Professional Documents
Culture Documents
4. Chương 2 - Bài 2 Tg Võ Quảng, Phạm Hổ, Trần Đăng Khoa
4. Chương 2 - Bài 2 Tg Võ Quảng, Phạm Hổ, Trần Đăng Khoa
1. Tiểu sử
Võ Quảng sinh ngày 01 tháng 3 năm 1920 trong một gia đình nhà nho trung
lưu ở Đại Hòa, huyện Đại Lộc, Tỉnh Quảng Nam và mất ngày 15 tháng 6 năm 2007
tại Hà Nội.
Năm 15 tuổi, Võ Quảng rời quê ra học trường Quốc học Huế. Năm 17 tuổi,
ông tham gia phong trào học sinh yêu nước, gia nhập Đoàn thanh niên dân chủ. Năm
19 tuổi, ông gia nhập Đoàn thanh niên phản đế, làm tổ trưởng, hoạt động bí mật ở
Huế. Năm 21 tuổi, ông bị Pháp bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ… Sau đó được điều
về quản chế ở quê cho đến cách mạng tháng Tám bùng nổ.
Sau cách mạng tháng Tám, ông được giao làm phó chủ tịch Ủy ban kháng
chiến Đà Nẵng; phó chánh án Tòa án quân sự miền Nam Việt Nam; Hội thẩm nhân
dân tòa án nhân dân Liên khu V.
Sau năm 1954, ông tập kết ra miền Bắc và đi theo nghề viết văn cho thiếu nhi;
là một trong những người đặt nền móng cho văn học trẻ em dưới chế độ mới; là tổng
biên tập đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng dành cho thiếu nhi (1957 - 1964).
- Những cảnh vật thiên nhiên: Vườn thơ của Võ Quảng có những bức tranh
lộng lẫy về cảnh vật thiên nhiên. Dường như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều được
ông thâu tóm những nét điển hình nhất để đưa vào thơ. Đây là cảnh hồ sen mùa thu
được vẽ bằng những nét bút cổ điển, gợi một không khí yên tĩnh, thoáng đãng trong
lành:
Trong con mắt của nhà thơ, mỗi mùa đều có những đặc trưng, những vẻ đẹp
riêng. Và Võ Quảng đã dí dỏm gọi bốn mùa như bốn người chăm chỉ, đầy trách
nhiệm để giữ gìn cho đất nước luôn luôn mới mẻ:
- Thế giới loài vật và cây cỏ: Nhà thơ Ngô Quân Miện đã có nhận xét: “Trong
thơ anh có môt mảng vườn bách thú và bách thảo mà những đứa nào có may mắn
được vào đều say mê và yêu thích”.
Trong thơ của Võ Quảng là cả một tập hợp các loài thú và chim chóc, đông vui,
ríu rít, inh ỏi như thế giới trẻ thơ đầy ắp tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát. Võ Quảng
đã gắn cho những con vật của mình những nét hồn nhiên ngây thơ, ngộ nghĩnh của
trẻ thơ. Đó là hình ảnh một con trâu mộng “trợn tròn đôi mắt” (Con trâu mộng);
một chú chó vàng tinh nghịch thấy cái gì cũng sủa, chọc cả vào tổ ong và bị ong đốt
sưng cả mặt (Một chú chó vàng); những chú vịt háu ăn, cứ xếp hàng xung quanh
chuồng lợn mà kêu “Mau chia cám! Chia cám!”; hay chú thỏ con nhìn thấy những
rừng bàng trong tiết thu rực đỏ lại hốt hoảng kêu la “Ô kìa! Cháy lớn!” và giục họ
hàng chạy trốn (Thỏ con):
Những bài thơ Võ Quảng viết về cây cỏ là những vườn xuân rực rỡ sắc màu,
mà ông gọi là “Các màu sắc quý... Đủ sắc trời mây”:
Cứ vào độ tết
Đó cũng có thể là Con đường nhỏ với bụi ngải hoang mọc chen bồm bộp; là
Một chỗ chơi với “hoa sen sáng rực như ngọn lửa hồng”, hay một Mầm non khi mùa
xuân tới bỗng bật dậy “khoác áo màu xanh biếc” ...
