Professional Documents
Culture Documents
ĐẤT NƯỚC
ĐẤT NƯỚC
ĐẤT NƯỚC
Hãy ngã vào tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Một thời đạn bom, một thời máu lửa, một thời mất mát hy sinh, nơi ấy Trường ca “Mặt
đường khát vọng” đã được vang lên một cách hào sảng và đầy tự hào. “Đất Nước của nhân
dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” … Nguyễn Khoa Điềm như đang kéo người đọc xích
lại gần hơn với tâm tư tình cảm của mình dành cho non sông, Tổ quốc.
Từ khóa - Nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
- Thể loại sở trường: Trường ca
- Đề tài: Đất nước và con người Việt Nam
- Phong cách thơ: tài hoa, uyên bác, truyền thống, trang trọng, trữ tình,
chất chính luận, triết luận
Nguyễn Khoa Điềm được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng
thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thấm nhuần tư tưởng từ gia đình trí thức
có truyền thống yêu nước và còn sớm tham gia cách mạng nên đề tài mà ông thường đưa vào
của Nguyễn Khoa Điềm có sức hấp dẫn bởi sự tài hoa, uyên bác, vừa đĩnh đạc truyền thống
mà vẫn hiện đại, trang trọng, trữ tình, luôn có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn
và suy tư sâu lắng giữa chất chính luận, triết luận và những cảm xúc nồng nàn mãnh liệt
của con tim. Gần 10 năm kháng chiến chống Mỹ đã có rất nhiều nhà thơ ghi được dấu ấn trong
nền văn học Việt Nam và để rồi mai sau có người từng nhận định: “Bên cạnh một Phạm Tiến
Duật sôi nổi, trẻ trung phong trần với những lối thơ lấm bụi Trường Sơn đầy chất phong sương.
Một Nguyễn Duy mộc mạc chân chất mà đằm thắm ngọt ngào với những âm điệu lục bát ca dao
vọng về… Là một Nguyễn Khoa Điềm tài hoa uyên bác, truyền thống hiện đại không ồn ào tinh
nghịch, lãng đãng bất chợt. Thơ Nguyễn Khoa Điềm chín trong cả cảm xúc và suy tư. Vốn văn
hóa của người trí thức, sự trải nghiệm của người lính và mẫn cảm của một nhà thơ đã làm nên
một Nguyễn Khoa Điềm đĩnh đạc nghiêm cẩn trang trọng mà rất đỗi tinh tế trữ tình”.
- Được sáng tác năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt.
Phong trào đấu tranh sôi nổi, tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh
viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác trường ca
“Mặt đường khát vọng” như đã góp thêm một tiếng thơ hay về Đất Nước để lay động và thức
tỉnh ý thức, trách nhiệm của mỗi người.
Để hiểu hơn về trích đoạn “Đất Nước” các em có thể tham khảo tài liệu dưới đây nhé!
Đầu năm 1971, phong trào học sinh, sinh viên trong các đô thị miền nam đang rất sôi nổi. Tinh
thần yêu nước cháy bùng ở khắp nơi. Tôi công tác trong Thành ủy Huế, ở trên rừng, phụ trách
phong trào học sinh, sinh viên Huế. Đột nhiên có giấy mời của Cơ quan Văn nghệ Khu Trị - Thiên
đi dự trại sáng tác. Tôi, anh Nguyễn Quang Hà, anh Nguyễn Đắc Xuân... đi mất ba ngày lên phía
tây Huế, vượt A Lưới sang đất Lào dự trại. Tôi không chuẩn bị gì trước, nhưng trại mở những một
tháng, không lẽ lại không viết gì. Tôi quyết định phải viết một cái gì dài hơi. Lúc đó, nhiều nhà thơ
đã viết trường ca, ở miền nam trường ca Bài ca chim Chơ Rao của anh Thu Bồn đang rất nổi tiếng
và được thanh niên đô thị thuộc rất nhiều. Tôi lựa chọn viết trường ca, cấu tứ theo từng mảng, như
thế vừa dễ triển khai cảm xúc, vừa dễ sử dụng chất liệu. Thời ấy, là sinh viên từ miền bắc vào, tôi
rất thích nhạc giao hưởng, đặc biệt là kết cấu giao hưởng, nó nhiều giọng điệu, có đoạn đằm thắm
nhẹ nhàng, có đoạn suy tư, có đoạn cao trào gay gắt, sôi nổi. Tôi nghĩ tôi sẽ viết một bản giao
hưởng bằng ngôn ngữ. Thế là tôi bắt tay vào viết. Trong các chương, chương cuối cùng có tựa đề
Mùa thu tựu trường là tôi thích nhất. Đó là chương được viết theo thể thơ năm chữ cái, giai điệu
êm dịu, hình ảnh đẹp, nói về những người trẻ tuổi sau khi đấu tranh giành thắng lợi trở lại mái
trường. Nhưng khi bản thảo tập hợp lại, nhiều anh em góp ý rằng phần này mềm yếu quá nên tôi
thay bằng chương khác. Về sau chương này bị thất lạc do bom đạn, nên tôi rất tiếc.
Mặt đường khát vọng được kết cấu theo từng mảng, mảng này khơi gợi, dẫn dắt cho mảng kia, tạo
thành một chỉnh thể tác phẩm trong một trường cảm xúc nhưng từng mảng lại đi sâu vào một vấn
đề, một ý tưởng do đó nó cũng có tính trọn vẹn riêng.
