You are on page 1of 333

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HẢI PHÒNG

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG


THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP
HỘ SINH HẠNG III
(Ban hành theo Quyết định số 2602/QB-BYT ngày 21/6/2019 của Bộ Y tế)
MỤC LỤC
CHUYÊN NỘI DUNG SỐ
ĐỀ TRANG
HỌC PHẦN 1:
KIẾN THỨC VỀ CHÍNH TRỊ, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ CÁC KỸ NĂNG CHUNG
1. Đường lối của đảng và chính sách của nhà nước về phát triển 1
y tế
2. Cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong 28
lĩnh vực y tế
3. Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công việc của 38
viên chức hộ sinh
4. Kỹ năng quản lý thời gian và kỹ năng phối hợp trong công 52
việc của viên chức hộ sinh
5. Chuyên đề báo cáo 71
HỌC PHẦN II.
KIẾN THỨC, KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP, CHUYÊN NGÀNH VÀ ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP
1. Công tác đào tạo liên tục hộ sinh 93
2. Chuẩn chất lượng chăm sóc của hộ sinh và phương pháp 109
đánh giá
3. An toàn người bệnh 120
4. Tổ chức và giám sát các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản 157
theo hướng dẫn quốc gia
5. Quản lý trang thiết bị, phương tiện chăm sóc tại cơ sở y tế 161
6. Lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá hoạt động truyền thông 171
và tư vấn sức khỏe
7. Kiểm soát nhiễm khuẩn trong thực hànhchăm sóc người bệnh 193
8. Kiểm soát yếu tố nguy cơ và phòng chống dịch trong thảm 199
họa
9. Nghiên cứu khoa học trong chăm sóc hộ sinh và thực hành 227
chăm sóc dựa vào bằng chứng
10. Giới thiệu về tài chính y tế và bảo hiểm y tế của việt nam 241
11. Tổng quan về đạo đức và đạo đức trong thực hành điều 288
dưỡng
12. Văn hóa ứng xử trong thực hành chăm sóc sức khỏe và tiếp 311
cận cộng đồng
PHẦN I
KIẾN THỨC VỀ CHÍNH TRỊ, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VÀ CÁC KỸ NĂNG CHUNG

1
CHUYÊN ĐỀ 1
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 06 tiết
Số tiết thực hành: 06 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Hiểu được những vấn đề cơ bản về phát triển y tế Việt Nam gồm: mạng lưới cơ sở y
tế, y tế tư nhân, nhân lực ngành y tế, chính sách bảo hiểm y tế toàn dân.
2. Nhận thức đầy đủ, đúng đắn chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển y tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Biết được thành tựu, hạn chế và những thách thức đặt ra cho ngành y tế Việt
Nam.
4. Nắm vững được những quy định về chức danh nghề nghiệp hộ sinh hạng III
5. Trên cơ sở những nắm vững vững vấn đề trên, học viên có thái độ tin tưởng
vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển y tế và vận dụng thực
hiện trong công việc chuyên môn.

NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ VIỆT NAM
1.1. Quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế
a. Về mô hình tổ chức
- Mạng lưới y tế được tổ chức theo tổ chức hành chính Nhà nước
+ Y tế tuyến Trung ương.
+ Y tế địa phương bao gồm: Y tế tuyến Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.
+ Y tế tuyến cơ sở: Phòng y tế huyện, quận, thị xã; Trạm y tế xã, phường, cơ
quan, trường học...
- Mạng lưới y tế tổ chức theo thành phần kinh tế
+ Cơ sở y tế Nhà nước
+ Cơ sở y tế Tư nhân
- Mạng lưới y tế tổ chức theo các lĩnh vực hoạt động
+ Lĩnh vực khám chữa bệnh, điều dưỡng, phục hồi chức năng
2
+ Lĩnh vực y tế dự phòng, y tế công cộng
+ Lĩnh vực đào tạo nhân lực y tế
+ Lĩnh vực giám định, kiểm định, kiểm nghiệm
+ Lĩnh vực dược - thiết bị y tế
+ Lĩnh vực giáo dục, truyền thông và chính sách y tế
- Mạng lưới y tế tổ chức theo 2 khu vực và các tuyến
+ Khu vực y tế phổ cập có nhiệm vụ đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân hàng ngày. Cụ thể là đáp ứng được các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe ban đầu, sử dụng các kỹ thuật thông thường, phổ biến nhưng có tác dụng tốt. Khu
vực y tế phổ cập bao gồm từ tuyến y tế Tỉnh/ Thành phố trực thuộc Trung ương trở
xuống. Hiện nay tuyến y tế tỉnh còn đảm nhiệm cả nhiệm vụ của khu vực y tế chuyên
sâu. 
+ Khu vực y tế chuyên sâu có nhiệm vụ sử dụng các kỹ thuật cao mũi nhọn, tập trung
vào các hoạt động NCKH, chỉ đạo khoa học kỹ thuật và hỗ trợ cho tuyến trước.

Mô hình chung hệ thống tổ chức Ngành Y tế  Việt Nam.


b. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức xây dựng
Thứ nhất, phục vụ nhân dân tốt nhất và hiệu quả cao
Các cơ sở y tế gần dân, rộng khắp ở mọi khu vực: Thành thị, nông thôn, miền
núi, hải đảo... Thực hiện đa dạng hoá các loại hình dịnh vụ chăm sóc sức khỏe (công,
tư, bán công, lưu động, tại nhà… ). Với đặc điểm này các cơ sở y tế Việt Nam có khả
năng đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cụ thể là đảm bảo phục vụ
chăm sóc sức khỏe nhân dân kịp thời, hiệu quả và công bằng, thực hiện các nội dung
3
và nguyên lý của chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Thứ hai, xây dựng theo hướng dự phòng chủ động và tích cực
Mạng lưới y tế Việt Nam xây dựng theo hướng dự phòng chủ động và tích cực
được thể hiện trong các nội dung hoạt động sau:
Mạng lưới y tế làm tham mưu tốt công tác vệ sinh môi trường: Vệ sinh ăn, ở, sinh
hoạt, lao động... Tích cực tuyên truyền giáo dục sức khỏe, vận động nhân dân thực hiện các
biện pháp dự phòng. Việc kết hợp chặt chẽ giữa ngành y tế với các ngành khác, với các tổ
chức xã hội nhằm thực hiện dự phòng theo hướng xã hội hoá.
Thứ ba, các cơ sở y tế xây dựng phù hợp với tình hình kinh tế địa phương
Quy mô cơ sở y tế hợp lý (số giường bệnh, kinh phí, cơ sở vật chất...). Địa điểm
của các cơ sở thuận lợi cho nhân dân trong quá trình sử dụng: Thuận tiện giao thông,
trung tâm của các điểm dân cư, đảm bảo bán kính ngắn cho nhân dân đi lại được dễ
dàng. Cán Bộ Y tế phù hợp về số lượng và chất lượng (loại cán bộ, trình độ chuyên
môn). Thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm từ khi bắt đầu xây
dựng cũng như suốt trong quá trình sử dụng. Động viên cộng đồng tham gia xây dựng
màng lưới về mọi mặt. Phát triển cân đối giữa các khu vực phổ cập và chuyên sâu,
phòng bệnh và chữa bệnh, y và dược, chuyên môn và hành chính, hậu cần.
Thứ tư, các cơ sở y tế xây dựng phù hợp trình độ khoa học kỹ thuật, khả năng
quản lý
Đủ trang thiết bị y tế thông thường và hiện đại để thực hiện những kỹ thuật điều
trị theo tuyến quy định, có tính đến khả năng sử dụng trang thiết bị của nhân viên y tế
tại cơ sở y tế. Diện tích sử dụng phù hợp, có thể đáp ứng được các yêu cầu hiện tại và
các yêu cầu mới về quy hoạch và phát triển kinh tế trong tương lai.
Thứ năm, đảm bảo không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ
Chất lượng phục vụ bao gồm chất lượng về chuyên môn kỹ thuật, chất lượng
quản lý ngành y tế và đạo đức phục vụ. Để không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ
cần:
Phát huy mọi tiềm lực về cơ sở, trang thiết bị, nhân lực trong các cơ sở y tế Nhà
nước, liên doanh và tư nhân để ngày càng nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ
nhân dân: lồng ghép các hoạt động phòng bệnh và chữa bệnh, khám chữa bệnh và đào
tạo, nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trong nước và trên
thế giới.
Tăng cường hợp tác trong khu vực và quốc tế, kêu gọi đầu tư để phát triển khoa
học kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao trình độ chuyên môn nhằm nâng cao
chất lượng phục vụ.
Đổi mới và hiện đại hóa công tác quản lý, trang thiết bị y tế; tăng cường đào
tạo, thực hiện đào tạo liên tục để nâng cao chất lượng phục vụ.
c. Về quy hoạch phát triển hệ thống y tế Việt Nam
Theo Kế hoạch Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn
4
2016 - 2020, nhiệm vụ thứ nhất liên quan đến quản trị hệ thống y tế là Đổi mới và
hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế từ trung ương đến địa phương sau khi Quy hoạch phát
triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2025 được phê duyệt theo hướng giảm đầu mối,
phù hợp với hội nhập quốc tế nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực ở các tuyến. Trong
đó có 3 nhiệm vụ cụ thể được nêu trong Dự thảo Quy hoạch, gồm: (i) sáp nhập bệnh
viện (BV) huyện và TTYT huyện thành TTYT có 2 chức năng là phòng bệnh, khám
chữa bệnh (KCB) và quản lý các trạm y tế xã; (ii) từng bước sáp nhập các trung tâm,
đơn vị làm nhiệm vụ dự phòng tuyến tỉnh thành Trung tâm kiểm soát bệnh tật tuyến
tỉnh (CDC), chuyển nhiệm vụ điều trị sang các bệnh viện; (iii) sáp nhập các đơn vị
kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, vắc-xin, sinh phẩm y tế, ATTP, TTBYT ở trung ương
thành đơn vị kiểm nghiệm, quản lý chất lượng thực phẩm và dược phẩm. Thành lập
một số trung tâm kiểm nghiệm vùng.
Kết quả đạt được
Về tổ chức y tế trung ương
Bộ Y tế tổ chức đánh giá việc thực hiện Nghị định số 63/2012/NĐ-CP ngày
31/8/2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Y tế. Trên cơ sở đó, đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số
75/2017/NĐ-CP ngày 20/06/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Y tế trong nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV (2016 - 2021). Về cơ bản,
vẫn giữ nguyên các nội dung trong Nghị định 63, theo đó Bộ Y tế là cơ quan của
Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về y tế, bao gồm các lĩnh vực: y tế
dự phòng, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, giám định y khoa, pháp y, pháp
y tâm thần, y dược cổ truyền, sức khỏe sinh sản, trang thiết bị y tế, dược, mỹ phẩm, an
toàn thực phẩm, bảo hiểm y tế, dân số, quản lý nhà nước các dịch vụ công trong lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Một số nội dung chi tiết có chỉnh sửa,
cập nhật theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.
Về tổ chức y tế địa phương
Bộ Y tế và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 51/2014/TTLT-BYT-
BNV ngày 11/12/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Sở Y tế và Phòng Y tế huyện. Bộ Y tế cũng đã xây dựng và ban hành Thông tư
37/2016/TT-BYT ngày 25/10/2016 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của TTYT huyện, Thông tư số 59/2015/TT-BYT ngày 31/12/2015 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của TTYT tỉnh. Đây là các
văn bản pháp lý quan trọng để tổ chức y tế địa phương tinh gọn, hiệu quả, đảm bảo sự
phối hợp, tính liên tục trong cung ứng dịch vụ y tế (DVYT).
Tuyến tỉnh: Thông tư 51 quy định “… thực hiện mô hình Trung tâm Kiểm soát
bệnh tật tuyến tỉnh trên cơ sở sáp nhập các trung tâm có cùng chức năng; các trung tâm
chuyên khoa, trung tâm có giường bệnh chuyển về bệnh viện đa khoa tỉnh hoặc thành
lập bệnh viện chuyên khoa khi có nhu cầu và có đủ điều kiện về nguồn lực”. Đây là
điểm mới có tính đột phá trong tổ chức hệ thống y tế dự phòng (YTDP). Tính đến
tháng 10/2016, đã có 23 tỉnh được UBND tỉnh ban hành quyết định quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế, trong đó 17 tỉnh quy định
5
thực hiện Trung tâm kiểm soát bệnh tật ở tuyến tỉnh. Mô hình y tế địa phương của các
tỉnh khác vẫn đang trong quy trình xem xét, phê duyệt của UBND các tỉnh.
Tuyến huyện: Thông tư 51 quy định “… TTYT huyện được tổ chức thống nhất
trên địa bàn cấp huyện, thực hiện chức năng về YTDP, KCB và PHCN; các phòng
khám đa khoa khu vực (PKĐKKV), nhà hộ sinh khu vực (nếu có) và TYT xã, phường,
thị trấn trên địa bàn huyện là đơn vị y tế thuộc TTYT huyện…”; “… chỉ thành lập
Bệnh viện đa khoa ở tuyến huyện khi thực sự có nhu cầu, điều kiện và phải đáp ứng đủ
tiêu chuẩn là bệnh viện hạng II trở lên…”. Đến tháng 10/2016, đã có 18 tỉnh quy định
thống nhất mô hình TTYT huyện thực hiện chức năng YTDP và KCB (14 tỉnh sáp
nhập TTYT với bệnh viện huyện, 4 tỉnh đã có mô hình TTYT huyện thực hiện 2 chức
năng từ trước). Việc thực hiện tổ chức TTYT huyện có 2 chức năng phù hợp với điều
kiện thực tế, tránh đầu tư dàn trải; tập hợp được nhân lực, có thể điều động, luân
chuyển, huy động cán bộ y tế giữa các tuyến; tăng kết nối giữa lĩnh vực YTDP và
KCB; đảm bảo được sự chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất giữa tuyến huyện và tuyến xã.
Tuyến xã: Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 33/2015/TT-BYT hướng dẫn chức
năng, nhiệm vụ của TYT xã, phường, thị trấn. Trước đó, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 117/2014/NĐ-CP về y tế xã. Đến nay đã có 62/63 tỉnh đã quy định TYT xã là
đơn vị y tế thuộc TTYT huyện.
Hình: Một số thay đổi về mô hình tổ chức y tế địa phương

Nguồn: Bộ y tế, Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2016, NXB. Y Hà
Nội-2018
Khó khăn, hạn chế
Một loạt các Nghị định, Thông tư liên quan đến tổ chức y tế địa phương được
ban hành, trong khi Quy hoạch tổng thể về phát triển hệ thống y tế chưa được phê

6
duyệt, đặt ra yêu cầu phải có kế hoạch hướng dẫn chi tiết về sắp xếp, tổ chức các khoa
phòng trong các đơn vị y tế tại địa phương. Văn bản về chức năng, nhiệm vụ và hoạt
động của Trung tâm kiểm soát bệnh tật tuyến tỉnh (CDC) được ban hành chậm (Thông
tư 26/2017/TT-BYT mới được ban hành ngày 26/6/2017).
Đổi mới tổ chức y tế cần phải kèm theo các quy định chi tiết về tổ chức, sắp xếp
lại về cơ sở vật chất, nhân lực y tế (tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức,
hợp đồng), cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính. Tuy nhiên, chưa có các hướng dẫn cụ
thể về các nội dung này, ví dụ về nhân lực, các quy định về định mức biên chế quy
định tại Thông tư liên tịch số 08/2007/ TTLT-BYT-BNV hướng dẫn định mức biên
chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước đến nay không còn phù hợp với tổ chức và
hoạt động của các cơ sở y tế
1.2. Vai trò của y tế tư nhân
a. Tình hình phát triển y tế tư nhân ở Việt Nam
Chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong CSSK (tức là bên cạnh
mạng lưới y tế công, cần phát triển mạng lưới y tế tư) đã được nêu lên trong Nghị
quyết 4 BCH Trung ương khóa VII năm 1993. Từ đó đến nay lĩnh vực y tế tư nhân
ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân
Các cơ sở y tế tư nhân có bước phát triển lớn, đóng vai trò quan trọng trong
cung ứng dịch vụ y tế cho người dân. Số bệnh viện và số giường bệnh ngoài công lập
tăng nhanh: Năm 2005 có 43 bệnh viện trên địa bàn của 9 tỉnh, thành phố với 3.324
giường bệnh, nay đã tăng lên 250 bệnh viện với 15.475 giường bệnh (đạt 1,7
giường/vạn dân, chiếm 15% số bệnh viện và 5,6% số giường bệnh trong toàn quốc), có
khoảng gần 40.000 nhà thuốc, 35.000 phòng khám đa khoa, chuyên khoa, cung cấp
43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số dịch vụ nội trú cho người dân (một số bệnh
viện 100% vốn nước ngoài có trang thiết bị hiện đại đã được đưa vào hoạt động). Một
số phòng khám bác sĩ gia đình tư nhân tham gia thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Việc phát triển y tế tư đã thể hiện mặt được là:
- Chia sẻ với y tế công một phần trong việc cung cấp dịch vụ, đặc biệt là việc
khám chữa bệnh;
- Huy động được nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng trong khi ngân sách nhà
nước chưa thể cung cấp đủ cho CSSK;
- Tạo ra sự canh tranh với y tế công nhằm nâng cao chất lượng khám và chữa
bệnh, phát huy tính năng động trong quản lý, khắc phục tính trì trệ, ỷ lại và đảm bảo
tính minh bạch trong quản lý tài chính, lập lại những kỷ cương về văn hóa ứng xử nói
riêng và đạo đức nghề nghiệp y tế nói chung;
- Tạo điều kiện cho người sử dụng các dịch vụ CSSK chọn lựa theo “nhu cầu”
và “yêu cầu”, đặc biệt là tạo cơ hội cho người  sử dụng các dịch vụ tiếp cận với kỹ
thuật cao;
- Tận dụng nguồn nhân lực cán bộ y tế đã nghỉ hưu mà vẫn còn sức khỏe và có
7
nhiều kinh nghiệm về nghề nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh các đóng góp tích cực của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
tư nhân, còn bộc lộ nhiều hạn chế về mặt quản lý. Các phòng khám tư nhân còn vi
phạm các quy định về pháp luật khám bệnh, chữa bệnh như: mời bác sỹ người nước
ngoài hành nghề khi chưa có chứng chỉ hành nghề; hành nghề quá phạm vi chuyên
môn cho phép; sử dụng thuốc không rõ nguồn gốc, thuốc chưa được phép lưu hành tại
Việt Nam; quảng cáo quá phạm vi hoạt động chuyên môn cho phép; không công khai
giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh hoặc có niêm yết giá nhưng thu phí cao hơn giá đã
niêm yết; việc lưu đơn thuốc, hồ sơ bệnh án chưa đúng theo quy định của Bộ Y tế.
b. Một số giải pháp đổi mới quản lý y tế tư tại Việt Nam
- Về đổi mới nhận thức:
Trước hết phải xác định mối quan hệ giữa y tế công và y tế tư: Nói y tế công là
chủ đạo có nghĩa là Nhà nước phải định hướng hệ thống y tế về chính sách (đặc biệt
những chính sách liên quan đến định hướng công bằng, hiệu quả, phát triển); về bố trí
mạng lưới để cân bằng cung - cầu trong các chuyên khoa, địa phương; về định hướng
kỹ thuật để đảm bảo cho phát triển một nền y tế toàn diện; về thanh tra, kiểm tra để
bảo đảm nền y tế thực hiện đúng các chính sách đã đề ra. Nói y tế công là chủ đạo,
không nhất thiết y tế công phải chiếm một tỷ lệ giường bệnh cao trong mọi chuyên
khoa và mọi lĩnh vực. Chẳng hạn như những vấn đề liên quan đến thỏa mãn “yêu cầu”
dựa trên khả năng chi trả thì có thể trao cho y tế tư và khuyến khích y tế tư đầu tư,
trong khi y tế công phải tập trung cho đáp ứng theo “nhu cầu” dựa trên tình hình bệnh
tật phổ biến của nhân dân mỗi vùng, đặc biệt là lĩnh vực y tế dự phòng. Phát triển y tế
tư không nhất thiết chỉ khuyến khích ở thành thị mà ngay tại tuyến y tế cơ sở, chúng ta
có thể khuyến khích các hình thức chăm sóc sức khỏe gia đình do y tế tư đảm nhận
dưới các hình thức phù hợp.
Phải nhận thức y tế tư là một bộ phận cấu thành không tách rời trong hệ thống y
tế Việt Nam và ứng xử với y tế tư một cách bình đẳng trên mọi khía cạnh quản lý như
y tế công. Muốn phát triển y tế tư thì ngoài các chủ trương còn cần có những chính
sách cụ thể để khuyến khích đặc biệt với các loại hình dịch vụ không vì lợi nhuận và
doanh nghiệp nhỏ vì lợi nhuận, bởi vì trên thực tế của tất cả các nước, nhất là các nước
nghèo, lĩnh vực CSSK không phải là lĩnh vực thu hút các nhà đầu tư do mang lại lợi
nhuận ít hơn việc đầu tư vào các ngành nghề khác, nếu chưa nói là có nhiều rủi ro. Bên
cạnh chính sách khuyến khích, Nhà nước cần có những chính sách bảo hộ y tế tư, nhất
là y tế tư tại các vùng nghèo, khó khăn (kể cả luật bảo vệ cán bộ y tế khi làm nhiệm
vụ). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã nói rõ: “Hoàn thiện cơ chế
chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của
nền kinh tế”. Báo cáo chính trị trình trước Đại hội XI cũng chỉ rõ: “Phát triển mạnh
các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và
quy định của pháp luật”.
- Về mặt tổ chức
Một là, xây dựng chiến lược phát triển y tế tư ở Việt Nam. Chiến lược này cần
8
khẳng định phát triển y tế tư là một chủ trương lâu dài của y tế Việt Nam, y tế tư phải
được coi là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong hệ thống y tế Việt Nam.
Hai là, chuyển đổi cung cách quản lý y tế tư. Khác với quản lý y tế công, điều
chủ yếu trong quản lý y tế tư là quản lý mục đích đầu tư, chứ không phải chỉ có quản
lý kỹ thuật và thu chi tài chính đơn thuần như trong quản lý y tế công.
Ba là, tùy theo mục đích đầu tư mà Nhà nước áp dụng các chính sách sao cho
phù hợp. Chỉ có như vậy mới hạn chế mặt tiêu cực của y tế tư do khuynh hướng chạy
theo lợi nhuận mà coi nhẹ tính nhân đạo trong y tế, đồng thời lại khuyến khích những
mặt ưu điểm của y tế tư.
Bốn là, phải coi trọng việc tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nhà quản lý - nhà đầu tư
- nhà khoa học (thầy thuốc). Vai trò của nhà đầu tư rất quan trọng: Họ quyết định mục
đích đầu tư, ấn định cả cung cách làm việc, ứng xử của thầy thuốc, nhất là trong các
cơ sở dịch vụ vì lợi nhuận. Trong nhiều trường hợp, thầy thuốc chỉ đóng vai trò người
làm thuê cho nhà đầu tư và phải tuân theo những yêu cầu và mục đích của nhà đầu tư.
Khi ấy vai trò chủ thể trong hoạt động lại là các nhà đầu tư, chứ không phải là thầy
thuốc. Bởi vậy không coi trọng việc tạo liên kết giữa các nhà đầu tư với các nhà quản
lý và thầy thuốc (liên kết ở đây là muốn nói đến liên kết trong quản lý, tạo ra sự đồng
thuận để phát triển y tế tư đúng hướng chứ không phải liên kết nhằm lợi ích cá nhân và
lợi nhuận không chính đáng) thì không thể giải quyết được những bất cập trong hoạt
động y tế tư.
Năm là, đưa ra các mô hình cơ sở dịch vụ tư và phân loại theo tiêu chí mục đích
đầu tư. Từ đó xây dựng và áp dụng những chính sách phù hợp với từng loại mô hình.
Có chính sách khuyến khích với các mô hình không vì lợi nhuận (như chính sách thuế,
hỗ trợ vốn, đất đai...), trái lại quản lý chặt chẽ các mô hình vì lợi nhuận như trong quản
lý doanh nghiệp. Nếu không làm như vậy mà cứ đánh đồng mọi cơ sở y tế tư thành
một loại hình để quản lý thì không thể phát huy những ưu điểm của y tế tư và cũng
không hạn chế được những bất cập của y tế tư.
Sáu là, nghiên cứu hoàn chỉnh những quy định cụ thể để quản lý y tế tư. Theo
kinh nghiệm của các nước thì bộ quy định ấy tập trung vào 5 loại sau: (1) Quy định về
đăng ký, cấp phép hoạt động cho cơ sở hành nghề; (2) Các quy định về tự kiểm soát
thực hành chuyên môn; (3) Quy định về kiểm định cho cơ sở khám chữa bệnh; (4) Quy
định về công bố thông tin; (5) Quy định kiểm soát tài chính thông qua hệ thống chi trả.
Bảy là, tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật liên quan đến y tế tư, tăng
cường vai trò của hội (Tổng hội Y học Việt Nam và các hội thành viên) trong giám sát,
phát huy vai trò của người bệnh trong hoạt động giám sát.
Trong giai đoạn hiện nay, phát triển y tế tư là một xu thế tất yếu và phù hợp với
nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, y tế tư nhân
ở nước ta chưa phát triển đúng với tiềm năng và nhu cầu của xã hội. Nguyên nhân
hàng đầu lại nằm ở những bất cập trong công tác quản lý. Vì vậy đổi mới quản lý y tế
tư có một ý nghĩa quyết định để phát triển y tế tư trong giai đoạn hiện nay.

9
1.3. Chất lượng nhân lực ngành y tế
a. Kết quả đạt được
- Về số lượng và trình độ nhân lực y tế. Đội ngũ cán bộ y tế đã có những bước
phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Tổng số cán bộ y tế trong toàn ngành năm
2009 là 364.876 trong đó, có 19.083 dược sĩ; 56.661 bác sĩ; 1.510 cán bộ y tế công
cộng; 55.999 y sĩ.
Đến năm 2014, tổng số cán bộ trong toàn ngành y tế tăng lên 430.496 người,
trong đó có 70.362 bác sĩ (kể cả tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ); 21.843 dược sĩ (kể cả tiến
sĩ, phó tiến sĩ); 1.733 cán bộ y tế công cộng (bao gồm tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân y tế công
cộng); 59.060 y sĩ, 9.426 điều dưỡng đại học, 17.052 kỹ thuật viên y, 44.867 dược sĩ
trung học và kỹ thuật viên dược, 83.797 điều dưỡng cao đẳng và trung học,v.v..
Số bác sĩ trên 1 vạn dân tăng: năm 2010 là 7,2 đến năm 2014 đạt 7,8 (năm 2015
đạt 8 bác sĩ/vạn dân.
- Về phân bố. Thực hiện Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân và Quy hoạch tổng thể hệ thống y tế Việt Nam, với mục tiêu đổi mới và
hoàn thiện hệ thống y tế xây dựng các tuyến hợp lý, y tế tuyến huyện có sự cải thiện về
nhân lực. Tổng số bác sĩ tuyến huyện tăng từ 15.521 người (năm 2010) lên 18.870
người (năm 2014), tổng số dược sĩ đại học ở các bệnh viện huyện tăng từ 698 người
(năm 2010) lên 1.699 người năm 2014.
Tại tuyến xã, năm 2013 có 76,9% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc (bao gồm cả
các trạm y tế xã có bác sĩ làm việc từ 3 ngày/tuần trở lên). Ở các huyện miền núi phía
Bắc và Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở một số huyện miền núi,
vùng sâu, vùng xa tỷ lệ này thấp hơn.
Bên cạnh đó, các kỹ thuật chuyên sâu, kỹ thuật cao cũng được khuyến khích
triển khai để khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến
tỉnh và đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa trong ngành y tế.
Một số chuyên khoa và tuyến y tế cơ sở khó tuyển dụng về nhân lực y tế cũng
đã được Nhà nước và ngành y tế tìm ra những giải pháp nhằm tháo gỡ. Một số chính
sách, dự án đã được ban hành và triển khai như: Quyết định số 319/QĐ-TTg (2013)
của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án khuyến khích đào tạo và phát triển nhân
lực y tế các chuyên ngành Lao, Phong, Tâm thần, Pháp y, Giải phẫu bệnh giai đoạn
2013-2020; Dự án thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (ưu tiên
62 huyện nghèo) theo Quyết định số 585/QĐ-BYT đã được triển khai và đến năm
2016 có khoảng 500 bác sĩ trẻ về công tác tại các vùng này.
- Về công tác đào tạo. Mạng lưới các cơ sở đào tạo cán bộ y tế đã được mở rộng
đáng kể trong thời gian qua. Tính đến tháng 6-2014, cả nước đã có 173 cơ sở đào tạo
cán bộ y tế ở tất cả các trình độ. Trong đó, có 35 cơ sở đào tạo trình độ đại học, 44 cơ
sở đào tạo trình độ cao đẳng và 123 cơ sở đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp.
Hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ y tế đã được sắp xếp lại, mở rộng về quy mô trên cả

10
nước với nhiều hình thức đào tạo nhằmkhắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ y tế, nhất
là vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Hệ thống các trường này tạo ra nguồn bổ sung
cho đội ngũ nhân lực y tế dồi dào. Số lượng sinh viên đại học ra trường tăng nhanh,
năm 2014 có trên 7 nghìn bác sĩ ra trường, tăng hơn một nghìn so với năm 2013.
Nguồn nhân lực điều dưỡng được đào tạo bao gồm các bậc đại học, cao
đẳng, trung cấp với quy mô lớn. Với chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng, trung cấp điều
dưỡng từ khoảng trên 11 nghìn người năm 2006 và tăng dần đến trên 35 nghìn
người năm 2014. Đào tạo sau đại học (bác sĩ chuyên khoa I, II, nội trú, thạc sĩ và
tiến sĩ) ngành y tế được tăng cường ở tất cả các loại hình, số lượng học viên sau đại
học tốt nghiệp năm 2010 là 3.378 người, đến năm 2013 đã tăng lên 4.680 người.
Thực hiện Đề án 1816 về luân chuyển cán bộ y tế,từ năm 2008 đến năm
2014 đã có 15 nghìn lượt cán bộ của các bệnh viện thuộc Bộ Y tế đi luân phiên
chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ tuyến dưới; 1.905 lượt cán bộ thuộc bệnh viện tỉnh
được cử luân phiên hỗ trợ bệnh viện huyện và 3.234 lượt cán bộ thuộc bệnh viện
huyện cử xuống hỗ trợ 1.815 trạm y tế xã thực hiện khám chữa bệnh qua đó nhằm
chuyển giao kỹ thuật y học tiên tiến, từng bước đào tạo cán bộ có nghiệp vụ tại cơ
sở.
b. Một số bất cập, hạn chế
Công tác đào tạo cán bộ y tế chủ yếu vẫn dựa trên năng lực và công tác bảo
đảm chất lượng của các trường y dược. Chương trình đào tạo chưa được thực hiện hiệu
quả do còn hạn chế trong việc hướng dẫn, theo dõi, giám sát và đánh giá chặt chẽ;
chương trình đào tạo chưa hội nhập với thế giới cả về cách tiệp cận, phương pháp và
nội dung đào tạo.
Kết quả giám sát tại 44 trường cao đẳng y tế cho thấy, nhiều trường đào tạo quy
mô lớn (có 5 trường trên 2 nghìn sinh viên) nhưng nhân lực giảng viên trình độ sau đại
học còn ít (42% số trường còn dưới 20% giảng viên trình độ đại học). Kết quả giám sát
tại 10 trường đại học về đào tạo theo chế độ cử tuyển, liên thông và theo địa chỉ sử
dụng cho thấy số lượng cử tuyển, liên thông y đa khoa và liên thông ngành dược lớn.
Hiện nay, Bộ Y tế vẫn chưa có chương trình thực tập chuẩn 18 tháng tại các
bệnh viện cho các bác sĩ sau khi tốt nghiệp đại học y để đủ điều kiện cấp chứng chỉ
hành nghề theo qui định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Chính vì vậy, chưa tạo
được sự kết nối giữa các hoạt động đào tạo liên tục với việc cấp chứng chỉ hành
nghề.
Chất lượng nhân lực y tế, đặc biệt là ở tuyến xã trong sơ cấp cứu, chẩn đoán và
điều trị một số bệnh, cũng như kiến thức về xử lý bệnh dịch còn hạn chế. Theo một
nghiên cứu ở khu vực miền núi, chỉ có 17,3% số bác sĩ và y sĩ được hỏi có kiến thức
và kỹ năng đúng trong xử trí sơ cấp cứu, 17% biết được các dấu hiệu nguy hiểm trong
thời kỳ phụ nữ mang thai, 50,5% biết cách chẩn đoán tăng huyết áp và 15,6% biết cách
xử trí một vụ dịch...).
Phân bổ nhân lực y tế còn nhều bất cập. Mặc dù đã có những biến chuyển trong
tuyển dụng, phân bổ nhân lực nhưng vẫn còn nhiều bất cập; chênh lệch về số lượng và
11
chất lượng nhân lực y tế giữa khu vực điều trị và dự phòng, giữa các chuyên ngành,
giữa trung ương và địa phương.
Phân bố nhân lực y tế chưa hợp lý giữa các khu vực địa lý, giữa thành thị và
nông thôn, đặc biệt khu vực miền núi.Hiện nay, cán bộ y tế có trình độ đại học trở lên
tập trung chủ yếu ở các thành phố và khu vực kinh tế phát triển. Hiện có tới 45% nhân
lực y tế có trình độ đại học trở lên ở tuyến trung ương, trong khi ở địa phương chỉ là
23%.
Tại địa phương, 50% bác sĩ và 69% dược sĩ đại học làm việc ở tuyến tỉnh, 34%
bác sĩ và 31% dược sĩ đại học làm việc ở tuyến huyện, 17% bác sĩ và 1% dược sĩ đại
học làm việc ở tuyến xã.
Số lượng dược sĩ đại học ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 48%
tổng số dược sĩ của cả nước; chủ yếu (92%) số dược sĩ này làm việc trong khu vực tư
nhân, chiếm hơn một nửa số dược sĩ thuộc khối tư nhân của cả nước19. Tại các bệnh
viện đa khoa tuyến tỉnh, số lượng dược sĩ đại học chỉ chiếm tỷ lệ 19,6% nhân lực dược
chung.
Tỷ số bác sĩ trên một vạn dân trên cả nước tăng đều và ở một số địa phương khá
cao, nhưng ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, tỷ lệ này vẫn
còn thấp.
1.4. Hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân
a. Vấn đề về chính sách và Luật Bảo hiểm Y tế 2008 (sửa đổi bổ sung năm
2014)
Phát triển hệ thống BHYT tiến tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân được Đảng
và Nhà nước ta xác định là một trong những chính sách quan trọng, là trụ cột trong hệ
thống an sinh xã hội, góp phần tích cực vào việc ổn định xã hội, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở đó, Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành quan trọng để sớm hoàn thành
mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Cụ thể:
Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/06/2012 của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020;
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020;
Quyết định số 538/QĐ/TTg ngày 29/03/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn 2012 -2015 và
2020.
Luật Bảo hiểm Y tế năm 2008 ra đời và đến năm 2014 Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật BHYT đã quy định những nội dung cơ bản, phù hợp với điều
kiện, tình hình kinh tế - xã hội hiện nay, nhất là vấn đề phát triển, mở rộng diện bao
phủ BHYT.
Những điểm cơ bản trong Luật Bảo hiểm Y tế:

12
- Tham gia BHYT là bắt buộc. Theo lộ trình bao phủ của các nhóm đối tượng,
đến 2014 nhóm dân số cuối cùng phải tham gia BHYT theo Luật định để tiến tới mục
tiêu bao phủ toàn dân; nhà nước hỗ trợ kinh phí đóng BHYT cho nhóm bảo trợ XH,
người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, HSSV.
- Phạm vi quyền lợi được xác định tương đối toàn diện, cả dự phòng (cá nhân),
chữa bệnh và phục hồi chức năng; Mức đóng tối đa là 6% và được xác định trên cơ sở
tiền lương, tiền công;
- Áp dụng quy định cùng chi trả (với một số nhóm đối tượng) như một biện
pháp quản lý chống lạm dụng;
- Bình đẳng giữa cơ sở y tế công và tư trong cung ứng dịch vụ KCB cho người
bệnh có BHYT;
- Tiếp tục duy trì hệ thống điều trị theo tuyến/ bậc thang điều trị, bảo đảm thuận
lợi, tiết kiệm chi phí, chống quá tải ở các cơ sở tuyến trên;
- Thay đổi và linh hoạt áp dụng các cơ chế thanh toán giữa quỹ BHYT và cơ sở
y tế cho phù hợp, hướng tới chất lượng, hiệu quả và an toàn quỹ;
- Luật hóa việc giám định KCB BHYT và vai trò, trách nhiệm của BHXH trong
thực hiện công tác giám định;
- Quỹ BHYT vừa tập trung thống nhất, vừa có sự phân cấp quản lý, sử dụng
giữa trung ương và địa phương; các địa phương được sử dụng một phần kinh phí còn
dư để đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, nâng cao chất lượng dịch vụ;
- Quản lý nhà nước về BHYT, điều tiết mối quan hệ 3 bên giữa BHYT - cơ sở
KCB - người tham gia BHYT, được giao cho Bộ Y tế; UBND tỉnh/TP có trách nhiệm
quản lý và chỉ đạo thực hiện chính sách BHYT tại địa phương.
b. Kết quả thực hiện
- Thành tựu.
Tỷ lệ người dân tham gia BHYT tăng từ 45% (năm 2009) lên 89,6% (tháng
6/2019) vượt chỉ tiêu mà Thủ tướng Chính phủ giao là 88,1%. Trong đó người nghèo,
người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách xã hội đã được
Nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng BHYT.
Hiện chỉ còn hơn 10% dân số (khoảng 10 triệu người) chưa có BHYT, thuộc
nhóm tham gia theo hộ gia đình, làm nông lâm ngư nghiệp có mức sống trung bình,
người lao động trong doanh nghiệp tư nhân và sinh viên.
Chất lượng khám chữa bệnh BHYT, sự hài lòng của người bệnh ngày càng
tăng, người dân đã tin tưởng vào chính sách BHYT...Về quyền lợi của người tham gia
BHYT, do người tham gia BHYT thuộc các nhóm đối tượng khác nhau có các mức
hưởng BHYT khác nhau: Người nghèo, đối tượng ưu đãi xã hội, trẻ em được hưởng
100%; người cận nghèo, người nghỉ hưu hưởng mức 95%, và người lao động hưởng
80%.
Quyền lợi về khám chữa bệnh BHYT tương đối toàn diện và ngày càng được
13
mở rộng. Danh mục thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật được sử dụng theo năng lực
chuyên môn, tuyến chuyên môn kỹ thuật, vừa để đảm bảo quyền lợi của người có thẻ
khi đến cơ sở y tế, vừa là yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của cơ sở y
tế.
Cùng với việc mở rộng số lượng người tham gia BHYT, ngành y tế cũng tập
trung nâng cao chất lượng khám chữa bệnh BHYT với hàng loạt biện pháp đổi mới,
cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người bệnh như: Lấy người bệnh làm
trung tâm; đổi mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm tra, đánh giá bệnh viện
hàng năm; triển khai các đề án giảm tải, bác sĩ gia đình. Đặc biệt là đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện, quản lý BHYT để giảm thủ tục,
giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, thực hiện công khai, minh bạch các khoản chi
phí mà người bệnh phải chi trả.
Tỷ lệ chi trả chi phí y tế từ tiền túi của người sử dụng dịch vụ giảm từ 49% năm
2012 xuống còn khoảng 40% năm 2018
- Hạn chế
Trong phát triển người tham gia BHYT còn gặp một số khó khăn, vướng mắc
như:
Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHYT là một trong những nhiệm
vụ quan trọng nhưng một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đơn vị chưa quan
tâm đúng mức, coi đây là nhiệm vụ riêng của ngành BHXH, hình thức tuyên truyền
chưa phù hợp với đối tượng dẫn tới hiệu quả chưa cao.
Một bộ phận người dân chưa nhận thức đúng, đầy đủ về chính sách BHYT,
chưa có ý thức bảo vệ sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng.
Tình trạng trốn đóng, chậm đóng BHYT của một số chủ sử dụng lao động vẫn
xẩy ra ở hầu hết các địa phương.
Chất lượng KCB BHYT chưa đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, nhất là y tế
tuyến cơ sở.
c. Các giải pháp
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHYT với những đổi mới về
nội dung, hình thức phù hợp, hấp dẫn với người dân, từng nhóm đối tượng.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách TTHC, ứng dụng CNTT nhằm đơn giản hóa thủ
tục, cắt giảm mẫu biểu không cần thiết và giảm chỉ tiêu kê khai, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tham gia BHYT.
Phát triển hệ thống đại lý thu BHXH, BHYT theo hướng chuyên nghiệp, thân
thiện; đề xuất tăng mức chi phí thù lao, linh hoạt cho đại lý thu để khuyến khích việc
vận động người tham gia BHYT.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động có dấu hiệu vi
phạm về tình hình thực chính sách, pháp luật BHYT; kiên quyết xử lý các hành vi vi
phạm theo quy định của pháp luật.
14
Tăng cường chất lượng KCB BHYT, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, nhất
là y tế tuyến cơ sở. Xử lý kịp thời các vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách
BHYT để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên.
2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ VIỆT NAM
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, là một trong những nhiệm vụ
quan trọng, và là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng
để lãnh đạo và tổ chức thực hiện vấn đề quan trọng này. Trong đó phải kể đến các
Nghị quyết quan trọng của Đảng như:
Nghị quyết số 04 của Hội nghị lần thứ 4 ngày 14/01/1993 của BCHTW Đảng
khoá VII về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân
dân;
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005, của Bộ Chính trị về Công tác bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới;
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Thông qua các Nghị quyết quan trọng trên, chủ trương của Đảng về phát triển y
tế Việt Nam có những nội dung cơ bản sau:
2.1. Chủ trương về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân.
Xuất phát từ quan điểm sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả
xã hội. Do đó, vấn đề bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là nghĩa vụ,
trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự
tham gia tích cực của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các
ngành, trong đó ngành Y tế là nòng cốt.
2.2. Chủ trương về đầu tư, huy động nguồn lực cho y tế; các cơ chế, chính sách để
phát triển y tế.
Đảng và Nhà nước Việt Nam coi đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ
chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân; tổ chức cung cấp dịch vụ công, bảo đảm các dịch vụ cơ
bản, đồng thời khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ
theo yêu cầu.
2.3. Chủ trương xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và gần
dân.
Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả nhằm tạo cơ hội
thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ với chất
lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Xây dựng hệ thống y tế theo phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh; y tế dự
15
phòng là then chốt, y tế cơ sở là nền tảng; y tế chuyên sâu đồng bộ và cân đối với y tế
cộng đồng; gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại, quân y và dân y. Phát triển
dược liệu, công nghiệp dược và thiết bị y tế.
Hệ thống mạng lưới y tế phải rộng khắp, gần dân; được chỉ đạo thống nhất,
xuyên suốt về chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành từ Trung ương tới địa phương trong
phạm vi cả nước, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa
phương.
2.4. Chủ trương phát triển y tế tư nhân, cung cấp dịch vụ y tế công cơ bản.
Các loại hình y dược tư nhân hoạt động theo pháp luật là bộ phận cấu thành của
hệ thống y tế. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục đầu tư; có chính sách
khuyến khích về thuế, đất đai... để phát triển các cơ sở y tế ngoài công lập. Khuyến
khích các hoạt động nhân đạo vì sức khoẻ.
Mọi người dân đều được bảo đảm bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong thụ
hưởng các dịch vụ y tế. Tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế và có cơ chế giá, cơ chế
đồng chi trả nhằm phát triển vững chắc hệ thống y tế cơ sở.
2.5. Chủ trương về xây dựng đội ngũ nhân lực y tế.
Xuất phát từ quan điểm, nghề y là một nghề đặc biệt. Do đó, nhân lực y tế phải
đáp ứng yêu cầu chuyên môn và y đức; cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi
ngộ đặc biệt.
Mỗi cán bộ, nhân viên y tế phải không ngừng nâng cao đạo đức nghề nghiệp và
năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội, thực hiện lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là người mẹ
hiền”.
2.6. Chủ trương về bảo hiểm y tế toàn dân.
Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng trong
chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người giầu với
người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già; công bằng trong đãi
ngộ đối với cán bộ y tế.
Tuyên truyền, giáo dục, để mọi người dân đều tự nguyện tham gia bảo hiểm y
tế. Đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm y tế, chú ý các loại hình dựa vào cộng đồng;
tạo nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước, viện trợ, các quỹ từ thiện, quỹ cộng đồng,
quỹ xoá đói giảm nghèo... để trợ giúp cho người nghèo, người sống ở nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa tham gia các loại hình bảo hiểm y tế phù hợp. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách, củng cố tổ chức và nâng cao năng lực quản lý, điều hành của hệ thống
bảo hiểm y tế. Có phương thức thanh toán phù hợp để người tham gia bảo hiểm y tế
được chăm sóc với chất lượng tốt, không bị phân biệt đối xử trong khám chữa bệnh.

16
3. CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Y TẾ VIỆT NAM
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham
gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và của toàn xã
hội trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân
Cấp uỷ, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân, coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị
quan trọng hàng đầu. Thống nhất nhận thức, quyết tâm hành động của cả hệ thống
chính trị và của mỗi người dân trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ cho bản
thân, gia đình, cộng đồng.
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ nhân dân. Đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về y tế và các lĩnh vực ảnh
hưởng đến sức khoẻ như môi trường, thể dục, thể thao, văn hoá… vào chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp. Tăng cường giám sát, kiểm
tra, thanh tra việc thực hiện các chế độ, chính sách về y tế và các lĩnh vực liên quan tới
sức khoẻ.
Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và của
cả cộng đồng trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Phân
công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với từng ngành, từng cơ quan, đoàn thể trong thực
hiện các mục tiêu, giải pháp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ, trước hết là trong
bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, rèn luyện thân thể, xây dựng
nếp sống văn minh, tham gia bảo hiểm y tế toàn dân và thực hiện các quy định về
phòng dịch, phòng và chữa bệnh.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, các phong trào thi đua,
các cuộc vận động có các nội dung, tiêu chí liên quan tới công tác bảo vệ, chăm sóc,
nâng cao sức khoẻ. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, tạo các điều kiện thuận lợi
để huy động các tổ chức xã hội, tôn giáo tham gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân theo quy định của pháp luật.
3.2. Nâng cao sức khoẻ nhân dân
Tập trung nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, đề cao trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, toàn xã hội và của mỗi người dân; xây dựng và tổ chức thực hiện đồng
bộ các đề án, chương trình về nâng cao sức khoẻ và tầm vóc người Việt Nam. Quan
tâm các điều kiện để mỗi người dân được bảo vệ, nâng cao sức khoẻ, đặc biệt là ở
vùng nông thôn, miền núi, hải đảo.
Khuyến nghị, phổ biến chế độ dinh dưỡng, khẩu phần ăn phù hợp cho từng
nhóm đối tượng, nguồn nguyên liệu, khẩu vị của người Việt. Các sản phẩm, thực phẩm
đóng gói phải có đầy đủ thông tin về thành phần, năng lượng, cảnh báo về sức khoẻ
trên bao bì. Triển khai các chương trình bổ sung vi chất cần thiết cho phụ nữ có thai,
phụ nữ cho con bú, trẻ em, người cao tuổi.
Khẩn trương hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm.
Thực hiện việc kiểm soát an toàn thực phẩm dựa trên đánh giá nguy cơ, sản xuất kinh

17
doanh theo chuỗi, truy xuất nguồn gốc.
Tập trung chỉ đạo công tác phòng, chống và cai nghiện ma tuý. Thực hiện đồng
bộ các giải pháp nhằm giảm tiêu thụ rượu, bia, thuốc lá.
Đổi mới căn bản giáo dục thể chất, tâm lý, tăng số môn tập luyện tự chọn trong
nhà trường, kết hợp chặt chẽ với tập luyện ngoài nhà trường. Phát triển mạnh các
phong trào rèn luyện thân thể. Tăng cường công tác y tế học đường.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm thiểu ảnh hưởng xấu từ ô nhiễm môi
trường, biến đổi khí hậu tới sức khoẻ. Tập trung nguồn lực xây dựng, nâng cấp các hệ
thống cấp thoát nước; bảo đảm người dân được tiếp cận sử dụng nước sạch, nhà tiêu
hợp vệ sinh; xử lý chất thải; khắc phục ô nhiễm các dòng sông, các cơ sở sản xuất.
Tăng cường cải tạo, hạn chế san lấp hệ thống kênh rạch, hồ ao; chống lạm dụng hoá
chất trong nuôi trồng.
Phát huy hiệu quả các thiết chế, đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, thể thao.
Tăng cường tuyên truyền, vận động xây dựng nếp sống văn minh, lối sống lành mạnh,
vệ sinh; xoá bỏ các tập tục lạc hậu ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.
Triển khai đồng bộ các giải pháp phòng, chống thảm hoạ, bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông, an toàn lao động; phòng, chống tai nạn, thương tích, cháy, nổ, bệnh
nghề nghiệp.
3.3. Nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở
Bảo đảm an ninh y tế, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống dịch
bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Ứng phó kịp thời với các tình huống khẩn cấp. Tăng
nguồn lực trong nước cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, bệnh lao, bệnh sốt rét. Củng
cố vững chắc hệ thống tiêm chủng. Tăng số vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng
phù hợp với khả năng ngân sách.
Phát triển y học gia đình. Triển khai đồng bộ các hoạt động phòng, chống các
bệnh không lây nhiễm; chú trọng dự phòng, nâng cao năng lực sàng lọc, phát hiện sớm
và kiểm soát bệnh tật; đẩy mạnh quản lý, điều trị các bệnh không lây nhiễm, bệnh mạn
tính, chăm sóc dài hạn tại y tế cơ sở. Đẩy mạnh kết hợp quân - dân y, y tế ở vùng biên
giới, hải đảo. Kết nối y tế cơ sở với các phòng khám tư nhân, phòng chẩn trị đông y.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế cấp xã để thực hiện
vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ. Triển khai đồng bộ hệ thống
công nghệ thông tin trong quản lý trạm y tế, tiêm chủng, quản lý bệnh tật, hồ sơ sức khoẻ
người dân gắn với quản lý thẻ, thanh toán bảo hiểm y tế.
Thiết lập hệ thống sổ sức khoẻ điện tử đến từng người dân. Thực hiện cập nhật
các thông tin, chỉ số sức khoẻ khi đi khám sức khoẻ, chữa bệnh. Có cơ chế, lộ trình
phù hợp, từng bước thực hiện để tiến tới mọi người dân đều được theo dõi, quản lý sức
khoẻ, khám và chăm sóc sức khoẻ định kỳ.
Chú trọng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, đặc biệt là ở khu vực miền núi,
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo. Quan tâm chăm sóc sức khoẻ
người cao tuổi, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng bởi hậu quả của chiến tranh và
18
các đối tượng ưu tiên; phát triển các mô hình chăm sóc người cao tuổi phù hợp.
3.4. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải
bệnh viện
Phát triển hệ thống khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng hoàn chỉnh ở từng
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bên cạnh hệ thống bệnh viện thuộc lực lượng
vũ trang; tăng cường phối hợp quân - dân y.
Hoàn thiện hệ thống phác đồ, quy trình, hướng dẫn điều trị thống nhất trong cả
nước. Ban hành tiêu chí đánh giá, thực hiện kiểm định độc lập, xếp hạng bệnh viện
theo chất lượng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thực hiện lộ trình thông tuyến khám, chữa bệnh; lộ trình liên thông, công nhận
kết quả xét nghiệm, giữa các cơ sở khám, chữa bệnh gắn với nâng cao chất lượng dịch
vụ và có chính sách khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ ngay tại tuyến dưới.
Phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh; tăng cường đào tạo, luân phiên cán bộ y
tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Ban hành danh mục dịch vụ kỹ thuật các
tuyến phải có đủ năng lực thực hiện, tiến tới bảo đảm chất lượng từng dịch vụ kỹ thuật
đồng đều giữa các tuyến.
Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển y học cổ truyền, tăng cường kết
hợp với y học hiện đại trong phòng bệnh, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, nâng
cao sức khoẻ.
Phát triển đồng bộ, tạo môi trường bình đẳng cả về hỗ trợ, chuyển giao chuyên
môn kỹ thuật giữa các cơ sở khám, chữa bệnh công và tư.
Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức; xây dựng bệnh viện xanh -
sạch - đẹp, an toàn, văn minh, hướng tới thực hiện chăm sóc toàn diện người bệnh.
Tập trung đẩy nhanh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin từ
quản lý bệnh viện, giám định bảo hiểm y tế, bệnh án điện tử tới chẩn đoán, xét nghiệm,
khám, chữa bệnh từ xa.
Tăng cường khám, chữa bệnh cho các đối tượng chính sách. Phát huy thế mạnh
y tế của lực lượng vũ trang; triển khai các mô hình tổ chức linh hoạt, phù hợp với điều
kiện từng nơi để bảo đảm dịch vụ khám, chữa bệnh cho người dân vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo.
3.5. Đẩy mạnh phát triển ngành Dược và thiết bị y tế
Bảo đảm thuốc đủ về số lượng, tốt về chất lượng, giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu
phòng, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong
nước.
Tăng cường đấu thầu tập trung, giảm giá thuốc, thiết bị, hoá chất, vật tư y tế,
bảo đảm công khai, minh bạch. Hoàn thiện cơ chế đầu tư, mua sắm và kiểm soát chặt
chẽ chất lượng, chống thất thoát, lãng phí.
Quản lý chặt chẽ nhập khẩu thuốc. Củng cố hệ thống phân phối thuốc, bảo đảm
kỷ cương pháp luật, hiệu quả, chuyên nghiệp. Thực hiện nghiêm các quy định pháp
19
luật về quyền phân phối thuốc, không để các doanh nghiệp không được phép nhưng
vẫn thực hiện phân phối thuốc trá hình. Tập trung quản lý hệ thống bán buôn, bán lẻ,
các nhà thuốc trong và ngoài bệnh viện. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để truy xuất
nguồn gốc thuốc, chấn chỉnh tình trạng bán thuốc không theo đơn. Ứng dụng công
nghệ thông tin, thực hiện kết nối mạng, bảo đảm kiểm soát xuất xứ, giá cả thuốc được
mua vào, bán ra ở mỗi nhà thuốc trên toàn quốc.
Nâng cao năng lực nghiên cứu, sản xuất thuốc, vắc xin. Đầu tư đủ nguồn lực để
làm chủ công nghệ sản xuất vắc xin thế hệ mới, vắc xin tích hợp nhiều loại trong một,
cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêm chủng mở rộng trong nước, tiến tới xuất khẩu. Khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thuốc, vắc xin, sinh phẩm, thiết bị, vật tư y tế,
tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị dược phẩm trong khu vực và trên thế giới.
Đẩy mạnh nghiên cứu, kiểm nghiệm, chứng minh tác dụng của các phương thức
chẩn trị, điều trị không dùng thuốc, các bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền. Hỗ trợ
phát hiện, đăng ký, công nhận sở hữu trí tuệ và thương mại hoá các bài thuốc y học cổ
truyền; tôn vinh và bảo đảm quyền lợi của các danh y.
Có chính sách đặc thù trong phát triển dược liệu, nhất là các dược liệu quý
hiếm; ưu tiên đầu tư và tập trung phát triển các vùng chuyên canh, hình thành các
chuỗi liên kết trong sản xuất, bảo quản, chế biến dược liệu.
Đẩy mạnh phòng, chống buôn lậu, sản xuất kinh doanh thuốc, thực phẩm chức
năng giả, kém chất lượng. Kiểm soát chặt chẽ thực phẩm chức năng và hàng hoá có nguy
cơ gây hại cho sức khoẻ. Tăng cường kiểm soát chất lượng dược liệu ngoại nhập; giảm
dần sự phụ thuộc vào nguồn dược liệu của nước ngoài.
3.6. Phát triển nhân lực và khoa học - công nghệ y tế
Đổi mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo nhân lực y tế, đáp ứng yêu cầu cả
về y đức và chuyên môn trong điều kiện chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Khẩn
trương hoàn thiện các quy định pháp luật và triển khai khung cơ cấu hệ thống giáo dục
quốc dân, khung trình độ quốc gia trong đào tạo nhân lực y tế, phát huy trách nhiệm,
vai trò các bệnh viện trong đào tạo, phát triển bệnh viện đại học.
Thành lập hội đồng y khoa quốc gia, tổ chức thi, cấp chứng chỉ hành nghề có
thời hạn phù hợp thông lệ quốc tế. Thí điểm giao cho cơ quan độc lập tổ chức cấp
chứng chỉ hành nghề.
Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học - công nghệ y tế, dược, y sinh học. Đẩy
mạnh ứng dụng, chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến, phát triển đội ngũ cán bộ chuyên
ngành thiết bị y tế. Có cơ chế giao trách nhiệm, tôn vinh các bệnh viện, viện nghiên
cứu, các bác sĩ, nhà khoa học tham gia đào tạo nhân lực y tế.
Thực hiện đãi ngộ xứng đáng đối với cán bộ y tế. Xác định bậc lương khởi
điểm phù hợp với thời gian đào tạo. Có các chính sách đủ mạnh để khuyến khích
người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở, các vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn, biên giới, hải đảo và trong các lĩnh vực y tế dự phòng, pháp y, tâm thần, lao,
phong,...