Nhìn chung, những bài thơ của Võ Quảng viết về loài vật, cây cỏ là những
món ăn tinh thần quí giá mà nhà thơ đã trân trọng đem tới không chỉ bồi dưỡng cho
tâm hồn thêm phong phú mà còn giáo dục các em tình yêu thiên nhiên đất nước.
Võ Quảng quan niệm: “Văn học cho thiếu nhi còn đặt ra những vấn đề chính
yếu thứ hai. Đó là vấn đề giáo dục: giáo dục cái hay, cái đẹp cho thiếu nhi. Người
viết cho thiếu nhi là một nhà văn nhưng đồng thời cũng là một nhà giáo muốn các
em trở nên tốt đẹp. Quan điểm sư phạm và văn học thiếu nhi là hai anh em sinh đôi”.
Với quan niệm như vậy, ông luôn có dụng ý rất rõ là mỗi bài thơ phải giáo dục cho
các em điều gì. Ta thường gặp trong thơ ông một ý nghĩa giáo dục, cụ thể là hướng
các em vào những việc làm tốt như chăm học, chăm làm, giúp mẹ, dậy sớm, sạch sẽ,
tập thể dục... Đây là ý nghĩa triết lí và bài học giáo dục đươc rút ra từ việc dậy sớm
(Ai dậy sớm)
Phần thưởng của người dậy sớm, của em bé dậy sớm là hoa, là ánh bình minh,
là cả đất trời.
Bên cạnh việc giúp các em phát hiện ra cái đẹp xung quanh, cái đẹp của thiên
nhiên, Võ Quảng còn giúp các em hiểu sỡ dĩ có được cái đẹp ấy là nhờ bàn tay lao
động của con người:
Mẹ em vun xới?...
Bằng cách thủ thỉ tâm tình, Võ Quảng từng bước dắt các em vào cuộc sống
với những bài học đầu tiên bổ ích. Đó là bài học về tình đoàn kết, về sức mạnh của
tập thể. Để có được một mùa xuân đầy đủ hương sắc các con vật phải biết “góp
chung màu lại”:
Ngoài ra, qua thơ, Võ Quảng còn hướng các em tới những tình cảm yêu
thương tốt đẹp, những rung động thẩm mĩ trong sáng của niềm vui lao động và cống
hiến:
Làm xong mọi việc tốt
Hay hình ảnh Anh đom đóm, dù chỉ là một đóm sáng, một sinh thể phát sáng
nhỏ nhoi cũng cống hiến hết mình:
Cả trong ngoài
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả loài vật của Võ Quảng rất tinh tế. Chỉ bằng vài chi tiết
chọn lọc, ông đã khắc họa con vật một cách sống động.
(Được! Được!)
Nhiều bài thơ của ông giống như một hoạt cảnh, một câu chuyện biến đổi linh
hoạt đem đến cho trẻ một cảm giác mới lạ, thú vị:
- Ai gọi đó?
- Tôi là Thỏ
- Nếu là Thỏ
- Ai gọi đó?
- Tôi là Nai
- Thật là Nai
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Võ Quảng cũng rất đặc sắc. Ông thường
phát hiện ra những vẻ đẹp thiên nhiên gần gũi mà kì diệu. Đọc thơ của ông, các em
sẽ có cảm giác như được dạo chơi trong một công viên kì lạ.
Ngôn ngữ trong thơ Võ Quảng giản dị, dễ hiểu. Ông thích dùng những câu
thơ ngắn và rất sành sử dụng vần trắc, tạo nên không khí vui tươi, nghịch ngợm,
khỏe khoắn hợp với tâm hồn trẻ thơ. Thơ Võ Quảng cũng rất giàu nhạc điệu. Có
những bài đọc lên thấy linh hoạt, tự nhiên như một bài đồng dao quen thuộc (Chị
chổi tre, Mời vào), có những bài êm dịu, hài hòa như Thuyền lướt, Anh đom đóm, lại
có bài tiết tấu luôn thay đổi như Gà mái hoa, Báo mưa...