Chương V - chương Đất nước là một chương lớn. Tôi viết chương này trong những ngày mưa triền
miên sau Tết. Đó là thời kỳ máy bay Mỹ đánh phá dữ dội. B52 dội bom liên tục, làm cho mọi thứ tối
tăm mù mịt. Chúng tôi ngồi trong hầm và viết, cảm xúc được cộng hưởng bởi tiếng bom nổ, bởi
khói bom và mưa rừng. Có khi viết xong, một trận bom làm cho bản thảo bay lung tung, lượm lại
trang còn trang mất, lại ngồi viết tiếp. Tôi viết rất nhanh, như cảm xúc đã dồn tụ một cách mãnh
liệt, giờ chỉ việc tuôn chảy ra thôi. Tôi viết về những điều giản dị của chính tôi, về tuổi trẻ và các
bạn bè đang tranh đấu ở trong thành phố, nên nhân vật của tôi là anh và em. Đó là lời đằm thắm
của một người con trai với một người con gái. Chúng tôi, mỗi người có một số phận khác nhau,
nhưng đều gắn kết trong một số phận chung là số phận Đất nước. Đất nước với các nhà thơ khác
là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô
danh, của nhân dân. Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được
bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác.Cho nên "Khi ta lớn lên Đất
Nước đã có rồi!". Đất nước vừa là một ý niệm thiêng liêng vừa là một hiện hữu, cụ thể, rõ ràng,
thân thuộc. Tôi cố gắng thể hiện một hình ảnh Đất nước giản dị gần gũi nhất. Đó là cách để đi vào
lòng người, mà không lặp lại người khác, vì trước tôi cũng như bấy giờ, có rất nhiều người đã viết
rất hay về Đất nước. Tôi nghĩ mỗi cá nhân sinh ra, ý niệm về Đất nước đã được thấm đẫm qua môi
trường gia đình, qua thế giới tinh thần và cả vật chất mà người đó sống. Đứa trẻ cảm nhận Đất
nước qua lời ru của mẹ, câu chuyện kể của bà:
“Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay
kể Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đất nước gắn bó trong những vật thân thuộc "cái kèo cái cột thành tên", trong hạt gạo ăn hằng
ngày "một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng...". Ông bà, cha mẹ, những thế hệ đi trước sẽ truyền
ý niệm về Đất nước cho con trẻ, rồi đứa trẻ lớn lên, trong những tình cảm ban đầu về gia đình,
chòm xóm, về cánh đồng, lũy tre... thì tình yêu Đất nước cũng đã bắt đầu ở đó rồi. Nghĩa là ý niệm
về Đất Nước sẽ cùng hình thành với sự hình thành của tâm hồn con người. Với năm tháng,
khi tâm hồn ta lớn lên, ý niệm Đất nước sẽ có thêm những nét nghĩa mới. Thực ra "Đất nước" là
một từ được ghép từ hai yếu tố chỉ vật chất là đất và nước, là hai yếu tố khởi nguyên của thế giới,
để tạo thành một khái niệm chỉ Giang sơn Tổ quốc. Đất nước gắn bó máu thịt với mỗi người, rất cụ
thể:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"...”
Ở đâu trên Đất nước cũng gắn với những chuyện kể, những truyền thuyết, những câu ca đã đi vào
thế giới tinh thần của con người. Đất nước, cái hiện hữu đã trở thành giá trị tinh thần mà trong đời
sống tâm hồn của mỗi con người nó lấp lánh rất nhiều ý nghĩa. Truyền thuyết Tiên - Rồng, Âu Cơ -
Lạc Long Quân là truyền thuyết về cội nguồn của người Việt. Trong truyền thuyết này cũng như
trong lịch sử phát triển về sau, mở mang và đoàn tụ đã làm nên nét đặc trưng của dân tộc Việt, từ
thế hệ này sang thế hệ khác:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông”
Mỗi người dân Việt, bằng máu xương, mồ hôi công sức của mình, đã chiến đấu và lao động để mở
mang và hoàn thiện Đất Nước, để truyền cho con cháu một Đất Nước trọn vẹn. Đất nước không
phải chỉ ở những gì được thừa hưởng có thể nhìn thấy được, Đất nước còn ở trong chiều sâu tâm
linh được truyền nối, xuyên suốt qua nhiều thế hệ:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại…”
Phần tâm linh đó đã kết nối tất cả nhân dân về trong một cội nguồn, trong sự thiêng liêng thành
kính về một ngày giỗ Tổ.
“Em ơi Đất Nước là máu xương mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Đoạn thơ này lấy cảm hứng từ những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những ao đầm ở đồng
bằng Bắc Bộ, đến cửa biển Cửu Long ở Nam Bộ... Những yếu tố vật chất, địa lý thấm đẫm một cái
nhìn huyền thoại, đầy màu sắc lãng mạn. Nói cách khác là khoác cho nó một lớp huyền tích, là
điều thường gặp trong đời sống văn hóa dân gian. Chính điều này đã làm cho các giá trị vật chất
trở nên đẹp đẽ, sinh động, có sức hấp dẫn, quyến rũ đặc biệt. Trong chương Đất nước cũng như
toàn bộ trường ca Mặt đường khát vọng, ngôn ngữ ca dao tục ngữ, ngôn ngữ của đời sống dân
gian được sử dụng rất nhiều. Tác phẩm được cảm nhận trong trường cảm xúc, trong những suy tư,
ngẫm nghĩ. Ở đoạn thơ này, đã nhấn mạnh Đất nước chính là thành quả của lao động, của chiến
đấu, của mồ hôi nước mắt và khát vọng của nhiều thế hệ nhân dân trong nhiều ngàn năm. Mỗi con
người sinh ra và lớn lên trong một đất nước, luôn luôn trong tinh thần họ đã chứa đựng những giá
trị của Đất Nước, của dân tộc, mà họ đại diện. Là người Việt Nam, chúng ta tự hào về lịch sử bốn
nghìn năm của Đất Nước mình. Đó là một lịch sử với những chiến công lẫy lừng khai thiên phá địa
và chống giặc ngoại xâm. Nhưng làm nên những chiến công đó lại là "người người lớp lớp" nhân
dân, những người con trai, con gái bình thường:
“Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Từ nhiều triệu năm về trước, trong buổi sơ khai của con người, lửa là một cứu tinh, là nhân tố đưa
loài người vượt hẳn đến một giá trị khác tách xa loài vật. Khi phát hiện ra cây lúa nước, với người
Á Đông, lửa và lúa là những thứ tối cần thiết cho sự sống. Bởi vậy gìn giữ ngọn lửa và giống lúa,
chính là gìn giữ sự sống còn của cộng đồng. Ngỡ đơn giản, nhưng trong lịch sử nó phản ánh cuộc
chiến đấu sinh tồn giữa con người và thiên nhiên. Nhưng khi "truyền giọng điệu mình cho con tập
nói", "Gánh tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân" thì đó chính là khát vọng về duy trì bản
sắc dân tộc. Cha ông ta với một tinh thần dân tộc cao cả, đã làm được điều đó và truyền lại cho
chúng ta truyền thống văn hóa như hôm nay.
