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi: "Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá." Với
ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở
trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong
ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai
là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân
chính.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin
làng ông theo Tây. Như xét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. "Cổ ông lão
nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một
lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ." Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp
đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không
đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải
"cúi gằm mặt đi thẳng", "nước mắt ông cứ giàn ra". Giá ông không quá yêu làng, không
quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ "cả làng chúng nó
Việt gian theo Tây" như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô
cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành.
Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại
("Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được?"), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết
những bằng chứng rõ ràng ("Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi").
Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. "Chao ôi! Cực
nhục chưa, cả làng Việt gian!" Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay
thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên
từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như
cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình,
đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. "Lại còn
bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự
này chưa?" Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi
đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng
hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp
trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải
chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó
lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông,
buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất
tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn
quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông.
"Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ.
Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến "cái
chuyện ấy". Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông... là ông lủi ra một
góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!" Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều
về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì
nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy! Lòng
yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm
trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải
qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy
để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào
tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông
vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi
hổ hơn.

Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng
lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào
về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. "Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui
quá!" Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù
bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào "tuyệt đường sinh sống", ông vẫn nhất quyết
không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn
giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và
lòng yêu nước. "Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ." Nhớ
lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn.
Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng:
"Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù." Nhận thức rất mới này là
một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân
sau Cách mạng Tháng Tám. Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình.
Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm
sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói
ra được. "Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ." Ông Hai nói với đứa con như thể nói với
anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong
lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân
thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về
làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng
hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu
làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần - lòng yêu nước.
Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của
ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. "Cái mặt buồn thỉu mọi ngày
bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên." Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể
hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông
Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về "Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!"
Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ
không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai,
điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy
cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu
ấy: làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của
tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói: "Lòng
yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc." Nếu so với lão Hạc của
Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám - những người nông
dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ
ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất
nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân,
mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh
những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của
dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến
thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

Truyện ngắn "Làng" đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình
huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói: "Tình huống là
một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp
nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện." Kim Lân đã sáng tạo được
một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều
sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và
tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng
thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi
thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể
chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh
đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất
bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng
đáng là một cây bút "quý hồ tinh, bất quý hồ đa".
Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: "Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng
những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn
muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh
muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh." Truyện ngắn "Làng" đã
được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất
những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông
qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim
Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước
sâu đậm, thiết tha.
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ_HUY CẬN
Bài 1:

Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và bài Đoàn
thuyền đánh cá của Huy Cận,... được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết Đoàn
thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động
sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao
động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương.
Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn - đêm trăng - bình
minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang
mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa.
Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, cảnh biển vô cùng tráng
lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực "hòn lửa" từ từ lăn xuống
biển. Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt
mù. Những con sóng, như những chiếc "then cài" của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng vũ
trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên những vần thơ đẹp, cho
người đọc nhiều ấn tượng:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.”
Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơi:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một "đoàn thuyền", một sức
mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ "lại” trong ý thơ "lại ra khơi" là sự khẳng định nhịp
điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nền nếp trong hòa bình. Khúc hát lên
đường vang động. Gió biển thổi mạnh. Cánh buồm no gió "căng" lên. Tiếng hát, gió khơi,
buồm căng” là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn
khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển.
Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người
dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!"
Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng
sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn
hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt
ngào, ngắn dài và vang xa: "cá bạc", "đoàn thoi", "dệt biển", "luồng sáng", "dệt lưới" vẫn
những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị
về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.
Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá vào một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi
khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sông nước, trăng sao, trong đó con người hiện lên
trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời.
Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long trong đêm trăng
mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long
vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.
Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển về
ngư trường "dò bụng biển", ngư dân khẩn trương lao vào công việc "dàn đan thế trận lưới
vây giăng". Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thủ là một "chiến sĩ". Con
thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ "lưới” đặc tả đoàn
thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con
đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý,
cá ngon nổi tiếng như: "chim, thu, nhụ, đé". Vận dụng sáng tạo cách nói của dân gian, ở
phần trên, nhà thơ đã viết: "Cá thu biển đông như đoàn thoi", ở đây lại miêu tả: "Cá nhụ,
cá chim cùng cá đé". Con cá song là một nét vẽ tài hoa: vẩy cá đen, hồng, lấp lánh trên
biển nước chan hòa ánh trăng "vàng chóe". Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc
rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực
rỡ. Bầy cá như những nàng tiên nhảy múa:
“Cá nhụ, cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.”
Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ
huyền ảo lung linh: "Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long", như đưa người đọc đi vào cõi
mộng. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt bút như vậy.
Sung sướng nhìn đàn cá "dệt lưới", những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào. Lần
thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hòa cùng sóng biển. Vầng
trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng tan ra theo làn sóng, vỗ vào mạn thuyền.
"Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao". Biển hào phóng cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và
hải sản... Biển "như lòng mẹ" đã nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay. So sánh biển với
lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương. Giọng thơ ấm áp,
chứa chan nghĩa tình:
“Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời
sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc
kéo lưới "xoăn tay". "Kéo xoăn tay" là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng,
khỏe và đẹp. Cơ man nào khiến cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng.
"Chùm cá nặng" là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá. Khoang thuyền đầy ắp
cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông". Một lần nữa cho thấy
nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá
dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹp:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông.”
Khổ thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư
dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát - tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và
mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương:
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,
Mặt trời đội biển nhô màu mới.”
Cảnh rạng đông với hình ảnh "mặt trời đội biển... " nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa,
một "màu mới" bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến như cướp lấy
thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong
việc tả "mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi" đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống
hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca
cuộc đời.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám.
Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn "vạn cổ sầu" vào vũ trụ và lòng
người thì những bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài Đoàn thuyền đánh
cá mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang
làm chủ cuộc đời.
Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta
tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi
dào hải sản.
Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là
niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là
người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao.
Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó. Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng
biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho
mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông
"một nắng hai sương", những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh
thần lạc quan trong lao động.
Thật vậy, Đoàn thuyền đánh cá là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển,
về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát... cho thấy một hồn thơ đẹp.
ÁNH TRĂNG_NGUYỄN DUY
🌿 BÀI PHÂN TÍCH 1
Trăng - hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành
đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu
như Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê
hương, Vọng nguyệt của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và
lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy,
chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí
“uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao,
dân ca Việt Nam. Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa
tình muôn đời của người Việt. Ánh trăng là một bài thơ như vậy. Trăng đối với nhà thơ
có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh.
Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.
Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và
trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong
sáng của tuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một
cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên
có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao
kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nơi đó, ta bắt gặp hình
ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “với” đã diễn tả tuổi
thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của
bãi bồi thiên nhiên của tác giả. Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được! Khi lớn lên,
vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới”. Trăng luôn sát cánh bên
người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của
bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh
trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đó, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi
bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong
những năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời
người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đó, người bạn
tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho
âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc của tác giả vẫn đang tràn
đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đậm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên
của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là
tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông, của bể và của những người lính
hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phải làm quen với một
hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại
trong tâm hồn mỗi con người như một ánh dương chói lòa. Thế nhưng con người không
thể kháng cự lại sự thay đổi đó. Người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những
thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã
quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được,
“người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết.
Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người
đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho
người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình
lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật
chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần
vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với
quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những
giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chính là tình cảm con
người. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc người lính phải đối mặt:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật
chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột
ngột” ấy, người lính vội bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải
ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không
hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên luôn ở
ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao
giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha
và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết
vươn lên hoàn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đoán biết trước được.
Không ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách.
Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi dài với những quanh co, uốn khúc. Và
chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật sự hiểu được cái
gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời.
Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
‘Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đó khiến cho người lính áy náy dù cho
không bị quở trách một lời nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt
người đang cùng nhau trò chuyện. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận
đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của
người bạn “tri kỉ” của mình. Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang
xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có
“bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng những nỗi niềm
và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt
ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng
lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ
những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không
bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng
khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ
bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thơ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và
triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị
suy chuyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng
không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh
trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình
để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong
tâm hồn anh ta. Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng
luôn vây bọc và che chở cho con người.
Ánh trăng đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi
người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần quý giá thì hãy thức
tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng
niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ
hay về mặt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ
được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc
liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gây ấn tượng
mạnh trong lòng người đọc
🌿 Các nhận định về bài Ánh trăng:
* Bài thơ giống như một câu chuyện giàu chất thơ, đầy hiện thực đời sống. Tuy thế, bài
thơ không một chút đao to búa lớn, cũng làm gì có roi vọt mà sao khi đọc ta thấy như có
ai đang quất vào người mình đau đớn. Ánh trăng giản đơn, nhẹ nhàng về câu chữ, tự
nhiên thuần thục về kết cấu; bình dị, dễ hiểu về ý thơ mà vẫn đọng lại trong lòng người
đọc bao suy ngẫm xót xa...điều nhà thơ muốn nói còn nằm ngoài ngôn ngữ trong thơ, sức
gợi bao la, vô kể.
(Lương Kim Phương, Thơ, bốn phương cùng bình)
* Bài thơ viết về ánh trăng mà nói chuyện đời, chuyện tình nghĩa. Tác giả chọn một lối
viết giản dị, dễ hiểu...Qua bài thơ, tác giả đối thoại với chính mình và thủ thỉ tâm sự với
bạn đọc. Cái lối của bài thơ là sự chân thành, sự rung động trong một khoảnh khắc tâm
tình rất thật. (Bùi Vợi, Báo văn nghệ số 16, ngày 19/4/1986).
* Từ một câu chuyện riêng, bài thơ Ánh trăng cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ,
tình cảm của con người đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với
thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.
* Bài thơ mượn chuyện ảnh trăng để nói chuyện đời, chuyện nghĩa tình, nhắc nhở môi
người ý thức sống thủy chung, tình nghĩa
ĐỒNG CHÍ_CHÍNH HỮU
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
Thật đẹp làm sao hình ảnh người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam trong thơ
Tố Hữu! Chẳng biết tự bao giờ, hình ảnh người lính trên đường ra trận trong những năm
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại trong lòng bạn đọc một dấu ấn khó phai
mờ. Cũng viết về người lính kháng chiến thời chống Pháp nhưng bài thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu lại thể hiện vẻ đẹp ở khía cạnh khác. Đó là mối tình đồng chí đồng đội được
hình thành và phát triển trong điều kiện chiến đấu vô cùng thiếu thốn gian khổ để tạo nên
phẩm chất dẹp đẽ, một trong những nguòn sức mạnh của quân đội ta.
Thật vậy, bài thơ “Đồng chí” không phải là bài thơ hay nhất nhưng nó lại là bài
thơ được nhiều người biết đến nhất, thậm chí nhắc đến Chính Hữu người ta nghĩ ngay
đến “Đồng chí”. Bài thơ đã được phổ nhạc nhưng dù là thơ hay nhạc mãi mãi tình đồng
chí keo sơn gắn bó vẫn sống mãi trong lòng mọi người.
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác theo thể thơ tự do, chỉ có 20 dòng
nhưng đã tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội thật sâu sắc.
Mở đầu bài thơ tác giả viết :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Thành ngữ “Nước mặn đồng chua” và hình ảnh gợi tả “Đất cày lên sỏi đá” đã mang đến
sức khái quát cao. Tác giả giới thiệu với chúng ta hoàn cảnh xuất thân của những người
chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sinh
ra và lớn lên từ những làng quê nghèo đói “ nước mặn đồng chua ”, “đất cày lên sỏi đá ”.
Họ thật sự là những người nông dân “Mới hôm qua còn tì tay lên cán cuốc ”, đang chống
chọi lại với thời tiết khắc nghiệt của vùng quê chua phèn sỏi đá để khoát lên mình màu áo
xanh chiến sĩ bảo vệ quê hương đất nước thân yêu.
Mỗi người một vùng quê, những người tứ xứ này trước ngày vào bộ đội họ chưa hề quen
biết nhau.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Những người từ mọi phương trời tập hợp lại trong hàng ngủ quân đội cách mạng và chính
nhờ cơ sở của sự đồng cảm giai cấp, cùng chung cảnh ngộ cho nên họ đã dễ dàng thân
quen với nhau. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “ Nhớ ” của mình cũng thể hiện tình
cảm này.
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau hòi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai
Súng bắn chưa quen quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến ”
Những người xa lạ gặp nhau thân quen nhau tạo nên tình đồng chí. trước hết phải nói tình
đồng chí được nảy sinh từ sự cùng chung nhiệm vụ sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Súng bên súng là cách nói hàm súc, hình tượng. Cùng chung lí tưởng chiến đấu. Anh
cùng tôi cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập tự do và sống
còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu ” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm
giao. Có thể nói hai hình ảnh thơ đã cụ thể hóa sự hòa nhập của những người chiến sĩ
cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Súng và đầu, ý chí và tình cảm là sự gắn
bó keo sơn thắm thiết của những con người cùng chung lí tưởng. Câu thơ “ Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỉ ” là câu thơ hay và cảm động đầy ắp kỉ niệm của một thời
gian khổ. Đã là đôi tri kỉ phải hiểu nhau thông cảm cho nhau, chia sẻ ngọt bùi cho nhau.
Phải là người bạn chí cốt bên nhau. Để có được mối tình tri kỉ này hẳn nhiên họ phải
cùng chung hoàn cảnh xuất thân, cùng chung lí tưởng chiến đấu. Câu thơ được biểu hiện
bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm.
“Đồng chí!”. Câu thơ chỉ gồm hai tiếng như ghép lại tình ý sáu câu thơ đầu của bài thời,
đồng thời tạo ra một tiếng vang ngân như một nốt nhấn nổi bật trong bản đàn, là sự kết
tinh mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Tình đồng chí là cao độ của tình bạn tình người. Câu thơ
thứ bảy trở thành bản lề gắn kết giữa hai dòng cảm xúc: một bên là cơ sở hình thành tình
đồng chí và một bên là những biểu hiện thiêng liêng của tình cảm đẹp ấy. Biểu hiện đầu
tiên của tình đồng đội thắm thiết chính là ở học có sự thấu hiểu nhau sâu sắc:
“Ruông nương anh gởi bạn thân cày
Gian nhà không mặt kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người trai làng ra lính”
Câu thơ đưa ta trở lại hoàn cảnh riêng, từng cảnh ngộ riêng của những người lính vốn là
nông dân đó. Gơi bạn thân cày mảnh ruộng của mình. Nhớ tới gian nhà trống không “ gió
lung lay ”. Sẵn sàng gởi lại những gì quí giá thân thiết của cuộc sống người nông dân nơi
làng quê để ra đi vì nghĩa lớn. Hai chữ “mặc kệ ” đã nói được một cách dứt khoát mạnh
mẽ của những người lính ra trận. Họ dứt khoát nhưng không vô tình, trong lòng họ vẫn
nặng tình với quê hương thân yêu. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi có viết :
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
“Giếng nước gốc đa ” hình ảnh quê hương thân thiết được tác giả diễn tả một cách kín
đáo gián tiếp qua mô típ quen thuộc về làng quê của ca dao “ Cây đa giếng nước sân đình
”. Nghệ thuật hoán dụ và nhân hóa đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nhung của kẻ hậu phương đối
người ra trận. Bút pháp nhân hóa nỗi nhớ cũng gây thêm ấn tượng mạnh mẽ. Mối tình
đồng chí keo sơn gắn bó với nhau, không chỉ cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau
mà đó còn là sự cùng nhau chia sẻ những gian lao thiếu thốn cuộc đời người lính.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Bằng những hình ảnh thơ chân thực và xúc động, gợi tả, gợi hình. Tác giả đã làm sống
dậy cuộc sống gian khổ thiếu thốn trong cuộc chiến đấu của người lính thời chống Pháp.
Đó là những gian khổ tột cùng của người lính, những cơn sốt run người vừng trán ứơt mồ
hôi, những trang phục phong phanh giữa mùa đông giá rét. Những gian lao thiếu thốn ấy
càng làm nổi bật sự cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Trong gian khổ vẫn nổi bật lên nụ
cười của người lính “Miệng cười buốt giá ” thật đáng yêu làm sao. Hình ảnh người lính
thật đáng trân trọng mỗi khi ta đọc những câu thơ nói về cuộc sống kham khổ của họ.
“Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh”
Chúng ta mới cảm thấy khâm phục và tự hào biết bao.
Vậy sức mạnh nào để giúp cho người lính vượt qua được mọi gian khổ thiếu thốn ấy ? Có
phải chăng đó là tình đồng chí dồng đội “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ”.
Thật giản dị và xúc động của sự biểu hiện tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng ở hững
người lính. Đó là nguồn sức mạnh cho họ chiến thắng. Tình đồng chí còn được thử thách
cao nhất là trong chiến đấu, trong sự sống chết nơi chiến hào.
Bài thơ kết lại bằng ba câu thơ mang ý nghĩa hình tượng lớn, là biểu tượng đẹp nhất của
tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Có thể nói đoạn cuối của bài thơ là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, là một biểu
tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong cảnh “Rừng hoang sương muối ” những
người chiến sĩ phục kích chờ giặc đứng bên nhau, Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ
vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn. Tình đồng chí
đã sưởi ấm lòng họ giữa cảnh rừng hoang giá rét. Trong cái đêm phục kích ấy có vầng
trăng như treo trên đầu súng. Một hình ảnh thơ rất đặc sắc chỉ có bốn tiếng thôi nhưng dã
gây cho người đọc một bất ngờ thú vị. Hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng. Súng và
trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ.
Súng còn là biểu tượng của cuộc chiến đấu vì độc lập tự do. Trăng là biểu tượng của non
nước thanh bình cùng đặt trên một bình diện “đầu súng trăng treo ”. Ý thơ đã đem đến
cho chúng ta một liên tưởng về tâm hồn người lính rất đẹp. Trong ác liệt chiến tranh vẫn
yêu đời và luôn luôn hướng về một ngày mai hòa bình yên vui. Có thể nói đó là các mặt
bổ sung cho nhau, hài hòa với nhau của cuộc đời người lính cách mạng. Câu thơ mang
một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu rất hàm súc, mộc mạc, chân thực và có sức gợi tả
khái quát cao, đã khắc họa được một trong những phẩm chất đẹp của anh bộ đội cụ Hồ.
Đớ là mối tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn, gian khổ có nhau, sóg chết có nhau.
Bài thơ có thực có hư tạo nên vẻ đẹp hài hòa, gây cho người đọc những suy tư sâu sắc,
những xúc động sâu lắng. Có thể nói bài thơ Đồng chí là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ,
mộc mạc, bình dị cao cả và thiêng liêng.
LẶNG LẼ SA PA_NGUYỄN THÀNH LONG