Ai dậy sớm
Cau ra hoa *
- Ai kêu đó hả - Ai kêu đó hả
- Ai kêu đó hả
Có thể nói đề tài bao trùm trong văn xuôi Võ Quãng là bức tranh quê và cách
mạng, bởi vì ngoài truyện đồng thoại như Cái mai và Những chiếc áo ấm, những
truyện còn lại đều nói về quê ông. Đó là một vùng quê đẹp và trù phú với dòng thu
bồn xanh ngắt, những bãi dâu bạt ngàn, những làn quê xanh tươi cây trái và quanh
năm lách cách tiếng thoi đưa bên những vạn chài san sát ghe thuyền buôn thuyền
buôn bán và đánh cá. Những con người của mãnh đất này thật chất phác, cần cù, yêu
quê hương tha thiết. Đọc Quê nội và Tảng sáng, hầu như ai cũng ít nhiều tìm gặp lại
được một chút tuổi thơ của chính mình, đó là những ước mơ, là khát vọng làm được
một việc tốt; là những cái tinh nghịch và sự ham say chơi đùa, có khi vô cùng vụng
dại.
1. Trình bày ngắn gọn nội dung của thơ Võ Quảng viết cho các em.
3. Võ Quảng từng quan niệm: "Tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi là một công
trình sư phạm. Người viết cần cân nhắc nói cái gì, nói như thế nào để có lợi cho
tâm hồn các em mà không ảnh hưởng đến sự thể hiện nghệ thuật"
(Một số ý nghĩ chung quanh vấn đề viết sách cho thiếu nhi)
Phạm Hổ còn có bút danh là Hồ Huy. Ông sinh ngày 28 - 11 - 1926 tại xã
Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định và mất ngày 4 - 5 - 2007.
Thuở nhỏ, Phạm Hổ học ở trường làng, sau đó học ở Tam Kì, Huế, rồi học
Trung học tại trường Quốc học Quy Nhơn.
Năm 1943, ông đỗ Thành Chung, sau đó ông đi theo cách mạng và hoạt động
văn nghệ.
Phạm Hổ sáng tác nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết và
phê bình văn học… cho cả người lớn và trẻ em. nhưng nói đến Phạm Hổ trước hết
phải nói đến sự đóng góp của ông cho nền văn học thiếu nhi nước nhà.
Riêng về thơ, Phạm Hổ là một nguồn thơ dồi dào với 20 tập thơ xuất hiện đều
đặn từ: Lúa non (1951), Những ngày xưa thân ái (1957), Chú bò tìm bạn (1970),
Những ô cửa những ngả đường (1976), Những người bạn im lặng, Những người bạn
nhỏ, Những người bạn thích nhảy…
Ngoài ra ông còn sáng tác 9 tập truyện và 4 vở kịch cho các em, tiêu biểu như:
Chuyện hoa, chyện quả (6 tập truyện cổ tích mới), Nàng tiên nhỏ thành ốc (bộ 3 vở
kịch)…
Phạm Hổ còn là dịch giả của nhiều tác phẩm thơ, truyện thiếu nhi. Năm 1992,
ông tổ chức triển lãm tranh của mình (gồm 72 bức). Triển lãm tranh của ông đã để
lại ấn tượng khá sâu sắc cho người xem, mặc dù ông quan niệm học vẽ chỉ cốt để
làm thơ hay hơn mà thôi.
- Giải thưởng cuộc thi sáng tác kịch bản cho thiếu nhi do Hội nghệ sĩ sân khấu
tổ chức (1986), vở kịch Nàng tiên nhỏ thành ốc.
Ngoài ra, Phạm Hổ còn có một số tập thơ, bài thơ và truyện được dịch và giới
thiệu ở nước ngoài như: Nga, Trung quốc, Pháp, Đức.
