You are on page 1of 1

MÔ HÌNH KẾ TOÁN QUẢN TRỊ PHÙ HỢP VỚI SME VIỆT NAM

Ở các nước Mỹ, Anh, với việc đề cao vai trò cá nhân, vai trò của các nhà quản lý cao cấp, ít có sự can thiệp bằng
luật pháp của nhà nước vào chính sách kế toán, nên ở các nước này, KTQT có xu hướng được xây dựng thành bộ
phận thuộc ban giám đốc, là công cụ riêng của nhà quản lý. Ngược lại, với những doanh nghiệp ở các nước đề cao
tính an toàn, tính tập thể, có sự can thiệp của nhà nước trực tiếp bằng luật pháp vào chính sách kế toán như Pháp
thì KTQT có xu hướng được xây dựng thành bộ phận kế toán.

So sánh mô hình KTQT ở Mỹ, Anh và Pháp:

So sánh KTQT ở Mỹ, Anh KTQT ở Pháp


Mô hình Mô hình kế toán động, KTTC và KTQT được tổ Mô hình kế toán tĩnh, KTTC và KTQT được
KTQT chức kết hợp với nhau. KTQT luôn được nhận thức tổ chức tách rời nhau, độc lập tương đối.
là một bộ phận chuyên môn (có thể thuộc kế toán KTQT là bộ phận riêng biệt nhưng vẫn nằm
hoặc thuộc ban giám đốc). trong bộ máy kế toán của doanh nghiệp.
Đặc điểm Tập trung, đề cao tính hữu ích của thông tin phục Đề cao thông tin kiểm soát nội bộ, kiểm
thông tin vụ cho các quyết định quản lý hơn là xác lập một hệ soát định hướng.
thống thông tin toàn diện cho yêu cầu quản lý.
Vai trò của Nhà nước không can thiệp sâu vào chuyên môn, Nhà nước can thiệp trực tiếp bằng
nhà nước nghiệp vụ. pháp luật.
Tài khoản, KTTC sử dụng các tài khoản tổng hợp, báo cáo tài KTQT được tổ chức thành bộ máy riêng;
sổ sách chính toàn doanh nghiệp; KTQT sử dụng tài khoản sử dụng tài khoản, sổ sách, báo cáo riêng.
sử dụng chi tiết, các báo cáo bộ phận…
Hạch toán Doanh nghiệp được chia thành nhiều bộ phận để Hình thành các trung tâm chi phí (trung
chi phí theo dõi và hạch toán chi phí (gọi là các trung tâm tâm chính và trung tâm phụ). Các chi phí
chi phí - cost centers). Việc kiểm soát chất lượng và gián tiếp được phân chia lần 1 cho các
cơ cấu vật liệu cũng được thực hiện trong quá trình trung tâm chính và trung tâm phụ, lần 2
sản xuất. Phương pháp quản trị chi phí theo mục từ các trung tâm phụ vào các trung tâm
tiêu và phương pháp phân bổ chi phí theo hoạt động chính. Cuối cùng, kế toán tiến hành kết
được sử dụng rộng rãi. chuyển chi phí của các trung tâm chính
vào các loại giá phí.
Phương Với mỗi loại sản phẩm, nhà quản trị tìm cách giảm Các khoản chi tiêu cho sản xuất luôn
pháp chi phí đến mức mong muốn trong giai đoạn nghiên được các doanh nghiệp quan tâm một
quản lý cứu, thiết kế và cung ứng vật tư. Các nhà quản trị cách triệt để và gắn trách nhiệm cụ thể
thường xuyên phân tích sự thay đổi chi phí thực tế cho từng bộ phận hoạt động.
và không ngừng cải tiến hệ thống sản xuất ngày
càng tốt hơn.
KTQT Xác định giá thành là đi vào định lượng của hao phí Giá thành sản phẩm là khái niệm được sử
giá thành để xác định mức bù đắp trong phạm vi doanh dụng để xác định những hao phí vật chất
nghiệp cũng như phạm vi xã hội để thực hiện quá được dùng cho sản xuất và tiêu thụ sản
trình tái sản xuất xã hội; giá thành sản phẩm chỉ bao phẩm mà doanh nghiệp phải bù đắp bằng
gồm các chi phí sản xuất. doanh thu bán hàng; giá thành bao gồm
giá phí sản xuất và giá phí phân phối.

Tuy nhiên không phải SME nào tại Việt Nam cũng có đủ lực để thực hiện bộ máy KTQT như thế. Thứ nhất là
nó đòi hỏi tầm nhìn của Người lãnh đạo. Thứ hai là nguồn lực của Doanh nghiệp về tài chính, quy trình, thời
gian, nhân sự… Vì thế, mô hình KTQT được xây dựng phù hợp cho các SME Việt Nam nên tận dụng vào
những gì sẵn có từ Kế toán tài chính. KTTC sử dụng các tài khoản, sổ sách, báo cáo tổng hợp, còn KTQT
sử dụng các tài khoản, sổ sách, báo cáo chi tiết để ra số liệu quản trị.

Để làm được điều đó, mỗi bộ phận chức năng của doanh nghiệp tổ chức thành một trung tâm phân tích để dễ
dàng xác định và kiểm soát chi phí. Khi đó việc phân bổ chi phí sẽ được thực hiện trên cơ sở từng hoạt
động. Như vậy nhà quản trị sẽ kiểm soát được tình hình hoạt động chính xác hơn cũng như dễ dàng đánh giá
hay gắn kết trách nhiệm cho các bộ phận khi phân tích kết quả hoạt động kinh doanh.

Thân mến!

You might also like