🌿 Phân tích vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên


Mạch nước âm ỉ dưới vách núi đã đổi thay qua những ngày xuân xanh đến những chiều
thu buồn. Những đền đài rồi xụp đổ dưới ánh chiếu của thời gian, những tranh tượng rồi
tiêu tan hoá thành bụi vàng của quá khứ. Ấy vậy mà có những tác phẩm vẫn tồn tại bền bỉ
tựa dòng suối chảy mãi trong tâm hồn bao thế hệ hôm qua, hôm nay và ngày mai. Như
trong "Nghĩ lại về Paustovsky" Bằng Việt từng chiêm nghiệm:
"Những trang sách đi suốt đời vẫn nhớ.
Như những đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu".
Ẩn chứa trong những tác phẩm ấy là thế giới được nhà văn phác họa một cách nhẹ nhàng
mà lắng đọng, đẹp đẽ mà không khoa trương, giản dị mà chẳng kém phần tinh tế. "Lặng
lẽ Sa pa" chính là một trong số đó. Nguyễn Thành Long đã dẫn lối ta đến với xứ sở của
những con người lao động miệt mài mà thầm lặng. Nhân vật anh thanh niên chính là biểu
tượng cho phẩm chất và con người ở miền đất ấy.
Nguyễn Thành Long được đánh giá là cây bút đầy cuốn hút, chuyên viết về truyện ngắn
và kí. Thước phim mang tên "Cuộc đời" của ông là những năm tháng lặng lẽ sống, lặng lẽ
viết và lặng lẽ ra đi. Những tác phẩm của Nguyễn Thành Long có lối viết nhẹ nhàng,
trong trẻo, thơ mộng pha chất kí, giàu chất trữ tình và đậm chất thơ. "Lặng lẽ Sa Pa" sáng
tác năm 1970 trong chuyến đi thực tế Lào Cai, in trong tập "Giữa trong xanh" là truyện
ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy. Trong truyện, ta bắt gặp những trang đời, ta thấm
nhuần vẻ đẹp của những con người lao động hăng say mà thầm lặng. Tiêu biểu là nhân
vật anh thanh niên ngời sáng với những phẩm chất tốt đẹp.
Anh thanh niên là một chàng trai 27 tuổi, cái tuổi sôi nổi, yêu đời và khát khao
được cống hiến cho đời. Anh sống và làm việc một mình ở đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m
với rừng xanh, mây trắng, bão tuyết và sương rơi. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật
lý địa cầu. Công việc mỗi ngày của anh là “ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn
động mặt đất”. Nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày phục vụ sản xuất và chiến
đấu, Đó là công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác, kiên nhẫn và có tinh thần trách nghiệm
cao. Chính hoàn cảnh sống đặc biệt ấy lại là "chiếc đòn bẩy" nâng tầm cho ý chí sắt đá,
nghị lực phi thường của anh thanh niên được nổi bật và neo giữ mãi trong trái tim người
đọc. Anh thanh niên là một người nhiệt thành, yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm cao.
Anh tự nguyện chấp nhận sống trên đỉnh núi cao vời vợi, thiếu vắng thanh âm của con
người và phải một mình chống chọi, vượt qua sự khắc nghiệt của thời tiết. Đối với công
việc, anh yêu và say mê nó đến nổi khi người ta còn ái ngại cho cuộc sống ở độ cao
2600m của anh thì anh lại mơ ước được làm việc trên đỉnh Phan-xi-băng cao đến 3142m.
Bởi với anh "làm khí tượng ở độ cao thế mới là lí tưởng". Anh còn có những chiêm
nghiệm đúng đắn và sâu sắc về mối liên kết giữa công việc với con người. Với anh, công
việc như một người bạn tri âm tri kỉ song hành cùng ta đi qua những nốt thăng trầm:" Khi
ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được". Anh đâu xem công việc
của mình là những nhiệm vụ khô khan và nhạt nhẽo. Công việc với anh là lí tưởng, là
nguồn vui, dẫu nó thật gian khổ, thật cô độc nhưng "cất nó đi cháu buồn chết mất". Chan
chứa trong những câu nói ấy là biết bao tình yêu, bao nỗi niềm say mê của người thanh
niên trẻ. Anh còn tìm ra ý nghĩa của công việc thầm lặng ấy. Anh hiểu rằng công việc của
mình gắn bó với biết bao tâm sức của những anh em đồng chí dưới kia, là mắt xích quan
trọng trong sự nghiệp "phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Khi biết việc mình phát
hiện được một đám mây khô đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên cầu
Hàm Rồng, anh thấy "thật hạnh phúc" biết nhường nào. Cũng chính vì yêu tha thiết công
việc nên ở anh còn có những hành động đầy trách nhiệm. Dẫu làm việc một mình, chẳng
có ai đôn đốc hay giám sát, anh vẫn luôn tự giác, nghiêm túc và tận tụy với nghề. Có là
ngày hay đêm, mưa tuyết hay rét lạnh, anh thanh niên vẫn chẳng nề hà vất vả, không bỏ
qua bất kỳ một giờ "ốp" nào. Anh luôn cố gắng hoàn thành xuất sắc công việc của mình
với tác phong khoa học, nghiêm túc và chính xác.

Tuy được ví như "người cô độc nhất thế gian" , tuy phải sống một mình trong điều kiện
thiếu thốn trăm bề nhưng anh thanh niên không hề buông thả bản thân hay cảm thấy chán
nản và buồn tẻ. Ở anh toát lên lối sống giản dị, lạc quan và yêu đời. Anh tự tạo ra âm
hưởng của niềm vui trong bản hòa tấu mang tên "Cuộc sống" của anh. Anh thanh niên
trồng đủ những loại hoa như "hoa dơn, hoa thược dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn". Người
ta cứ ngỡ bức họa về cuộc sống nơi đỉnh núi cao vời vợi ấy sẽ chỉ độc nhất mảng màu
lạnh lẽo, xám xịt của mây trời bạt ngàn và màn sương dày đặc. Nhưng anh thanh niên đã
chấm phá cho ngôi nhà nhỏ của mình bao sắc màu ấm áp và rạng ngời. Anh còn nuôi gà,
nuôi ong để làm phong phú nguồn lương thực và làm những món quà nho nhỏ gửi trao
những vị khách hiếm hoi. Anh thanh niên còn tìm đến sách như một người bạn tâm giao
cùng anh chuyện trò, cùng nương tựa vào nhau để vượt qua sự vắng lặng kéo dài từ ngày
này qua tháng nọ. Nhờ có sách, anh có thể tự trau dồi thêm tri thức cho bản thân và làm
giàu thế giới quan của mình. Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học,
chính trong gian nhà nhỏ của anh cũng toát lên vẻ gọn gàng, ngăn nắp. Anh làm việc, ăn
uống, nghỉ ngơi, đọc sách, đọc báo như một người đang sống và làm việc giữa lòng thành
phố, với mọi người, chứ không phải riêng mình anh. Không gian sống của người thanh
niên trẻ đã gieo vào trái tim ông hoạ sĩ bao xúc cảm trầm trồ và ngỡ ngàng. Những giọt
nắng ấm nóng của tinh thần lạc quan đã sưởi ấm cõi lòng anh trong khí trời lạnh lẽo và
thoáng đãng của thiên nhiên Sapa. Chính tình yêu tha thiết dành cho cuộc đời đã trở
thành điểm tựa vững bền giúp anh chủ động bước tiếp về phía trước, vượt qua hết thảy
những gian truân, vất vả của hoàn cảnh sống đặc biệt. Từ ấy, anh tìm được niềm vui,
hạnh phúc và ý nghĩa trong những điều nhỏ nhặt.
Tâm hồn anh vẫn luôn gần gũi, vẫn ấm nóng, chân thành, cởi mở và hiếu khách biết
chừng nào. Anh "thèm người", "thèm nghe chuyện dưới xuôi" và khao khát được bên
người, được cùng người trao nhau ánh mặt và chuyện trò cùng người. Chính vì lẽ đó, anh
liền bày kế lấy những khúc thân cây chắn ngang đường để dừng lại những chiếc xe hiếm
hoi. Niềm hưng phấn khi được chào đón những vị khách cứ dào dạt trong anh, toát lên
qua "nét mặt rạng rỡ". Phải chăng vì đã lâu không được gặp người nên anh cứ luống
cuống cả lên chẳng kiềm được cảm xúc rồi cứ tất tả chạy ngược chạy xuôi. Anh gửi trao
những quan tâm chân thành và chu đáo đến mọi người. Chỉ thoáng nghe qua lời kể từ bác
lái xe rằng bác gái vừa ốm dậy, anh đã chủ động đi đào củ tâm thất một cách âm thầm để
biếu bác dẫu chẳng có ai nhờ cậy anh làm. Đâu chỉ dừng lại ở đó, anh thanh niên còn vô
cùng thân thiện, cởi mở với những người chỉ mới gặp lần đâu. Anh niềm nở tiếp đón bác
hoạ sĩ cùng cô kĩ sư lên thăm nhà. Bó hoa cho cô gái vào lần đầu gặp gỡ, nước chè cho
ông hoạ sĩ già và làn trứng ăn dọc đường cho hai bác cháu.Anh hồ hởi và thích giao tiếp,
anh nói "những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ. Cũng là những điều ta ít nghĩ". Anh hồn
nhiên kể về công việc, về những người đồng nghiệp và cuộc sống thường nhật của anh.
Với anh thanh niên, từng khoảnh khắc tít tắc trôi qua được trò chuyện với những người
mà anh chỉ mới gặp thôi cũng thật quý giá biết bao. Khoảnh khắc ấy, anh thổ lộ những
điều bám rễ trong lòng mà rất lâu rồi anh mới có dịp tâm sự cùng người. Bởi thế, anh cứ
đếm từng giây từng phút trôi qua và lo sợ sẽ hoài phí 30 phút gặp gỡ ngắn ngủi mà quý
giá.
Công việc của anh thanh niên có vị trí quan trọng trong sự nghiệp chuyển mình của đất
nước. Thế nhưng, anh lại rất khiêm tốn và thành thực cảm thấy những điều anh làm thật
nhỏ bé biết bao so với người khác. Anh chỉ dành 5 phút ngắn ngủi để nói về bản thân, về
công việc và cuộc sống của anh. Tác giả như muốn nhấn mạnh sự chênh lệnh về thời gian
để làm nổi bật phẩm chất khiêm tốn của anh. Khi ông hoạ sĩ muốn vẽ kí họa về anh, anh
thật tình bối rối, cảm thấy bản thân không có gì đáng để một họa sĩ ghi lại :"Không,
không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng để bác vẽ hơn".
Đó là ông kĩ sư vườn rau ngày đêm miệt mài và kiên nhẫn để đem đến cho nhân dân xứ
Bắc những củ su hào ngon ngọt và to hơn. Đó là đồng chí nghiên cứu bản đồ sét quanh
năm suốt tháng bám trụ nơi cơ quan và luôn giữ vững tư thế sẵn sàng trong công việc.
Anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của xứ sở Sa pa, thấm thía sự hi sinh của "những nốt
nhạc trầm" trong bài ca lao động.
Trái tim của anh luôn rạo rực một ngọn lửa khát vọng, khát vọng được sống đẹp, sống có
ý nghĩa, sống có ích cho đất nước, cho mọi người. Đất nước có chiến tranh, anh xin ra
trận. Không được ra trận, anh vẫn tận tụy làm thật tốt công việc. Hạnh phúc của người
con trai ấy chẳng phải là ái tình tuổi trẻ, được giàu sang hay quyền lực. Hạnh phúc với
anh là được làm việc, được cống hiến cho đất nước. Hạnh phúc khi ấy đã vượt ra ngoài
biên giới của nó, không chỉ bó hẹp trong từng cá nhân mà lan tỏa đến những người khác,
có ý nghĩa với nhiều người. Phải chăng một trong số những ẩn ý của tác giả qua việc
không đặt tên riêng cho nhân vật chính mà lại gọi anh là "anh thanh niên" bởi anh đại
diện cho tầng lớp các bạn trẻ đang ngân vang giai điệu bất diệt của lí tưởng sống cao cả,
lao động quên mình vì Tổ quốc. Dừng chân trên thi đàn văn học, ta bắt gặp những hồn
thơ mang âm hưởng sâu sắc về lí tưởng sống, lòng nồng nàn yêu nước của thanh niên trẻ.
Một trong số đó là thi phẩm "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm :
"Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
"Lặng lẽ Sa pa" đã đạt được nhiều thành công trong phương diện nghệ thuật. Cốt truyện
đơn giản không có những thanh âm kịch tính, hối hả. Tác phẩm như dòng suối tĩnh lặng,
nhẹ nhàng chảy trôi vào đời, đi qua những ngõ ngách trong trái tim người đọc và cứ thế
lắng đọng nơi sâu thẳm cõi lòng. Cách xây dựng tình huống truyện hợp lí, tự nhiên, độc
đáo và đặc sắc, đó là cuộc gặp gỡ bất ngờ của những nhân vật. Trong 30 phút ngắn ngủi
ấy, tác giả đã thật tài tình khi vận dụng cách kể chuyện giản dị, cách miêu tả con người và
cảnh vật dưới nhiều điểm nhìn. Thành công nổi bật của tác phẩm là việc chung hòa giữa
tự sự, bình luận và trữ tình. Với ngôn ngữ đậm chất hội hoạ, thiên truyện có dáng dấp
như một bài thơ. Khiến ta ngây ngất trong chất men say trữ tình lãng mạn của một thiên
nhiên nên thơ đến những con người làm việc lặng lẽ, quên mình vì Tổ quốc.
Tô Hoài từng nhận xét: “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự một trang
đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long
những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc”. Đến với "Lặng lẽ Sa pa", ông đã gửi
trao bao suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc rằng Sapa lặng lẽ nhưng không tầm thường, Sapa
mà người ta cứ nghĩ tới việc sẽ đến dừng chân để nghỉ ngơi, để tịnh dưỡng tâm hồn sau
những giây phút oằn mình trong guồng quay của cuộc sống. Ở mảnh đất đó, có những
con người đang thầm lặng dâng hiến thanh xuân và sức trẻ cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước. Tác giả đã thực sự phác họa thành công chân dung của nhân vật anh
thanh niên, một chân dung tuy chỉ kí họa trong mấy mươi phút nhưng vẫn có những vẻ
đẹp sống mãi trong tiềm thức người độc giả.
🌿 Đề : Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), nhân vật người hoạ
sĩ nghĩ rằng: “Ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật (…) trong cuộc hành trình
vĩ đại là cuộc đời”.
Em có đồng ý với suy nghĩ trên không? Bằng những hiểu biết về mối quan hệ giữa
nghệ thuật (nói chung) và văn học (nói riêng) với hiện thực cuộc sống, em hãy viết
bài văn đối thoại với nhân vật người hoạ sĩ.
Bài làm
Cuộc sống - trường đại học chân chính của những người nghệ sĩ thiên tài. Nghệ
thuật mang trong mình sứ mệnh mô phỏng, tôn vinh và phụng sự dòng chảy của cuộc
sống. C.Mác và Ph.Ăngghen quan điểm rằng:"[...]Nghệ thuật dù ở đâu, ở bất cứ nơi nào
cũng chịu sự quy định của thực tại...". Trên lưng đồi trải dài từ thời trẻ đến những ngày
vãn niên, người nghệ sĩ đã nhặt lấy nhành hoa "hiện thực" đặt vào trong tác phẩm của
anh. Song, tác phẩm nghệ thuật có thể hoàn tất nhưng bánh xe "cuộc đời" thì luôn luôn
vận hành tiếp diễn. Có những lúc nghệ thuật không thể phản ánh hết cuộc sống, có những
khía cạnh, những góc khuất của phận đời và phận người mà nghệ thuật không thể truyền
tải trọn vẹn. Chính điều ấy đã gieo vào tâm tưởng của nhân vật ông hoạ sĩ trong Lặng lẽ
Sa Pa - Nguyễn Thành Long những dòng suy nghĩ :"Ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ
thuật (…) trong cuộc hành trình vĩ đại là cuộc đời”.
Đồng xu có hai mặt, rubik có sáu màu nhưng những diện mạo của hai chữ "cuộc
đời" thì có kẻ nào định hình được. Cụm từ “cuộc hành trình vĩ đại" ngụ ý khái quát tầm
vóc lớn lao, vô tận như một bức tranh muôn màu, đa góc cạnh với ba chiều không gian
trải rộng đến vô cùng của cuộc đời. Hiện thực đời sống luôn là vậy, muôn hình vạn trạng,
đa chiều đa diện, phong phú và phức tạp. Cuộc sống vô thường, từng giây từng phút luôn
luôn biến đổi theo không gian và thời gian, không có bất kỳ sự vật, hiện tượng nào là tồn
tại vĩnh viễn. Hiện thực như bầu trời rộng lớn, xa vời và bí ẩn còn đôi tay nghệ thuật lại
bất lực chẳng thể với tới được mọi ngõ ngách của bầu trời ấy. Có những mờ chìm, khuất
lấp, điểm mù của cuộc sống mà nghệ thuật chưa thể nhìn thấy tường tận. Cũng có những
khoảng tối, phương diện, khía cạnh, vẻ đẹp, chiều sâu khôn cùng trong thế giới nội tâm
con người mà nghệ thuật không dễ gì phản ánh được tất cả. Đó chính là "sự bất lực của
nghệ thuật". Từ ấy, ta nhận ra sự đúng đắn trong mạch suy ngẫm của người hoạ sĩ khi nói
về giới hạn của nghệ thuật, nỗi bất lực của ngòi bút người nghệ sĩ.
Nghệ thuật là gì ? Nói đến nghệ thuật là nói đến muôn vàn khái niệm mà chưa bao
giờ, chưa ở đâu và chưa ai có thể định nghĩa trọn vẹn nhất. Từ cổ đại đến hiện đại, nghệ
thuật có thể hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, nghệ thuật là những kỹ năng, nghề nghiệp nào
đó được thực hiện ở mức hoàn hảo với trình độ điêu luyện, thậm chí siêu việt. Ví như
nghệ thuật diễn thuyết, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật đắc nhân tâm... Nghĩa thứ hai, nghệ
thuật là sản phẩm có tính nhân văn và thẩm mĩ của hoạt động sáng tạo của con người.
Nghệ thuật dùng những cách thức nhất định để biểu đạt và lưu giữ tình cảm, suy nghĩ của
người nghệ sĩ. Một trong số những loại hình nghệ thuật đó là văn học - nghệ thuật ngôn
từ. Nếu như với thi hào Charles Dubos “văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh
sáng” thì với nhà thơ Chế Lan Viên "văn học là con đẻ của đời sống". Hiện thực đời sống
trong văn chương không phải là câu chuyện mới mẻ, cũng lại chưa bao giờ ngủ say trong
hai từ "cũ kĩ". Có thể hiểu, những gì mà giác quan con người có thể thu nhận được và
những gì có thể xuất hiện trong tâm thức con người bao gồm cả ý thức và vô thức thì đều
là hiện thực.
John Ruskin cho rằng: “Nghệ thuật là sự mô phỏng của tự nhiên". Còn Tố Hữu thì
quan niệm :"Văn học không phải chỉ là chuyện văn chương mà thực chất là chuyện đời".
Suy cho cùng, luôn luôn có một sợi dây vô hình kết nối nghệ thuật nói chung và văn học
nói riêng với hiện thực đời sống. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, nội
dung phản ánh của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng chính là hiện thực cuộc
sống. Nghệ thuật mang vị nghệ thuật, nhưng nghệ thuật sẽ vô thưởng vô phạt, sẽ lang
thang bất định nếu thiếu đi những vương vấn với nhân sinh. Nếu nghệ thuật là loài cây,
nó phải bén rễ vào cuộc đời, hút lấy nguồn nhựa sống dạt dào trong mạch nước ngầm
cuộc sống thì nó mới mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi
phơi trải đón nắng mặt trời. Nếu văn học là chiếc cọ, ngòi bút của nó phải chấm vào
nghiên mực cuộc đời thì những đường nét được hoạ nên mới có hồn, có sắc và neo đậu
mãi trong bến tâm hồn người thưởng thức. Văn học bằng chức năng và tác dụng diệu kì
của mình đã tiếp xúc, thu nhặt những chất liệu từ hiện thực đời sống để khám phá, phản
ánh và tái tạo cuộc sống trên quan điểm thẩm mĩ qua lăng kính chủ quan của tác giả.
Grandi từng khẳng định: “Không có nghệ thuật nào là không hiện thực”. Văn học nói
riêng và nghệ thuật nói chung bao giờ cũng nhờ cuộc sống mà hữu hình, cũng lớn lên từ
cuộc đời. Cánh diều văn học dù cất cánh bay cao bay xa đến đâu vẫn gắn kết với triền đê
cuộc sống bằng sợi dây giao nối, bằng những mùa gió đời. Văn học và cuộc sống như
thần Ăng Tê và Đất Mẹ. Vị thần trở nên bất khả chiến bại khi chàng đặt hai chân lên Đất
Mẹ Gaia cũng như văn học chỉ vững vàng và dũng mãnh khi gắn liền với hiện thực đời
sống. Đầu tiên và trên hết, văn chương đòi hỏi tác phẩm nghệ thuật phải có chất hiện
thực. Chính vì vậy, không một tác phẩm nghệ thuật nào không phản ánh hiện thực.