“Để Đất nước này là Đất nước của Nhân dân
Đất nước của Nhân dân,
Đất nước của ca dao thần thoại
Nhân dân làm ra Đất nước. Đất nước thuộc về Nhân dân.”
Từ đời này qua đời khác, không chỉ lao động chiến đấu, nhân dân còn gìn giữ linh hồn dân tộc như
ngọn lửa thắp lên từ hồi khai quốc vẫn cháy sáng trong mỗi bếp nhà. Linh hồn dân tộc ở trong nếp
sống, trong phong tục tập quán, trong những giá trị tinh thần phong phú của văn hóa dân gian. Và
như đã nói ở trên, mỗi người Việt sinh ra trong lời ru của mẹ, câu chuyện của bà... dần dần thấm
lấy tinh thần dân tộc. Cứ như thế đời này qua đời khác, nước Việt được trường tồn.
Nguyễn Khoa Điềm chia sẻ về trích đoạn “Đất Nước”
1. “… Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất
yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào
….
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
4 Câu 86 - 89: Còn lại Khúc vĩ thanh của bản trường ca Đất Nước
1. Đất Nước có từ bao giờ ? - Câu thơ mở đầu viết theo thể câu khẳng định.
(9 câu đầu)
+ Cách nói “Đất Nước đã có rồi” thể hiện niềm tự hào mãnh liệt
về sự trường tồn của Đất Nước.
+ “Ta”: Là chủ thể trữ tình, người kể chuyện, người đại diện
nhân xưng cho cả thế hệ trẻ. Nói lên được ý thức tìm hiểu cội
nguồn của Đất Nước.
- Đưa người đọc lạc vào miền cổ tích bằng cụm từ quen thuộc
“Ngày xửa ngày xưa” – thời gian nghệ thuật mang tính chất
phiếm chỉ, huyền hồ, huyền thoại.
+ Định vị trong tâm thức người đọc một ý niệm Đất Nước đã có
từ rất lâu đời . Đó là Đất Nước của nền văn học dân gian đặc
sắc với những câu chuyện cổ tích thần thoại, truyền thuyết.
- Đất Nước buổi ban đầu được thể hiện qua một nét sống giản
dị của người mẹ, người bà Việt Nam đó là phong tục ăn trầu.
+ “Miếng trầu”: Là kết tinh của mọi thăng trầm lịch sử.
( Gợi nhớ về câu chuyện cổ tích “Sự tích Trầu cau” – câu
chuyện cổ xưa nhất.
( Là biểu tượng cho tình yêu, vật chứng cho lứa đôi.
+ Câu thơ gợi nhắc đến truyền thuyết “Thánh Gióng: Ba tuổi đã
biết xông pha trận vàng, vươn vai trở thành chàng trai Phù
Đổng Thiên Vương nhổ tre làm ngà đánh giặc
=> Biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường,
bất khuất.
+ Liên hệ: Bài thơ “Quang vinh Tổ quốc chúng ta” – Tố Hữu
- Song hành với vẻ đẹp ấy là hình ảnh cây tre Việt Nam – biểu
trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân ta: Thật thà, chất
phác, đôn hậu, thủy chung, yêu hòa bình.
“Tre xanh
- Vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam với phong tục “bới
tóc”. Tạo cho người phụ nữ vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng.
+ Liên hệ:
+ “Gừng cay muối mặn”: Nhắc nhớ về tấm lòng thủy chung,
tình nghĩa, sự gắn bó keo sơn.
+ Liên hệ:
- Cách đặt tên giản dị “Cái kèo, cái cột”: Bắt nguồn từ việc đặt
tên cho những vật dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt,
lấy tên của chính những vật đó để đặt tn cho con cái.
+ Cũng bởi người xưa quan niệm đã tên con càng xấu thì càng
dễ nuôi.
- Nghề đặc trưng nhất của ngành nông nghiệp - nghề trồng lúa
nước.
+ Sử dụng thành ngữ “một nắng hai sương”: gợi lên sự cần cù,
chăm chỉ, chịu thương chịu khó của cha ông ta trong đời sống
nông nghiệp.
+ Liên hệ:
- Câu thơ cuối khép lại bằng 1 câu khẳng định với niềm tự hào.
Sử dụng từ chỉ thời gian “ngày đó”: Nói về thời gian ra đời của
Đất Nước, dù không cụ thể nhưng đó là ngày ta có truyền
thống, phong tục, văn hóa .
Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu trích đoạn thơ của mình bằng lời hồi đáp cho câu hỏi: “Đất
nước có tự bao giờ?”:
Hai chữ “Đất Nước” vang lên trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến. Độc giả sẽ phát hiện một
điều khác lạ đó là xuyên suốt trong cả đoạn thơ này từ “Đất Nước” đều được viết hoa. Chia sẻ về
lý do tại sao lại trình bày như vậy, Nguyễn Khoa Điềm lý giải với ông đất nước không đơn thuần
là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là sinh thể có tâm hồn và với cách viết này cũng đồng
hay:
Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ.