20
Tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề
nghiệp cho cán bộ y tế. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy chế chuyên môn và đạo
đức nghề nghiệp, xâm hại đến nhân phẩm và sức khoẻ thầy thuốc; bảo đảm an ninh,
trật tự, an toàn cơ sở y tế.
3.7. Đổi mới hệ thống quản lý và cung cấp dịch vụ y tế
Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức y tế theo hướng tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất xuyên suốt về
chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành từ Trung ương tới địa phương trong phạm vi cả
nước, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và
Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các
cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế giới.
Sắp xếp lại các đơn vị làm nhiệm vụ kiểm nghiệm, kiểm định để hình thành hệ
thống cơ quan kiểm soát dược phẩm và thực phẩm, thiết bị y tế phù hợp, hội nhập
quốc tế.
Tổ chức hệ thống cung ứng dịch vụ y tế theo 3 cấp chuyên môn. Tổ chức hệ
thống trạm y tế xã, phường, thị trấn gắn với y tế học đường và phù hợp với đặc điểm
của từng địa phương. Phát triển mạnh hệ thống cấp cứu tại cộng đồng và trước khi vào
bệnh viện.
Về cơ bản, các bộ (trừ Bộ Quốc phòng, Bộ Công an), các cơ quan ngang bộ
không chủ quản các bệnh viện; Bộ Y tế chỉ chủ quản một số rất ít bệnh viện đầu
ngành. Tập trung hoàn thiện bệnh viện đa khoa hoàn chỉnh trước khi thành lập mới các
bệnh viện chuyên khoa ở cấp tỉnh. Điều chỉnh, sắp xếp các bệnh viện, bảo đảm mọi
người dân được tiếp cận thuận lợi về mặt địa lý. Thí điểm hình thành chuỗi các bệnh
viện. Khuyến khích phát triển mạnh mẽ hệ thống bệnh viện, cơ sở chăm sóc sức khoẻ,
điều dưỡng ngoài công lập, đặc biệt là các mô hình hoạt động không vì lợi nhuận.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Tăng cường thanh tra,
kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ, giảm phiền hà, tạo thuận lợi cho người dân.
3.8. Xây dựng cơ chế tự chủ, đổi mới mạnh mẽ tài chính y tế
Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý và tổ chức hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp y tế công lập. Đẩy mạnh thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ chuyên môn, tổ
chức bộ máy, nhân sự và tài chính gắn với trách nhiệm giải trình, công khai, minh
bạch. Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập trong bảo
đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như quản trị doanh nghiệp. Có chính sách ưu đãi
về đất, tín dụng… để khuyến khích các cơ sở y tế đầu tư mở rộng, nâng cấp, hiện đại
hoá, đáp ứng yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân, kể cả của người có thu nhập cao,
người nước ngoài.
Tăng cường đầu tư và đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngân sách nhà nước trong
21
lĩnh vực y tế để có nguồn lực triển khai toàn diện công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khoẻ nhân dân, nhất là đối với các đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, hải đảo.
Ưu tiên bố trí ngân sách, bảo đảm tốc độ tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ tăng
chi ngân sách nhà nước. Tập trung ngân sách nhà nước cho y tế dự phòng, y tế cơ sở,
bệnh viện ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo, các lĩnh vực phong, lao, tâm thần...;
dành ít nhất 30% ngân sách y tế cho công tác y tế dự phòng.
Tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng hoá có hại cho sức khoẻ như đồ
uống có cồn, có ga, thuốc lá để hạn chế tiêu dùng.
Thực hiện nguyên tắc y tế công cộng do ngân sách nhà nước bảo đảm là chủ yếu.
Khám, chữa bệnh do bảo hiểm y tế và người dân chi trả. Chăm sóc sức khoẻ ban đầu do
bảo hiểm y tế, người dân và ngân sách nhà nước cùng chi trả; bảo hiểm y tế đối với người
lao động phải do người sử dụng lao động và người lao động cùng đóng góp; ngân sách
nhà nước bảo đảm đối với một số đối tượng chính sách. Ban hành "Gói dịch vụ y tế cơ
bản do bảo hiểm y tế chi trả" phù hợp với khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm y tế và "Gói
dịch vụ y tế cơ bản do Nhà nước chi trả" phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước;
đồng thời huy động các nguồn lực để thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu, quản lý sức
khoẻ người dân.
Ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế bảo đảm chi trả cho các dịch vụ ở mức cơ
bản; người sử dụng dịch vụ chi trả cho phần vượt mức. Có cơ chế giá dịch vụ và cơ
chế đồng chi trả phù hợp nhằm khuyến khích người dân khám, chữa bệnh ở tuyến dưới
và các cơ sở y tế ở tuyến trên tập trung cung cấp các dịch vụ mà tuyến dưới chưa bảo
đảm được.
Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển hệ thống y tế. Đa dạng
hoá các hình thức hợp tác công - tư, bảo đảm minh bạch, công khai, cạnh tranh bình
đẳng, không phân biệt công - tư trong cung cấp dịch vụ y tế. Khuyến khích các tổ
chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở y tế (kể cả trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu), tập
trung vào cung cấp dịch vụ cao cấp, theo yêu cầu. Các cơ sở y tế, cơ sở chăm sóc
người cao tuổi hoạt động không vì lợi nhuận được miễn, giảm thuế theo quy định của
pháp luật.
Tăng cường quản lý nhà nước, xây dựng và thực hiện các giải pháp đồng bộ
nhằm phòng, chống, ngăn chặn và chấm dứt tình trạng lợi dụng chủ trương xã hội hoá
để lạm dụng các nguồn lực công phục vụ các "nhóm lợi ích", tạo ra bất bình đẳng
trong tiếp cận dịch vụ y tế.
Từng bước chuyển chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước cấp trực tiếp cho
cơ sở khám, chữa bệnh sang hỗ trợ người tham gia bảo hiểm y tế gắn với lộ trình tính
đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế. Nâng cao hiệu quả quỹ hỗ trợ khám, chữa bệnh cho
người nghèo. Đẩy mạnh phương thức nhà nước giao nhiệm vụ, đặt hàng và thực hiện
cơ chế giá gắn với chất lượng dịch vụ, khuyến khích sử dụng dịch vụ y tế ở tuyến
dưới.
Triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Điều
22
chỉnh mức đóng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, thu nhập của người dân và
chất lượng dịch vụ. Đa dạng các gói bảo hiểm y tế. Tăng cường liên kết, hợp tác giữa
bảo hiểm y tế xã hội với bảo hiểm y tế thương mại. Nâng cao năng lực, chất lượng
giám định bảo hiểm y tế bảo đảm khách quan, minh bạch. Thực hiện các giải pháp
đồng bộ chống lạm dụng, trục lợi, bảo đảm cân đối quỹ bảo hiểm y tế và quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm y tế, cơ sở y tế.
3.9.Chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
Tăng cường hợp tác và chủ động hội nhập, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và
tài chính của các nước, các tổ chức quốc tế. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực y dược.
Chủ động đàm phán và thực hiện có hiệu quả các hiệp định hợp tác song
phương và đa phương về y tế. Tích cực tham gia xây dựng các chính sách, giải quyết
các vấn đề y tế khu vực và toàn cầu, nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của y học Việt
Nam. Tăng cường quảng bá, đưa y dược cổ truyền Việt Nam ra các nước trên thế giới.
Hài hoà hoá các thủ tục, quy trình với ASEAN và thế giới về y tế. Tăng cường
xây dựng và áp dụng các chuẩn mực y tế trong nước theo hướng cập nhật với thế giới
và khu vực. Phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc
về sức khoẻ; hoàn thành trước thời hạn một số mục tiêu.
4. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ
NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN Y TẾ
4.1. Thành tựu
Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII và các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân đã đạt được những kết quả to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hệ thống chính sách, pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Mạng lưới cơ sở y
tế phát triển rộng khắp. Đội ngũ thầy thuốc và cán bộ, nhân viên y tế phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội đầu tư cho bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ngày càng tăng. Chính sách tài chính y tế có
nhiều đổi mới; diện bao phủ bảo hiểm y tế ngày càng được mở rộng. Tỉ lệ chi tiền túi
của hộ gia đình cho khám, chữa bệnh giảm nhanh. Ứng dụng công nghệ thông tin từng
bước được đẩy mạnh.
Y tế dự phòng được tăng cường, đã ngăn chặn được các bệnh dịch nguy hiểm,
không để xảy ra dịch lớn. Các yếu tố ảnh hưởng tới sức khoẻ như môi trường, thực
phẩm, rèn luyện thân thể, đời sống tinh thần… được quan tâm hơn. Năng lực và chất
lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, tiếp cận được hầu hết các kỹ thuật tiên tiến trên
thế giới. Lĩnh vực dược, thiết bị y tế có bước tiến bộ. Mô hình kết hợp quân - dân y
được đẩy mạnh, phát huy hiệu quả, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Các chỉ số sức khoẻ, tuổi thọ bình quân được cải thiện. Việt Nam được các tổ
23
chức quốc tế đánh giá là điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
của Liên hợp quốc. Đạo đức, phong cách, thái độ phục vụ, trình độ chuyên môn của
cán bộ y tế được chú trọng, nâng cao. Nhiều tấm gương y bác sĩ tận tuỵ chăm sóc, cứu
chữa người bệnh được xã hội trân trọng, ghi nhận.
4.2. Hạn chế
Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân vẫn còn nhiều
hạn chế, bất cập. Chất lượng môi trường sống, làm việc, chế độ dinh dưỡng, rèn
luyện thân thể, văn hoá tinh thần... ở nhiều nơi chưa được chú trọng, bảo đảm.
Nhiều hành vi, thói quen ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ chưa được khắc phục căn
bản.
Hệ thống tổ chức y tế còn thiếu ổn định, hoạt động chưa thực sự hiệu quả, đặc
biệt là y tế dự phòng, y tế cơ sở và chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Chất lượng dịch vụ,
nhất là ở tuyến dưới chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng quá tải ở một số bệnh viện
tuyến trên chậm được khắc phục. Thái độ phục vụ thiếu chuẩn mực của một bộ phận
cán bộ y tế, một số vụ việc, sự cố y khoa gây phản cảm, bức xúc trong xã hội. Lợi thế
của y, dược cổ truyền, dược liệu dân tộc chưa được phát huy tốt.
Quản lý nhà nước về y tế tư nhân, cung ứng thuốc, thiết bị y tế còn nhiều yếu
kém. Công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường còn nhiều hạn
chế. Công nghiệp dược, thiết bị y tế phát triển chậm. Đổi mới cơ chế hoạt động, quản
lý trong các cơ sở y tế công lập còn lúng túng. Đào tạo, sử dụng, cơ cấu, chế độ đãi
ngộ cán bộ y tế còn nhiều bất cập.
Chênh lệch chỉ số sức khoẻ giữa các vùng, miền còn lớn. Tỉ lệ suy dinh dưỡng
thể thấp còi còn cao. Tầm vóc người Việt Nam chậm được cải thiện. Số năm sống
khoẻ chưa tăng tương ứng với tuổi thọ.
Nguyên nhân hạn chế
- Năng lực tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước
còn hạn chế. Nhận thức về vai trò, vị trí của công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức
khoẻ nhân dân có nơi, có lúc còn chưa đầy đủ, sâu sắc; chưa coi công tác này là một
trụ cột trong phát triển nhanh, bền vững đất nước.
- Trong nhận thức và hành động, chưa thực sự coi y tế cơ sở, y tế dự phòng là
gốc, là căn bản. Tư duy bao cấp, ỷ lại vào Nhà nước còn nặng, thiếu cơ chế đồng bộ,
phù hợp để người dân tham gia bảo hiểm y tế và thu hút mạnh mẽ nguồn lực ngoài nhà
nước đầu tư phát triển y tế.
Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp. Nguồn lực tài chính chưa đáp
ứng yêu cầu phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Ngân sách nhà nước còn hạn
hẹp, thu nhập của người dân còn thấp, tiềm lực kinh tế chưa đủ mạnh, trong khi nhu
cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân ngày càng cao, đa dạng; yêu cầu đầu tư cho y tế
lớn. Dược phẩm, thiết bị y tế chủ yếu phải nhập khẩu, theo mặt bằng giá quốc tế.
Việc đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập chậm, còn nhiều lúng túng, chưa có
sự chỉ đạo tập trung quyết liệt. Cơ chế, chính sách về bảo hiểm y tế, giá dịch vụ, tổ
24
chức, biên chế... còn thiếu đồng bộ.
Tác động mặt trái của cơ chế thị trường, cạnh tranh thiếu bình đẳng; còn có sự
chênh lệch lớn về thu nhập giữa các cơ sở y tế công lập với tư nhân, giữa các bộ phận
trong cùng cơ sở. Công tác giáo dục y đức ở nhiều nơi bị buông lỏng. Một số nơi đề
cao, tuyệt đối hoá cơ chế thị trường, coi người bệnh chỉ là khách hàng.
5. CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP HỘ SINH HẠNG III
Chức danh nghề nghiệp hộ sinh Hạng III được quy định tại Thông tư liên tịch
26/2015/TTLT-BYT-BNV quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp điều
dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y do Bộ trưởng Bộ Y tế - Bộ Nội vụ ban hành.
5.1. Đạo đức nghề nghiệp và nhiệm vụ của hộ sinh Hạng III
a. Đạo đức nghề nghiệp
Điều 3, Thông tư liên tịch số 26, quy định Tiêu chuẩn chung về đạo đức nghề
nghiệp:
1. Tận tụy phục vụ sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
2. Hiểu biết và thực hiện đúng quy tắc ứng xử của viên chức ngành y tế.
3. Thực hành nghề nghiệp theo đúng quy chế, quy định, quy trình chuyên môn
kỹ thuật và các quy định khác của pháp luật.
4. Không ngừng học tập nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
5. Tôn trọng quyền của người bệnh, tôn trọng phụ nữ, quyền con người;
6. Trung thực, khách quan, công bằng, trách nhiệm, đoàn kết, tôn trọng và hợp
tác với đồng nghiệp trong thực hành nghề nghiệp.
b. Nhiệm vụ
1) Chăm sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và người sử dụng dịch vụ:
Khám và nhận định tình trạng sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và người
sử dụng dịch vụ, xác định vấn đề ưu tiên cần chăm sóc của từng đối tượng;
Lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện chăm sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và
người sử dụng dịch vụ;
Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc theo dõi, đánh giá diễn biến hằng ngày của
bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và người sử dụng dịch vụ; phát hiện, tiên lượng, xử trí
kịp thời, báo cáo quá trình xử trí và diễn biến bất thường không thuộc phạm vi xử trí
của hộ sinh cho bác sĩ điều trị; phối hợp cùng bác sĩ chỉ đạo hộ sinh cấp thấp hơn trong
quá trình xử trí diễn biến bất thường;
Tổ chức và thực hiện kỹ thuật điều dưỡng, phục hồi chức năng cơ bản, kỹ thuật
chăm sóc sản khoa, chăm sóc sơ sinh thiết yếu và chuyên sâu, kế hoạch hóa gia đình,
phá thai an toàn;
Nhận định nhu cầu dinh dưỡng, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc
thực hiện chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ, trẻ sơ sinh;
25
Tổ chức, giám sát, thực hiện chăm sóc giảm nhẹ và hỗ trợ tâm lý cho bà mẹ và
gia đình trong trường hợp thai nghén, sinh đẻ, sau đẻ và sơ sinh bất thường nghiêm
trọng; chăm sóc giảm nhẹ và hỗ trợ tâm lý cho người bệnh giai đoạn cuối;
Hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, thực hiện ghi chép hồ sơ theo quy định;
Tổ chức thực hiện và giám sát việc bảo quản thuốc và trang thiết bị y tế được
phân công quản lý.
2) Chăm sóc sức khỏe sinh sản tại cộng đồng:
Tổ chức khám và quản lý thai đối với sản phụ trong trường hợp sản phụ không
thể đến cơ sở y tế;
Lập kế hoạch, tổ chức, thực hiện khám, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trong
giai đoạn sau sinh tại nhà;
Giám sát, hỗ trợ hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, kế hoạch
hóa gia đình tại cộng đồng;
Tham gia chăm sóc sức khỏe ban đầu và chương trình mục tiêu quốc gia.
3) Sơ cứu, cấp cứu:
Quản lý, giám sát, chuẩn bị sẵn sàng thuốc và phương tiện cấp cứu;
Tổ chức, thực hiện sơ cứu, cấp cứu sản khoa, cấp cứu hồi sức sơ sinh ban đầu;
kịp thời báo cáo và phối hợp với bác sĩ phụ trách hoặc chuyển cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh tuyến trên;
Tham gia cấp cứu dịch bệnh và thảm họa khi có yêu cầu.
4) Truyền thông, giáo dục, tư vấn về chăm sóc sức khỏe sinh sản:
Tổ chức và thực hiện đánh giá nhu cầu tư vấn, giáo dục sức khỏe đối với bà mẹ,
trẻ sơ sinh, người bệnh và người sử dụng dịch vụ;
Tổ chức và thực hiện truyền thông, giáo dục, tư vấn về chăm sóc sức khỏe sinh
sản (bao gồm cả nam giới), kế hoạch hóa gia đình, phá thai an toàn, phòng chống bạo
lực giới tại cơ sở y tế và cộng đồng;
Tham gia đánh giá kết quả truyền thông, giáo dục và tư vấn về chăm sóc sức
khỏe sinh sản.
5) Phối hợp, hỗ trợ trong điều trị:
Phối hợp với bác sĩ phân cấp chăm sóc và tổ chức thực hiện chăm sóc bà mẹ,
trẻ sơ sinh, người bệnh và người sử dụng dịch vụ;
Tổ chức và thực hiện cho bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và người sử dụng dịch
vụ nhập viện, chuyển khoa, chuyển cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, ra viện khi có
chỉ định của bác sĩ;
Tổ chức thực hiện quản lý buồng bệnh, quản lý bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh,
người sử dụng dịch vụ và thuốc, trang thiết bị, vật tư tiêu hao, hồ sơ bệnh án.

26
6) Bảo vệ và thực hiện quyền của người bệnh:
Thực hiện và biện hộ quyền của bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và người sử
dụng dịch vụ theo quy định của pháp luật;
Tạo điều kiện cho bà mẹ, người bệnh và người sử dụng dịch vụ quyền được
tham gia vào quá trình chăm sóc, điều trị;
Thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và
người sử dụng dịch vụ.
7) Đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển nghề nghiệp:
Tổ chức đào tạo và hướng dẫn thực hành cho học sinh, sinh viên và viên chức
hộ sinh;
Thực hiện nghiên cứu khoa học, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong chăm sóc bà mẹ,
trẻ sơ sinh, người bệnh và khách hàng; áp dụng sáng kiến, cải tiến chất lượng trong chăm
sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh và người sử dụng dịch vụ;
Tham gia xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo liên tục và đào tạo chuyên
môn hộ sinh.
5.2. Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng
a) Tốt nghiệp cử nhân trở lên chuyên ngành hộ sinh;
b) Có trình độ ngoại ngữ bậc 2 trở lên theo quy định tại Thông tư
số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc có chứng chỉ tiếng dân
tộc đối với vị trí việc làm có yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc;
c) Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản theo
quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm 2014 của Bộ Thông
tin và Truyền thông quy định chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin.
5. 3. Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
a) Hiểu biết về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân;
b) Thực hiện thành thạo các kỹ năng cơ bản và chuyên sâu trong lĩnh vực sản
phụ khoa và sơ sinh;
c) Hiểu biết các nguyên tắc trong chăm sóc sức khỏe ban đầu vào công tác
chăm sóc sức khỏe sinh sản;
d) Có năng lực giao tiếp, thuyết trình và ứng xử linh hoạt, kỹ năng làm việc
nhóm, làm việc độc lập;
đ) Viên chức thăng hạng từ chức danh nghề nghiệp hộ sinh hạng IV lên chức
danh nghề nghiệp hộ sinh hạng III phải có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp hộ
sinh hạng IV tối thiểu là 02 năm đối với trường hợp khi tuyển dụng lần đầu có trình độ
tốt nghiệp hộ sinh cao đẳng hoặc 03 năm đối với trường hợp khi tuyển dụng lần đầu có
trình độ tốt nghiệp hộ sinh trung cấp.
27
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Ngoài những vấn đề về y tế nêu trên, theo anh (chị), ngành y tế còn có những
vấn đề nào khác cần được quan tâm?
Câu 2. Những tiêu chuẩn của Điều dưỡng hạng III
Câu 3. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay được đặt ra
như thế nào? Liên hệ với đạo đức nghề nghiệp của ngành y.
Câu 4. Nội dung đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân đến năm 2020 tầm nhìn 2030.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban Khoa giáo Trung ương: Một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về công
tác khoa giáo: Chăm sóc sức khỏe nhân dân; dân số-gia đình và trẻ em; thể dục
thể thao, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
2. Bộ Nội vụ: Thông tư Số 12/2012/TT-BNV ngày 18 tháng 12 năm 2012 Quy định về
chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức
3. Bộ Nội vụ: Thông tư Số 03/2019/TT-BNV ngày 14 tháng 5 năm 2019 Thông tư sửa
đổi, bổ sung một số điều về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công
chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng
một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập.
4. Bộ Y tế - Bộ Nội vụ: Thông tư liên tịch 10/2015/TTLT-BYT-BNV quy định mã số,
tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp bác sĩ, bác sĩ y học dự phòng, y sĩ
5. Bộ Y tế - Bộ Nội vụ: Thông tư liên tịch số 56/2015/TTLT-BYT-BNV ngày
29/12/2015 về tiêu chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức thi thăng hạng chức danh
nghề nghiệp viên chức chuyên ngành y tế.
6. Bộ Y tế: Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Nxb Y học, Hà Nội, 1996
7. Chính phủ: Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về Phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn đến năm 2030
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 46-NĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 23-5-2005
về công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
10. Trương Thị Thanh Quý: Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng hệ
thống y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân, http://www.tapchicongsan.org.vn, cập nhật
17/6/2016
CHUYÊN ĐỀ 2
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC Y TẾ

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 08 tiết


28
Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Trình bày được khái niệm cải cách hành chính, vai trò và mục tiêu của cải
cách hành chính;
2. Trình bày được được các xu thế cải cách hành chính của các nước phát triển
và khả năng áp dụng ở Việt Nam;
3. Trình bày được những vấn đề cơ bản trong chương trình cải cách hành chính
ở Việt Nam đang thực hiện;
4. Trình bày được những đổi mới trong cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp công;
5. Trình bày được vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực y tế;
6. Trên cơ sở, trình bày được những vấn đề trên, học viên vận dụng vào quá
trình công tác, trong đó có việc chung tay gióp phần thực hiện các cải cách hành
chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong đơn vị.
NỘI DUNG
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm cải cách và cải cách hành chính nhà nước
Theo cách hiểu chung nhất, cải cách là những thay đổi có tính hệ thống và có
mục đích nhằm làm cho một hệ thống hoạt động tốt hơn. Điều đó làm phân biệt cải
cách với những hoạt động khác cũng chỉ sự biến đổi như sáng kiến, thay đổi,...
Cải cách hành chính, theo đó, được hiểu là những thay đổi có tính hệ thống, lâu
dài và có mục đích nhằm làm cho hệ thống hành chính nhà nước hoạt động tốt hơn,
thực hiện tốt hơn các chức năng, nhiệm vụ quản lý xã hội của mình. Như vậy, cải cách
hành chính nhằm thay đổi và làm hợp lý hóa bộ máy hành chính, với mục đích tăng
cường tính hiệu lực và hiệu quả quản lý nhànước.
Cải cách hành chính nhà nước là một trong những nội dung quan trọng của
khoa học hành chính, có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn mang tính thực tiễn
cao. Mọi hoạt động cải cách hành chính nhà nước đều hướng tới việc nâng cao hiệu
lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý
cụ thể của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn phát triển. Vì bộ máy hành chính nhà
nước là một bộ phận không tách rời của bộ máy nhà nước nói riêng và hệ thống chính
trị của một quốc gia nói chung nên cách thức tổ chức và hoạt động của nó chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của yếu tố chính trị, mức độ phát triển kinh tế-xã hội, cũng như các
yếu tố mang tính chất đặc trưng khác của mỗi quốc gia như truyền thống văn hoá, lịch
sử,...
Cải cách hành chính nhà nước ở các nước khác nhau, vì vậy, cũng mang những
29
sắc thái riêng, được tiến hành trên những cấp độ khác nhau, với những nội dung khác
nhau. Ở Việt Nam, có thể xem cải cách hành chính nhà nước là một bộ phận quan
trọng của công cuộc đổi mới, là trọng tâm của tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm các thay đổi có chủ đích và lâu
dài nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước để
đáp ứng những đòi hỏi của tiến trình đổi mới.
1.2. Mục đích và vai trò của cải cách hành chính nhà nước
Hoạt động hành chính nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm trật
tự của xã hội, duy trì sự phát triển xã hội theo định hướng của nhà nước, qua đó hiện
thực hóa mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của giai cấp cầm
quyền trong xã hội. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước là yêu cầu và mong muốn của mọi quốc gia. Cải cách hành chính nhà
nước, xét cho cùng, không có mục đích tự thân mà nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu
quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước trong quá trình quản lý các mặt của đời
sống xã hội, trước hết là quản lý, định hướng và điều tiết sự phát triển kinh tế - xã hội
và duy trì trật tự của xã hội theo mong muốn của Nhà nước.
Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo ở nước ta
gần 30 năm qua đã tạo nên những thay đổi vượt bậc trong đời sống kinh tế -xã hội của
đất nước. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp đã từng bước vững
chắc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đời sống của nhân dân
không ngừng được cải thiện, duy trì được định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Những thành công kể trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân rất
quan trọng là trong toàn bộ tiến trình đổi mới đất nước từ năm 1986 cho đến nay, Đảng
và Nhà nước ta luôn chú trọng đến cải cách nền hành chính nhà nước. Cải cách hành
chính nhà nước đã trở thành một trong những đòi hỏi khách quan của sự phát triển và
đổi mới. Khẳng định tầm quan trọng của cải cách hành chính nhà nước với tư cách là
một bộ phận không tách rời và quyết định thành công của đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta đã xác định: cải cách hành chính là nội dung trọng tâm của công cuộc đổi mới và cải
cách nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. VẬN DỤNG CÁC KINH NGHIỆM CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
CỦA CÁC NƯỚC PHÁT TRIỂN VÀO CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở VIỆT
NAM
2.1. Kinh nghiệm cải cách hành chính ở các nước phát triển
Ngày nay, cải cách hành chính nhà nước là một lĩnh vực được hầu hết các nước
trên thế giới quan tâm. Nhiều quốc gia coi cải cách hành chính là một yếu tố hết
sức quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời thông qua cải
cách hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; tăng
khả năng phát triển kinh tế -xã hội. Tuy nhiên, những nội dung cải cách hành
chính được đề cập tới không giống nhau ở các quốc gia do có sự khác biệt về chế
độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như truyền thống, phong tục,
tập quán,... Tùy từng điều kiện phát triển của mỗi quốc gia, mà việc cải cách hành
chính tập trung vào những khâu, những bộ phận nhất định.
30
Tuy nhiên, có thể nhận thấy một trong những xu hướng chung của cải cách
hành chính trên thế giới hiện nay là hướng tới làm thế nào xây dựng một chính phủ
gọn nhẹ hơn để có thể vận động một cách nhanh nhạy hơn và hiệu quả hơn nhằm tăng
năng lực cạnh tranh của nhà nước trong bối cảnh toàn cầuhoá. Xu hướng này ở các
nước phát triển thường được thể hiện qua các thuật ngữ “Tái tạo lại chính phủ“(Mỹ),
“Mô hình quản lý mới“ (CHLB Đức), “Hành chính công định hướng hiệu quả” (Thụy
Sĩ),... Cuộc cải cách này không chỉ mang ý nghĩa của một cuộc thay đổi nội bộ mà còn
phản ánh một xu hướng mới trong hoạt động của nhà nước: nền hành chính không chỉ
làm chức năng “cai trị” mà chuyển dần sang chức năng “phục vụ”, cung cấp các dịch
vụ công cho xã hội.
Mục tiêu tổng quát trong cải cách hành chính của tất cả các nước trên thế giới là
hướng tới việc xây dựng một bộ máy hành chính gọn nhẹ hơn, hoạt động hiệu lực và
hiệu quả hơn, hướng tới phục vụ tốt hơn các nhu cầu và lợi ích hợp pháp của mỗi công
dân và cả xã hội. Xu hướng chủ đạo của các cuộc cải cách này là chuyển đổi nền hành
chính công truyền thống, được xây dựng trên nền tảng những nguyên tắc tổ chức cơ
bản của mô hình “bộ máy thư lại” của Max Weber sang xây dựng mô hình “quản lý
công mới”. Đây là xu hướng mới xuất hiện vào cuối những năm 70- đầu những năm
80 của thế kỷ XX ở các nước phát triển. Nội dung của xu hướng cải cách này là đưa
tinh thần doanh nghiệp và các yếu tố của thị trường vào hoạt động của nhà nước, vận
dụng các nguyên tắc và phương pháp quản lý doanh nghiệp vào tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, đặc biệt vào quản lý cơ quan hành chính nhằm nâng cao tính
kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của hoạt động hành chính.
Có thể nhận thấy những giải pháp chủ yếu ở các nước phát triển khi tiến hành
các hoạt động cải cách hành chính như sau:
- Tăng cường tư nhân hoá: Quá trình tư nhân hóa là giải pháp mạnh mẽ nhất
được áp dụng trong cải cách hành chính ở các nước phát triển. Các nhà nước theo đuổi
mô hình Quản lý công mới luôn tìm cách giảm bớt số lượng và quy mô của các dịch
vụ vốn trước đây do nhà nước tự mình cung cấp và chuyển giao lại cho khu vực tư
nhân đảm nhiệm. Quá trình tái cơ cấu khu vực công bằng cách chuyển giao cho tư
nhân và huy động các nguồn lực của tư nhân tham gia cùng với nhà nước cung cấp
dịch vụ công làm giảm gánh nặng chi ngân sách của nhà nước, giảm nợ công, đồng
thời giúp bộ máy nhà nước tái cơ cấu để trở nên gọn nhẹ hơn, vận động nhanh nhạy
hơn, đáp ứng các đòi hỏi của quá trình toàn cầu hóa. Nhưng việc đẩy mạnh tư nhân
hoá không đồng nghĩa với việc giảm trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp
dịch vụ cho công dân và xã hội. Thay cho việc trực tiếp đứng ra cung cấp các hàng hoá
và dịch vụ công thiết yếu (chèo thuyền), Nhà nước chỉ cần đứng ra điều tiết, đảm bảo
sự có mặt của các hàng hoá và dịch vụ công đó, việc trực tiếp cung ứng được giao cho
các chủ thể khác (lái thuyền).
- Hướng tới kiểm soát kết quả: Với mục đích tăng cường hiệu quả của hoạt
động hành chính nhà nước, thay cho việc kiểm soát nghiêm ngặt các yếu tố đầu vào và
quy trình, thủ tục như trong mô hình truyền thống, trong mô hình Quản lý công mới
người ta hướng tới việc kiểm soát đầu ra, đánh giá các hoạt động theo kết quả thu
31
được. Điều này giúp cho các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức có thể
phát huy tính sáng tạo trong quá trình thực thi công vụ, cải tiến quy trình, thủ tục cho
phù hợ với đặc điểm của mỗi công việc và theo hoàn cảnh cụ thể để mang lại hiệu quả
hoạt động cao nhất.
- Điều chỉnh mối quan hệ giữa trung ương và địa phương: Về nguyên tắc, đó là
quá trình hợp lý hoá mức độ phân cấp giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau. Xu hướng chung trong lĩnh
vực cải cách này là đẩy mạnh quá trình phân quyền cho địa phương để tăng tính chủ
động, sáng tạo cho địa phương. Nhiều nước đã áp dụng nguyên tắc “tự quản địa
phương” cho phép các địa phương tự quyết định các vấn đề liên quan tới công việc của
địa phương mình và chỉ khi nào cấp dưới không thể hoàn thành được nhiệm vụ thì cấp
trên mới tiến hành can thiệp.
- Phi quy chế hoá: Trong quá trình chuyển từ việc giám sát đầu vào và sự tuân
thủ quy trình sang việc giám sát đầu ra, đánh giá hoạt động thông qua kết quả hoạt
động, tính chủ động của cơ quan nhà nước và người công chức được nâng lên. Xu
hướng này dẫn tới việc cần phải loại bỏ đi các quy định vốn cứng nhắc, phức tạp trong
các quy trình xử lý công việc, tạo thêm không gian cho người công chức thể hiện năng
lực giải quyết vấn đề của mình.
- Cấu trúc tổ chức của bộ máy hành chính: cũng được đổi mới theo hướng
“phẳng” hơn, thay cho bộ máy quan liêu đồ sộ, hình tháp trước đây. Một trong những
giải pháp để thực hiện hướng đi này là việc hình thành các nhóm chuyên gia kiểu dự
án để giải quyết các vấn đề và tăng cường thông tin theo chiều ngang.
- Cải cách chế độ công vụ, công chức: Trong lĩnh vực nhân sự, các cơ quan nhà
nước đưa các yếu tố của mô hình “quản lý nguồn nhân lực” từ lâu đã là một động lực
quan trọng trong khu vực tư nhân vào khu vực nhà nước thay thế cho mô hình „quản
trị nhân sự truyền thống“. Quá trình thay đổi này khiến cho đội ngũ công chức hoạt
động tích cực hơn và mang lại hiệu quả hoạt động cao hơn. Đồng thời, việc giao lưu
nhân sự giữa khu vực công và khu vực tư trở nên dễ dàng hơn và nhờ đó những ý
tưởng quản lý theo kiểu doanh nghiệp được vận dụng vào khu vực nhà nước cũng
ngày càng nhiều hơn.
- Cải cách tài chính công: Ở nhiều nước theo mô hình quản lý mới, thay cho
việc cấp phát ngân sách hàng năm trên căn cứ vào biên chế, người ta đã tiến hành cấp
phát ngân sách theo chương trình, dự án cụ thể (trừ những chi tiêu tất yếu và ổn định)
nhằm tăng cường hiệu quả, tiết kiệm tiền thuế do nhân dân đóng góp. Việc cấp phát
ngân sách được kiểm tra rất chặt chẽ, đảm bảo những quy tắc tài chính và coi trọng
tính hiệu quả.
- Hiện đại hoá nền hành chính: Việc ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại vào các hoạt động hành chính góp phần quan trọng làm giảm số lượng
nhân sự và nâng cao năng suất lao động trong các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, việc
ứng dụng khoa học - công nghệ còn làm thay đổi cách thức làm việc, ứng xử của đội
ngũ cán bộ, công chức theo hướng chuyên nghiệp.

32
2.2. Vận dụng vào cải cách hành chính ở Việt Nam
Cải cách hành chính nhà nước liên quan tới nhiều yếu tố mang tính nội tại của
từng quốc gia trong mỗi giai đoạn, do đó không có một nền hành chính khuôn mẫu cho
tất cả các nước. Cải cách hành chính nhà nước phải bắt nguồn từ thực tiễn của mỗi
quốc gia, phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế- xã hội và cả
những yếu tố khác như truyền thống, văn hoá, lịch sử,…của quốc gia đó. Tuy nhiên,
những kinh nghiệm của các nước khác đều là những bài học quan trọng, có thể tham
khảo và vận dụng một cách thích hợp.
Mô hình “quản lý công mới” xuất hiện trong môi trường các nước phát triển
phản ánh một cách rõ nét những gì cần phải làm ở các nước này. Tuy nhiên, việc ứng
dụng mô hình này vào các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn
còn là vấn đề phải tranh luận không chỉ trong giới học thuật, mà cả giữa các nhà
nghiên cứu hành chính thực tiễn.
Các nước phát triển với truyền thống hành chính lâu đời, với hệ thống luật pháp
đã tương đối ổn định và đầy đủ, trình độ phát triển kinh tế-xã hội và tương ứng với nó
là ý thức dân chủ, ý thức pháp luật của đại bộ phận dân cư cũng như đội ngũ cán bộ,
công chức đã đạt tới mức độ tương đối cao khiến cho các giải pháp cải cách hành
chính nhà nước được áp dụng sẽ khác với ở các nước đang phát triển.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, cải cách hành chính là một quá trình
thay đổi có chủ định nhằm hoàn thiện các bộ phận của nền hành chính để nâng cao
năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hành chính công trong quản lý nhà nước
và phục vụ nhân dân, góp phần thực hiện thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Đảng và Nhà nước ta đã xác định:

Cải cách hành chính phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của Việt Nam, có tham
khảo kinh nghiệm của các nước. Việc nghiên cứu, vận dụng những bài học kinh
nghiệm từ các cuộc cải cách ở các nước sẽ góp phần quan trọng tạo nên thành công
của công cuộc cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
3. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1. Chương trình cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam (2011 - 2020)
a. Mục tiêu của cải cách hành chính ở Việt Nam
Thực hiện các mục tiêu chung đặt ra đối với công cuộc cải cách nền hành chính
nhà nước, trong giai đoạn 2011-2020, ba nhiệm vụ trọng tâm của cải cách hành chính
được Chính phủ xác định là cải cách thể chế hành chính nhà nước, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức hành chính và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Những mục tiêu cụ thể được xác định trong giai đoạn 2011-2020 bao gồm:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triểnđất nước.

33
- Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch
nhằm giảm thiểu chi phí về thời gian và kinh phí của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế trong việc tuân thủ thủ tục hành chính.
- Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở
thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và
pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính
nhà nước.
- Bảo đảm thực hiện trên thực tếquyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và
trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụnhân dân và sự phát triển của đất nước.
b. Nội dung chương trình cải cách hành chính ở Việt Nam
- Cải cách thể chế hành chính nhà nước. Cải cách thể chế hành chính nhà nước
nhằm tạo ra hệ thống hành lang pháp lý cho hoạt động hành chính nhà nước đầy đủ,
chính xác, rõ ràng. Những nhiệm vụ chủ yếu của cải cách thể chế hành chính nhà nước
bao gồm:

+ Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đổi mới và nâng cao chất lượng
công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng, ban hành luật, pháp lệnh,
nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa
phương nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các
văn bản quy phạm pháp luật;
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước hết là
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng trong phân
phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh tế - xã hội;
+ Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu
dài của các hình thức sở hữu, trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền
kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai, phân định rõ quyền sở hữu
đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử dụng đất;
+ Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác định
rõ vai trò quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách
chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản trị kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn nhà
nước;
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy
định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cung ứng các dịch vụ
trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;

34
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các cấp;
+ Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và
nhân dân, trọng tâm là bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý kiến của
nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng và về quyền giám sát
của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
- Cải cách thủ tục hành chính. Cải cách thủ tục hành chính nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau và cơ quan nhà nước với công dân và tổ
chức trong xã hội theo hướng đơn giản, gọn nhẹ và công khai, minh bạch. Những
nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong cải cách thủ tục hành chính giai đoạn 2011-2020 bao
gồm:
+ Cắt giảm và nâng cao chất lượng thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực quản
lý nhà nước, nhất là thủ tục hành chính liên quan tới người dân, doanh nghiệp;
+ Cải cách thủ tục hành chính giữa các cơ quan hành chính nhà nước, các
ngành, các cấp và trong nội bộ từng cơ quan hành chính nhà nước;
+ Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định
của pháp luật;
+ Công khai, minh bạch tất cả các thủ tục hành chính bằng các hình thức thiết
thực và thích hợp; thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ
ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước; duy trì và cập
nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính;
+ Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tăng cường đối thoại giữa Nhà nước với doanh nghiệp và
nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy vai trò của các tổ chức và chuyên gia tư vấn độc lập
trong việc xây dựng thể chế, chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ
tục hành chính hiện hành; công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân
giám sát việc thực hiện;
+ Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định
hành chính để hỗ trợ việc nâng cao chất lượng các quy định hành chính và giám sát
việc thực hiện thủ tục hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
- Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Lĩnh vực cải cách tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước hướng tới xây dựng một bộ máy hành chính đơn giản, gọn nhẹ, vận
hành thông suốt từ trung ương tới cơ sở với chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành
chính nhà nước và các cấp hành chính không chồng chéo, trùng lắp. Những nhiệm vụ cụ thể
đặt ra trong lĩnh vực này bao gồm:
+ Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy
ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
35
huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương và
địa để trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại
các cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính
nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ
chức phi chính phủ đảm nhận;
+ Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền
địa phương nhằm xác lập mô hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng mô hình chính
quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp.
+ Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên,
khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có định hướng phát triển; tăng cường giám sát,
kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao
năng lực của từng cấp, từng ngành;
+ Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước; thực
hiện thống nhất và nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ
của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020;
+ Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; chất lượng dịch vụ công từng bước được nâng cao,
nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch
vụ do đơn vị sựnghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên
80% vào năm 2020.
- Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Chất
lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là yếu tố cơ bản, quyết định tới hiệu
lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng và cả bộ
máy hành chính nhà nước nói riêng. Do đó, đây là một trong những nội dung được chú
trọng nhất trong tiến trình cải cách hành chính ở nước ta. Những nhiệm vụ chủ yếu đặt
ra trong giai đoạn 2011-2020 trong lĩnh vực này bao gồm:
+ Phấn đấu đến năm 2020, đội ngũ cán bộ,công chức, viên chức có số lượng, cơ
cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự
nghiệp phát triển của đất nước;
+ Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt,
có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân
thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có hiệu quả;
+ Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ
của cán bộ,công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo,quản lý;
+ Xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức hợp lý gắn với vị trí việc
làm;

36
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù
hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế
độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị
trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương), giám đốc sở và tương
đương (ở địa phương) trở xuống;
+ Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên
cơ sở kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những
người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ
nhiệm vụ,quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với trách nhiệm và có
chếtài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ
của cán bộ, công chức, viên chức;
+ Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong
thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; đào tạo, bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ
năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm;
+ Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo
hiểm xã hội và ưu đãi người có công;đến năm 2020, tiền lương của cán bộ,công chức,
viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc sống của cán bộ, công chức, viên
chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
+ Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của
cán bộ, công chức, viên chức.
- Cải cách tài chính công. Cải cách tài chính công trong tổng thể cải cách hành
chính có ý nghĩa quan trọng. Thực tiễn cho thấy các giải pháp ở các lĩnh vực khác chi
có thể được thực hiện tốt nếu gắn liền với một cơ chế tài chính minh bạch và hiệu quả.
Những nhiệm vụ chính đặt ra đối với cải cách tài chính công giai đoạn 2011-
2020 bao gồm:
+ Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát
triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các chính sách về
thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích
lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con người, nhất là cải cách chính
sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách;
+ Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước,
nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước
ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ công trong giới hạn an toàn;
+ Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển
khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là
tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ sang cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, các quỹ đổi
mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút,

37
trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ;
+ Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới
xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách
dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi
tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước;
+ Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội
chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể
thao, đồng thời đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự
nghiệp dịch vụ công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp
công phù hợp; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo dục, đào tạo, y tế
công lập theo hướng tự chủ,công khai, minh bạch.
Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng các
cơ sở giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực
và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa
bệnh; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
- Hiện đại hóa hành chính. Hiện đại hóa hành chính là xu hướng không thể phủ
nhận trong bối cảnh cách mạng khoa học-công nghệ phát triển mạnh mẽ hiện nay.
Việc ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào hoạt động hành chính nhà nước
không chỉ làm tăng năng suất lao động mà còn góp phần quan trọng làm thay đổi
phương thức làm việc của cán bộ, công chức, hướng tới một môi trường hành chính
hiện đại. Những nhiệm vụ chủ yếu của hiện đại hóa hành chính trong giai đoạn tới thể
hiện trên các mặt:
+ Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính
của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin -truyền thông
trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến năm 2020: 90% các văn bản,
tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới
dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử
trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ
quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên
môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương
tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử
hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người
dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau;
+ Ứng dụng công nghệ thông tin -truyền thông trong quy trình xử lý công việc
của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với
nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động dịch vụ hành
chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công;
+ Công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên mạng thông tin điện tử
hành chính của Chính phủ trên Internet. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu
điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức và cá nhân, đáp ứng
yêu cầu đơn giản và cải cách thủ tục hành chính;
38
+ Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành
chính nhà nước;
+ Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại, tập
trung ở những nơi có điều kiện.
3.2. Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
Ngày 25 tháng 10 năm 2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII đã ra Nghị quyết Số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản
lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, bao
gồm những nội dung chính sau:
a. Quan điểm chỉ đạo
- Đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu
tiên hàng đầu, là nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa lâu dài của tất cả các cấp uỷ
đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị.
- Nhà nước chăm lo, bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết
yếu, nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng
lớp nhân dân trên cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt,
bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự
nghiệp công lập.
- Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn mà khu vực
ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công khai, minh bạch, không thương
mại hoá. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài
công lập.
- Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong quá trình
đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới hệ thống chính trị và cải cách hành chính,
đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính
sách.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài
chính của đơn vị sự nghiệp công lập, phát huy vai trò giám sát của người dân trong quá
trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập.
b. Mục tiêu
- Mục tiêu tổng quát. Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn
vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị
tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường
39
dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất
lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải
và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị
sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao
thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường
dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển
dịch vụ sự nghiệp công.
- Mục tiêu đến năm 2025, tầm nhìn 2030
+ Tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công lập và
10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2021. Chấm
dứt số hợp đồng lao động không đúng quy định trong các đơn vị sự nghiệp công lập
(trừ các đơn vị bảo đảm tự chủ tài chính).
+ Phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính.
+ 100% đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện hoàn thành
chuyển đổi thành công ty cổ phần.
+ Tiếp tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị
sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 - 2020.
- Tầm nhìn đến năm 2030
+ Tiếp tục thực hiện việc giảm đầu mối, phấn đấu chỉ còn các đơn vị sự nghiệp
công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ quản lý nhà nước và các đơn vị cung
ứng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu.
+ Giảm 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với
năm 2025.
+ Giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho đơn vị sự
nghiệp công lập so với giai đoạn 2021 - 2025.
c. Nhiệm vụ và giải pháp
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa, yêu
cầu, nội dung đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống các đơn
vị sự nghiệp công lập nhằm nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận ở các ngành, các cấp,
các đơn vị sự nghiệp và toàn xã hội trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công.
Thứ hai, sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiêu chí phân loại, điều kiện thành
lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập theo từng ngành, lĩnh
vực. Trên cơ sở đó, sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập của từng ngành, lĩnh
vực theo nguyên tắc:
(1) Pháp luật chuyên ngành không quy định việc thành lập tổ chức bộ máy các
40
đơn vị sự nghiệp công lập;
(2) Trường hợp cần thiết phải thành lập mới đơn vị sự nghiệp công lập, thì đơn
vị đó phải tự bảo đảm toàn bộ về tài chính (trừ trường hợp phải thành lập mới để cung
ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu);
(3) Một đơn vị sự nghiệp công lập có thể cung ứng nhiều dịch vụ sự nghiệp
công cùng loại nhằm giảm mạnh đầu mối, khắc phục chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về
chức năng, nhiệm vụ;
(4) Cơ cấu lại hoặc giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động không hiệu
quả;
(5) Đẩy mạnh xã hội hoá, chuyển các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp
khác đủ điều kiện thành công ty cổ phần.
- Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập đối với lĩnh vực y tế
+ Tổ chức các cơ sở y tế theo hướng toàn diện, liên tục và lồng ghép theo 3 cấp:
Chăm sóc ban đầu, chăm sóc cấp 2, chăm sóc cấp 3. Sắp xếp lại các đơn vị làm nhiệm
vụ kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn thành đơn vị kiểm soát dược phẩm, thực
phẩm và thiết bị y tế.
+ Xây dựng một số bệnh viện hiện đại ngang tầm khu vực và quốc tế. Sớm
hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung
ương thành trung tâm phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh cùng cấp trên cơ sở sáp
nhập các tổ chức, đơn vị có cùng chức năng, nhiệm vụ và hoạt động lồng ghép.
+ Thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một trung tâm y tế đa
chức năng (trừ các huyện có bệnh viện đạt hạng II trở lên), bao gồm y tế dự phòng,
dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và các dịch vụ y tế khác; trung tâm
trực tiếp quản lý trạm y tế xã và phòng khám đa khoa khu vực (nếu có). Rà soát, sắp
xếp hợp lý các phòng khám đa khoa khu vực. Nơi đã có cơ sở y tế trên địa bàn cấp xã
thì có thể không thành lập trạm y tế xã.
+ Điều chỉnh, sắp xếp lại các bệnh viện bảo đảm mọi người dân đều có thể tiếp
cận thuận lợi về mặt địa lý. Chuyển dần các bệnh viện thuộc Bộ Y tế và các bộ, cơ
quan nhà nước ở Trung ương về địa phương quản lý (trừ các bệnh viện thuộc Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an; một số ít bệnh viện chuyên khoa đầu ngành, bệnh viện của các
trường đại học).
Thứ ba, quản lý biên chế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
- Đổi mới cơ chế xác định và giao biên chế theo hướng quản lý, giám sát chặt
chẽ biên chế của các đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn
bộ hoặc một phần chi thường xuyên; đẩy mạnh thí điểm việc thi tuyển và thực hiện
thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện chế độ hợp đồng
viên chức có thời hạn đối với những trường hợp tuyển dụng mới (trừ các đơn vị sự
nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn). Không thực hiện chế độ công chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn
vị phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ quản lý nhà nước). Thực hiện nghiêm việc
41
đánh giá, phân loại viên chức hằng năm theo quy định hiện hành để đưa ra khỏi đội
ngũ những người 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ.
- Chấm dứt việc tự phê duyệt và giao biên chế sự nghiệp vượt quá số lượng
được cơ quan có thẩm quyền giao hoặc thẩm định; có kế hoạch và giải pháp để giải
quyết dứt điểm số viên chức và số người lao động vượt quá số biên chế được giao (trừ
các đơn vị đã tự chủ tài chính). Các cơ quan, đơn vị chưa sử dụng hết số biên chế được
giao phải xem xét, cắt giảm phù hợp.
- Tổ chức phân loại viên chức theo vị trí việc làm và sắp xếp, bố trí lại cơ cấu
viên chức theo hướng vị trí chuyên môn, nghiệp vụ chiếm tỉ lệ ít nhất 65%. Xây dựng
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ, bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu
quả đội ngũ này.
- Quy định và thực hiện nghiêm về số lượng lãnh đạo cấp phó. Trong thời gian
thực hiện sắp xếp lại, số lượng cấp phó của các đơn vị sự nghiệp công lập do sáp nhập,
hợp nhất có thể cao hơn quy định, nhưng khi có cấp phó nghỉ hưu hoặc điều chuyển
công tác thì không được bổ sung; đồng thời phải có giải pháp điều chuyển, sắp xếp lại
số lượng cấp phó trong thời hạn tối đa 3 năm kể từ ngày sáp nhập, hợp nhất. Trường
hợp điều chuyển giữ chức vụ thấp hơn thì được bảo lưu phụ cấp chức vụ đến hết thời
hạn bổ nhiệm.
- Đổi mới cơ chế, phương thức tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức (bao
gồm cả cán bộ quản lý). Có chính sách thu hút nhân tài, thu hút đội ngũ viên chức có
chuyên môn, nghiệp vụ giỏi vào làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện
đào tạo lại, hỗ trợ thích hợp đối với viên chức và người lao động dôi dư do sáp nhập,
giải thể hoặc chuyển thành đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
Thứ tư, đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc
đẩy xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách tạo điều kiện đẩy mạnh cung
ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường và thúc đẩy xã hội hoá trong việc
cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công: (1) Xác định các dịch vụ sự nghiệp công do
ngân sách nhà nước phải bảo đảm, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; các dịch vụ công khác
không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, xác định giá theo cơ chế thị trường, đơn
vị được quyết định các khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích luỹ
để thu hút nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công; (2) Có chính sách khuyến khích ưu đãi về đất đai, thuế, phí,
tín dụng,… tạo điều kiện hỗ trợ cho các đơn vị ngoài công lập, nhà đầu tư tham
gia đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; (3) Có chính sách đối xử bình
đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ
công; các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công của Nhà nước.
- Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình tự chủ
hoàn toàn cả về chi đầu tư, chi thường xuyên, thực hiện quản lý, kế toán theo mô hình
42
doanh nghiệp. Các đơn vị được Nhà nước giao vốn, tài sản để thực hiện cung cấp dịch
vụ sự nghiệp công, từng bước tính đủ chi phí đầu vào (kể cả khấu hao) để xác định giá
dịch vụ. Các đơn vị đã bảo đảm chi đầu tư và chi thường xuyên được quyền quyết định
số lượng người làm việc, tiền lương theo kết quả hoạt động, được Nhà nước hỗ trợ về
thuế, phí để tăng cường năng lực tài chính và khả năng tự cân đối.
- Chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang công ty cổ
phần. Không tách, điều chuyển các cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp và khám, chữa
bệnh trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khi các tập đoàn, tổng công ty này
thực hiện cổ phần hoá.
- Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ, xã hội hoá, trước hết là các cơ sở giáo
dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở y tế, tổ chức khoa học và công nghệ ở
các địa bàn có khả năng xã hội hoá cao. Có chính sách thí điểm đổi mới theo lộ trình,
đẩy mạnh xã hội hoá các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông ở các địa bàn có khả
năng xã hội hoá cao để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu
cầu của xã hội, nhất là đối với các thành phố, đô thị lớn có dân số tăng nhanh do nhập
cư.
- Thực hiện chuyển đổi hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều
kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán như doanh nghiệp, kiên quyết
chuyển sang cơ chế tự bảo đảm hoàn toàn về tài chính đối với nhóm các đơn vị sự
nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hoá cao trên
cơ sở Nhà nước thực hiện lộ trình bảo đảm kinh phí hoạt động có thời hạn.
- Khuyến khích thành lập các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập, nhất là trong
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, y tế, khoa học và công nghệ .
- Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để thành lập doanh nghiệp đa sở
hữu trong các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm thực hiện hoạt động ứng dụng,
triển khai, thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và cung ứng dịch vụ sự nghiệp
công.
- Tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp theo
hướng khuyến khích các doanh nghiệp phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để
đào tạo đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Xây dựng chính
sách để doanh nghiệp được tham gia giáo dục nghề nghiệp theo hình thức đặt hàng của
Nhà nước và của doanh nghiệp khác; được tham gia xây dựng danh mục ngành, nghề
đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp và
đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
- Có chính sách thuận lợi để tổ chức khoa học và công nghệ công lập được
quyền sở hữu và có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý đối với kết quả nghiên cứu khoa
học sử dụng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình thương mại hoá
ứng dụng kết quả nghiên cứu.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế kết hợp công - tư về nhân lực và thương hiệu trong
lĩnh vực y tế; xây dựng cơ chế hợp tác đầu tư giữa bệnh viện công và bệnh viện tư,
giữa các bệnh viện công. Minh bạch hoá các hoạt động liên doanh, liên kết, hợp tác
43
công - tư, nhất là ở các đơn vị thuộc lĩnh vực do Nhà nước cấp phép hoạt động; bảo
toàn và phát triển vốn, tài sản nhà nước.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị của đơn vị sự nghiệp công lập
- Đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng lực quản trị đơn vị, bảo đảm
chặt chẽ, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cung ứng các dịch vụ sự
nghiệp công, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- Rà soát, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong từng đơn vị theo hướng
tinh gọn, giảm mạnh đầu mối, bỏ cấp trung gian, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin và khoa học - công nghệ tiên tiến, áp dụng các tiêu chuẩn, chuẩn mực quản trị quốc
tế.
- Nâng cao chất lượng quản trị tài chính, tài sản công của đơn vị. Ban hành quy
chế quản lý tài chính, tài sản công, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ
phận, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu. Hoàn thiện chế độ kế toán, thực
hiện chế độ kiểm toán, giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động tài chính
của đơn vị sự nghiệp công lập.
- Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi thường
xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
cơ chế hội đồng trường trong các trường đại học theo hướng, hội đồng trường là cơ
quan thực quyền cao nhất của trường đại học; bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch hội đồng
trường.
- Thực hiện kiểm định, đánh giá và xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập,
nhất là đối với trường đại học, bệnh viện.
Thứ sáu, hoàn thiện cơ chế tài chính
- Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc các ngành, lĩnh vực trên cơ sở mức độ tự chủ về tài chính, tăng cường phân cấp
và tăng tính chủ động cho các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho lĩnh
vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là cho y tế và giáo dục, kể cả hình thức hợp tác công
- tư, liên doanh, liên kết.
- Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao với
hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập. Xây dựng và hoàn
thiện các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo nguyên
tắc: Đối với các dịch vụ thiết yếu thì Nhà nước bảo đảm kinh phí; đối với các dịch vụ
cơ bản thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí để thực hiện; đối với các dịch vụ mang tính đặc
thù của một số ngành, lĩnh vực thì thực hiện theo cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo
điều kiện cho các cơ sở ngoài công lập cùng tham gia; đối với các dịch vụ khác thì đẩy
mạnh thực hiện theo cơ chế xã hội hoá, huy động sự tham gia cung ứng của các thành
phần kinh tế.
- Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp
công theo hướng Nhà nước quy định khung giá dịch vụ, từng bước tính đủ các chi phí
44
đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng thời cần gắn với chính sách hỗ trợ phù
hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Đối với giá dịch vụ sự nghiệp công không
sử dụng ngân sách nhà nước, giao quyền tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự
quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ.
- Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp phát ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu (giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông; y tế dự phòng, y tế cơ sở, khám, chữa các bệnh phong,
lao, tâm thần; nghiên cứu khoa học cơ bản; văn hoá, nghệ thuật dân gian truyền thống,
đào tạo huấn luyện vận động viên, huấn luyện viên thể thao quốc gia; bảo trợ xã hội và
chăm sóc người có công,...) và đối với các đơn vị sự nghiệp công lập ở các địa bàn
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ cho các đơn vị sự nghiệp công lập sang
hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng người nghèo, đối tượng chính sách khi sử dụng dịch vụ
sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang
cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào
chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Thực hiện cơ chế
giao vốn, tài sản cho đơn vị sự nghiệp công lập; xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu
về tài chính và tài sản công của đơn vị sự nghiệp công lập trong toàn quốc.
- Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức độ tự chủ khác nhau về tài
chính. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được trả lương theo kết quả hoạt động.
Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, thực hiện trả lương theo ngạch,
bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp theo quy định hiện hành; đối với phần tăng thu, tiết
kiệm chi, được trích lập các quỹ bổ sung thu nhập và phát triển hoạt động sự nghiệp.
Các đơn vị được giao tự chủ tài chính ổn định từ 3 đến 5 năm theo phương án thu chi
tài chính được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với các đơn vị được Nhà nước bảo
đảm toàn bộ kinh phí hoạt động, cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế khoán chi.
- Rà soát các quy định về thuế nhằm khuyến khích tự chủ tài chính và có
tích luỹ cho đầu tư. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được tính chi phí tiền
lương theo doanh thu hoặc quỹ lương khoán trong chi phí hợp lệ để tính thuế thu
nhập.
- Có cơ chế, chính sách đủ mạnh để tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích việc
tinh giản biên chế, bổ sung vào diện tinh giản biên chế một số đối tượng hưởng lương
từ ngân sách nhà nước. Bảo đảm nguồn kinh phí để giải quyết chính sách đối với
những người dôi dư do sắp xếp, tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập và thực hiện tinh
giản biên chế. Đối với công chức, viên chức làm việc trong đơn vị tự bảo đảm toàn bộ
chi phí hoạt động thường xuyên, kinh phí lấy từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Đối
với công chức, viên chức làm việc trong đơn vị do ngân sách nhà nước hỗ trợ một
phần hoặc bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động thì lấy từ nguồn kinh phí hoạt động của
đơn vị. Trường hợp kinh phí của đơn vị không đủ thì ngân sách nhà nước bổ sung theo
quy định hiện hành về phân cấp ngân sách.
Thứ bảy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

45
- Sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chức, viên chức, đội ngũ nhà giáo và pháp
luật có liên quan. Đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự
nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự
nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập có tính chất cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công của bộ, ngành về chính quyền địa phương quản lý; bộ chỉ thực hiện chủ quản đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ và
những đơn vị trọng điểm, chuyên sâu.
- Rà soát, hoàn thiện quy hoạch định hướng mạng lưới các đơn vị sự nghiệp
công lập gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương;
chuyển từ quy hoạch theo đơn vị hành chính sang quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, nhu
cầu của xã hội và thị trường.
- Ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng loại hình dịch vụ sự
nghiệp công; tiêu chí phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập; tiêu chí đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ của đơn vị theo ngành, lĩnh vực; hệ
thống tiêu chuẩn chức danh những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập;
thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong quản lý, điều hành đơn vị sự
nghiệp công lập, cơ chế giám sát, kiểm tra trách nhiệm của người đứng đầu. Lấy kết
quả thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế hằng năm là một trong những tiêu chí để
đánh giá, xếp loại kết quả công tác của người đứng đầu cấp uỷ, đơn vị sự nghiệp
công lập.
- Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với cơ
quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp trong quản lý ngân sách nhà nước
chi cho lĩnh vực sự nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tránh
chồng chéo, lãng phí. Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các
bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp
công lập. Tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các đơn vị
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm các trường
hợp vi phạm, cố tình né tránh hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao đối với đơn vị
sự nghiệp công lập. Hình thành các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập về chất lượng
dịch vụ sự nghiệp công theo ngành, lĩnh vực.
Thứ tám, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
- Các cấp uỷ và tổ chức đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo tổ chức và hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Ban hành quy định về vai trò và chức năng lãnh
đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng trong đơn vị sự nghiệp công lập.
- Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội trong giám sát, phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập.