Nghệ thuật quá khó để thể hiện hết thảy độ lớn, độ rộng và độ sâu của đời sống
hiện thực. Xuân Diệu cho rằng: "Sự thật ngày nay không thật đến ngày mai" quá không
sai. Cuộc đời đổi thay theo dòng chảy của thời gian. Hiện thực cuộc sống bao gồm cả đóa
hoa ngọt ngào hương vị tiết xuân, mặt hồ in bóng dáng dải nắng hạ sang, mùa thu vàng
tàn tạ theo nhịp lá rơi, tiếng gió thở than những ngày cuối trời đông. Cuộc đời khác nhau
trong những vùng đất khác nhau. Nơi thành thị là những tòa nhà trọc trời. Trên đại lộ là
những người rong ruổi hoà vào dòng xe tấp nập, lấp lánh ánh đèn đường. Người người
nơi đó là vui hay buồn ? Chốn thôn làng là những mái nhà tranh khuất sau lũy tre xanh
xanh. Trên đồng ruộng là những tấm lưng trần hứng lấy cái nắng ban trưa, cái mưa xế
chiều, đôi bàn tay chai sạn từng đốt. Người người nơi đây là buồn hay vui ? Chỗ kia vừa
tắt nắng đón lấy tấm màn hoàng hôn, chỗ nọ lại vừa ngập tràn sắc rạng đông ngày mới.
Có đất nước hưng thịnh, hoà bình, có quốc gia đói nghèo, chiến tranh. Đối với những tác
phẩm văn học sử thi chọn hiện thực thời chiến làm đề tài thì phạm vi phản ánh thật sự rất
rộng lớn. Nghệ thuật phải nói lên được hiện thực trước chiến tranh như thế nào, giai đoạn
trong chiến tranh ẩn giấu những câu chuyện gì và sau chiến tranh, hiện thực đời sống đã
có những bước ngoặc ra sao. Có "những viên minh châu" trong tâm hồn con người mà
nghệ thuật chưa thể khám phá và chạm khắc vẹn toàn. Bên cạnh đó, có những vùng tối
chìm sầu, những chân trời lạ lẫm, những mảng hiện thực được xem là "vùng cấm địa" mà
văn học nghệ thuật nửa muốn phản ánh hết thay, nửa lại lo ngại đủ điều. Nghệ thuật khi
ấy trở nên bất lực. Người nghệ sĩ dẫu muốn du hành đến những hiện thực kì bí, xa lạ để
tìm ra những chất liệu mới cho "đứa con tinh thần" của mình nhưng anh lại bị vây hãm
bởi vô số hàng rào vô hình.