Năm 2001, ông được trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, đợt 1
Nội dung chủ đạo, xuyên suốt trong thơ Phạm Hổ viết cho các em là Chủ đề
tình bạn. Trong khoảng 20 tập thơ viết cho các em, đã có 6 tập ông viết về tình
bạn: Chú bò tìm bạn, Bạn trong vườn, Những người bạn im lặng, Những người bạn
nhỏ, Ai kêu đấy? Bạn nào thích nhảy. Phạm Hổ đã tái hiện thế giới trẻ thơ qua hình
ảnh những người bạn đặc biệt, đáng yêu và gần gũi mà các em vẫn tiếp xúc hàng
ngày.
Trước hết, những người bạn trong thơ ông là những con vật ngộ nghĩnh đáng
yêu - Những người bạn nhỏ mà các em vẫn thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.
Đó là một chú bò khao khát có bạn đến nỗi nhìn bóng mình dưới nước lại ngỡ gặp
người bạn mới. Khi nước bật cười, làm bóng bò tan biến thì chú ta lại tưởng bạn đi
đâu nên:
Mà sữa đầy vú mẹ
Ngựa con)
Hay một chú thỏ đa nghi ngốc nghếch, nói chuyện qua điện thoại mà cứ đòi
phaỉ nhìn thấy người ở đầu dây bên kia thì mới tin:
- Thỏ đây! Ai nói đấy?
Bài Chơi ú tim kể lại cuộc chơi của mèo và chó. Đến lược chó trốn, mèo đi
tìm. Chó nấp sau tủ nhưng lại thò đuôi ra phe phẩy, mèo tìm ra chó ngay. Thế
nhưng:
Bạn trong vườn là thế giới cỏ cây, hoa lá hiện hữu xung quanh các em. Đó là
cây lựu với "Hoa như lửa bay, quả sơn vàng óng" (Lựu); là quả dứa đầu đội mũ vua,
mình mặc áo giáp, có một trăm con mắt (Dứa) hay quả mít xù xì như da cóc (Mít);
những quả ổi "Đã chín trắng lại mập tròn" (Ổi), những cây mía "Đốt ngắn, đốt dài
- Như rồng uốn khúc" (Mía)...
Bạn trong vườn không chỉ là những loại hoa thơm trái ngọt mà còn là những
loại rau củ rất bình thường - những thứ rất ít có mặt trong thơ, nhưng dưới ngòi bút
của Phạm Hổ lại hiện lên rất sinh động với một vẻ đẹp riêng. Củ cà rốt giống như
một cậu bé hiếu động và tinh nghịch:
Lá xanh Nhảy lên
Củ đỏ Đẹp thật
Đất đội Củ đỏ
(Củ cà rốt)
Còn Bắp cải xanh thì như một cô bé dịu dàng, ngoan ngoãn:
Lá cải sắp
Qua những người Bạn trong vườn, tác giả không chỉ giới thiệu cho các em biết
về đặc tính, công dụng của mỗi loài cây, quả mà còn gợi cho các em lòng yêu cuộc
sống, yêu bạn bè, quê hương...
Những người bạn im lặng chính là những đồ vật khiêm tốn và tốt bụng xung
quanh các em. Những đồ vật vô tri như cái đinh, cái chổi, cái thùng thư, bảng chỉ
đường hay cái thước kẻ, cái rế... được Phạm Hổ nhìn bằng con mắt của trẻ thơ trở
nên sống động, có hồn.
Tấm bảng chỉ đường giống như một con người từng trải và chín chắn:
"Nơi này tàu thường qua!"
Còn cái đinh lại giống một cậu bé tinh nghịch nhưng tốt bụng, luôn giúp đỡ
người khác:
(Đinh)
Cái chổi chẳng khác gì một cô bé nhí nhảnh, thích làm đỏm nhưng chăm chỉ:
Đó là tất cả những người bạn lặng lẽ quanh các em, khiêm nhường đóng góp
một phần nhỏ bé của mình để làm đẹp cho cuộc sống.