46
4. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG LĨNH VỰC Y TẾ
4.1. Sự cần thiết phải tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực y
tế
a. Sự tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với lĩnh vực y tế
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là một xu thế lớn hội tụ nhiều công
nghệ trên nền tảng số hóa của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 với sự phát triển
đột phá của công nghệ Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, xử lý dữ liệu lớn, điện toán
đám mây và các công nghệ số khác để thực hiện siêu kết nối, tích hợp các hệ thống số
hóa - vật lý - sinh học, giữa thế giới thực và không gian số tạo ra lực lượng sản xuất và
quản hệ sản xuất mới, chuyển đổi toàn diện trên tất cả các mặt của cuộc sống, từ tổ
chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, phương thức kinh doanh đến cách thức tiêu dùng,
giao tiếp xã hội, thậm chí thay đổi chính bản thân con người.
Công nghệ số đang phát triển mạnh mẽ và tác động sâu rộng đến mọi mặt của
đời sống kinh tế - xã hội trên toàn cầu. Những thay đổi mang tính cách mạng về khoa
học, đột phá của công nghệ số dẫn tới xu hướng phát triển và yêu cầu thay đổi mạnh
mẽ về cơ cấu, mô hình kinh tế, xã hội quốc gia cũng như hệ thống quản lý của các
ngành, lĩnh vực.
a) Điện toán đám mây (Cloud computing). Điện toán đám mây cho phép cung
cấp không giới hạn và theo nhu cầu của từng đơn vị theo kiểu cung cấp dịch vụ ba
gồm dịch vụ hạ tầng lưu trữ, dịch vụ nền tảng phát triển và dịch vụ phần mềm. Điều
này cho phép các đơn vị có thể sử dụng điện toán đám mây cho quản lý, lưu trữ ứng
dụng, dữ liệu lớn, phức tạp mà không mất quá nhiều thời gian, công sức để quản lý,
mở rộng, tối ưu.
b) Dữ liệu lớn (Bigdata). Dữ liệu lớn là một thuật ngữ cho việc quản lý, lưu trữ,
khai thác, phân tích, dự báo dựa trên một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp mà các
ứng dụng xử lý dữ liệu truyền thống không xử lý được.
Khả năng xử lý dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo hỗ trợ đắc lực cho ngành y tế trong
nhiều hoạt động khác nhau như theo dõi, kiểm soát dịch bệnh, thống kê y tế, khám
chữa bệnh, quản trị y tế.
c) Trí tuệ nhân tạo (AI). Trí tuệ nhân tạo là một thuật ngữ chỉ việc con người
phát triển các ứng dụng trên máy tính cho phép máy tính có thể tự động thực hiện các
hành vi thông minh như con người.
Một số ứng dụng của trí tuệ nhân tạo trong ngành y tế như hỗ trợ chẩn đoán
hình ảnh bệnh lý, hỗ trợ phân tích, đánh giá kết quả xét nghiệm, phẫu thuật bằng robot.
d) Internet kết nối vạn vật (IoT). Internet kết nối vạn vật (IoT) là một thuật ngữ
chỉ việc kết nối và trao đổi giữa các thiết bị vật lý như các máy tính, điện thoại di
động, thiết bị điện tử, cảm biến, xe cộ, đồ gia dụng điện tử...
e) Công nghệ chuỗi khối (Blockchain). Blockchain là công nghệ quản lý cơ sở
dữ liệu phân tán, ghi lại mọi thông tin, giao dịch trong các block (khối) trong một
chuỗi thời gian với đặc điểm là khi giao dịch đã được ghi vào các khối thì không ai có
47
thể thay đổi hay làm giả mạo. Tính năng này đảm bảo không thay đổi hay giả mạo liên
quan đến “an toàn” cho cả hệ thống. Công nghệ chuỗi khối gần đây được coi như là
một công nghệ hiệu quả trong việc đảm bảo an toàn, tính riêng tư trong hồ sơ sức khỏe
người dân.
g) Công nghệ in 3D. Công nghệ in 3D là sự phát triển tầm cao của công nghệ
in, làm cho người ta có thể sản xuất ra những sản phẩm có cấu trúc tương đối phức tạp
nhưng lại được gói thành một khối duy nhất.
Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe, công nghệ in 3D giúp tạo ra nhiều
sản phẩm như các dụng cụ y tế, các mô hình trong khám chữa bệnh, các phụ tùng giả,
xương, sụn tai, van tim, các mô, mô hình cơ thể người,..., được sử dụng khá phổ biến
trong những năm gần đây.
b. Những lợi ích của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế
Ứng dụng và phát triển công nghệ thông y tế được triển khai sẽ hình thành hệ
thống phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe thông minh, giúp người dân chủ động phòng
bệnh, dễ dàng tiếp cận các thông tin y tế, đồng thời được tư vấn, giúp đỡ chăm sóc sức
khỏe kịp thời, hiệu quả.
Với hệ thống khám bệnh, chữa bệnh thông minh, người dân sẽ được sử dụng các
dịch vụ khám chữa bệnh tiên tiến và thuận lợi, hạn chế các rủi ro, tai biến khi điều trị,
tiết kiệm được thời gian và chi phí khám chữa bệnh. Hệ thống khám bệnh, chữa bệnh
thông minh sẽ góp phẩn giảm tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh
của bệnh viện, giảm thiểu tối đa các lỗi bất cẩn của con người. Góp phần xây dựng hình
ảnh mới của bệnh viện: văn minh, hiện đại, hết lòng vì bệnh nhân. Quản lý, khai thác
thông tin bệnh viện nhanh chóng, hiệu quả, thuận tiện.
Hệ thống quản trị y tế thông minh sẽ giúp cho các cơ quan quản lý y tế ra quyết
định chính sách kịp thời dựa trên khả năng phân tích dữ liệu lớn, quản lý, theo dõi hiệu
quả hoạt động của toàn bộ mạng lưới dịch vụ y tế trên toàn quốc, tăng khả năng ứng
phó nhanh với các tình huống bất ngờ như: kiểm soát, khống chế dịch bệnh, chia sẻ
phương pháp điều trị mới, đào tạo từ xa, giúp cho hệ thống y tế Việt nam dễ dàng liên
thông, hội nhập với thế giới.
Hình thành hệ thống y tế thông minh, góp phần nâng cao hình ảnh, chất lượng
dịch vụ y tế tại Việt Nam, tăng sự tin tưởng của người dân, doanh nghiệp khi sử dụng
các dịch vụ y tế, hướng đến nền y tế Việt Nam hiện đại, chất lượng, công bằng, hiệu
quả và hội nhập quốc tế.
4.2. Xây dựng hệ thống thông tin bệnh viện
“Hệ thống thông tin bệnh viện”  tiếng Anh “Hospital Information System” viết
tắt là HIS. Hệ thống thông tin bệnh viện thường được biết đến với tên gọi khác là "Hệ
thống quản lý bệnh viện"; phục vụ công tác quản lý, điều hành tại Bệnh viện với các
chức năng chính: quản lý thông tin bệnh nhân và bệnh sử; quản lý bệnh nhân đến
khám và điều trị nội và ngoại trú, quản lý bệnh án, dược, tài chính, viện phí, trang thiết
bị vật tư y tế, nhân sự... Ngày nay, HIS là công cụ tối ưu hóa trong quản lý điều hành;

48
phục vụ điều trị; phục vụ nghiên cứu và đào tạo; thống kê, dự báo, dự phòng... tại các
Bệnh viện.

4.3. Thiết lập và đảm bảo sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống thông tin y tế
Việc thiết lập và đảm bảo sự kết nối, liên thông giữa các hệ thống thông tin y tế
là một nội dung quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống y tế. Nội
dung này đã được thể hiện ở “Tiêu chuẩn HL7”. Tiêu chuẩn HL7 là chữ viết tắt của
cụm từ tiếng Anh “Health Level 7 Standard” là tiêu chuẩn quốc tế cung cấp giao thức
về quản lý, trao đổi và tích hợp thông tin y tế điện tử giữa các hệ thống thông tin y tế.
So với HIS (tập trung vào vấn đề quản lý bệnh viện), HL7 tập trung vào việc
kết nối, chia sẻ dữ liệu về lâm sàng, hành chính và chuyên môn giữa các đơn vị y tế
với nhau.
Nhiệm vụ của HL7 là cung cấp một chuẩn cho trao đổi, quản lý và tích hợp
thống nhất dữ liệu về trợ giúp chăm sóc lâm sàng bệnh nhân, quản lý, phân phát, đánh
giá về hoạt động y tế. Đặc biệt, HL7 giúp cho việc tiếp cận, chuẩn hoá, hướng dẫn,
phương pháp và phục vụ liên quan cho khả năng giao tiếp giữa các hệ thống thông tin
y tế. HL7 là định dạng các gói thông tin (dữ liệu) gửi đi giữa các bệnh viện với nhau,
các bệnh viện với sở y tế, với Bộ Y tế. 

49
Như vậy, với việc xây dựng chuẩn HL7 được sử dụng dùng chung trong hệ
thống hệ thống bệnh viện trong toàn quốc sẽ giải quyết được sự đa dạng, không thống
nhất của các phần mềm quản lý ở các bệnh viện khác nhau, mà vẫn kết nối, báo cáo,
trao đổi thông tin, hình ảnh cho nhau được.  Tiêu chuẩn HL7 giúp cho việc kết nối
giữa các hệ thống IT trong lĩnh vực y tế, các hệ thống này gửi đi hoặc tiếp nhận các
bản tin về việc đăng ký/nhập viện của bệnh nhân, dữ liệu xuất viện hoặc chuyển
chuyên khoa (ADT), truy vấn, nguồn tài nguyên và xếp lịch bệnh nhân, chỉ định, kết
quả, các quan sát lâm sàng, lập hóa đơn, thông tin cập nhật danh mục dùng chung, hồ
sơ bệnh án, lập lịch/kế hoạch, giới thiệu bệnh nhân (chuyển viện), chăm sóc bệnh
nhân, tự động hóa phòng xét nghiệm cận lâm sàng, quản lý ứng dụng và quản lý nhân
sự.
4.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công việc của viên chức hộ sinh
Trong giai đoạn hiện nay, ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế đã và
đang được triển khai mạnh mẽ, tạo ra những chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Với mục tiêu, xây dựng hệ thống chăm
sóc sức khỏe và phòng bệnh thông minh, góp phần thực hiện thành công chương trình
sức khỏe Việt Nam, những chương trình lớn về ứng dụng công nghệ thông tin đang
được triển khai như: Xây dựng và triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử toàn dân: Hồ sơ
sức khỏe điện tử ghi lại và lưu trữ thông tin tóm tắt các đợt khám chữa bệnh xuyên
suốt theo thời gian sống của người, quản lý sức khỏe cá nhân phục vụ chăm sóc sức
khỏe ban đầu. Phấn đấu đến năm 2025 bảo đảm 100% người dân có hồ sơ sức
khỏe điện tử; Tin học hóa hoạt động trạm y tế: Xây dựng, triển khai phần mềm
quản lý hoạt động trạm y tế, bảo đảm kết nối và chia sẻ thông tin với các hệ thống
thông tin bệnh viện, hồ sơ sức khỏe điện tử, hệ thống giám định và thanh toán bảo
hiểm y tế, hệ thống thống kê y tế điện tử trong toàn quốc; Ứng dụng trí tuệ nhân
tạo và các công nghệ thông minh trong phòng bệnh, môi trường, an toàn thực
phẩm, dinh dưỡng và phòng chống HIV/AIDS. Ưu tiên triển khai các ứng dụng trí
tuệ nhân tạo trong việc theo dõi, cảnh báo dịch bệnh trên cả nước; Phát triển các
ứng dụng cung cấp tri thức phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh, chăm sóc sức
khỏe người dân; các thông tin về cơ sở y tế, bác sĩ, dịch vụ y tế trên môi
trường web, di động, giúp người dân có thể tra cứu thông tin y tế dễ dàng, hiệu
quả, kịp thời, mọi lúc, mọi nơi, kết nối với hệ tri thức Việt số hóa; Phát triển các
ứng dụng thông minh cho phép cung cấp các dịch vụ theo dõi, trợ giúp, chăm sóc
sức khỏe người dân từ xa, kết nối trực tuyến giữa người bệnh, các thiết bị theo dõi
sức khỏe và cán bộ y tế.
Trước yêu cầu ngày càng cao của người dân về dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
cũng như những chương trình về ứng dụng công nghệ thông tin đang diễn ra, yêu cầu
đặt ra cho mỗi cán bộ, nhân viên ngành y tế không ngừng nâng cao trình độ tay nghề,
đổi mới tinh thần, tác phong và thái độ làm việc, thì một vấn đề đặt ra nữa là phải có
năng lực sử dụng, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chuyên môn của
mình, trong đó có đội ngũ viên chức hộ sinh.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin đối với viên chức hộ sinh sẽ mang lại nhiều lợi
50
ích trong các công việc như: chăm sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh, người bệnh; lập kế hoạch, tổ
chức, thực hiện chăm sóc; tổ chức thực hiện và kiểm tra việc theo dõi, đánh giá diễn biến
hằng ngày; giám sát, thực hiện chăm sóc giảm nhẹ và hỗ trợ tâm lý. Tổ chức khám và
quản lý thai đối với sản phụ trong trường hợp sản phụ không thể đến cơ sở y tế, lập kế
hoạch, tổ chức, thực hiện khám, chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh trong giai đoạn sau sinh tại
nhà;giám sát, hỗ trợ hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh, kế hoạch hóa gia
đình tại cộng đồng… được diễn ra thuận lợi, dễ dàng

CÂU HỎI ÔN TẬP


Câu 1. Anh/chị hãy phân tích xu hướng cải cách hành chính nhà nước một số nước
phát triển
Câu 2. Anh/chị hãy đánh giá khả năng vận dụng các xu hướng ở các nước phát triển
vào Việt Nam.
Câu 3. Tại sao cải cách hành chính nhà nước ở nước ta được Đảng và Nhà nước ta xác
định là trọng tâm của cải cách nhà nước theo hướng pháp quyền XHCN? Nội
dung của chương trình cải cách hành chính gồm những vấn đề nào?
Câu 4. Theo anh/chị, công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay đang
gặp phải thách thức nào? Cần làm gì để khắc phục?
Câu 5. Những lợi ích và thách thức khi ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực y
tế

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Chính phủ: Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-
2010 ban hành kèm theo Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001
của Thủ tướng Chính phủ.
2. Chính phủ: Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-
2020 ban hành kèm theo Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 của
Chính phủ.
3. Chính phủ: Báo cáo Kết quả thực hiện chương trình tổng thể Cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2001-2010 và phương hướng cải cách hành chính giai đoạn
2011-2020.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII (Khóa 7) tháng
01/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (Khóa X) năm 2007
về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy
nhà nước.
6. Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (Chủ biên): Cải cách hành chính địa phương:
Lý luận và thực tiễn. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
7. Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên): Những giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở
51
Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
8. Viện nghiên cứu và Đào tạo về quản lý: Hành chính công và Quản lý hiệu quả
chính phủ, NXB. Lao động Xã hội, Hà Nội, 2005.

52
CHUYÊN ĐỀ 3
KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CÔNG VIỆC CỦA VIÊN CHỨC HỘ SINH

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 08 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Hiểu được khái niệm kế hoạch, lập kế hoạch các loại kế hoạch
2. Nhận thức được ý nghĩa của việc lập kế hoạch trong công tác
3. Biết được một số phương pháp và kỹ thuật lập kế hoạch
4. Biết vận dụng kỹ năng lập kế hoạch công việc trong quá trình công tác.

NỘI DUNG
I. KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ HOẠCH, LẬP KẾ HOẠCH
1.1. Khái niệm kế hoạch, lập kế hoạch và phân loại kế hoạch
a. Kế hoạch, lập kế hoạch
Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình, có thời
hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp tốt nhất… để
thực hiện một mục tiêu cuối cùng đã được đề ra.
Kế hoạch có thể là các chương trình hành động hoặc bất kỳ danh sách, sơ
đồ, bảng biểu được sắp xếp theo lịch trình, có thời hạn, chia thành các giai đoạn, các
bước thời gian thực hiện, có phân bổ nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác
định biện pháp, sự chuẩn bị, triển khai thực hiện nhằm đạt được một mục tiêu, chỉ
tiêu đã được đề ra. Thông thường kế hoạch được hiểu như là một khoảng thời gian cho
những dự định sẽ hành động và thông qua đó ta hy vọng sẽ đạt được mục tiêu. Nói đến
kế hoạch là nói đến những người vạch ra mà không làm nhưng họ góp phần vào kết
quả đạt được như bản kế hoạch đề ra.
Kế hoạch có thể được thực hiện một cách chính thức hoặc không chính thức,
bằng văn bản, văn kiện hoặc bất thành văn, công khai minh bạch hoặc bí mật
Lập kế hoạch là một hoạt động có ý thức, mang tính định hướng toàn bộ các
hoạt động của con người. Trong tổ chức thì lập kế hoạch được xem là chức năng cơ
bản và quan trọng nhất trong các chức năng quản lý.
Lập kế hoạch là một tiến trình xác định mong muốn của tổ chức là gì và có thể
đạt được mong muốn đó như thế nào. Hay nói cách khác, lập kế hoạch là một quá trình
53
xác định xem phải làm cái gì, làm như thế nào, ai làm, làm khi nào, làm ở đâu, cần
những điều kiện gì để đạt những mục tiêu nhất định.
Tóm lại, lập kế hoạch là một quá trình nhằm xác định mục tiêụ của tổ chức
cùng các phương thức thích hợp và các nguồn lực để đạt mục tiêu.
b. Phân loại kế hoạch
Có nhiều loại kế hoạch và các loại kế hoạch này được phân loại theo các tiêu
chí khác nhau. Cách phân loại phổ biến nhất là mô tả các kế hoạch theo phạm vi của
chúng, theo khuôn khổ thời gian, và theo tính cụ thể. Tuy nhiên, các cách phân loại kế
hoạch này không độc lập với các cách phân loại khác và có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau như mối quan hệ giứa các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn với các loại kế hoạch
chiến lược và thực thi.
- Phân loại theo phạm vi: Theo cách phân loại này, kế hoạch được chia thành kế
hoạch chiến lược và kế hoạch thực thi hay kế hoạch hoạt động.
Các kế hoạch áp dụng cho toàn bộ tổ chức, thiết lập các mục tiêu toàn diện và
xác định vị trí tương lai của tổ chức trong môi trường gọi là kế hoạch chiến lược. Các
kế hoạch mà ghi rõ chi tiết về cách thức đạt được các mục tiêu toàn diện được gọi là kế
hoạch thực thi.
Kế hoạch chiến lược và thực thi khác nhau ở khuôn khổ thời gian, phạm vi xác
định mục tiêu của tổ chức. Các kế hoạch thực thi thường có thời gian ngắn hơn. Ví dụ,
các kế hoạch ngày, tuần, tháng, quý hầu hết là các kế hoạch thực thi. Kế hoạch chiến
lược thường hướng đến một thời gian dài, thường là 5 năm trở lên. Chúng cũng có
phạm vi rộng hơn và ít giải quyết những vấn đề chi tiết. Cuối cùng, các kế hoạch chiến
lược bao gồm việc xây dựng các mục tiêu, trong khi đó các kế hoạch thực thi thừa
nhận sự tồn tại các mục tiêu và đưa ra các phương pháp để đạt mục tiêu đó.
- Phân loại theo khuôn khổ thời gian: Theo khuôn khổ thời gian, kế hoạch được
phân thành kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.
Kế hoạch ngắn hạn là kế hoạch có thời gian thực hiện nó từ 01 năm trở xuống.
Kế hoạch dài hạn là kế hoạch cỏ thời gian thực hiện nó từ 5 năm trở lên. Còn kế hoạch
có thời gian thực hiện từ trên 1 năm đến dưới 5 năm được gọi là kế hoạch trung hạn.
- Phân loại theo mức độ cụ thể:
Bằng trực giác, chúng ta không thể khẳng định kế hoạch nào là cụ thể, hay nói
cách khác mọi kế hoạch đều là kế hoạch định hướng. Tuy nhiên, khi chúng ta đi sâu
nghiên cứu các kế hoạch theo tính cụ thể, có thể phân các kế hoạch thành kế hoạch
định hướng và kế hoạch cụ thể.
Kế hoạch cụ thể có các mục tiêu xác đinh rõ ràng và không cần giải thích thêm,
không có sự mơ hồ, không có sự hiểu nhầm. Ví dụ, hàng năm đào tạo, bồi dưỡng cho
100 cán bộ, công chức, thì có thể thiết lập các thủ tục cụ thể, phân bổ ngân sách và kế
hoạch hoạt động để đạt mục tiêu đó. Những nội dung đó thể hiện trong các bản kế
hoạch cụ thể. Kế hoạch cụ thể đòi hỏi phải rõ ràng và thường không tồn tại khả năng
phán xét của người thực hiện.
54
Khi độ không chắc chắn cao, sẽ đòi hỏi người thực hiện duy trì tính linh hoạt để
ứng phó với những thay đổi không lường trước, trong trường hợp này tổ chức thường lập
kế hoạch định hướng. Kế hoạch định hướng xác định những chi dẫn cơ bản, không xác
định những mục tiêu hoặc các đường lối hành động cụ thể. '
- Phân loại theo đổi tượng hoặc lĩnh vực hoạt động: Là cách phân loại dựa vào
vấn đề hoặc đối tượng mà hoạt động lập kế hoạch hướng tới. Theo cách phân loại này,
trong thực tiễn có các loại ké hoạch chủ yếu dưới đâỹ:
+ Kế hoạch nhân sự: Là ké hoạch xác định nhu cầu nhân sự tương lai cho một
cơ quan, tổ chức về số lượng, chất lượng (kiến thức, kỹ năng và thái độ đối với công
việc) và thời điểm cung cấp nguồn nhân lực cho việc thực hiện các chương trình hành
động cụ thể. Ke hoạch nhân sự cũng xác định những biện pháp cần thiết để đáp ứng
nhu cầu nhân sự nhằm đảm bảo cho cơ quan, tổ chức hoàn thành những chức năng,
nhiệm vụ của mình.
+ Kế hoạch tài chính (ngân sách): Là kế hoạch xác định khả năng thu và nhu
cầu chi ngân sách, bao gồm tổng thu, tổng chi và các khoản mục thu, chi trong kỳ ngân
sách. Đồng thời, xác định các biện pháp để tiếp cận được các nguồn thu phù họp, tận
thu và sử dụng các khoản chi ngân sách một cách có hiệu quả theo trình tự thời gian
thích họp.
+ Kế hoạch tác nghiệp: Là kế hoạch xác định các hoạt động nghiệp vụ cần phải
tiến hành, các nguồn lực và lịch trình thực hiện nhằm hoàn thành tốt một công việc cụ
thể.
+ Kế hoạch dự án: Là kế hoạch để lập và thực hiện một dự án phát triển, bao
gồm việc xác định mục tiêu, các công việc và hoạt động cần phải tiến hành, cách thức
thực hiện, quản lý công việc và nguồn lực cần thiết cho các hoạt động đó nhằm hoàn
thành mục tiêu dự án.
1.2. Ý nghĩa của lập kế hoạch
- Lập kế hoạch giúp tổ chức ứng phó với những thay đổi trong tương lai. Do sự
bất định của tương lai nên việc lập kế hoạch trở thành tất yếu. Thông qua việc lập kế
hoạch mà nhà quản lý dự đoán trước được những gì sẽ diễn ra trong tương lai, lường
trước được những khó khăn, thậm chí giúp tránh được những do dự. Tuy nhiên cũng
cần lưu ý, kế hoạch cũng chỉ mang tính tương đối, lập kế hoạch cho khoảng thời gian
càng dài thì độ chính xác càng giảm.
- Lập kế hoạch giúp hướng các nỗ lực vào việc hoàn thành các mục tiêu. Lập kế
hoạch là nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Ke hoạch được xây dựng sẽ góp
phần huy động sự tham gia, thống nhất được nỗ lực của các cá nhân, bộ phận trong tổ
chức góp phàn vào thực hiện các mục tiêu. Nhờ có các kế hoạch mà nhà quản lý phối
họp các hoạt động của các cá nhân cũng như các bộ phận trong việc thực hiện nhiệm
vụ chung nhằm hướng tới mục tiêu chung.
- Lập kế hoạch tạo ra khả năng tiết kiệm các nguồn lực cho tổ chức. Kế hoạch sẽ
góp phần vào tối thiểu hoá chi phí về nguồn lực vì nó chú trọng vào hiệu quả của hoạt

55
động và sự phù họp. Khi lập kế hoạch, nhà quản lý đã xây dựng các phương án và lựa
chọn phương án tối ưu để đạt mục tiêu. Mặt khác các kế hoạch có thể biến các hoạt động
không được phối họp thành những nỗ lực có định hướng chung, đảm bảo cho các hoạt
động diễn ra đều đặn, nhịp nhàng, cân đối; khắc phục tình trạng không ăn khớp, chồng
chéo, bất hợp lý gây tốn kém, lãng phí nguồn lực của cơ quan, xã hội. Ngoài ra, do lập
kế hoạch tốt giúp tổ chức ứng phó với sự bất định của môi trường vì vậy giảm thiểu rủi
ro giúp tổ chức tiết kiệm được các nguồn lực.
- Lập kế hoạch là cơ sở để thực hiện chức năng kiểm soát. Lập kế hoạch xác
định các mục tiêu, các kết quả cần đạt được, và chính các mục tiêu này lại là tiêu
chuẩn để kiểm tra, đánh giá hoạt động của từng bộ phận, từng cá nhân. Trên cơ sở các
kế hoạch, nhà quản lý tiến hành các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra hay thực
hiện chức năng kiểm soát thông qua việc đối chiếu, so sánh giữa kết quả thực hiện với
mục tiêu đã định.
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT LẬP KẾ HOẠCH
2.1. Phương pháp lập kế hoạch
Lập kế hoạch là một công tác quan trọng, không thể thiếu của quy trình quản lý
tổ chức. Có 2 phương pháp lập kế hoạch cơ bản:
- Lập kế hoạch kiểu truyền thống từ trên xuống. Phương pháp lập kế hoạch từ
trên xuông thông thường dựa trên nguồn ngân sách có sẵn và tập trung giải quyết các
khó khăn trước mắt mà người lập kế hoạch thấy được một cách chủ quan thông qua
quan sát và xem xét các báo cáo của kỳ trước. Theo phương pháp này, người lập kế
hoạch thường đánh giá tình hình một cách chủ quan, độc lập và dựa vào nguồn ngân
sách hiện có để ra quyết định phải làm gì trong kỳ kế hoạch tới. Phương pháp lập kế
hoạch này theo kiểu từ trên xuống, người lập kế hoạch thường không phải là người
thực hiện kế hoạch. Do đó người thực hiện kế hoạch ít chủ động và không có ý thức
làm chủ cao.
- Phương pháp lập kế hoạch từ dưới lên, có sự tham gia: chủ thể lập kế hoạch
hiểu rõ là nguồn lực luôn hạn chế nên cần phải có phương pháp tối ưu để sử dụng nguồn
lực một cách có hiệu quả nhất. Do đó, việc đánh giá nội lực (điểm mạnh và điểm yếu) và
các tác động từ bên ngoài (cơ hội và thách thức) được thực hiện rất bài bản và kỹ lưỡng
trên cơ sở sự tham gia hiệu quả của các bên liên quan nhằm đưa ra các thứ tự ưu tiên
họp lý cho các giải pháp thực hiện. Phương pháp này phù hợp với xu thế dân chủ hóa
đời sống xã hội và điều kiện các nguồn lực hạn chế.
2.2. Kỹ thuật lập kế hoạch
2.2.1. Kỹ thuật xác định cây vấn đề
Sau khi xác định vấn đề chính cần ưu tiên can thiệp trong tổ chức, các nhà quản
lý cần phải phân tích vấn đề để xác định các nguyên nhân gốc rễ gây ra vấn đề.
Nguyên nhân gốc rễ của vấn đề được hiểu là nguyên nhân gây nên vạn đề và có thể
can thiệp, giải quyết được trong điều kiện thực tế của tổ chức.
Việc phân tích vấn đề có những lợi ích sau:
56
- Phát hiện được những nguyên nhân gây nên vấn đề, nguyên nhân nào là
nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân nào là nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân nào là
nguyên nhân chính, nguyên nhân nào là nguyên nhân bổ trợ...
- Việc phân tích một cách khoa học, đúng kỹ thuật sẽ giúp xác định được các
nguyên nhân một cách hệ thống, logic, tránh bỏ sót nguyên nhân.
- Dựa trên việc tìm được các nguyên nhân gốc rễ sẽ giúp tổ chức xác định được
mục tiêu, các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của tổ chức.
Kỹ thuật cây vấn đề là một trong những kỹ thuật phân tích vấn đề thường gặp
và dễ áp dụng trong thực tiễn lập kế hoạch của tổ chức. Kỹ thuật phân tích vấn đề này
thường được sử dụng để mô tả mối quan hệ giữa các nguyên nhân một cách logic, toàn
diện.
Đây là một trong những kỹ thuật để lập kế hoạch, giúp tìm giải pháp bằng lập
bản đồ cấu trúc giữa nguyên nhân, kết quả và hệ quả (hiệu ứng).
Theo kỹ thuật này, cần tập trung trả lời 3 câu hỏi lớn sau:
- Xác định vấn đề chính của tổ chức là gì -
“thân cây”?
- Vấn đề chính đó được hình thành từ những
nguyên nhân nào - “rễ cây”?
- Vấn đề chính đó sẽ tạo ra kết quả gì - “thân,
lá cây”?
Kỹ thuật xác định cây vấn đề được sử dụng
trong lập kế hoạch của tổ chức với một số mục đích
sau:
- Là bước để tìm kiếm vấn đề hạn chế chính
của tổ chức.
- Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến
vấn đề chính.
- Các nguyên nhân khác ảnh hưởng đến nguyên nhân cơ bản (mối quan hệ của
các nguyên nhân).
- Giúp tìm thêm thông tin và nguồn lực để giải quyết vấn đề hoặc xác định
giải pháp hợp lý để xử lý vấn đề hiện tại. .
- Hình dung được hệ quả của vấn đề nêu ra.
Các hoạt động xác định cây vấn đề của tổ chức:
- Đặt vấn đề chính vào giữa trang giấy, khoanh vuông vấn đề (tạo thân cây).
- Xác định các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề-và phát triển thêm
những nguyên nhân khác có ảnh hưởng đến nguyên nhân trực tiếp này.

57
- Xác định các hệ quả do vấn đề sinh ra và phát triển thêm những hệ quả khác
có thể phát sinh do các hệ quả đã tìm ra. Nối vấn đề với các hệ quả bằng các mũi tên 1
chiều đi lên (tạo cành và lá cây).

58
Có thể thực hiện việc xác định cây vấn đề theo sơ đồ 1 dưới đây:

Kết quả

Nguyên nhân/ Kết quả

Nguyên nhân/ Kết quả

Nguyên nhân/ Kết quả

Nguyên nhân/ Kết quả

Nguyên nhân
Sơ đồ xác định cây vấn đề
Trong thực tế, khó có thể xác định sẽ phải hỏi bao nhiêu lần "tại sao" để có thể
tìm được nguyên nhân gốc rễ. Điều này hoàn toàn rất linh hoạt vì nguyên nhân gốc rễ
được định nghĩa là nguyên nhân gây nên vấn đề và có thể can thiệp, giải quyết được
trong điều kiện thực tế của tổ chức. Như vậy, cùng một vấn đề của các tổ chức khác
nhau trong những hoàn cảnh khác nhau sẽ có thể xuất phát từ những nguyên nhân gốc
rễ khác nhau.
2.2.2. Kỹ thuật phân tích SWOT:
SWOT là tập hợp viết tắt những chữ cái 'đầu tiên của các từ tiếng Anh:
Strengths (Điểm mạnh), Weaknesses (Điểm yếu), Opportunities (Cơ hội) và Threats
(Nguy cơ, thách thức). Đây là công cụ cực kỳ hữu ích giúp chúng ta tìm hiểu vấn đề
hoặc lập kế hoạch trong tổ chức. Phân tích môi trường bên trong và bên ngoài là một
ừong các phương pháp rất quan trọng nhằm xác định những điểm mạnh, điểm yếu
cũng như chỉ ra những cơ hội, thách thức mà tổ chức gặp phải.
Kỹ thuật này cho phép xây dựng được bức tranh toàn cảnh về các vấn đề cần
giải quyết trong lập kế hoạch đồng thời giúp tìm ra mục tiêu quan trọng cho tổ chức.
Để tiến hành phân tích SWOT phục vụ công tác lập kế hoạch, tổ chức cần trả lời các
câu hỏi sau:
- Những điêm mạnh của tổ chức:
+ Những lợi thế cơ bản của tổ chức là gì (về vị thế pháp lý, chức năng, nhiệm
vụ, địa điểm đặt trụ sở cơ quan, nhân sự.. .)•
+ Các đơn vị trong tổ chức đã làm tốt việc gì?
+ Đã tận dụng và sử dụng được những nguồn lực thích hợp nào cho sự phát
59
triển của tổ chức?
Nhóm lập kế hoạch phải trả lời đầy đủ các câu hỏi trên và phải xuất phát từ tình
hình thực tiễn của tổ chức.
- Những điểm yếu của tổ chức:
+ Tổ chức chưa làm tốt những vấn đề gì?
+ Tổ chức có những vấn đề gì cần phải cải thiện?
+ Những vấn đề gì tổ chức cần tránh?
- Những cơ hội tổ chức đang có:
+ Những cơ hội mà tổ chức đang có?
+ Những xu hướng quan trọng mà tổ chức nhận thức được là gì?
Các cơ hội đối với tổ chức thường xuất phát từ: Những thay đổi trong chính
sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến lĩnh vực công tác mà tổ chức đảm nhiệm;
Những thay đổi về chính sách của Bộ, ngành, địa phương; Sự phát triển của công
nghệ, thông tin; Yêu cầu phát triển của công nghệ thông tin; Yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội; sự hỗ trợ, hợp tác của nước ngoài.
- Những thách thức tổ chức đang đổi mặt:
+ Những trở ngại mà tổ chức đang gặp phải là gì?
+ Những yêu cầu về nhiệm vụ, công việc của tổ chức có thay đổi gì không?
+ Tổ chức gặp phải những vấn đề ngân sách không?
+ Có những yếu tố nào của địa phương có thể đe dọa nghiêm trọng đến hoạt
động của tổ chức không?
+ Những yếu tố đe dọa từ môi trường tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội.
Sau khi đã xác định các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của tổ chức
nhóm lập kế hoạch sắp xếp các nội dung trên theo bảng sau:

60
Bảng 1: Phân tích môi trường bên trong và bên ngoài của tô chức
Những mặt mạnh Những mặt yếu
1.……………………………… 1……………………………………….
2.……………………………… 2……………………………………….
3.……………………………… 3……………………………………….
Những cơ hội Những thách thức
1. ………………………………….. 1.…………………………………..
2…………………………………… 2.…………………………………..
3…………………………………… 3.…………………………………..

Bảng 2: Ma trận phân tích SWOT


Cơ hội Thách thức, nguy cơ
(Opportunities) (Threats)
Điểm mạnh SO: Kết hợp điểm mạnh và cơ hội. Các ST: Kêt hợp điêm mạnh và nguy
(Strength) mục tiêu được xây dựng dựa trên điểm cơ. Các mục tiêu dựa trên ưu thế
mạnh, ưu thế của tổ chức để tận dụng của tổ chức để tránh các nguy cơ
các cơ hội của môi trường. từ môi trường.

Điểm yếu WO: Kêt hợp điêm yêu và cơ hôi. Các WT: Kêt hợp điêm yếu và nguy
(Weeknesses) muc tiêu dưa trên khả năng vượt qua cơ. Các mục tiêu dựa trên khả
các yếu điểm của tổ chức để tận dụng năng vượt qua hoặc hạn chế tối đa
cơ hội của môi trường bên ngoài đem các điểm yếu của tổ chức để tránh
lại. các đe dọa từ môi trường bên
ngoài.

Kết quả của quá trình phân tích SWOT phải đảm bảo cụ thể, thực tế và khả thi
vì tổ chức sẽ sử dụng kết quả đó để thực hiện những bước tiếp theo như: hình thành
mục tiêu kế hoạch và cơ chế kiểm soát ké hoạch cụ thể. Một bản kế hoạch có hiệu quả
là kế hoạch có thể tận dụng tối đa các cơ hội bên ngoài và sức mạnh bên trong, cũng
như vô hiệu hóa được những nguy cơ bên ngoài và hạn chế hoặc vượt qua được những
yếu kém của bản thân tổ chức. Chất lượng phân tích của mô hình SWOT phụ thuộc rất
lớn vào chất lượng thông tin thu thập được. Do đó, thông tin cần khách quan, chính
xác, tránh cái nhìn chủ quan từ một phía, nên tìm kiếm thông tin từ nhiều bên khác
nhau như Lãnh đạo cơ quan, các cơ quan cấp trên, cấp dưới, các đối tác, nhà tư vấn và
công dân, tổ chức.

61
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÔNG VIỆC CỦA VIÊN CHỨC HỘ SINH
1. TỔ CHỨC KHÔNG GIAN LÀM VIỆC
a. Những yêu cầu chung cần thiết của nơi làm việc:
- Phù hợp với tính chất và quy mô hoạt động của cơ quan: trụ sở cơ quan  phải
thể hiện được bộ mặt cơ quan, tương thích với vị trí, tuy nhiên không phô trương quá
mức làm lãng phí tiền của đối với cơ quan nhà nước. Các cơ quan cần sắp xếp, bố trí,
sử dụng hợp lý trụ sở làm việc và phương tiện hiện có để phục vụ công việc.
- Tính thuận lợi phục vụ công việc: môi trường xung quanh thích hợp (không
quá ồn ào),  trang bị phương tiện đầy đủ (luôn được hoàn thiện, cải tiến) phục vụ cho
công vụ và sinh hoạt cá nhân, cách thức tổ chức và tạo ra một tâm lý tích cực, giảm
căng thẳng, mệt nhọc, tình cảm gắn bó giữa cán bộ, nhân viên cũng như giữa họ và nơi
làm việc.
- Tính dễ dàng liên hệ giao dịch;
- Tính bảo mật.
b. Sắp xếp bố trí  nơi làm việc:
- Các bộ phận lãnh đạo, văn phòng: cần được bố trí ở nơi dễ giao dịch nhất và
có tư thế nhất. Các phòng làm việc  được bố trí theo nguyên tắc bảo đảm giải quyết
dây chuyền giải quyết công việc, các phòng ban có quan hệ thường xuyên với nhau
được bố trí gần nhau , các phòng ban tiếp khách được bố trí gần lối ra vào - Các
phòng có phương tiện máy móc, kỹ thuật, lưu trữ nên bố trí ở vị trí biệt lập, cần trang
bị các phương tiện bảo quản giữ gìn máy móc, thiết bị
- Diện tích phòng làm việc phải phù hợp với tính chất của từng bộ phận
- Các đồ dùng văn phòng, bàn ghế , tủ hồ sơ, các lọai sổ sách, giấy bút…cần bố
trí sắp xếp phù hợp với động tác làm việc, ngăn nắp tạo không khí thoải mái trong làm
việc.
- Phòng làm việc phải bảo đảm phát huy hết tác dụng tích cực của các yếu tố tác
động đến năng suất lao động như sự thoáng mát, nhiệt độ, tiếng ồn, ánh sáng, màu
sắc…
- Có hệ thống bảng chỉ dẫn hành chính toàn cơ quan, từng phòng làm việc, từng
chức danh công vụ để dễ tìm, liên hệ công tác.
2. LẬP MÔ TẢ CÔNG VIỆC
Một bản mô tả công việc cho một vị trí công việc (hay “chức danh công việc”)
là cơ sở để người quản lý giao việc, theo dõi thực hiện công việc, tuyển dụng, đào tạo
nhân viên, và đánh giá kết quả công việc nhân viên. Đồng thời, bản mô tả công việc
cũng là cơ sở để nhân viên đảm nhận vị trí công việc đó biết rõ mục tiêu của công
việc, chức năng và nhiệm vụ, yêu cầu kết quả đối với các công việc được giao, quyền
hạn và trách nhiệm có được khi thực hiện các chức năng đó. Như vậy, bản mô tả công
việc không chỉ là bản cam kết công việc giữa người quản lý và nhân viên, mà còn là cơ
sở hướng dẫn để nhân viên thực hiện công việc của mình một cách phù hợp nhất, đóng
62
góp vào việc hoàn thành kế hoạch hoạt động của bộ phận, cũng như của tổ chức.
Những nội dung cơ bản trong bảng mô tả công việc
- Mục tiêu công việc
Bản mô tả công việc phải nêu lên được mục tiêu của vị trí công việc: “vị trí này
tồn tại để làm gì cho tổ chức?”. Đây chính là mục tiêu công việc phù hợp với các chức
năng chính yếu mà vị trí này đảm nhận. Ví dụ, đối với vị trí Trưởng phòng nhân sự có
chức năng đề xuất chính sách nhân sự, theo dõi và tư vấn thực hiện chính sách thì mục
đích có thể là “Bảo đảm chất lượng và số lượng nguồn nhân lực cho tổ chức thông qua
việc thực hiện các chính sách nhân sự phù hợp với nhu cầu quản lý và hiệu quả nhất”
- Chức năng và nhiệm vụ
Chức năng của mỗi vị trí được phân bổ từ chức năng chung của bộ phận. Để
thực hiện được từng chức năng này, bản mô tả công việc phải chỉ ra được các
nhiệm vụ chủ yếu. Nói cách khác, chức năng là tổng hợp của một nhóm các nhiệm
vụ.
Nhiệm vụ được mô tả với các động từ hành động cụ thể nhưng không phải là
dạng quy trình. Mô tả “làm cái gì” chứ không mô tả “làm như thế nào”.
Chức năng và nhiệm vụ cần được sắp xếp theo thứ tự quan trọng và trình tự
thực hiện, đồng thời nên được diễn tả ngắn gọn và rõ rang. Một số bản mô tả công
việc cố gắng liệt kê tất cả các nhiệm vụ dẫn đến danh sách nhiệm vụ rườm rà mà
vẫn có thể không mô tả hết được các nhiệm vụ có thể phát sinh khi thực hiện công
việc.
Mỗi nhiệm vụ riêng lẻ hoặc một vài nhóm nhiệm vụ sẽ có mô tả yêu cầu kết
quả kỳ vọng tổng thể cho vị trí công việc. Đây là nhưng tiêu chuẩn đánh giá định tính,
là cơ sở để quản lý thực hiện công việc đối với người quản lý cũng như tiêu chí thực
hiện công việc cho nhân viên như đã đề cập trên đây.
- Quyền hạn và trách nhiệm
Quyền hạn và trách nhiệm phải tương ứng với chức năng và nhiệm vụ của vị trí.
Mỗi cá nhân được chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình với các quyền hạn này,
đồng thời phải chịu trách nhiệm cho kết quả công việc của các nhiệm vụ đó. Các
quyền hạn chủ yếu thường bao gồm quyền hạn về sử dụng nguồn lực tài chính, nhân
sự, hoạt động, hay đại diện ký kết văn bản, quyết định. Trong khi đó, các trách nhiệm
chủ yếu là về tài sản, tài chính, pháp lý, con người liên quan tới quá trình thực thi
nhiệm vụ.
- Yêu cầu năng lực
Đây là những yêu cầu về năng lực cần thiết ở mức tối thiểu đối với vị trí để
thực hiện được các nhiệm vụ đã nêu, chứ không phải là mô tả về năng lực của các cá
nhân. Các yêu cầu năng lực cơ bản có thể bao gồm học vấn, chuyên môn, kiến thức,
kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ.
Như vậy, để viết một bản mô tả công việc tốt sẽ cần nhiều thông tin hơn so với
63
một danh sách các công việc thường làm của một vị trí. Hệ thống các bản mô tả công
việc được xây dựng một cách bài bản chắc chắn sẽ là công cụ đắc lực trong quản lý
nhân sự và quản lý hoạt động của đơn vị
3. KIỂM SOÁT VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG VIỆC
a. Kiểm soát công việc
Kiểm soát là quá trình giám sát, đo lường, đánh giá và điều chỉnh hoạt động
nhằm đảm bảo sự thực hiện theo kế hoạch
Kiểm soát là chức năng quan trọng của nhà quản lý nhằm thu thập thông tin về
các quá trình, hiện tượng đang diễn ra trong một tổ chức.
Tính chất quan trọng của kiểm soát được thể hiện ở cả hai mặt. Một mặt, kiểm
soát là công cụ quan trọng để nhà quản lý phát hiện ra những sai sót và có biện pháp
điều chỉnh. Mặt khác, thông qua kiểm soát, các hoạt động sẽ được thực hiện tốt hơn và
giảm bớt được sai sót có thể nảy sinh.
Thường thường, người ta chỉ nhấn mạnh đến ý nghĩa thứ nhất (phát hiện sai sót)
của kiểm soát vì cho rằng mọi hoạt động đều không tránh khỏi sai sót và kiểm soát là
bước cuối cùng để hạn chế tình trạng này. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ, vì trong thực
tế, kiểm soát có tác động rất mạnh đến các hoạt động. Một công việc, nếu không có
kiểm soát sẽ chắc chắc nảy ra nhiều sai sót hơn nếu được theo dõi, giám sát thường
xuyên. Điều đó khẳng định rằng kiểm soát không chỉ là giai đoạn cuối cùng trong quá
trình hoạt động của hệ thống hoặc là khâu sau cùng của chu trình quản lý (từ lập kế
hoạch đến tổ chức lãnh đạo). Kiểm tra cũng không phải là hoạt động đan xen mà là
một quá trình liên tục về thời gian và bao quát về không gian. Nó là yếu tố thường trực
của nhà quản lý ở mọi lúc, mọi nơi.
Như vậy, chức năng quản lý của hoạt động kiểm soát là giám sát, đo lường
và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm để đảm bảo rằng các mục tiêu của tổ chức và
các kế hoạch vạch ra để đạt tới các mục tiêu này đã và đang được hoàn thành .
b. Đánh giá công việc
Đánh giá thực hiện công việc thường được hiểu là sự đánh giá có hệ thống và
chính thức tình hình thực hiện công việc của người lao động trong quan hệ so sánh với
các tiêu chuẩn đã được xây dựng và thảo luận về sự đánh giá đó với người lao động.
- Tính hệ thống được thể hiện qua 3 góc độ:
+ Đánh giá sử dụng một hệ thống gồm nhiều chỉ tiêu liên quan đến nhau chứ
không phải theo các chỉ tiêu đơn lẻ;
+ Đánh giá theo một chu kỳ nhất định (1 tháng, 1 quý, 6 tháng, 1 năm…);
+ Đánh giá theo một quy trình thống nhất.
- Tính chính thức được thể hiện qua 3 góc độ:
+ Đánh giá công khai trong toàn tổ chức;
+ Đánh giá bằng các văn bản chính thức;
64
+ Kết quả đánh giá được phản hồi đến các đối tượng liên quan (người lao động,
người quản lý…).
- Mục đích của đánh giá. Trong tổ chức, đánh giá thực hiện công việc có ý nghĩa
quan trọng vì nó phục vụ được nhiều mục tiêu quản lý và tác động trực tiếp tới cả người
lao động và tổ chức nói chung. Các mục tiêu mà đánh giá thực hiện công việc phục vụ
có thể được quy về hai mục tiêu cơ bản là cải tiến sự thực hiện công việc của người lao
động và giúp cho những người quản lý có thể đưa ra được các quyết định nhân sự đúng
đắn như đào tạo và phát triển, thù lao, thăng tiến, kỷ luật…
- Các yếu tố của hệ thống đánh giá thực hiện công việc. Để đánh giá thực hiện công
việc, cần phải thiết lập một hệ thống đánh giá với ba yếu tố cơ bản sau:
+ Xây dựng các tiêu chuẩn thực hiện công việc.
+ Đo lường sự thực hiện công việc theo các tiêu thức trong tiêu chuẩn: Người
đánh giá sử dụng các phương pháp đánh giá để tiến hành đo lường sự thực hiện công
việc của người lao động thông qua việc so sánh thực tế thực hiện công việc với các
tiêu chuẩn.
+ Thông tin phản hồi đối với người lao động và bộ phận quản lý nguồn nhân
lực. Các kết quả đánh giá được thảo luận với người lao động để nhằm hoàn thiện sự
thực hiện công việc của họ. Đồng thời, các kết quả đánh giá được cung cấp tới bộ phận
quản lý nguồn nhân lực, được lưu giữ trong hồ sơ nhân viên, làm cơ sở để ra các quyết
định về nguồn nhân lực có liên quan đến công việc của người lao động mà mục tiêu
cuối cùng cũng là nhằm hoàn thiện sự thực hiện công việc của người lao động.
- Các yêu cầu đối với một hệ thống đánh giá thực hiện công việc
Để đánh giá có hiệu quả, hệ thống đánh giá thực hiện công việc phải đáp ứng
các yêu cầu sau:
+ Tính phù hợp. Yêu cầu này đòi hỏi phải có sự liên quan rõ ràng giữa các tiêu
chuẩn thực hiện công việc. các tiêu thức đánh giá với các mục tiêu của tổ chức. Nói
cách khác, hệ thống đánh giá phải phù hợp với mục tiêu quản lý, phục vụ được mục
tiêu quản lý. Đồng thời, phải có sự liên quan rõ ràng giữa các yếu tố chủ yếu của công
việc đã được xác định thông qua phân tích công việc với các chỉ tiêu đánh giá được
thiết kế trong phiếu đánh giá.
+ Tính nhạy cảm. Đòi hỏi hệ thống đánh giá phải có những công cụ đo lường có
khả năng phân biệt được những người hoàn thành tốt công việc và những người không
hoàn thành tốt công việc.
+ Tính tin cậy. Được thể hiện ở sự nhất quán của đánh giá. Có nghĩa là, hệ
thống đánh giá phải đảm bảo sao cho đối với mỗi một người lao động bất kỳ, kết quả
đánh giá độc lập của những người đánh giá khác nhau về họ phải thống nhất với nhau
về cơ bản.
+ Tính được chấp nhận. Đòi hỏi hệ thống đánh giá phải được chấp nhận và ủng
hộ bởi người lao động.

65
+ Tính thực tiễn. Để có thể thực hiện được trên thực tế, các phương tiện đánh giá
phải đơn giản, dễ hiểu và dễ sử dụng đối với người lao động và với người quản lý.
- Các lỗi cần tránh trong đánh giá thực hiện công việc. Trong đánh giá thực
hiện công việc, cần tránh mắc các lỗi sau đây:
+ Lỗi thiên vị: người đánh giá sẽ mắc lỗi thiên vị khi họ ưa thích một người lao
động nào đó hơn những người khác.
+ Lỗi xu hướng trung bình: những người đánh giá ngại đương đầu với thực tế,
không muốn làm mất lòng người khác thường có xu hướng đánh giá tất cả mọi người ở
mức trung bình.
+ Lỗi thái cực: lỗi này sẽ xảy ra khi người đánh giá tỏ ra quá nghiêm khắc hoặc
quá dễ dãi trong đánh giá.
+ Lỗi định kiến do tập quán văn hoá: ý kiến của người đánh giá có thể bị sai
lệch do ảnh hưởng của tập quán văn hóa của bản thân.
+ Lỗi thành kiến: người đánh giá có thể không ưa thích một tầng lớp hay một
nhóm người lao động nào đó và không khách quan trong đánh giá.
+ Lỗi do ảnh hưởng của sự kiện gần nhất: ý kiến của người đánh giá cũng có
thể bị chi phối bởi những hành vi mới xảy ra nhất của người lao động.
4. DANH MỤC CÔNG VIỆC HÀNG NGÀY
Nếu sử dụng thời gian chưa hiệu quả thì việc đầu tiên nên làm là xem xét một
cách cẩn thận về việc phân bổ thời gian cho các công việc. Việc phân tích cách phân
bổ và sử dụng thời gian là giải pháp tốt nhất để giúp chúng ta biết mình đang lãng phí
thời gian vào những việc gì để có thể phân bổ lại thời gian cho hợp lí hơn.
Một công cụ giúp công chức có cái nhìn tổng quan về hiện trạng phân bổ và sử
dụng thời gian là Nhật ký thời gian. Có thể tham khảo mẫu nhật ký thời gian bên dưới
hoặc điều chỉnh cho phù hợp với bản thân. Khi lập nhật ký thời gian, nên bắt đầu từ
thời điểm bắt tay vào công việc đầu tiên cho đến khi kết thúc công việc cuối cùng
trong ngày để nghỉ ngơi.

NHẬT KÝ THỜI GIAN


Thứ….ngày….tháng…..năm….
Thời gian thực hiện Nội dung công việc Thời lượng
…………………………… …………………………… ……………………
…………………………… …………………………… ……………………
…………………………… …………………………… ……………………

66
Điều quan trọng là phải ghi lại các công việc cùng với thời lượng đã sử dụng
một cách chính xác và theo trình tự thời gian. Không chỉ ghi lại các công việc lớn,
quan trọng chiếm nhiều thời gian hoặc đã được lên lịch trước như đến công sở, hội
họp, viết báo cáo, xử lý công việc… mà cả các việc nhỏ, không quan trọng nhưng vẫn
chiếm thời gian trong ngày của bạn như thăm hỏi, hiếu hỉ, mua sắm hay tán gẫu với
đồng nghiệp….
5. SẮP XẾP CÔNG VIỆC THEO THỨ TỰ ƯU TIÊN THEO MA TRẬN THỜI
GIAN
Một công cụ nữa cũng rất hữu ích để giúp công chức quản lý thời gian một cách
hiệu quả đó là, ma trận quản lý thời gian của Stephen Covey.
Quản lý thời gian bằng ma trận thời gian được thực hiện theo các bước sau đây:
Bước 1: Liệt kê những công việc phải làm, kể cả những hoạt động không quan
trọng nhưng làm mất thời gian tại nơi làm việc.
Bước 2: Sắp xếp các công việc và hoạt động vào bảng ma trận, dựa trên tầm
quan trọng và tính cấp thiết của chúng.
Quan trọng là những hoạt động mà kết quả của chúng sẽ dẫn đến mục tiêu, cho
dù đó là những hoạt động của cá nhân hoặc trong công việc.
Khẩn cấp là những hoạt động không cho phép chậm trễ, đòi hỏi phải có ngay
những hành động đối phó.
Ma trận thời gian

QUAN TRỌNG I II

KHÔNG
III IV
QUAN TRỌNG

KHẨN CẤP KHÔNG KHẨN CẤP

+ Phần tư (I) là dành cho những việc vừa khẩn cấp và vừa quan trọng. Những
công việc rơi vào ô này phải được thực hiện ngay và trước tiên. Quan trọng Không
quan trọng
+ Phần tư (II) là dành cho những công việc quan trọng song lại không khẩn cấp.
Những công việc rơi vào ô này cần phải xây dựng kế hoạch thực hiện một cách thích
hợp.
+ Phần tư (III) là dành cho những công việc không quan trọng nhưng lại khẩn
cấp, đòi hỏi phải thực hiện ngay. Những việc này thực hiện càng sớm càng tốt.