Song, những người nghệ sĩ với tài năng, tâm huyết trao trọn cho văn chương và
cuộc đời, các anh đã "Sống toàn tim! toàn trí! sống toàn hồn! Sống toàn thân! và thức
nhọn giác quan" ( Xuân Diệu ). Từ ấy, văn học bằng chức năng và tác dụng diệu kì của
mình, đã tiếp xúc, thu nhặt những chất liệu từ hiện thực đời sống để khám phá, phản ánh
và tái tạo cuộc sống trên quan điểm thẩm mĩ qua lăng kính chủ quan của tác giả. Dẫu
nghệ thuật chẳng thể tái hiện được tất cả những chuyện nhân sinh, chuyện đời, những thứ
hiện diện trong đời sống nhưng nghệ thuật vẫn chớp lấy được cái khoảnh khắc và thần
thái nổi bật để khắc hoạ bản chất của cuộc đời với những nét cốt lõi, đáng chú ý nhất.
"Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương
Những thây ma thất thiểu đầy đường
Rồi ngã gục không đứng lên vì đói !”
( Đói - Bàng Bá Lân)
Trận đói năm Ất Dậu (1945) là một cơn ác mộng mà lịch sử dân tộc ta có lẽ chẳng
bao giờ quên và cũng là đề tài đã đi vào dòng văn học hiện thực. Trên phông nền xám xịt,
u uất của nạn đói, Kim Lân đã nâng bút viết nên một "Vợ nhặt". Tác phẩm để lại trong
lòng người đọc những ám ảnh về viễn cảnh cái đói và cái chết nắm tay nhau càn qua xóm
ngụ cư. Khung cảnh mở đầu tác phẩm là một xóm nhỏ tối sầm vì đói khát, một bức tranh
về chốn địa ngục trần gian. Chỉ với một động từ “tràn”, nhà văn đã gợi được cái khủng
khiếp của nạn đói năm 1945. Cái đói như trận đại hồng thủy ập vào từng gia đình gây nên
thảm cảnh “người chết như ngả rạ” còn người sống thì dật dờ xanh xám như “những bóng
ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ”. Điểm vào đó là âm thanh "thế thiết" của "tiếng quạ
trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ" đang gào lên từng hồi, là tiếng ai hờ khóc tỉ tê. Đó là
thời điểm mà cõi dương đã lởn vởn mùi tử khí của cõi âm.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói rằng ông muốn viết về những con
người dù "Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ
vẫn muốn sống, sống cho ra con người“. Vì vậy, trong cái điêu tàn và rữa nát, trong sự
bủa vây của cái chết, nhân vật thị không hề buông xuôi, vẫn khát khao vươn lên cái thảm
đạm để hướng đến hạnh phúc. Niềm ham sống của người phụ nữ ấy vẫn không ngừng trỗi
dậy, vươn lên, từ thoi thóp, leo lét đến mãnh liệt như có phép màu. Cũng trong "Không
khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", những người dân xóm
chợ vẫn có giây phút “khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rõ hẳn lên. Có cái
gì lạ lùng và tươi mát thối vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Từ ấy, ta như
khám phá ra những "nét thần" khắc họa vẻ đẹp quý giá của con người. Giữa cái đói đang
giằng xé, vẫn có đó vầng sáng trinh nguyên của hy vọng, khát khao được sống và niềm
tin vào cuộc đời tồn tại như một toà thành bất diệt.
Trong quá trình tiếp cận những tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh,
Gabrielle Schrader - một người Mĩ đã có nhận xét: “Về mặt lịch sử, văn học chiến tranh
Việt Nam đã cung cấp cho các nhà sử học và xã hội một bức tranh sáng rõ về thực tế của
cuộc chiến… Văn học Việt Nam viết về chiến tranh thực sự đã chạm đến trái tim người
Mĩ”. Hiện thực chiến tranh - suối nguồn cảm hứng len lỏi trong vách núi văn học. Hồn
thơ "Đồng Chí" không mô tả trực tiếp các trận đánh ác liệt trên chiến trường mà phác họa
không gian địa lí với những mầm bệnh bủa vây, những khó khăn gian khổ, thiếu thốn về
vật chất. Chính Hữu đã kể cho ta nghe về những ngày vị tử thần mang tên "sốt rét rừng"
đến gõ cửa căn cứ của những người bộ đội và cứ thế xông vào đem lại bao ám ảnh cho
các anh:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi"
Cái giá rét đe doạ đến từng nhịp thở, căn bệnh quái ác vắt kiệt sức lực của người chiến sĩ
cách mạng. Như Tố Hữu có viết:
"Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ"
Ta còn có thể hình dung phối cảnh bao trùm lên không gian là những thiếu thốn, gian khổ
trăm bề. Chiếc áo mang sắc xanh cũng đã "rách vai", chiếc quần sờn cũ với "vài mảnh
vá" và đôi chân trần lạnh lẽo "không giày". Bởi thế người lính vệ quốc còn được gọi với
cái tên là "vệ túm". Song, những gam màu của gian truân, của hiểm nguy, vất vả chẳng
thể che lấp đi vẻ đẹp của người bộ đội. Giữa rừng thiêng nước độc, giữa mưa bom bão
đạn vẫn còn đó những tâm hồn lãng mạn :
"Đầu súng trăng treo"
Người chiến sĩ toàn tâm toàn ý hướng mắt theo mũi súng. Khoảnh khắc ấy , cuộc giao
thoa giữa "súng" và "trăng" , giữa hiện thực và lãng mạn , giữa chiến tranh và hòa bình đã
diễn ra, hoạ nên không gian giàu chất trữ tình. Bởi thế, trong "Đồng chí", các anh là
người lính cũng là thi sĩ dưới ánh trăng.
Chiến tranh hiện hình với khuôn mặt lạnh lùng, man rợ và đem đến sự tận diệt cho cả hai
thế cực: con người - thiên nhiên. Mỗi lần thả hồn vào "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi,
ta đến với những lần trái tim lỡ nhịp vì nhói đau và xót xa trước hình ảnh hiện lên qua :
"Ôi những cánh đồng quê chảy máu,
Dây thép gai đâm nát trời chiều."
Cánh đồng quê vốn khoác lên mình sắc xanh yên bình. Mảng màu ấy tượng trưng cho
mùa màng trù phú, cho sự giàu có, hạnh phúc. Mảng màu giản dị mà đẹp đẽ lạ thường.
Ấy vậy mà đôi chân của gã hung thân mang tên "chiến tranh" đã dừng lại trên những
cánh đồng ấy, đã dày vò, giẫm đạp lên tất cả. Biết bao người đã ngã xuống, bao cuộc đời
đã đặt dấu chấm hết cho sự sống và rơi vào miền đất chết. Máu đổ ra nhuộm đỏ cả cánh
đồng bất tận, sắc đỏ của chiến tranh, của chết chóc. Sự tương phản về màu sắc, chính xác
hơn là đối lập về biểu tượng của màu sắc đã hoạ nên một hình ảnh đủ sức ám ảnh người
đọc về sự mất mát, về nỗi đau thương. Còn "Dây thép gai” là hình ảnh tàn bạo, man rợ
của chiến tranh, đối lập với "trời chiều" vốn êm ả, bình lặng và nên thơ. Nhiều người nói
rằng Nguyễn Đình Thi đã sử dụng thủ pháp ngược sáng của điện ảnh, trong ánh chiều tà,
dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Ở đây “Dây thép gai" phải
cao bao nhiêu mới ngang tàn vưon lên tới trời, phải hung ác, tàn bạo biết chừng nào khi
làm "nát" cả trời chiều. Nguyễn Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường
công tác mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bốt giặc
với những lô cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham
nhở – gây một tức tôi căm giận”
Nhà văn Nguyễn Đình Tú quan niệm rằng:"Vén mây thấy núi, sau núi lại có mây. Cứ vén
từng lớp màn cuộc sống lên, bạn đọc sẽ thấy vô vàn những điều bí ẩn trong đó. Nhà văn
đang giúp bạn đọc nhìn sâu vào đời sống này bằng cách riêng của mình.” Thiên chức của
những người nặng lòng với trang sách, hữu duyên với bút mực chỉ được thực thi khi nhà
văn thực sự “sống” giữa cuộc đời, tha thiết gắn bó và khao khát hòa nhập với cuộc đời.
Người làm nghệ thuật không thể ngoảnh mặt trước những vấn đề lớn lao của dân tộc,
không thể đứng ngoài những vận hội, những biến cố có thể xảy đến của thời cuộc, không
thể mang một trái tim lãnh cảm với những trang đời và vẻ đẹp của con người. Người
nghệ sĩ chân chính phải thâm nhập vào nhân quần, trải nghiệm, thẩm thấu và nhặt lấy tinh
chất quý giá của đời. Song, hồn cốt của một tác phẩm văn học còn tuỳ thuộc vào tài năng
và "đôi mắt" của mỗi tác giả. Bởi vậy, sau khi ngụp lặn trong biển hiện thực, anh phải
ngoi lên khỏi đại dương cuộc đời để dùng chính lí trí và cảm xúc, cái say và cái tỉnh của
mình để nâng bút viết nên những trang sách bất tử. Xét đến cùng, người nghệ sĩ phải "Đi
trọn đời trên con đường chân thật"(Phùng Quán ) và thấm nhuần một điều rằng càng cá
thể càng độc đáo càng hay thì mới có thể thai nghén nên những tác phẩm khắc họa hiện
thực đời sống cả trên bề rộng lẫn chiều sâu.
Cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời ẩn chứa muôn vạn những mảng màu, từ đẹp đẽ đến
xấu xa, từ tháp ngài nguy nga đến túp lều giản dị. Đặc biệt là thế giới tâm hồn của con
người lại càng phong phú, phức tạp hơn. Vì vậy, có những điểm mù, những vùng trời,
những vẻ đẹp mà chẳng có một ngôn ngữ nào, không có một loại hình nào có thể miêu tả
cho vẹn toàn. Nghệ thuật khao khát được vẽ trọn một khung cảnh kì diệu lên trang giấy,
văn học cũng muốn múa bút mà viết nó thành văn. Có những khoảnh khắc nghệ thuật rơi
vào nỗi bất lực bởi chẳng thể phản ánh được cái hình sắc “nguyên bản” nhất. Nhưng nghệ
thuật không từ bỏ, văn học cũng chẳng buông xuôi vì tác phẩm nghệ thuật luôn có sứ
mệnh chở đi những tư tưởng lớn của người nghệ sĩ, của thời đại trên đôi cánh của hiện
thực cuộc sống.
CHIẾC LƯỢC NGÀ_NGUYỄN QUANG SÁNG
✏Đề bài:
Phân tích nhân vật bé Thu trong tác phẩm "Chiếc lược ngà".
✏Bài làm
Benjamin Franklin từng cho rằng: "Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa
đơn sẽ đến sau đó." Cái giá của chiến tranh không chỉ đắt đỏ và dã man khi nó xảy ra, mà
hậu quả của nó là vết thương rỉ máu hàng thập kỉ sau đó nữa. Và có lẽ một trong những
nhân vật khắc họa rõ nét vết thương, vết sẹo luôn bỏng rát của chiến tranh là nhân vật bé
Thu trong tác phẩm truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết
năm 1966.
Không lựa chọn chất liệu là sự kịch liệt, đẫm máu trên chiến trường miền Nam như nhiều
tác phẩm khác, Nguyễn Quang Sáng khai thác một khía cạnh khác của chiến tranh, một
nỗi niềm tang thương cá nhân khác của những người nơi hậu phương, chưa một lần được
trọn vẹn bên người cha, người chồng hay người con của mình. Bé Thu là nhân vật đại
diện cho sự mất mát, thiếu thốn ấy. Khi bé Thu chỉ vừa mới một tuổi, ba em - ông Sáu đã
phải đi kháng chiếc và xa nhà. Đây là hoàn cảnh chung của hầu hết gia đình Việt Nam
trong cuộc kháng chiến, có lẽ họ không chỉ tiễn người thân mình đi một hai lần mà là rất
nhiều lần, từ người nọ đến người kia. Dù vậy, già trẻ gái trai, mặc kệ, họ đều quyết tâm ra
đi để tìm được cống hiến cho tổ quốc thân thương, như Tố Hữu đã từng ca ngợi tinh thần
ấy:
"Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành"
Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi người ba của mình, nhưng đủ để chiến
tranh tàn phá hình dáng một con người. Ông Sáu trở về thăm gia đình, nhưng gương mặt
ông giờ đây đã nhiều theo một vết thẹo khiến bé Thu có những phản ứng làm cho cả ông
lẫn người đọc cảm thấy hụt hẫng, bất ngờ. Trước tiếng gọi đầy thân thương mà gan ruột
từ xa của ông Sáu "Thu! Con." bé Thu "tròn mắt ngơ ngác nhìn lạ lùng". Chỉ một ánh
mắt, một cử chỉ cũng đủ để thấy sự xa cách giữa người và người, mà có lẽ ta phải dùng
đến từ "người dưng" mà Nguyễn Duy đã dùng trong "Ánh trăng". Khi ông Sáu đưa tay về
phía nó, nói liên tiếp: "Ba đây con! Ba đây con!" thì nó lại có một phản ứng vô cùng
quyết liệt "mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: "Má! Má!" Từ đó tạo nên hai
luồng tâm lý đối lập nhau gay gắt giữa ông Sáu và bé Thu, một bên là sự vồ vập, cuống
quýt của một người ba vì đã ngóng chờ con bao lâu nay, còn một bên là sự đáp trả thờ ơ,
lạnh lùng, hoảng sợ của bé Thu, cốt bởi tình yêu dành cho người "ba" của nó quá to lớn.
Đây chính là khởi đầu éo le dẫn đến mâu thuẫn phức tạp giữa hai cha con.
Sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu thể hiện rõ rệt trong 3 ngày nghỉ phép của ông
Sáu ở nhà. Mặc cho ông muốn lại gần con bé bao nhiêu, nó lại càng đẩy ông ra xa, nhất
quyết không chịu gọi ông là "ba". Nó luôn tìm cách nói trổng hoặc gọi ông là "người ta".
Thử thách lớn nhất là khi nó phải chắt nước ra khỏi nôi cơm to đang sôi, nó "nhăn nhó",
"luýnh quýnh", "loay hoay", tâm lý bối rối của một đứa trẻ tám tuổi hiện lên mồn một.
Một là nó phải chịu khuất phục và gọi ông Sáu là "ba" để được giúp đỡ, hai là nó phải tìm
cách làm một mình, sẽ rất khó khăn và nguy hiểm. Chao ôi, trên đời làm gì có ai thích
chọn những thứ trắc trở hơn những thứ đơn giản, dễ dàng, trừ khi họ có thứ quý giá hơn
cần phải bảo vệ, không thể đánh đỏi. Và với bé Thu, một cô bé mới tám tuổi, tiếng "ba"
nó cất giữ trân trọng ấy là điều đắt giá nó không thể tùy tiện gọi một người lạ chỉ đột
nhiên xuất hiện trong đời nó. Nó càng yêu "người ba" của nó bấy nhiêu, thì nó càng
ngang ngược, lạnh nhạt với người ba thực sự đang ở trước nó bấy nhiêu. Vì yêu, vì kính
trọng nên càng không thể đem ra để đối lấy sự giúp đỡ. Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng
liêng ấy cho người ba thực sự mà nó được biết tới. Dù biết sẽ nguy hiểm, sẽ khó khăn, nó
vẫn dùng cái vá để múc từng vá nước ra ngoài. Sự kiên quyết, thông minh của nó cũng
khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàng.
Không chỉ không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi "ba" mà nó còn một mực cứng rắn,
không tiếp nhận tình cảm ông dành cho nó. Trong bữa cơm cuối cùng với ông Sáu, bữa
cơm mà nó có lẽ sẽ hối hận suốt đời, ông Sáu âu yếm thể hiện tình cảm của mình bằng
cách "gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó". Nó đã phản ứng mạnh mẽ có phần
thái quá, nó lấy cái đũa hết cái trứng ra khỏi chén làm cơm văng tung tóe cả mâm. Hành
động ấy như thách thức giới hạn của ông Sáu - người vốn vì thương con nên đã rất bao
dung, nhẫn nại và cả người đọc. Nhưng nếu đã đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào
vị trí của một cô bé tám tuổi, ta mới có thể mở lòng và cảm thông được cho hành động
này. Cách biểu hiện tình cảm và bảo vệ với hình tượng người cha trong lòng của bé Thu
chỉ thật bộc trực, trực tiếp, thậm chí là hồn nhiên đến mức đáng giận của cô bé. Đối với
cô bé, sự xuất hiện của ông Sáu như đang đe dọa đến hình tượng của người ba trong bức
ảnh mà cô bé vẫn luôn ấp ủ trong lòng bấy lâu, một đứa trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích
nghi với những thay đổi bất thường lớn như thế trong cuộc đời chúng? Càng giữ khoảng
cách với ông Sáu tức là càng giữ được nguyên vẹn hình ảnh người cha trong tâm trí nó,
và đó cũng là cách duy nhất. Sự cương quyết, dữ dội kia thực chất chỉ là hình hài khác
của một tình yêu cha vô cùng mãnh liệt.
Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ của cô
giao liên trong tương lai. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân dung của một
cô bé tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng, chân thành dành cho ba mình một
cách vô cùng đặc biệt, độc đáo. Ở bé Thu, người ta nhìn thấy bóng dáng của Việt trong
"Những đứa trẻ trong gia đình" hay Tnú trong "Rừng Xà Nu". Nó tạo nên một vẻ đẹp
kiên cường, gan góc của thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp "đừng đốt.
Bản thân nó đã có lửa rồi!" mà Đặng Thùy Trâm đã viết trong nhật ký của mình: "Ước
mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng như
những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi
đạn nổ Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người
đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian
lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày
đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì
màu sắc của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình." Hay
như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết "Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt
Nam ơi":
"Đất Nước
Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt"
Người đọc chỉ thực sự thấm thía tình cảm ẩn sau sự xù xì của bé Thu dành cho ba khi nó
được bà giải thích về sự thay đổi của ba mình do chiến tranh. Vết thẹo đã khiến bé Thu
không thể nhận ra người ba trên tấm ảnh chính là ông Sáu. Chi tiết vết thẹo cũng mang
tính mấu chốt như chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam
Xương" của nhà văn Nguyễn Dữ. Vì vết thẹo mà nó không nhận ra người ba đáng kính
mà nó hằng khao khát được đoàn tụ. Đêm hôm ấy, cái đêm được nghe bà gỡ rối, "nó nằm
im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn". Tình cảm trong nó dành cho ông
Sáu được nhen lên mạnh mẽ, nó cũng biết ăn năn, day dứt, hỗn loạn trong đó là tình yêu
to lớn nó dành cho ba và sự ngưỡng mộ.
Sáng hôm sau, lẫn lộn với niềm vui nhận ra ba là sự tủi thân dâng trào cùng nỗi buồn xa
xôi của nó trong ngày ông Sáu phải trở về chiến trường. Bởi những phản ứng quyết liệt
trước đây mà giờ đây nó ngại ngần, xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa nhìn mọi người vây
xung quanh ba nó. Mọi thứ nhanh và dào dạt đến độ nó chưa kịp cảm thấy tiếc nuối vì đã
bỏ lỡ khoảng thời gian vốn đã ngắn ngủi với ba nó thì còn lại đã chỉ là một mảnh hỗn
loạn bị bác Ba bắt gặp qua đôi mắt của nó: "Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé
bỗng xôn xao." Từ "xôn xao" vốn là từ tượng thanh nay được nhà văn tinh tế dùng để
miêu tả khoảng không gian bất tận trong đôi mắt của bé Thu. Nó bao la, lạc lõng và lẻ loi
kì lạ so với một đứa trẻ mới chỉ tám tuổi. Có lẽ đó là nỗi niềm nó tích tụ trong tám năm
thiếu vắng hình bóng người cha mà mình con bé không tài nào che giấu nổi nữa. Thế nên
nó vỡ òa.
Tiếng gọi "ba" xé toạc thinh không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng, xấu hổ mà
con bé ngần ngừ trước đó. Tiếng gọi ấy tưởng chừng rất quen thuộc, gần gũi, có khi là lời
nói đầu tiên của con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé Thu nó lại là âm thanh đã
phải dồn nén bao lâu nay, chứa chan biết bao nhớ nhung mong đợi dồn cả vào tiếng "ba"
ấy. Nhưng cũng chính vì thế mà tiếng gọi "ba" ấy trở nên thiêng liêng và đong đầy cảm
xúc hơn bao giờ hết. "Nó nhanh như một con sóc chạy tót lên và dang 2 tay ôm cổ ba nó.
Nó vừa ôm vừa nói trong tiếng khóc:
- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!"
Rồi nó hôn ba nó: hôn tóc, hôn vai, hôn cả lên vết thẹo dài. Vết thẹo từng là thứ chia cắt
cha con nó, giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường
của cha nó, như một huy chương cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ
trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập như vậy vì muốn được cảm
nhận tình cảm của cha co bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa, chẳng biết bao giờ
mới quay trở lại. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện rõ tấm lòng
muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt trong những ngày qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt
sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí là lần cuối bé Thu được gặp ông Sáu. Những cái hẹn trở về
không rõ ngày nhưng người ta vẫn nguyện chờ mong, hi vọng vì đó là cách duy nhất thắp
lên ánh sáng và chỉ có thế ngày hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại
cảnh đoàn tụ xúc động của bé Hồng với mẹ mình trong văn bản "Trong lòng mẹ". Sau
cuộc chia tay ấy, đáng trân trọng hơn cả là khi bé Thu đã noi gương theo người cha đáng
kính, trở thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp những trang sử vẻ vang, vàng son của
Việt Nam. Sự kế thừa ấy đã được đã được Hoàng Trung Thông kết tinh thành những câu
thơ:
"Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua."
Giây phút chia tay trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" của hai cha con ông Sáu và bé Thu
tuy ngắn ngủi nhưng đã phản ánh được tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nguyễn
Quang Sáng, cũng như cách nhà thơ Trần Đăng Khoa nhắc đến ông là hoàn toàn đúng
đắn: "Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao, tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó
của một người nông dân Nam Bộ ngang tàng, coi những chuyện nguy hiểm chết người
cũng bông phèng như trò chơi con trẻ, có thể chống xuồng lao ve vé giữa lúc bom đạn
đang vây bủa mù mịt, cũng có thể ngồi thì lì trong một cái quán rượu tạm bợ, dựng tồng
tềnh bên vệ cỏ, ngoảnh ra phía sông nước mà nhậu lai rai, nhậu tối ngày. Con người ấy
hình như vừa đơn giản, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên
nhiên Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương
ngạnh như vách đá."
Bằng chất văn mộc mạc, thân thương, chân thực, ông đã "chạm tới những rung
động vi nhiệm của tình yêu" và hơn hết, ông vẽ bức tranh về chiến tranh không phải bằng
máu của những người lính ngã xuống mà bằng nước mắt của những người còn ở lại. Hình
ảnh nhân vật bé Thu của ông như gói gọn cả quá khứ, hiện tại và thậm chí là tương lai
của đất nước. Dù chiến tranh tàn phá rất nhiều thứ nhưng nó vĩnh viễn không thể tàn phá
được trái tim con người.
🌿 VÀI SUY NGHĨ VỀ TRUYỆN NGẮN "CHIẾC LƯỢC NGÀ" CỦA NGUYỄN
QUANG SÁNG
Câu chuyện viết về tình cha con của những người kháng chiến, những người cách mạng.
Nhưng đó cũng là tình phụ tử muôn đời. Truyện không dài, tình tiết không li kì, tư tưởng
cũng không phức tạp. Nó chân thực và giản dị, vì thế mà cảm động. Ấy là cốt cách của
một truyện hay.
Truyện nói đến ba nhân vật: một người con và hai người cha. Truyện viết về hai cuộc gặp
gỡ ngắn ngủi, éo le: cuộc gặp gỡ đầu tiên mà cũng là cuối cùng của cô con gái với cha
mình và cuộc gặp gỡ cũng của người con ấy với bạn chiến đấu của người cha đã hi sinh.
Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá, chính nó đã nối hai cuộc gặp gỡ với ba
con người: chiếc lược ngà. Nhưng vang vọng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời,
suốt những cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị mà thiêng liêng bậc
nhất của cõi đời này: Ấy là tiếng Ba.
Nhìn từ tình huống truyện, Chiếc lược ngà là một truyện ngắn không chỉ có một tình
huống duy nhất mà có hai tình huống, mỗi tình huống xoay quanh một cuộc gặp gỡ. Mỗi
tình huống ấy là hạt nhân của một truyện nhỏ mà ta có thể gọi thành tên: truyện nhỏ thứ
nhất có thể gọi là Cái thẹo của cha, truyện nhỏ thứ hai là Chiếc lược cho con. Truyện thứ
nhất làm tiền đề cho truyện thứ hai. Hai truyện nhỏ liên hoàn tạo thành một truyện lớn
hoàn chỉnh