Và đất nước cứ như thế trở thành một danh từ thiêng liêng trong trái tim của bất cứ ai, chỉ cần
trái tim còn đập trong lồng ngực nhỏ. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về vấn đề chính luận,
thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô “ta” thể hiện nét tâm tình trò chuyện thân mật giữa
người con trai với người con gái, giữa “anh” và “em” về đất nước. Người con trai ở đây – “ta”
như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh
yêu. Tuy nhiên nếu mở rộng ý thơ, “ta” ở đây cũng có thể coi là tất cả mọi người, là một cách nói
bao hàm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trừu tượng, lớn lao như đất
Những câu thơ tiếp theo tác giả triển khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra ở câu thơ
đầu: “Đất nước đã có từ rất lâu đời”. Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ của mỗi người lớn lên
trong những lời ru, những câu chuyện cổ tích của bà, của mẹ:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của đất nước. Bốn chữ “ngày xửa
ngày xưa” đưa chúng ta về một miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình ảnh của cô Tấm dịu
hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông bụt với những phép màu diệu kỳ giúp đỡ cho những
người ở hiền gặp nạn,.. Là người Việt, ai mà không biết tới những câu chuyện gắn liền với tuổi
thơ êm đềm đó. Và đất nước có trong những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước
khi những câu chuyện này có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi những câu chuyện
cổ có mặt trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước trong
đó. Là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện, cổ tích, truyền
thuyết. Chính những câu chuyện và lời ru thân quen thủa nào là nguồn sữa ngọt lành nuôi dưỡng
tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã từng rất xúc động khi viết
về ý nghĩa của kho tàng truyện cổ:
Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa” Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi ban
đầu ấy qua một nét sống giản dị trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta đó là phong
tục ăn trầu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức câu thơ có vẻ
phi lý nhưng lại cực kỳ hợp lý xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao đều được bắt đầu từ
những điều nhỏ bé”. Câu thơ gợi nhắc về truyện cổ tích: “Sự tích trầu cau” được xem là câu
chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính
câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé được nhắc tới chứa đựng trong đó là cả
4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu
chuyện”. Trải qua thời gian đằng đẵng, miếng trầu trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống
tinh thần của người Việt: miếng trầu giao duyên, miếng trầu cưới hỏi,… Và từ đó, hình ảnh này
trở nên quen thuộc trong thơ ca:
“Những cô hàng xén răng đen
(Hoàng Cầm)
Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước, Nguyễn Khoa
Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh giặc
giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hai chữ “lớn lên” để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ gợi nhắc bạn đọc tới 2 hình ảnh:
cây tre và truyền thuyết “Thánh Gióng”. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời
sống của người dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những
đặc điểm tượng trưng cho phẩm cách của con
“Tre xanh
(Nguyễn Duy)
Người Việt Nam giống như những cây tre thẳng tắp, mạnh mẽ, kiên cường. Cây tre ấy cũng gắn
liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường diệt giặc
Ân khỏi bờ cõi Việt:
(Tố Hữu)
Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất
khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái con trai sẵn sàng lên đường ra mặt
trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy
và cả những năm tháng sau này, truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết
chảy trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta.
Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc cho gọn gàng.
Lâu dần điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Tóc
cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy
khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
(Ca dao)
Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống, tình cảm gắn
bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy của vợ chồng:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Muối và gừng vốn là những gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt Nam. Nguyễn Khoa
Điềm mượn câu ca dao, mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng để nói về tình yêu dài lâu,
nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo sơn của vợ và chồng để làm nên một gia đình
chan chứa hạnh phúc, yêu thương. Đó cũng là một truyền thống rất quý báu của nhân dân ta.
Không chỉ vậy, Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc sống đời
thường. Cội nguồn của đất nước cũng được tác giả cảm nhận từ cách đặt tên giản dị: “Cái kèo,
cái cột thành tên”. Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt nguồn từ việc đặt tên cho những vật
dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, lấy tên của chính những vật dụng ấy để gọi
tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt đã quan niệm đặt tên cho con càng xấu thì càng dễ nuôi.
Hơn thế, là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt Nam cần cù,
chịu khó, gắn với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được như ngày hôm nay,
nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng hai
sương” kết hợp với một loạt động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà
nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời
ca dao, cũng là lời khuyên răn:
Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ lao động của
ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào trong hạt
gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm hôm.
Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế .
Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước
“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Ngày đó không biết chính xác là
ngày nào chỉ biết rất rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ rất lâu đời. Từ khi có
những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những thuần phong mỹ tục,
truyền thống đánh giặc giữ nước và cả nền văn minh lúa nước được lưu giữ ngàn đời. Những nét
văn hóa đẹp đẽ nhất được Nguyễn Khoa Điềm đưa vào thơ mình một cách tự nhiên, chân thật để
cho mỗi người đọc hiểu rằng văn hóa chính là đất nước và chúng ta cần phải có trách nhiệm hiểu
biết, gìn giữ những giá trị cốt lõi này. Chín dòng thơ không những thuyết phục bởi tư tưởng
chính luận mà còn đi vào lòng người bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Trong đoạn thơ, cấu trúc
câu “Đất Nước đã có”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ” cho phép
hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kì. Kết
hợp với đó là điệp từ “có” đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành
một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình
sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã thật khéo léo khi sử
Bình diện địa lý - Đất Nước trước hết là không gian rất thân thuộc, gần gũi với cuộc
sống con người:
- Đặc biệt Đất Nước tồn tại trong những không gian riêng tư, thầm kín
nhất của tình yêu đôi lứa:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
- Đất Nước là không gian mênh mông của núi rừng biển cả “Đất là
nơi con chim phượng hoàng...con cá ngư ông…” nhưng không mang
dáng vẻ hùng tráng, kì vĩ mà chứa đựng bao sự thân thương, tình
nghĩa.
- Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của cộng
đồng người Việt qua bao thế hệ “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
=> Trong cách nhìn về không gian Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm
nghiêng nhiều hơn về không gian riêng tư, không gian đời thường.
Nhà thơ nhìn Đất Nước từ cự ly gần và đã phát hiện ra một Đất Nước
hết sức thân quan, một Đất Nước dễ thương với tất cả mọi người.
Bình diện lịch sử - Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử, từ quá
khứ đến hiện tại và tương lai.
