You are on page 1of 5

Cảm nhận NÓI VỚI CON phần 2

Bài làm
“ Cha nhẫn nhục trăm điều mệt mỏi
Mẹ khiêm nhường vạn nỗi sầu đau
Dù cực khổ, chẳng u sầu
Dâng trào tình cảm, thấm sâu dặm trường ”
Quả thực đúng như vậy, đi suốt cuộc đời này ta sẽ chẳng tìm được một ai
khác có thể hi sinh nhiều cho ta bằng cha mẹ. Tình cảm thiêng liêng ấy, vẻ dẹp ấy
đã đi vào thi ca một cách tự nhiên nhất với những thông điệp đầy ý nghĩa. Nếu như
“ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ” của Nguyễn Khoa Điềm dạt dào tình
yêu con của người mẹ Tà Ôi, “ Con cò ” của Chế Lan Viên là sự chở che ấm áp
của mẹ trong suốt cuộc đời con thì “ Nói Với Con ” của Y Phương – nhà thơ dân
tộc Tày lại mang một sắc thái đặc sắc khác. Đó là sắc thái trong trẻo, tươi vui của
người miền núi. Với những hình ảnh gợi cảm kết hợp với cách nói cụ thể, chân
chất, mộc mạc, bài thơ là lời tâm tình tha thiết, đầy ý nghĩa, chất chứa niềm mong
ước của người cha dành cho đứa con yêu của mình; là lời ngợi ca truyền thống
nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi. Tiêu biểu là đoạn thơ
sau:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Bài thơ “Nói với con” được Y Phương sáng tác vào năm 1980, thời kì đất
nước đối diện với bao nhiêu khó khăn thử thách sau chiến tranh, nhưng bài thơ vẫn
mang màu sắc tươi vui của núi rừng. Bài thơ như một bức tranh về vùng miền núi
sơn cước với nhiều màu sắc khác nhau rất phong phú và đa dạng. Mạch cảm xúc
của bài thơ bắt nguồn từ tình cảm gia đình rồi mở rộng và nâng cao thành tình cảm
quê hương đất nước, từ những kỉ niệm gần gũi gắn bó nhất với cuộc đời mỗi con
người nâng lên thành lẽ sống chung và đạo lí “ Uống nước nhớ nguồn ” của dân
tộc. Bài thơ cất lên như một lời ru trìu mến đã được gợi nhắc về cội nguồn sinh
dưỡng của mỗi con người lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ và
trong cuộc sống lao động hằng ngày. Mở đầu đoạn thơ, hình ảnh người cha không
chỉ nói cho con về cội nguồn sinh dưỡng, cha còn nói về những đức tính cao đẹp
của “ người đồng mình ” và ước mơ của cha về con. Đó là lòng yêu lao động, hăng
say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ mạnh mẽ vượt qua mọi khó
khăn, gian khổ:

“Người đồng mình thương lắm con ơi


Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Cách gọi “ người đồng mình ” một lần nữa lại vang lên, cách gọi rất riêng rát
lạ để chỉ về những người miên mình, người vùng mình nhưng không còn là yêu
nữa mà là “ thương ” thể hiện tình cảm sâu sắc xen lẫn tự hào, niềm kiêu hảnh và
người cha giải thích cho con hiểu rằng cha thương buôn làng còn nghèo đói, còn
vất vả đó cha “nói với con” tự hào sức sống của dân tộc mình và có ý chí vươn lên
mạnh mẽ từ trong cuộc sống, giải thích cho con hiểu người đồng mình đáng yêu
như thế nào. Phép đối, liệt kê “cao,xa”, “nỗi buồn, chí lớn” là cách nói giàu hình
tượng. Nỗi buồn được đo bằng chiều cao chủ núi, chí lớn được đi bằng chiều rộng
muôn trùng qua rừng. Y Phương muôn khẳng định rằng người đồng mình dù cho
nỗi buồn của họ càng lớn bao nhiêu thì ý chí của họ cũng sẽ bền bỉ bấy nhiêu. Dù
có sự khác biệt về địa ý “ cao, xa” nhưng con đừng mặc cảm, tự ti về điều đó mà
trái lại hãy xem đó là một món quà vô giá để con có thể rèn luyện ý chí mạnh mẽ,
quyêt tâm xây dựng quê hương, đất nước mình. Phải có tâm hồn khoáng đạt mạnh
mẽ vươn lên từ cuộc sống. Tình cảm và ước muốn của người cha ngày càng mạnh
mẽ hơn :
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn”
Câu thơ cất lên tha thiết sâu lắng mang âm hưởng của núi rừng khiến cho lời
nhắc nhở của người cha thêm sâu sắc.
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”
Người đồng mình – những con người rất mực thủy chung, son sắc với buôn
làng. Với hình ảnh cụ thể, mộc mạc của quê hương “đá gập ghềnh”, “thung nghèo
đói” gợi cuộc sống vất vả đầy gian nan của con người miền núi giữa núi rừng
hoang vu. Cuộc sống ở đây còn nghèo đói , vất vả bao quanh. Nói điều này cha
muốn nhắc con phải có tình có nghĩa với quê hương. Điệp từ “ sống ... không
chê...” khiến câu thơ thêm mạnh mẽ thiết tha hòa vào khát vọng của người cha
càng khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng...đồng thời nhấn mạnh
lời cha nhắc nhở con phải biết phat huy truyền thống dân tộc, chấp nhận vượt qua
thử thách gian lao bằng ý chí của mình
“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Vẫn là những hình ảnh tự nhiên “ sông, suối, thác, ghềnh” kết hợp cùng với
nghệ thuật so sánh mang đậm âm hưởng miền núi, gợi ra một lối sống hồn nhiên,
bền bỉ, mạnh mẽ, phóng khoáng, trong sáng. Chỉ khi ấy con người mới không lo
cực nhọc, không sợ gian nan dẫu nhiều lần ghềnh thác. Điệp từ “sống” nhắc đi
nhắc lại hai lần vang len nhu một lời thề, một lời quyết tâm. Thành ngữ ,“lên thác,
xuống ghềnh” cho thấy dù quê hương có vất vả và nhọc nhằn, nổi buồn chất cao
như núi, nhưng người đồng mình không bao giờ quay lưng lại với nơi mình đã
từng chôn rau cắt rốn. Nhịp thơ tuôn chảy, mạnh mẽ gợi lên sức sống mãnh liệt,
bền bỉ của con người trước cuộc sống đầy gian truân, vất vả. Qua đó cha mong mỏi
và tin tưởng ở con sẽ yêu quý mảnh đất của mình sẽ sống mạnh mẽ gợi lên sức
sống mạnh mẽ, can trường, chấp nhận khó khăn, thử thách ...tình cha thật mạnh
mẽ, mãnh liệt suốt từ đầu bài thơ như muốn nhắn nhủ con hãy sống có ích và đừng
quên cội nguồn của mình:
“ Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
Hình ảnh ẩn dụ “ thô sơ da thịt” đối lập với” chẳng nhỏ bé”. Cách so sánh
đói lập càng làm toát ra mạnh mẽ vẻ đẹp không phải ở bên ngoài mà tiềm ẩn bên
trong của mỗi con người miền núi “ không nhỏ bé “ thể hiện qua qua tâm hồn và
sức sống. Họ không thấp hèn, đánh mất danh dự và nhân cách của mình. Và người
cha muốn nhắn nhủ con bằng tất cả niềm tự hào:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Hình ảnh tả thực “ đục đa” đã nói lên đây những công việc lao động cực