Đó là dạng tình huống giàu kịch tính. Vì thế cũng có thể xem Chiếc lược ngà như một vở
kịch nhỏ gồm hai màn khá rõ rệt. Mỗi màn là một cuộc gặp gỡ éo le mà cảm động.

Hãy nói về cuộc gặp gỡ thứ nhất. Khi ấy, nhân vật Thu còn là một cô bé. Người cha được
về thăm nhà sau bao nhiêu năm ở chiến khu. Khao khát đốt lòng ông là được gặp con, là
được nghe con gọi tiếng ba, để được sống trong tình cảm cha con, mà lâu nay ông chưa
từng được sống, bấy lâu ông mong đợi. Nhưng mọi chuyện đã diễn ra không ít trái ngang.
Đứa con gái đã hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha. Ông càng xích lại
gần, nó càng lùi xa. Ông càng chiều thương, nó càng lảng tránh. Ông càng khao khát
được nghe tiếng ba từ lòng con, nó càng cố tình cự nự. Ngọn lửa nồng nàn của lòng cha
cứ bị những đối xử xa lánh, ương ngạnh của con giội xuống những gáo nước lạnh. Có
những tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng được nữa, ấy thế mà nó vẫn
quyết liệt. Đó là lúc cơm sôi, một mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước. Nó đã
phải cầu cứu đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua, không
thể chiến tranh lạnh được nữa - nó buộc phải gọi ba để được giúp đỡ. Nhưng không. Nó
vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong! Chỉ cần nói lên cái tiếng ba ấy thôi, là
nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng quyết không! Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh, bất
cần! Tự mình làm lấy một công việc nguy hiểm và quá sức! Nghĩa là nó không chịu
nhượng bộ, không chịu thua cuộc. Điều ấy đã làm cho người cha, người bạn của cha và
cả người đọc đau lòng. Còn gì đau lòng cho bằng người cha giàu lòng thương yêu con,
mà lại bị chính đứa con ấy kiên quyết chối bỏ!

Nhưng, khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng
quý! Chính thái độ quyết liệt ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm
người con dành cho cha. Đơn giản vì bấy giờ, cô bé thấy vết thẹo dài trên má người đang
xưng là ba đây không giống với ảnh cha mình. Cô bé không tin, và thậm chí còn ngờ vực.
Điều đáng nói là cô bé không dễ tin người khác. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha.
Nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình, thì cô bé vẫn chưa
chịu thông. Còn chưa thông thì còn chưa chịu. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của
một con bé đỏng đảnh, nhiễu sách, mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập
trường. Đây chính là cái mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường
của chị giao liên giải phóng. Đến khi được ngoại giảng giải về lai lịch vết thẹo trên má
ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình.

Hình ảnh người ba thân yêu trên ảnh, người ba kính mến mà cô bé ghi sâu trong lòng, đến
lúc ấy, mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ, thì lòng yêu ba
nhân lên gấp bội. Nhưng muộn quá, đúng lúc ba từ giã lên đường, nó mới có thể gọi ba.
Tiếng ba vỡ ra từ sâu thẳm lòng cô bé. Cái tiếng mà ba nó đã chờ đợi suốt chín năm trời
xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày trời về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe,
thì bất ngờ, nó thét lên. “Nó vỡ ra, còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không
cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm
nữa: Nhưng thật lạ lùng, đúng lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó,
trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên:

- Ba… Ba!
Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót
xa. (…). Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:
- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!
Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba nó khắp mọi nơi. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết
thẹo dài trên má của ba nó nữa. Đối với người cha ấy, đó là tiếng gọi ba đầu tiên và cũng
là những tiếng cuối cùng ông nghe được từ con!”
Có thể còn kể thêm nhiều nét tính cách khác ở nhân vật Thu, nhưng đây là vẻ đẹp cốt lõi
của hình tượng nhân vật này khi còn là một cô bé.

Còn người cha, ông cũng có nhiều nét đẹp khác như chiến đấu ngoan cường, trung thành
với cách mạng, gắn bó với quê hương, đồng chí, đồng đội… Nhưng vẻ đẹp nổi bật nhất
được tô đậm ở đây chính là tình phụ tử. Những ngày chưa được gặp con, người cha ấy
khổ sở nôn nao bao nhiêu, thì giây phút được nhìn thấy con, ông càng vồ vập, cuống quýt
bấy nhiêu. Và khi con không nhận mình ngay, ông đã đau khổ và kìm nén đau khổ như
thế nào. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy chỉ là thứ yếu. Điều cảm động nhất là việc
tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba, đó
là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối
với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên mà cũng là duy nhất. Cho nên, nó cứ thôi thúc
trong lòng. Kiếm cho con cây lược, trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu
khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông đã làm công việc ấy bằng tất cả sức mạnh và sự cố
gắng của tình phụ tử. Ông đã ngồi bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược
cho con bằng ngà voi.
Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua sắm được cây lược.
Làm lược từ ngà voi là cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là
thứ quý hiếm - chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và, anh
không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt vào đấy tất cả tình cha con
của mình. Kiếm được ngà voi mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. Vậy đấy, khi
người ta hóa thành con trẻ, lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha
cao quý của mình. Rồi, anh ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công
như người thợ bạc, anh gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét: Yêu nhớ tặng Thu con của ba.

Anh thường xuyên lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng,
thêm mượt. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ
sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Cho nên cây lược ngà đã kết tinh trong đó
tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu làm sao!
Thế rồi, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay cho con. Người cha ấy đã hy sinh.
Nhưng hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được. Không còn đủ sức trăng trối
điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc đưa tay vào túi, móc
cái lược đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều
trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc. Bởi đó là sự ủy
thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử!
Bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một
người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.
Và cuộc gặp gỡ thứ hai đã diễn ra. Giữa hai cuộc gặp gỡ, cô bé Thu bướng bỉnh ngày nào
đã kịp trở thành cô giao liên giải phóng. Cô đã được tin ba mình hy sinh. Lòng căm thù
giặc giết hại người cha thân yêu đã khiến cô cầm súng. Vậy là, đi đánh giặc, với Thu
trước hết cũng là xuất phát từ tình phụ tử. Có lẽ, Thu cũng đã quên chuyện cây lược thuở
bé rồi! Nhưng cây lược ấy vẫn được gìn giữ cẩn trọng và vẫn thầm lặng tìm cô trên
những ngả chiến trường.
Cuộc gặp gỡ thứ hai vừa tất yếu vừa tình cờ. Tất yếu vì sớm muộn gì rồi cũng sẽ diễn ra.
Còn tình cờ vì cả bác Ba lẫn cô Thu đều không thể ngờ rằng họ gặp gỡ trên đường chiến
đấu và lại cũng trong thời khắc ngắn ngủi thế. Trước kia, Thu không nhận ba vì nhầm vết
thẹo. Còn bây giờ cũng có một thoáng không nhận vì nghĩ rằng bác Ba đã nhầm. Nhưng
thực ra chẳng có ai nhầm! Người cần trao cây lược, bác Ba đã tìm thấy.

Nếu trong những ngày mang chiếc lược, sự cẩn trọng nâng niu đã thực sự khiến bác Ba
trở thành một người cha, thì giờ đây khi nhìn cô bé Thu, tình cha con đang dâng lên trong
Bác: Thấy cháu nhìn ngắm cây lược, tim tôi nhói đau. Tôi biết cháu đang bàng hoàng
trước hạnh phúc bất ngờ. Tôi không muốn làm gì xao động đến hạnh phúc của cháu, tôi
thấy cần phải nói dối :
“- Ba cháu vẫn khỏe, ba cháu không về được, nên gửi cho bác (…)
Nhìn cháu tôi bỗng buột miệng :
- Thôi, ba đi nghe con!
Tôi không nghe cháu đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt của cháu mấp máy.”
Trong cuộc chia tay thứ nhất, tiếng ba của bé Thu kêu thét lên xé tan sự im lặng, xé cả
gan ruột mọi người, đó là tiếng gọi ba của một đứa trẻ. Còn trong cuộc chia tay thứ hai
này, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi
nghe tiếng gọi ba của cháu và tiếng ba như vang lên từ trong tâm tôi. Ấy là tiếng gọi ba
của một người lớn. Một tiếng ba ngây thơ, bồng bột, và một tiếng ba mặn mà, từng trải
của những người đã chịu đựng mất mát hy sinh. Tiếng ba nào cũng chân tình và tự nhiên
bởi nó buột ra từ trong tâm khảm con người.

Tình phụ tử cao đẹp cứ truyền qua lồng ngực những người cha như một dòng máu bất
tận. Và tình cha con cũng dào dạt muôn đời bất diệt trong lòng những đứa con. Tình
người thiêng liêng ấy không kẻ thù nào có thể tiêu diệt được, trái lại, nó càng sáng đẹp
hơn, bền bỉ hơn trong đạn bom tàn phá. Đó chẳng phải là điều sâu kín nhất mà truyện
ngắn Chiếc lược ngà muốn gửi đến mỗi người đọc chúng ta hay sao
BẾP LỬA_BẰNG VIỆT

Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những
ai xa quê. Đối với nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách
biển nửa ngày sông”; với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì “Quê hương là chùm khế ngọt”, “là
con diều biếc”… Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông gợi về bằng một hình
ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc – BẾP LỬA. Ra đời năm 1963, bài thơ “Bếp lửa”
còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác
giả.
Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe
lẫn trong nhau,tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Vì sao trong dòng
hồi tưởng và suy nghĩ của nhà thơ, hai hình ảnh ấy lại luôn gắn bó, song hành, đồng hiện?
Vì bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Bên bếp lửa là bóng hình bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi
sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ: từ những ngày khó khăn gian
khổ đến lúc bình yên. Bếp lửa còn là biểu tượng giàu ý nghĩa: nó là biểu hiện cụ thể và
đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc, và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp
lửa là tình bà ấm nồng. Bếp lửa là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc
đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống, niềm vui, tình yêu thương, niềm
tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.

Hình ảnh đầu tiên được tác giả tái hiện là hình ảnh một bếp lửa ở làng quê Việt Nam thời
thơ ấu:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của
tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của
người bà. Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài
thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh“bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ
phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. “Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen
thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật
ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”,thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu
nồng đượm”. Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập
bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo
và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ
thể. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết
mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản
dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất
vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.

Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc
nhằn ám đầy mùi khói :
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt
Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người sống thì “dật
dờ như những bóng ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời,
đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn
vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một
câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”. Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc
ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác
giả trong cái khốn khó chung của những người lao động. “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc
ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ
xác,tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói
quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế! Ấn
tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã
hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp của
cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà
hòa quyện.Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi
khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thể chất và tâm hồn cháu.
Và như một thước phim quay chậm, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà ùa về:

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa


Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

“Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở,
dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó
khăn nhưng đầy tình yêu thương. Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận
không về”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm
cháu học”. Chính bà là người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện
những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất
mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu
lớn lên. Một loạt các từ ngữ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” vừa diễn tả một cách sâu sắc
tình thương bao la, sự chăm chút hết mình của người bà dành cho cháu, vừa thể hiện
được lòng biết ơn của cháu đối với bà. Tình yêu và kính trọng bà của tác giả được thể
hiện thật chân thành, sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là
chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp
lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên
đồng quê mỗi độ hè về:
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Đoạn thơ khiến ta chạnh nhớ về “tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ: tiếng chim tu hú
gắn liền với hình ảnh cha già với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên, tiếng chim
tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng
chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ
niệm ấu thơ được sống bên bà. Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của làng quê
Việt Nam mỗi độ hè về, báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây. Tiếng chim
như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài
niệm, nhớ mong. Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với
cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hòa trên
những cánh đồng xa” mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao! Nó diễn tả nỗi lòng da diết
của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu
trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương.
Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình
ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông
khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp
như trong chuyện cổ tích.
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình
ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá hủy
diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu.Điều khiến cháu xúc
động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng
gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện
thực ác liệt.Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh:

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ


Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Vậy là bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ
là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu
phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung
của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
Vì sao mà tấm lòng người bà chứa đựng được biết bao điều như vậy ? Vì trong tấm lòng
đó luôn âm ỉ một ngọn lửa :
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở câu trên, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng
bà. Như thế, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen
lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin
vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin
thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống,
lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các
từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng
định ý chí,bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến.
Điệp ngữ – ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên
mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa
với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là
người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Từ ngọn lửa ấm nóng ấy, nhà thơ mở ra suy ngẫm về cuộc đời bà, về bếp lửa:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe
lẫn, tỏa sáng bên nhau. Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng
hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời
gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương,chịu khó của bà. Tình thương yêu
tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành
mà thật sâu nặng thiết tha. Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và
tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa
luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lần với
những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì
thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên:
Tình yêu thương – Niềm vui sưởi ấm – Sự san sẻ tình làng nghĩa xóm – Những tâm tình,
ước vọng của tuổi thơ. Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống
ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với
xóm làng. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc mình, nhân
dân mình. Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn chứa
điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”.
Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ.
Để giờ đây, khi đang ở cách xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình
về người bà yêu thương :
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, đứa
cháu nhỏ năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân
trời cao rộng có “ khói trăm tàu”,”lửa trăm nhà”,”niềm vui trăm ngả”. Tuy thế, cháu vẫn
khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu
có nhau. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn
cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và quê hương yêu
dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.
Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân
thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt
hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà,
cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Với “Bếp lửa”, Bằng Việt đã chắt lọc từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp
nhất về người bà thân yêu để dệt nên hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng kính yêu trân
trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Ta chợt
nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân
thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình
yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc
hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận,
ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…
BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM

Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp
lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính song đôi này được hiện lên
thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc nét chạm vậy. Khi viết bài thơ này, tác giả đang
là sinh viên theo học ở nước ngoài. Không gian xa cách. Bên này nỗi nhớ thương là
người bà và bên kia là cháu. Nỗi nhớ gọi về kỉ niệm. Trong vô vàn những kỉ niệm không
đầu không cuối hiện về, có lẽ kỉ niệm ám ảnh nhất là hình dáng người bà và bếp lửa bà
nhóm lên mỗi sớm mỗi chiều. Và cứ thế, như một thôi thúc tự nhiên, kỉ niệm và nỗi nhớ
ấy bật lên thành các chữ: “Một bếp lửa…Một bếp lửa…Cháu thương bà biết mấy nắng
mưa”. Mở đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện ngay lập tức và được điệp lặp lại. Và
thế từ đây, hình ảnh bếp lửa với sức ấm và ánh sáng của nó quán xuyến, lan tỏa toàn bài.
Tựa như bếp lửa, nỗi nhớ của cháu đối với bà cũng ấm nóng da diết, thấm thía trong từng
câu chữ.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả mọi ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu bị cuốn theo dòng hoài niệm.
Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất mực cụ thể. Tác
giả nâng niu từng mảnh kí ức hiện về. Bà, bếp lửa, tuôi thơ của cháu trong những năm
nạn đói và trong những năm giặc giã. Bà, bếp lửa trong kí ức của chính bà. Và cuối cùng
là bà, bếp lửa của thì hiện tại, của hôm nay. Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa
chập chờn mang màu cổ tích…
Khổ thơ thứ hai nhắc đến nạn đói năm bốn nhăm, trước ngày cả nước giành chính quyền,
người chết đói thê thảm khắp nơi. Cái mùi khói, khói hun trong khổ thơ có sức gợi rất
nhiều, nhắc người đọc nhớ đến cảnh hun khói xua đuổi mùi tử khí được miêu tả trong
thiên truyện Vợ nhặt nổi tiếng của Kim Lân. Ông viết: “Mùi đốt đống rấm ở những nhà
có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Nhà thơ Bằng Việt chỉ với chi tiết rất tiêu
biểu này đã gợi ra được một quá khứ tang thương, đầy những thảm cảnh gắn liền với
những thân phận trong đó có người bà, người bố. Tình cảm của nhà thơ mang bao nỗi
ngậm ngùi, xót xa.
Cũng có thể hình dung hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng nhà thơ tựa như những thước
phim đang chạy, làm hiện lên những khung cảnh quá khứ đầy cảm động. Đây là hình ảnh
người bà: “Tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng xa…bà hay kể truyện những ngày ở
Huế”. Đến đây, hình ảnh người bà và bếp lửa gắn liền với tiếng kêu khắc khoải của loài
chim tu hú. Tiếng kêu của loài chim này trong truyền thống văn học của ta thường gợi
nhắc đến những nhớ nhung, xa cách, trông ngóng mòn mỏi… Đó là những âm thanh
mang một sắc điệu buồn. có thể bên bếp lửa, bà bỗng nhớ về những vui buồn thời con
gái. Hình ảnh tiếng chim tu hú còn được nhắc lại ở cuối khổ tiếp theo. Phải nói rằng, sự
có mặt của tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu. Nỗi
nhớ của bà về quá khứ của mình, và nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm, vời
vợi. Câu thơ “Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” như treo lên một nỗi khắc khoải
khôn nguôi.
Khổ thơ tiếp theo với hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm giặc giã. Bố mẹ ở
chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật nôm na, nhưng chân thực và cảm động; “Bố ở
chiến khu bố con việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ”. Gian khổ, thiếu thốn, nhớ
nhung đều phải giấu đi cho người ở xa được yên lòng. Tấm lòng của người bà thương con
thương cháu, ân cần, chu đáo xiết bao.
Nếu từ đây hắt trở lên là hình ảnh bếp lửa, thì những câu thơ cuối của khổ thơ này, đã
chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực, cụ thể, đến
đây đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trung, khái quát. Bếp lửa với những ấm áp,
tâm tình bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã thành ngọn lửa của trái tim,
của niềm tin và sức sống con người. Nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp ngọn lửa là một vẻ đẹp
“kì lạ và thiêng liêng”. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng,
bền bỉ tỏa sáng,trường tồn. Kết thúc bài thơ, hình ảnh người bà và ngọn lửa được kết lại
trong một câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Đó là một nỗi nhớ đau
đáu, da diết, thường trực. Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình
thường gắn liền với những gì thường nhật, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ
ấm được duy trì. Họ là nơi cuối cùng để cho người ta có chỗ trở về sau những thăng trầm,
thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy, ẩn dấu
một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những lán áng hắt ra từ
ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc.
Nếu ai đã đọc Đaghexxtan của tôi của nhà văn Raxun Gamdatốp, hẳn còn nhớ trong một
thiên tuyệt bút với nhan đề Cha và mẹ, lửa và nước có nói về người mẹ dân tộc Avar
trong cuộc đời chỉ có ba việc diễn ra đều đặn, nhưng bao giờ cũng khoan thai, chậm rãi,
cẩn trọng, tựa hồ như những gì cần thiết và quý giá nhất, đó là: đi lấy nước, đưa nôi và
nhóm lửa. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này chỉ ở trong ba việc thường
nhật mà trọng đại đó. Ba công việc ấy vừa cổ sơ, nguyên thủy vừa bền bỉ vĩnh hằng.
Người đàn bà ấy đã sinh thành, nhen nhóm và duy trì sự sống. Thế thì người bà trong Bếp
lửa đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và giặc giã, đã cho con đi kháng chiến vì
nước vì dân, đã âm thầm trụ lại nhà giữ mảnh đất truyền đời tổ tiên để lại, đã âm thầm
chờ đợi và hi vọng… đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con
người đó sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi!...
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH_PHẠM TIẾN DUẬT
🌿 CẢM NHẬN VỀ “BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH” CỦA NHÀ THƠ
PHẠM TIẾN DUẬT