67
+ Phần tư (IV) là dành cho những hoạt động không quan trọng và cũng không
khẩn cấp. Những công việc thuộc nhóm này, công chức có thể thực hiện khi có thời
gian rảnh rỗi.
Bước 3: Đánh giá thời gian đã được sử dụng như thế nào, và nếu cần thiết, sắp
xếp lại các công việc.
+ Nếu phần lớn khối lượng công việc tập trung ở ô số I, công chức sẽ luôn rơi
vào tình trạng căng thẳng, khủng hoảng, và cảm thấy kiệt sức vì công việc.
+ Nếu hầu hết các công việc của bạn được sắp xếp vào ô số II, điều đó chứng tỏ
công chức luôn chủ động với công việc, làm việc theo kế hoạch, có tầm nhìn dài hạn,
không bị rơi vào tình trạng khủng hoảng và áp lực.
+ Nếu phần lớn công việc nằm ở ô số III, nghĩa là công chức thường xuyên phải giải
quyết các công việc vụn vặt mang tính đối phó, không tập trung vào mục tiêu dài hạn,
không hướng tới mục tiêu và sẽ luôn cảm thấy mình là nạn nhân, thụ động.
+ Nếu phần lớn công việc thuộc ô số IV, điều đó chứng tỏ công chức bị tiêu tốn
thời gian vào những việc vô ích mà không đem lại lợi ích gì đáng kể, thiếu trách nhiệm
với công việc, phụ thuộc vào người khác…
Dưới đây là cách phân bố thời gian hợp lý theo phương pháp này:

Ô số I: 15% - 20% Ô số II: 60% - 65%

Ô số IV: dưới 5%
Ô số III: 10% - 15%

6. PHỐI HỢP THỰC HIỆN CÔNG VIỆC HIỆU QUẢ THEO KẾ HOẠCH
Sự cần thiết của hoạt động phối hợp thực hiện công việc trong hoạt động công
việc của cán bộ, viên chức.
Thứ nhất, phối hợp là một yêu cầu quan điều hành công việc. Phối hợp chính là
quá trình làm việc cùng nhau của một nhóm người hay của các tổ chức nhằm đạt được
mục đích của mà họ muốn hướng tới. Mục đích của phối hợp chính là tăng cường
trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự liên kết của các cơ quan liên quan bảo
đảm sự thống nhất từ trung ương cho đến địa phương, giữa các cơ quan có liên quan
và trong nội bộ cơ quan, tổ chức nhằm nâng cao hoạt động trong thực thi nhiệm vụ của
các cơ quan đơn vị.
Thứ hai, phối hợp là điều kiện để tổ chức hoạt động hiệu quả. Bởi hoạt động
phối hợp sẽ giúp các tổ chức, cá nhân hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau thực hiện tốt công việc
trong bối cảnh yêu cầu của xã hội ngày càng cao.
Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý phối hợp tốt giúp thiết lập các mối liên hệ
hợp tác giữa các chủ thể nhằm chống lại bệnh cục bộ, chỉ quan tâm đến vai trò chuyên
68
môn và quyền lợi của bộ phận mình mà không nghĩ đến vai trò, nhiệm vụ của bộ phận
khác. Đồng thời, phối hợp là cơ sở để thiết lập những mối quan hệ hợp tác giữa các bộ
phận, các tổ chức và cá nhân có liên quan. Phối hợp còn là cơ sở nhằm thiết lập các
nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động phối hợp của các chủ thể, nhằm
đảm bảo cho các chủ thể hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp; là thước đo hiệu quả trong
quy trình phối hợp quản lý công việc được giao.
7. SẮP XẾP VÀ LỮU TRỮ THÔNG TIN
a. Sắp xếp thông tin
- Phân loại thông tin. Việc phân loại thông tin rất quan trọng, nếu phân loại có
hệ thống thì sẽ dễ dàng cho việc kiểm tra, sắp xếp. Nên phân loại theo cách như sau:
+ Phân loại theo chủ đề. Trong cùng một loại hồ sơ nên chia nhỏ theo từng chủ
đề ví dụ như: báo cáo, kế toán, hợp đồng, quảng cáo, tiếp thị…
+ Phân loại theo cụm. Trong cùng một loại chủ đề nên chia nhỏ thông tin theo
từng cụm ví dụ như: cụm quý 1, cụm quý 2, cụm quý 3, cụm 4.
+ Phân loại theo nhóm. Trong cùng một cụm thông tin nên chia nhỏ ra theo
từng nhóm ví dụ như: nhóm quý 1, nhóm quý 2, nhóm quý 3, nhóm quý 4.
- Sắp xếp thông tin: Sau khi phân loại, chúng ta cần sắp xếp thông tin một cách
khoa học. Nên sắp xếp theo cách như sau:
+ Sắp xếp theo thời gian: Dựa theo thứ tự thời gian của sự việc để sắp xếp trước
sau. Cần ghi chú cẩn thận thời điểm để khi tìm kiếm được dễ dàng.
+ Sắp xếp theo mẫu tự: Sắp xếp dựa theo thứ tự mẫu tự (A,B,C…) của thông tin. Ví
dụ mẫu tự T sẽ xếp theo thứ tự: thiệp mời - thống kê – thư từ - tiếp thị.
+ Sắp xếp theo tính chất. Sắp xếp dựa theo tính chất của thông tin. Ví dụ:
Thông tin bình thường, mật, tối mật; Thông tin chưa giải quyết, đang giải quyết chưa
dứt điểm, đã giải quyết xong
- Lập danh mục thông tin. Danh mục thông tin là bản liệt kê một cách hệ thống
thông tin của đơn vị. Nhờ vào danh mục này mà chúng ta có thể sắp xếp, quản lý và tra
cứu thông tin nhanh chóng.
+ Tạo một danh mục cụ thể, chính xác. Sau khi đã chọn cách sắp xếp, chúng ta
tạo danh mục thông tin chi tiết. Nên đưa vào máy vi tính, tạo cây thư mục, với thư mục
cấp 1 là danh mục thông tin, thư mục cấp 2 là chủ đề thông tin… Như vậy, lúc cần tra
cứu chúng ta có thể xem nhanh nhờ cây thư mục trên máy vi tính.
+ Danh mục thông tin phải được cập nhật thường xuyên. Khi đã đưa danh mục
vào máy vi tính, chúng ta nên lưu lại cây thư mục cũ trước khi cập nhật. Như vậy, lúc
cần xem xét lại, chúng ta biết được từng thời điểm bổ sung thông tin mới mới.
b. Lữu trữ thông tin
- Phương tiện giấy: tủ kệ tiêu chuẩn văn phòng, tủ kệ mở (không cửa), tủ kệ di
động, tủ kệ an toàn, tủ kệ xoay, tủ kệ đặc biệt có phím ấn, tủ kệ liên hợp.
69
- Phương tiện điện từ: đĩa mềm, đĩa cứng, đĩa CD-ROM, chụp vi phim,…
- Vật dụng bổ trợ: nhãn bìa kẹp, nhãn thẻ chỉ dẫn, nhãn ngăn kéo, bìa kẹp ‘out’
Dù sử dụng phương tiện lưu trữ gì, áp dụng vật dụng hỗ trợ tìm kiếm nào, thì
việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào công tác này là rất quan trọng trong thời đại ngày
nay, mà phổ biến nhất hiện nay là máy vi tính cá nhân.

BÀI TẬP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG


1. Phân tích các lợi ích của lập kế hoạch để thấy được tầm quan trọng của công tác này
tại cơ quan, đơn vị.
2. Sử dụng kỹ thuật phân tích cây vấn đề để phân tích một vấn đề cụ thể tại cơ quan,
đơn vị nơi anh (chị) công tác.
3. Dùng kỹ thuật SWOT để phân tích môi trường bên ngoài và thực trạng của cơ quan,
đơn vị nơi anh (chị) công tác.
4. Thực hành xây dựng một kế hoạch của cơ quan, đơn vị nơi anh (chị) công tác theo
đúng quy trình, kỹ thuật trong lập kế hoạch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: sổ tay hướng dẫn lập ké hoạch phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm ở cấp xã, 2011.
2. Bộ Nội vụ, Trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức: Tài liệu bồi dưỡng
nghiệp vụ, kỹ năng quản lý đối với Trưởng phòng, phó trưởng phòng ngành nội vụ.
4. Học viện Hành chính - Dự án hỗ trợ Học viện Hành chính của DANIDA: Kỹ năng
lập và thực hiện kế hoạch trong hành chính cấp xã, 2006.
6. Ủy ban dân tộc: Chuyên đề Lập kế hoạch có sự tham gia của người dân, 2008.

70
71
CHUYÊN ĐỀ 4
KỸ NĂNG QUẢN LÝ THỜI GIAN VÀ KỸ NĂNG PHỐI HỢP TRONG CÔNG
VIỆC CỦA VIÊN CHỨC HỘ SINH

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 08 tiết

I. KỸ NĂNG QUẢN LÝ THỜI GIAN


MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Hiểu được sự cần thiết phải quản lý thời gian, nguyên nhân của việc lãng phí
thời gian;
2. Biết được các biện pháp sử dụng thời gian có hiệu quả như: Hiểu về bản
thân, thực hành sự ngăn nắp, lập kế hoạch công việc và giáo tiếp hiệu quả hơn.
3. Có kỹ năng sử dụng một số công cụ quản lý thời gian có hiệu quả, như: Nhật
ký thời gian; lịch công việc và Ma trận thời gian.

NỘI DUNG
1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ THỜI GIAN
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý thời gian, chẳng hạn như:
- Quản lý thời gian có nghĩa là làm được nhiều việc hơn trong một khoảng thời
gian nhất định.
- Quản lý thời gian là việc không lãng phí thời gian vào những việc không liên
quan.
- Quản lý thời gian để tránh được việc vội vã khi hoàn thành công việc vào phút
cuối.
- Quản lý thời gian là việc quyết định sử dụng thời gian một cách tốt nhất.
Trong hoạt động công việc, quản lý thời gian được hiểu là việc cán bộ, công
chức, viên chức kiểm soát tốt hơn khoảng thời gian 8h tại cơ quan; đồng thời vận dụng
các kỹ năng để sử dụng, phân bổ khoảng thời gian đó một cách hợp lý nhằm nâng cao
hiệu quả thực thi công việc. Do đó, việc quản lý thời gian là một việc làm hết sức cần
thiết. Sự cần thiết phải quản lý thời gian vì những lý do đặc tính của thời gian và lợi
ích của việc quản lý thời gian mang lại.
1.1. Do đặc tính của thời gian
Khác với các nguồn lực khác, thời gian chứa đựng những đặc tính mà không
một nguồn lực nào có được:
- Không thể quay lại;
72
- Không thể dự trữ;
- Không thể thay thế;
- Không thể đảo ngược.
Điều đó có nghĩa là, thời gian đã trôi qua thì không thể lấy lại được, thời gian
đã lãng phí thì không thể đảo ngược được, thời gian không sử dụng sẽ không thể tiết
kiệm hay dự trữ cho các mục tiêu tương lai, và thời gian là duy nhất mà không thể có
sự thay thế.
1.2. Lợi ích của việc quản lý thời gian hiệu quả
Sử dụng nguồn lực thời gian tốt và hợp lý sẽ mang lại rất nhiều lợi ích thuyết
phục. Người ta thường nói rằng, sự khác nhau cơ bản giữa người thành công và kẻ thất
bại chính nằm ở cách mà họ sử dụng thời gian của bản thân, bởi vì quản lý thời gian
tốt sẽ mang lại những giá trị sau đây:
- Nâng cao hiệu quả và năng suất làm việc: Quản lý thời gian tốt sẽ giúp công
chức biết cách phân bổ thời gian hợp lý giữa công việc chuyên môn, công việc cá nhân
và thời gian giải trí; sẽ giúp tập trung cho những công việc mang tính mục tiêu và dài
hạn; sẽ giúp lựa chọn khung giờ tốt nhất để hoàn thành những công việc quan trọng
nhất; giúp thực hiện công việc một cách trôi chảy, tuần tự, theo kế hoạch, từ đó nâng
cao được hiệu suất của công việc.
- Có thể dự trù được nhiều việc cho kế hoạch tương lai và giải quyết các vấn đề
mang tính dài hạn: Quản lý thời gian tốt luôn gắn với việc xây dựng kế hoạch thực
hiện công việc, giúp chủ động với những mục tiêu mang tính dài hạn, tránh tập trung
vào những công việc vụn vặt, tức thì nhưng lại không quan trọng, không mang lại giá
trị.
- Giảm bớt áp lực trong công việc: Khi biết cách quản trị thời gian hợp lý, công
chức sẽ luôn chủ động với các kế hoạch của mình, không rơi vào tình trạng căng thẳng
hay khủng hoảng do công việc bị ứ đọng hoặc dồn nén. - Tăng lượng “thời gian riêng
tư” cho mỗi cá nhân: Quản lý thời gian tốt sẽ tạo thêm nhiều thời gian dành cho những
những giá trị cá nhân …
- Tăng niềm vui trong công việc và cuộc sống: Khi cán bộ, công chức hài lòng
với kết quả công việc, chủ động với công việc được giao, không bị áp lực về thời gian,
có đủ thời gian cho cá nhân, đó chính là lúc cán bộ, công chức luôn cảm thấy vui vẻ và
hạnh phúc.
Như vậy, quản lý thời gian hiệu quả không chỉ mang lại ích lợi là nâng cao hiệu
suất làm việc của cá nhân mà còn góp phần nâng cao hiệu quả công việc của cơ quan,
tổ chức. Đặc biệt trong bộ máy cơ quan nhà nước, quản lý thời gian hiệu quả là nâng
cao năng suất lao động trong khu vực công, là cơ sở để xác định lại vị trí việc làm, xác
định khối lượng biên chế phù hợp và góp phần vào thành công của chủ trương tinh
giản biên chế trong giai đoạn hiện nay.

73
2. NGUYÊN NHÂN GÂY LÃNG PHÍ THỜI GIAN
2.1.Thiếu các mục tiêu
Khi không đặt ra mục tiêu, sẽ không biết cần làm gì có ích cho công việc và
cuộc sống, không biết công việc nào quan trọng để ưu tiên làm trước. Khi đó sẽ rất dễ
sa đà và mất thời gian vào những việc không mang lại nhiều giá trị cho bản thân.
2.2. Làm việc không có kế hoạch
Khi không kiểm soát được các việc cần làm, công chức sẽ rơi vào tình trạng lúc
thì thảnh thơi lúc thì “vắt chân lên cổ” để giải quyết công việc. Tuy nhiên, công việc
đã được lên kế hoạch (không phải cứng nhắc) được thực hiện theo thời gian đã định
trong kế hoạch, đôi khi người ta phải biết điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với tình
trạng công việc và khi có những tình huống bất ngờ xảy đến.
2.3. Tính trì hoãn
Trì hoãn hay còn có những cách gọi khác với nghĩa tương tự là tính chần chừ,
hay thói lề mề, sự lần lữa làm cho thời gian trôi qua lãng phí. Điều này sẽ khiến cho
công việc bị dồn lại, ứ đọng, và rơi vào trạng thái mất kiểm soát khi đến hạn chót.
2.4. Không có khả năng nói “không”
Khi không biết nói “không” với những công việc mà người khác nhờ làm, có
nghĩa công chức đã làm mất thời gian của chính mình bởi những công việc không phải
của bản thân và khi đó khó có thể tránh được những áp lực sau này.
2.5. Chủ nghĩa hoàn hảo
Người theo chủ nghĩa hoàn hảo hay còn gọi là người cầu toàn là những người
luôn nỗ lực làm mọi thứ một cách hoàn hảo nhất, không có sai sót và đặt ra những tiêu
chuẩn lẫn mục tiêu phi thực tế cho chính họ. Những người cầu toàn lại liên tục trì hoãn
vì họ sợ bị từ chối, chê bai và thất bại. Đối với họ, sẽ luôn có thứ phải sửa chữa, thay
đổi và họ nhất định không thực hiện nếu chưa cảm thấy hài lòng. Bởi thế, sự trì hoãn
rất thường xảy ra với những người có tính cầu toàn.
2.6. Góc làm việc không gọn gàng
Đối với cán bộ, công chức, đây là một nguyên nhân gây lãng phí thời gian khá
phổ biến. Khi rơi vào bẫy này, công chức thường mất thời gian để tìm kiếm vật dụng, tài
liệu, hay những thiết bị làm việc khi cần sử dụng đến chúng. Đây là một “tên trộm thời
gian” rất thường xuyên gặp do chính thói quen của công chức tạo nên.
2.7. Điện thoại - internet, chuyện phiếm
Thời gian sẽ lãng phí nếu dành nhiều thời gian cho nhắn tin, chat, các mạng xã
hội… đặc biệt là trong 8h làm việc tại cơ quan
3. CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG THỜI GIAN HIỆU QUẢ
3.1. Hiểu về bản thân
a. Xác định mục tiêu cá nhân

74
Việc xác định mục tiêu trong công việc sẽ giúp công chức xem xét và thực hiện
công việc của mình một cách logic, và đạt hiệu quả cao. Xác định mục tiêu nhằm: Tập
trung cho những công việc quan trọng nhất, xác định được phương hướng làm việc, ít
tốn thời gian cho những việc không quan trọng, hạn chế việc lãng phí thời gian. Do
vậy, bước đầu tiên khi tiến hành công việc là công chức cần phải xác định mục tiêu cụ
thể cần đạt được khi hoàn tất công việc. Để xác định mục tiêu tốt, cần vận dụng
nguyên tắc dưới đây để mục tiêu của bạn trở thành mục tiêu SMART (thông minh).
Mục tiêu cần phải có sự rõ ràng cụ thể về cái gì,
Specific ai, ở đâu, khi nào và tại sao. Có mục tiêu cụ thể,
S
(cụ thể) chúng ta sẽ biết mình cần gì, biết mình cần bắt đầu
từ đâu và khi nào kết thúc.
Measurable Mục tiêu đặt ra phải đo lường được cụ thể giá trị,
M số lượng hoặc khối lượng, thời gian …
(đo lường được)
Phải đảm bảo mục tiêu đặt ra có khả năng thực
hiện được nếu không sẽ dễ dàng mất tự tin và thấy
nản lòng. Tuy nhiên đừng đề ra những mục tiêu
quá đơn giản hoặc dễ dàng thực hiện với bản thân
Achievable mình quá. Khi đó chúng ta sẽ chủ quan và đạt
A
(Khả thi) được mục tiêu dễ dàng quá sẽ không tạo ra cảm
giác hài lòng. Tốt nhất nên thiết lập một mục tiêu
thực tế nhưng thử thách để cân bằng mọi thứ
khiến bạn phải “nâng cao khả năng” và mang lại
sự hài lòng lớn nhất cho bản thân
Khi đặt mục tiêu thích hợp với định hướng cuộc
Relevant sống và sự nghiệp, có thể tập trung để luôn tiến
R lên và hoàn thiện mình. Còn nếu đặt mục tiêu quá
(Thích hợp) rộng và không phù hợp, chúng ta sẽ thấy thời gian
sẽ đi một đường, còn cuộc sống sẽ đi một nẻo.
Timely Mục tiêu phải có thời gian để biết mình cần thực
hiện cách nào nhanh nhất, thời gian chờ đợi kết
T (Thời hạn)
quả là khi nào. Nếu không có thời gian cụ thể sẽ
khiến nhanh nản lòng.
Cần phải thường xuyên xem xét (cập nhật) lại các mục tiêu sao cho phù hợp
nhiệm vụ, công vụ được giao, có thể bằng các câu hỏi:
Các mục tiêu này có còn thực tế không?
- Các mục tiêu này có còn phù hợp không?
- Các mục tiêu này có còn liên quan không?
- Nếu bỏ các mục tiêu này có ảnh hưởng đến người khác không?
b. Xác định khung thời gian làm việc tốt nhất.
75
Khung giờ vàng là những thời điểm trong ngày mà người ta có năng lượng dồi
dào nhất, điều này sẽ phụ thuộc theo nhịp sinh học mỗi người khác nhau. Một khi tự
mình khám phá ra thời điểm tối ưu theo nhịp sinh học của chính mình, chúng ta có thể
tái thiết lập thời gian biểu để làm các nhiệm vụ hay công việc quan trọng và ý nghĩa
nhất trong các thời điểm này. Vậy, những việc mà công chức cho là quan trọng nhất
hãy dành thực hiện vào thời điểm khi tỉnh táo và tràn đầy năng lượng nhất, khi đó công
việc sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng và có kết quả như mong muốn.
c. Kiểm tra cách sử dụng thời gian của cá nhân
Để quản lý thời gian tốt, một trong những biện pháp nên thường xuyên thực
hiện, đó là kiểm kê thời gian để từ đó đánh giá mức độ hiệu quả trong việc sử dụng
thời gian cá nhân của bản thân. Kiểm kê thời gian nghĩa là liệt kê tất cả công việc từ
việc lớn đến việc nhỏ, từ việc chuyên môn đến việc riêng tư... trong khoảng thời gian
từ 5, 10, 15, 20 phút...; ghi chép và thống kê chi tiết việc sử dụng thời gian liên tiếp
trong 3 ngày đến 1 tuần; và khuyến khích lặp lại ít nhất 3 lần trong 1 năm. Cách thức
mổ xẻ thời gian như vậy sẽ giúp trả lời các câu hỏi: Tôi dành thời gian bao nhiêu để
họp hành? Tôi đã làm công việc của người khác mất bao lâu? Bao nhiều thời gian
trong ngày, tôi đã dành cho việc đi tìm tài liệu, sổ sách? ... Từ đó, công chức sẽ có
phương hướng điều chỉnh thời gian cho hợp lý và hiệu quả phù hợp với mục tiêu. Một
công cụ tốt để giúp đánh giá việc sử dụng và phân bổ thời gian của mình, đó là nhật ký
thời gian. Công cụ này được trình bày cụ thể trong phần 3 của chuyên đề.
d. Kiểm soát cảm giác căng thẳng
Kiểm soát căng thẳng hiệu quả có thể giúp công chức vượt qua áp lực của công
việc, từ đó sẽ cảm thấy yêu công việc hơn, hạnh phúc hơn, khỏe mạnh hơn và làm việc
năng suất hơn. Một số chuyên gia khuyên rằng, một cách tốt để xóa tan căng thẳng hay
áp lực công việc là vận động và tập thể dục. Bên cạnh đó, cũng có thể giải tỏa căng
thằng trong công việc bằng cách dành thời gian để thư giãn và giải trí, đừng cố gắng
theo đuổi nhịp sống vội vã đến nỗi quên đi những nhu cầu của chính bản thân công
chức.
đ. Giữ tập trung khi làm việc
Việc vận dụng các nguyên tắc để quản lý thời gian hiệu quả đòi hỏi phải có tính
kỷ luật và rèn luyện thường xuyên để tạo thói quen. Nếu đã lập kế hoạch thực hiện cụ
thể, nhưng lại không có kỷ luật tuân thủ thực hiện công việc theo thời gian đã xác định
trong kế hoạch thì kế hoạch sẽ bị phá vỡ. Điều này có nghĩa là quản lý thời gian bị thất
bại.
Để rèn tính kỷ luật và tập trung, phải luôn nghiêm khắc với chính mình. Cần
xác định công việc đó ảnh hưởng đến công chức thế nào và nếu không hoàn thành
công việc thì sẽ có một kết quả không tốt. Hôm nay không làm được việc đó, sẽ phải
làm vào hôm sau, và nó sẽ chiếm mất thời gian biểu hôm sau, cứ thế dần dần công
chức sẽ không đạt được mục tiêu đã đề ra chỉ vì một ngày không hoàn thành công việc.
e. Chuẩn bị cho sự thay đổi

76
Ở các cơ quan nhà nước, trong quá trình thực hiện công việc, cán bộ, công chức
có thể gặp phải những sự vụ mang tính đột xuất và khẩn cấp, sự cố... Các sự cố này có
thể làm "cháy" kế hoạch công việc đã lập sẵn. Mặc dù không thể dự đoán được khi nào
chúng xảy ra, song công chức có thể luôn sẵn sàng chuẩn bị cho sự thay đổi này bằng
cách dự trù trước một lượng thời gian nhất định để giải quyết những sự vụ đột xuất và
khẩn cấp. Dựa vào đó, công chức có thể chủ động lên kế hoạch công việc cho mình.
3.2. Thực hành ngăn nắp
a. Dọn dẹp bàn làm việc
Sắp xếp nơi làm việc một cách gọn gàng, ngăn nắp và khoa học cũng là một
cách hiệu quả để tránh lãng phí thời gian. Điều này tuy rất nhỏ nhưng nó sẽ giúp tiết
kiệm được rất nhiều thời gian. Thay vì phải lục tung mọi thứ để tìm một văn bản nào
đó thì chỉ cần đọc danh sách tài liệu là biết ngay nó đang ở đâu. Thói quen này sẽ giúp
công chức không mất quả nhiều thời gian vào việc tìm kiếm đồ đạc hay tổng vệ sinh
đống lộn xộn trong phòng.
b. Thực hành 5S: Sàng lọc, Sắp xếp, Sạch sẽ, Săn sóc, Sẵn sàng.
5S là tên của một phương pháp quản lý, sắp xếp nơi làm việc được vận dụng
đầu tiên ở Nhật. Áp dụng 5S mang lại nhiều lợi ích như: chỗ làm việc sạch sẽ, gọn
gàng, mọi người đều cảm thấy thoải mái, vui vẻ, năng suất lao động cao, hiệu quả tức
thời, hiện ra ngay trước mắt, tạo hình ảnh tốt cho tổ chức.
S1 - Sàng lọc: Sàng lọc có nghĩa là phân loại, tổ chức các tài liệu, vật dụng theo
trật tự. Đây chính là bước đầu tiên cần làm trong thực hành 5S. Nội dung chính của S1
là phân loại, loại bỏ những thứ không cần thiết.
S2 - Sắp xếp: Sau khi đã loại bỏ các tài liệu, vật dụng không cần thiết thì công
việc tiếp theo là tổ chức các tài liệu, vật dụng còn lại một cách hiệu quả theo tiêu chí
dễ tìm, dễ thấy, dễ lấy, dễ trả lại.
S3 - Sạch sẽ: Thường xuyên vệ sinh, giữ gìn nơi làm việc sạch sẽ thông qua
việc tổ chức vệ sinh tổng thể và tổ chức vệ sinh hàng ngày nơi làm việc. S3 hướng tới
cải thiện một môi trường làm việc sạch sẽ, thoải mái, thoáng mát... nhằm nâng cao tinh
thần và hứng thú với công việc.
S4 - Săn sóc: Luôn luôn kiểm tra, duy trì 3S ở trên. Bằng việc phát triển S4, các
hoạt động 3S sẽ được cải tiến dần dựa theo tiêu chuẩn đã đặt ra và tiến tới hoàn thiện
5S trong cơ quan, tổ chức.
S5 - Sẵn sàng: Nghĩa là rèn luyện, tạo nên một thói quen, nề nếp, tác phong cho
mọi người trong cơ quan để thực hiện 5S thường xuyên và chủ động.
3.3. Lập kế hoạch công việc
a. Lập danh sách các công việc cần sẵn sàng
Một lỗi hay gặp về quản lý thời gian là cố gắng sử dụng trí nhớ để ghi nhớ quá
nhiều chi tiết dẫn đến việc thông tin bị quá tải. Sử dụng danh sách việc phải làm để
viết ra các việc là một cách rất hiệu quả nhằm kiểm soát dự án và các nhiệm vụ phải
77
thực hiện và giữ cho bản thân làm việc có tổ chức.
b. Lập kế hoạch làm việc và các bước thực hiện
Dành thời gian vào đầu tuần để lên kế hoạch công việc cho một tuần làm việc.
Điều này sẽ giúp tăng hiệu suất làm việc và cân bằng những dự án quan trọng dài hạn
với những nhiệm vụ đang cần kíp. Tất cả những gì chúng ta cần là 15 đến 30 phút mỗi
tuần để lên kế hoạch cho cả tuần làm việc.
Một cách lập kế hoạch công việc khá hiệu quả, đó là vận dụng công thức STARS.
 Steps - Các bước công việc (số thứ tự công việc)
 Timing - Ấn định thời gian cho thực hiện công việc
 Assignment - Phân công người thực hiện
 Responsibility - Người chịu trách nhiệm
 Success Criteria - Tiêu chí thành công, kết quả đạt được
Người chịu
Người thực Tiêu chí cần
Các bước (S) Thời gian (T) trách nhiệm
hiện (A) đạt được (S)
(R)

Một số lưu ý khi lập kế hoạch STARS:


- Đừng chia quá ít thời gian cho những việc trọng yếu, chỉ để làm xong nhiều
việc hơn trong hôm nay, vì như thế sẽ thất bại. Cần xác định đâu là việc cần thêm thời
gian và đâu là việc có thể rút ngắn thời gian thực hiện.
- Cần chú ý đôi khi có những việc chen ngang, có những chuyện đột xuất ngoài
dự tính, đều phải ghi ra giấy, để xem xét và phân bố lại thời gian.
- Đánh dấu chéo vào những công việc đã hoàn thành trong ngày. Dù là việc rất
nhỏ nhưng một khi đã làm tròn theo đúng kế hoạch, nó sẽ khiến chúng ta vui với cảm
giác thành công.
c. Luôn chủ động không trì hoãn
Tư tưởng trì hoãn công việc là kẻ thù của thành công. Một số biện pháp khắc
phục tư tưởng trì hoãn như sau:
- Đặt ra thời hạn phải hoàn thành công việc.
- Bắt đầu với những việc nhỏ.
- Nhờ người khác giúp đỡ. Nếu đang gặp vướng mắc trong công việc, hãy nhờ
một đồng nghiệp hay trợ lý của mình giúp đỡ thay vì trì hoãn công việc dó.
d. Xác định những việc quan trọng và cấp thiết
Sau khi lập thời gian biểu xong, công chức cần phân loại công việc theo mức độ
quan trọng và cấp thiết, để từ đó có phương án hành động hợp lý.

78
- Sắp xếp công việc theo mức độ quan trọng “có” và “không”, nghĩa là phải tính
đến hậu quả của các quyết định và hành động. Sẽ là lãng phí thời gian nếu bị kẹt vào
những điều không quan trọng so với mục tiêu đề ra và trách nhiệm chính của công
chức.
- Sắp xếp công việc theo mức độ khẩn trương: Công việc có khẩn trương và cần
làm ngay không? Cần điều kiện thời gian đủ để hoàn tất công việc ngay, liệu có thể để
lúc khác được không?
- Phân biệt rõ việc “khẩn” và việc “quan trọng”: Việc “khẩn” nhiều khi không
quan trọng nhưng lại chiếm chỗ trước việc “quan trọng”. Việc quan trọng gắn liền với
kết quả phải đạt được, trong khi việc “khẩn” thường do người khác tác động.
- Kiểm soát lượng thời gian dành cho việc “khẩn”, sắp xếp thứ tự ưu tiên giữa
những việc khẩn và quan trọng theo nguyên tắc sau:
Khi thật quan trọng và thật khẩn, hãy làm ngay đi, không thể do dự vì đó là
công việc quá quan trọng.
Khi thật quan trọng nhưng chưa thật khẩn trương thì vẫn còn thời gian sắp xếp
và giao phó cho ai một phần để bắt đầu công việc. Dù sao cũng đừng để lâu quá bởi vì
đó là việc quan trọng liên quan đến kết quả.
Nếu thật khẩn nhưng không mấy quan trọng, có hai giải pháp: Một là, làm ngay
nhưng đừng kéo dài thời gian, chấm dứt sớm. Hai là, chuyển giao cho người khác thực
hiện.
Nếu chẳng khẩn cũng chẳng quan trọng lắm, hãy tự hỏi có nên làm không?
loại việc này có thể bỏ qua, quên đi hoặc giao cho ai khác để đi đến quyết định.
Nói “không” là một kỹ năng quan trọng đối với nhóm công việc kiểu này.
đ. Ủy thác hiệu quả
Đôi khi, công chức phải đối mặt với quá nhiều việc mà bản thân không có đủ
thời gian và sức lực để hoàn thành cùng lúc. Nếu cứ khăng khăng “ôm” tất cả công
việc để tự mình giải quyết, công chức sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng và áp lực không
cần thiết. Đối mặt với vấn đề này, ủy thác công việc cho người khác, cho cấp dưới là
một biện pháp hữu hiệu để giải phóng bản thân và đầu tư thời gian một cách hiệu quả
hơn. Hãy học cách ủy thác công việc, giao đúng người, đúng việc sao cho phù hợp với
thế mạnh và kỹ năng của họ.
e. Lập kế hoạch cho những cuộc họp
- Hội họp, đặc biệt khi giữ vai trò quản lý, có thể chiếm một lượng lớn thời gian
trong ngày. Bất kể là người chủ trì một cuộc họp hay chỉ là người tham dự, hãy tự
đánh giá xem liệu khoảng thời gian ngồi trong phòng họp có thực sự giá trị hay không
- hơn cả những việc khác mà công chức có thể làm trong thời gian đó.
- Nếu là người chủ trì cuộc họp: Đừng nên mặc định thời gian của cuộc họp
phải kéo dài một giờ hay tương tự. Đôi khi chương trình hội họp chỉ cần đến nửa giờ
hoặc ít hơn. Hãy xem xét khả năng sắp xếp các cuộc họp trong vòng 20 phút hoặc 50

79
phút nếu bản thân và những người tham gia có thể hoàn thành các công việc sau cuộc
họp trong vòng 10 phút còn lại.
- Nếu là người tham dự cuộc họp: Hãy tham gia các cuộc họp một cách có
chọn lọc. Tuy nhiên, nếu từ chối tham gia một cuộc họp, cần có sự đồng ý của
người chủ trì. Có thể trao đổi với những đồng nghiệp đã tham gia hoặc xem lại biên
bản cuộc họp sau đó nếu cần phải nắm bắt thông tin (trong trường hợp vắng mặt).
3.4. Giao tiếp hiệu quả hơn
a. Hãy nghĩ về cách giao tiếp của bản thân
Khi giao tiếp, nói chuyện với các chuyên viên trong cùng phòng hay với cấp
trên về công việc, cần phải nói một cách rõ ràng và súc tích. Hãy đi thẳng trực tiếp vào
những vấn đề quan trọng. Hãy luôn tự hỏi xem họ có hiểu những gì mình đang nói hay
không? Đồng thời luôn sẵn lòng để giải thích.
b. Nói chuyện điện thoại
Để tránh lãng phí thời gian vào các cuộc điện thoại, cần lưu ý một số vấn đề
sau:
- Không thể gọi điện với mục đích trao đổi về công việc song lại không biết nói
gì, hoặc mất nhiều thời gian để suy nghĩ câu hỏi. Hãy viết trước tất cả những gì muốn
nói ra giấy để cuộc giao tiếp được suôn sẻ, tránh bị lạc đề, đi quá xa mục tiêu của cuộc
nói chuyện.
- Hãy luôn chuẩn bị cây bút và cuốn sổ tay khi có điện thoại để ghi lại những
thông tin quan trọng, để chắc chắn rằng đã không để sót chi tiết của cuộc trò chuyện.
Cách làm này cũng giúp cho chúng ta chủ động khi trả lời những câu hỏi, thắc mắc của
người gọi đến.
c. Lắng nghe cẩn thận
Những người lắng nghe tốt luôn là người kiểm soát được tình hình. Với quá
trình lắng nghe, công chức có thể nắm bắt vấn đề, thu thập thông tin, qua đó nâng cao
khả năng tương tác qua lại. Lắng nghe tốt sẽ giúp công chức hiểu rõ được mong muốn
của đối phương, nắm bắt tốt hơn những yêu cầu của công việc được giao phó. Từ đó,
sẽ giúp thực hiện công việc theo đúng mục đích và yêu cầu. Trường hợp ngược lại,
công chức sẽ có thể rơi vào tình trạng làm đi làm lại, mất rất nhiều thời gian và tốn
nhiều công sức để hoàn thành công việc theo như mong đợi. Trong khi nghe, không
nên nghĩ về những gì mà mình sẽ nói bởi nếu như vậy, chúng ta sẽ không tập trung vào
những gì người khác đang nói.
4. CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ THỜI GIAN HIỆU QUẢ
4.1. Nhật ký thời gian
Nếu công chức đang sử dụng thời gian chưa hiệu quả thì việc đầu tiên nên làm
là xem xét một cách cẩn thận về việc phân bổ thời gian cho các công việc. Việc phân
tích cách phân bổ và sử dụng thời gian là giải pháp tốt nhất để giúp chúng ta biết mình
đang lãng phí thời gian vào những việc gì để có thể phân bổ lại thời gian cho hợp lí
80
hơn.
Một công cụ giúp công chức có cái nhìn tổng quan về hiện trạng phân bổ và sử
dụng thời gian là Nhật ký thời gian. Có thể tham khảo mẫu nhật ký thời gian bên dưới
hoặc điều chỉnh cho phù hợp với bản thân. Khi lập nhật ký thời gian, nên bắt đầu từ
thời điểm bắt tay vào công việc đầu tiên cho đến khi kết thúc công việc cuối cùng
trong ngày để nghỉ ngơi.
NHẬT KÝ THỜI GIAN
Thứ….ngày….tháng…..năm….
Thời gian thực hiện Nội dung công việc Thời lượng
………………………… …………………………… ………………………
………………………… ……………………………. ………………………
………………………… …………………………… ………………………

Điều quan trọng là phải ghi lại các công việc cùng với thời lượng đã sử dụng
một cách chính xác và theo trình tự thời gian. Không chỉ ghi lại các công việc lớn,
quan trọng chiếm nhiều thời gian hoặc đã được lên lịch trước như đến công sở, hội
họp, viết báo cáo, xử lý công việc… mà cả các việc nhỏ, không quan trọng nhưng vẫn
chiếm thời gian trong ngày của bạn như thăm hỏi, hiếu hỉ, mua sắm hay tán gẫu với
đồng nghiệp….
Để phân tích việc phân bổ và sử dụng thời gian, phải ghi lại nhật ký thời
gian ít nhất là 3 ngày, kết quả sẽ tốt hơn nếu ghi nhật ký thời gian trong một tuần.
Sau khi có nhật ký thời gian, chúng ta tiến hành phân tích nhật ký. Công việc
phân tích nhật ký thời gian gồm 2 bước:
Bước 1: Phân loại công việc theo các nhóm
Việc phân loại công việc theo nhóm dựa vào bản chất công việc. Công việc
(CV) có thể được phân loại thành 3 nhóm như sau:
Nhóm CV 1: Công việc phục vụ nhu cầu cá nhân (ăn uống, nghỉ ngơi…)
Nhóm CV 2: Công việc phục vụ cho công tác, chuyên môn
Nhóm CV 3: Công việc dành cho xã hội, gia đình và sở thích Sau khi hoàn
thành việc phân loại công việc, bạn tính tỷ lệ phần trăm (%) thời gian đã sử dụng cho
từng nhóm công việc.
Bước 2: Nhận định cách phân ổ thời gian cho từng nhóm công việc. Có thể
nhận định về cách phân bổ thời gian cho từng nhóm công việc thông qua trả lời các
câu hỏi sau:
Tôi đã dành thời gian nhiều nhất cho nhóm công việc nào?
Tôi đã dành bao nhiêu thời gian cho công việc chuyên môn?

81
Tôi có đang làm quá nhiều việc so với khả năng của mình không?
Bao nhiêu thời gian của tôi đã bị “đánh cắp” vào những việc không phải của
mình hoặc không thực sự cần đến sự có mặt của mình?
Phân bổ thời gian lý tưởng:
CV3: 25%
CV2: 50%
CV1: 25%
Kết quả phân tích nhật ký thời gian sẽ là cơ sở để chúng ta phân bổ lại thời gian
cho các nhóm công việc hợp lý hơn.
4.2. Lịch công việc
Để có thể kiểm soát và sử dụng thời gian của mình một cách hiệu quả, điều
quan trọng cần phải trù tính và lập kế hoạch trước cho thời gian của mình. Một trong
những công cụ để thực hiện điều đó là Lịch công việc. Lịch công việc dành cho việc
lập kế hoạch ngắn hạn (cho 1 tuần hoặc 1 ngày).
Việc lên lịch làm việc sẽ giúp theo dõi được sự tiến triển nhiều việc cùng lúc và
lập kế hoạch cho bước tiếp theo trong chuỗi các công việc. Việc lập lịch công việc
phải trải qua 3 bước theo trình tự như sau: (1) Lập danh sách các công việc cần làm;
(2) Xác định trình tự giải quyết các công việc cần làm; (3) Phân bổ thời gian cho các
công việc.
Bước 1: Lập danh sách (liệt kê) những công việc cần làm Ở bước này, hãy ghi
lại tất cả những công việc cần làm trong một khoảng thời gian cụ thể (chẳng hạn trong
1 tuần). Trong đó, lưu ý một số công việc có tính chất lặp đi lặp lại thường xuyên do
đặc điểm công việc như họp hành định kỳ, nghiên cứu tài liệu, soạn thảo văn bản….
vẫn phải tính đến và luôn ghi vào danh sách. Danh sách công việc có thể được lập theo
mẫu sau đây:
Công việc Thời gian hoàn thành Thời gian ước tính
………………………… …………………………… ………………………
………………………… …………………………… ………………………
………………………… …………………………… ………………………

Trong cột công việc, ghi lại tất cả những công việc muốn làm trong tuần, kể cả
những việc thường xuyên, cố định lặp lại.

Trong cột thời hạn hoàn thành, hãy ghi thời hạn (deadline) phải hoàn thành
công việc. Một số công việc có thể xác định mốc thời hạn phải hoàn thành rất rõ ràng,
song một số công việc có thời hạn hoàn thành lại phụ thuộc vào thời điểm kết thúc
82
công việc trước đó.
Trong cột thời gian ước tính, ghi lại lượng thời gian cần thiết để thực hiện công
việc.
Bước 2: Xác định trình tự giải quyết công việc theo danh sách
Bước tiếp theo, sắp xếp trình tự giải quyết công việc dựa trên thời hạn phải hoàn
thành công việc, cũng như căn cứ vào mức độ quan trọng của công việc; sau đó
đánh số thứ tự công việc cần thực hiện. Đây là một bước quan trọng của Lịch công
việc bởi nếu bỏ qua bước này, chúng ta sẽ có khuynh hướng giải quyết các công
việc dễ dàng, thú vị trước rồi mới đến các công việc khó khăn và phức tạp sau.
Bước 3: Phân bổ thời gian cho các công việc
Việc phân bổ thời gian cho các công việc tùy thuộc vào tính chất công việc
(khó/dễ thực hiện) và tùy thuộc vào năng lực hoàn thành công việc . Sau khi kết thúc
bước 3, sắp xếp lại danh sách công việc cần làm ban đầu theo một trật tự mới, theo
mẫu gợi ý dưới đây:
LỊCH CÔNG VIỆC
Số thứ tự Công việc Thời gian ước Thời gian Kết quả
tính bắt đầu –
kết thúc

Như vậy, kết thúc 3 bước xây dựng Lịch công việc, công chức đã có trong tay
một danh mục các công việc đã được xác định chính xác thời hạn phải hoàn thành,
theo thứ tự ưu tiên, đồng thời quy định rõ ràng thời gian dự kiến bắt đầu và kết thúc
công việc. Lịch công việc sẽ là một bản kế hoạch hoàn hảo, căn cứ vào đó chúng ta
thực hiện công việc theo đúng lịch trình và tiến độ đã đặt ra.
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, với sự
thông dụng của máy tính và điện thoại di động, có rất nhiều công cụ thông minh có thể
hỗ trợ quản lý lịch công việc một cách thuận tiện, dễ dàng đồng thời mang lại hiệu quả
cao. Ví dụ: Google calendar, Due, Any.do, Todoist...
4.3. Ma trận thời gian
Một công cụ nữa cũng rất hữu ích để giúp công chức quản lý thời gian một cách
hiệu quả đó là, ma trận quản lý thời gian của Stephen Covey.
Quản lý thời gian bằng ma trận thời gian được thực hiện theo các bước sau
đây:
Bước 1: Liệt kê những công việc phải làm, kể cả những hoạt động không quan
trọng nhưng làm mất thời gian tại nơi làm việc.
Bước 2: Sắp xếp các công việc và hoạt động vào bảng ma trận, dựa trên tầm
83
quan trọng và tính cấp thiết của chúng.
Quan trọng là những hoạt động mà kết quả của chúng sẽ dẫn đến mục tiêu, cho
dù đó là những hoạt động của cá nhân hoặc trong công việc.
Khẩn cấp là những hoạt động không cho phép chậm trễ, đòi hỏi phải có ngay
những hành động đối phó.
Ma trận thời gian

QUAN TRỌNG I II

KHÔNG
III IV
QUAN TRỌNG

KHẨN CẤP KHÔNG KHẨN CẤP

+ Phần tư (I) là dành cho những việc vừa khẩn cấp và vừa quan trọng. Những
công việc rơi vào ô này phải được thực hiện ngay và trước tiên. Quan trọng Không
quan trọng
+ Phần tư (II) là dành cho những công việc quan trọng song lại không khẩn cấp.
Những công việc rơi vào ô này cần phải xây dựng kế hoạch thực hiện một cách thích
hợp.
+ Phần tư (III) là dành cho những công việc không quan trọng nhưng lại khẩn cấp, đòi
hỏi phải thực hiện ngay. Những việc này thực hiện càng sớm càng tốt.
+ Phần tư (IV) là dành cho những hoạt động không quan trọng và cũng không
khẩn cấp. Những công việc thuộc nhóm này, công chức có thể thực hiện khi có thời
gian rảnh rỗi.
Bước 3: Đánh giá thời gian đã được sử dụng như thế nào, và nếu cần thiết, sắp
xếp lại các công việc.
+ Nếu phần lớn khối lượng công việc tập trung ở ô số I, công chức sẽ luôn rơi
vào tình trạng căng thẳng, khủng hoảng, và cảm thấy kiệt sức vì công việc.
+ Nếu hầu hết các công việc của bạn được sắp xếp vào ô số II, điều đó chứng tỏ
công chức luôn chủ động với công việc, làm việc theo kế hoạch, có tầm nhìn dài hạn,
không bị rơi vào tình trạng khủng hoảng và áp lực.
+ Nếu phần lớn công việc nằm ở ô số III, nghĩa là công chức thường xuyên phải
giải quyết các công việc vụn vặt mang tính đối phó, không tập trung vào mục tiêu dài
hạn, không hướng tới mục tiêu và sẽ luôn cảm thấy mình là nạn nhân, thụ động.
+ Nếu phần lớn công việc thuộc ô số IV, điều đó chứng tỏ công chức bị tiêu tốn
84
thời gian vào những việc vô ích mà không đem lại lợi ích gì đáng kể, thiếu trách nhiệm
với công việc, phụ thuộc vào người khác…
Dưới đây là cách phân bố thời gian hợp lý theo phương pháp này:

Ô số I: 15% - 20% Ô số II: 60% - 65%

Ô số IV: dưới 5%
Ô số III: 10% - 15%

II. KỸ NĂNG PHỐI HỢP TRONG CÔNG VIỆC


MỤC TIÊU
1. Hiểu được những vấn đề chung về kỹ năng phối hợp như: vai trò, các loại
phối hợp và cơ chế phối hợp
2. Nhận biết được những kỹ năng cơ bản giúp cho việc phối hợp trong công
việc có hiệu quả như: kỹ năng xây dựng kế hoạch phối hợp, kỹ năng chia sẽ thông tin
trong phối hợp, kỹ ăng xử lí xung đột trong phối hợp
3. Trên cơ sở nắng vững những vấn đề lý thuyết nêu trên, học viên biết vận
dụng, sử dụng kỹ năng phối hợp trong công việc trong quá trình công tác đạt hiệu quả
cao.

NỘI DUNG HỌC TẬP


1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHỐI HỢP
1.1. Khái niệm phối hợp
Thuật ngữ phối hợp có mối quan hệ, tương đồng gần gũi với nhiều thuật ngữ
khác như: kết hợp, hợp tác, cộng tác, hỗ trợ, điều hoà, hợp lực, liên hiệp, liên kết.

85
Về thực chất, phối hợp trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp là
hoạt động hỗ trợ lẫn nhau của các phòng, ban, tổ, nhóm, công chức, viên chức để
thực hiện các nhiệm vụ trong của tổ chức, bảo đảm cho xã hội được điều hoà, điều
chỉnh.
Phối hợp là quá trình liên kết các hoạt động hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau của các
thành viên trong tổ chức nhằm thực hiện các nhiệm vụ để đạt được mục tiêu chung của
tổ chức.
Trong thực hiện công việc, phối hợp là quá trình liên kết các hoạt động của các
cán bộ, viên chức, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức xã hội một cách có ý thức và có
kế hoạch, nhằm thực hiện mục tiêu chung theo phương pháp can thiệp đã được thống
nhất trước
1.2. Vai trò của phối hợp
Sự cần thiết của hoạt động phối hợp thực hiện công việc trong hoạt động công
việc của cán bộ, viên chức.

Thứ nhất, phối hợp là một yêu cầu quan điều hành công việc. Phối hợp chính là
quá trình làm việc cùng nhau của một nhóm người hay của các tổ chức nhằm đạt được
mục đích của mà họ muốn hướng tới. Mục đích của phối hợp chính là tăng cường
trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự liên kết của các cơ quan liên quan bảo
đảm sự thống nhất từ trung ương cho đến địa phương, giữa các cơ quan có liên quan
và trong nội bộ cơ quan, tổ chức nhằm nâng cao hoạt động trong thực thi nhiệm vụ của
các cơ quan đơn vị.
Thứ hai, phối hợp là điều kiện để tổ chức hoạt động hiệu quả. Bởi hoạt động
phối hợp sẽ giúp các tổ chức, cá nhân hỗ trợ, hợp tác lẫn nhau thực hiện tốt công việc
trong bối cảnh yêu cầu của xã hội ngày càng cao.
- Phối hợp là hoạt động cơ bản trong quản lý tổ chức sự nghiệp công lập, trong
hầu hết công việc cần có sự phối hợp của nhiều chủ thể. Cần thiết phải phối hợp bởi:
sau khi đã tiến hành chuyên môn hóa và phân công lao động. Phân công, chuyên môn
hóa càng cao thì phối hợp càng cần thiết, tổ chức có cơ cấu càng phức tạp thì càng
phải đặt ra yêu cầu phối hợp.
- Yêu cầu của người dân về dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe ngày càng đa dạng
và cao, đòi hỏi các tổ chức phải có khả năng thích ứng cao hơn, phối hợp chặt chẽ hơn.
Đồng thời quá trình vận động theo cơ chế thị trường đặt ra những yêu cầu mới về quan
hệ đối tác, phối hợp.
- Các vấn đề trở nên phức tạp hơn, có sự phụ thuộc và tương tác với nhau nhiều
hơn đòi hỏi phối hợp của nhiều ngành, nhiều cấp.Với các vấn đề đa ngành, đòi hỏi các
giải pháp liên ngành; phối hợp cho phép chia sẻ thông tin, phát huy sức mạnh tổng
hợp, giải quyết hiệu quả các vấn đề đa chiều.
Trong hoạt động lãnh đạo, quản lý phối hợp tốt giúp thiết lập các mối liên hệ
hợp tác giữa các chủ thể nhằm chống lại bệnh cục bộ, chỉ quan tâm đến vai trò chuyên
86
môn và quyền lợi của bộ phận mình mà không nghĩ đến vai trò, nhiệm vụ của bộ phận
khác. Đồng thời, phối hợp là cơ sở để thiết lập những mối quan hệ hợp tác giữa các bộ
phận, các tổ chức và cá nhân có liên quan. Phối hợp còn là cơ sở nhằm thiết lập các
nguyên tắc quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động phối hợp của các chủ thể, nhằm
đảm bảo cho các chủ thể hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp; là thước đo hiệu quả trong
quy trình phối hợp quản lý công việc được giao.
1.3. Phân loại phối hợp
Có nhiều cách để phân loại phối hợp, tuy nhiên xét theo quy mô thì phối hợp
cho hai hình thức cơ bản:
- Phối hợp bên trong là dạng phối hợp cơ bản, phổ biến trong các phòng ban,
các nhóm thực thi công việc của các tổ chức công, trong đó xác định rõ nhiệm vụ,
quyền hạn của từng tổ chức, phòng ban, nhiệm vụ cụ thể của các công chức khi tham
gia vào thực hiện công việc, mối quan hệ công tác giữa các phòng, các cơ quan đồng
cấp; giữa các thành viên với các cơ quan, bộ phận chuyên môn; giữa các cơ quan, bộ
phận chuyên môn với cơ quan cấp trên, giữa các thành viên thực hiện nhiệm vụ chung.
- Phối hợp bên ngoài là dạng hoạt động mang tính hướng ngoại nhằm để thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Khi nói đến lựa chọn cách thức phối hợp theo
hướng ngoại thì nên hiểu rằng đó là sự phối hợp thực hiện công việc phát sinh giữa các
cơ quan, bộ phận không nằm trong nội bộ với nhau. Do yêu cầu công việc mà nhất
định họ phải phối hợp với nhau.
1.4. Cơ chế phối hợp
Để có thể thành công, các hoạt động phối hợp cần đáp ứng những cơ chế sau
sau:
- Có cơ chế về người/tổ chức chủ trì phối hợp: Người này thường là lãnh đạo cơ
quan/đơn vị. Lãnh đạo cơ quan/đơn vị cũng là người đứng ra phân xử khi cần đi đến ý
kiến thống nhất trong phối hợp.
- Có cơ chế về mặt pháp lý, quy định, quy chế để tạo cơ chế phối hợp mang tính
chính thức và bắt buộc giữa các cá nhân/đơn vị.
- Có cơ chế làm việc phù hợp cho phép huy động sự tham gia, phối hợp của các
bên.
- Có cơ chế hợp tác, làm việc theo nhóm. Các bên tham gia cần tuân thủ những
yêu cầu, đòi hỏi của quy luật khách quan.
- Có cơ chế phân công trách nhiệm rõ ràng, tiêu chuẩn hóa quy trình phối hợp
cũng như thời hạn phối hợp.
- Có cơ chế giao tiếp, đàm phán hiệu quả và cởi mở, các bên tham gia phối hợp
chia sẻ thông tin;
- Có cơ chế để giải quyết vấn đề và xử lý xung đột khi cần thiết, đồng thời cần
có sự mềm dẻo và linh hoạt trong quá trình phối hợp.
Phối hợp thường di n ra trong bối cảnh tương quan quyền lực, vì vậy, trong quá
87
trình phối hợp, không phải lúc nào vấn đề cũng được giải quyết một cách tuần tự,
tuyến tính. Nhiều khi, mối tương quan, "trò chơi" quyền lực này có thể là yếu tố cản
trở tiến trình phối hợp. Lãnh đạo, quản lý cần tính đến các yếu tố này để có thể ra
quyết định một cách phù hợp và khéo léo.
2. MỘT SỐ KỸ NĂNG GIÚP PHỐI HỢP CÓ HIỆU QUẢ
2.1. Kĩ năng xây dựng kế hoạch phối hợp
Lập kế hoạch phối hợp là nhằm chuẩn bị các điều kiện, nguồn lực cần thiết cho việc
thực công việc. Kết quả của hoạt động phối hợp phụ thuộc trực tiếp vào giai đoạn lập kế
hoạch. Trong việc lập kế hoạch phối hợp cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Xác định mục tiêu rõ ràng. Khi hoạt động phối hợp được hình thành, nó cần
những mục tiêu. Như trên đã nêu, các mục tiêu rõ ràng, cụ thể, có tính khả thi, có ý
nghĩa thực tiễn và phù hợp với tầm nhìn và giá trị của tổ chức. Cần có hạn định rõ ràng
về thời gian để xây dựng kế hoạch phối hợp hợp lý đảm bảo việc thực hiện theo mục
tiêu và kết quả công việc đã đề ra;
- Xác định vai trò và trách nhiệm của các bên tham gia. Đây là bước tiếp theo
cần được tiến hành để đảm bảo cho mỗi thành viên trong tổ chức thực hiện đúng chức
trách, nhiệm vụ được giao và phối hợp hiệu quả vì mục tiêu chung của tổ chức; Cần có
sự cam kết của các thành viên về việc thực hiện nhiệm vụ và yêu cầu tuân thủ quy chế
trong quá trình làm việc.
- Xác định tiêu chí đánh giá. Các thành viên trong nhóm cần phải biết và thống
nhất các tiêu chí đánh giá công việc trên cả phương diện năng lực, phẩm chất và hiệu
quả công việc. Điều này rất quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng đối với từng
thành viên. Đồng thời có tác dụng khích lệ, động viên, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh cho khả năng cống hiến của mỗi thành viên;
- Chọn thành viên trong hoạt động phối hợp. Đây được coi là khâu quan trọng nhất
trong hoạt động phối hợp. Sự thành bại trong hoạt động phối hợp là ở bước lựa chọn các
thành viên có phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức hay không. Nhìn chung, những
người có các phẩm chất sau đây phù hợp với hoạt động phối hợp:
+ Thẳng thắn, trung thực;
+ Biết từ chối những lời đề nghị khi quỹ thời gian làm việc của họ đã bị sử
dụng hết;
+ Chuyển giao và nhận ý kiến phản hồi có tính xây dựng, cả đối với những ý
kiến tích cực hay tiêu cực;
+ Mạnh dạn đưa ra đề xuất với lãnh đạo cấp trên những vấn đề cần thiết để hỗ
tổ chức;
+ Có khả năng thương lượng;
+ Chịu trách nhiệm về hành động của mình;
+ Có trình độ và năng lực chuyên môn phù hợp hoặc tôn trọng chuyên môn
theo yêu cầu công việc của nhóm.
88
2.2. Kĩ năng chia sẻ thông tin trong phối hợp
Việc chia sẻ thông tin là một vấn đề mang tính bắt buộc trong quá trình phối
hợp, đây là vấn đề ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của sự phối hợp. Việc chia
sẻ thông tin có thể bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng có thể sử dụng các hình
thức cơ bản sau:
Thứ nhất, tổ chức cuộc họp. Chia sẻ thông tin qua việc họp giao ban, định kỳ
hoặc đột xuất. Đây là cách thức thường áp dụng diễn ra liên tục trong các cơ quan đơn
vị. Sau một khoảng thời gian nhất định thường là một tuần, tháng, quý, năm thì các cơ
quan đơn vị hoặc các bộ phận, các thành viên kiểm điểm lại hoạt động đã qua. Qua đó
đánh giá rút kinh nghiệm đồng thời đưa ra phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tới.
Thứ hai, phối hợp thông qua mạng. Đây là hình thức chia sẻ mà trong hoạt động
quản lý ở nước ta hiện nay cần đặc biệt quan tâm. Chia sẻ thông qua mạng là yêu cầu
tất yếu để phát triển chính phủ điện tử. Hình thức chia sử thông qua mạng phát triển sẽ
rất có ích cho hoạt động quản lý. Từ đó, hình thức này sẽ dần trở thành hình thức phối
hợp cơ bản, sẽ thay thế những hình thức phối hợp khác tốn kém hơn nhưng không còn
phù hợp nữa. Đó cũng là yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng đất nước trong
giai đoạn hiện nay.
Để việc chia sẻ thông tin có hiệu quả, cần lưu ý một số vấn đề sau: Chia sẻ
thông tin phải kịp thời, chính xác và đảm bảo sự bảo mật của thông tin; xác định rõ đối
tượng cụ thể và loại thông tin được chia sử với đối tượng đó. Chia sẻ thông tin phải
tuân thủ theo các quy định của pháp luật.
2.3. Kĩ năng xứ lý xung đột trong phối hợp
Xung đột là vấn đề thường xảy ra trong hoạt động phối hợp. Lý do của
xung đột xuất phát từ sự khác biệt về trình độ, năng lực, kinh nghiệm, nền tảng
văn hóa, hay bất đồng về quan điểm, quyền lợi, trách nhiệm giữa các cá nhân và
tổ chức với nhau.
Xung đột có thể tạo động lực, nhưng cũng có thể là nhân tố phá hoại hoạt động
phối hợp. Chính vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động phối hợp diễn ra thuận chiều, cần
nhanh chóng và tích cực giải quyết xung đột. Tránh việc đẩy những xung đột nhỏ lên
thành xung đột lớn, hoặc phát sinh thêm những xung đột mới.
Cách giải quyết xung đột tốt nhất là tất cả các thành viên đều “gặp nhau ở
điểm giữa”. Chia sẻ và thông cảm với nhau vì một mục tiêu chung. Không tìm
cách xoáy sâu vào điểm khác biệt. Trong thực tế có nhiều cách giải quyết xung
đột:
+ Bằng biện pháp áp đảo: Thể hiện sự cứng rắn, cương quyết của số đông hoặc
người có uy tín, người đứng đầu trong tổ chức, áp đặt các thành viên còn lại theo quan
điểm, hướng giải quyết của mình. Tuy nhiên, biện pháp này dễ dẫn tới kết quả các
thành viên bị áp đảo không thoải mái, ấm ức, thậm chí bất mãn.
+ Bằng biện pháp né tránh: Ngại va chạm, sẵn sàng đồng ý giải pháp dung hòa
cho các bên mà không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nào, không quan tâm đến chất
89
lượng, hiệu quả của vấn đề được đưa ra giải quyết. Thực chất biện pháp này các bên
tham gia đều không hài lòng nhưng đành chấp nhận.
+ Biện pháp nhường nhịn: Đây là biện pháp mà quyết định cuối cùng được đưa
ra nhằm xoa dịu sự căng thẳng, giải quyết căn bản mối quan hệ hơn là đáp ứng yêu cầu
công việc ở mức cao nhất. Biện pháp này thường được thực hiện khi một bên chấp nhận
hi sinh, thiệt thòi phần mình. Thực tế có những trường hợp bên “thua” nhận thấy giải
pháp của mình là tối ưu, tuy nhiên vì sợ mất quan hệ nên họ đành nhường nhịn. Dẫn tới
tình trạng hoạt động phối hợp khó đạt được kết quả tốt nhất.
+ Biện pháp hợp tác: Xung đột nảy sinh khi các bên không đồng quan điểm,
nhưng trong trường hợp các bên đều cùng một mục tiêu chung là đạt được hiệu quả
công việc cao nhất, nỗ lực phân tích, đánh giá và đồng thuận với những giải pháp cho
kết quả tốt nhất. Đây là biện pháp lý tưởng mà mọi xung đột diễn ra trong hoạt động
phối hợp đều mong muốn đạt được. Thắng lợi cuối cùng thuộc về tập thể.
Giải quyết xung đột là một vấn đề khá phức tạp. Đòi hỏi trước hết là khả năng
điều hành hoạt động phối hợp của người đứng đầu. Tiếp đó là sự hưởng ứng tích cực
của chính các thành viên trong tổ chức vì một mục tiêu chung.
Để quản lý xung đột cần tiến hành các bước sau:
+ Xác định xung đột: Vấn đề gây xung đột là gì? Thuộc loại xung đột nào?
Những ai tham gia vào xung đột đang diễn ra;
+ Tiên liệu về xung đột: Xung đột đơn giản hay phức tạp? Nguy cơ về gia tăng
xung đột;
+ Tìm biện pháp giải quyết xung đột: Trưng cầu những ý kiến khác nhau để
giải quyết xung đột. Huy động sự tham gia của mọi người vì một mục tiêu chung?
Tránh đề cập quan điểm cá nhân. Tránh định kiến hoặc áp đặt với các nhóm xung
đột;
Nếu có thể huy động nhóm nhỏ có quan điểm dung hòa các bên xung đột để
làm dịu xung đột. Tiếp đó tìm điểm tương hợp giữa các bên và động viên, khích lệ các
bên cùng tập trung giải quyết nhiệm vụ của phối hợp.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Nêu lên sự cần thiết phải quản lý thời gian của bản thân?
2. Bản thân đã sử dụng có hiệu quả thời gian hay chưa? Những nguyên nhân gây nên
sự lãng phí thời gian
3. Cá nhân đã hiểu biết được bản thân hay chưa? Sự hiệu biết của bản thân có ý nghĩ
như thế nào đối với việc sử dụng hiệu quả thời gian?
4. Hãy lập kế hoạch công việc cụ thể
5. Sử dụng ma trận thời gian để quản lý thời gian của bản thân

90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Bích Nga, Phạm Ngọc Sáu, Nguyễn Thu Hà (biên dịch): Xây dựng nhóm
làm việc hiệu quả, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
2. PGS.TS Vũ Hoàng Ngân, Ths Trương Thị Nam Thắng: Xây dựng và phát triển
nhóm làm việc, NXB Phụ nữ, 2009.
3. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2013), Kỹ năng tìm kiếm việc làm của sinh
viên trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Báo cáo hội thảo khoa học toàn
quốc về vấn đề việc làm, tháng 09/2013
4. Nguyễn Thanh Bình, Giáo trình chuyên đề Giáo dục kỹ năng sống, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm Hà Nội
5. Michel Maginn: Thúc đẩy nhóm làm việc hiệu quả, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, 2007.