Như vậy, trong cái nhìn của Phạm Hổ vạn vật xung quanh hiện lên sống động,
có hồn như thế giới của con người và tất cả đều là bầu bạn của thế giới trẻ thơ. Ông
khéo léo mượn các con vật, đồ vật và cả cây cối để nói với các em một điều thật giản
dị mà vô cùng sâu sắc: Tình bạn thật cần cho cuộc sống của con người, hãy sống với
nhau bằng tình thân ái, bé sẽ có nhiều bạn tốt và nhiều niềm vui.
Bên cạnh chủ đề tình bạn, trong thơ Phạm Hổ còn có những chủ đề khác như
tình anh em, mẹ con (Mẹ ốm, Bé ốm, Tôi yêu em tôi...), tình yêu đối với lãnh tụ và
đất nước (Đôi dép thần kì, Em yêu Tổ quốc Việt Nam...), thế giới trẻ thơ với những
khám phá bất ngờ, thú vị (Thuyền và cá, Vịt, Mười quả trứng tròn, Rình xem mặt
trời, Học chữ...)...
3. 2. Nghệ thuật
Phạm Hổ sử dụng yếu tố dân gian trong việc sáng tác thơ cho các em. Trước
hết, là lối nhại đồng giao và ông thành công ở cách viết này. Các bài thơ của ông
viết thường ngắn, câu thơ cũng ngắn (từ 2,3 đến 4,5 chữ/ câu), kết hợp với cách ngắt
câu, gieo vần ở những tiếng nhất định làm cho câu thơ giàu nhạc điệu, dễ thuộc, dễ
nhớ. Bởi theo ông “Tuổi càng bé, các em chủ yếu càng tiếp thu văn học nghệ thuật
như con tàu chạy qua tai nghe và mắt nhìn”. Ông thường mô phỏng tiếng kêu của
những vật được miêu tả, tạo không khí tươi vui, rộn rã: Xe chữa cháy, Chiếc máy
khâu…
Yếu tố dân gian trong thơ Phạm Hổ còn thể hiện ở màu sắc cổ tích, huyền thoại
trong các tứ thơ: Hình ảnh quả thị gợi liên tưởng về cô Tấm (Thị), hình ảnh “Khế
chín đầy cây, Vàng treo lóng lánh” (Khế) rất gần gũi với truyện cổ tích Cây khế...
Lại có những bài thơ mang dáng dấp một câu đố dân gian, chẳng hạn:
(Lựu) (Dứa)
Một đặc sắc khác trong thơ Phạm Hổ viết cho các em là cách tạo kết cấu làm
nổi bật sự bất ngờ:
Gà mẹ hỏi gà con:
(Ngủ rồi)
Ở nhiều bài thơ, ông đã dùng lối thơ hỏi đáp, khơi gợi trí tưởng tượng, tư duy
và nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh bởi “Trước thế giới bao la ngày càng
mở rộng lí thú, các em hăm hở và băn khoăn trước vô vàn câu hỏi, không thể tính cả
cuộc đời có bao nhiêu câu hỏi” (Phong Lê). Đây là sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của bé
trước mùi thơm kì diệu của hoa hồng:
Tập sách gồm 5 truyện: Ngựa hồng từ đâu đến, Lửa vàng, lửa trắng, Cất nhà
giữa hồ, Chú sẻ con và bông hoa bằng lăng, Bê và Sáo. Ba truyện đầu là truyện cổ
tích mới. Ngựa hồng từ đâu đến thuật lại lai lịch con ngựa Thánh Gióng đã cưỡi để
đi đánh giặc; Lửa vàng, lửa trắng giống như phần 2 của truyện Trí khôn, kể lại cuộc
đọ sức giữa đứa con người nông dân và con của con hổ (hai nhân vật trong truyện
Trí khôn). Lần này tuy hổ con được cha chuẩn bị chu đáo hơn nhưng cuối cùng cũng
vẫn bị sập hầm và bị bỏng vôi - hổ con gọi đấy là lửa trắng. Dáng tạo ra ngọn lửa
trắng, Phạm Hổ đã viết một truyện hay có sức chinh phục lớn đối với bạn đọc nhỏ
tuổi.