“Xe ta quý ta yêu


Ôi chiếc xe đồng chí
Cùng ta lăn sớm chiều
Cùng ta đi đánh Mĩ.”
(Bài ca lái xe đêm – Tố Hữu)
Trong cuộc trường chinh chống Mĩ, để giải phóng quê hương, để giành lấy độc lập, để
dành lại tự do cho dân tộc, người chiến sĩ giải phóng quân đã trở thành nhân vật tiêu biểu,
hội tụ những gì cao đẹp nhất. Những chàng trai đó đã được nhân dân và thế giới khâm
phục, ngưỡng mộ. Hình ảnh anh chiến sĩ hào hùng, sôi nổi, trẻ trung đã trở thành nguồn
cảm hứng dạt dào, là đề tài bất tận, bất tận cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác. Là một nhà
thơ phục vụ trong quân đội, phục vụ trong binh đòan lái xe vận tải, trên con đường máu
lửa Trường Sơn, Phạm Tiến Duật đã cảm nhận sâu sắc cuộc sống người chiến sĩ lái xe
trên con đường lịch sử này. Ông đã sáng tác một bài thơ hay, một bài thơ độc đáo. Đó là
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Phân tích bài thơ, ta mới cảm nhận, hiểu biết đầy đủ
hơn về người lính, đồng thời đó ta cũng sẽ thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ và giọng
điệu bài thơ.
Trên con đường rừng Trường Sơn huyết mạch và nổi tiếng với tên gọi “đường mòn Hồ
Chí Minh”, những chiếc xe thuộc đơn vị vận tải vẫn lao nhanh ra chiến trường tiếp viện.
Những chiếc xe và chiến sĩ lái xe trở thành quen thuộc, đáng yêu. Nhà thơ viết về họ với
phong cách tự nhiên thật độc đáo.
Nguồn cảm hứng của nhà thơ bắt nguồn từ hiện thực”chiếc xe không có kính” và càng
bất ngờ hơn, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn là là không chỉ có một chiếc xe thôi đâu mà là
cả một “ tiểu đội xe không kính”. Hình ảnh những chiếc xe đó được nhấn mạnh trong câu
thơ đầu tiên, một lời giới thiệu khá độc đáo, thân thương:
“Không có kính không phải vì xe không có kính”.
Câu thơ thoạt nghe như lời kể lể, giải bày. Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, giống như lời
nói của người chiến sĩ giới thiệu chiếc xe yêu quý mà mình đang sử dụng. Xe vốn thường
có kính và chiếc xe có kính là điều bình thường, không có gì đáng nói. Chi tiết tả thực
không có kính mới gây sự chú ý, bất ngờ và là một thực tế có sức khơi gợi mạch thơ, có
sức khơi gợi lòng người. Nếu vế đầu của câu thơ đó có tính chất phủ định thì ở vế sau của
câu thơ lại nhằm khẳng định, nhấn mạnh”không phải vì xe không có kính”. À! Thì ra
trước kia vẫn nguyên vẹn, lành lặn với các bộ phận đó chứ đâu phải xe mới ra đời là đã
không có kính. Vậy tại sao lại có sự không bình thường ấy chứ? Vì sao cả một”tiểu đội
xe không kính”? Nhà thơ bước vào tư thế, vị trí kiên cường của người chiến sĩ lái xe để
trả lời:
“Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Thì ra cái lí do, cái nguyên nhân là vì chiến tranh mà ra cả. Chiến tranh phá hoại chiếc xe,
làm cho chiếc xe tàn tạ, trở thành chiếc xe không mui, không đèn, không thể không xước
đi, yếu dần. Điệp từ “bom” kết hợp với các động từ”giật”,”rung”đã tái hiện lại không khí,
tính chất khốc liệt, gay go của cuộc chiến đấu giữa ta và giặc, phơi bày và tố cáo bản chất
hung bạo, ngông cuồng của quân giặc.”Mưa bom bão đạn” của chúng dội xuống Trường
Sơn thật là dữ dội, ác liệt. Bọn chúng định dùng sức mạnh với các vũ khí hiện đại để chặn
đường tiếp tế, tiến công của ta, làm lung lay ý chí, tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ.
Sức ép của bom đạn khi nổ, những mảnh bom trúng vào chiến sĩ, trúng vào chiếc xe
khiến cho chiếc xe bị trầy, khiến cho chiếc xe”kính vỡ đi rồi”.Lời thơ vẫn nhẹ nhàng thể
hiện sự bình thản của người cầm lái. Đối lập với thực tế khó khăn, khắc nghiệt về điều
kiện bởi những chiếc xe bị hư hại là thái độ của người chiến sĩ lái xe: ”Ung dung buồng
lái ta ngồi”
Từ “ung dung” đặt trong phép đảo ngữ như đang diễn tả thái độ tự tin, bình tĩnh, không
một chút nao núng, run sợ của người chiến sĩ. Bất chấp mọi trở ngại, gian khổ, mặc kệ
những hiểm nguy, người lính vẫn vững vàng ngồi vào buồng lái để làm nhiệm vụ. Thái
độ ấy xuất phát từ phẩm chất gan dạ, anh hùng và từ chiếc xe không kính, người chiến sĩ
đã quan sát cảnh vật bên ngoài”Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Câu thơ viết theo nhip hai-hai-hai thật cân đối. Nó thể hiện sự nhịp nhàng, thăng bằng
của chiếc xe đang lăn bánh và nhất là thái độ tự tin, bình tĩnh của người cầm lái. Điệp
ngữ“nhìn” đã nhấn mạnh, khắc sâu vẻ đẹp từ cach quan sát của người chiến sĩ. Một vẻ
đẹp xuất phát từ tâm hồn, tấm lòng của anh. Cách nhìn chăm chú đó biểu lộ niềm yêu
thương của anh với thiên nhiên và cuộc sống, sự quyết tâm vững vàng trong nhiệm vụ.
Anh “nhìn đất”để thêm gắn bó, yêu thương con đường Trường Sơn hào hùng, thân thuộc
để dẫn đưa chiếc xe đến chổ, nơi an tòan, mau mau đến đích. Anh”nhìn trời”để tâm hồn
thêm lạc quan, bay bỗng, thêm tin tưởng vào tương lai. Anh”nhìn thẳng” là nhìn về phía
trước, nhìn vào con đường trước mặt cần vượt qua, nhìn vào nhiệm vụ đầy gian khổ, khó
khăn thử thách của mình để thêm cương quyết, tích cực mà sẵn sàng đối phó, đương đầu
với bao hiểm nguy, gian khổ, khó khăn. Bởi thế, mặc cho bom đạn gào thét, anh vẫn cứ
tiến lên. Anh chiến sĩ lái xe thật dũng cảm, hào hùng biết bao.
Chiếc xe của anh không còn bộ phận nào để che chắn nên giờ nay người chiến sĩ đã tiếp
xúc trực tiếp với thế gới bên ngoài khi chiếc xe lao đi, lao đi mà không ngỏanh lại:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”
Cảm giác của người chiến sĩ về cơn gió là cảm giác trực diện. Anh không chỉ cảm thấy
cơn gió vào “xoa mắt đắng” mà đã nhìn thấy cơn gió vô hình. Để làm giảm bớt vị đắng,
sự khó chịu nơi con mắt bỡi những ngày đêm thức trắng để lái xe không nghỉ ngơi, anh
đã cho chị gió xoa mắt đắng, xoa nó đi để rồi ngày mai anh đi tiếp, đi tiếp về tương lai.
Cảm giác ấy càng phát triển mạnh mẽ khi anh “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim.
Sự liên tưởng ấy thật đẹp và thật độc đáo khi chiếc xe lao tới, con đường lúc ấy như chạy
ngược về phía trước. Sự tin tưởng phù hợp với tấm lòng của người lái, đó là tấm lòng
nhiệt tình, hăng say trong nhiệm vụ. Trái tim người chiến sĩ luôn luôn dạt dào tình yêu Tổ
Quốc, quê hương mà đặc biệt là con đường thân thuộc, gần gũi, con đườnghứng chịu bao
bom đạn máu lửa. Chiếc xe vẫn cứ lao nhanh, lao xa đi mãi, tiến lên phía trước vì người
lính biết rõ mục đích, lí tưởng công việc cao cả của mình là cống hiến, hoạt độn vì ai, để
làm gì?
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Cuộc chiến ấy thật hiểm nguy, thử thách nhưng tâm hồn người chiến sĩ luôn lng mạn, bay
bỗng khi anh quan st từ chiếc xe khơng kính để thấy”sao trời, cánh chim”. Có lẽ, tâm hồn
anh phải hân hoan, phơi phới yêu đời nên mới có được cảm nhận”…như sa, như ùa vào
buồng lái.”. Nếu điệp ngữ ”nhìn thấy” diễn tả thi độ quan sát chủ động của người chiến sĩ
đối với cảnh vật thì động từ “thấy” lại nhấn mạnh đến sự xuất hiện bất ngờ, mau lẹ, “đột
ngột” của cánh chim đêm. Cách nhìn ấy thật l tinh tế! Một nh sao, một cánh chim lạc đàn
cũng làm anh chú ý, quan tm v xao xuyến. Nhịp thơ trở nên nhanh gấp, sôi nổi thể hiện
tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên, sự lạc quan của người chiến sĩ giải phóng quân thời
chống Mĩ. Như một bài ca đã từng được viết:
“Cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yu vẫn đẹp sao
Dù đạn bom man rợ thét gào
Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích.”
Đối với người chiến sĩ lái xe, chiếc xe “không kính” đem lại những cảm giác khi lao đi
trên đời vắng. Nhưng đó cũng là nguyên nhân gây ra hậu quả:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.”
Khổ thơ bắt đầu bằng cấu trúc lặp lại “không có kính” như muốn nhấn mạnh phác họa ra
vẻ lạ lùng, độc đáo của chiếc xe và là lí do khiến xe “có bụi”.
Mất đi bộ phận chắn che, người lái và chiếc xe như đi giữa bụi đất. Điệp từ “bụi” và động
từ “phun” diễn tả, nhấn mạnh mức độ ghê gớm đến đáng sợ của bụi:bụi bay, bụi cuốn mù
mịt cả không gian, cả đất trời trong mỗi lần xe chạy và kéo dài suốt cả chặng đường dài.
Trong bài thơ Lá Đỏ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng đã cảm nhận về cơn bụi nơi đây, nó
vội vã như người lính, người chiến binh hào hùng:
“Đoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa.”
Những cơn bụi đó qua khung kính vỡ xông vào buồng lái, phủ đầy tóc tai, đầy khuôn
người lính biến thành hình tượng ngộ nghĩnh, đáng yêu qua cách so sánh của nhà thơ “tóc
trắng như người già”. Phải chăng đây chính là “những con quỷ mắt đen” như Lê Minh
Khuê đã diển tả về các anh thanh niên xung phong giữa cao điểm Trường Sơn? Anh
chiến sĩ đôi mươi kia, trẻ trung, sôi động giờ đây đã được “hóa trang” thành một con
người khác, già đi gấp bội bởi lớp bụi dày bám lên tóc. Cái gian khổ của anh chiến sĩ lái
xe được diễn tả lại sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không kêu ca, than vãn mà lại lấy chính
cái gian khổ của mình để tự động viên mình bằng cách hóm hỉnh nữa ấy chứ.
“Chưa cần rửa phì pho chm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Nếu từ ngữ “ừ thì” thể hiện sự chấp nhận, chịu đựng những cơn “mưa bụi nhiệm màu” thì
thi độ “chưa cần rửa” lại là sự thách thức, bất chấp, xem thường mọi gian khổ. Gian khổ
này dường như không tác động đến ý chí, quyết tâm của anh. Người chiến sĩ xem đó là
dịp để rèn luyện ý chí, sức mạnh của mình.
Và thêm một chặng đường là thêm hàng triệu khó khăn chồng chất. Đoàn xe phải gặp
những trận mưa rừng, gặp gió bụi Trường Sơn. Thật là khủng khiếp bởi lẽ:
“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như rõ mình.”
Khi xe không có mui xe che chắn thì thực tế sẽ ra sao? Những hạt mưa rừng như những
nhát chổi quất vào mặt người lính, khó khăn biết bao cho cuộc lái xe! Thế là người lính
nếm đủ mùi gian khổ mà thái độ thì vẫn ngang tng, phơi phới, lạc quan:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Với cấu trúc được lặp lại “không có kính”,”ừ thì” cùng ngôn ngữ bình dị, giọng điệu
ngang tàng lại một lần nữa thể hiện thái độ bất chấp của người lính. Chiếc xe không kính
ấy đi vào mùa nào, thời tiết nào cũng đều gian khổ cả. Điệp ngữ “mưa” kết hợp với
những từ gợi tả thật đẹp “tuôn, xối” gợi lên những cơn mưa thật dữ dội, khiến người lính
lái xe bị “ướt áo”. Thái độ của người lính của người lính được thể hiện dứt khoát “chưa
cần thay “. Họ mặc kệ cái ướt át, lạnh giá để tiếp tục nhiệm vụ “lái trăm cây số nữa”.Lời
nói thật giản dị, đơn sơ nhưng thể hiện quyết tâm lớn của người chiến sĩ: xe phải đến tới
đích , ý thức trách nhiệm, đóng góp cho cuộc chiến của họ thật đẹp, thật đáng quý biết
bao! Họ lái xe cho đến khi “mưa ngừng” và trong suy nghĩ của họ cũng thật, bình dị:
“Mưa ngừng, gió lùa thô mau thôi.”
Rõ rằng người lính đã quên mình vì nhiệm vụ với ý thức tự nguyện đây. Tâm hồn của
người chiến sĩ sôi nổi, yêu đời da diết.
Bản chất của người lính lái xe là đi, nhưng phải có lúc họ phải dừng lại trú quân:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.”
Câu thơ miêu tả cuộc gặp gỡ vui vầy trong không khí địan kết, gắn bó, chia sẻ ngọt bùi
sau những trân chiến ác liệt, căng thẳng:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Chiếc xe không kính kia phải có lúc ngừng chạy. Đó là khi chúng hoàn thành xong nhiệm
vụ. Ta bắt gặp được một nét đẹp khác nơi họ. Đó chính là tình đồng đội, đồng chí của
những anh lính lái xe. Khác hăn so với hình ảnh của những anh vệ quốc quân với một nụ
cười hoàn toàn “buốt giá”, khơng biết bao giờ mình mới trở lại được quê hương. Các anh
giải phóng quân giữa chiến trường ác liệt, họ cũng không cảm thấy buồn chán, vì quanh
họ luôn có đồng đội gần gũi, yêu thương. Trong cuộc hành trình vất vả đó họ đã “gặp bè
bạn suốt dọc đường đi tới”, đem đến cho họ sự vui tươi, than ái. Từ “họp, gặp” diển tả
những cuộc hội ngộ của những người lính trẻ trung, cùng chí hướng thì hình ảnh “bắt tay
nhau” thật đẹp đẽ, biểu hiện sự đồng cảm, thân ái, yêu thương của những người chiến sĩ.
Tình đồng chí, đồng đội của anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn càng thắm
thiết, cảm động hơn khi họ cùng chia sẻ với nhau một bữa cơm dã chiến:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Họ đã chiến đấu, công tác trên con đường Trường Sơn khi cần nghỉ ngơi họ lại lấy con
đường than yu ấy lm nh. Họ trị chuyện, cười đùa với nhau thật thoải mái, than mật. Họ
dựng bếp Hòang Cầm giữa trời, “võng mắc chông chênh”sau những giờ pht căng thăng
giữa chiến trường. Hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh” vẽ hiện
thực làm sống lại hiện thực chiến trường. Các anh vừa nấu cơm vừa chợp mắt trên cái
“vng mắc chông chênh”. Bữa cơm chiến trường đơn sơ, giản dị thế mà vẫn rộn lên niềm
vui tình đồng đội:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng”
(Tố Hữu)
Để rồi từ đây, cái định nghĩa về gia đình của của anh chiến sĩ mới ngộ nghĩnh làm sao!
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Một gia đình vui tươi, trẻ trung gồm những người lính trẻ đã hình thnh khi “chung bát
đũa”. Nhưng chỉ trong một thóang chốc để rồi sau đó người chiến sĩ lại tiếp tục hành
quân:
“Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Điệp ngữ “lại đi” đã diễn tả một cơng việc quen thuộc của người lính nhưng đồng thời
cũng biểu lộ nhiệt tình, khí thế khẩn trương sôi nổi của họ. Trước mắt họ, “trời xanh
thêm” như báo hiệu một ngày công tác, chiến đấu, nhưng lại phù hợp với tâm hồn trẻ
trung, yêu đời của người lính cũng như niềm lạc quan, tin tưởng của họ vào tương lai,
vào cuộc sống.
Vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường ngày như văn xuôi, nhưng nhạc
điệu, hình ảnh trong khổ thơ cuối rất đẹp, rất thơ góp phần hịan thiện bức chân dung tuyệt
vời của người lính lái xe quân sự trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm đánh
Mĩ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh rất thú vị, bất ngờ:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Khổ thơ cuối vốn là ngôn ngữ giản dị, đơn sơ. Điệp ngữ “không có” như nhấn mạnh, làm
r những khĩ khăn, trở ngại dồn dập, liên tiếp. Khi những bộ phận cần thiết của của chiếc
xe đã bị bom đạn làm hư hại. Cái “không có” là kính, là đèn, là mui xe,” lại là “thùng xe
có xước”. Thế mà người chiến sĩ vẫn tiếp tục điều khiển cho xe chạy. “Xe vẫn chạy” chứ
không chịu ngừng nghỉ, nằm yên. Điều gì đã thôi thúc người chiến sĩ tận tụy, quên mình
nhiệm vụ, coi thường những gian khổ, khó khăn? Tất cả là bởi một mục đích, một lí
tưởng cao cả “vì miền Nam phía trước”. Lòng yêu nước nồng nàn, ý thức căm thù giặc
cao độ đã giúp cho người chiến sĩ sẵn sàng qun mình vì nhiệm vụ. Ước mong cao đẹp
nhất là mong muốn giành được độc lập, tự do cho “Tổ Quốc”, mang lại hòa bình độc lập
cho quê hương. Cội nguồn sức mạnh của người chiến sĩ lái xe, sự dũng cảm kiên cường
của người chiến sĩ được diễn tả thật bất ngờ, sâu sắc:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Thì ra “ trái tim” cháy bỏng tình yêu thương Tổ Quốc đồng bào miền Nam ruột thịt đã
khích lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua bao gian khó, luôn bình tĩnh, tự tin để cầm
chắc tay lái đưa xe đi tới đích. Hình ảnh bất ngờ ở cuối bài thơ đã lí giải được tất cả mọi
vấn đề. Câu thơ bình dị như lời nói hằng ngày nhưng lại ẩn chứa một ý tượng sâu sắc về
một chân lí thời đại. Sức mạnh để chiến thắng không phải vũ khí hiện đại, phương tiện tối
tân, đầy đủ tiện nghi mà chính là con người với trái tim nồng nàn yêu thương đất nước
nhân dân, sôi sục long căm thù quân giặc. Ý chí bất khuất kin cường ấy giúp cho con
người lướt thẳng mọi trở ngại, khó khăn.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ hay, đặc sắc của Phạm Tiến Duật.
Chẳng ngẫu nhiên mà nhà thơ đã đặt tên cho tác phẩm là “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính”. Chất thơ tỏa ra từ thực tế của cuộc chiến đấu, từ niềm vui của người chiến sĩ trong
thời đại chống Mĩ. Chất thơ tóat ra từ sự giản dị, đơn sơ của ngôn từ, sự sáng tạo bất ngờ
của các chi tiết, hình ảnh anh lính Cụ Hồ.
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta
ngày hôm nay. Cám ơn nhà thơ đã giúp tất cả chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh
người lính lái xe một thơì gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì qu hương, đất nước.
Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa
kia và để hòan thành nhiệm vụ hôm nay. Chng ta hãy tự hào về họ,những người chiến sĩ
Trường Sơn: “Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười"
(Tố Hữu)
NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
🌿 PHÂN TÍCH NHÂN VẬT PHƯƠNG ĐỊNH TRONG "NHỮNG NGÔI SAO XA
XÔI" CỦA LÊ MINH KHUÊ