- Một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ, gắn liền với
huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các Vua Hùng
giữ nước, giản dị và gần gũi trong hiện tại và triển vọng, tươi sáng
trong tương lai.
=> Với một cảm nhận như vậy về Đất Nước , tác giả đã nhìn thấy một
phần Đất Nước trong mỗi chúng ta hiện tại. Đất Nước không tồn tại ở
đâu đó xa xôi mà kết tinh, hóa thân ngay trong cuộc sống mỗi người.
Đất Nước trong anh, trong em, trong mỗi chúng ta.
- Đất Nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi cảm, là lời
kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tôc, là lời nhắc nhở về ý thức trách
̣
nhiêm ̣của mỗi người đối với Đất Nước:
“Trong anh và em hôm nay
…
Đất Nước vẹn tròn to lớn”
- “Em ơi em”: giọng thủ thỉ tâm tình nhỏ nhẹ mà thấm thía, lời tâm
sự và cũng là lời tự nhủ, tự căn dặn mình
- “Đất Nước là máu xương của mình”: quan niệm về Đất Nước gắn
bó với cuộc sống nhân dân, kết tinh trong máu thịt của mỗi người.
- Điệp ngữ “phải biết”: nhấn mạnh lời nhắn nhủ và cũng là tự nhủ
- Lời nhắn nhủ cũng như tự nhủ của nhà thơ, hay lớn hơn là tất cả thế
hệ trẻ: ý thức về bổn phận với Đất Nước, mỗi trái tim phải luôn căng
tràn tình yêu thương, mỗi con người phải biết đoàn kết, gắn bó, hy
sinh, dâng hiến để giữ gìn, bảo vệ tổ quốc.
=> Sự chân thành từ trái tim tác giả và ý thức sâu sắc về bổn phận đối
với Đất Nước
Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trữ tình chính luận. Với lối thơ vừa lãng mạn, vừa suy
tư ấy, tác giả khi cảm nhận về bản chất của đất nước cũng đem đến cho ta nhiều cảm xúc mới.
“Đất Nước” được chiết tự thành “Đất” và “Nước”. Đất Nước là đất, là nước, là muôn hình vạn
Địa lý và lịch sử là hai phương diện tất yếu mỗi khi chiêm nghiệm về đất nước. Bởi “Đất nước
bốn nghìn năm / Vất vả và gian lao”, cũng là bởi “Việt Nam đất nước ta ơi / Mênh mông
biển lúa đâu trời đẹp hơn”. Viết sao cho thỏa, nói sao cho vừa, cho đủ về vẻ đẹp địa lý và giá
trị lịch sử lâu bền của tổ quốc Việt Nam ta. Nhưng qua những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm,
người đọc lại có một hình dung mới mẻ, thú vị nhưng vẫn đủ đầy về quê hương. Về không gian
địa lý, “Đất là nơi anh đến trường”, “Nước là nơi em tắm”. Đặc biệt đất nước tồn tại ngay cả
trong những không gian riêng tư, thầm kín nhất của tình yêu đôi lứa: “Đất Nước là nơi ta hò
hẹn.” Từ đây, không gian làng quê thanh bình mộc mạc được gợi ra với cây đa, giếng nước, mái
đình, lũy tre xanh rì rào trong gió, hàng cau thưa in dấu hương quê nhà… Đất nước là cung bậc
của tình yêu. Đất nước mang màu của nỗi nhớ. Đất nước đã bao giờ gần gũi và riêng tư như thế?
Lời thơ lại nhắc nhớ về những điệu ca dao ngọt ngào:
Đất nước còn là không gian của núi rừng, biển cả, không mang dáng vẻ hùng tráng mà chứa
đựng bao nỗi niềm thân thương, tình nghĩa. Đất nước cũng là không gian sinh tồn hết sức đời
thường của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.”
Học Văn Chị Hiên
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một cự li thật gần để soi tỏ về đất nước, khiến cho những giá trị
trừu tượng, mơ hồ cũng trở nên dễ hiểu và gần gũi vô cùng. Định nghĩa về bản chất của đất
nước, ta thấy trong ý thơ của tác giả ban đầu gắn đất nước với cội nguồn con Rồng cháu Lạc, để
rồi truyền trao qua bao thế hệ, đời sau nhớ về đời trước, và khi ngưỡng vọng về xa xưa thì đất
nước đã hiện hữu tự thuở nào:
“Những ai đã khuất
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm. Mọi người tưởng
nhớ tới các vị vua đã có công dựng nước. Ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở đó mà
cao hơn, sâu hơn, nó nhắc nhở chúng ta phải trân trọng, biết ơn những người đi trước đã
đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu xương để đem lại thành quả tốt đẹp mà chúng ta đang
được hưởng thụ hôm nay. Lòng biết ơn là cơ sở của đạo làm người. Chính sự kế thừa và
phát huy truyền thống dân tộc của các thế hệ hôm nay đã tạo nên sức sống muôn đời của
non sông Việt Nam. Đúng như câu ca dao xưa có nói:
Tiếp tục với dòng chảy của cảm xúc, Nguyễn Khoa Điềm có viết trong những áng thơ của mình:
Tác giả đã có những cảm nhận rất sâu sắc về đất nước. Đất nước không ở đâu xa mà hiện diện
trong mỗi chúng ta. Điệp ngữ “cầm tay” được nhắc lại hai lần, thể hiện một tình cảm đẹp: khi hai
đứa “cầm tay” là khi hai đứa hiểu nhau, yêu thương nhau và Đất Nước cũng như đẹp thêm, hài
hòa thêm “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Nói cách khác, tình yêu của anh và em đã hòa vào tình
yêu Tổ quốc.