Cất nhà giữa hồ kể lại lòng tham, cách đối xử tàn bạo của tên chúa làng đối với
bé Mây. Nhờ sự giúp đỡ của các con vật sống dưới hồ, Mây đã dựng được tòa lâu
đài giữa hồ chỉ trong một đêm, trở lại cuộc sống tự do cùng dân làng.
Hai truyện còn lại là hai truyện viết theo bút pháp đồng thoại mang đậm chất
thơ. Đó là những bài ca đẹp về tình bạn.
Truyện của Phạm Hổ viết cho các em không nhiều chi tiết, có kết cấu chặt chẽ, luôn
hướng tới cái đẹp trong cuộc sống.
Đàn gà mới nở
Lông vàng mát dịu Con mẹ đẹp sao
Mắt đen sáng ngời Những hòn tơ nhỏ
Ôi! Chú gà ơi! Chạy như lăn tròn
Ta yêu chú lắm! Trên sân, trên cỏ.
1. Trình bày nội dung của thơ Phạm Hổ viết cho các em.
2. Trình bày những đặc điểm tiêu biểu về phương diện nghệ thuật trong thơ
Phạm Hổ.
3. Qua một số bài thơ mà anh (chị) đã học, đã đọc, hãy chứng minh tình bạn là
chủ đề xuyên suốt trong thơ Phạm Hổ viết cho các em.
4. Phân tích một số bài thơ của Phạm Hổ trong chương trình tiểu học.
Trần Đăng Khoa sinh ngày 26 - 4 - 1958 tại làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Trần Đăng Khoa làm thơ từ lúc còn nhỏ và đã có nhiều bài thơ được đăng báo
ngay ở tuổi thiếu niên. Năm 1975, Trần Đăng Khoa xung phong vào bộ đội, tham
gia vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử rồi làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia và
trở thành người lính bảo vệ Trường Sa.
Tháng 8 năm 1975, trường ca Khúc hát người anh hùng của Trần Đăng Khoa
được giải thưởng của Bộ Thương binh và Xã hội, Hội nhà văn Việt Nam. Năm 1982:
giải A cuộc thi thơ báo Văn nghệ.
Sau khi tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du khóa IV, Trần Đăng Khoa theo
học tại Học viện văn học thế giới mang tên Gorki (Cộng hòa liên bang Nga) rồi trở
về công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội . Tác phẩm Chân dung và đối thoại (1998)
của anh đã gây nên nhiều tranh cãi trong giới lí luận phê bình và sáng tác văn học.
- In ở trong nước
+ Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 ( tuyển 1966 - 1969, in năm 1970)
- In ở nước ngoài
Trong chương trình Tiếng Việt tiểu học, Trần Đăng Khoa là một tác giả quen
thuộc với các em học sinh với các bài: Ò ó o..., Kể cho bé nghe (lớp 1); Tiếng võng
kêu, Cây dừa (lớp 2); Khi mẹ vắng nhà (lớp 3); Trăng ơi...từ đâu đến?, Mẹ ốm (lớp
4); Hạt gạo làng ta (lớp 5).
3. Nội dung thơ Trần Đăng Khoa viết cho thiếu nhi
Trong thơ Trần Đăng Khoa, thế giới thiên nhiên, loài vật và con người hiện lên
vô cùng sống động. Đến với thơ Trần Đăng Khoa, độc giả được sống trong một bầu
không khí rất riêng - không khí của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Khi lí giải “cái
mầm thơ Trần Đăng Khoa đã lớn lên từ miếng đất nào”, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
đã khẳng định: “làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu sắc đến linh hồn”. Ông gọi
Trần Đăng Khoa là “nhà thơ mục đồng”, là “một cây bút chuyên môn thực sự” viết
về nông thôn.