91
CHUYÊN ĐỀ BÁO CÁO

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU


Mục đích
Chuyên đề báo cáo giúp học viên liên hệ, vận dụng, đối chiếu so sánh giữa lý
thuyết được cung cấp trong phần kiến thức chung với thực tiễn quản lý hành chính nhà
nước của đơn vị mình đang công tác.
Yêu cầu
Sau khi học xong 5 chuyên đề của phần I, học viên sẽ viết một báo cáo chuyên đề
với các yêu cầu dưới đây:
Số trang của chuyên đề từ 10-15 trang, font chữ Times New Roman, cỡ chữ 13
đến 14, giãn dòng 1,5;
II. NỘI DUNG VÀ BỐ CỤC BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
1.1. Nội dung: NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ
SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1. Thực trạng hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập
2. Mục đích, yêu cầu về hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp y tế công
3. Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của các đơn vị sự
nghiệp y tế công lập
4. Vai trò của điều dưỡng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp y tế công lập
1.2. Bố cục báo cáo chuyên đề
Những gợi ý sau đây nhằm hỗ trợ cho quá trình xây dựng và trình bày báo cáo.

Bìa: Nêu rõ tên tiểu luận, tên tác giả


Phần đầu báo cáo: cần có các mục sau:
Mục lục
Bảng chú giải các ký hiệu, đơn vị đo, từ viết tắt, thuật ngữ
Phần chính báo cáo: nên chia thành các mục như sau:
I. Đặt vấn đề:
Giới thiệu về chủ đề và các nội dung cơ bản mà học viên muốn trình bày trong báo
cáo chuyên đề với mục đích nêu lên lý do lựa chọn chủ đề viết báo cáo.
Mục đích yêu cầu của chuyên đề: Trình bày các mục đích của báo cáo
III. Nội dung của báo cáo:
3.1. Các luận điểm lý thuyết chính của nội dung chuyên đề đã quy định
92
3.2. Vận dụng các luận điểm, lý thuyết vào thực tiễn hoạt động ở các mức độ
cá nhân, đơn vị, ngành.
- Các vấn đề thực tiễn ở mức độ cá nhân, đơn vị, ngành liên quan tới các nội
dung lý thuyết được học.
- Bàn luận về những thuận lợi và khó khăn áp dụng lý thuyết vào thực tiễn;
- Phân tích và rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn.
IV. Kết luận và kiến nghị:
Rút ra những kết luận chính.
Khuyến nghị.
V. Tài liệu tham khảo:
Cách trích dẫn tài liệu tham khảo tuân thủ đúng yêu cầu trích dẫn tài liệu tham
khảo của Bộ Giáo dục và đào tạo.
Ví dụ cho cách viết trích dẫn tài liệu tham khảo:
Tài liệu là sách, luận án, báo cáo: Đảng Cộng sản Việt Nam (1997', Nghị quyết
trung ương ba, khóa VIỈI, NXB CTQG, Hà Nội .
Tài liệu là bài báo trong tạp chí, trong sách: Phan Văn Tường( 1998) “Đánh giá
nhu cầu đào tạo về lập kế hoạch bệnh viện của cán bộ quản lý bệnh viện huyện năm
1997”, Tạp chí Y học thực hành, NXB Y học, (3) tr. 10-16.
Tài liệu trên Internet: Phạm Đình Thành (2012), Bào hiểm XH - Trụ cột chính
trong hệ thống an sinh XH quốc gia, http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn, trích dẫn
30/5/2016.
Tài liệu tham khảo sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Việt chữ cái đầu tiên
trong tên của tác giả hoặc tên cơ quan ban hành.
VI. Phụ lục: Những tài liệu, hình, ảnh cần thiết để làm sáng tỏ báo cáo, nếu đưa
vào báo cáo sẽ quá dài thì đưa vào phụ lục.

93
HỌC PHẦN II.
KIẾN THỨC, KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP, CHUYÊN NGÀNH VÀ ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP

CHUYÊN ĐỀ 1
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO LIÊN TỤC HỘ SINH

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 08 tiết


Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Trình bày được quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục tại bệnh viện.
2. Xây dựng kế hoạch triển khai một khóa học đào tạo liên tục tại bệnh viện.
3. Nêu các nội dung đánh giá người học khi thực hiện kế hoạch đào tạo liên tục
tại bệnh viện.

NỘI DUNG
1. XÂY DỰNG QUY TRÌNH KẾ HOẠCH ĐÀO TẠO LIÊN TỤC TẠI BỆNH
VIỆN
1.1. Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục ở bệnh viện.
Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm của bệnh viện được xây dựng dựa trên kế hoạch 5
năm đã được phê duyệt. Kế hoạch đào tạo liên tục của bệnh viện là bộ phận của kế
hoạch chung hàng năm. Kế hoạch chung của bệnh viện trình cấp thẩm quyền phê
duyệt cần có dòng kinh phí đào tạo liên tục.
Quy trình cũng tương tự như xây dựng kế hoạch 5 năm, đầu mối xây dựng kế hoạch
đào tạo là đơn vị phụ trách đào tạo liên tục, phòng kế hoạch tổng hợp sẽ tổng hợp
trong kế hoạch chung. Quy trình cụ thể như sau:
Quý 3: Thu thập thông tin
- Tiến hành xây dựng dự thảo kế hoạch đào tạo liên tục
- Xin ý kiến của các đơn vị liên quan và hoàn thiện
- Chuyển phòng kế hoạch tổng hợp của bệnh viện tập hợp trong kế hoạch chung (cũng
có thể là kế hoạch riêng biệt – do lãnh đạo Bệnh viện quyết định)
Quý 4:
- Hội đồng (khoa học) của bệnh viện thẩm định, góp ý
- Sửa chữa và hoàn thiện

94
- Lãnh đạo bệnh viện ký quyết định phê duyệt
Từ quý 1 năm sau:
- Tổ chức triển khai
- Giám sát việc thực hiện kế hoạch
- Rút kinh nghiệm và đánh giá việc thực hiện
- Chuẩn bị cho kế hoạch năm tiếp sau
Lưu ý
- Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm do Giám đốc bệnh viện phê duyệt
- Kế hoạch hàng năm là 1 phần của kế hoạch 5 năm đã được phê duyệt
- Trong trường hợp chưa có kế hoạch 5 năm thì kế hoạch hàng năm được đưa vào kế
hoạch chung của bệnh viện
- Trong kế hoạch chung của bệnh viện nhất thiết có dòng kinh phí cho đào tạo liên tục.
1.2. Nội dung hoạt động về đào tạo liên tục trong 1 năm
Kế hoạch 5 năm của các bệnh viện sẽ được phê duyệt của cấp có thẩm quyền quy định
tại Điều 12 của thông tư 22/2013/TT-BYT. Sau đó các bệnh viện sẽ có kế hoạch hàng
năm. Kế hoạch hàng năm là trích từ kế hoạch 5 năm đã được phê duyệt.
Kế hoạch hàng năm tương tự như kế hoạch 5 năm nhưng đòi hỏi cụ thể hơn về số
lượng người học, số lớp học, nội dung của mỗi lớp, địa điểm tổ chức, kinh phí, vật tư
trang thiết bị, giảng viên và công tác quản lý.
Một bản kế hoạch đào tạo liên tục có các nội dung sau đây:
1. Số lớp học theo từng chủ đề các khoá đào tạo.
2. Số lượng học viên của mỗi khoá và thời gian khoá học.
3. Kinh phí, vật tư trang thiết bị:
- Bao nhiêu? nguồn kinh phí từ đâu: học viên đóng góp học phí? kinh phí của tỉnh,
Kinh phí từ chương trình dự án y tế? viện trợ, tài trợ?
- Các trang thiết bị, vật tư, hóa chất, khoa lâm sàng,...
4. Địa điểm triển khai
- Tổ chức tại bệnh viện
- Gửi đào tạo ở đơn vị đào tạo liên tục khác (BV khác, trường y tế,...)
5. Đơn vị/ người đấu mối tổ chức triển khai
6. Thực hiện kế hoạch đào tạo liên tục
Sau khi đã chuẩn bị xong bản kế hoạch của bệnh viện chúng ta còn phải tiến hành các
công việc khác nữa để kế hoạch được thực hiện là:
6.1. Thảo luận để thống nhất bản kế hoạch
95
Kế hoạch đào tạo liên tục là khung để kiểm tra các hoạt động của các bộ phận trong
bệnh viện vì vậy nó phải được sự chấp thuận của họ. Bản kế hoạch có sự tham gia của
các đơn vị liên quan như phòng tài chính, Kế hoạch - tổng hợp và được phê duyệt của
cấp có thẩm quyền.
6.2. Thông báo về kế hoạch nhân lực
- Khi bản kế hoạch 5 năm được phê duyệt của cấp có thẩm quyền, bản kế hoạch đó cần
được nhân bản để tổ chức việc triển khai thực hiện.
- Đơn vị phụ trách đào tạo liên tục căn cứ vào kế hoạch 5 năm để xây dựng kế hoạch
đào tạo liên tục hàng năm của bệnh viện
- Thông báo kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm cho các bộ phận liên quan việc
thông báo cần thiết để mọi người biết rằng chúng ta đang trông chờ gì trong 5 năm tới
và cung cấp thông tin về mục tiêu ngắn hạn để theo dõi, giám sát.
6.3. Giám sát thực hiện công tác đào tạo liên tục
Trong năm, cần giám sát số lượng được đào tạo liên tục và so sánh với các chỉ tiêu đã
ghi trong kế hoạch theo từng loại hình nhân lực y tế của bệnh viện. So sánh hàng quý
để biết sự tiến triển của việc thực hiện kế hoạch. Giám sát giúp chỉ ra chỗ khó khăn,
yếu kém để tìm giải pháp khắc phục. Nếu số lượng ít hơn đã ghi trong kế hoạch nghĩa
là không có khả năng thực thi kế hoạch trong tương lai, khi đó cần tìm cách điều chỉnh
kế hoạch. Nếu đánh giá thực hiện kế hoạch đào tạo liên tục mà thành công trong việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của bệnh viện thì kế hoạch này tốt cần tiếp tục
trong những năm tới, còn nếu không cải thiện đáng kể chất lượng thì hoạt động đào tạo
liên tục cần được xác định là ưu tiên hơn nữa cho những năm tiếp theo.
6.4. Cập nhật kế hoạch hàng năm
Bản kế hoạch chúng ta xây dựng cho 5 năm ví dụ 2020-2025 như vậy trong năm 2019
phải chuẩn bị cho xây dựng kế hoạch 2020-2025. Đến 2020 chúng ta sẽ cập nhật kế
hoạch này cho 2021-2026 như vậy chúng ta luôn có kế hoạch cho 5 năm tới. Quy trình
cập nhật có vẻ như rất nhiều việc, tuy nhiên một khi đã có kế hoạch 5 năm thì sẽ dễ
dàng hơn để cập nhật, điều chỉnh kế hoạch so với bản đầu tiên. Chúng ta cần giám sát
tất cả các loại thay đổi để đưa vào khi cập nhật, điều chỉnh kế hoạch, ví dụ như bệnh
tật mới xuất hiện (như cúm AH7N9) thì cần đưa nội dung này vào kế hoạch.
1.3. Các bước lập kế hoạch cho một khóa đào tạo liên tục
Sau khi kế hoạch hàng năm được phê duyệt, cần xây dựng kế hoạch triển khai từng
khóa học, lớp học. Kế hoạch triển khai một khóa học là bảng ghi các nội dung cụ thể,
chi tiết. Căn cứ vào kế hoạch năm đã được duyệt, cán bộ quản lý đào tạo liên tục xây
dựng kế hoạch triển khai. Một bản kế hoạch đào tạo liên tục cho một khóa học có các
nội dung sau đây:
- Tên khóa học
- Mục tiêu khóa học
- Số lượng và đối tượng học viên
96
- Thời gian mở lớp: ghi rõ bao nhiêu ngày, từ ngày tháng nào đến ngày tháng nào? Bố
trí học liên tục hay từng đợt
- Địa điểm: lớp học ở đâu, học lý thuyết ở hội trường nào, thực hành ở bệnh viện, khoa
phòng nào,…
- Chương trình/ thời khóa biểu của lớp học có ghi kèm tên giảng viên
- Các tài liệu giảng dạy chính, tài liệu tham khảo, tài liệu phát tay và tài liệu cho giảng
viên (nếu có)
- Giảng viên: yêu cầu ghi rõ tên giảng viên, trợ giảng
- Cán bộ tổ chức/phụ trách lớp học
- Yêu cầu chứng chỉ: số lượng, do ai cấp: Bộ Y tế, bệnh viện, Sở Y tế,…
- Kinh phí: bao nhiêu, từ nguồn nào?
- Điều kiện hậu cần cho lớp học: Hội trường, trang thiết bị, học liệu, những khóa học
lâm sàng cần chỉ rõ khoa nào, buồng bệnh nào và loại bệnh nào cần chuẩn bị, điều kiện
ăn ở, đi lại của học viên, giảng viên
- Dự toán kinh phí chi tiết để trình phê duyệt
- Các phụ lục đính kèm như: Công văn triệu tập, chương trình và lịch dạy-học chi tiết,
tài liệu, trang thiết bị và vật tư phục vụ cho khóa học
1.4. Các bước triển khai một khoá đào tạo liên tục tại bệnh viện
1.4.1. Chuẩn bị nguồn lực
1.4.1.1. Địa điểm dạy-học
- Phòng dạy lý thuyết cần đảm bảo các điều kiện sau đây:
+ Diện tích phù hợp với số lượng học viên, đủ chỗ để xếp bàn học theo hình chữ
U/V/xếp bàn tròn theo nhóm, có chỗ cho các nhóm làm việc, có chỗ để thực hiện trò
chơi, ôn bài và khởi động
+ Có các ổ cắm điện thuận tiện cho việc sử dụng các phương tiện dạy - học, có chỗ để
treo hoặc dán tranh minh họa hoặc các sản phẩm làm việc của các nhóm
+ Có đủ các phương tiện dạy – học như bảng, bảng lật, máy tính, máy chiếu…
+ Đủ sáng, thoáng và yên tĩnh
- Phòng dạy thực hành: Tùy thuộc nội dung thực hành mà bố trí phòng thích hợp:
+ Dạy thái độ hoặc kỹ năng giao tiếp: Đủ diện tích để xếp bàn ghế cho nhóm học viên
tham gia đóng vai và sắp xếp chỗ ngồi cho các học viên làm nhiệm vụ quan sát sao
cho họ có thể nghe rõ những điều nhóm đóng vai nói và nhìn rõ các cử chỉ/động tác
nhóm đóng vai thực hiện. Nếu trong phòng dạy có hệ thống camera để ghi lại lời
nói/cử chỉ của người tham gia đóng vai giúp cho việc thảo luận rút kinh nghiệm sau
đóng vai thì hiệu quả dạy – học sẽ tốt hơn nhiều.

97
+ Dạy thủ thuật/kỹ năng thao tác: Đủ diện tích và phương tiện để thủ thuật tiến hành
thuận lợi, an toàn, đảm bảo đúng quy định chống nhiễm khuẩn, đủ chỗ để học viên
quan sát rõ diễn biến khi thực hiện thủ thuật/kỹ năng. Trong một số trường hợp thủ
thuật cần tiến hành trong điều kiện vô khuẩn không cho phép học viên quan sát trực
tiếp thì cần có hệ thống truyền hình ảnh và lời nói của giảng viên ra một phòng khác
nơi có học viên theo dõi.
+ Dạy lâm sàng trên người bệnh: Dạy lâm sàng trên người bệnh cần được tiến hành
trong một phòng riêng, không nên dạy cho học viên trong phòng bệnh có vì sẽ ảnh
hưởng đến các người bệnh khác. Phòng dạy lâm sàng cần có đủ diện tích cho người
bệnh nằm/ngồi, cho học viên quan sát được các động tác thăm khám của giảng viên
hoặc bạn học.
1.4.1.2. Tài liệu, vật liệu dạy – học, phương tiện và văn phòng phẩm
- Tài liệu: Sách, tài liệu phát tay
- Vật liệu: Tình huống, kịch bản đóng vai, tranh - ảnh minh họa, băng video/đĩa CD,
công cụ lượng giá trước - trong và cuối khoá, các mẫu phiếu đánh giá khoá đào tạo…
- Phương tiện và văn phòng phẩm: Bảng/phấn, bảng trắng/bút, bảng lật, máy tính, máy
chiếu, giấy A0, giấy A4 các màu, giấy trắng A4, băng dính, dao, kéo, bút viết giấy
A0/A4.
1.4.1.3. Học viên:
- Thông báo về khoá đào tạo đăng trên trang Web của bệnh viện và gửi về các cơ sở y
tế (3 tháng trước khoá đào tạo) bao gồm các thông tin:
Chủ đề, thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc, địa điểm học, số lượng học viên, tiêu
chuẩn lựa chọn học viên, học phí/quyền lợi của học viên, thời hạn đăng ký học.
- Gửi thư mời đích danh những học viên được lựa chọn trong đó ghi rõ thời gian và địa
điểm tập trung, những tài liệu cần mang theo, điều kiện sinh hoạt, tên và địa chỉ/số
điện thoại của người tổ chức để liên lạc (2 tuần đến 1 tháng trước khoá học).
1.4.1.4. Giảng viên:
- Nguyên tắc lựa chọn giảng viên
+ Là những người có kinh nghiệm về chủ đề đào tạo
+ Là những người có kinh nghiệm sử dụng các phương pháp đào tạo khích lệ sự tham
gia tích cực của học viên mà người lập kế hoạch đã lựa chọn
+ Là những người có khả năng làm việc nhóm với đồng nghiệp và với học viên
+ Là những người nhất trí với kế hoạch đào tạo do bệnh viện đề xuất kể cả nội dung,
phương pháp và thời gian biểu
- Gửi thư mời giảng viên (2 tuần đến 1 tháng trước khoá học). Trong thư mời cần ghi
rõ nội dung mời dạy, trách nhiệm và quyền lợi.
- Giảng viên có thể là cán bộ của bệnh viện, có thể là người ngoài bệnh viện.

98
- Số lượng giảng viên: Mỗi nội dung nên có một giảng viên chính và một người trợ
giảng để hỗ trợ cho giảng viên chính đồng thời cùng theo dõi khi học viên làm việc
nhóm.
- Tổ chức họp giảng viên (1 tuần trước khoá học) để thảo luận và thống nhất mục tiêu,
nội dung, lịch học, phương pháp dạy – học, phân công, tài liệu/vật liệu dạy – học, câu
hỏi lượng giá học viên trước-trong-cuối khoá học, các mẫu phiếu đánh giá, các quy
định của khoá đào tạo, chứng chỉ và tiêu chuẩn được cấp chứng chỉ (Có ghi biên bản
thảo luận về các nội dung trên).
1.4.1.5. Nhân lực phục vụ cho khoá đào tạo
- Người chịu trách nhiệm chính, người phối hợp- Thư ký đánh máy tính và người ghi
hình cho khoá đào tạo
- Khách mời trong buổi khai mạc, người quan sát và cơ quan thông tin (nếu cần)
1.4.1.6. Thiết kế thời gian biểu: Cần ghi rõ ngày giờ tiến hành từng nội dung, tên giảng
viên và trợ giảng chịu trách nhiệm, phương pháp dạy – học và hoạt động của học viên
cho từng nội dung. Để gây hứng thú cho học viên và đa dạng các phong cách dạy –
học, trong mỗi buổi học nên có ít nhất 2 giảng viên tham gia.
1.4.1.7. Chuẩn bị chứng chỉ: Thiết kế mẫu chứng chỉ, các điều kiện được cấp chứng
chỉ cuối khoá học.
2. TỔ CHỨC TRIỂN KHAI LỚP HỌC ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
2.1. Những nội dung cần làm trong buổi đầu tiên của khoá đào tạo
- Khai mạc khoá đào tạo
+ Phát biểu khai mạc của lãnh đạo bệnh viện
+ Phát biểu của nhà tài trợ
- Lượng giá ngay trước khoá học: Nội dung của phiếu lượng giá thường gồm 2 phần:
+ Một số câu hỏi liên quan đến kinh nghiệm của học viên về chủ đề đào tạo và nhu cầu
của học viên
+ Một bài kiểm tra liên quan đến các nội dung của khoá học dưới dạng câu hỏi trắc
nghiệm. Bài kiểm tra này sẽ được lặp lại vào cuối khoá học để đánh giá sự tiến bộ của
học viên và kết quả của khoá đào tạo.
- Giới thiệu giảng viên và học viên: Có thể có nhiều cách, thí dụ một vài cách giới
thiệu học viên
+ Chia học viên thành các nhóm theo tháng sinh trong từng quý, theo đặc điểm hình
thức…Mỗi nhóm tìm những đặc điểm chung của nhóm, thí dụ cùng đã có gia
đình/cùng có con trai/cùng thích nghe nh ạc/cùng thích đi du lịch/cùng không thích sự
giả dối…
+ Chia học viên theo từng cặp 2 người phỏng vấn lẫn nhau theo các câu hỏi như: Nói 3
điều thích và một điều không thích, mong muốn gì từ khoá đào tạo, có khó khăn gì khi

99
tham dự khoá đào tạo. Sau 3 phút từng nhóm nêu ngắn gọn kết quả phỏng vấn bạn
mình.
Mục đích của hoạt động giới thiệu học viên là để học viên và giảng viên làm quen với
nhau, tạo không khí hiểu biết và hoà đồng, xóa bỏ sự ngăn cách và e dè ban đầu.
- Giới thiệu mục đích, mục tiêu, nội dung, lịch học, tài liệu, phương pháp dạy – học sử
dụng trong khoá đào tạo, trách nhiệm và quyền lợi của học viên. Mục đích của hoạt
động này là để mọi học viên hiểu rõ tất cả những vấn đề liên quan đến khoá đào tạo để
yên tâm và chủ động trong học tập.
- Xây dựng nội quy khoá học nhằm tạo ra một môi trường học tập an toàn và hỗ trợ lẫn
nhau. Nội quy do học viên tự xây dựng với những điều nên làm và không nên làm. Sau
khi mọi học viên đã thống nhất, nội quy được viết lên giấy A0 và treo ở chỗ tất cả đều
nhìn thấy trong suốt khoá đào tạo.

2.2. Tiến hành đào tạo theo thời gian biểu

Nội dung Bố trí phòng Phương pháp dạy – học


học (Tham khảo tài liệu giới thiệu các phương pháp dạy
– học tích cực, tài liệu bồi dưỡng cho điều dưỡng
hạng IV)

Đào tạo lý thuyết Xem mục 2.1.1 Thuyết trình có minh họa, thuyết trình ngắn kết hợp
thảo luận nhóm lớn/thảo luận nhóm nhỏ dựa trên
các vấn đề thực tế hoặc các tình huống.

Đào tạo thái Đóng vai dựa trên kịch bản hoặc tình huống
độ/kỹ năng giao
tiếp/kỹ năng tư
vấn

Đào tạo kỹ năng + Với các kỹ năng/thủ thuật mới không quá phức
thao tác/thủ thuật tạp: Thường dùng phương pháp làm mẫu và thực
mới hành lại.
+ Với các thủ thuật phức tạp: Xem băng ghi hình
quay chậm để quan sát từng bước tiến hành sau đó
chia nhóm nhỏ 2 người cùng làm với giảng viên.

Chuẩn hoá kỹ Cầm tay chỉ việc


năng/thủ thuật mà
học viên đã có
trải nghiệm

100
Đào tạo kỹ năng Minh họa lâm sàng và dạy hình thành năng lực
tiếp cận người (CBT) hoặc
bệnh và khám Bài giảng lâm sàng tích cực hoá và có minh họa
lâm sàng

Đào tạo kỹ năng Nghiên cứu tình huống


ra quyết định và
giải quyết vấn đề

2.3. Những hoạt động cần có trong buổi cuối cùng của khoá đào tạo
- Thực hiện bài kiểm tra kiến thức cuối khoá (30 phút): Sử dụng đúng bài kiểm tra đầu
khoá để có thể so sánh sự tiến bộ của học viên sau khi được đào tạo. Bài kiểm tra thực
hành thường được tiến hành trước dựa trên cơ sở mục tiêu của khoá đào tạo. Kết thúc
thời gian kiểm tra, giảng viên sẽ chấm bài của học viên trong thời học viên điền vào
phiếu đánh giá. Điểm lượng giá cuối khoá học sẽ được đưa vào bảng so sánh kết quả
giữa trước và cuối khoá học đồng thời phân loại học viên theo các mức độ.
- Điền vào phiếu đánh giá khoá đào tạo (30 phút): Nội dung phiếu đánh giá khoá đào
tạo cần bao gồm các câu hỏi về các khâu và các thành phần tham gia vào khoá đào tạo
như: Đánh giá về tính phù hợp/cần thiết đối với từng nội dung và thời lượng dành cho
từng nội dung, phương pháp đào tạo, mức độ đạt mục tiêu, tài liệu/vật liệu/phương tiện
dùng cho dạy – học, cách thức tổ chức (Thời gian biểu, thời gian tổ chức và thời lượng
của toàn khoá đào tạo, địa điểm học lý thuyết và thực hành, điều kiện sinh hoạt, thái độ
phục vụ của người tổ chức), giảng viên, các nhân viên phục vụ cho các hoạt động thực
hành, các ý kiến đóng góp với ban tổ chức. Kết thúc thời gian, ban tổ chức tổng kết
các ý kiến phản hồi.
- Tổng kết khoá học: Thường tiến hành sau giờ nghỉ giải lao để giảng viên và ban tổ
chức có thời gian chấm bài kiểm tra và tổng kết số liệu.
+ Báo cáo kết quả lượng giá học viên so sánh với kết quả lượng giá đầu khoá học và
phân loại học viên qua kết quả kiểm tra
+ Báo cáo kết quả phản hồi từ phía học viên qua tổng kết các phiếu đánh giá khoá học
+ Trao chứng chỉ cho các học viên đạt tiêu chuẩn của khoá đào tạo
+ Phát biểu ý kiến của đại diện học viên
+ Phát biểu của nhà tài trợ (Nếu có)
+ Phát biểu bế mạc của lãnh đạo bệnh viện
2.4. Tổ chức họp rút kinh nghiệm (1 tuần sau khi kết thúc khoá đào tạo)
- Thành phần tham gia: Giảng viên, trợ giảng, người tổ chức, đại diện các
khoa/phòng/labo thực hành, lãnh đạo bệnh viện/ nhà tài trợ (Nếu có).

101
- Nội dung: Đánh giá toàn bộ khoá đào tạo dựa vào diễn biến toàn khoá đào tạo, kết
quả kiểm tra học viên, kết quả phản hồi của học viên, ý kiến phản hồi của giảng viên
và những người tham gia tổ chức, ý kiến nhận xét của lãnh đạo và nhà tài trợ.
2.5. Viết báo cáo tổng kết khoá đào tạo và quyết toán kinh phí:
Báo cáo tổng kết bao gồm các cấu phần sau đây:
- Mô tả tóm tắt khoá đào tạo
- Danh sách học viên
- Danh sách giảng viên
- Chương trình và thời gian biểu của khoá đào tạo
- Thời gian và địa điểm tiến hành
- Kết quả lượng giá học viên
- Ý kiến phản hồi từ học viên và giảng viên
Những ưu điểm và hạn chế cần rút kinh nghiệm từ khoá đào tạo.
2.6. Đánh giá người học
2.6.1. Mục đích và các hình thức đánh giá
Ðánh giá kết quả học tập của học viên trong khóa đào tạo liên tục là một hoạt động bắt
buộc đối với mọi khóa ÐTLT, kế hoạch đánh giá kết quả học tập của học viên đã được
xác định cụ thể trong chương trình khóa ÐTLT.
Mục đích của đánh giá học viên là để biết học viên đã học được bao nhiêu, đã thực
hành được những gì, thực hành như thế nào, có thái độ, hành vi ra sao trước nhiệm vụ
họ thực hiện. Ðánh giá kết quả học tập của học viên chủ yếu là nhiệm vụ của các giảng
viên trực tiếp dạy học thực hiện. Cán bộ quản lý ÐTLT của bệnh viện có thể tham gia
cùng giảng viên trong các hoạt động đánh giá nhưng quan trọng hơn là họ có nhiệm vụ
theo dõi, quản lý các hoạt động đánh giá kết quả học tập của học viên.
Ðánh giá kết quả học tập của học viên bao gồm:
- Ðánh giá quá trình: Ðuợc thực hiện trong suốt quá trình đào tạo, thường thể hiện
bằng các bài kiểm tra kiến thức, các bài tập thực hành, các bản theo dõi, nhận xét thái
độ học tập của học viên.
+ Chức năng của đánh giá quá trình là để cải tiến quá trình học tập của học viên
+ Mục đích của đánh giá quá trình là để hướng dẫn hoặc phản hồi cho học viên trong
quá trình học tập
+ Quyết định đánh giá quá trình phải dựa trên kết quả chung của các điểm đánh giá
quá trình
- Ðánh giá cuối kỳ: Là những bài thi, bài kiểm tra cuối khóa
+ Chức năng đánh giá cuối kỳ là xác định kết quả đạt được của học viên đối với khóa
đào tạo
102
+ Mục đích của đánh giá cuối kỳ là để quyết định đỗ hay trượt, xếp loại và là một tiêu
chuẩn để đề nghị cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa đào tạo.
Ðể đánh giá kết quả học tập của học viên, giảng viên và người đánh giá cần sử dụng
bộ công cụ đánh giá. Bộ công cụ đánh giá kết quả học tập của học viên tùy thuộc vào
lĩnh vực của mục tiêu học tập.
Cán bộ quản lý ÐTLT của bệnh viện thực hiện chức năng quản lý hoạt động đánh giá
kết quả học tập của học viên trong các khóa ÐTLT do bệnh viện tổ chức thông qua các
hoạt động sau:
- Ðảm bảo các hoạt động đánh giá quá trình và đánh giá kết thúc được tổ chức thực
hiện đúng theo kế hoạch quy định trong chương trình khóa ÐTLT (số lần, khoảng
cách, hình thức các bài kiểm tra thường xuyên, hình thức kiểm tra thi cuối khóa, cách
tính điểm và ghi hồ sơ ...).
- Ðảm bảo các công cụ đánh giá đạt chuẩn: có giá trị, đáng tin cậy, khách quan, thích
hợp và tách biệt.
- Cùng với giảng viên cải tiến nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của học
viên trong các khóa ÐTLT của bệnh viện.
- Sử dụng kết quả đánh giá học viên trong các khóa ÐTLT vào mục đích nâng cao chất
lượng ÐTLT của bệnh viện, cụ thể:
+ Phản hồi cho học viên để họ cải tiến việc học tập
+ Cung cấp thông tin, giúp giáo viên cải tiến phương pháp dạy học
+ Xếp loại, chọn lọc học viên trong khóa đào tạo
+ Cải tiến chương trình, nội dung các khóa đào tạo cho phù hợp và hiệu quả
+ Ðảm bảo nguồn nhân lực do bệnh viện đào tạo đạt chuẩn theo mục tiêu của khóa
ÐTLT.
2.6.2. Các phương pháp lượng giá, đánh giá
Có rất nhiều phương pháp lượng giá, đánh giá người học.
- Ðánh giá kiến thức:
+ Vấn đáp
+ Câu hỏi tự luận, bài tập tình huống, câu hỏi trắc nghiệm khách quan
- Ðánh giá kỹ năng, thái độ:
+ Bảng kiểm
+ Bảng thang điểm
2.6.2.1. Câu hỏi đúng – sai
- Cách viết câu hỏi đúng – sai: thân câu hỏi là một mệnh đề, chỉ có một yếu tố thích
hợp khi trả lời đúng hay sai. Không thể vừa có yếu tố đúng vừa có yếu tố sai trong một
thân câu hỏi, hay chọn đúng hay sai trong đáp án đều được.
103
Ví dụ: Người bệnh tràn dịch màng phổi (đã được dẫn lưu) bị suy hô hấp cấp không
được thở máy. Đ/S
Ưu điểm
+ Ra câu hỏi nhanh và viết được nhiều câu hỏi trong cùng một nội dung
+ Kích thích và dễ cho tự lượng giá
+ Thích hợp cho lượng giá trình độ thấp
Nhược điểm
+ Độ khó và tính phân biệt khó đạt được như mong muốn
Chú ý
+ Đáp án phải rõ ràng đúng hoặc sai
+ Viết và sắp xếp để các câu không trả lời cho nhau
2.6.2.2. Câu hỏi nhiều lựa chọn
- Cách viết: Thân câu hỏi là một câu hoàn chỉnh, một mệnh đề, một tình huống, một
bài tập…
Câu trả lời: mỗi thân câu trả lời có từ 4 câu trả lời trở lên, được mã hóa theo thứ tự A,
B,C,D. Trường hợp có một câu đúng nhất, các câu trả lời khác cũng phải có lý để
người học tư duy.
Có thể ra câu hỏi chọn nhiều đáp án, tuy nhiên dạng câu hỏi này chỉ nên để lượng giá
cuối bài hoặc ở bậc học thấp, không nên dùng cho đề thi vì dễ nhầm
Có thể xây dựng câu hỏi âm tính, có yếu tố phủ định. Chú ý yếu tố phủ định cần được
làm nổi bật lên để người học không bị nhầm.
Ví dụ: Đặt ống nội khí quản cho người bệnh KHÔNG được chỉ định trong trường
hợp nào?
A: Tắc nghẽn đường hô hấp.
B: Người bệnh hôn mê.
C: Sốt xuất huyết
D: Bơm rửa phế quản.
Có thể xây dựng trong các câu trả lời có một câu là nhận xét các trả lời khác cùng câu
“tất cả các ý trên”
Ưu điểm: - Thích hợp cho lượng giá kiến thức, có thể lượng giá nhiều nội dung
Nhược điểm: Khó xây dựng và mất nhiều thời gian để xây dựng câu hỏi
Lưu ý: Thống nhất danh từ/thuật ngữ trong câu hỏi và câu trả lời
Không nên để câu hỏi và câu trả lời cùng chứa yếu tố phủ định hay các câu trả lời có
độ dài ngắn khác nhau.

104
2.6.2.3. Câu hỏi ngỏ ngắn
- Cách xây dựng: Từ một câu đã có nội dung, cấu trúc thành câu hỏi. Thường một câu
ngắn chọn 1 đến 2 từ/cụm từ, câu dài chọn 2 đến 3 từ/cụm từ. Xóa từ/cụm từ đã chọn,
để khoảng trống với các ký hiệu A, B, C, D tương ứng và yêu cầu người học điền
thông tin vào các khoảng trống hoặc từ các đáp án đã được cung cấp để chọn đáp án
tượng tự với chỗ trống.
Ví dụ: Hãy chỉ ra các dấu hiệu mất máu nhiều
A. Người bệnh hoảng hốt, ý thức lú lẫn, vật vã kích thích hoặc li bì
B. Da xanh, niêm mạc nhợt, vã mồ hôi, sờ vào thấy lạnh
C. …………
D……………..
Ưu điểm: Dễ viết câu hỏi
Nhược điểm: Đáp án có thể có nhiều từ/cụm từ đồng nghĩa nên khó chấm
2.6.2.4. Nghiên cứu tình huống
- Cấu trúc: thân câu hỏi là tình huống, thông tin đưa ra cần chính xác và phù hợp cũng
như dễ hiểu để trả lời. Câu hỏi có thể xây dựng dưới dạng câu hỏi đúng sai, câu hỏi
ngỏ ngắn, câu hỏi nhiều lựa chọn…
2.3.2.5. Câu hỏi ghép cặp
Cấu trúc: cho một số yếu tố ghi mã bằng chữ cái A,B,C,D…, những chữ cái đó có thể
dùng 1 lần, nhiều lần hoặc không dùng lần nào. Đặt các tình huống ghi mã bằng số,
ghép cặp một cách phù hợp với các mã bằng chữ cái để tạo nên một nội dung chính
xác.
Ví dụ: Những biểu hiện của giai đoạn hấp hối

A. Nguyên nhân B. Biểu hiện


1. Rối loạn vận mạch A. Chân tay lạnh
2. Lưu thông máu giảm B. Vã mồ hôi đầm đìa
3. Giảm trương lực cơ C. Miệng lệch, nói khó, nuốt khó
D. Mạch nhanh nhỏ, khó bắt

2.6.2.6. Bảng kiểm


Bảng kiểm được áp dụng rộng rãi trong đánh giá thực hành đặc biệt là đánh giá thực
hành quy trình tại lâm sàng. Quy trình xây dựng bảng kiểm được thực hiện như sau:
(1) Chọn một kỹ thuật thích hợp cho đánh giá bằng bảng kiểm
(2) Liệt kê các thao tác trong quy trình kỹ thuật, tuy nhiên không nên quá chi tiết, cũng
không nên quá chung chung cho các bước kỹ thuật. Nếu kỹ thuật có quá nhiều thao tác
105
thì nên chia thành các bước lớn, mục lớn và nên làm mỗi bước đó thành một bảng
kiểm riêng.
(3) Sắp xếp các bước theo trình tự hợp lý
(4) Viết thành bảng kiểm với các cột: số thứ tự, thao tác, thang điểm
(5) Chia thang điểm:
1. Có thể chia thành: làm đúng, đủ; làm chưa đủ, làm sai hoặc không làm
2. Chia thành đạt, không đạt
3. Tốt, khá, kém
Việc chia thang điểm cũng có thể mã hóa cho các đánh giá tương ứng: 0,1,2
Chú ý: phải quy định mức điểm, đánh giá trước. Nhấn mạnh bằng cách cho hệ số vào
những bước quan trọng hoặc điều kiện tiên quyết cho các bước quan trọng.
- Ưu điểm: Dễ thống nhất khi chuẩn bị.
Thuận tiện khi quan sát và lượng giá khách quan kỹ năng của người học.
- Nhược điểm: Không dùng được cho các kỹ năng phức tạp hoặc phối hợp nhiều kỹ
năng trong một tình huống.
2.6.2.7. Phương pháp chạy trạm OSPE/OSCE
Việc đánh giá có thể được thực hiện thông qua việc người học sẽ trải qua các trạm để
đánh giá kiến thức hoặc kỹ năng. Tại các trạm được bố trí các câu hỏi hoặc yêu cầu về
kỹ năng, người học sẽ hoàn thiện trạm đó trong thời gian từ 3 đến 5 phút. Một buổi
kiểm tra tùy theo thời gian có thể bố trí từ 5 đến 10 trạm, có thể chỉ bố trí tất cả các
trạm thực hành hoặc xem kẽ lý thuyết và thực hành.
Khi đánh giá bằng chạy trạm, cần chuẩn bị các yêu cầu của các trạm, đáp án và phiếu
chấm. Đối với các trạm lý thuyết cần cung cấp phiếu làm bài cho người học. Đối với
các trạm thực hành tùy theo yêu cầu mà các trang thiết bị cần thiết cho việc thực hiện
phải được chuẩn bị đầy đủ và phải sắp xếp/ bố trí không gian hợp lý cho việc tiến hành
kỹ thuật/ kỹ năng.
Trước khi chạy trạm giảng viên chấm tại các trạm cần thống nhất về cách chấm và
cách cho điểm vào phiếu chấm cũng như mức độ đạt hay không đạt của người học.
Người học cần được hướng dẫn đầy đủ, cụ thể về cách tiến hành chạy giữa các trạm và
cần có thời gian để quan sát các trạm trước khi tiến hành. Người học phải chạy theo
một chiều nhất định.
- Ưu điểm: Lượng giá được nhiều nội dung, đảm bảo tính công bằng và tin cậy.
- Nhược điểm: tốn công chuẩn bị, phải có địa điểm rộng và đầy đủ trang thiết bị cần
thiết.
Phương pháp này thích hợp cho lượng giá kết thúc giai đoạn đào tạo hoặc chương
trình đào tạo.

106
3.2. Đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện
Đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện không chỉ đơn thuần là đánh giá kết
quả học tập của học viên trong các khóa ĐTLT như đã trình bày ở phần trên mà là
một quá trình đánh giá từ khi lập kế hoạch, tổ chức khóa đào tạo, theo dõi kết quả học
viên và tác động của ĐTLT đến chất nguồn nhân lực y tế.
Đánh giá ĐTLT của bệnh viện nhằm mục đích:
- Xác định xem các khóa ĐTLT có đạt được các mục tiêu không
- Đánh giá tính phù hợp và giá trị của các chương trình ĐTLT của bệnh viện.
- Xác định những lĩnh vực của chương trình ĐTLT cần cải thiện.
- Xác định các đối tượng CBYT phù hợp cho các chương trình ĐTLT trong
tương lai.
- Rà soát và củng cố các điểm mấu chốt trong nội dung của các chương trình
ĐTLT.
- Chỉnh sửa hoặc cải tiến thiết kế khóa ĐTLT để áp dụng trong tương lai.
- Nhận xét về sự thành công hoặc thất bại của công tác ĐTLT của bệnh việ
n.
- Xem xét khả năng tiếp tục thực hiện chương trình ĐTLT tại bệnh viện và chu
yển giao để nhân rộng chương trình ĐTLT cho bệnh viện khác
Tham gia đánh giá đào tạo liên tục của học viên có thể là:
- Các giảng viên
- Học viên
- Cán bộ quản lý ĐTLT
- Cơ quan quản lý, cơ quan tài trợ, v.v
Quá trình đánh giá ĐTLT gồm các hoạt động sau đây:
- Đánh giá hàng ngày: Giúp cho giảng viên và người tổ chức khóa đào tạo giải
quyết ngay các các ý kiến phản hồi của học viên, những vấn đề liên quan đến khóa đà
o tạo giúp học viên hoàn thành các mục tiêu đào tạo
- Đánh giá định kỳ: Giúp giảng viên và người tổ chức khóa đào tạo cải tiến các
h thức và chỉnh sửa các vấn đề nhỏ trước khi chúng trở thành các vấn đề lớn, mang lại
lợi ích cho học viên ngay trong quá trình đào tạo
- Đánh giá khi kết thúc khóa đào tạo: Giúp giảng viên và người tổ chức khóa đ
ào tạo cải tiến các hoạt động trong tương lai và lập kế hoạch cho việc giám sát hỗ trợ
các học viên đã được đào tạo
- Đánh giá học viên sau khi đã trở về nơi làm việc: Giúp giảng viên và người tổ
chức khóa đào tạo thu nhận được kết quả và tác động của học viên đã được đào tạo và
o thực tế làm việc

107
Đánh giá đào tạo liên tục có nhiều mức khác nhau, thường người ta chia làm 4
cấp độ, tùy theo mục tiêu của cuộc đánh giá, những người tham gia đánh giá ĐTLT củ
a bệnh viện lựa chọn cấp độ đánh giá cho phù hợp
+ Cấp độ 1: Phản ứng của học viên đối với khóa đào tạo. Nếu học viên “hài lòn
g”, có nhiều ‘niềm vui” trong khi đào tạo sẽ tác động đến thành công của khoá đào tạo.
Đánh giá cấp độ 1 được tiến hành trong suốt khóa huấn luyện và ở cuối khóa huấn luyệ
n. Để đánh giá phản ứng của học viên với khóa đào tạo (về nội dung, tài liệu, phương ph
áp dạy học, giảng viên, mội trường học tập, hậu cần …) có thể sử dụng các Phiếu hỏi ý
kiến học viên, các bài tập, các trò chơi, hộp thư trong lớp học để thu nhận những phản h
ồi của học viên
Tham khảo gợi ý thiết kế mẫu đánh giá cấp độ 1 tại Phụ lục số 1
+ Cấp độ 2: Đánh giá kết quả học tập của học viên. Cụ thể là những kiến thức, k
ỹ năng học viên đã đạt được trong quá trình tham dự kháo ĐTLT. Được tiến hành trong
hoặc ngay sau khóa đào tạo. Bao gồm các bài kiểm tra trước và sau khóa học; các bảng
kiểm, thang điểm đánh giá kỹ năng, thái độ; các câu hỏi trả lời miệng, câu hỏi tự luận, c
ác bài kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan; các bài tập tình huống.
+ Cấp độ 3: Đánh giá việc thay đổi hành vi và khả năng học viên áp dụng các ki
ến thức và kỹ năng đã được đào tạo vào thực tế công việc của họ. Việc này có thể được
tiến hành tại nơi học viên đang làm việc 3-6 tháng sau khóa đào tạo. Đánh giá ở cấp độ
3 nhằm đánh giá các kết quả lâu dài hơn của khóa đào tạo. Phương pháp đánh giá bao g
ồm quan sát CBYT (đã được ĐTLT) thực hiện các kỹ năng; phỏng vấn, thảo luận nhóm
cùng CBYT hoặc cũng có thể là các cuộc khảo sát với các bài kiểm tra lại kiến thức.
+ Cấp độ 4: Đánh giá kết quả hoặc tác động của nguồn nhân lực đã được ĐTLT
đối với công tác CSSKND. Tác động ngắn hạn của ngồn nhân lực đã được đào tạo có t
hể là những sự thay đổi tốt lên của các chỉ số sức khỏe, có thể là sự tăng lên số người s
ử dụng dịch vụ CSSK do người CBYT đã được ĐTLT ... Đánh giá cấp độ 4 bao gồm c
ác con số thống kê về dịch vụ CSSK, các cuộc phỏng vấn những người sử dụng dịch vụ
y tế, những chỉ số về CSSK. Tuy nhiên khi đánh giá cấp độ 4 thường gặp phải khó khăn
đó là có nhiều yếu tố tác động đến việc cải thiện chất lượng dịch vụ y tế ngoài ĐTLT. D
o vậy cần phải loại trừ các yếu tố này bằng cách khảo sát song song với nhóm đối chứn
g (những CBYT không được ĐTLT).
+ Ngoài ra, trong khía cạnh kinh tế - y tế của bối cảnh đổi mới kinh tế- xã hội củ
a nước ta hiện nay cũng cần đề cập đến việc đánh giá chi phí của các hoạt động ĐTLT.
Đó là phương pháp đánh giá bằng cách so sánh lợi ích kinh tế của kết quả, tác động ĐT
LT CBYT với chi phí của các khóa ĐTLT (tài liệu đào tạo, trang thiết bị, giảng viên và
học viên …). Có người xếp nội dung đánh giá này vào mức độ 4, cũng có người đề ngh
ị xếp thành mức độ 5. Trong phạm vi đào tạo liên tục cán bộ y tế của một bệnh viện, ch
úng tôi chỉ đề cập tới nội dung này nhằm mục đích tham khảo mà chưa sắp xếp vào cấp
độ đánh giá.
Cán bộ quản lý đào tạo liên tục của bệnh viện thực hiện chức năng tổ chức hoạt
động đánh giá ĐTLT CBYT của bệnh viện thông qua các hoạt động sau:
108
Phối hợp cùng giảng viên tổ chức các hoạt động thu nhận phản hồi của học viê
n (hộp thư, phiếu hỏi ý kiến học viên, các trò chơi ... ) để đánh giá cấp độ 1 của các kh
óa ĐTLT CBYT do bệnh viện tổ chức.
Tham gia cùng với các giảng viên thực hiện các hoạt động đánh giá học viên tr
ong quá trình tham dự các khóa ĐTLT do bệnh viện tổ chức, đánh giá ở cấp độ 2.
Biên soạn các bộ công cụ đánh giá, lập kế hoach đánh giá, tổ chức các cuộc đá
nh giá ĐTLT của bệnh viên ở cấp độ 3 và cấp độ 4.
Tổng hợp và báo cáo kết quả các cuộc đánh giá theo cấp độ của từng khóa, hay
một số khóa ĐTLT do bệnh viện tổ chức được tổ chức trong khoảng thời gian nhất đị
nh (6 tháng, 1 năm).

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


Câu 1: Trình bày quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục tại bệnh viện?
Câu 2: Trình bày các bước triển khai một khóa học liên tục tại bệnh viện?
Câu 3: Trình bày phương pháp đánh giá học học tập của sinh viên khóa đào tạo liên
tục?
Câu 4: Trình bày cách đánh giá đào tạo liên tục của bệnh viện ?

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Thông tư 22/2013/TT-BYT ngày 9/8/2013 của Bộ Y tế Hướng dẫn việc đào


tạo liên tục cho cán bộ y tế.
2. Quyết định 492/QĐ-BYT ngày 17/2/2012 của Bộ Y tế về việc cấp mã chứng
nhận đào tạo liên tục cho các đơn vị tham gia công tác đào tạo liên tục cán bộ y tế.
3. Quyết định 493/QĐ-BYT ngày 17/2/2012 của Bộ Y tế về việc ban hành quy
định về tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng đơn vị đào tạo liên tục cán bộ y tế.
4. Công văn số 1853/BYT-K2ĐT ngày 7/4/2009 của Bộ Y tế hướng dẫn xây
dựng chương trình và tài liệu đào tạo liên tục.
5. Công văn số 2585/BYT-K2ĐT ngày 27/4/2010 của Bộ Y tế về việc ban hành
chương trình đào tạo sư phạm y học cơ bản
6. Bộ Y tế (2014). Tài liệu đào tạo quản lý đào tạo liên tục tại bệnh viện.

CHUYÊN ĐỀ 2

109
CHUẨN CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC
CỦA HỘ SINH VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ

THỜI LƯỢNG CHUYÊN ĐỀ: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 08 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Phát biểu được thế nào là chất lượng và giải thích chất lượng theo các quan
điểm khác nhau.
2. Trình bày được các nội dung chăm sóc người bệnh tại bệnh viện
3. Trình bày được các phương pháp hiện nay được sử dụng nhiều trong kiểm
định chất lượng dịch vụ y tế?
NỘI DUNG
I. ĐẠI CƯƠNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC CỦA NỮ HỘ SINH
1. CÁC KHÁI NIỆM VỀ CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC CỦA HỘ SINH:
Chất lượng là khái niệm tương đối, được định nghĩa khác nhau bởi các nhóm người
trong tổ chức và trong xã hội. Câu trả lời khác nhau với những quan điểm khác nhau.
Trong ngành công nghiệp dịch vụ thì “Khách hàng là Thượng đế, vì vậy việc đáp ứng
được nhu cầu và mong đợi của khách hàng là chất lượng”. Với các lãnh đạo và quản lý
thì “Chất lượng là làm đúng việc ngay từ lần đầu tiên và làm việc đó tốt hơn trong
những lần tiếp theo” Chất lượng là khái niệm đặc trưng cho khả năng thoả mãn nhu
cầu của khách hàng. Vì vậy, sản phẩm hay dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu
của khách hàng thì bị coi là kém chất lượng cho dù trình độ công nghệ sản xuất ra có
hiện đại đến đâu đi nữa. Đánh giá chất lượng cao hay thấp phải đứng trên quan điểm
người tiêu dùng. Cùng một mục đích sử dụng như nhau, sản phẩm nào thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng cao hơn thì có chất lượng cao hơn.
Bất kỳ định nghĩa nào về chất lượng cũng không hoàn chỉnh nếu không đặt vào địa vị
của khách hàng
Khái niệm chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh: Chất lượng là mức độ mà dịch vụ y tế
cung cấp cho cá nhân hoặc cộng đồng có thể làm tăng khả năng đạt được kết quả về
sức khoẻ mong đợi và phù hợp với kiến thức về chuyên môn hiện hành. Khái niệm
nghe khá đơn giản, tuy nhiên để xác định sự gia tăng, cần trả lời được câu hỏi như:
Hôm nay người bệnh có khoẻ hơn hôm qua không? Ngày mai, liệu người bệnh có
khoẻ hơn hôm nay không?...Để trả lời được chính xác các câu hỏi như vậy, cũng là trả
lời về mức độ chất lượng, cần phải đo lường chính xác mức độ thực hiện nhiệm vụ,
công việc trước đây, hiện nay và tương lai.