Truyền thuyết kể rằng ngày xưa hoa hồng chỉ toàn một màu trắng tinh. Từ khi thần Mặt
Trời và nữ thần Mặt Trăng ban cho hoa hồng sắc đỏ chói của mặt trời và sắc vàng êm dịu
của mặt trăng, hoa mới có nhiều màu sắc rực rỡ. Hoa hồng và phụ nữ! Biểu tượng của cái
đẹp, nơi mọi tinh túy của đất trời đồng lòng hội tụ. Viết về vẻ đẹp người phụ nữ, sao tôi
cứ ám ảnh mãi với “đóa hoa” thanh khiết nở giữa núi rừng Trường Sơn trong tác phẩm
“Những ngôi sao xa xôi” của nữ nhà văn Lê Minh Khuê, mà nổi bật là Phương Định- cô
gái thuần túy chất Việt của muôn đời.
“Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê, sáng
tác năm 1971, là thời điểm mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
đang bước vào thời kì khốc liệt nhất. Bản thân là một nữ thanh niên xung phong dày dặn
trong mưa bom bão đạn, tác giả đã viết truyện ngắn này như một bài ca ca ngợi vẻ đẹp
của nhân vật nói riêng, của cả một thế hệ thanh niên xung phong thời kháng chiến chống
Mỹ nói chung.
Phương Định xuất thân là một cô gái Hà Thành chính thống. Bởi vậy, điều đầu tiên cuốn
hút ở độc giả chính là nét trẻ trung, hồn nhiên, trong sáng và đầy mơ mộng như một đóa
hàm tiếu giữa núi rừng kháng chiến. Cũng như biết bao chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi
để lại sau lưng kỉ niệm đẹp thời cắp sách, Phương Định đã quyết định dấn thân nơi bom
đạn với một niềm tin yêu phơi phới. Cô gái trẻ tự tin xếp ngoại hình của mình vào loại
“khá”. Đó không phải biểu hiện của tính tự phụ. Thay vào đó là sự tự tin, bản lĩnh, đầy
sức sống của một tâm hồn mới lớn. Sở dĩ tôi ví Phương Định như một đóa hoa tươi trẻ là
bởi cô có “hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao kiểu hãnh như đài hoa loa kèn”.
Đôi mắt cô đẹp đến nỗi các đồng nghiệp nam mỗi lần nhìn vào đều ngây ngất mà nhận
xét rằng: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm…”. Nét đẹp ấy xét vào thời buổi hôm nay vốn
đã rất đáng trân trọng. Lại ở vào cái không khí “Hịch tướng sĩ” thời chống Mỹ khốc liệt
xưa, ta càng thêm nâng niu biết nhường nào.
Cô gái trẻ chẳng những “tốt nước sơn” mà còn “tốt gỗ”. Phương Định tiềm ẩn trong mình
nét cá tính vô cùng ấn tượng: thích ngắm mình trong gương, thích làm duyên, cũng hay tỏ
ra kiêu kì trước những anh lính trẻ. Vẻ đẹp ấy đủ để làm say lòng bao trái tim đến nỗi
“không hiểu sao các anh pháo thủ và các anh lính lái xe lại hay hỏi thăm tôi”. Có thể nói,
đó là nét tính cách tiêu biểu cho mọi thế hệ hệ thời chống mỹ bấy giờ, ra đi cứu nước và
mang theo một tâm hồn lãng mạn hết sức trong ngần. Lại nhớ đến nhân vật Chiến trong
tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi. Nếu Phương Đinh
thích soi gương thì chị Chiến khi ra trận cũng không quên mang theo một chiếc gương.
Mạnh mẽ, dũng cảm nhưng cũng vô cùng nữ tính.
Chiến tranh bao giờ cũng khốc liệt tiếng bom. Nhưng chiến tranh trong văn Lê Minh
Khuê còn có cả tiếng hát, tiếng hát của Phương Định. Chị thích hát, nghêu ngao suốt cả
ngày với những bản nhạc không đầu không cuối. Chính tâm hồn yêu đời đã mang đến cái
bình thản cho cô gái trẻ giữa chiến trường đầy ác liệt. Tác giả đã đặt cái lãng mạn, cái
hồn nhiên bên trong cái tàn khốc, chết chóc. Tiếng hát át tiếng bom. “Sự sống nảy sinh từ
cái chết. Hạnh phúc hiện hình từ những hi sinh, gian khổ” (Nguyễn Khải). Đó phải chăng
là thông điệp ý nghĩa mà nhà văn mang đến cho độc giả?
Mang trong mình vẻ lãng mạn vốn có của tuổi trẻ, Phương Định đã xua tan đi từng giọt
“mồ hôi trên trán anh vàng nghệ”, xua đi cái khét lẹt của bom đạn kẻ thù. Ở đây ta thấy
luôn nồng lên hơi ấm của tiếng cười, tiếng hát. Và chiến trường vì thế cũng gần với hai
chứ “gia đình” hơn bất cứ khi nào.
Lãng mạn là thế nhưng bên cạnh đó, ta còn bắt gặp một Phương Định quả cảm, gan dạ,
bất chấp mọi khó khăn, sẵn sàng đối diện với gin khổ và hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao.
Theo sát mạch truyện, qua lời kể theo ngôi thứ nhất là nhân vật trung tâm, người đọc như
được chứng kiến tận mắt hoàn cảnh sống của Phương Định và những người đồng đội. Họ
sống dưới chân một hang cao điểm. Cuộc sống lại vô cùng thiếu thốn nhưng các cô luôn
ngày đêm bám sát tuyến đường, đảm bảo tuyệt đối , giữ gìn mạch máu giao thông.
Phương Định và đồng đội được giao nhiệm vụ “khi có bom nổ thì chạy lên. đo khối
lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Công việc vô cùng
gần kề với cái chết, đòi hỏi sự dũng cảm và bản lĩnh cao độ. Với riêng Phương Định và
đồng đội, đó đã trở thành công việc thường nhật: “Quên rồi, ngày phá bom đến năm lần.
Ngày nào ít: Ba lần”.
Từ khung cảnh và không khí chứa đầy sự căng thẳng: “Đất bốc khói, không khí chứa đầy
sự căng thẳng, máy bay đang ầm ì”, lúc nào cũng phải “thần kinh căng như chão, tim đập
bất chấp nhịp điệu”, ta mới thấu rõ nỗi khó khăn của thời bom đạn, cũng là tinh thần thép
của thời đại bấy giờ. Qua ngòi bút miêu tả diễn biến tâm lý sắc sảo, nhà văn đã tái hiện
thành công nét thông minh gan dạ của người con gái anh hùng. Trước một quả bom chưa
nổ “một đầu vùi xuống đất, đầu này có vẽ hai vòng tròn màu vàng”, quả bom chưa nổ và
cố nhiên, nó có thể nổ bất cứ lúc nào. Kề bên nanh vuốt của cái chết, im lìm và bất ngờ,
từng hành động của con người cũng trở nên sắc nhọn hơn. Cô đã kịp thời chấn tĩnh, từng
hành động diễn ra mau lẹ và chính xác. “Lưỡi dao chạm vào quả bom, một tiếng động sắc
đến gai người cứa vào da thịt”. Nhà văn thật sắc sảo khi tái hiện cảm nhận đầy mong
manh, tinh tế của nhân vật. Tiếng động “sắc đến gai người” ấy phải là cả một quá trình
nhập thân vào nhân vật mới có thể miêu tả thật hơn cả đời thực đến vậy.
Mọi nỗ lực dường như đã được đền đáp xứng đáng. Tất cả đã trở về an toàn nhưng cái
không khí ghê người trước không khí căng thẳng của bom đạn thì như vẫn còn nguyên
trong tâm khảm độc giả. Điều khiến chúng ta xúc động ở chỗ dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào đang cận kề với cái chết, phẩm chất của những người lính Cụ Hồ càng được tôi luyện
vững vàng. Đúng như cái tinh thần “Sát Thát” của thời Trần, cái tinh thần “trên trời có
mày, dưới đất có mày, trong rừng chỉ có mình tao, tao cũng bắn được mày” của thời Mỹ
(câu nói của Nguyễn Thi), nay lại được gửi gắm cả trong tâm hồn mong manh của một cô
gái tưởng như yếu đuối. Họ chính là những bức tượng đài huyền thoại của lịch sử hào
hùng dân tộc.
Đoạn văn tả cảnh phá bom có thể nói là đoạn văn xuất sắc nhất của toàn bộ thiên truyện.
Lê Minh Khuê đã vận dụng tài tình bút pháp tả thực để tái hiện thành công cái không khí
đầy chết chóc của chiến tranh. Đồng thời đó cũng là bài ca ca ngợi tinh thần quả cảm của
con người trong cuộc chiến trường kì của dân tộc mà tiêu biểu là người con gái Phương
Định mang trong mình khí phách anh hùng thời đại. Cùng với hình ảnh mười nữ thanh
niên xung phong ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã dành cho họ những lời ca
trân trọng nhất:
“Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời nằm yên trong đất
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh”
(Khoảng trời và hố bom)
Đúng như vậy, họ chính là những người con gái Việt Nam anh hùng, những ngôi sao
sáng nhất mãi mãi nằm trong trái tim chúng ta.
Trong chiến đấu, Phương Định đẹp là vậy. Trong cuộc sống đời thường, cô cũng chan
chứa trong mình một “cốt tủy chung tình bên trong”(Nguyễn Tuân). Đó là một trái tim
giàu lòng thương yêu, nghĩa tình, quan tâm hết mực đến đồng đội.
Qua từng cử chỉ việc làm của nhân vật, nhất là những khi em Nho bị thương, ta càng
thêm xúc động trước cô gái trẻ. Trong khi Thao chỉ biết ôm mặt khóc thì Phương Định đã
bình tĩnh, kịp thời bế Nho vào hầm trú ẩn, rửa và băng bó vết thương cho đồng đội, pha
sữa, lục tìm đến chiếc kẹo cuối cùng và hát cho Nho nghe. Đối với Định, nơi đây đã trở
thành gia đình thứ hai của mình, cả Nho, cả Thao đều thân thiết và quan trọng như những
chị em ruột. Vậy nên đối với cô mà nói, đồng đội bị thương, chính bản thân cô cũng đau
gấp bội phần. Chưa bao giờ tình yêu thương và tấm lòng “lá lành đùm lá rách” lại cao
đẹp như lúc này.
Xa gia đình, xa người thân, tình cảm đồng chí đồng đội còn tiếp thêm tinh thần và sức
mạnh cho họ cùng nhau bước qua gian khổ và những thách thức của cuộc kháng chiến.
Không chỉ với Nho, tình yêu của Phương Định còn dành cho cả các anh lính cùng chiến
khu, Cứ mỗi lần bom nổ, chị lại nghĩ đến các anh, lo lắng cho các anh. Tình thương ấy
nhiều khi chuyển hóa thành lòng khâm phục và sự ngưỡng mộ: hình ảnh đẹp nhất chính
là “những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Những con người “tự phương trời
chẳng hẹn quen nhau” (Tố Hữu) nay đã chuyển hóa thành tình đồng đội, đồng chí keo
sơn, thắm thiết. Thật quý giá biết nhường nào.
Để làm nổi bật Phương Định, truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể. Ngôi kể
ngôi thứ nhất giúp cho câu chuyện hiện lên đầy chân thực qua cái nhìn trải nghiệm của nữ
thanh niên xung phong. Nghệ thuật miêu tả nội tâm, tâm lỹ một cách tài tình, bộc lộ tính
cách nhân vật rõ nét. Từ đó, ta như hiểu thêm nhiều hơn về tuổi trẻ Việt Nam thời chống
Mỹ: Họ đã sống, đã cống hiến, đã hy sinh thầm lặng cả thanh xuân và cuộc đời mình cho
độc lập tự do của Tổ quốc. Chính họ đã nối liền mạch máu giao thông, chi viện cho chiến
trường miền Nam chống Mỹ dưới tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cũng
chính họ đã làm cho “đường ra trận mùa nay đẹp lắm”, ít nhất là đẹp hơn trong mắt bao
độc giả thế hệ hôm nay
Chiến tranh đã qua đi nhưng vẫn còn đó một con đường Trường Sơn sừng sững, thấp
thoáng bức chân dung chân thực về hình ảnh nữ thanh niên xung phong thời chống Mỹ.
Hình ảnh của họ, đặc biệt là hình ảnh Phương Định mãi mãi là niềm tự hào vô bờ của thế
hệ trẻ hôm nay, nhắc chúng ta hãy sống sao cho xứng đáng nhất với thế hệ đi
trước,“những con người đi tới. Hai cánh tay như hai cánh bay lên. Ngực dám đón những
phong ba dữ dội. Chân đạp bùn không sợ các loài sên..” (Tố Hữu)
100 CÂU NHẬN ĐỊNH LÍ LUẬN VĂN HỌC VỀ VĂN XUÔI

1. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của
con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của con người thì cảm hứng
nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)

2. “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự
quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa
tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong
sạch và phong phú hơn…” (Theo dòng, Thạch Lam)

3. “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tuỷ.” (Sê-khốp)

4. “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại.” (Ban-dắc)

5. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (CharlesDuBos)

6. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái
khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)

8. “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân
mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí.” (M. Go-rơ-ki)

9. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa
dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.” (Trăng
sáng, Nam Cao)

10. “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại
chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.” (Nguyễn
Văn Siêu)
11. “Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống
trên trái đất.” (Béc-tôn Brếch)

12. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.”
(Thạch Lam)

13. “Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.” (Nam Cao)

14. “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn
ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám
vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng
sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ
như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí
của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…”
(Nguyễn Tuân)

15. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là
tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng
đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau
cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” (Nguyễn Khải)

16. “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung.”
(Lê-ô-nít Lê-ô-nốp)

17. “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài
năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.” (Ivan Tuốc-ghê-nhép)

18. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu
anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ.” (Sê-khốp)
19. “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ
thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà
còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở
thành nhà thơ.” (Raxun Gamzatốp)

20. “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng
cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ
làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người
và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-
khốp)

21. “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên,
hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)

22. “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà
còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống.” (Gioóc-giơ
Đuy-a-men)

23. “Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến
những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kì một
câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio Magris – Nhà văn Ý)

24. “Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ
cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống
và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân
loại.” (L. Tôn-xtôi)

25. “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ
những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.” (Thạch Lam)

26. “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín
đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức.”
(Thạch Lam)
27. “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi
gắm tâm tư.” (Lê Ngọc Trà)

28. “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác
phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau
đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho
người gần người hơn.” (Nam Cao)

29. “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong
văn chương thì thật là đê tiện.” (Đời thừa, Nam Cao)

30. “Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao…
Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hoà
cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường
của các hình tượng, sự giản dị của sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời
của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nước
nguồn ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra…” (M. Go-rơ-ki)

31. “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm
vui cho sự cô độc của chính mình.” (Selly)

32. “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra.”
(An-đéc-xen)
33.“Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã
hội.” (Phạm Văn Đồng)

34. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có
những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương
người”. (Lê Trí Viễn)
35. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong
phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người.” (Đặng Thai Mai)

36. “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.” (Pautôpxki)

37. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.” (Tố Hữu)

38. “Nhà văn là người cho máu.” (Enxa Triole)

39. “Văn học là nhân học.” (M. Go-rơ-ki)

40. “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy
những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình
thức riêng.” (M. Go-rơ-ki)

41. “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong
cách mới lạ, thu hút người đọc.” (Phương Lựu)

42. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy
trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã
ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí
luận văn học)

43. “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra.” (Hê-
ghen)
44. “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng
kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý
thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt
và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.”
(Ai-ma-tốp)
45. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng
cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.”
(Nguyễn Minh Châu)
46. “Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một
cách hời hợt, nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong
sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi
dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn, sinh động… Thể hiện
những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người… Nhân vật
trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi
sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một
giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại,
vĩnh cửu sống mãi với thời gian…” (Sách Lí luận văn học)
47. “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như
tôi muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời.” (Vũ Trọng Phụng)
48. “Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả.” (M.
Go-rơ-ki)
49. “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng hơn ai
hết được hưởng sự kính trọng của con người.” (Einstein)
50. “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối
của tôi.” (Nguyên Hồng)
1. “Thơ là thơ, muôn tuổi vẫn xuân xanh.
Thơ là thơ, tiếng nói của tâm tình
Tình khô cạn thì thơ đâu còn nữa
Người trăm tuổi như thơ thì vạn thuở
Vẫn trẻ trung hơ hớ tuổi đôi mươi.
Thơ là thơ đâu sống kiếp con người
Thể xác chết nhưng hồn thơ bất diệt.”
(Bàng Bá Lân)
2. Giữa hai vùng tối sáng
Thi nhân bước lên cầu
Gió với bao đáng tiếc
Sấp ngửa dạt về đâu
(Hữu Thỉnh)
3. Là nhà thơ nên hay nghĩ hay lo
Người chưa khổ thì anh đã khổ
Tim mang nặng những sầu thương vạn cổ
Anh khóc than ngay trước cổng Thiên đường.
(Anh Ngọc)
4. từng con chữ knock-out trên trang giấy
tôi chiến thắng cũng chính tôi chiến bại
dù khôn ngoan vẫn là khờ dại
trơ trọi một mình gặm nhấm buồn vui
(Lê Minh Quốc)
5. Nhà thơ lớn ư? Là để cho nhân loại yêu mình bằng mọi cách
Khi nâng niu. Khi thì hạch sách
Khi dày vò mỗi chữ
Khi trân trọng ngắm từ xa
Nhà thơ vẫn vẹn nguyên qua trăm lần thử lửa
Yêu mà!
(Chế Lan Viên)
6. Anh chỉ mong câu thơ anh sống khỏi một đêm, có ích quá một ngày
Đúng cái đêm bà mẹ chết con cần một câu thơ cho đỡ khổ
Đúng cái ngày người chiến sĩ trên chiến hào ôm xác bạn ngã vào tay.
(Chế Lan Viên)
7. Chợt một ngày tôi nhận ra tôi
Từng lang thang dưới bầu trời chữ nghĩa
Tôi nghe được tiếng hát của mưa
Tiếng cười của nắng
Tiếng nói của cỏ cây…
Tôi nghĩ thế giới này có thể mất đi
Nhưng còn lại vần thơ nhân cách.
(Phùng Hiệu)

8. Tác giả tôi không sống trên ngọn hải đăng tỏa ánh trong sạch phát hiện cái dơ bẩn ở
quanh mình, để rồi khi sáng ngời lên vì trong sạch anh ta lên tiếng mắng chửi cái dơ bẩn
ấy. Tác giả tôi sống trên đất đã làm nên anh ta, đau nỗi đau của đất đã làm nên anh ta
( Henrich Boll)
9. Tôi nghĩ nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh
của giọt nước mắt hay gần giống như thế. Bởi văn học vẫn còn những rào cản ngôn ngữ.
Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố
của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những
giọt nước mắt.
( Nguyễn Ngọc Tư)
10. Anh là người định vực sự sống ba chiều
Lên trang thơ hai mặt phẳng.
( Chế Lan Viên)
11. Như cốm mùa thu nằm mát giữa tờ sen
Màu xanh của cốm nắng trời chừng dịu lại
Những yêu thương của lòng tôi, tôi gói
Trong lá thơ vừa hái ở đời lên
(Chế Lan Viên)
12. Trước một thế giới tan vỡ hay có nguy cơ tan vỡ, nhà văn nhặt nhạnh những mảnh vỡ
để tái tạo lại chính nó đồng thời kích hoạt những dây đàn cảm xúc của con người.
13. Tôi thu thập hình tượng cũng như con ong hút mật vậy. Một con ong phải bay một
đoạn đường bằng 6 lần xích đạo trong 1 năm 3 tháng và đậu lên 7 triệu bong hoa để làm
nên 1 gam mật
( Povlenko)
14. Máu đã khô rồi, thơ cũng khô
( Hàn Mặc Tử )
15. Dù mất lòng tin vào văn chương bao nhiêu, tôi cho rằng con người vẫn không thoát
khỏi những khao khát và suy tư về thứ văn chương thực sự cần thiết, vừa xứng đáng vừa
khích lệ đời sống con người.
(Phạm Thị Hoài )
16. Trái Đất rộng thêm một phần vì bởi các trang thơ
Vì diện tích tâm hồn các nhà thi sĩ
(Chế Lan Viên)
17. Nhà văn rất cần thiết có mặt ở trên đời để làm công việc cảnh tỉnh nhân loại và báo
hiệu trước những tai họa.
( Nguyễn Minh Châu)
18. Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể.
Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của
chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc
đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng
tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa.
(Xuân Diệu)
19. Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện
thì lại một lần thế giới được tạo lập
( Marcel Proust )
20. Khi nào những người đàn ông còn sa đọa vì bán sức lao động, khi những người đàn
bà còn trụy lạc vì đói khát, khi trẻ thơ còn cằn cỗi vì tăm tối thì cuốn sách này còn có ích"
(Victor Hugo tựa "Những người khốn khổ")
21. Chỉ có cuộc đời rộng rãi, chỉ có trường đời vô thường định mới dạy cho người ta biết
được những câu đẹp đẽ
(Nguyễn Tuân )
22. Mây trôi bằng gió của trời
Là ta ta hát những lời của ta
( Nguyễn Duy )

You might also like