Thiên nhiên nông thôn là mảng nội dung nổi bật nhất trong thơ Trần Đăng
Khoa. Tuổi thơ của tác giả gắn bó với nông thôn và đồng ruộng. Thế giới thơ Trần
Đăng Khoa bắt nguồn từ những cảnh vật sinh hoạt quen thuộc của làng quê: Từ cảnh
“Ngoài sân lội mấy chú gà liếp nhiếp, Đi tìm mồi cùng mẹ bắt giun sâu” đến “Vườn
em có một luống khoai, Có hàng chuối mật với hai luống cà”… Đó là những hình
ảnh vô cùng quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Trần Đăng Khoa vẫn gây được nhiều
ngạc nhiên thú vị cho người đọc.
Đọc những bài thơ Khoa viết về làng quê, trước hết, người ta như được cảm
nhận sự phóng khoáng, ngất ngây, trong lành của hương đồng gió nội. Hương vị
đồng quê như đã thấm sâu vào con người Khoa và thơ Trần Đăng Khoa:
(Hương đồng)
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa là một thiên nhiên trong trẻo, kì diệu và
đầy chất thơ. Trong bài Trăng sáng sân nhà em, Khoa viết:
Ánh trăng vằng vặc chan hòa khắp mọi nơi. Cả cây lá, chim, sâu đều lặng đi
trước sự huyền diệu của thiên nhiên:
Thơ Trần Đăng Khoa luôn gợi cho người đọc hình ảnh về một thiên nhiên nông
thôn thuần nhất, tinh nguyên và hết sức thơ mộng. Đấy là thiên nhiêm trong khoảnh
khắc giao mùa với ngọn gió heo may nhè nhè, vài hạt mưa lưa thưa, những hoa cau
rơi rãi:
“Nửa đêm nghe ếch học bài
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa không chỉ trong lành, thơ mộng mà
còn đầy sức sống, luôn vận động và phát triển. Trong bài Ò ó o…, Buổi sáng nhà
em…, khung cảnh những buổi sáng nông thôn được Khoa miêu tả thật náo nhiệt. Đó
là những buổi bình minh của nhà nông. Cảnh vật muôn thuở mà vẫn mới lạ, hấp dẫn.
Một trận mưa rào cũng được anh miêu tả hết sức sinh động, đem lại cho người
đọc những thú vị bất ngờ:
“Ông trời
Ra trận.
Múa gươm.
Đầy đường…”.
(Mưa)
Tóm lại: thế giới thiên nhiên nông thôn trong thơ Trần Đăng Khoa thật phong
phú sinh động và trong sáng. Tác giả đã thể hiện một năng lực quan sát hết sức nhạy
bén tinh tế, đặc biệt là khả năng cảm nhận thiên nhiên bằng mọi giác quan, bằng sự
mở rộng tâm hồn và trí tưởng tượng phong phú. Qua đó, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ
một tình yêu quê hương sâu sắc và truyền cho người đọc tình yêu ấy.
3.2. Hình ảnh người nông dân
Viết về con người, thơ Trần Đăng Khoa chủ yếu nhắc tới người nông dân ở
làng quê, người nông dân ấy trước hết là bố anh, mẹ anh. Trần Đăng Khoa nhắc tới
họ với tất cả lòng biết ơn và sự cảm thông sâu sắc. Mới 9 tuổi, khi được mẹ khen,
Trần Đăng Khoa đã liên tưởng ngay tới nỗi nhọc nhằn của mẹ:
Bài Hạt gạo làng ta như là một bài ca về người nông dân. Bài thơ được viết với
những cảm xúc mạnh mẽ về sự cảm thông, thương xót và lòng biết ơn người lao
động:
Chết cả cá cờ
Mẹ em xuống cấy”.
Trở lại bài Mưa ta thấy hình ảnh người nông dân, một nắng hai sương đương
đầu với nắng mưa, lúc nào cũng ung dung, dũng cảm:
“Bố em đi làm về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa”.
Tác giả đã cảm hiểu rất sâu sắc niềm vui của người nông dân là niềm vui được
lao động, được cống hiến và được gặt hái những thành quả lao động của mình:
(Vào mùa)
Qua những suy tư về người mẹ nói riêng và người nông dân nói chung, Trần
Đăng Khoa lại một lần nữa bộc lộ tình cảm sâu nặng đối với quê hương, con người
và cảnh vật.