Trong anh, trong em, trong mọi người đều có một phần đất nước. Để rồi khi chúng ta cầm tay
mọi người thì “Đất Nước vẹn tròn to lớn”, một đất nước lớn lao, cao cả, thiêng liêng và cũng
chính đất nước đã gắn kết cả một cuộc đời dân tộc “nơi dân mình đoàn tụ”. Cách cảm nhận của
Nguyễn Khoa Điềm khiến đất nước gắn kết, tạo mối quan hệ thân thiết giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái riêng với cái chung và lớn hơn nữa là cả các thế hệ với
nhau.Như vậy đất nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi cảm mà ẩn sâu trong đó là
lời kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, đó cũng là lời nhắc nhở về ý thức trách nhiệm
của mỗi người đối với đất nước:
(Xuân Diệu)
Hay ở thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm
của nhà thơ, là cuộc hóa thân:
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
Bình diện không - Những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng núi mà
gian địa lý là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông núi quê hương
để làm nên một Đất Nước thủy chung, tình nghĩa.
- Đó là những hòn trống mái có được từ sự hóa thân của những cặp vợ
chồng yêu nhau để làm nên một Đất Nước nồng thắm, nhân tình.
- “gót ngựa Thánh Gióng”, “Chín mươi chín con voi”: hình ảnh thấm
đẫm tinh thần yêu nước và tính cội nguồn.
+ Những từ “đi qua”, “để lại”, “góp mình” được sử dụng tinh tế =>
Cách nhìn bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của sông núi, về khí
phách, sức mạnh con người Việt Nam.
- Núi sông mang hồn người và hóa linh thiêng.
+ Dòng Cửu Long Giang, núi bút non nghiên: dân tộc có truyền thống
hiếu học, truyền thống văn hiến lâu đời. Trong thiên nhiên là biểu
tượng của vẻ đẹp trí tuệ, đạo đức và cả đời sống tâm linh con người
Việt Nam.
+ Con cóc con gà: những con vật bình thường trong đời sống sinh
hoạt ấy cũng góp cho Đất Nước trở nên thơ mộng, trữ tình. Đâu chỉ có
ngọn núi mang tên Bà Đen, Bà Điểm, ông Đốc, ông Trang? Trên khắp
Đất Nước, những con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại
cho đời những cái tên bất tử.
+ Động từ “góp” được điệp lại nhiều lần: khám phá mới mẻ nhưng
mang tính nhân văn sâu sắc. Nhân dân chính là người nghệ sĩ đã tạo ra
mọi giá trị tinh thần để làm đẹp thêm một thiên nhiên vốn có.
=> Tấm bản đồ Đất Nước được phác họa từ Bắc chí Nam trở thành
tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi ký thác tâm hồn, ước mơ, khát
vọng của nhân dân. Đất Nước vừa thiêng liêng, cao cả, vừa gần gũi,
Trên không gian địa lý Đất Nước mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn
hóa được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con
người Việt Nam.
Bình diện lịch sử - Ba câu thơ đầu : Lời tâm tình của nhà thơ
+ Nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, bốn
nghìn năm dựng nước và giữ nước, hầu như không bao giờ nguội tắt
ngọn lửa đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
- Sáu câu thơ tiếp: Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã
nhận thức được một sự thật đó là : người làm nên lịch sử không chỉ là
những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị
- Chín câu thơ tiếp: Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà
thơ không nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua chúa hay những vị
anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà biểu
dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường
trong việc xây dựng, vun đắp và bảo vệ Đất Nước.
+ Ở đó, vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam được khám phá và ngời
sáng. Họ là vô vàn những con người bình dị, vô danh. Họ chính là
nhân dân - những con người bình thường mà phi thường, giản dị, mộc
mạc mà cao cả, kỳ vĩ. Chính nhân dân đã tạo dựng, gìn giữ Đất Nước
trải qua bao thời đại.
+ Những con người bình thường, giản dị trong cuộc sống hàng ngày:
“cần cù làm lụng”
+ Những con người phi thường mang trong mình dòng máu anh hùng:
“khi có giặc người con trai ra trận...ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng
đánh.”
+ Điểm mới của Nguyễn Khoa Điềm trong cái nhìn về Đất Nước qua
thời gian lịch sử là đã thấy được vai trò không thể thay thế của những
con người bình dị, vô danh mặc dù “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng
chính họ mới là người “làm nên Đất Nước muôn đời”.
- Nghệ thuật: Thể thơ tự do, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, vận dụng
nhiều chất liệu dân gian để diễn tả tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
- Liên hệ:
Bình diện văn hóa + Nhân dân âm thầm giữ gìn và để lại cho thế hệ sau mọi giá trị vật
chất và tinh thần: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, bản sắc văn hóa các
vùng miền, các thành quả lao động.
+ Điệp từ “họ” cùng với cách nói: “họ giữ – họ chuyền – họ truyền –
họ gánh…” cho thấy được sự đóng góp tích cực của nhân dân vì sự
phát triển của đất nước.
+ Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất: là hạt lúa ta trồng qua
bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm bao căn bếp, là
nguồn thủy nông, vườn ruộng dồi dào cho con cháu đời sau “trồng
cây hái trái”.
+ Không chỉ vậy, họ còn mang đến những giá trị tinh thần quý báu:
họ “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân
tộc, họ để lại phong tục, tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi
chuyến di dân”.
=> Họ tạo dựng chủ quyền và truyền cho thế hệ sau truyền thống yêu
nước đánh giặc.
+ “Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân/ Đất Nước của Nhân
dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”: khẳng định như một chân lý.
+ Tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa
văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo tinh
thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn, tình cảm của nhân dân qua bao
thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba
nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, bản sắc Việt: thật say đắm
trong tình yêu (Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”), quý trọng
tình nghĩa (“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”) và kiên
trì, bền bỉ trong đấu tranh (“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả
thù mà không sợ dài lâu”)
- Liên hệ:
(Ca dao)
(Ca dao)
(Ca dao)
Lật giở từng trang trong lịch sử dân tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất Nước của nhân dân có
nhiều biến chuyển trong mỗi thời kỳ. Trong thời trung đại khái niệm Đất Nước gắn liền với kỳ
niệm quân vương: “Nam quốc sơn hà”, gắn liền với các triều đại: “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn
Trãi. Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai trò
to lớn của nhân dân đối với Đất Nước. Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách cho vua: “muốn
đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng khẳng
định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ
dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã
Bước vào những trang thơ “Đất Nước” ta thấy Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa soi ngắm thật kỹ
thật sâu vào các tầng địa lý, lịch sử và văn hóa của Đất Nước. Trước hết nhân dân là người làm
nên không gian địa lý của dân tộc:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng
Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
.....