110
Trong báo cáo của Viện Y khoa Hoa Kỳ năm 2001 đã xác định, chất lượng trong chăm
sóc y tế là « An toàn, hiệu quả, người bệnh là trung tâm, đúng thời gian, hiệu năng và
công bằng ».(Crossing the Quality Chasm: A New Health System for the 21st Century,
2001). Tổ chức Y tế Thế giới cũng xác định, chiều hướng chất lượng trong y tế bao
gồm (Performance Assessment Tool for Quality Improvement in Hospital,2007): An
toàn, Người bệnh làm trung tâm, Chăm sóc lâm sàng hiệu quả, Hiệu suất, Hướng về
nhân viên, Điều hành hiệu quả.
- Tính an toàn và khả năng tiếp cận: Không ai chấp nhận việc cung cấp hoặc tiếp nhận
sự chăm sóc trong một môi trường không an toàn hoặc bị cho là không an toàn.Từ khía
cạnh quản lý rủi ro, nhiệm vụ của thầy thuốc là bảo đảm môi trường an toàn cho người
bệnh của mình. Tai nạn gây ra nhiều hậu quả và đều là hậu quả xấu. Điều kiện không
an toàn có thể dẫn đến vấn đề trách nhiệm, tổn thương tâm sinh lý, cũng như mất đi
thiện chí và gây tổn hại cho danh tiếng của một cơ sở y tế trong cộng đồng. Ngoài ra,
một môi trường không an toàn sẽ làm giảm năng suất vì mọi người sẽ phải mất thời
gian giải quyết khiếu nại và theo đuổi kiện cáo. An toàn là một giới hạn thiết yếu và
được trông đợi của chất lượng, đặc biệt là trong y tế.
Một vấn đề khác của chất lượng là khả năng tiếp cận. Chăm sóc dễ tiếp cận có nghĩa là
sẵn có, chấp nhận được và người sử dụng đủ khả năng chi trả. Tính dễ tiếp cận bao
gồm cả dễ tiếp cận về thực thể, về mặt tài chính cũng như về tinh thần. Ý nghĩa tinh
thần cực kỳ quan trọng trong một môi trường đa văn hoá, tôn giáo và trình độ học vấn.
Chăm sóc có chất lượng cần phải được phổ biến tới “người sử dụng” trong bối cảnh
của chính họ và với các điều kiện riêng của chính họ để có sự tiếp cận đúng nghĩa. Vì
thế, kỹ năng truyền thông hiệu quả là điều thiết yếu trong cung ứng chăm sóc y tế dễ
tiếp cận .
-Hiệu quả, hiệu năng và năng lực kỹ thuật: Cung ứng những dịch vụ phù hợp và cần
thiết. Loại bỏ sự lãng phí, lặp lại hoặc trùng lặp. Đề cao cách thức chăm sóc khách
hàng hiệu quả nhất, kinh tế nhất. Việc lạm dụng kỹ thuật, thuốc, xét nghiệm cần phải
được hạn chế và loại bỏ. Trong một hệ thống vừa có đòi hỏi cao về chất lượng nhưng
đi kèm với thực tế là nguồn lực hạn chế, cần có các quyết định đắn về cách kết hợp tối
ưu giữa hiệu quả và hiệu năng. Việc cung cấp dịch vụ chăm sóc khách hàng hiệu quả
theo cách thức hiệu năng đòi hỏi kỹ năng chuyên môn cao của các thầy thuốc biết áp
dụng nguyên tắc “Làm đúng ngay từ lần đầu và làm tốt hơn trong những lần tiếp theo
’’. Trong chất lượng y tế, cơ sở y tế và các thầy thuốc cần phải được đào tạo và tập
huấn tốt để cập nhật những kiến thức y khoa nhằm đáp ứng đòi hỏi và kỳ vọng của
người bệnh. Y tế là một lĩnh vực phức tạp và nếu không có nền tảng kỹ thuật tốt thì rất
khó có được sự tin cậy về chuyên môn. Chất lượng phải đi kèm với khả năng và năng
lực kỹ thuật. Chất lượng chuyên môn và năng lực kỹ thuật có tính chất quyết định đối
với người bệnh có đến với cơ sở y tế đó hay không.
- Quan hệ giữa người với người, tính liên tục và sự tiện nghi: Tương tác cá nhân rất
quan trọng trong cung ứng chăm sóc y tế có chất lượng. Chăm sóc y tế do các cá nhân
có kỹ năng tinh tế và có trình độ học vấn cao đảm trách, tuy nhiên những cá nhân này
không thể đem đến cho người bệnh một sự chăm sóc tổng thể nếu họ không hợp tác
111
theo nhóm. Quan hệ giữa người với người vì thế đóng một vai trò rất lớn trong việc
hình thành các quy trình chăm sóc và bảo đảm kết quả tích cực cho người bệnh. Một
vấn đề khác liên quan đến chất lượng là chăm sóc y tế phải được cung ứng liên tục.
Điều đó có nghĩa là chăm sóc cần phải được bắt đầu, được thực hiện, được đánh giá,
cải thiện và liên tục theo dõi kể cả khi người bệnh đã được điều trị khỏi bệnh. Chăm
sóc được mở rộng bao hàm cả việc duy trì sự khỏe mạnh, nâng cao sức khoẻ và phòng
bệnh. Hơn thế nữa, trong những trường hợp phải chuyển viện, cần phải bảo đảm các
cơ sở y tế sau tiếp nhận và tiếp tục chăm sóc người bệnh để bảo đảm tính liên tục của
việc chăm sóc. Sự chăm sóc ngắt quãng và một hệ thống tách rời không phải là hệ
thống chất lượng. Chất lượng y tế không bao giờ có thể có được trong một hệ thống
như vậy.Cuối cùng, khách hàng luôn luôn sẽ hài lòng hơn nếu dịch vụ chăm sóc được
cung ứng trong một môi trường chấp nhận được về đạo đức. Một cơ sở y tế tập trung
vào từng chi tiết nhỏ để mang lại sự thoải mái và sức khoẻ cho khách hàng chắc chắn
là một cơ sở có chất lượng. Có thể đó là sự sạch sẽ, cách trang trí, hoặc các dịch vụ gia
tăng, chất lượng chăm sóc y tế sẽ được tăng thêm nhờ đặc tính có giá trị như thế
2. CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC THEO QUAN ĐIỂM CỦA NGƯỜI
BỆNH/KHÁCH HÀNG, NHÂN VIÊN Y TẾ VÀ NHÀ QUẢN LÝ:
Tuỳ từng trường hợp, mỗi người sẽ hiểu khái niệm về chất lượng một cách khác nhau
tuỳ thuộc vào việc họ đại diện cho ai trong hệ thống y tế.
Chất lượng – từ góc độ của người bệnh hay khách hàng - liên quan đến loại hình chăm
sóc và tính hiệu quả của nó, có thể chú trọng hơn vào tính tiện ích như chẩn đoán đúng
bệnh, điều trị hiệu quả, an toàn, thái độ thân thiện, được đối xử tôn trọng, sự thoải mái,
sự sạch sẽ và sự sẵn có của nhiều dịch vụ phù hợp với túi tiền.
Nếu nhìn từ góc độ nhân viên y tế hoặc cơ sở y tế lại sẽ quan tâm nhiều hơn đến quy
trình khoa học của chăm sóc y tế, khả năng chẩn đoán và điều trị một ca bệnh mà ít để
ý đến tính tiện lợi và càng ít tập trung vào khía cạnh “chăm sóc”.
Nhà quản lý cũng có quan niệm khác về chất lượng. Họ có thể cho rằng chất lượng là
sự tiếp cận, hiệu lực, tính phù hợp, khả năng có thể chấp nhận được và hiệu quả trong
cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Chi phí là yếu tố quan trọng đối với nhà quản lý.
Vì vậy, khi phải định nghĩa chất lượng là gì, cần phải tính đến quan điểm khác nhau
của từng đối tượng. Nếu dựa trên các quy trình, nhiệm vụ và kỳ vọng về kết quả thực
hiện thì: “Chất lượng không có một cách ngẫu nhiên mà là kết quả của ý định quyết
đoán, nỗ lực nghiêm túc, hướng đi thông minh và sự thực thi khéo léo”. Chất lượng
không xảy ra một cách tình cờ mà đòi hỏi phải được lập kế hoạch, được nhắm tới và
phấn đấu để thực hiện. Lập kế hoạch là việc làm quan trọng để có được chất lượng.
Xác định được đúng mục tiêu, mục đích đúng đắn và các tiêu chí phù hợp là những
điều cần thiết để có được chất lượng. Tất nhiên, nỗ lực lập kế hoạch cần phải đi kèm
với sự toàn tâm, sự cống hiến để thực hiện kế hoạch và đạt được các mục tiêu đặt ra.
Song tất cả những điều này sẽ không trọn vẹn nếu không xem xét các khả năng và
chiến lược khác nhau để lựa chọn và làm theo. Đặt ra các ưu tiên và xác định được
chiến lược quan trọng nhất là một nhiệm vụ cần phải được hoàn thành để đáp ứng yêu
cầu về chất lượng. Hành động này phải được thực hiện với sự chính xác và với các kỹ
112
năng cần thiết để triển khai công việc một cách đúng đắn và có hiệu quả. Dựa trên các
nguyên tắc cơ bản của công tác lãnh đạo và quản lý thì:“Chất lượng là làm việc đúng
đắn ngay từ lần đầu tiên và làm điều đó tốt hơn trong những lần tiếp theo” Người ta
thường kỳ vọng người lãnh đạo phải làm việc đúng đắn ngay từ lần đầu tiên còn nhà
quản lý phải làm tốt và làm đúng điều đúng đắn đó. Một ví dụ trong lĩnh vực y tế là
người ta muốn một bác sĩ phải làm việc tốt, cung cấp chăm sóc sức khoẻ cho người
bệnh bằng cách đặt ra các câu hỏi phù hợp, tiến hành những tìm hiểu cần thiết và thực
hiện đúngquy trình. Song làm như vậy thôi là chưa đủ nếu không đi kèm với việc
làphải làm tất cả những điều đó đúng cách ngay từ nỗ lực đầu tiên. Nếu quá trình đó
lặp lại thì nhà cung cấp dịch vụ trở nên có kinh nghiệm hơn và do đó sẽ ngày càng trở
nên hiệu suất, hiệu quả hơn, tức là cải thiện chất lượng thường xuyên.
3. NGUYÊN TẮC CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH/ KHÁCH HÀNG TRONG BỆNH
VIỆN:
1. Người bệnh là trung tâm của công tác chăm sóc nên phải được chăm sóc toàn diện,
liên tục, bảo đảm hài lòng, chất lượng và an toàn.
2. Chăm sóc, theo dõi người bệnh là nhiệm vụ của bệnh viện, các hoạt động chăm sóc
điều dưỡng, theo dõi do điều dưỡng viên, hộ sinh viên thực hiện và chịu trách nhiệm.
3. Can thiệp điều dưỡng phải dựa trên cơ sở các yêu cầu chuyên môn và sự đánh giá
nhu cầu của mỗi người bệnh để chăm sóc phục vụ.
4. CÁC NỘI DUNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TẠI BỆNH VIỆN
4.1.Tư vấn, hướng dẫn giáo dục sức khỏe
1. Bệnh viện có quy định và tổ chức các hình thức tư vấn, hướng dẫn giáo dục sức
khỏe phù hợp.
2. Người bệnh nằm viện được điều dưỡng viên, hộ sinh viên tư vấn, giáo dục sức khỏe,
hướng dẫn tự chăm sóc, theo dõi, phòng bệnh trong thời gian nằm viện và sau khi ra
viện.
4.2. Chăm sóc về tinh thần
1. Người bệnh được điều dưỡng viên, hộ sinh viên và người hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh khác chăm sóc, giao tiếp với thái độ ân cần và thông cảm.
2. Người bệnh, người nhà người bệnh được động viên yên tâm điều trị và phối hợp với
người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh trong quá trình điều trị và chăm sóc.
3. Người bệnh, người nhà người bệnh được giải đáp kịp thời những băn khoăn, thắc
mắc trong quá trình điều trị và chăm sóc.
4. Bảo đảm an ninh, an toàn và yên tĩnh, tránh ảnh hưởng đến tâm lý và tinh thần của
người bệnh.
4.3. Chăm sóc vệ sinh cá nhân
1. Chăm sóc vệ sinh cá nhân cho người bệnh hằng ngày gồm vệ sinh răng miệng, vệ
sinh thân thể, hỗ trợ đại tiện, tiểu tiện và thay đổi đồ vải.
113
2. Trách nhiệm chăm sóc vệ sinh cá nhân:
a) Người bệnh cần chăm sóc cấp I do điều dưỡng viên, hộ sinh viên và hộ lý thực hiện;
b) Người bệnh cần chăm sóc cấp II và cấp III tự thực hiện dưới sự hướng dẫn của điều
dưỡng viên, hộ sinh viên và được hỗ trợ chăm sóc khi cần thiết.
4.4. Chăm sóc dinh dưỡng
1. Điều dưỡng viên, hộ sinh viên phối hợp với bác sĩ điều trị để đánh giá tình trạng
dinh dưỡng và nhu cầu dinh dưỡng của người bệnh.
2. Hằng ngày, người bệnh được bác sĩ điều trị chỉ định chế độ nuôi dưỡng bằng chế độ
ăn phù hợp với bệnh lý.
3. Người bệnh có chế độ ăn bệnh lý được cung cấp suất ăn bệnh lý tại khoa điều trị và
được theo dõi ghi kết quả thực hiện chế độ ăn bệnh lý vào Phiếu chăm sóc.
4. Người bệnh được hỗ trợ ăn uống khi cần thiết. Đối với người bệnh có chỉ định ăn
qua ống thông phải do điều dưỡng viên, hộ sinh viên trực tiếp thực hiện.
4.5. Chăm sóc phục hồi chức năng
1. Người bệnh được điều dưỡng viên, hộ sinh viên hướng dẫn, hỗ trợ luyện tập và
phục hồi chức năng sớm để đề phòng các biến chứng và phục hồi các chức năng của
cơ thể.
2. Phối hợp khoa lâm sàng và khoa Vật lý trị liệu - Phục hồi chức năng để đánh giá, tư
vấn, hướng dẫn và thực hiện luyện tập, phục hồi chức năng cho người bệnh.
4.6. Chăm sóc người bệnh có chỉ định phẫu thuật, thủ thuật
1. Người bệnh được điều dưỡng viên, hộ sinh viên hướng dẫn và hỗ trợ thực hiện
chuẩn bị trước phẫu thuật, thủ thuật theo yêu cầu của chuyên khoa và của bác sĩ điều
trị.
2. Trước khi đưa người bệnh đi phẫu thuật, thủ thuật, điều dưỡng viên, hộ sinh viên
phải:
a) Hoàn thiện thủ tục hành chính;
b) Kiểm tra lại công tác chuẩn bị người bệnh đã được thực hiện theo yêu cầu của phẫu
thuật, thủ thuật;
c) Đánh giá dấu hiệu sinh tồn, tình trạng người bệnh và báo cáo lại cho bác sĩ điều trị
nếu người bệnh có diễn biến bất thường.
3. Điều dưỡng viên hoặc hộ sinh viên hoặc hộ lý chuyển người bệnh đến nơi làm phẫu
thuật, thủ thuật và bàn giao người bệnh, hồ sơ bệnh án cho người được phân công chịu
trách nhiệm tiếp nhận của đơn vị thực hiện phẫu thuật hoặc thủ thuật.
4.7. Dùng thuốc và theo dõi dùng thuốc cho người bệnh
Khi dùng thuốc cho người bệnh, điều dưỡng viên, hộ sinh viên phải:
1. Dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ điều trị.

114
2. Chuẩn bị đủ và phù hợp các phương tiện cho người bệnh dùng thuốc; khi dùng
thuốc qua đường tiêm phải chuẩn bị sẵn sàng hộp thuốc cấp cứu và phác đồ chống sốc,
chuẩn bị đúng và đủ dung môi theo quy định của nhà sản xuất.
3. Kiểm tra thuốc (tên thuốc, nồng độ/hàm lượng, liều dùng một lần, số lần dùng thuốc
trong 24 giờ, khoảng cách giữa các lần dùng thuốc, thời điểm dùng thuốc và đường
dùng thuốc so với y lệnh). Kiểm tra hạn sử dụng và chất lượng của thuốc bằng cảm
quan: màu sắc, mùi, sự nguyên vẹn của viên thuốc, ống hoặc lọ thuốc.
4. Hướng dẫn, giải thích cho người bệnh tuân thủ điều trị.
5. Thực hiện 5 đúng khi dùng thuốc cho người bệnh: đúng người bệnh, đúng thuốc,
đúng liều lượng, đúng đường dùng, đúng thời gian dùng thuốc.
6. Bảo đảm người bệnh uống thuốc ngay tại giường bệnh trước sự chứng kiến của điều
dưỡng viên, hộ sinh viên.
7. Theo dõi, phát hiện các tác dụng không mong muốn của thuốc, tai biến sau dùng
thuốc và báo cáo kịp thời cho bác sĩ điều trị.
8. Ghi hoặc đánh dấu thuốc đã dùng cho người bệnh và thực hiện các hình thức công
khai thuốc phù hợp theo quy định của bệnh viện.
9. Phối hợp giữa các bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng viên, hộ sinh viên trong dùng thuốc
nhằm tăng hiệu quả điều trị bằng thuốc và hạn chế sai sót trong chỉ định và sử dụng
thuốc cho người bệnh.
4.8. Chăm sóc người bệnh giai đoạn hấp hối và người bệnh tử vong
1. Người bệnh ở giai đoạn hấp hối được bố trí buồng bệnh thích hợp, thuận tiện cho
việc chăm sóc, điều trị tránh ảnh hưởng đến người bệnh khác.
2. Thông báo và giải thích với người nhà người bệnh về tình trạng bệnh của người
bệnh và tạo điều kiện để người nhà người bệnh ở bên cạnh người bệnh.
3. Động viên, an ủi người bệnh và người nhà người bệnh.
4. Khi người bệnh tử vong, điều dưỡng viên hoặc hộ sinh viên phối hợp với hộ lý thực
hiện vệ sinh tử thi và thực hiện các thủ tục cần thiết như quản lý tư trang của người
bệnh tử vong, bàn giao tử thi cho nhân viên nhà đại thể.
4.9. Thực hiện các kỹ thuật điều dưỡng
1. Bệnh viện có các quy định, quy trình kỹ thuật điều dưỡng phù hợp, cập nhật trên cơ
sở các quy định, hướng dẫn của Bộ Y tế.
2. Điều dưỡng viên, hộ sinh viên phải tuân thủ quy trình kỹ thuật chuyên môn, kỹ
thuật vô khuẩn.
3. Điều dưỡng viên, hộ sinh viên thực hiện các biện pháp phòng ngừa, theo dõi phát
hiện và báo cáo kịp thời các tai biến cho bác sĩ điều trị để xử trí kịp thời.
4. Dụng cụ y tế dùng trong các kỹ thuật, thủ thuật xâm lấn phải bảo đảm vô khuẩn và
được xử lý theo Điều 2 và Điều 3 của Thông tư số 18/2009/TT-BYT ngày 14/10/2009

115
của Bộ Y tế về Hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong
các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và các quy định khác về kiểm soát nhiễm khuẩn.
4.10. Theo dõi, đánh giá người bệnh
1. Người bệnh đến khám bệnh được điều dưỡng viên, hộ sinh viên khoa Khám bệnh
đánh giá ban đầu để sắp xếp khám bệnh theo mức độ ưu tiên và theo thứ tự.
2. Điều dưỡng viên, hộ sinh viên phối hợp với bác sĩ điều trị để đánh giá, phân cấp
chăm sóc và thực hiện chăm sóc, theo dõi phù hợp cho từng người bệnh.
3. Người bệnh cần chăm sóc cấp I được bác sĩ điều trị, điều dưỡng viên, hộ sinh viên
nhận định nhu cầu chăm sóc để thực hiện những can thiệp chăm sóc phù hợp.
4. Bệnh viện có quy định cụ thể về theo dõi, ghi kết quả theo dõi dấu hiệu sinh tồn và
các can thiệp điều dưỡng phù hợp với tính chất chuyên môn và yêu cầu của từng
chuyên khoa.
5. Người bệnh được đánh giá và theo dõi diễn biến bệnh, nếu phát hiện người bệnh có
dấu hiệu bất thường, điều dưỡng viên, hộ sinh viên và kỹ thuật viên phải có ngay hành
động xử trí phù hợp trong phạm vi hoạt động chuyên môn và báo cáo cho bác sĩ điều
trị để xử trí kịp thời.
4.11. Bảo đảm an toàn và phòng ngừa sai sót chuyên môn kỹ thuật trong chăm
sóc người bệnh
1. Bệnh viện xây dựng và thực hiện những quy định cụ thể về an toàn cho người bệnh
phù hợp với mô hình bệnh tật của từng chuyên khoa.
2. Điều dưỡng viên, hộ sinh viên thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn
bệnh viện, bảo đảm an toàn, tránh nhầm lẫn cho người bệnh trong việc dùng thuốc,
phẫu thuật và thủ thuật.
3. Bệnh viện thiết lập hệ thống thu thập và báo cáo các sự cố, nhầm lẫn, sai sót chuyên
môn kỹ thuật tại các khoa và toàn bệnh viện. Định kỳ phân tích, báo cáo các sự cố, sai
sót chuyên môn kỹ thuật trong chăm sóc và có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
4.12. Ghi chép hồ sơ bệnh án
1. Tài liệu chăm sóc người bệnh trong hồ sơ bệnh án gồm: phiếu theo dõi chức năng
sống, phiếu điều dưỡng và một số biểu mẫu khác theo Quyết định số 4069/QĐ-BYT
ngày 28/9/2001 về việc ban hành mẫu hồ sơ bệnh án của Bộ Y tế và theo tính chất
chuyên khoa do bệnh viện quy định.
2. Tài liệu chăm sóc người bệnh trong hồ sơ bệnh án phải bảo đảm các yêu cầu sau:
a) Ghi các thông tin về người bệnh chính xác và khách quan.
b) Thống nhất thông tin về công tác chăm sóc người bệnh của điều dưỡng viên, hộ
sinh viên và của bác sĩ điều trị. Những khác biệt trong nhận định, theo dõi và đánh giá
tình trạng người bệnh phải được kịp thời trao đổi và thống nhất giữa những người trực
tiếp chăm sóc, điều trị người bệnh;
c) Ghi đầy đủ, kịp thời diễn biến bệnh và các can thiệp điều dưỡng.
116
3. Hồ sơ bệnh án phải được lưu trữ theo quy định tại Khoản 3 Điều 59 của Luật Khám
bệnh, chữa bệnh.
II. ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC CỦA HỘ SINH
1. TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC
Tiêu chuẩn 1: Hệ thống quản lý điều dưỡng được thiết lập và hoạt động hiệu quả (24
tiêu chí)
Tiêu chuẩn 2: Người bệnh được điều dưỡng, hộ sinh hướng dẫn, tư vấn và giáo dục
sức khỏe trong quá trình nằm viện và lúc ra viện (14 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 3: Người bệnh được chăm sóc phù hợp với tình trạng bệnh và phân cấp
chăm sóc (13 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 4: Các quy trình kỹ thuật CSNB của ĐD, HS, KTV được chuẩn hóa, cập
nhật và đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt (10 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 5: Người bệnh nhập viện được ĐD, HS đánh giá xác định nhu cầu chăm
sóc, theo dõi liên tục và ghi bệnh án theo quy định (17 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 6: Người bệnh được ĐD, HS dùng thuốc theo đúng chỉ định, đảm bảo an
toàn và hiệu quả (17 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 7: Người bệnh có chỉ định phẫu thuật, thủ thuật được ĐD, HS hướng dẫn
và hỗ trợ thực hiện chuẩn bị trước phẫu thuật, thủ thuật theo yêu cầu của chuyên khoa
(20 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 8: Đào tạo phát triển năng lực điều dưỡng, hộ sinh đáp ứng yêu cầu
chuyên môn kỹ thuật của bệnh viện và tiến bộ trong chăm sóc sức khỏe (16 tiêu chí)
Tiêu chuẩn 9: Người bệnh được ĐD, HS, KTV chăm sóc, giao tiếp ứng xử với thái độ
ân cần, thông cảm (14 tiêu chí)
2. THỰC HIỆN KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG CHĂM SÓC
Kiểm định chất lượng: Kiểm định chất lượng là quá trình độc lập, có hệ thống, được
ghi lại bằng văn bản với các hoạt động kiểm tra/điều tra áp dụng có mục đích đối với
bất kỳ quy trình/hoạt động nào nhằm xác định xem: (1) Các hoạt động chất lượng và
kết quả liên quan có tuân theo văn bản của hệ thống quản lý; (2) Các thủ tục trong văn
bản về chất lượng có được thực thi một cách hiệu quả và phù hợp để đạt được các mục
tiêu mong muốn không Điều kiện tiên quyết để kiểm định có hiệu quả:
- Kiểm định viên phải thành thạo trong lĩnh vực kiểm định
- Kiểm định viên không được kiểm định công việc của chính họ nhằm đưa ra một bản
báo cáo kiểm định không định kiến. Kiểm định chất lượng dịch vụ là kiểm định đánh
giá những hoạt động cần thiết để cung cấp một dịch vụ. Kiểm định hệ thống chất
lượng là kiểm định đánh giá hệ thống hỗ trợ việc cải tiến chất lượng liên tục
Kiểm định chất lượng có 3 loại:

117
1) Kiểm định của bên thứ nhất (nội bộ) Do tổ chức/đơn vị sử dụng để đánh giá hiệu
quả của hệ thống QLCL của chính tổ chức/đơn vị mình nhằm: Xác định các điểm yếu,
điểm mạnh trong hệ thống;
- Giám sát việc phát triển và thực hiện của hệ thống QLCL;
- Phát hiện những điểm khôgn thích hợp và thực hiện hành động điều chỉnh để chuẩn
bị cho cuộc kiểm định của bên ngoài;
- Giám sát việc duy trì và hiệu quả của hệ thống QLCL;
- Chỉ rõ và giải quyết các vấn đề về chất lượng. Tần suất kiểm định nội bộ tùy thuộc:
- Quy mô của tổ chức/đơn vị;
- Tình trạng và tầm quan trọng của quá trình/hoạt động/chức năng;
- Tính phức tạp của dịch vụ;
- Kết quả phát hiện của cuộc kiểm định trước;
- Có kiểm định viên thành thạo hay không
2) Kiểm định của bên thứ hai (bên ngoài) Là kiểm định của cơ quan quản lý hoặc theo
đòi hỏi của khách hàng nhằm:
- Đảm bảo dịch vụ được tiếp tục duy trì và cải tiến;
- Giải quyết những trục trặc/vấn đề về chất lượng.
3) Kiểm định của bên thứ 3 (bên ngoài)
Là kiểm định do cơ quan/tổ chức độc lập hoặc cơ quan/tổ chức chứng nhận chất lượng
thực hiện, chú trọng sự phù hợp với các tiêu chuẩn và việc thực hiện tiêu chuẩn. Kiểm
định bên ngoài có thể bắt buộc nếu kiểm định do cơ quan pháp luật thực hiện hoặc tự
nguyện do cơ quan/tổ chức chứng nhận chất lượng thực hiện. Tần suất kiểm định bên
ngoài là từ 1-3 năm tùy thuộc khi nào có yêu cầu của cơ quan quản lý, khách hàng
hoặc nhu cầu về cấp giấy chứng nhận. Có 2 phương pháp hiện nay được sử dụng nhiều
trong kiểm định chất lượng dịch vụ y tế, đó là:
1) Đánh giá mức tuân thủ quy trình:Tuân thủ là một trạng thái, hành vi phù hợp với
hướng dẫn chuyên môn, quy trình kỹ thuật và văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
hoặc quá trình để đạt được trạng thái như vậy. Phương pháp này có thể xác định vấn
đề tuân thủ cho từng yếu tố hoặc quy trình Ví dụ: dịch vụ phù hợp được cấp phép, quy
trình thông số kỹ thuật chuyên môn phù hợp với tiêu chuẩn 2) Phương pháp đánh dấu
(Patient tracer and system tracer): Đánh dấu là một phương pháp đánh giá, trong đó
điều tra viên chọn một người bệnh hoặc khách hàng, quan sát và ghi chép lại toàn bộ
lộ trình di chuyển tại một đơn vị/tổ chức để đánh giá chất lượng và đánh giá sự tuân
thủ của đơn vị/tổ chức theo các tiêu chuẩn đã lựa chọn và các hệ thống cung cấp dịch
vụ của đơn vị/tổ chức đó.
Phương pháp này có thể khảo sát hồi cứu các quy trình mà một cá nhân đã có kinh
nghiệm trải qua bằng cách quan sát và nói chuyện với nhân viên trực tiếp thực hiện
dịch vụ cho cá nhân đó hoặc điều tra viên trực tiếp khảo sát, đi theo một quy trình, quá
118
trình điều trị nội trú của người bệnh, qua đó đánh giá việc tuân thủ của cơ sở y tế với
tiêu chuẩn và xem xét cả hệ thống của cơ sở y tế đó cung cấp dịch vụ có an toàn, chất
lượng hay không. Trong khi tiến hành các hoạt động đánh dấu, các điều tra viên có thể
xác định các vấn đề tuân thủ, đánh giá hiệu suất cho một hoặc nhiều yếu tố, quy trình.
Điều tra viên sẽ xem xét các xu hướng tuân thủ, có thể chỉ ra các vấn đề tiềm ẩn cấp hệ
thống trong cơ sở y tế. Các hoạt động đánh dấu cũng cung cấp nhiều cơ hội cho điều
tra viên cung cấp thông tin cho các nhà lãnh đạo, đào tạo nhân viên của cơ sở y tế,
cũng như chia sẻ kinh nghiệm từ các cơ sở y tế tương tự khác.
CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ
Câu 1. Tuỳ từng trường hợp, mỗi người sẽ hiểu khái niệm về chất lượng một cách ...
(A)...tuỳ thuộc vào việc họ ...(B)... trong hệ thống y tế.
A......
B.....
Câu 2. Chất lượng – từ góc độ của người bệnh hay khách hàng- liên quan đến ...(A)...
và tính ...(B)...của nó, có thể chú trọng hơn vào tính tiện ích (thái dộ chăm sóc, chi phí
phù hợp)
Câu 3. Nhà quản lý cũng có quan niệm khác về chất lượng. Họ có thể cho rằng chất
lượng là sự tiếp cận, tính phù hợp, khả năng có thể chấp nhận được và ...( A)... trong
cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. ...(B)...là yếu tố quan trọng đối với nhà quản lý.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Y tế (2014). Tài liệu hướng dẫn đào tạo liên tục chăm sóc người bệnh toàn diện.
2. Cục QLKCB-JICA, (2012). Tài liệu đào tạo Quản lý điều dưỡng
3. Thông tư 07/2011/TT-BYT của Bộ Y tế về việc hướng dẫn điều dưỡng về chăm sóc
người bệnh trong bệnh viện.
4. Tài liệu Quản lý điều dưỡng, Nhà xuất bản Y học 2004
5. A Nurse’s Role in Patient-Centered Care https://online.maryville.edu/blog/patient-
centered-care-in-2017-a-guide-for-nurses/
6. What Is Patient-Centered Care? https://catalyst.nejm.org/what-is-patient-centered-
care/
8. Viện Y khoa Hoa Kỳ. Crossing the Quality Chasm: A NewHealth System for the
21st Century, 2001.
9. Tổ chức Y tế Thế giới. Performance Assessment Tool for Quality Improvement in
Hospital, 2007:
10. Viện nghiên cứu hệ thống y tế-Bộ Y tế Malaysia. Promoting for Quality of
Healthcare. 2004.
11. Juran Joseph M. ; Godfrey Blanton A. Juran’s Quality Handbook. Fifth edition,
1999.
12. USAID. A Modern Paradign for Improving Healthcare Quality (2002), pages: 51-
76.

119
13. USAID. Quality Assurance Project. Monitoring the Quality of Hospital Care.
14. American College of Medical Quality. Medical Quality Management-Theory and
Practice, 2010.
15.http://asq.org/learn-about-quality/cause-analysistools/overview/pareto.html

120
CHUYÊN ĐỀ 3
AN TOÀN NGƯỜI BỆNH

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 08 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


Sau khi học xong bài này, học viên có khả năng:
1. Giải thích được các thuật ngữ liên quan về an toàn người bệnh
2. Trình bày được tần suất sự cố y khoa và hậu quả
3. Phân loại được các nguyên nhân sự cố y khoa không mong muốn
4. Trình bày được các giải pháp bảo đảm an toàn người bệnh.

NỘI DUNG
1. TỔNG QUAN VỀ AN TOÀN NGƯỜI BỆNH
1.1. Mở đầu
Bệnh viện là nơi tập trung người bệnh để điều trị, nơi các thầy thuốc đưa ra các
chẩn đoán (cho phép sai số), các quyết định phương pháp điều trị; nơi diễn ra các phẫu
thuật, thủ thuật xâm lấn, nơi người bệnh sử dụng các dược chất, hóa chất, văc xin để
điều trị, nơi có nhiều trẻ được sinh ra và cũng là nơi chứng kiến nhiều người bệnh qua
đời. Hơn thế nữa, bệnh viện là nơi các thầy thuốc thường xuyên bị áp lực công việc do
tình trạng quá tải và áp lực về tâm lí, vì vậy, sự cố y khoa không mong muốn là điều
khó tránh và trong nhiều trường hợp ngoài tầm kiểm soát. Có thể khẳng định rằng ở
bất cứ công đoạn nào của mọi quy trình khám bệnh, chữa bệnh đều chứa đựng các
nguy cơ tiềm tàng cho người bệnh. Khi sự cố y khoa không mong muốn xảy ra, cả
người bệnh và thầy thuốc đều là nạn nhân, đặc biệt đối với người bệnh phải gánh chịu
thêm hậu quả của các sự cố y khoa không mong muốn làm ảnh hưởng tới sức khỏe
hoặc bị khuyết tật tạm thời hay vĩnh viễn, thậm chí chết người, chẳng khác gì tai nạn
chồng lên tai nạn.
Ở nước ta, một số sự cố y khoa không mong muốn xảy ra gần đây gây sự quan
tâm theo dõi của toàn xã hội đối với ngành y tế. Khi sự cố y khoa không mong muốn
xảy ra, người bệnh và gia đình người bệnh trở thành nạn nhân, phải gánh chịu hậu quả
tổn hại tới sức khỏe, tính mạng, tài chính, tai nạn chồng lên tai nạn. Và các cán bộ y tế
liên quan trực tiếp tới sự cố y khoa không mong muốn cũng là nạn nhân trước những
áp lực của dư luận xã hội và cũng cần được hỗ trợ về tâm lý khi rủi ro nghề nghiệp xảy
ra.

121
1.2. Các thuật ngữ
Lỗi - Error: Thực hiện công việc không đúng quy định hoặc áp dụng các quy
định không phù hợp.
Sự cố - Event: Điều bất trắc xảy ra với người bệnh hoặc liên quan tới người bệnh
Tác hại - Harm: Suy giảm cấu trúc hoặc chức năng của cơ thể hoặc ảnh hưởng
có hại phát sinh từ sự cố đã xảy ra. Tác hại bao gồm: bệnh, chấn thương, đau đớn, tàn
tật và chết người.
Sự cố không mong muốn - Adverse Events (AE): Y văn của các nước sử dụng
thuật ngữ “sự cố không mong muốn” ngày càng nhiều vì các thuật ngữ “sai sót chuyên
môn, sai lầm y khoa” dễ hiểu sai lệch về trách nhiệm của cán bộ y tế và trong thực tế
không phải bất cứ sự cố nào xảy ra cũng do cán bộ y tế.
- Theo WHO: Sự cố không mong muốn là tác hại liên quan đến quản lý y tế
(khác với biến chứng do bệnh) bao gồm các lĩnh vực chẩn đoán, điều trị, chăm sóc, sử
dụng trang thiết bị y tế để cung cấp dịch vụ y tế. Sự cố y khoa có thể phòng ngừa và
không thể phòng ngừa.
- Theo Bộ sức khỏe và dịch vụ con người của Mỹ: Sự cố không mong muốn gây
hại cho người bệnh do hậu quả của chăm sóc y tế hoặc trong y tế. Để đo lường sự cố y
khoa các nhà nghiên cứu y học của Mỹ dựa vào 3 nhóm tiêu chí. (1) Các sự cố thuộc
danh sách các sự cố nghiêm trọng; (2) Các tình trạng/vấn đề sức khỏe người bệnh mắc
phải trong bệnh viện; Và (3) sự cố dẫn đến 1 trong 4 thiệt hại nghiêm trọng cho người
bệnh nằm trong Bảng 4 Phân loại mức độ nguy hại cho người bệnh từ F-I, bao gồm:
kéo dài ngày điều trị, để lại tổn thương vĩnh viễn, phải can thiệp cấp cứu và chết
người.
1.3. Vài nét về thực trạng sự cố y khoa
1.3.1. Trên thế giới
Theo các nhà nghiên cứu y học Mỹ, lĩnh vực y khoa là lĩnh vực có nhiều rủi ro
nhất đối với khách hàng. Các chuyên gia y tế Mỹ nhận định “Chăm sóc y tế tại Mỹ
không an toàn như người dân mong đợi và như hệ thống y tế có thể, ít nhất 44.000 –
98.000 người tử vong trong các bệnh viện của Mỹ hàng năm do các sự cố y khoa. Số
người chết vì sự cố y khoa trong các bệnh viện của Mỹ, cao hơn tử vong do tai nạn
giao thông, Ung thư vú, tử vong do HIV/AIDS là ba vấn đề sức khỏe mà người dân
Mỹ quan tâm hiện nay. Tiếp theo nghiên cứu của Viện Y học Mỹ (Institute of
Medicine) các nước như Úc, Anh, Canada,.. đã tiến hành nghiên cứu sự cố y khoa và
đã công bố kết quả như sau:
Bảng 1. Sự cố y khoa tại Mỹ và các nước phát triển
Nghiên cứu Năm Số NB Số Tỷ lệ
NC sự cố (%)

1. Mỹ (Harvard Medical Practice Study ) 1989 30.195 1133 3,8


2. Mỹ (Utah-Colorado Study) 1992 14.565 475 3,2
122
3. Mỹ (Utah-Colorado Study)* 1992 14.565 787 5,4
4. Úc ( Quaility in Australia Health Case Study) 1992 14,179 2353 16,6
5. Úc (Quaility in Australia Health Case Study)** 1992 14,179 1499 10,6

6. Anh 2000 1014 119 11,7


7. Đan Mạch 1998 1097 176 9,0
Ghi chú: * Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Úc;
** Áp dụng phương pháp nghiên cứu của Mỹ.
Bảng 2. Sự cố y khoa trong phẫu thuật tại Bang Minnesota – Mỹ
Loại sự cố Số lượng Tỷ lệ %
1. Để sót gạc dụng cụ 31 37,0
2. Phẫu thuật nhầm bộ phận cơ thể 27 32,0
3. Chỉ định phẫu thuật sai 26 31,0
4. Phẫu thuật nhầm người bệnh 0 0,0
5. Tử vong trong và ngay sau khi phẫu thuật 0 0,0
Tổng 84 100
Nguồn: Adverse Health Events in Minnesota: Ninth annual Public report, January
2013.
Sự cố y khoa do phẫu thuật: WHO ước tính hàng năm có khoảng 230 triệu phẫu
thuật. Các nghiên cứu ghi nhận tử vong trực tiếp liên quan tới phẫu thuật từ 0,4-0,8%
và biến chứng do phẫu thuật từ 3-16%. Theo Viện nghiên cứu Y học Mỹ và Úc gần
50% các sự cố y khoa không mong muốn liên quan đến người bệnh có phẫu thuật.
Sự cố y khoa liên quan tới nhiễm khuẩn bệnh viện: WHO công bố NKBV từ 5-
15% người bệnh nội trú và tỷ lệ NKBV tại các khoa điều trị tích cực từ 9-37%; Tỷ lệ
NKBV chung tại Mỹ chiếm 4,5%. Năm 2002, theo ước tính của CDC tại Mỹ có 1,7
triệu người bệnh bị NKBV, trong đó 417,946 người bệnh NKBV tại các khoa hồi sức
tích cực (24,6%).
1.3.2. Sự cố y khoa tại Việt Nam
Bảng 3. Nhiễm trùng bệnh viện tại một số bệnh viện Việt Nam.
Nghiên cứu Năm NKBV %
Nguyễn Thanh Hà và cộng sự (6BV phía Nam) 2005 5,6
Nguyễn Việt Hùng (36BV phía Bắc) 2006 7,8
Trần Hữu Luyện. Giám sát NKVM của 1000 NB có phẫu 2008 4,3
thuật tại BVTW Huế.
123
Lê Thị Anh Thư. Giám sát VPBV liên quan thở máy của 2011 39,4
170NB tại BV Chợ Rẫy.
Nguồn: Báo cáo KSNK Bộ Y tế / Bệnh viện Bạch mai tổ chức năm 2005, 2008, 2012
Các nghiên cứu của các bệnh viện về nhiễm khuẩn bệnh viện được báo cáo trong
các hội nghị, hội thảo về KSNK cho thấy nhiễm khuẩn bệnh viện hiện mắc từ 4,5%-
8% người bệnh nội trú.
1.4. Phân loại sự cố y khoa
1.4.1. Phân loại sự cố y khoa theo mức độ nguy hại đối với người bệnh
Theo kinh nghiệm của một số nước, sự cố y khoa được phân loại theo các cách
khác nhau, tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Bao gồm phân loại theo mức độ nguy hại
của người bệnh, theo theo tính chất nghiêm trọng của sự cố làm cơ sở để đo lường và
đánh giá mức độ nguy hại cho người bệnh10.
Bảng 4. Phân loại sự cố y khoa theo mức độ nguy hại
Mức Mô tả Mức độ nguy hại
độ
A Sự cố xảy ra có thể tạo ra lỗi/sai sót Không nguy hại
cho NB
B Sự cố đã xảy ra nhưng chưa thực hiện trên NB
C Sự cố đã xảy ra trên NB nhưng không gây hại
D Sự cố đã xảy ra trên NB đòi hỏi phải theo dõi
E Sự cố xảy ra trên NB gây tổn hại sức khỏe tạm thời
đòi hỏi can thiệp chuyên môn Nguy hại cho NB
F Sự cố xảy ra trên NB ảnh hưởng tới sức khỏe hoặc kéo
dài ngày nằm viện
G Sự cố xảy ra trên NB dẫn đến tàn tật vĩnh viễn
H Sự cố xảy ra trên NB phải can thiệp để cứu sống NB
I Sự cố xảy ra trên người bệnh gây tử vong
Nguồn: NCC MERP Index, Medication Errors Council Revises and Expended
Index for categorizing Errors, June 12,2001.
1.4.2. Danh mục các sự cố y khoa cơ sở y tế phải báo cáo
Bảng 5. Danh mục các sự cố y khoa nghiêm trọng phải báo cáo10
1) Sự cố do phẫu thuật, thủ thuật
- Phẫu thuật nhầm vị trí trên người bệnh
- Phẫu thuật nhầm người bệnh
- Phẫu thuật sai phương pháp trên người bệnh
- Sót gạc dụng cụ
124
- Tử vong trong hoặc ngay sau khi phẫu thuật thường quy
2) Sự cố do môi trường
- Bị shock do điện giật
- Bị bỏng trong khi điều trị tại bệnh viện
- Cháy nổ ôxy, bình ga, hóa chất độc hại..
3) Sự cố liên quan tới chăm sóc
- Dùng nhầm thuốc ( sự cố liên quan 5 đúng)
- Nhầm nhóm máu hoặc sản phẩm của máu
- Sản phụ chuyển dạ hoặc chấn thương đối với sản phụ có nguy cơ thấp
- Bệnh nhân bị ngã trong thời gian nằm viện
- Loét do tỳ đè giai đoạn 3-4 và xuất hiện trong khi nằm viện
- Thụ tinh nhân tạo nhầm tinh trùng hoặc nhầm trứng
- Không chỉ định xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh dẫn đến xử lý không kịp thời
- Hạ đường huyết
- Vàng da ở trẻ trong 28 ngày đầu
- Tai biến do tiêm/chọc dò tủy sống
4) Sự cố liên quan tới quản lý người bệnh
- Giao nhầm trẻ sơ sinh lúc xuất viện
- Người bệnh gặp sự cố y khoa ở ngoài cơ sở y tế
- Người bệnh chết do tự tử, tự sát hoặc tự gây hại
5) Sự cố liên quan tới thuốc và thiết bị
- Sử dụng thuốc bị nhiễm khuẩn, thiết bị và chất sinh học
- Sử dụng các thiết bị hỏng/thiếu chính xác trong điều trị và chăm sóc
- Đặt thiết bị gây tắc mạch do không khí
6) Sự cố liên quan tới tội phạm
- Do thầy thuốc, NVYT chủ định gây sai phạm
- Bắt cóc người bệnh
- Lạm dụng tình dục đối với người bệnh trong cơ sở y tế
Nguồn: NQF, Serious Reportable Event in Health Care 2006 update.
1.4.3. Phân loại sự cố y khoa theo đặc điểm chuyên môn
Hiệp hội an toàn người bệnh Thế giới phân loại sự cố y khoa theo 6 nhóm sự cố
gồm:

125
1) Nhầm tên người bệnh
2) Thông tin bàn giao không đầy đủ
3) Nhầm lẫn liên quan tới phẫu thuật
4) Nhầm lẫn liên quan tới các thuốc có nguy cơ cao
5) Nhiễm trùng bệnh viện
6) Người bệnh ngã
1.5. Các yếu tố liên quan đến sự cố y khoa
Theo các nhà nghiên cứu, các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa gồm: Yếu tố
người hành nghề, yếu tố chuyên môn, yếu tố môi trường công việc và yếu tố liên quan
tới quản lý và điều hành cơ sở y tế
1.5.1. Yếu tố con người
a) Sai sót không chủ định
- Do thiếu tập trung khi thực hiện các công việc thường quy (bác sĩ ghi hồ sơ
bệnh án, điều dưỡng tiêm và phát thuốc cho người bệnh..). Các sai lầm này không liên
quan tới kiến thức, kỹ năng của người hành nghề mà thường liên quan tới các thói
quen công việc
- Do quên ( bác sĩ quên không chỉ định các xét nghiệm cấp để chẩn đoán, điều
dưỡng viên quên không bàn giao thuốc, quên không lấy bệnh phẩm xét nghiệm,..)
- Do tình cảnh của người hành nghề ( mệt mỏi, ốm đau, tâm lý,..)
- Do kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp hạn chế áp dụng các quy định chuyên
môn không phù hợp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp sự cố y khoa không mong
muốn xảy ra ngay đối với các thầy thuốc có kinh nghiệm nhất và đang trong lúc thực
hiện công việc chuyên môn có trách nhiệm với người bệnh.
b) Sai sót chuyên môn
- Cắt xén hoặc làm tắt các quy trình chuyên môn
- Vi phạm đạo đức nghề nghiệp
1.5.2. Đặc điểm chuyên môn y tế bất định
- Bệnh tật của người bệnh diễn biến, thay đổi
- Y học là khoa học chẩn đoán luôn kèm theo xác suất
- Can thiệp nhiều thủ thuật, phẫu thuật trên người bệnh dẫn đến rủi ro và biến
chứng bất khả kháng
- Sử dụng thuốc, hóa chất đưa vào cơ thể dễ gây sốc phản vệ, phản ứng v.v,..
1.5.3. Môi trường làm việc nhiều áp lực
- Môi trường vật lý ( tiếng ồn, nhiệt độ, diện tích..)
- Môi trường công việc ( quá tải, thiếu nhân lực, thiếu phương tiện..); Môi
trường tâm lý (tiếp xúc với người ốm, tâm lý luôn căng thẳng…)
1.5.4. Quản lý và điều hành dây chuyền khám chữa bệnh
126
- Một số chính sách, cơ chế vận hành bệnh viện đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ có
thể làm gia tăng sự cố y khoa liên quan tới BHYT, tự chủ, khoán quản làm tăng lạm
dụng dịch vụ y tế.
- Tổ chức cung cấp dịch vụ: Dây chuyền khám chữa bệnh khá phức tạp, ngắt
quãng, nhiều đầu mối, nhiều cá nhân tham gia trong khi hợp tác chưa tốt.
- Thiếu nhân lực nên bố trí nhân lực không đủ để bảo đảm chăm sóc người bệnh
24 giờ/24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần. Các ngày cuối tuần, ngày lễ việc chăm sóc, theo
dõi người bệnh chưa bảo đảm liên tục.
- Đào tạo liên tục chưa tiến hành thường xuyên
- Kiểm tra giám sát chưa hiệu quả, thiếu khách quan.
Sơ đồ mô tả các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa
YẾU TỐ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH
Chính sách, cơ chế vận hành, tổ chức cung cấp dịch vụ, bố trí
nguồn lực, đào tạo nhân viên và kiểm tra, giám sát

YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG NƠI LÀM VIỆC


Môi trường vật lý (ánh sáng, nhiệt độ, tiếng ồn, nơi làm việc
chật hẹp), quá tải công việc, áp lực tâm lý

YẾU TỐ CHUYÊN MÔN


Bệnh bất định, xác suất, dùng thuốc, phẫu thuật, thủ
thuật dễ gây phản ứng

YẾU TỐ NGƯỜI HÀNH NGHỀ


Kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức nghề
nghiệp, sức khỏe, tâm lý..

SỰ CỐ XẢY RA

Sơ đồ 1. Các yếu tố liên quan tới sự cố y khoa

1.6. Phân tích nguyên nhân gốc

127
1.6.1. Mô hình phân tích nguyên nhân sự cố theo Reason J. Cathey

Lỗi hoạt động (active errors)

Nguy

Sự cố Lỗi hệ thống (Latent conditions)

Mô hình các lớp hàng rào bảo vệ của hệ thống phòng ngừa sự cố y khoa
Nguồn: Reason J. Carthey, Diagnosing vulnerable system sysdrome
Trong y tế, lỗi hoạt động (active errors) liên quan trực tiếp tới người hành nghề
vì họ ở lớp hàng rào phòng ngự cuối cùng trực tiếp với người bệnh. Khi sự cố xảy ra
người làm công tác khám chữa bệnh trực tiếp (bác sĩ, điều dưỡng, hộ sinh…) dễ bị gán
lỗi. Tuy nhiên, các yếu tố hệ thống (latent factors) có vai trò rất quan trọng liên quan
tới các sự cố đó là công tác quản lý, tổ chức lao động, môi trường làm việc, và thường
ít được chú ý xem xét về sự liên quan. Các nhà nghiên cứu nhận định cứ có một lỗi
hoạt động thường có 3-4 yếu tố liên quan tới lỗi hệ thống.
1.6.2. Lợi ích của việc phân tích nguyên nhân gốc
Việc phân tích xác định nguyên nhân gốc không chỉ đơn giản là tìm kiếm lỗi cá
nhân mang tính triệu chứng mà phải loại bỏ các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn gián tiếp thúc
đẩy sự cố xảy ra. Việc phân tích nguyên nhân gốc và thực hiện các hành động khắc
phục được coi là quá trình cải tiến liên tục của cơ sở y tế.
Những yếu kém trong việc tìm hiểu nguyên nhân gốc của các sự cố y khoa dẫn
đến việc mặc dù sự cố y khoa đã tồn tại từ lâu nhưng hệ thống y tế chưa có được bức
tranh dịch tễ về sự cố y khoa để có phương sách đối phó hiệu quả. Các nhà nghiên cứu
đã đưa ra Hội chứng hệ thống suy yếu của tổ chức (Vulnerable System Syndrome).
Hội chứng này có ba nhóm triệu chứng chính là: (1) Đổ lỗi cho cá nhân trực tiếp (bác
sĩ, điều dưỡng, hộ sinh..); (2) Phủ nhận sự tồn tại các điểm yếu của lỗi hệ thống; (3)
Theo đuổi mù quáng các chỉ số tài chính, lạm dụng các chỉ định chuyên môn.
1.7. Tầm quan trọng của bảo đảm an toàn người bệnh trong hoạt động khám
bệnh, chữa bệnh.
Hậu quả về sức khỏe: hậu quả của các sự cố y khoa không mong muốn làm tăng
gánh nặng bệnh tật, tăng ngày nằm viện trung bình, tăng chi phí điều trị, làm giảm chất
lượng chăm sóc y tế và ảnh hưởng đến uy tín, niềm tin đối với cán bộ y tế và cơ sở
cung cấp dịch vụ.
Tại Mỹ (Utah- Colorado): các sự cố y khoa không mong muốn đã làm tăng chi
phí bình quân cho việc giải quyết sự cố cho một người bệnh là 2262 US$ và tăng 1,9
ngày điều trị/người bệnh20. Theo một nghiên cứu khác của Viện Y học Mỹ chi phí
tăng $2595 và thời gian nằm viện kéo dài hơn 2,2 ngày/người bệnh.
128
Ở Australia hàng năm: 470 000 NB nhập viện gặp sự cố y khoa, tăng 8% ngày
điều trị (thêm 3,3 triệu ngày điều trị) do sự cố y khoa, 18000 tử vong, 17000 tàn tật
vĩnh viễn và 280000 người bệnh mất khả năng tạm thời.
Tại Anh: Bộ Y tế Anh ước tính có 850.000 sự cố xảy ra hàng năm tại các bệnh
viện Anh quốc, chỉ tính chi phí trực tiếp do tăng ngày điều trị đã lên tới 2 tỷ bảng. Bộ
Y tế Anh đã phải sử dụng 400 triệu bảng để giải quyết các khiếu kiện lâm sàng năm
1998/1999 và ước tính phải chi phí 2,4 tỷ bảng Anh để giải quyết những kiện tụng
chưa được giải quyết. Chi phí cho điều trị nhiễm khuẩn bệnh viện lên tới 1 tỷ bảng
Anh hàng năm. Con số kiện tụng lên tới 38000 đối với lĩnh vực chăm sóc y tế gia đình
và 28000 đơn kiện đối với lĩnh vực bệnh viện.
Tại Nhật Bản, theo số liệu của tòa án, bình quân mỗi ngày người dân kiện và đưa
bệnh viện ra tòa từ 2-3 vụ. Thời gian giải quyết các sự cố y khoa tại Nhật Bản trung
bình 2 năm/vụ khiếu kiện.
2. PHÒNG NGỪA SỰ CỐ, SAI SÓT Y KHOA
2.1. Phòng ngừa sự cố y khoa trong việc xác định người bệnh
2.1.1. Các nguyên tắc chung trong xác định người bệnh:
- Cần xác định một cách đáng tin cậy cá nhân đó chính là người mà ta phải chăm
sóc, điều trị, và phục vụ
- Cần ráp nối việc chăm sóc, điều trị, và phục vụ của người bệnh với nhau
2.1.2. Các nội dung cần thiết trong xác định người bệnh:
- Phải có hai mẫu thông tin để nhận dạng bệnh nhân (ví dụ, tên và ngày sinh của
bệnh nhân). Có thể sử dụng băng cổ tay có ghi tên và một con số riêng biệt của bệnh
nhân để nhận dạng chính xác bệnh nhân (tên và con số riêng biệt là hai mẫu thông tin).
- Hai công cụ nhận dạng cụ thể này phải được gắn kết trực tiếp với bệnh nhân, và
cũng hai công cụ ấy phải được gắn kết trực tiếp với thuốc men, các sản phẩm về máu,
các ống chứa mẫu vật lưu (chẳng hạn trên nhãn được dán vào).
2.2. Cải thiện thông tin trong nhóm chăm sóc.
Trao đổi là qui trình nhờ đó thông tin được trao đổi giữa các cá nhân, các khoa
phòng, hoặc các cơ sở. Việc trao đổi phải đi vào mọi khía cạnh của cơ sở y tế, từ thực
hiện việc chăm sóc cho đến cải tiến, dẫn đến những tiến bộ đáng kể trong chất lượng
và trong việc thể hiện chức trách. Các công đoạn của qui trình trao đổi thông tin gồm
có:
- Trao đổi giữa nhà cung cấp dịch vụ y tế và/hoặc nhân viên y tế và bệnh nhân.
- Hướng dẫn bệnh nhân và gia đình họ.
- Trao đổi và hợp tác giữa các nhân viên.
- Phân phối thông tin.
- Làm việc theo đội ngũ đa ngành.