nhọc thường thấy ở miền núi, đòi hỏi con người phải nhẫn nại, bền bỉ mà “tựdducj
đá kê cao quê hương” còn mang ý nghĩa ẩn dụ nói đến công cuộc khai phá, dựng
xây để nâng tầm vóc của đất nước. Lời thơ toát lên lời ca ngợi về ý chí, khát vọng
xây dựng quê hương của con người dân tộc. Họ tự gắn kết đời mình với quê
hương, tự ước nguyện dâng hết sức mình để thực hiện ước nguyện, khát vọng tôn
cao vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc, tạo nên chuyền thống, phong tục tốt đẹp của
quê hương miền núi. Cũng chính họ đẫ tự đục chân dung mình vào đá núi vĩnh
hằng. Càng lúc hình ảnh, lời nói của cha hiện ra càng lớn lao càng nhanh chóng
thôi thúc con lên đường đời:
“ Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
Lời thơ vùa có giọng điệu tha thiết, trìu mến vừ như lời khích lẹ, động viên
kết hợp tiếng gọi “ con ơi “ ngân vang âm điệu tình cha dạt dào, xúc động. Nhà thơ
sử dụng những câu thơ ngắn gọn như những câu lệnh nhưng chan chứa tình yêu
thương. Mạch cảm xúc chuyển biến thật tự nhiên. Từ cảm xúc chung rộng lớn đối
với quê hương, dân tộc, tác giả đã quay trở lại tình cảm gian đình riêng tư. Trước
khi con “lên đường” bay vào phương trời lạ, cha muốn nhắc con rất nhiều điều
nhưng nhưng lời dạy mà cha luôn muốn con khắc ghi là “ không bao giờ nhỏ bé
được” trong mọi tình huống, mọi hoàng cảnh cũng đừng tự ti , mặc cảm, quay lưng
lại với quê hương dân tộc, phải sống hiền hậu, phóng khoáng như sông, như suối,
sống mạnh mẽ, ngẩng cao đầu cùng niềm tin khát vọng không hề buông xuôi.
“ Nói với con ” của Y Phương là cả một không gian núi rừng. Những câu thơ
ngăn dài khác nhau như con đường sỏi đá, lúc là đỉnh núi cao, lúc là suối sâu. Cùng
viết về tình cảm thương con, nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua tác phẩm Chiếc
lược ngà đã khắc họa tình cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh. Nếu trong
truyện “ Chiếc lược ngà ” của Nguyễn Quang Sáng, tình yêu thương của ngươi cha
được thể hiện sâu sắc, cảm động trong cảnh ngộ éo le của cuộc chiến tranh. Chiến
tranh khiến cha con ông Sáu phải li tan, đau khổ. Cha yêu con mà không được gần
con, lúc gặp con thì con lại không nhận cha. Khi con nhận ra cha thì đó là lúc biệt
li thật sót xa. Nhưng với “ Nói với con “ của Y Phương, tình yêu thương của con
với cha được viết bằng lời thơ nhỏ nhẹ, thủ thỉ như một lời tâm tình. Tình yêu con
không chỉ được thể hiện qua sự nâng niu, chăm chút của người cha mà còn là lòng
mong muốn con sống tốt, sống đẹp, sống mạnh mẽ, tự tin trước đường đời. Vì thế
cha đã chuyền cho con niềm tin về sức sống của quê hương.
Tuy vậy, cả hai tác pẩm đều thể hiện tình cha yêu thương sâu sắc, cảm động, nâng
niu, vỗ về con và cả niềm vui được sống bên con.

“ Nói với con ”- nhịp điệu có vẻ khô khan nhưng mỗi lời thơ lại chứa chan
tình cảm, cảm xúc. Với giọng điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, thiết tha, trìu mến; lúc
mạn mẽ kiên quyết tạo ra sự hài hòa với những cung bậc cảm xúc khác nhau trong
lời cha dặn con bình dị, ấm áp và vô cùng thấm thía. Với thể thơ không theo khuôn
định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Ngôn ngữ giản di,
trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn sinh động, quyến rũ. Tác phẩm đã
thể hiện được tình cha yêu con, muốn con nên người nên chỉ dạy con biết yêu quê
hương và tự hào về truyền thống ttots đẹp của ngườ đồng mình. Lời cha dạy con
hay cũng chính là lời gủi trao đến bao nhiêu thế hệ! Cảm ơn Y Phương đã sáng tác
ra một bài thơ giàu xúc cảm và ý nghĩa như vậy!
“ Con ơi muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha ”

You might also like