Đất Nước gắn với truyền thuyết, cổ tích, mỗi địa danh đều tắm đẫm những huyền thoại, mỗi hiện
tượng văn học dân gian đều nhằm giải thích hình thể của non sông, chứa đựng trong đó những ý
nghĩa hết sức thiêng liêng về sự hóa thân của xương máu nhân dân trong quá trình tạo nên Đất
Nước. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông đều có xương máu của bao nhiêu thế hệ, đều chứa đựng
những ước mơ của con người. Đằng sau tình yêu với Đất Nước, nhà thơ nhận ra không gian địa
lý không còn là những hình thể vật chất thuần túy, những sự vật vô tri vô giác mà đó là “một
dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Trong cái nhìn của nhà thơ, hình ảnh núi sông của
tổ quốc bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Đọc những truyền thuyết cổ tích huyền thoại nhằm
giải thích hình dáng, tên gọi của danh lam thắng cảnh, ta ngỡ như đó chỉ là một cách mỹ lệ hóa
núi sông, huyền thoại hóa một địa danh. Nhưng với cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm – người
đọc cảm nhận được những giá trị lịch sử, văn hóa phong phú đa dạng đã gợi lên cái hồn và sức
sống của sông núi. Vì thế những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng núi mà là
câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông núi quê hương để làm nên một Đất Nước
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Trên phương diện lịch sử, tác giả nhấn mạnh đến sự đóng góp của những con người bình dị, vô
danh trong việc làm nên Đất Nước muôn đời. Nhà thơ chuyển sang giọng điệu tâm tình với “em”
mà tìm sự đồng cảm ở hết thảy chúng ta:
“Em ơi em
“Em” là nhân vật trữ tình không xác định, nhưng cũng có thể là sự phân thân của tác giả để độc
thoại với chính mình. Lời tỏ tình mang giọng điệu tâm tình mà trĩu nặng suy tư. Với lối tâm tình,
trò chuyện, nhà thơ đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, bốn nghìn năm dựng
nước và giữ nước, bốn nghìn năm hầu như không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống
...
Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm,
chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”. Nhưng
cũng có hàng triệu, hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã ngã
xuống, họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất cả, họ đều có công “làm ra Đất
Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất nước của nhà thơ. Và từ quan niệm này,
Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân. Những con
người làm nên đất nước chính là những con người góp phần bảo vệ đất nước. Họ là những con
người bình dị vô danh. Họ là những con người lao động cần cù chăm chỉ nhưng khi đất nước có
giặc ngoại xâm thì chính họ trở thành những người anh hùng cứu nước. “Khi có giặc người con
trai ra trận/Người con gái trở về nuôi cái cùng con” đã thể hiện sự chung sức, chung lòng để
đánh giặc cứu nước, và khi cần thì “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Nhà thơ đã khẳng định
truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam: sức mạnh đoàn kết, nhất trí một lòng
và có lòng căm thù giặc sâu sắc. Đó là truyền thống được phát huy từ đời này sang đời khác.
Chính bằng sự đóng góp một cách tự nhiên đó mà họ đã làm nên lịch sử - truyền thống lâu đời
của đất nước. Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, kể
tên các bậc vua chúa hay những vị anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà
biểu dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường trong việc xây dựng, vun
đắp và bảo vệ Đất Nước:
...
Nếu chỉ dừng lại ở phương diện lịch sử hay phương diện địa lý thì chưa thể có một khái niệm
hoàn chỉnh về đất nước. Do đó tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã được triển khai trên bình
diện thứ ba, bình diện văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm không khai thác
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Nhân dân đã có công bảo vệ và truyền lại cho con cháu đời sau những giá trị vật chất, tinh thần,
giúp hình thành và gìn giữ những giá trị đáng quý của đất nước. Điệp từ “họ” cùng với cách nói:
“họ giữ – họ chuyền – họ truyền – họ gánh...” cho thấy được sự đóng góp tích cực của nhân dân
vì sự phát triển của đất nước. Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất: là hạt lúa ta trồng qua
bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm bao căn bếp, là nguồn thủy nông, vườn
ruộng dồi dào cho con cháu đời sau “trồng cây hái trái”. Không chỉ vậy, họ còn mang đến những
giá trị tinh thần quý báu: họ “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc,
họ để lại phong tục, tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
Cội nguồn văn hóa chưa phải là những gì thiêng liêng, cao cả, mà trong tư tưởng của nhà thơ, cội
nguồn văn hóa trước tiên bắt nguồn từ chính lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, từ những
gì giản dị và thân thuộc nhất như: “giọng điệu”, “tên xã tên làng”...
Dân ta có truyền thống đánh giặc ngoại xâm từ bao đời nay, hết giặc Tàu 1000 năm lại đến giặc
Tây 100 năm. Ta lại lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi phát xít Nhật để đưa nước Việt Nam đi
đến độc lập thống nhất. Và hôm nay đây, trong chính thời khắc bản trường ca này ra đời, ta đang
chống lại đế quốc Mỹ xâm lược, lời thơ lại càng giục giã và khí thế hơn. Và sức mạnh nhân dân
sẽ là cơn sóng lớn để nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước ấy:
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã
thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, nhà thơ
hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã
đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của
riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân. Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ
lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ
chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân” được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ
mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước
Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của
nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về
tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao:
Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong
nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm
ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền
vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy
chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến
nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên
4 câu thơ cuối “Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
- Là sự kết đọng vẻ đẹp thơ mộng của non sông, đất nước trong những câu
dân ca, đặc biệt là những câu dân ca trên sông nước. Tiếng hát của những
dòng sông ấy được cất lên từ chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta, nó
gợi lên những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, bất tử cùng thời gian.
Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi tâm sự về chương thơ “Đất Nước” đã đặc biệt
nhắc nhớ về một hình ảnh mà ông rất tâm đắc – hình ảnh dòng sông: “Nước Việt có nhiều sông.
Mỗi con sông chảy qua một vùng châu thổ đều kiến tạo cùng với nó một bản sắc văn hóa góp
phần làm đa dạng thêm văn hóa chung của đất nước.” Để rồi từ sự chiêm nghiệm đó, tác giả đưa
bạn đọc đến với những dòng chảy của tự nhiên hay cũng chính là dòng chảy của văn hóa, phong
tục Việt Nam:
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Ý thơ là sự kết đọng vẻ đẹp thơ mộng của non sông, đất nước trong những câu dân ca, đặc biệt là
những câu dân ca trên sông nước, tiếng hát của những dòng sông ấy đã được cất lên từ chính tâm
hồn giàu chất thơ của dân tộc ta, nó gợi lên những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, bất tử cùng thời
gian. Chắt lọc những “hạt cườm” tinh túy từ vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam, từ dọc dài thời
Học Văn Chị Hiên
TÀI LIỆU KHÓA KIẾN THỨC NỀN
Học Văn Chị Hiên 2021
gian lịch sử, bề rộng không gian địa lý và cả bề sâu văn hóa phong tục, lối sống dân tộc, Nguyễn
Khoa Điềm đã xâu lại thành “chuỗi cườm” lung linh, óng ánh: đất nước muôn đời. Chương thơ
“Đất Nước” đã khơi gợi, nhắc nhớ người đọc một lần nữa suy tư về đất nước, một đề tài không
mới nhưng lại được khai thác ở những khía cạnh bình dị mà sâu sắc, bởi đôi mắt khám phá và
chiêm nghiệm vô cùng mới mẻ của ông vua thể loại trường ca – nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Hãy ngã xuống tay Nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
( Xuân Diệu )
6 “Trên đất nước nghìn năm những nông dân lại tập cấy
cày Nhà bác học phải nghĩ suy từ ba sào chua mặn Năm
9 “Nước chúng ta
MỞ BÀI:
Đó là sự đúc kết của một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu tâm hồn: Sự gắn bó với mỗi miền đất
sẽ trở thành chính ta, một phần đời ta, là hành trang tinh thần không thể thiếu. Và phải chăng vì
lý do này mà những vần thơ viết về quê hương đất nước luôn là những rung động thường trực
trong tâm hồn người nghệ sĩ? Chính những rung động ấy đã thôi thúc Nguyễn Khoa Điềm chắp
bút viết trường ca "Mặt trường khát vọng". Một trích đoạn không thể không nhắc đến đó là “Đất
Nước” .
Đó là những vần thơ ca ngợi nhân dân đất nước thiết tha mà Nguyễn Khoa Điềm đã viết trong
trường ca "Mặt đường khát vọng". Giữa thời đạn bom, giữa thời máu lửa, khúc tráng ca “Đất
Nước” đã vang lên một cách hào sảng, chạm sâu vào trái tim của mỗi người con đất Việt. Đoạn
trích là cái nhìn tin yêu của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước được nhìn theo nhiều khía cạnh,
thăng trầm và biến đổi của lịch sử. “Đất Nước” là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chứa đựng
bao cảm xúc đặc biệt của nhà thơ.
3. Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì
giống như con chim không có tổ, cái cây không có rễ”. Và ai đó cũng từng tự hỏi: “Có mối tình
nào nặng sâu hơn mối tình Tổ quốc?”. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ
cất cánh. Với Nguyễn Đình Thi là hình ảnh một đất nước đau thương, căm hờn, quật khởi, vùng
lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng “Tổ quốc bay lên bát
ngát mùa xuân”. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp “Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi tàu rẽ sóng mũi Cà
Mau”. Đặc biệt, vào cuối năm 1971 từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa
Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài đất nước qua trích đoạn “Đất Nước” – trích trường
ca “Mặt đường khát vọng”.
KẾT BÀI:
1.Có một tư tưởng về đất nước được vẽ lên bình yên từ những điều giản dị. Có một hình ảnh đất
nước được lý giải với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết ngày xửa ngày xưa. Có những giá
trị của một đất nước được cắt nghĩa từ một không gian tình tứ như chuyện tình của đôi lứa, uyên
ương. Tất cả những điều này, được Nguyễn Khoa Điềm truyền tải trọn vẹn trong trích đoạn “Đất
Nước" của mình. Cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ đã làm con người xích lại gần nhau, tất cả
2. Trích đoạn “Đất Nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng" là sự lý giải hoàn hảo cho
những thắc mắc của đọc giả về câu hỏi: “Đất nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?” Một
cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình,
đều là những gì thuộc về đất nước hay sao. Và những câu hỏi thắc mắc về quê hương, đất nước
mình vẫn còn là những điều bỏ ngỏ, để bạn đọc không ngừng tìm kiếm những điều mới lạ ấy, sự
thú vị ấy trong thơ văn:
“Quê hương là gì hở mẹ
Quê hương là gì hả mẹ
3. Hình tượng đất nước không phải lần đầu tiên xuất hiện, nhưng cách lý giải về đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm lại đem tới cho bạn đọc sự thú vị đến bất ngờ. Đó là hình ảnh của một đất
nước gần gũi, dung dị, giống như hình ảnh của những con người đã làm ra, dựng xây và phát
triển - Nhân dân. Tư tưởng “Đất Nước là của Nhân dân” cũng không phải là tư tưởng lần đầu
tiên xuất hiện trong nền văn học Việt Nam, nhưng đây lại là tác phẩm cho độc giả thấy được tư
tưởng về đất nước của nhân dân chân thực và gần gũi nhất:
“Họ đã sống và chết