129
2.2.1. Các nguyên tắc chung trong cải tiến việc trao đổi thông tin của nhân viên:
- Lãnh đạo bệnh viện cần thông tin cho NVYT về vai trò của cải tiến việc trao
đổi thông tin đối với chất lượng và sự an toàn trong chăm sóc sức khoẻ.
- Thất bại trong trao đổi thông tin phải được nhìn nhận là do lỗi hệ thống hơn là
quy cho bất cứ một nhân viên cụ thể nào.
- NVYT phải nắm được lợi ích của việc làm việc nhóm, sự hợp tác, và trao đổi
thông tin. để có được sự trao đổi thành công trong công việc
- Ngoài việc trao đổi giữa các thầy thuốc với nhau, và với các chuyên gia y tế
khác, trao đổi giữa thầy thuốc với bệnh nhân và gia đình họ là rất cần thiết. . Bệnh
nhân và các thành viên trong gia đình cũng cần được giáo dục về giá trị của việc trao
đổi thông tin với người chăm sóc sức khoẻ cho mình.
- Cơ sở y tế cần phải nắm chắc bệnh nhân là ai.
2.2.2. Các nội dung cần thiết để cải tiến việc trao đổi thông tin của nhân viên:
- Xác định rõ ràng các phương pháp trao đổi thông tin được mong đợi. Sử dụng
các tiến bộ ở nhiều lĩnh vực khác nhau để cải tiến việc trao đổi thông tin giữa các thầy
thuốc. Trao đổi trực tiếp giữa các nhân viên y tế thường là cách tốt nhất để mang lại sự
chăm sóc an toàn, chất lượng cao. Sử dụng tư liệu viết tay cần triển khai và thực hiện.
Chú ý các tài liệu viết tay nhất thiết phải dễ đọc.
- Xây dựng hệ thống và qui trình để hoàn thiện việc trao đổi thông tin liên quan
đến nhu cầu của bệnh nhân trong thời gian điều trị. Với sự tham gia của bác sĩ và các
nhân viên điều trị khác, lãnh đạo phải xây dựng và thực hiện các hệ thống thông tin để
chuyển tải thông tin từ người này qua người kia. Các báo cáo miệng trực tiếp và các tư
liệu bằng văn bàn và điện tử là những thứ hiệu quả nhất. Các báo cáo thu qua băng đĩa,
mặc dù thường được xem là phương tiện hỗ trợ, cũng không tạo cơ hội cho người
chăm sóc sau đặt câu hỏi với người chăm sóc trước đó. Tuy nhiên, băng đĩa có thể
được tham khảo nhiều lần và bởi nhiều người. Điều cần chú ý là bác sĩ và điều dưỡng
phải nhận được tất cả mọi thông tin cần thiết khi bắt đầu chăm sóc một người bệnh.
Các điều dưỡng phải lưu trữ những điểm quan trọng bằng phương tiện được triển khai
ở cơ sở mình để chuyển giao cho ca trực kế tiếp.
- Xác định và đánh giá các phương pháp trao đổi thông tin được sử dụng tại cơ
sở, bao gồm nói miệng, văn bản, và điện tử. Nhân viên nên khảo sát một cách có hệ
thống các phương pháp trao đổi thông tin sẽ được sử dụng để xác định những phương
pháp nào có thể bị lỗi. Việc chăm sóc dựa trên rất nhiều sự trao đổi bằng miệng và
bằng văn bản và phương pháp nào cũng có thể bị lỗi. Việc lưu trữ hồ sơ điện tử và vi
tính hoá việc kê đơn thuốc là hai việc giúp giảm rắc rối liên quan đến việc đưa ra y
lệnh.
- Triển khai và thực hiện các phương thức hiệu quả để liên lạc với các chuyên
gia. Liên lạc nhanh chóng với các chuyên gia và cố vấn là điều rất quan trọng của cơ
sở y tế để bảo vệ người bệnh khỏi những hậu quả xấu và bảo đảm điều trị được liên
tục. Ví dụ, một bác sĩ cấp cứu cần liên lạc các chuyên gia như bác sĩ phẫu thuật chấn
130
thương và bác sĩ phẫu thuật tim qua máy nhắn tin, điện thoại, hoặc các phương tiện
khác để chăm sóc đúng cho bệnh nhân đang trong phòng cấp cứu với vết thương do
súng đạn và cơn nhồi máu cơ tim.
- Khuyến khích thắc mắc khi nhận y lệnh không rõ ràng hoặc mang tích cách
cưỡng bức. Nhân viên nên được khuyến khích đặt câu hỏi và thắc mắc về những gì
không rõ ràng hoặc những y lệnh không thích hợp.
2.2.3. Cải tiến sự chính xác trong việc xác định bệnh nhân
Biện pháp 1: Sử dụng ít nhất hai công cụ nhận dạng bệnh nhân (nhưng cả hai đều
không phải là số phòng hoặc số giường của bệnh nhân) bất cứ khi nào quản lý thuốc
men và các sản phẩm về máu, lấy mẫu máu và các mẫu khác để xét nghiệm, hoặc làm
công tác điều trị họăc bất cứ công việc nào khác
- Có thể sử dụng thông tin như tên bệnh nhân, ngày sinh bệnh nhân, hoặc mã
vạch làm công cụ nhận dạng
- Khi kiểm tra tên với bệnh nhân, nhân viên y tế không bao giờ nên đọc tên và
yêu cầu bệnh nhân xác nhận nó. Những bệnh nhân bị nhầm lẫn hoặc rối loạn hành vi
có thể đồng ý ngay cả khi đó không phải là tên của họ. Cách làm an toàn hơn là yêu
cầu bệnh nhân tự nói tên của họ.
- Trường hợp bệnh nhân hôn mê, thân nhân người bệnh phải xác định nhân thân
cho họ. Nếu bệnh nhân hôn mê được đưa đến bệnh viện bởi công an hoặc dịch vụ cấp
cứu và không có một chứng cứ nào về nhân thân, hỏi công an hoặc nhân viên cấp cứu
về người bệnh, nếu có thể và cho họ số nhập viện hoặc số cấp cứu hoặc số hồ sơ.
Đối với các phòng xét nghiệm: Sử dụng ít nhất hai công cụ nhận dạng bệnh
nhân (nhưng cả hai đều không là vị trí của bệnh nhân) bất cứ khi nào lấy mẫu cho
phòng xét nghiệm hoặc quản lý thuốc men và các sản phẩm về máu, và sử dụng cả hai
công cụ nhận dạng để dán nhãn cho các vật chứa mẫu có sự hiện diện của bệnh nhân.
Các quy trình được xây dựng để vẫn giữ được tên chủ nhân của các mẫu trong suốt
quá trình trước phân tích, đang phân tích, và sau phân tích.
Biện pháp 2: Ngay trước khi bắt đầu bất cứ thủ thuật xâm lấn nào, cần tiến hành qui
trình làm rõ sau cùng để xác định chính xác bệnh nhân, phương pháp, vị trí, và sự sẵn
sàng các hồ sơ thích hợp. Việc làm rõ này phải tiến hành ở nơi thủ thuật được thực
hiện, ngay trước giây phút bắt đầu. Nhân thân bệnh nhân được tái xác định nếu bác sĩ
thực hiện đã rời khỏi chỗ nằm của bệnh nhân trước khi bắt đầu thủ thuật. Đánh dấu vị
trí thao tác là điều bắt buộc trừ khi bác sĩ liên tục có mặt từ lúc quyết định tiến hành
phương thức cho đến khi bắt đầu thủ thuật.
Ba vấn đề sau đây cần được xác định:
- Người bệnh chính xác
- Phương pháp chính xác
- Vị trí thủ thuật chính xác

131
Qui trình làm rõ sau cùng sử dụng các kỹ thuật trao đổi thông tin năng động. Tất
cả nhân viên có liên quan đều phải ngưng lại - có nghĩa là, dùng một chút “thời gian
không thao tác” – để làm rõ rằng đó chính là bệnh nhân chính xác, phương pháp chính
xác, và vị trí chính xác.
Tất cả thành viên của nhóm thực hiện phải tham gia vào qui trình làm rõ cuối
cùng. Tất cả hoạt động trong phòng phải ngưng lại để mọi người tham gia. Mọi việc sẽ
không được bắt đầu cho đến khi bất cứ và tất cả các câu hỏi và vấn đề đều được giải
quyết. Việc thực hiện phải được đọc to lên, chính xác như trên văn bản đồng ý thực
hiện. Ví dụ, tại cuộc phẫu thuật, tất cả các bước kế tiếp trong một ca có nhiều bước, tất
cả mọi hoạt động phải ngưng lại, và một thành viên được chỉ định, chẳng hạn một y tá
vòng ngoài sẽ đọc to cách thức tiến hành và vị trí thực hiện thao tác.
Phải có chính sách cho việc làm rõ sau cùng và phải theo dõi đôn đốc việc tuân
thủ chính sách này, bảo đảm tất cả thành viên đều theo đúng đường lối và xác định
đúng các lĩnh vực cải tiến.
Biện pháp 3: Đưa bệnh nhân tham gia vào trao đổi thông tin.
Yêu cầu bệnh nhân nhắc nhở nhân viên y tế xác định nhân thân cho họ. Có thể
yêu cầu cho bệnh nhân tham gia vào việc đánh dấu vị trí như một phần của qui trình
trước khi thực hiện thủ thuật.
2.2.4. Cải tiến hiệu quả trao đổi thông tin giữa nhân viên y tế
Biện pháp 1: Không khuyến khích lệnh miệng. Khi không thể tránh khỏi lệnh miệng:
- Nhân viên nhận lệnh miệng phải viết ra và đọc lại đúng nguyên văn cho người
bác sĩ đã ra lệnh nghe. Người bác sĩ này sau đó xác nhận bằng miệng rằng lệnh đó là
chính xác. Yêu cầu này áp dụng cho tất cả mọi y lệnh bằng miệng, không riêng cho y
lệnh cấp thuốc.
- Đối với mệnh lệnh bằng miệng hoặc qua điện thoại về các kết quả xét nghịêm
quan trọng, làm rõ mệnh lệnh đầy đủ hoặc kết quả xét nghiệm bằng cách yêu cầu nhân
viên nhận lệnh “đọc lại” mệnh lệnh đầy đủ hoặc kết quả xét nghiệm. Tại phòng mổ
hoặc phòng cấp cứu, điều dưỡng chuyên viên gây mê viết ra y lệnh và đọc lại cho
người ra lệnh nghe. Người ra lệnh sau đó có thể xác nhận y lệnh bằng miệng. Để làm
rõ hơn, người xử lý lệnh đó có thể đọc to lên trước khi thực hiện và một lần nữa nhận
lời xác nhận từ người ra lệnh. Trong trường hợp khẩn cấp, việc “lập đi lập lại” vẫn
phải được thực hiện.
- Những người nhận y lệnh cấp thuốc cần phải lập lại tên thuốc và liều lượng cho
người ra y lệnh và yêu cầu hoặc tự làm việc đánh vần, dùng các cách trợ giúp như “B
như trong quả bóng”, “M như trong Mary”. Tất cả con số phải được đánh vần, ví dụ,
“21” phải được đọc là “hai một” để tránh nhầm lẫn
- Khi có thể, nhờ một người thư hai nghe mệnh lệnh qua điện thoại để làm rõ sụ
chính xác.
- Ghi lại lệnh miệng trực tiếp vào hồ sơ của người bệnh

132
Biện pháp 2: Truyền đạt thông tin rõ ràng
- Tránh dùng chữ viết tắt. Ví dụ, “1v/3l/n” phải được viết rõ là “ngày 3 lần, mỗi
lần 1 viên”.
- Viết mục đích của thuốc trên y lệnh. Thông tin này có thể giúp dược sĩ kiểm tra
y lệnh cho liều lượng và thời hạn thích hợp. Thông tin này cũng hạn chế sự nhầm lẫn
tiềm ẩn của những loại thuốc trông giống nhau và nghe giống nhau.
- Y lệnh phải bao gồm tên thuốc, liều lượng, hàm lượng, số lần, lộ trình, khối
lượng, và thời hạn.
- Có thể dùng các tờ đơn thuốc được in sẵn để nhân viên kiểm tra các ô có ghi y
lệnh. Các mẫu đơn này làm giảm bớt thời gian viết y lệnh, xoá bỏ việc giải thích sai
khi đọc các lệnh viết tay, tránh được nhầm lẫn và lỗi chính tả.
- Cung cấp tên khoa học và tên thương mại của tất cả các nhãn hiệu thuốc. Tất cả
thuốc được phát theo đơn phải phải được dán nhãn một cách an toàn và hợp lý với một
phương pháp chuẩn hoá trong một cách-thức-sẵn-sàng-để-quản lý nhất, nhằm hạn chế
tối đa các sai sót. Các loại thuốc cho theo y lệnh phải có cả tên khoa học lẫn tên
thương mại, nếu tên thương mại khác với tên khoa học. Các chuyên viên khảo sát sẽ
thẩm định xem tên thuốc trên y lệnh, nhãn dán trên thuốc, và sổ theo dõi của điều
dưỡng có giống nhau không. Việc cung cấp cả hai loại tên thuốc bảo đảm sự nhất
quán trong sổ sách và giúp ngăn ngừa việc giải thích sai y lệnh.
- Cung cấp cho bệnh nhân các thông tin bằng văn bản về thuốc, gồm cả tên khoa
học và tên thương mại. Xác nhận các thuốc mà bệnh nhân thắc mắc hoặc không nhận
ra.
Biện pháp 3: Chuẩn hoá danh mục các từ rút gọn, từ viết tắt, và các ký hiệu không
được dùng trong cơ sở y tế.
- Cơ sở y tế cần phải rà soát toàn diện danh mục từ rút gọn sử dụng tại cơ sở, và,
với sự tham gia của các bác sĩ, thực hiện một danh mục từ rút gọn và ký hiệu không
chính thức được chia sẻ với tất cả người ra y lệnh.
- In danh mục trên giấy, giấy dán , bìa cứng, v. v.. màu sáng và đặt nó trong hồ
sơ lưu, sơ đồ bệnh án, gần máy tính, và ở khu vực bệnh nhân nằm.
- Cung cấp cho nhân viên các thẻ bỏ túi có in danh mục.
- In danh mục ở lề hoặc ở cạnh dưới của các tờ y lệnh và/ hoặc phiếu theo dõi.
- Gắn các bản sao danh mục vào sau lưng của tờ ghi phác đồ điều trị.
- Xoá những từ viết tắt bị cấm trong tờ y lệnh in sẵn và trong các mẫu đơn khác.
- Triển khai thực hiện chính sách bảo đảm rằng nhân viên y tế tham khảo danh
mục và tuân thủ.
Biện pháp 4: Đo lường, đánh giá kết quả và giá trị xét nghiệm quan trọng để cải tiến
sự đúng giờ trong việc báo cáo, và trong tiếp nhận

133
- Báo cáo và tiếp nhận các kết quả và giá trị xét nghiệm quan trọng đúng thời
điểm chính
- Tất cả các giá trị được xác định là quan trọng bởi phòng xét nghiệm đều được
báo cáo trực tiếp cho nhân viên chịu trách nhiệm. Nếu nhân viên chịu trách nhiệm
không có mặt ở đó trong thời gian làm việc, cần có cơ chế để báo cáo các thông tin
quan trọng cho nhân viên trực.
- Xây dựng chính sách cho: (1) khung thời gian mong muốn cho việc báo cáo; (2)
ai có thể nhận các thông số quan trọng, và (3) một cơ chế báo cáo thay thế.
2.3. Phòng ngừa sai sót trong sử dụng thuốc
2.3.1. Phân loại sai sót trong sử dụng thuốc giai đoạn
- Một sai sót trong sử dụng thuốc được định nghĩa là một một thuốc được sử
dụng khác với y lệnh trong trên hồ sơ bệnh án của người bệnh. Sai sót này bao gồm
bất kỳ sai sót nào xảy ra trong quá trình kê đơn, cấp phát, sử dụng thuốc, bất kể sai sót
đó có dẫn đến kết quả bất lợi hay không.
- Sai sót trong kê đơn (Prescribing error): lựa chọn thuốc không chính xác (dựa
vào chỉ định, chống chỉ định, tiền sử dị ứng thuốc, các thuốc đã được sử dụng và các
yếu tố khác), là các sai sót về liều dùng, đường dùng, dạng bào chế, số lượng, nồng độ
thuốc, hướng dẫn sử dụng của thuốc trong đơn hay thẩm quyền kê đơn của bác sỹ, đơn
thuốc hoặc các chữ viết tắt không đọc được dẫn đến dùng sai thuốc hoặc sai người
bệnh.
- Sai sót trong cấp phát thuốc (Deteriorated drug error): Cấp phát các thuốc đã
hết hạn hoặc chất lượng không đảm bảo cho người bệnh.
- Sai sót trong giám sát thuốc (Monitoring error): Thất bại trong việc kê đơn theo
phác đồ điều trị cho phù hợp với chẩn đoán hay thất bại trong đánh giá người bệnh
thông qua các dữ liệu lâm sàng hoặc các xét nghiệm phù hợp.
2.3.2. Phân loại sai sót trong sử dụng thuốc theo biến cố
- Dùng thuốc không được kê trong đơn (Unauthorized drug error): Cho người
bệnh dùng thuốc không được kê trong đơn/bệnh án
- Sai về thời điểm dùng thuốc (Wrong time error): dùng thuốc không đúng theo
thời gian quy định của thuốc
- Sai liều (Improper dose error): Cho người bệnh sử dụng thuốc với liều lượng
lớn hơn hoặc ít hơn theo yêu cầu của người kê đơn hoặc cho người bệnh dùng liều bị
trùng lặp.
- Sai dạng thuốc (Wrong dosage-form errore): Cho người bệnh dùng thuốc khác
dạng bào chế theo yêu cầu của người kê đơn
- Sai sót trong pha chế thuốc (Wrong drug preparation error): Thuốc được pha
chế không đúng hoặc thao tác không đúng trước khi sử dụng.

134
- Sai kỹ thuật trong thực hiện thuốc (Wrong administrate technique error): Sai
quy trình hoặc kỹ thuật trong sử dụng thuốc.
- Sai sót trong tuân thủ điều trị (Compliance error): Người bệnh không hợp tác và
không tuân thủ dùng thuốc theo quy định.
2.3.3. Phân loại các sai sót trong sử dụng thuốc theo mức độ nghiêm trọng
Chưa gây
A Sự cố có khả năng gây sai sót
sai sót
B Sai sót đã xảy ra nhưng không ảnh hưởng tới người bệnh
Sai sót đã xảy ra ảnh hưởng tới người bệnh nhưng không gây tổn
Sai sót, C
hại
không gây
tổn hại Sai sót đã xảy ra ảnh hưởng tới người bệnh, yêu cầu giám sát và
D báo cáo kết quả có tổn hại đến người bệnh không hoặc có biện
pháp can thiệp làm giảm tổn hại.
Sai sót đã xảy ra gây tổn hại tạm thời đến người bệnh, yêu cầu có can
E
thiệp

Sai sót, Sai sót đã xảy ra gây tổn hại tạm thời đến người bệnh, yêu cầu
F
gây tổn nằm viện hoặc kéo dài thời gian nằm viện.
hại G Sai sót đã xảy ra gây tổn hại vĩnh viễn đến người bệnh,
Sai sót đã xảy ra, yêu cầu tiến hành các can thiệp cần thiết để duy
H
trì cuộc sống của người bệnh.
Sai sót
dẫn đến tử I Sai sót đã xảy ra gây tử vong.
vong

2.3.4. Nguyên nhân dẫn đến sai sót trong dùng thuốc
Một số vấn đề hay gặp liên quan đến sai sót trong sử dụng thuốc có thể giải
quyết bao gồm
1. Sự quá tải và mệt mỏi trong công việc của cán bộ y tế
2. Cán bộ y tế thiếu kinh nghiệm làm việc hoặc không được đào tạo đầy đủ, đúng
chuyên ngành
3. Trao đổi thông tin không rõ ràng giữa các cán bộ y tế (VD: chữ viết xấu, kê
đơn bằng miệng)
4. Các yếu tố về môi trường như thiếu ánh sáng, quá nhiều tiếng ồn hay thường
xuyên bị gián đoạn công việc
5. Số lượng thuốc dùng cho một người bệnh nhiều
6. Việc kê đơn, cấp phát hay thực hiện thuốc phức tạp
135
7. Sử dụng nhiều chủng loại thuốc và nhiều dạng dùng (VD thuốc tiêm) gây ra
nhiều sai sót liên quan đến thuốc
8. Nhẫm lẫn về danh pháp, quy cách đóng gói hay nhãn thuốc
9. Thiếu các chính sách và quy trình quản lý thuốc hiệu quả
2.3.5. Giải pháp
Một số cách ngăn chặn các sai sót trong dùng thuốc, đặc biệt trong bệnh viện bao
gồm:
- Giải pháp mang tính hệ thống
- Xây dựng các giải pháp với các đối tượng có liên quan: Bác sỹ, dược sỹ, điều
dưỡng.
- Giám sát và quản lý sai sót
2.3.5.1. Giải pháp mang tính hệ thống
* Cung cấp đầy đủ chính xác thông tin người bệnh
- Trả kết quả xét nghiệm qua mạng
- Thông báo về tiền sử dị ứng của người bệnh cho bác sỹ/dược sỹ trước khi cấp
phát và giám sát sử dụng thuốc
- Liệt kê các phản ứng dị ứng và chẩn đoán trên y lệnh hoặc đơn thuốc
- Đeo vòng đeo tay đánh dấu người bệnh có tiền sử dị ứng
- Luôn mang theo y lệnh khi gíam sát sử dụng thuốc, tư vấn cho người bệnh
trước khi cấp phát thuốc
- Yêu cầu theo dõi kỹ người bệnh có nguy cơ cao: béo phì, hen, ngưng thở khi
ngủ… khi sử dụng thuốc nhóm opioids
* Cung cấp đầy đủ thông tin thuốc cho bác sỹ, điều dưỡng
- Cập nhật kịp thời thông tin thuốc
- Có dược sỹ tư vấn cho người bệnh về thuốc
- Cung cấp thông tin dưới dạng biểu đồ, quy trình, hướng dẫn, checklist cho các
thuốc co cảnh báo cao
- Liệt kê liều tối đa của các thuốc có cảnh báo cao, thông tin dưới dạng phiếu yêu
cầu hoặc cảnh báo thông qua hệ thống mạng của bệnh viện
- Có dược sỹ xem xét các đề nghị sử dụng các thuốc cần yêu cầu trước khi sử
dụng
* Đảm bảo trao đổi thông tin giữa bác sỹ-dược sỹ-điều dưỡng đầy đủ, chính xác
- Sử dụng hệ thống kê đơn điện tử và hệ thống mạng bệnh viện
- Sử dụng mẫu yêu cầu thuốc chuẩn và đầy đủ thông tin

136
- Hạn chế yêu cầu thuốc qua điện thoại, đặc biệt các thuốc điều trị ung thư (Trừ
trường hợp khẩn cấp)
- Đọc lại các yêu cầu về thuốc đảm bảo thông tin đầy đủ và chính xác.
- Xây dựng quy trình, thống nhất từng bước tiến hành khi yêu cầu thuốc
- Gửi tất cả các yêu cầu thuốc cho khoa Dược, kể cả các thuốc có sẵn hay các
thuốc không có sẵn.
* Đảm bảo tên thuốc, nhãn thuốc và dạng đóng gói rõ ràng, đúng quy cách
- Lưu ý các thuốc nhìn giống nhau hoặc tên thương mại giống nhau
- Cấp phát cho khoa lâm sàng thuốc có tên thuốc, hàm lượng.
- Dán nhãn cho tất cả các thuốc, làm nổi bật tên thuốc và hàm lượng
- Trong khoa lâm sàng, các thuốc uống được bảo quản trong hộp đến tận khi cấp
phát cho người bệnh.
- Sắp xếp các thuốc nhìn giống nhau tại các nơi riêng biệt tránh nhầm lẫn
- Sử dụng các nhãn cảnh báo cho nhân viên y tế về các thuốc có chỉ dẫn đặc biệt
về bảo quản hoặc độ an toàn
- Đảm bảo các thuốc đều dễ đọc và dễ hiểu
* Bảo quản, tồn trữ thuốc đạt tiêu chuẩn GSP: dễ thấy, dễ lấy, dễ tìm, tránh
nhầm lẫn, hư hỏng
- Chuẩn hoá nồng độ của Insulin, Heparin, Morphin
- Sử dụng các dung dịch tiêm truyền đã pha sẵn
- Hạn chế việc điều dưỡng pha dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch trong trường hợp
cấp cứu
- Xây dựng quy định lĩnh thuốc hàng ngày, thuốc cấp cứu cho nhân viên y tế
- Bảo quản chặt các thuốc cảnh báo cao, các thuốc dùng cho người bệnh đặc biệt,
thuốc cần quản lý theo quy định
- Không để các dung dịch điện giải đạm đặc tại các hộp thuốc cá nhân của người
bệnh
- Cấp phát thuốc cho người bệnh theo liều dùng, không cấp phát theo tổng liều
điều trị
- Loại bỏ các thuốc sử dụng không liên tục ra khỏi các thiết bị kịp thời
- Không vay mượn thuốc của người bệnh trong quá trình điều trị
- Thiết lập tủ thuốc cấp cứu tại các khoa lâm sàng
* Đảm bảo lựa chọn các thiết bị hỗ trợ dùng thuốc phù hợp với bệnh viện và
trình độ chuyên môn
- Kiểm tra kỹ các thiết bị trước khi mua và sử dụng
137
- Hạn chế sử dụng nhiều loại bơm tiêm nhằm sự chuyên nghiệp của nhân viên y
tế trong thực hành
- Cấm sử dụng các thiết bị truyền dịch không kiểm soát được tốc độ truyền dịch
- Đào tạo kỹ cho nhân viên y tế về các thiết bị mới và kỹ thuật mới trước khi sử
dụng
- Kiểm tra hai lần (double- check) khi truyền dịch bao gồm: dịch truyền, các thiết
bị hỗ trợ, tình trạng người bệnh trước khi truyền các thuốc cảnh báo cao
* Đảm bảo môi trường làm việc không ảnh hưởng đến nhân viên y tế
- Đảm bảo đầy đủ ánh sáng không gian, trong kho thuốc bao gồm tủ đựng thuốc
và hệ thống cấp phát thuốc tự động
- Xây dựng môi trường làm việc không làm mất tập trung cho việc yêu cầu/đặt
đơn hàng thuốc
- Bố trí các khu vực để thuốc tiêm truyền, thuốc uống, thuốc pha chế riêng biệt,
tránh tiếng ồn, đi lại nhiều và các tác động gây mất tập trung.
- Trang bị tủ lạnh có đủ diện tích để bả quản thuốc
- Có kế hoạch về nhân sự thay thế cho cán bộ y tế khi nghỉ ốm, nghỉ phép và nghỉ
lễ.
- Quy định rõ ràng về thời gian nghỉ giải lao và nghỉ ăn trưa, ăn tối cho cán bộ y
tế.
- Quản lý và giám sát thời gian làm việc của cán bộ y tế, đảm bảo được nghỉ ngơi
đầy đủ sau ca trực và không làm việc quá 12h mỗi ngày.
- Hạn chế tối đa việc sử dụng nhân viên y tế tạm thời
- Thông báo cho tất cả cán bộ y tế có liên quan về kế hoạch và thực hiện dịch vụ
kỹ thuật mới, bao gồm cả chi phí cần thiết bổ sung đảm bảo sự an toàn cho người
bệnh.
* Đào tạo và đánh giá thường xuyên năng của cán bộ y tế, bố trí công việc phù
hợp
- Bố trí công việc đúng theo chuyên ngành đào tạo, định kỳ đánh giá
- Bố trí công việc hợp lý giảm quá tải trong công việc
- Yêu cầu các điều dưỡng mới phải thực tập tại khoa Dược để làm quen với công
việc cấp phát thuốc.
- Yêu cầu các dược sỹ mới phải thực tập tại khoa lâm sàng để làm quen với quy
trình sử dụng thuốc.
- Cung cấp thông tin thuốc mới trước khi đưa vào sử dụng
- Khoa Dược dán nhãn cảnh báo cho điều dưỡng các thông tin cần lưu ý với các
thuốc cảnh báo cao

138
- Bố trí nhân viên y tế đã được đào tạo về sai sót trong sử dụng thuốc trong đơn
vị nhằm ngăn chặn các sai sót xảy ra.
- Mô tả và đánh giá công việc cụ thể về với trách nhiệm đối với người bệnh.
- Cung cấp cho cán bộ y tế những hỗ trự cần thiết và thời gian để tham dự các
khoá học trong và ngoài nước về phòng ngừa sai sót trong sử dụng thuốc
* Tư vấn người bệnh về thông tin thuốc và tuân thủ điều trị
- Tư vấn người bệnh cách chủ động trong việc tìm hiểu và xác định đúng trước
khi nhận thuốc hay sử dụng thuốc
- Cung cấp thông tin cho người bệnh hoặc gia đình người bệnh về tên thuốc (bao
gồm tên biệt dược và hoạt chất) cách sử dụng, mục đích điều trị, liều dùng và cách
phản ứng phụ nghiêm trọng
- Hỏi ý kiến dược sỹ về cách sử dụng thuốc nêu người bệnh dùng trên 5 loại
thuốc
- Khuyến khích người bệnh hỏi về các thuốc điều trị
- Trả lời đầy đủ các câu hỏi của người bệnh về thuốc (nếu có) trước khi điều trị.
- Cung cấp cho người bệnh thông tin về các thuốc cảnh báo cao kê trong đơn
thuốc khi xuất viện
- Cung cấp cho người bệnh số điện thoại và người để liên lạc khi cần hỏi thông
tin về thuốc sau khi xuất viện
- Khuyến khích người bệnh giữ tất cả thông tin về đơn thuốc đã dùng, các thuốc
không kê đơn, thuốc đông dược, vitamin và đưa cho nhân viên y tế khi nhập viện hoặc
điều trị tại nhà.
* Xây dựng quy trình quản lý chất lượng và rủi ro tại đơn vị
- Công bố vấn đề an toàn cho người bệnh là nhiệm vụ của đơn vị
- Đào tạo cho cán bộ quản lý bậc trung để đánh giá hiệu quả về năng lực và khả
năng giải quyết các vấn đề phức tạp.
- Thay đổi cách nghĩ đổ lỗi khi xảy ra sai sót trong sử dụng thuốc, khi các lỗi đó
không dự đoán hoặc không đo đếm được.
- Thúc đẩy việc báo cáo thường xuyên và duy trì các sai sót từ các khoa phòng
điều trị.
- Thông tin tất cả các sai sót cho người bệnh
- Định kỳ thảo luận nhóm về các sai sót đã xảy ra và cách phòng tránh.
- Xây dựng nhóm đa ngành thường xuyên phân tích, đánh giá các sai sót và các
dữ liệu về an toàn người bệnh để thiết lập hệ thống đảm bảo an toàn cho người bệnh.
- Mời đại diện hội đồng người bệnh tham gia thảo luận về vấn đề an toàn, khuyến
khích cùng tham gia.

139
- Phổ biến rộng rãi thông tin về các giải pháp phòng ngừa sai sót.
- Sử dụng công nghệ mã hoá bệnh nhân trong điều trị.
2.3.5.2. Giải pháp với các đối tượng có liên quan
* Đối với bác sỹ
- Lựa chọn phác đồ điều trị phù hợp, tham khảo ý kiến dược sĩ và tư vấn với các
bác sĩ chuyên ngành sâu.
- Đánh giá tổng trạng của người bệnh và xem xét tất cả các thuốc đang điều trị để
xác định tương tác thuốc. Theo dõi các triệu chứng lâm sàng và các kết quả xét nghiệm
cần thiết để đánh giá và tối ưu hóa điều trị và khả năng đáp ứng với điều trị bằng thuốc
của người bệnh.
- Bác sỹ cần biết về hệ thống quản lý thuốc tại bệnh viện, bao gồm: danh mục
thuốc bệnh viện, quy trình điều tra sử dụng thuốc, hội đồng có thẩm quyền quyết định
lựa chọn thuốc, quy trình thông tin thuốc mới, các quy định về quản lý thuốc và quy
định kê đơn thuốc.
- Đơn thuốc cần ghi đầy đủ các thông tin: Họ tên người bệnh, tên thuốc ( tên gốc
và tên thương mại), nồng độ/hàm lượng, đường dùng, dạng dùng, liều lượng, số
lượng, tần suất sử dụng, tên bác sỹ kê đơn.
- Đơn thuốc được ghi rõ ràng, dễ đọc, dễ hiểu:
- Không sử dụng chữ viết tắt.
- Ghi cách sử dụng cụ thể cho mỗi loại thuốc trong đơn
- Ghi rõ số lượng cần sử đúng theo đơn vị đo lường (mg, ml), không nên ghi theo
đơn vị đóng gói (lọ, hộp), ngoại trừ các thuốc dạng phối hợp.
- Kê đơn tên thuốc theo tên gốc, tránh: kê thuốc tên địa phương (thuốc bà
lang…), tên hóa học, viết tắt tên thuốc.
- Luôn sử dụng một số 0 trước đơn vị nhỏ hơn 1 (ví dụ: 0,5 ml). Với đơn vị lớn
hơn 1, không đượ thêm số 0 vào sau (ví dụ, 5,0 ml).
- Ghi rõ đơn vị tính, tránh nhầm lẫn (Ví dụ: 10 units Unsulin thay vì 10U, có thể
nhầm là 100)
- Đơn thuốc và chữ ký bác sỹ phải rõ ràng. Nếu có thể nên sử dụng máy tính
hoặc kê đơn thuốc qua hệ thống máy tính.
- Với các y lệnh hoặc kê đơn thuốc bằng miệng, bác sỹ chắc chắn người thực
hiện hiểu đúng đơn thuốc bằng cách đọc lại đơn thuốc cho bác sỹ.
- Hạn chế kê đơn thuốc tiêm
- Giải thích với người bệnh hoặc người nhà về các lưu ý và tác dụng phụ của
thuốc
- Theo dõi người bệnh và định kỳ khám lại

140
* Đối với dược sỹ
- Triển khai hoạt động Dược lâm sàng tại bệnh viện, có dược sỹ tham gia giám
sát điều trị bằng thuốc (tham gia từ khi khám bệnh, lựa chọn thuốc điều trị thích hợp,
dùng thuốc, xem xét khả năng tương tác thuốc, trùng lặp thuốc, đánh giá triệu chứng
lâm sàng và các xét nghiệm thích hợp với người bệnh), điều tra sử dụng thuốc để giúp
sử dụng thuốc an toàn, hợp lý.
- Sẵn sàng cung cấp thông tin về thuốc cho bác sỹ và điều dưỡng
- Hiểu rõ về các quy trình và quy định trong cung ứng thuốc tại bệnh viện, kể cả
thuốc cấp phát nội trú, ngoại trú và nhà thuốc bệnh viện
- Đảm bảo hiểu rõ đơn thuốc trước khi cấp phát
- Sắp xếp khu vực chuẩn bị thuốc gọn gàng, sạch sẽ và tránh gián đoạn khi chuẩn
bị.
- Trước khi cấp phát thuốc hàng ngày, cần kiểm tra kỹ đơn thuốc. Đảm bảo thực
hiện đúng quy trình cấp phát. Đối với các thuốc cảnh báo cao (thuốc điều trị ung thư,
thuốc cấp cứu…) cần kiểm tra 2 lần.
- Nên sử dụng nhãn phụ để cảnh báo các thuốc có nguy cơ cao và chú ý cách sử
dụng thuốc. Ngăn ngừa các sai sót liên quan đến tên thuốc “nhìn giống nhau”, “đọc
giống nhau” (LASA) [9]
1. Cung cấp thông tin về các thuốc LASA cho bác sỹ, điều dưỡng, dược sỹ trong
bệnh viện
2. Xác định mục đích sử dụng thuốc trước khi cấp phát thuốc hay sử dụng thuốc.
3. Chỉ chấp nhận y lệnh bằng miệng khi thật sự cần thiết, trừ với các thuốc điều
trị ung thư.
4. HĐT&ĐT cần xem xét các thuốc khi lựa chọn thuốc vào Danh mục thuốc
bệnh viện, tránh các thuốc nhìn giống nhau, đọc giống nhau
5. Kê đơn thông qua hệ thống mạng, tránh nhầm lẫn tên thuốc do chữ viết khó
đọc
6. Thay đối cách nhận biết về tên các thuốc nhìn giống nhau (cả trong hệ thống
kho tàng và máy tính) bằng cách đánh dấu, viết chữ cái cao hơn (DAUNOrubicin và
DOXOrubicin)
7. Cảnh báo nguy cơ sai sót do nhầm lẫn thông qua hệ thống mạng bệnh viện
8. Sắp xếp các thuốc LASA tại các vị trí khác nhau trong kho thuốc, tủ thuốc,
hộp thuốc của người bệnh…. Dán các nhãn cảnh báo cho cán bộ y tế trên các lọ thuốc.
9. Đề nghị báo cáo các trường hợp sai sót để có biện pháp phòng tránh kịp thời.
- Đảm bảo thuốc được cấp phát kịp thời, đảm bảo thời gian điều trị
- Giám sát chất lượng và quy trình sử dụng các thuốc tại tủ trực thuốc tại các
khoa lâm sàng, đảm bảo tối ưu hóa trong điều trị
141
- Giám sát chất lượng và quy trình trả thuốc từ các khoa lâm sàng. Đánh giá các
thuốc không sử dụng do quên liều.
- Với các đơn thuốc kê cho người bệnh xuất viện, tư vấn cụ thể cho người bệnh
hoặc người nhà cách sử dụng của từng thuốc, các lưu ý và cẩn trọng khi sử dụng.
- Thu thập và lưu trữ các dữ liệu về sai sót trong sử dụng thuốc để phòng ngừa và
điều chỉnh các hoạt động về sử dụng thuốc
* Đối với điều dưỡng
- Hiểu rõ về các quy trình và quy định trong cung ứng thuốc tại bệnh viện, kể cả
thuốc cấp phát nội trú, ngoại trú
- Dùng thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ điều trị.
- Chuẩn bị đủ và phù hợp các phương tiện cho người bệnh dùng thuốc; khi dùng
thuốc qua đường tiêm phải chuẩn bị sẵn sàng hộp thuốc cấp cứu và phác đồ chống sốc,
chuẩn bị đúng và đủ dung môi theo quy định của nhà sản xuất.
- Kiểm tra thuốc (tên thuốc, nồng độ/hàm lượng, liều dùng một lần, số lần dùng
thuốc trong 24 giờ, khoảng cách giữa các lần dùng thuốc, thời điểm dùng thuốc và
đường dùng thuốc so với y lệnh). Kiểm tra hạn sử dụng và chất lượng của thuốc bằng
cảm quan: màu sắc, mùi, sự nguyên vẹn của viên thuốc, ống hoặc lọ thuốc
- Thực hiện 5 đúng khi dùng thuốc cho người bệnh: đúng người bệnh, đúng
thuốc, đúng liều lượng, đúng đường dùng, đúng thời gian dùng thuốc.
- Bảo đảm người bệnh uống thuốc ngay tại giường bệnh trước sự chứng kiến của
điều dưỡng viên, hộ sinh viên.
- Ghi hoặc đánh dấu thuốc đã dùng cho người bệnh và thực hiện các hình thức
công khai thuốc phù hợp theo quy định của bệnh viện.
- Theo dõi, phát hiện các tác dụng không mong muốn của thuốc, tai biến sau
dùng thuốc và báo cáo kịp thời cho bác sĩ điều trị. Điền thông tin cần thiết vào mẫu
báo cáo ADR và thông báo cho dược sỹ phụ trách.
- Hướng dẫn, giải thích cho người bệnh tuân thủ điều trị. Giải thích cho người
bệnh và người nhà về tác dụng và quy trình dùng thuốc. Với người bệnh từ chối điều
trị theo y lệnh, báo cáo cho bác sỹ điều trị.
- Phối hợp giữa các bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng viên, hộ sinh viên trong dùng
thuốc nhằm tăng hiệu quả điều trị bằng thuốc và hạn chế sai sót trong chỉ định và sử
dụng thuốc cho người bệnh.
2.4. Phòng ngừa sự cố y khoa trong phẫu thuật
2.4.1. Nguyên nhân của các sai sót, sự cố y khoa liên quan tới phẫu thuật, thủ thuật
Các biến chứng xảy ra liên quan đến nhiều yếu tố như: lỗi con người, lỗi kỹ
thuật, thiếu sự phối hợp đồng bộ trong quá trình thực hiện phẫu thuật nhất là nhóm gây
mê và phẫu thuật viên, cũng như lỗi phương tiện sử dụng do thiếu hoặc hỏng hóc.

142
Các thao tác phẫu thuật thường rất phức tạp và thường vấp nhiều sai sót. Công
việc hành chính trong khoa ngoại cũng có thể dẫn đến sai sót. Trong một số trường
hợp, có những biến chứng và nguy cơ của phẫu thuật dù đã được dự báo trước nhưng
cũng không thể tránh khỏi được.
Những nguyên nhân chính dẫn đến sai sót, sự cố được xếp theo mức độ:
- Bất cẩn/thiếu quan tâm
- Nhân viên chưa được đào tạo/thiếu kinh nghiệm
- Tuổi và sức khoe của “Nhóm phẫu thuật”
- Thiếu thông tin liên lạc
- Chẩn đoán sai
- Nhân viên làm việc quá sức, áp lực công việc
- Đọc toa thuốc sai hoặc sai sót trong cấp phát thuốc, bao gồm cả việc ghi chép
không “rõ ràng” trong hồ sơ bệnh án hoặc do nhầm nhãn
- Thiếu công cụ (Bảng kiểm) để chắc chắn mọi thứ được kiểm tra kỹ lưỡng
- “Nhóm phẫu thuật” chưa thực sự ăn ý và gắn kết
- Áp lực giảm thời gian phẫu thuật
- Phương pháp phẫu thuật yêu cầu các thiết bị hoặc tư thế người bệnh khác biệt
- Văn hóa tổ chức/ làm việc
- Mức độ thân thiện, an toàn của môi trường làm việc
- Chăm sóc / theo dõi tiếp tục sau phẫu thuật
- Đặc điểm người bệnh, nhất là khi người bệnh có nguy cơ như: béo phì, bất
thường giải phẫu,
- Sự hiểu nhầm giữa Người bệnh – Nhóm phẫu thuật do bất đồng ngôn ngữ:
khách du lịch, dân tộc thiểu số …
- Do bản thân người bệnh gây ra: do rối loạn ý thức, thiếu sự hợp tác.
2.4.2. Mười mục tiêu an toàn phẫu thuật theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới
Dựa trên kết quả áp dụng thử trên thế giới, theo ý kiến các chuyên gia, WHO đã
đề ra 10 mục tiêu chính trong việc thực hiện An Toàn Phẫu Thuật – ATPT :
1. Phẫu thuật đúng bệnh nhân, đúng vùng mổ
2. Khi làm giảm đau, xử dụng các phương pháp phù hợp tránh gây tổn hại cho
bệnh nhân.
3. Đánh giá và chuẩn bị đối phó hiệu quả với nguy cơ tắc đường thở và chức
năng hô hấp
4. Đánh giá và chuẩn bị tốt để xử lý nguy cơ mất máu.

143
5. Tránh xử dụng đồ hay thuốc gây dị ứng ở những bệnh nhân biết có nguy cơ dị
ứng
6. Áp dụng tối đa các phương pháp giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng ngoại khoa
7. Tránh để quên dụng cụ mổ hay bông gạc trong vùng mổ
8. Kiểm tra đối chiếu kỹ bệnh phẩm phẫu thuật
9. Thông báo kết quả và trao đổi thông tin đến người tổ chức thực hiện an toàn
phẫu thuật
10. Các Bệnh viện và hệ thống Y tế thành lập bộ phận có nhiệm vụ thường xuyên
theo dõi số lượng và kết quả phẫu thuật.
2.4.3. Hướng dẫn bảng kiểm an toàn phẫu thuật

Trong Bảng kiểm này “Kíp mổ” bao gồm các bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây mê,
điều dưỡng và kỹ thuật viên và các nhân viên khác của nhóm liên quan đến phẫu thuật.
Tuy phẫu thuật viên đóng vai trò quan trọng đối với thành công cuộc mổ, xong việc
chăm sóc người bệnh cần phải có sự phối hợp của toàn nhóm. Mỗi thành viên của
“Kíp mổ” đều có vai trò riêng trong việc đảm bảo sự an toàn và thành công của ca
phẫu thuật. Bảng kiểm được chia ra làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn lại tương ứng với
144
một thời điểm cụ thể trong quy trình thao tác: Giai đoạn tiền mê – Giai đoạn gây mê và
trước khi rạch da – Giai đoạn trong suốt quá trình phẫu thuật, ngay sau khi đóng da và
chuẩn bị chuyển người bệnh ra khỏi phòng mổ. Người phụ trách Bảng kiểm cần phải
xác nhận rằng nhóm mình đã hoàn thành những phần việc trước khi chuyển sang giai
đoạn khác.
Giai đoan tiền mê:
Tất cả những bước cần được kiểm tra bằng lời với mỗi thành viên có liên quan
trong “Nhóm phẫu thuật” để đảm bảo rằng những hành động chủ chốt được thực hiện.
Do vậy trước khi gây mê người phụ trách Bảng kiểm sẽ kiểm tra lại bằng lời với bác sĩ
gây mê và người bệnh (trường hợp người bệnh có thể nói được) để xác định nhận
dạng, phương pháp và vùng mổ là đúng khi đó người bệnh đồng ý cho tiến hành phẫu
thuật. Trường hợp người bệnh không thể xác nhận được vì nhiều lý do như: bệnh nhân
mê, trẻ em … một người giám hộ của gia đình người bệnh sẽ đứng ra chịu trách
nhiệm. Tình huống cấp cứu mà không có ai giám hộ được, cả nhóm sẽ hội ý thống
nhất để thực hiện bước này.
Người phụ trách “Kíp mổ” diễn đạt bằng lời và hình ảnh xác nhận rằng vùng mổ
đã được đánh dấu (nếu phù hợp). Việc đánh dấu vết mổ do phẫu thuật viên thực hiện
(thường bằng bút) nhất là trong trường hợp có liên quan đến những vị trí có ở cả hai
bên (bên trái và bên phải) hoặc phối hợp nhiều lớp, tầng (ngón tay, chân, đốt sống …).
Việc đánh dấu nhất quán trong tất cả các trường hợp, nhiều khi là cơ sở để xác nhận
đúng thủ thuật và đúng chỗ cần phẫu thuật. Sau đó họ sẽ trao đổi với bác sĩ gây mê các
vấn đề quan tâm: nguy cơ mất máu, khó thở, dị ứng của người bệnh, cũng như hoàn tất
việc kiểm tra toàn bộ máy móc gây mê và thuốc gây mê. Lý tưởng nhất là phẫu thuật
viên nên có mặt thời điểm này vì những thông tin trao đổi sẽ giúp cho bác sĩ phẫu
thuật biết được diễn biến ca mổ và những nguy cơ có thể xảy ra như tiên lượng máu
mất, dị ứng, các yếu tố biến chứng khác của người bệnh.
Kiểm tra thiết bị đo bão hòa oxy trong máu gắn trên người bệnh để đảm bảo thiết
bị hoạt động bình thường là một khâu quan trọng, nên để chỗ dễ quan sát thấy của cả
nhóm. Việc sử dụng thiết bị đo bão hòa oxy máu được WHO đặc biệt khuyến cáo để
bảo đảm an toàn gây mê. Trường hợp bệnh nhân cần phẫu thuật khẩn cấp để cứu tính
mạng, nhưng thiết bị này có vấn đề thì cả nhóm cần phải thống nhất bỏ qua và có sự
theo dõi chặt chẽ trong suốt quá trình phẫu thuật.
Ngoài các vấn đề được lưu ý như người bệnh có tiền sử dị ứng? người bệnh có
biểu hiện khó thở/nguy cơ hít khí thở …để điều chỉnh phương pháp gây mê phù hợp,
ví dụ gây mê vùng nếu có thể và chuẩn bị sẵn các thiết bị cấp cứu cần thiết. Việc gây
mê chỉ có thể tiến hành khi bác sĩ gây mê xác nhận đã có đầy đủ các thiết bị và sự hỗ
trợ cần thiết bên cạnh người bệnh đối với những người bệnh có nguy cơ ảnh hưởng
đường thở hoặc có biểu hiện khó thở. Việc mất máu trong quá trình phẫu thuật được
dự tính trước, đặc biệt lưu ý khả năng mất trên 500ml máu (hoặc tương đương 7ml/kg
ở trẻ em). Trước mổ cần được tính toán để dự trữ máu. Trong quá trình phẫu thuật,
phẫu thuật viên thường xuyên trao đổi với bác sĩ gây mê và nhóm điều dưỡng để
chuẩn bị đường truyền khi cần.
145
Giai đoạn gây mê và trước khi rạch da:
Trước khi rach da, mỗi thành viên trong nhóm sẽ giới thiệu tên tuổi và vai trò.
Nếu là nhóm tham gia phẫu thuật hàng ngày thì chỉ cần xác nhận mọi người trong
nhóm đã có mặt đầy đủ và xác nhận mọi người trong nhóm đều biết nhau. Lần nữa
toàn nhóm cần xác nhận họ thực hiện phẫu thuật cho đúng người bệnhvà xác nhận
bằng lời giữa các thành viên, sau đó là những điểm chủ yếu trong các kế hoạch phẫu
thuật sử dụng Bảng kiểm làm cơ sở hướng dẫn.
Mọi người cùng xác nhận việc sử dụng kháng sinh dự phòng trong vòng 60 phút
trước mổ. Nếu kháng sinh dự phòng chưa được dùng, cần cho ngay trước khi rạch da.
Trường hợp đã cho người bệnh sử dụng kháng sinh quá 60 phút “Nhóm phẫu thuật” có
thể cân nhắc để bổ xung nếu cần. Trường hợp kháng sinh dự phòng được cho là không
phù hợp (không rạch da, người bệnh đã bị nhiễm khuẩn trước đó và đã dùng kháng
sinh rồi ) thì sẽ đánh dấu vào ô “không áp dụng” với sự xác nhận của cả nhóm. Tiếp
theo đó, cả nhóm cần liên tục trao đổi các thông tin như: Tiên lượng các biến cố,
những bước chính và dự tính có xảy ra việc gì bất thường trong mổ? Thời gian phẫu
thuật dự kiến? Những lo ngại về phía phẫu thuật viên, về phía bác sĩ gây mê … Điều
dưỡng kiểm tra lại tình trạng vô trùng của vùng mổ người bệnh, cũng như các dụng cụ,
thiết bị trước khi tiến hành rạch da: máy hút, dao mổ điện, dàn mổ nội soi …
Hình ảnh hiển thị tại phòng mổ là việc cần thiết đảm bảo cho việc lên kế hoạch
mổ như đường mổ, cách thức phẫu thuật. Hiển thị hình ảnh cần được đảm bảo cả trong
suốt quá trình phẫu thuật.
Giai đoạn trong suốt quá trình phẫu thuật, ngay sau khi đóng da và chuẩn bị
chuyển người bệnh ra khỏi phòng mổ:
Trước khi rời phòng mổ, cả nhóm đánh giá lại cuộc mổ, hoàn thành việc kiểm tra
thiết bị sử dụng cho cuộc mổ, gạc phẫu thuật và dán mác bệnh phẩm phẫu thuật. Do
trong quá trình phẫu thuật có thể thay đổi hoặc mở rộng tùy theo tình trạng tổn thương
nên người phụ trách Bảng kiểm cần xác nhận với “Nhóm phẫu thuật” xem chính xác là
phẫu thuật/thủ thuật gì đã được thực hiện. Câu hỏi thường đặt ra như “Chúng ta vừa
tiến hành thủ thuật/phẫu thuật gì? “hoặc xác nhận” Chúng ta vừa tiến hành thủ thuật X
có đúng không ??” Một bước không kém phần quan trọng là dán nhãn bệnh phẩm hoặc
đọc to nhãn bệnh phẩm bao gồm cả tên người bệnh. Do việc dán nhãn không đúng
bệnh phẩm là nguy cơ tiềm ẩn đối với người bệnh, thậm chí mất bệnh phẩm sẽ dẫn đến
những sai sót hoặc khó khăn trong việc điều trị người bệnh về sau nên việc dán nhãn
cần được lưu ý. Người phụ trách cần xác nhận việc dán nhãn bệnh phẩm thu được
trong quá trình phẫu thuật là đúng bằng cách đọc to tên người bệnh, mô tả bệnh phẩm
và ghi thông tin người bệnh lên trên. Nhóm phẫu thuật cũng cần đánh giá lại hoạt động
của trang thiết bị, những hỏng hóc xảy ra nếu có hoặc những vấn đề liên quan cần giải
quyết. Cuối cùng cả nhóm sẽ trao đổi kế hoạch chính và những vấn đề liên quan tới xử
lý hậu phẫu và phục hồi của người bệnh trước khi chuyển người bệnh ra khỏi phòng
mổ. Trong quá trình phẫu thuật, đặc biệt các phẫu thuật phức tạp, nhiều chuyên khoa
… việc cử người phụ trách Bảng kiểm để giám sát mọi thành viên, tránh bỏ sót trong
tất cả mọi Giai đoạn. Chừng nào mà các thành viên của “Nhóm phẫu thuật” còn phải
146
làm quen với những khâu liên quan, người phụ trách Bảng kiểm sẽ tiếp tục hướng dẫn
cả “Nhóm phẫu thuật” thông qua quy trình bảng kiểm này. Do người phụ trách Bảng
kiểm có quyền dừng không cho tiến hành các bước tiếp theo nếu các bước trước đó
chưa được hoàn thành, đảm bảo cho cuộc mổ an toàn nên họ có thể gặp xung đột với
một vài các thành viên khác của nhóm. Vì vậy việc lựa chọn người phụ trách Bảng
kiểm cần phù hợp: có trách nhiệm và cả có tiếng nói đối với mọi người
2.5. Phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện
2.5.1. Khái niệm: Nhiễm khuẩn mà người bệnh mắc phải trong quá trình khám bệnh,
chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở yế được gọi chung là nhiễm khuẩn bệnh
viện (NKBV). Tất cả các người bệnh nằm điều trị tại bệnh viện đều có nguy cơ mắc
NKBV. Đối tượng có nguy cơ NKBV cao là trẻ em, người già, người bệnh suy giảm
hệ miễn dịch, thời gian nằm điều trị kéo dài, không tuân thủ nguyên tắc vô trùng trong
chăm sóc và đều trị, nhất là không tuân thủ rửa tay và sử dụng quá nhiều kháng sinh.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện được định nghĩa như
sau: “ Nhiễm khuẩn bệnh viện là những nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian người
bệnh điều trị tại bệnh viện và nhiễm khuẩn này không hiện diện cũng như không nằm
trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện. NKBV thường xuất hiện sau 48 giờ kể
từ khi người bệnh nhập viện”

Sơ đồ 1: thời gian xuất hiện NKBV


Nhiễm khuẩn liên quan đến CSYT không chỉ là chỉ số chất lượng chuyên môn,
mà còn là chỉ số an toàn của người bệnh, chỉ số đánh giá sự tuân thủ về thực hành của
nhân viên y tế (NVYT), chỉ số đánh giá hiệu lực của công tác quản lý và là một chỉ số
rất nhạy cảm đối với người bệnh và xã hội.
2.5.2. Hậu quả của nhiễm khuẩn bệnh viện:

147
Nhiễm khuẩn bệnh viện dẫn đến nhiều hệ luỵ cho người bệnh và cho hệ thống y
tế như: tăng biến chứng và tử vong cho người bệnh; kéo dài thời gian nằm viện trung
bình từ 7 đến 15 ngày; tăng sử dụng kháng sinh dẫn đến tăng sự kháng thuốc của vi
sinh vật và tăng chi phí điều trị cho một NKBV thường gấp 2 đến 4 lần so với những
trường hợp không NKBV.
Theo báo cáo của một số nghiên cứu: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn huyết
bệnh viện là $34.508 đến $56.000 và do viêm phổi bệnh viện là $5.800 đến $40.000.
Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV, làm tốn thêm 4,5 tỉ
dollar viện phí. Ở Việt Nam, chưa có những nghiên cứu quốc gia đánh giá chi phí của
NKBV, một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy NKBV làm kéo dài thời gian
nằm viện 15 ngày với chi phí trung bình mỗi ngày là 1.192.000 VND và ước tính chi
phí phát sinh do NKBV vào khoảng 8 -12.880.000 VND/ người bệnh.
2.5.3. Phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện
Việc phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện có nhiều hoạt động, tuy nhiên trực tiếp
phải bảo đảo các nguyên tắc của phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa dựa theo đường
truyền.
2.5.3.1. Phòng ngừa chuẩn.
Phòng ngừa chuẩn được định nghĩa là tập hợp các biện pháp phòng ngừa áp dụng
cho tất cả những người bệnh trong bệnh viện không tùy thuộc vào chẩn đoán và tình
trạng nhiễm khuẩn của người bệnh. Mục tiêu của phòng ngừa chuẩn là nhằm phòng
ngừa và kiểm soát lây nhiễm chéo qua máu, dịch tiết cơ thể, chất tiết (trừ mồ hôi) cho
dù chúng được nhìn thấy có chứa máu hay không, và da không lành lặn và niêm mạc.
Coi tất cả máu, dịch sinh học, các chất tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi) đều có nguy cơ
lây bệnh truyền nhiễm. Đây là biện pháp phòng ngừa quan trọng nhất, nhằm hạn chế
cả sự lây truyền từ người sang người cũng như từ người sang môi trường.
Có 9 nội dung chính khi thực hiện phòng ngừa chuẩn như sau:
Những nội dung chính của phòng ngừa chuẩn
1.Vệ sinh tay
2. Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân khi xử lý máu, dịch tiết, chất tiết
hay khi dự kiến sẽ tiếp xúc với máu, dịch tiết, chất tiết
3. Tuân thủ quy tắc vệ sinh hô hấp và vệ sinh khi ho
4. Khử, tiệt khuẩn đúng quy định các dụng cụ chăm sóc người bệnh
5. Xếp chỗ cho người bệnh thích hợp
6. Thực hiện tiêm an toàn và phòng ngừa tổn thương do vật sắc nhọn
7. Quản lý đồ vải phòng lây nhiễm
8. Vệ sinh môi trường trong chăm sóc người bệnh
9. Xử lý chất thải đúng quy định

2.5.3.2. Phòng ngừa dựa trên đường lây truyền (phòng ngừa bổ sung)

148
Phòng ngừa này áp dụng cho những bệnh nhân nghi ngờ có nhiễm những tác
nhân gây bệnh quan trọng lây truyền qua tiếp xúc, qua không khí hoặc qua giọt bắn.
Ba phòng ngừa này có thể kết hợp với nhau cho những bệnh có nhiều đường lây
truyền. Khi sử dụng đơn thuần hay phối hợp chúng phải được kết hợp với phòng ngừa
chuẩn.
- Cách ly phòng ngừa qua tiếp xúc (Contact Isolation/Precautions)
Lây truyền qua tiếp xúc xảy ra do sự tiếp xúc giữa da và da và có sự truyền vi
sinh vật từ người bệnh này qua người bệnh khác hay từ nhân viên y tế qua tiếp xúc về
mặt vật lý. Bệnh lây truyền qua đường này thường do cộng sinh hay nhiễm trùng
những vi sinh vật đa kháng, các nhiễm trùng da và đường ruột như MRSA, Herpes
Simplex, chốc, ghẻ, chấy rận, đậu mùa, zona, nhiễm cúm (kể cả H5N1), SARS.
Những trẻ em dưới 6 tuổi thường dễ bị lây truyền virus đường ruột, viêm gan A qua
đường này.
- Cách ly phòng ngừa qua giọt bắn (Droplet Isolation/ Precautions)
Lây truyền theo giọt bắn xảy ra do những bệnh nguyên lây truyền qua những giọt
phân tử hô hấp lớn (>5m) tạo ra trong trong quá trình ho, hắt hơi, nói chuyện hoặc
trong một số thủ thuật như hút rửa, nội soi. Sự lây truyền qua giọt li ti cần sự tiếp xúc
gần giữa người bệnh và người nhận bởi vì những giọt li ti chứa vi sinh vật xuất phát từ
người mang vi sinh vật thường chỉ di chuyển một khoảng ngắn trong không khí (< 1
mét) và đi vào kết mạc mắt, niêm mạc mũi, miệng của người kế cận. Các bệnh nguyên
thường gặp lây theo đường này bao gồm viêm phổi, ho gà, bạch hầu, cúm (kể cả
H5N1), SARS, quai bị và viêm màng não.
- Cách ly qua đường khí (Airborne Isolation/ Precautions)
Lây truyền bằng đường không khí xảy ra do sự lây lan những giọt nước bốc hơi
trong không khí chứa tác nhân nhiễm khuẩn có kích thước phân tử nhỏ hơn (<5m)
phát sinh ra khi bệnh nhân ho, hay hắt hơi. Vi sinh vật lan truyền theo cách này có thể
phân tán rộng trong dòng không khí, có thể lơ lửng trong không khí lưu chuyển trong
môt thời gian dài. Vì thế chúng có thể bị hít vào hoặc tích tụ lại ở những vật chủ nhạy
cảm trong cùng một căn phòng hoặc có thể phân tán đi đến một khoảng cách xa hơn
tùy thuộc vào các yếu tố môi trường. Những vi sinh vật truyền bằng đường khí như lao
phổi, rubeola, thủy đậu. H5N1 và SARS cũng có thể lây qua đường này khi thực hiện
các thủ thuật có tạo khí dung. Việc xử lý không khí và thông khí là cần thiết để ngăn
ngừa sự truyền bệnh.
2.6. Phòng ngừa sự cố y khoa trong chăm sóc và sử dụng trang thiết bị vật tư y tế
Môi trường chăm sóc trong các cơ sở y tế cần đạt được các tiêu chuẩn về an toàn.
Các hạn chế trong môi trường chăm sóc và sử dụng trang thiết bị thường là một trong
những nguyên do gốc gây nên sự cố. Theo tổng kết các báo cáo sự cố, tai nạn té ngã
dẫn đến tử vong đứng thứ hạng cao trong danh mục sự cố thường gặp. Cháy nổ trong
phòng mổ cũng là vấn đề ưu tiên hàng đầu ở các cơ sở cấp cứu và phẫu thuật tại chỗ.
Cơ sở y tế cần xây dựng và thực hiện qui trình báo cáo và điều tra các sự cố liên quan