4. Những đặc sắc về nghệ thuật của thơ Trần Đăng Khoa
4.1. Tâm hồn trẻ thơ qua cách nhìn, cách tả cảnh vật
Trong cái nhìn của tác giả, tất cả thế giới xung quanh đều như có tâm linh, đều
là bầu bạn. Anh thường sử dụng biện pháp nhân hóa để miêu tả cảnh vật. Buổi sáng
nhà em với những nhân vật thật sống động: ông trời, bà sân, cậu mèo, mụ gà, cái na,
cu chuối, chị tre, bác nồi đồng… làm nên một thế giới đầy hấp dẫn với sự nhộn nhịp,
đông vui của một buổi sáng, một ngày mới bắt đầu:
Cũng với lối nhân hóa như vậy, anh viết về cây dừa khi thì như người bạn hào
phóng “Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng”, khi thì như người lính:
4.2. Trí tưởng tượng phong phú bay bổng và sự liên tưởng, so sánh kì diệu
Không bao giờ Khoa nhìn thấy sự vật trong sự đơn nhất, trần trụi mà luôn phát
hiện ra mối quan hệ của chúng hoặc liên tưởng đến những hình ảnh tương đồng khác
để từ đó khái quát lên một cái gì đó cao hơn.
(Thả diều)
(Trông trăng)
Trong bài Trăng ơi từ đâu đến, Khoa lại hình dung ra:
Tóm lại, với tâm hồn thơ phong phú, nhạy cảm và tinh tế, cùng khả năng sáng
tạo tuyệt vời, thơ Trần Đăng Khoa đã chiếm được sự yêu thích của bạn đọc trải qua
nhiều thế hệ. Đó là một hiện tượng thơ đặc biệt có vị trí xứng đáng trong nền văn
học thiếu nhi nói riêng và trong lịch sử văn học Việt Nam nói chung.
5. Giới thiệu một số bài thơ của Trần Đăng Khoa trong chương trình tiểu học
Cây Dừa
Dặn em
Mẹ cha bận việc đêm ngày
Anh còn đi họ, mình e ở nhà
Dặn em đừng có chơi xa
Máy bay Mĩ bắn không ra kịp hầm
Đừng ra ao cá trước sân
Đuổi con bươm bướm, trượt chân, ngã nhào
Đừng đi bêu nắng nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người
Ốm đau là mất đi chơi
Làm cho bố mẹ mất vui trong lòng
Mẹ cha bận việc ngày đêm
Anh ngồi trong lớp, lo em ở nhà.
"Hạt gạo làng ta Hạt gạo làng ta Quang trành quết đất.
Có vị phù sa Những năm bom Mĩ Hạt gạo làng ta.
Của sông Kinh Thầy Trút lên mái nhà Gửi ra tiền tuyến,
Có hương sen thơm Những năm khẩu súng Gửi về phương xa.
Trong hồ nước đầy Theo người đi xa Em vui em hát
Có lời mẹ hát Những năm băng đạn Hạt vàng làng ta.
Ngọt bùi hôm nay... Vàng như lúa đồng Em vui em hát
Bát cơm mùa gặt Hạt vàng làng ta…".
Hạt gạo làng ta Thơm hào giao thông
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba Hạt gạo làng ta
Giọt mồ hôi sa Có công các bạn
Những trưa tháng sáu Sớm nào chống hạn
Nước như ai nấu Vục mẻ miệng gầu
Chết cả cá cờ Trưa nào bắt sâu
Cua ngoi lên bờ Lúa cào rát mặt
Mẹ em xuống cấy... Chiều nào gánh phân
1. Trình bày những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa.
2. Tìm hiểu hình tượng người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa.
3. Tìm hiểu hình tượng trăng trong thơ Trần Đăng Khoa.
4. Khi lí giải “cái mầm thơ Khoa đã lớn lên từ miếng đất nào”, nhà phê bình
văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Làng quê đã tạo nên thơ Khoa từ màu
sắc đến linh hồn”.