149
đến môi trường chăm sóc và sử dụng trang thiết bị. Các sự cố liên quan đến môi
trường chăm sóc và sử dụng trang thiết bị có thể bao gồm:
- Các sự cố về an ninh liên quan đến bệnh nhân, nhân viên, và những người có
mặt hoặc liên quan đến cơ sở vật chất.
- Việc đổ tràn ra ngoài các nguyên vật liệu nguy hiểm và chất thải và những sự
việc liên quan khác
- Các vấn đề về quản lý an toàn cháy nổ, sự thiếu hụt, và sự ngừng hoạt động.
- Các vấn đề về quản lý thiết bị, sự ngừng hoạt động, và sai sót của người sử
dụng.
- Các vấn đề về quản lý hệ thống tiện ích công cộng, sự ngừng hoạt động, và sai
sót của người sử dụng.
Các sự cố này có thể làm cho bệnh nhân và những người có mặt bị thương, làm
hư hại cơ sở vật chất, gây bệnh nghề nghiệp và các thương tổn khác cho nhân viên y
tế.
2.6.1. Các nguyên tắc phòng ngừa
Các tiêu chuẩn an toàn trong quản lý môi trường chăm sóc đòi hỏi các cơ sở y tế
phải:
- Thu thập thông tin về những thiếu sót và những cơ hội cải tiến môi trường chăm
sóc như: rủi ro; sự ngừng hoạt động; các tai nạn trong môi trường liên quan đến những
lĩnh vực như an toàn; an ninh; các vật liệu nguy hiểm; quản lý khẩn cấp; quản lý trang
thiết bị; an sinh; lãng phí và các vấn đề khác về môi trường.
- Phân tích kịp thời các vấn đề về môi trường đã được xác định và triển khai các
biện pháp giải quyết.
- Xây dựng kế hoạch quản lý môi trường chăm sóc. Các mục tiêu, phạm vi, viêc
thực hiện, và hiệu quả của từng kế hoạch quản lý môi trường chăm sóc được thẩm định
hàng năm
- Xây dựng và thực hiện qui trình theo dõi liên tục các nguy cơ hiện hữu và nguy
cơ tiềm ẩn trong kế hoạch quản lý môi trường chăm sóc.
- Xây dựng các hướng dẫn đánh giá, các qui trình để giải quyết các vấn đề về môi
trường chăm sóc.
- Thành lập hội đồng an toàn người bệnh và họp thường xuyên để đưa ra các vấn
đề về môi trường chăm sóc
- Các vấn đề về môi trường chăm sóc được thông báo cho lãnh đạo cơ sở và
(những) người chịu trách nhiệm cho các hoạt động cải tiến.
- Các đề xuất cần được xem xét và triển khai khi có thể
- Phân công một/nhiều người để theo dõi, giám sát và xừ lý những vấn đề về môi
trường của cơ sở, với nhiệm vụ:

150
+ Thu thập thông tin liên tục về những thiếu hụt và những cơ hội cải tiến trong
môi trường chăm sóc.
+ Phổ biến các nguồn thông tin, chẳng hạn như các thông báo nguy hiểm hoặc
các báo cáo sự việc đã xảy ra.
+ Báo cáo những hạn chế, khó khăn, sự ngừng hoạt động, và các sai sót của
người sử dụng liên quan đến việc quản lý môi trường chăm sóc.
+ Đề xuất, thực hiện và báo cáo kết quả của các hoạt động cải tiến. Đề xuất cải
tiến giải quyết những vấn đề an toàn môi trường trình ít nhất mỗi năm một lần đến
lãnh đạo cơ sở dựa trên sự theo dõi liên tục việc thực hiện các kế hoạch quản lý môi
trường chăm sóc
+ Tham gia vào việc giám sát và báo cáo sự cố.
+ Tham gia vào việc triển khai các chính sách an toàn và các phương thức thực
hiện
Các tiêu chuẩn nhằm giảm sự cố liên quan đến lĩnh vực sử dụng trang thiết bị bao
gồm lập kế hoạch và chọn lựa; bảo trì, thử nghiệm, và kiểm tra; đào tạo và tập huấn;
phân phát và lắp đặt; và ngăn ngừa rủi ro liên quan đến trang thiết bị và vật dụng khác.
Các công đoạn của quy trình này gồm có:
- Chọn lựa.
- Các chiến lược bảo trì.
- Việc thẩm định có định kỳ.
- Hướng dẫn và huấn luyện.
2.6.2. Các biện pháp phòng ngừa
2.6.2.1. Giảm nguy cơ gây thương tổn cho bệnh nhân do bị ngã.
Nguy cơ té ngã có thể do môi trường chăm sóc hoặc do bản thân người bệnh.
Nguy cơ té ngã có thể do môi trường chăm sóc bao gồm những thiết kế cơ sở vật chất,
vật dụng không phù hợp cho người bệnh. Nguy cơ do bản thân người bệnh bao gồm có
tiền sử té ngã trước đó, khiếm khuyết về cảm giác và thính giác, suy nhược thần kinh,
bị xúc động suy nhược thăng bằng hoặc vận động, các vấn đề về cơ xương, các bệnh
mãn tính, rối loạn tiểu tiện, các vấn đề về dinh dưỡng, và việc sử dụng nhiều loại thuốc
khác nhau.
- Cơ sở y tế, đặc biệt các nhà dưỡng lão, cần thực hiện chương trình giảm té ngã
và đánh giá hiệu quả của chương trình. Chương trình giảm té ngã bao gồm các chiến
lược giảm rủi ro, thực hành tại chỗ, sự tham gia cuả bệnh nhân/gia đình trong huấn
luyện, và việc thẩm định môi trường điều trị.
- Thành lập ban ngăn ngừa té ngã để đánh giá những bệnh nhân mới về nguy cơ
té ngã tiếm ẩn; để rà soát thường xuyên các cú té ngã, thẩm định sự tham gia, và tìm
kiếm các xu hướng và mô hình mới; và để trao đổi những phát hiện mới với các nhân
viên khác.
151
- Cơ sở y tế phải đánh giá ban đầu và thường xuyên nguy cơ té ngã của bệnh
nhân và có biện pháp ngăn ngừa các khả năng té ngã tiềm ẩn. Cần đánh giá toàn diện
bệnh nhân lúc ban đầu khi bệnh nhân nhập viện, xác định mức độ nhận thức chung,
sức mạnh của cơ, sự đau đớn, và khả năng thể hiện hoạt động hàng ngày của bệnh
nhân. Cần đánh giá định kỳ từng nguy cơ bị ngã của bệnh nhân, bao gồm cả nguy cơ
tiềm ẩn.
- Sử dụng các kỹ thuật đánh giá khác nhau, như quan sát hoặc trao đổi với cá
nhân bệnh nhân và gia đình để đánh giá toàn diện đến mức có thể.
- Nhân viên y tế phải trao đổi với gia đình bệnh nhân và những người quan trọng
khác việc đánh giá toàn diện nguy cơ té ngã. Thông báo cho các thành viên của gia
đình bệnh nhân các yếu tố làm gia tăng nguy cơ té ngã
- Dựa vào đánh giá, nhân viên y tế đưa ra những kiến nghị và thực hiện phương
pháp chủ động ngăn ngừa té ngã trong kế hoạch và thực hiện chăm sóc bệnh nhân. Bất
cứ nguy cơ nào đã được nhận diện đều cần được xử lý ngay.
- Nhân viên y tế cần phải xem xét tất cả thuốc gồm tất cả thuốc cấp theo đơn,
thuốc mua tại quầy, và những thứ bổ sung mà bệnh nhân đã sử dụng. Lưu hồ sơ tình
trạng dị ứng thuốc và tiền sử lạm dụng thuốc, kể cả lạm dụng thuốc an thần và các loại
thuốc theo đơn khác. Việc thay đổi thuốc – gồm có thuốc gây nghiện và càc liều lượng
tăng hoặc giảm – đòi hỏi phải theo dõi hết sức cảnh giác các phản ứng phụ mới có thể
xảy ra. Một loại thuốc mới thêm vào các loại thuốc bệnh nhân đang dùng có thể tạo
nên cơn chóng mặt, gây buồn ngủ, hoặc các triệu chứng khác có thể đưa bệnh nhân
đến nguy cơ té ngã nhiều hơn.
+ Thường xuyên tái đánh giá và lưu ý những biểu hiện khi bệnh nhân đã trải qua
gây mê Một số biện pháp cải tiến môi trường giúp giảm té ngã:
- Lắp đặt chuông báo động tại giường hoặc thiết kế lại hệ thống kiểm soát và
kiểm tra chuông báo động tại giường.
- Lắp đặt các ổ khoá tự động ở các phòng phục vụ (như phòng giặt, v.v..) - Hạn
chế việc mở cửa sổ khi có nguy cơ.
- Lắp đặt chuông báo động ở các lối ra vào. - Bổ sung phần ngăn ngừa té ngã vào
chương trình huấn luyện bệnh nhân và gia đình họ.
- Cải tiến và chuẩn hoá hệ thống gọi điều dưỡng. - Sử dụng “giường thấp” cho
những người có nguy cơ té ngã.
2.6.2.2. Giảm nguy cơ cháy nổ trong phẫu thuật
Cơ sở y tế có thể ngăn ngừa nguy cơ cháy nổ trong phẫu thuật và quản lý tốt sự
cháy nổ nếu nó xảy ra trong phòng mổ bằng các biện pháp sau:
* Xây dựng kế hoạch, quy trình chống cháy nổ trong phẫu thuật.
Kế hoạch cần đảm bảo cung cấp các nhân viên có đủ thông tin để ngăn ngừa
hoặc quản lý hiệu quả vụ cháy ở phòng mổ. Kế hoạch đưa ra được những vấn đề như
chuỗi mệnh lệnh trong tình trạng khẩn cấp, xác định rõ ràng trách nhiệm của các thành
152
viên, và các lộ trình sơ tán chính và phụ ngang qua bức tường lửa. Cần đưa ra các
hướng dẫn cụ thể về:
- Việc sơ tán
- Chi tiết các tài liêu lưu trữ, thiết bị, dụng cụ, hàng dự trữ, và những thứ khác
cần được bảo vệ để kiểm tra sau vụ hoả hoạn.
- Bản hướng dẫn sử dụng oxy để giảm đến tối thiểu tập trung oxygen dưới các
drap phủ - Hướng dẫn quản lý các dung dịch có cồn dùng trong sát trùng da.
* Khuyến khích nhân viên y tế học tập và tự rèn luyện về phòng chống cháy nổ.
- Bảo đảm nhân viên được tập huấn về những rủi ro cháy nổ đặc biệt trong khu
phẫu thuật và cách xử lý ngăn ngừa và dập tắt cháy nổ.
- Khuyến khích nhân viên tham gia vào tìm hiểu các hoạt động tự hướng dẫn, bao
gồm:
+ Từng người cần ghi nhớ vị trí bình chữa lửa, hộp kéo chuông báo động, cửa
thoát hiểm, bình thở oxygen, và lộ trình sơ tán khả thi;
+ Tự học để kích hoạt hệ thống báo động và ghi nhận cháy nổ
- Nhân viên phải biết nơi cất giữ và biết sử dụng bình chữa cháy, cũng như chuẩn
bị tinh thần đón nhận rủi ro cho từng trường hợp phẫu thuật mà họ tham gia.
* Huấn luyện tất cả nhân viên để quản lý 3 yếu tố cháy nổ.
Các nguy cơ của một vụ cháy luôn luôn hiện diện trong suốt cuộc phẫu thuật và
hình thành cháy nổ: khí, oxygen, và nguồn nhiệt. Các nhà phẫu thuật phải kiểm soát
được nguồn nhiệt (các dụng cụ mổ như thiết bị đốt điện, dao mổ laser, nguồn ánh sáng
quang học, và các tia cao áp tĩnh điện) bằng cách dùng các bao che hoặc sử dụng các
phương tiện dự trữ và ngăn chúng tiếp xúc khí. Các điều dưỡng có thể giới hạn sự hiện
diện của những chất dễ cháy (chẳng hạn như các tác nhân prepping, cồn, thuốc nhuộm,
thuốc mỡ, và các chất gây mê) để tránh bùng phát hoả hoạn. Các chuyên gia gây mê có
thể giảm đến tối thiểu việc tạo ra oxygen, có chứa nitrous oxide, và các loại khí hơi
khác bằng cách sử dụng các kỹ thuật tạo nút chặn
- Huấn luyện nhân viên, phẫu thuật viên và chuyên viên gây mê về cách kiểm
soát nguồn nhiệt và quản lý khí: (1) theo đúng các qui tắc an toàn tại khu vực có tia
laser và điện, (2) quản lý khí bằng cách cho đủ thời gian để chuẩn bị bệnh nhân, và (3)
xây dựng bảng hướng dẫn giảm đến tối thiểu việc tập trung oxygen dưới tấm vải phủ.
- Tiến hành các khoá huấn luyện đặc biệt về (1) việc sử dụng các thiết bị chống
cháy nổ, (2) các phương pháp đúng cách để cứu nạn và thoát hiểm, và (3) sự xác định
đúng vị trí của hệ thống ga y tế, gió, và điện, và các nút điều khiển, cũng như khi nào,
ở đâu, và bằng cách nào tắt các hệ thống này lại. - Không che phủ bệnh nhân cho đến
khi tất cả các vật chuẩn bị dễ cháy đều khô.
- Trong phẫu thuật hầu họng, ngâm miếng gạc hoặc miếng bọt biển dùng với
những cái ống thông khí quản để giảm đến tối thiểu sự rò rỉ O2 vào hầu họng, và giữ

153
cho chúng luôn ẩm. Cần làm ẩm các miếng bọt biển, gạc, và nút gạc (và các sợi dây
của chúng) để chúng không bắt lửa.
* Tiến hành các buổi tập luyện.
* Ưu tiên ngăn ngừa cháy nổ. Nhắc nhở và thông tin về an toàn cháy nổ thường
xuyên. Rà soát lại các phương thức xử lý khẩn cấp như là một phần của việc kiểm tra
trước khi phẫu thuật. Tất cả mọi người trong phòng mổ, giữ cho các yếu tố gây cháy
nổ không tiếp xúc lẫn nhau.
* Bảo đảm thiết bị được bảo trì và sử dụng hợp lý. Tất cả các thiết bị mổ bằng
điện phải được định lượng và kiểm tra thường xuyên.
2.6.2.3. Giảm nguy cơ tử vong do bị giữ chặt.
Những vật dụng có nguy cơ giữ chặt như áo lót hoặc áo chẽn đặc biệt đôi khi
được dùng để kiểm soát hoặc bảo vệ những người lớn tuổi, ốm yếu, không bình
thường, hay lo âu, và thậm chí bị hôn mê. Một số sự cố bị giữ chặt có thể phát xuất từ
một số yếu tố như sau:
- Sử dụng những tay vịn mà không có bộ phận bảo vệ tay vịn.
- Sử dụng thiết bị giữ chặt không đúng
- Sử dụng áo khoác cổ cao.
- Sử dụng không đúng các thiết bị giữ chặt
- Không dùng chuông báo động một cách thích hợp.
- Chuông báo động không hoạt động.
Các cơ sở y tế phải xem xét các biện pháp sau đây để giảm bớt nguy cơ tử vong
vì bị giữ chặt:
- Giảm thiểu đến mức thấp nhất việc sử dụng các vật dùng giữ chặt.
- Triển khai các qui định áp dụng một cách chặt chẽ vật giữ chặt.
- Tăng cường theo dõi những người bệnh nào có nguy cơ bị giữ chặt vì lý do rối
loạn hành vi.
- Nếu cần giữ chặt NB trong lúc đang ở vị trí nằm sấp, phải bảo đảm rằng đường
đi của không khí không bị tắc nghẽn (đặc biệt lưu ý trừơng hợp trẻ con, người già, và
những người béo phì).
- Không giữ chặt bn trên giường có những chấn song ngang khép mở không an
toàn.
- Bảo đảm rằng nhân viện y tế có thể nhanh chóng nới lỏng và di tản người bệnh
đang bị giữ chặt khi có đám cháy hoặc tai nạn do thiên tai.
- Bảo đảm rằng bệnh nhân đang bị giữ chặt không có trong người hoặc không có
thể đến gần bất cứ vật sắc bén hoặc vật bắt lửa nào
- Khuyến khích sử dụng các “biện pháp thay thế” cho việc giữ chặt.

154
2.6.2.4. Cải tiến an toàn trong việc dùng bơm truyền dịch
Thiếu kiểm soát mức độ chảy và không giới hạn dịch truyền và/hoặc thuốc vào
cơ thể bệnh nhân sẽ dẫn đến tử vong hoặc thương tổn nghiêm trọng. Cần bảo đảm tất
cả các bơm truyền dịch tĩnh mạch thông thường và bơm truyền dịch tĩnh mạch lưu
thông thông suốt.
Để kiểm tra xem bơm truyền dịch có thiết bị bảo vệ dòng chảy hay không, tắt
địện nhưng giữ cho bộ phận truyền vẫn truyền và tải trong thiết bị. Trong khi để tất cả
các cái kẹp của hệ thống bơm mở và bình chứa dịch truyền được giữ trên cao đến mức
có thể được, phải không có chút dịch truyền nào chảy ra ngoài bộ phận này khi nó treo
thẳng đứng. Sau đó, tháo rời bộ phận truyền ra khỏi thiết bị (với các cái kẹp vẫn mở)
và một lần nữa kiểm tra rằng hoàn toàn không có dịch truyền nào chảy ra khỏi bộ phận
truyền
3. BÁO CÁO VÀ GHI NHẬN SỰ CỐ Y KHOA
3.1. Nhận diện sự cố y khoa
Khi phát hiện sự cố y khoa, nhân viên y tế có trách nhiệm nhận diện và phân biệt
sự cố y khoa theo các trường hợp mô tả, diễn biến tình huống, mức độ tổn thương quy
định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 43/2018/TT-BYT ngày 26/12/2018
của Bộ trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn phòng ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh (Phụ lục kèm theo).
3.2. Các hình thức báo cáo sự cố y khoa
a) Báo cáo tự nguyện: được thực hiện bằng văn bản hoặc báo cáo điện tử. Trường
hợp cần báo cáo khẩn cấp thì có thể báo cáo trực tiếp hoặc báo cáo qua điện thoại
nhưng sau đó vẫn phải thực hiện ghi nhận lại bằng văn bản.
b) Báo cáo bắt buộc: báo cáo bằng văn bản hỏa tốc hoặc báo cáo điện tử đối với
sự cố y khoa gây tổn thương nặng (NC3) quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo
Thông tư 43. Riêng đối với sự cố y khoa nghiêm trọng theo quy quy định phải báo cáo
trước bằng điện thoại trong thời hạn 01 giờ, kể từ khi phát hiện sự cố.
3.3. Hệ thống báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa
Thông tư số 43/2018/TT-BYT ngày 26/12/2018 của Bộ Y tế hướng dẫn phòng
ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã quy định việc báo cáo và
ghi nhận sự cố y khoa tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh như sau:
3.3.1. Tổng hợp báo cáo sự cố y khoa tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
- Tổng hợp báo cáo sự cố y khoa gửi cơ quan quản lý định kỳ 6 tháng một lần.
- Nội dung tổng hợp báo cáo gồm:
+ Số lượng báo cáo sự cố y khoa bắt buộc và tự nguyện
+ Tần suất xảy ra đối với từng loại sự cố
+ Kết quả phân tích nguyên nhân gốc
+ Giải pháp và khuyến cáo phòng ngừa đã đề xuất và được triển khai
155
- Ghi nhận sự cố y khoa:
+ Phòng quản lý chất lượng, Tổ quản lý chất lượng hoặc nhân viên chuyên trách
về quản lý chất lượng là bộ phận tiếp nhận và quản lý sự cố y khoa tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh và thực hiện việc ghi nhận các báo cáo trực tiếp, báo cáo qua điện
thoại theo Mẫu Báo cáo sự cố y khoa để lưu giữ.
+ Tất cả các sự cố y khoa được báo cáo phải được ghi nhận và lưu giữ vào hồ sơ
hoặc vào hệ thống báo cáo sự cố y khoa trực tuyến. Các sự cố y khoa nghiêm trọng
quy định phải chia sẻ báo cáo đến cơ quan quản lý trực tiếp của cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh và Bộ Y tế.
3.3.2. Báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa tại Sở Y tế:
- Phòng Nghiệp vụ Y, Sở Y tế tổng hợp báo cáo sự cố y khoa của các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh trực thuộc đưa ra danh mục sự cố y khoa theo mức độ nghiêm trọng
và tần suất xảy ra để xác định xu hướng của các nhóm sự cố y khoa, ban hành các
khuyến cáo phòng ngừa sự cố y khoa chung cho các đơn vị trực thuộc.
- Định kỳ hàng quý tổng hợp các khuyến cáo báo cáo về Bộ Y tế (Cục Quản lý
Khám, chữa bệnh).
3.3.3. Báo cáo và ghi nhận sự cố y khoa tại Bộ Y tế:
Cục Quản lý Khám chữa bệnh là đơn vị đầu mối tiếp nhận báo cáo, phân loại sự
cố y khoa của các cơ sở y tế trực thuộc Bộ Y tế.
- Cục Quản lý Khám chữa bệnh tổng hợp báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất
của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế và báo cáo tổng hợp của các
Sở Y tế.
- Định kỳ hàng quý phân tích báo cáo thống kê sự cố y khoa quốc gia, ban hành
các khuyến cáo phòng ngừa sự cố y khoa chung cho các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
toàn quốc.
4. PHẢN HỒI VỀ BÁO CÁO, XỬ LÝ SỰ CỐ Y KHOA
4.1. Phản hồi về báo cáo, xử lý sự cố y khoa
- Bộ phận tiếp nhận và quản lý sự cố y khoa của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
phản hồi lại thông tin cho các cá nhân, tổ chức có báo cáo sự cố y khoa tại buổi giao
ban của khoa, phòng, bệnh viện.
- Đơn vị đầu mối của Bộ Y tế, Sở Y tế phản hồi lại thông tin cho các cá nhân, tổ
chức có báo cáo sự cố y khoa bằng văn bản.
4.2. Xử lý sự cố y khoa
- Nhân viên y tế làm việc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi phát hiện sự cố
y khoa phải xử lý ngay để bảo đảm an toàn cho người bệnh trước khi báo cáo cho bộ
phận tiếp nhận và quản lý sự cố y khoa.
- Sở Y tế chỉ đạo trực tiếp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc các biện pháp
bảo đảm an toàn cho người bệnh và tiến hành điều tra, báo cáo nhanh cho Bộ Y tế
156
trong thời hạn 24 giờ kể từ khi xảy ra sự cố đối với sự cố y khoa quy định tại điểm b
Khoản 1 Điều 5.
- Bộ Y tế chỉ đạo trực tiếp cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc biện pháp bảo
đảm an toàn cho người bệnh và tiến hành điều tra, báo cáo nhanh trong thời hạn 24 giờ
kể từ khi xảy ra sự cố đối với sự cố y khoa quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 5.
5. CÁC VĂN BẢN PHÁP QUY LIÊN QUAN ĐẾN AN TOÀN NGƯỜI BỆNH
An toàn người bệnh trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh.
Nghị định số 102/2011/NĐ-CP về bảo hiểm trách nhiệm trong khám bệnh, chữa
bệnh.
Thông tư 43/2018/TT-BYT hướng dẫn phòng ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh
Thông tư 19/2013/TT-BYT hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện
Tiêu chí về an toàn và sự hài lòng của người bệnh trong Bộ tiêu chí đánh giá chất
lượng bệnh viện.
Quy định về phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


Câu 1: Trình bày về thực trạng sự cố y khoa?
Câu 2: Trình bày phân loại sự cố y khoa?
Câu 3: Phân tích nguyên nhân gốc của sự cố y khoa?
Câu 4: Trình bày các biện pháp cải tiến sự chính xác trong việc xác định bệnh nhân?
Câu 5: Trình bày các biện pháp giảm nguy cơ gây thương tổn cho bệnh nhân bị ngã?

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Thông tư 16/2018/TT-BYT ngày 20 tháng 7 năm 2018, quy định về kiểm soát
nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
2. Quyết định số 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
phê duyệt các Hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh.
3. Quyết định số 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
ban hành hướng dẫn giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện trong các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh.
4. Quyết định số 6858/QĐ-BYT ngày 18 tháng 11 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Y
tế ban hành Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam.

157
CHUYỀN ĐỀ 4
TỔ CHỨC VÀ GIÁM SÁT CÁC DỊCH VỤ
CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN THEO HƯỚNG DẪN QUỐC GIA

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 08 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP:


1. Trình bày được lập kế hoạch y tế là gì?
2. Trình bày được giám sát và đánh giá là gì?

1.LẬP KẾ HOẠCH Y TẾ
1.1. Các khái niệm cơ bản
Lập kế hoạch (LKH) là quá trình tìm ra các bước đi tối ưu nhằm đạt được các
mục tiêu đã đề ra dựa trên cơ sở tính toán một cách đầy đủ và khoa học về các
điều kiện, các phương tiện, các nguồn lực hiện có hoặc sẽ có trong tương lai
(huy động được)
1.2. Đặc điểm của lập kế hoạch
- Lập kế hoạch vừa là chức năng vừa là công cụ quản lý
- Đối với nhà quản lý, khả năng lập kế hoạch chính là yếu tố quan trọng nhất
phản ánh trình độ năng lực, nó quyết định xem người quản lý đó có khả năng
thực hiện được vai trò quản lý hay không
1.3. Tầm quan trọng của LKH
- Phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất nhằm đạt được mục tiêu đề ra
- Lập kế hoạch là chức năng cơ bản đầu tiên và là công cụ quản lý của các
nhà quản lý
Phân loại LKH
1. Theo thời gian
- LKH ngắn hạn (hiện tại)
- LKH trung hạn (1-2 năm)
- LKH dài hạn (2 năm trở lên)
2. Theo cấp độ:
◦ Vĩ mô/chiến lược: dài hạn, mang tính chiến lược, cấp quản lý cao xây
dựng (Ngành, nhà nước,..)
◦ Vi mô: ngắn hạn, mang tính chiến thuật, dùng để triển khai kế hoạch vĩ

158
3. Theo phạm vi:
◦ Tổng thể: vĩ mô, mô tả toàn bộ chương trình/dự án
◦ Bộ phận: cụ thể, mô tả chi tiết cấu phần của một chương trình/dự án
4. Theo tần số và tính đặc thù của kế hoạch:
◦ LKH thường quy: là các kế hoạch thực hiện được sử dụng để thực hiện
những nhiệm vụ thường xuyên trong tổ chức hoặc nhằm liên tục tăng
cường chất lượng của các dịch vụ/hoạt động
◦ LKH một lần: thường dùng khi cần đến một sự thay đổi cụ thể trong một
lĩnh vực nào đó để tạo ra một bước nhảy vọt (dự án)
◦ LKH đối phó khẩn cấp: Lập các kế hoạch để xử trí kịp thời các tình
huống bất ngờ xảy ra: dịch bệnh, lũ lụt
5. Theo phương pháp xây dựng kế hoạch
◦ LKH từ trên xuống: là quá trình chuyển kế hoạch vĩ mô thành kế hoạch
cơ sở nhằm đạt được một chỉ tiêu được phân bổ từ trên xuống => Không
phản ánh nhu cầu thực tế => Hiệu quả không cao
◦ LKH từ dưới lên: (LKH từ cơ sở, LKH theo định hướng vấn đề, LKH
theo nhu cầu,…) ◦ Dựa trên tình hình thực tế ◦ Có sự tham gia: lãnh đạo,
người làm trực tiếp, cộng đồng ◦ => Chủ động giải quyết vấn đề thực tế + đòi
hỏi năng lực LKH của các cán bộ tốt.
1.4. Các bước lập kế hoạch
Bước 1: Phân tích tình hình hiện tại
Bước 2: Xác định các vấn đề sức khỏe, lựa chọn vấn đề sức khỏe ưu tiên
Bước 3: Xác định mục tiêu
Bước 4: Lựa chọn giải pháp/ hoạt động
Bước 5: Lập kế hoạch hoạt động
2. GIÁM SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC CS SKSS
2.1. Giám sát là gì?
Giám sát một chương trình là thu thập dữ liệu định kỳ để đo lường tiến độ
thực hiện chương trình nhằm đạt được mục tiêu của chương trình. Giám sát
được sử dụng để theo dõi những thay đổi trong khi thực hiện chương trình. Mục
đích để cho phép các bên liên quan đưa ra quyết định tùy thuộc vào tính hiệu
quả của chương trình và hiệu quả của việc sử dụng nguồn lực. Giám sát đôi khi
còn được gọi là đánh giá quá trình bởi vì nó tập trung vào quá trình thực hiện và
đặt ra các câu hỏi then chốt:
 Chương trình được triển khai tốt ở mức độ nào?
 Có sự khác biệt nào khi triển khai chương trình ở địa điểm này so với ở
địa điểm khác?
 Chương trình có mang lại lợi ích cho đúng đối tượng không? Và với chi
phí bao nhiêu?
159
2.2. Tầm quan trọng của giám sát
 Đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động chương trình và chuyển giao
dịch vụ dựa trên bằng chứng khách quan.
 Đảm bảo sử dụng nguồn lực hiệu quả và hiệu suất nhất
 Đánh giá một cách khách chương trình nào đang có hay đã có kết quả mong
đợi, vùng nào có hiệu quả và vùng nào cần điều chỉnh
 Đáp ứng được việc báo cáo và các yêu cầu khác, thuyết phục các nhà tài trợ
rằng đầu tư của họ xứng đáng, hoặc phải xem xét những cách tiếp cận khác
2.3. Nguyên tắc của giám sát
Giám sát:
 Là một quá trình liên tục.
 Đòi hỏi việc thu thập các dữ liệu tại nhiều giai đoạn, kể cả dữ liệu trước khi
bắt đầu chương trình.
 Được sử dụng để quyết định hoạt động nào cần phài điều chỉnh để đạt được
kết quả mong đợi muốn.
2.4. Phương pháp và hình thức giám sát
Giám sát và đánh giá là một quá trình liên tục diễn ra trong suốt quá trình
triển khai chương trình..
Để có hiệu quả nhất, giám sát và đánh giá nên được lập kế hoạch trong giai
đoạn thiết kế chương trình, với thời gian, kinh phí và nhân lực cần được tính
toán và phân bổ trước.
Giám sát cần được thực hiện ở mọi giai đoạn trong quá trình triển khai
chương trình, thông tin được thu thập, phân tích và sử dụng trên một cơ sở
liên tục.
Đánh giá thường được tiến hành vào cuối chương trình. Tuy nhiên, đánh giá
phải được lập kế hoạch ngay tại thời điểm bắt đầu bởi vì nó thường dựa trên
các thông tin được thu thập trong toàn bộ chương trình, đặc biệt quan trọng là
thông tin ban đầu
2.5. Quy trình giám sát
- Những giả thiết cơ bản từ đó những kết quả của mục tiêu phụ thuộc vào.
- Mối quan hệ dự kiến giữa các hoạt động, kết quả trung gian và kết quả đầu
ra.
- Vạch rõ các định nghĩa và những phương pháp đo lường cùng với những giá
trị cơ sở
- Lịch trình giám sát.
- Danh sách nguồn số liệu sẽ được sử dụng.
- Ước tính chi phí cho các hoạt động giám sát và đánh giá.

160
- Danh sách các đối tác để giúp đạt được kết quả mong muốn, và
- Kế hoạch phổ biến và sử dụng thông tin thu được.
2.6. Phương pháp xây dựng công cụ giám sát
- Giới thiệu.
- Mô tả chương trình và khung cấu trúc.
- Mô tả chi tiết về các chỉ số của kế hoạch
- Kế hoạch thu thập số liệu.
- Kế hoạch giám sát.
- Kế hoạch đánh giá.
- Kế hoạch sử dụng thông tin thu được.
- Cơ chế cập nhật kế hoạch.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


1. Nêu khái niệm về lập kế hoạch y tế?
2. Trình bày tầm quan trọng của lập kế hoạch y tế
3. Trình bày tầm quan trọng của giám sát
4. Trình bày các nguyên tắc cơ bản của giám sát

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Berttand JT, Escudero G. Bảng tóm tắt về các chỉ số để đánh giá chương trình
chăm sóc sức khỏe sinh sản. Tuyển tập MEASURE Evaluation Manual Số 6.
Nhà xuất bản Hill. NC: Dự án MEASURE Evaluation, Trung tâm dân số
Carolina; 2002.
Marsh D. Khung kết quả và giám sát chương trình (Tài liệu online). Save the
Children, 1999. Đăng ngày 05/01/2007 tại trang web
http://www.childsurvival.com/tools/Marsh/sld0001.htm
MEASURE Evaluation. Tài liệu hướng dẫn những nguyên tắc cơ bản của giám
sát và đánh giá chương trình dân số, sức khỏe và dinh dưỡng. Tuyển tập
MEASURE Evaluation Manual số 5. Nhà xuất bản Hill. NC: Dự án
MEASURE Evaluation, Trung tâm Carolina Population; 2002. Có sẵn tại
trang web:
http://www.cpc.unc.edu/measure/publications/html/ms-02-05.html
Mosley WH, Chen LC. Khung phân tích cho nghiên cứu khả năng sống sót của
trẻ em tại các nước đang phát triển. Popul Devel Rev.1984;10 (Suppl):25-45.
Rossi PH, Freeman HE, Lipsey M. Đánh giá: Một sự tiếp cận hệ thống.
Thousand Oaks, CA: Sage Publications; 1999.
Nina Frankel, Anastasia Gage. Những nguyên tắc cơ bản về giám sát và đánh
giá; 2003

161
CHUYÊN ĐỀ 5
QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ, PHƯƠNG TIỆN CHĂM SÓC
TẠI CƠ SỞ Y TẾ

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 08 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Trình bày được khái niệm và phân loại trang thiết bị y tế
2. Phân tích được các yếu tố bên trong ảnh hưởng tới quản lý trang thiết bị y tế
3. Phân tích được các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới quản lý trang thiết bị y tế

NỘI DUNG
1. YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG/TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG
TRANG THIẾT BỊ Y TẾ (TTBYT) TẠI CÁC CƠ SỞ Y TẾ
1.1. Yếu tố bên trong
1.1.1. Năng lực quản lý TTBYT & hạ tầng kỹ thuật của cơ sở y tế (mạng LAN…)
* Căn cứ chủng loại thiết bị y tế được trang bị sử dụng:
TTBYT sử dụng rất phong phú, đa dạng về chủng loại và chúng còn được gọi là
đối tượng lao động, một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình thực hiện hoạt động dịch vụ
khám chữa bệnh (Thầy thuốc – Thuốc - TTBYT). Giữa TTBYT và tổ chức quản lý
dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Giá trị và giá trị
sử dụng của dược phẩm y tế được tăng lên gấp bội khi TTBYT tham gia liên tục vào quá
trình hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh tại BV.
Chủng loại TTBYT đơn giản hay phức tạp có ảnh hưởng đến tổ chức quản lý
dịch vụ KCB tại BV. Ngược lại, tổ chức dịch vụ KCB tại BV ở trình độ cao hay thấp
đều đòi hỏi việc sử dụng TTBYT phải đáp ứng được yêu cầu. Nhìn chung, mối quan
hệ giữa quản lý dịch vụ khám chữa bệnh và TTBYT thay đổi theo những đặc điểm
kinh tế - kỹ thuật của mỗi đơn vị và thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Vì vậy, để
có được phương án tổ chức quản lý TTBYT hợp lý và hiệu quả, mỗi đơn vị phải chú ý
và xác định cho được mức độ ảnh hưởng của TTBYT đối với đơn vị mình .
* Mỗi loại trang thiết bị y tế có đặc điểm riêng và được sử dụng linh hoạt cho các
đối tượng khác nhau. Đặc điểm TTBYT thể hiện:
- Trang thiết bị y tế là tài sản cố định có giá trị cao. Trang thiết bị hiện nay cho
ngành y tế thường là hiện đại nên có giá trị cao, đắt tiền. Nó được sản xuất gắn liền với
thành tựu của khoa học tiên tiến về khám chữa bệnh.
162
- Trang thiết bị y tế tại bệnh viện thường được hình thành từ nhiều nguồn vốn
khác nhau, trong đó có từ ngân sách nhà nước, các loại viện trợ, quỹ phát triển khoa
học và tự mỗi đơn vị mua sắm.
- Trang thiết bị y tế ở Việt Nam phần lớn được nhập khẩu từ các nước có nền
khoa học tiên tiến, hiện đại, đòi hỏi người sử dụng phải cập nhật và nâng cao trình độ
thường xuyên.
- Trang thiết bị y tế bao gồm nhiều loại khác nhau, có tính năng sử dụng khác
nhau.
TTBYT bao gồm các loại máy móc, thiết bị đặc thù. Tuy nhiên, cũng như các
loại máy móc thiết bị khác, quá trình sử dụng và vận hành các TTBYT sẽ dần xuất
hiện những vấn đề kỹ thuật, những điểm khiếm khuyết. Mỗi trang thiết bị y tế có một
đặc tính riêng, tuổi thọ và phương thức bảo quản, bảo trì, bảo dưỡng riêng. Do đó,
công tác quản lý TTBYT cũng cần quan tâm đặc biệt đến việc quản lý sử dụng. Đây là
cơ sở sở quan trọng nhằm điều chỉnh và sửa chữa kịp thời mỗi khi thiết bị y tế hư
hỏng. Công tác quản lý quá trình sử dụng TTBYT có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc đảm bảo TTBYT vận hành một cách chính xác, phòng ngừa những sự cố do
TTBYT gây ra. Mỗi TTBYT có qui định về chuẩn chất lượng, quy trình sử dụng, bảo
trì bảo dưỡng riêng.
1.1.2.Năng lực sử dụng của cán bộ y tế
Hiện nay, nhiều loại TTBYT hiện đại đang được sử dụng trong lĩnh vực khám
bệnh, chữa bệnh cho con người. Đó là việc ứng dụng khoa học công nghệ, giúp cho
việc chẩn đoán, điều trị bệnh một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu quả cao.
Đội ngũ y bác sĩ, cán bộ ngành y tế nói chung và cán bộ ngành y tế trong các
bệnh viện nói riêng có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý TTBYT. TTBYT là
một trong 3 yếu tố quan trọng nhất (Thầy thuốc - Thuốc – TTBYT) trong ngành y tế,
đồng thời đây cũng là đối tượng đặc thù, là công cụ, dụng cụ có liên quan trực tiếp đến
chăm sóc sức khoẻ con người với hàm lượng khoa học cao. Bởi vậy, trong quá trình
vận hành sử dụng, bảo trì, bảo quản và sửa chữa TTBYT đòi hỏi đội ngũ nhân lực phải
có trình độ sử dụng và bảo quản nhất định
1.1.3.Khả năng tài chính của cơ sở y tế
Đầu tư mua sắm TTBYT là hoạt động đặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm nhu cầu
sử dụng TTBYT ở các bệnh viện. Những năm gần đây, việc tăng cường đầu tư mua
sắm TTBYT đã quan tâm và tạo nhiều điều kiện về kinh phí. Quản lý khâu lập kế
hoach mua sắm là nội dung đầu tiên của quản lý đầu tư TTBYT, theo đó phải xác định
được các căn cứ lập kế hoạch mua sắm TTBYT, các thủ tục và phương pháp lập kế
hoạch mua sắm và lên kế hoạch mua sắm TTBYT hàng năm cho bệnh viện. Đây là cơ
sở quan trọng để thực hiện đầu tư theo kế hoạch của các bệnh viện, các cơ sở y tế.
- Quản lý mua sắm theo nguồn vốn hình thành: Quản lý đầu tư TTBYT đòi hỏi
cần nắm rõ nguồn vốn đầu tư, số lượng TTBYT cần mua sắm tương ứng với từng loại
nguồn vốn khác nhau. Các nguồn vốn đầu tư cho việc mua sắm TTBYT rất đa dạng: từ

163
liên doanh, từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn quỹ phát triển các hoạt động sự
nghiệp của bệnh viện và đề án xã hội hoá y tế...
- Quản lý nguồn nhập thiết bị y tế: Xác định chính xác nguồn nhập thiết bị y tế sẽ
giúp quá trình quản lý TTBYT nắm rõ hơn nguồn gốc, số lượng và chất lượng các
TTBYT được đưa vào sử dụng tại bệnh viện. Đây là khâu quan trọng và không thể
thiếu trong công tác quản lý TTBYT.
Quản lý trang thiết bị y tế theo mục đích sử dụng: Căn cứ vào mục đích sử dụng
TTBYT, các khoa, phòng ban chức năng trong các cơ sở y tế, bệnh viện sẽ lên kế
hoạch mua sắm TTBYT cho đơn vị mình. Từ đó, giúp công tác quản lý TTBYT có
hiệu quả hơn nhờ vào việc xác định đúng mục đích sử dụng trong khám chữa bệnh với
điều kiện nguồn tài chính hạn hẹp.
1.2. Yếu tố bên ngoài
Quản lý TTBYT tại Bệnh viện là một trong những nội dung cơ bản của công tác
quản lý. Muốn có phương án quản lý TTBYT hợp lý và có hiệu quả, đòi hỏi mỗi
Khoa, Phòng trong Bệnh viện phải nghiên cứu, phân tích sự tác động của các nhân tố
ảnh hưởng đến quá trình hoạt động dịch vụ khám chữa bệnh tại đơn vị mình
Với đặc thù của lĩnh vực trang thiết bị y tế rất đa dạng, nhiều chủng loại, nhiều
đặc trưng khác nhau và phân cấp cho nhiều cơ quan quản lý nên cần có sự phối hợp
chặt chẽ của tất cả các bên thì mới có thể làm tốt công tác quản lý đầu tư, sử dụng,
khai thác vận hành.
1.2.1. Nhu cầu và yêu cầu của người dân/người bệnh
Tiến bộ khoa học, kỹ thuật có ảnh hưởng lớn đến tổ chức quản lý dịch vụ KCB
trong các cơ sở y tế, tạo tiền đề vật chất, kỹ thuật cho dịch vụ KCB tại bệnh viện được
hợp lý. Nhờ có tiến bộ khoa học, kỹ thuật mà ngày càng có nhiều công nghệ mới, thiết
bị máy móc mới trong lĩnh vực y tế. Vì vậy, để có được phương án tổ chức quản lý
dịch vụ KCB hợp lý, phải xác định cho được đơn vị mình nên mua công nghệ, thiết bị
máy móc, với dược phẩm y tế nào phù hợp.
Tổ chức quản lý dịch vụ KCB nếu được ứng dụng nhanh chóng và kịp thời các
tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay thì nó cho phép sử dụng đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm
dược phẩm y tế và sức lao động nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả của hoạt động dịch vụ KCB. Trong tổ chức quản lý dịch vụ KCB nếu cập
nhật được kịp thời công nghệ mới, thiết bị, máy móc mới với tính chất hiện đại và đầu
tư theo chiều sâu thì sẽ nâng cao được trình độ tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của đội
ngũ cán bộ trong đơn vị, tạo ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao, giá thành hạ, đáp
ứng kịp thời nhu cầu khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân. Ngoài ra nếu đưa nhanh
tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào dịch vụ khám chữa bệnh còn giúp cho đơn vị sử dụng
hợp lý dược phẩm y tế thay thế và sử dụng hợp lý các loại dược phẩm, dược liệu.
1.2.2. Chính sách liên quan đến TTBYT & hạ tầng và quản lý
Mỗi đơn vị y tế đều phải thực hiện theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách
xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Tổ chức

164
quản lý dịch vụ KCB trong đơn vị y tế được duy trì, phát triển hay mở rộng phụ thuộc
rất lớn vào đường lối chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước và
chính phủ
Các TTBYT tại bệnh viện Đa khoa hiện nay được tính khấu hao theo Quyết định
số 32/2008/QĐ-BTC, ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc
ban hành chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong các cơ quan Nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước.
1.2.3. Khả năng phát triển của thị trường (Sản xuất, cung cấp, dịch vụ sửa chữa,
bảo dưỡng…)
Việc đưa ra những quy định nhập khẩu trang thiết bị y tế nhằm mục đích đảm
bảo các trang thiết bị y tế trên thị trường đạt chất lượng, an toàn cho cộng đồng. Đồng
thời tạo ra sự thuận lợi cho đơn vị kinh doanh và quản lý. Song trên thực tế trong quá
trình triển khai các quy định có nhiều vướng mắc.
Cơ cấu tổ chức và mô hình quản lý nhân lực kỹ thuật trang thiết bị y tế tại các sở
y tế cũng cho thấy, đội ngũ cán bộ kỹ thuật về trang thiết bị y tế hầu hết là kiêm
nhiệm; những đơn vị có cán bộ phụ trách kỹ thuật về trang thiết bị y tế thì trình độ chủ
yếu là cao đẳng hoặc trung cấp. Nhiều cán bộ được đào tạo từ các chuyên ngành kỹ
thuật khác như điện, tin học… thậm chí dược và y, rất ít đơn vị có cán bộ trình độ đại
học hoặc trên đại học.
Bên cạnh đó, TTBYT thay đổi liên tục theo công nghệ và nhu cầu, việc xác định
đó là thiết bị mới hay cũ vô cùng khó khăn. Việc phối hợp giữa các đơn vị sự nghiệp
hành chính trong việc nhập khẩu TTBYT còn nhiều bất cập, có nhiều kẽ hở, thiết bị y
tế nhập khẩu mới - cũ, thiết bị chất lượng không đạt chuẩn, thiết bị lỗi thời, thiết bị
chỉnh sửa…
Trang thiết bị y tế của Việt Nam hiện nay nhìn chung còn thiếu, chưa đồng bộ và
lạc hậu so với các nước trong khu vực. Hầu hết trang thiết bị y tế đang sử dụng tại các
cơ sở y tế chưa được định kỳ kiểm chuẩn, bảo dưỡng và sửa chữa, không đủ nguồn.
vốn để đầu tư và đổi mới, nhiều địa phương không có đủ kinh phí để mua vật tư tiêu
hao. Trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn y tế chưa đủ để khai thác hết công suất
trang thiết bị hiện có. Năng lực của cán bộ kỹ thuật trang thiết bị y tế chưa đáp ứng kịp
những đổi mới về kỹ thuật và công nghệ. Chất lượng đào tạo, bố trí sử dụng nhân lực
chuyên sâu về kỹ thuật thiết bị y tế còn thấp so với yêu cầu. Nhiều bệnh viện tỉnh chưa
có phòng quản lý Vật tư - thiết bị y tế.
1.2.4. Quảng cáo/tiếp thị
Các xí nghiệp sản xuất trang thiết bị y tế còn ít, chủng loại nghèo nàn, chất lượng
sản phẩm chưa cao. Hệ thống kinh doanh, xuất nhập khẩu chưa hoàn chỉnh, thiếu vốn,
thiếu thông tin, thiếu cán bộ có nghiệp vụ thương mại và trình độ kỹ thuật về trang
thiết bị y tế.
Hậu quả là nhiều cơ sở kỹ thuật và trang thiết bị tại các cơ sở y tế từ trung ương
đến địa phương nhiều nơi bị xuống cấp đặc biệt về chất lượng, độ chính xác, độ ổn

165
định, độ an toàn do không được bảo dưỡng, sửa chữa và kiểm tra, kiểm chuẩn kịp thời;
các thiết bị tại các tuyến y tế cơ sở được sử dụng cho đến khi bị hỏng hóc lớn mới
được sửa chữa thay thế, gây lãng phí về hiệu quả đầu tư và ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng khám chữa bệnh. Thậm chí, tại một số đơn vị tồn tại tình trạng thiết bị được
đầu tư nhưng hoặc sử dụng không có hiệu quả…
2. PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG TRANG THIẾT BỊ CHO CHĂM SÓC
SỨC KHỎE TẠI CƠ SỞ Y TẾ
Theo các chuyên gia của Công ty Tài chính quốc tế (IFC) và WB, nhiều nước
trên thế giới đang phải đối mặt với áp lực tài chính công ngày càng tăng với các dịch
vụ công cộng, đặc biệt là y tế khi chi tiêu cho lĩnh vực này trên toàn cầu đã vượt 4
nghìn tỷ USD. Ngân sách công thường không đủ đáp ứng nhu cầu chăm sóc y tế của
người dân. Và hình thức công – tư (PPP) có thể huy động nguồn tài chính tư nhân,
tăng khả năng tiếp cận và hiệu quả trong việc cung cấp các dịch vụ y tế cho người dân.
Do mô hình dịch tễ thay đổi, nhu cầu đầu tư TTB y tế tại Việt Nam sẽ tiếp tục
tăng do chi phí y tế tăng nhanh trong lúc xu hướng bệnh lý không lây nhiễm như ung
thư, tim mạch, bệnh lý chuyển hóa, chấn thương tăng cao và tập trung vào các thiết bị
chẩn đoán hình ảnh, phòng mổ, hồi sức cấp cứu, xét nghiệm chuyên sâu (thay thế thiết
bị cũ, lạc hậu). Thiết bị của các hãng của Mỹ, Nhật Bản, LHLB Đức sẽ tiếp tục chiếm
phần lớn thị phần và thị trường TTB y tế VN sẽ tiếp tục tăng trưởng 10-11% mỗi
năm.  Sản xuất trong nước chiếm từ 1,5-2% tổng thị phần trong nước. Các thiết bị
được đầu tư nhiều nhất là chẩn đoán hình ảnh (Xquang, siêu âm, MRI, CT scaner),
thiết bị la bô xét nghiệm, thiết bị phòng mổ, theo dõi bệnh nhân, thiết bị khử khuẩn,
nội soi, xử lý chất thải y tế…
Việc đầu tư TTB y tế công nghệ cao sẽ tập trung chủ yếu ở các bệnh viện lớn ở
thành phố lớn (TP HCM, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ…), Riêng thành phố Hồ
Chí Minh từ nay đến 2020 ước tính sẽ đầu tư chừng 900 triệu USD để nâng cấp TTB y
tế cho các bệnh viện. Trong khi đó, nhiều bệnh viện tuyến tỉnh sẽ được tăng cường đầu
tư.
Về đối tượng tiêu thụ, có 4 nhóm người mua TTB lớn nhất: bệnh viện công
(70%); bệnh viện có vốn nước ngoài (thường mua hàng hóa xuất xứ từ nước bản địa),
bệnh viện tư nhân và các viện nghiên cứu, trường đại học. Vốn đầu tư từ Nhà nước sẽ
tiếp tục chiếm vai trò quan trọng và bệnh viện công sẽ có xu hướng tự chủ nhiều hơn
trong việc tìm kiếm nguồn tài chính cho đầu tư  TTB y tế.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức
PPP có hiệu lực từ ngày 19/6/2018 thay thế cho Nghị định 15/2015/NĐ-CP
2.1. Ưu và nhược điểm của phương thức đầu tư TTBYT
Tại Việt Nam, nhu cầu chăm sóc y tế của người dân ngày càng cao dẫn tới tình
trạng quá tải của các bệnh viện công (đặc biệt ở tuyến Trung ương). Cho nên sự phát
triển mạnh các phòng khám và bệnh viện tư nhân… là những điều kiện thuận lợi để
phát triển mô hình PPP trong lĩnh vực y tế phát triển. Nhưng việc thiếu một hệ thống
cơ chế, chính sách toàn diện về PPP trong y tế, từ loại hình đầu tư đến thủ tục triển
166
khai phức tạp, cơ chế sử dụng vốn Nhà nước vào các dự án chưa rõ ràng… đã khiến
việc các dự án PPP trong lĩnh vực y tế chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân.
Hiện nay, khu vực y tế Nhà nước đang đối mặt với bất cập trong việc đáp ứng
nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân cả về số lượng và chất lượng dẫn đến nhu cầu
KCB, chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tuyến ngoài công lập ngày càng tăng cao. Từ đó
đòi hỏi tuyến ngoài công lập cần huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp y tế theo
hướng xã hội hóa hoạt động y tế.
Ưu điểm:
Khả năng của khu vực công trong việc cung cấp vốn đầu tư và hỗ trợ cho dự án;
và khả năng tài chính, công nghệ, thiết kế xây dựng, quản lý và khai thác dự án với
hiệu quả cao nhất của từng bên
- Tiết kiệm chi phí: Với mô hình hợp tác công – tư chính quyền địa phương có
thể nhận ra tiết kiệm chi phí cho việc đầu tư cũng như chi phí của việc vận hành và
bảo trì của những dịch vụ đó. Giảm gánh nặng ngân sách nhà nước cho lĩnh vực y tế
trong việc đầu tư nâng cấp và vận hành bảo dưỡng bệnh viện với số tiền đầu tư ban
đầu 
- Chia sẽ rủi ro: Với hình thức hợp tác công – tư, chính quyền địa phương có thể
chia sẽ những rủi ro với đối tác tư nhân. Rủi ro chính của dự án trong quá trình tài trợ,
thiết kế, xây dựng, quản lý, vận hành được chuyển cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư với kinh
nghiệm và kỹ năng của mình thông thường được xem là có khả năng thực hiện các
công việc trên một cách tốt hơn.
Nhà đầu tư có điều kiện chủ động nâng cao chất lượng KCB thông qua đầu tư
vào cơ sở vật chất trang thiết bị và đội ngũ bác sỹ và chuyên gia giỏi
- Cải tiến cấp độ dịch vụ hoặc là bảo trì: PPP có thể giới thiệu sáng kiến làm thế
nào việc phân phối dịch vụ được thực hiện và tổ chức. PPP cũng giới thiệu những kỹ
thuật mới và kinh tế của quy mô rằng việc giảm chi phí hoặc cải thiện chất lượng và
mức độ của dịch vụ.
- Gia tăng doanh thu: PPP có thể thiết lập phí người sử dụng cái mà phản ánh chi
phí thật của việc cung câp một dịch vụ cụ thể. PPP cũng cho cơ hội để giới thiệu
những nguồn lực hiệu quả/ mới mẻ hơn mà những nguồn lực này không thể là những
phương pháp thường của cung cấp dịch vụ.
- Thực hiện hiệu quả hơn: Hiệu quả có thể được nhận ra thông qua những hoạt
động liên kết đa dạng như xây dựng và thiết kế, và thông qua những thủ tục và hợp
đồng linh động hơn và sự phê duyệt nhanh hơn cho việc cung cấp vốn cho dự án và
một quy trình ra quyết định hiệu quả hơn.Việc cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn không
chỉ giúp cho việc cung cấp dịch vụ nhanh hơn mà còn giảm được chi phí.
- Những lợi ích kinh tế: PPP mang lại nhiều lợi ích kinh tế chẳng hạn như làm gia
tăng mối liên hệ của chính quyền địa phương với khu vực tư nhân để từ đó kích thích
khu vực tư nhân tham gia cùng nhà nước cung cấp các dịch vụ công trên địa bàn và
đóng góp vào tăng trưởng lao động và kinh tế.
167
Nhược điểm:
Hiện quy định về (đầu tư công –tư) PPP tại Việt Nam được các nhà đầu tư đánh
giá là có tính ổn định chưa cao, trong khi hợp đồng dự án PPP thường kéo dài từ 20-
30 năm. Bên cạnh đó, việc xây dựng khung pháp lý với hiệu lực cao hơn (cấp Luật)
góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện dự án, khắc phục được các tồn tại, bất cập do
khâu thực thi trong bối cảnh thiếu chế tài đối với hành vi vi phạm
Khung pháp lý hiện hành còn thiếu các cơ chế tổng thể bao gồm các hình thức hỗ
trợ, ưu đãi và bảo đảm đầu tư từ phía Nhà nước cho nhà đầu tư PPP để tăng tính hấp
dẫn của dự án cũng như đảm bảo việc thực hiện dự án thành công.
- Sự thiếu kiểm soát của chính phủ: ở bản chất của mối quan hệ đối tác nhà nước
– tư nhân, là gắn liền với những rủi ro, những lợi ích và việc ra quyết định của những
đối tác.
- Tăng chi phí: một rủi ro tiếp theo cũng dành cho khu vực công là việc quản lý
chi phí và các chính sách về giá
- Những rủi ro chính trị: một mối quan hệ đối tác nhà nước – tư nhân mà trong đó
sự kết hợp của những chính quyền địa phương thiếu kinh nghiệm và những nhà đầu tư
tư nhân thiếu trình độ, không hiểu rõ có thể gây ra những rủi ro chính trị rất cao. Chính
quyền địa phương mong muốn giảm rủi ro này bằng cách ký những hợp đồng hợp tác
ít phức tạp và hiểu rõ hơn
- Dịch vụ không tin cậy: đối tác tư nhân có thể bị xảy ra đối với các vấn đề về lao
động, tài chính hoặc là các tình trạng khác mà có thể ảnh hưởng đến danh dự của họ
- Khả năng không có lợi ích từ sự cạnh tranh: Sự cạnh tranh giữa các đối tác tư
nhân với nhau để đảm bảo quyền lợi để tiến tới một mối quan hệ đối tác nhà nước – tư
nhân là một lợi ích quan trọng của chính quyền địa phương
- Chất lượng giảm hoặc là hiệu quả của dịch vụ: nếu như cấu trúc không tốt, hợp
đồng đối tác nhà nước – tư nhân có thể gây ra một sự giảm sút trong chất lượng dịch
vụ, cung cấp dịch vụ không hiệu quả hoặc thiếu bảo trì những tiện nghi
2.2. Ưu và nhược điểm của phương thức đặt TTBYT cho sử dụng tại cơ sở y tế
Thực trạng tại Bệnh viện nước ta hiện nay trong cung ứng dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cho người dân vẫn còn nhiều bất cập. Có những dịch vụ y tế rất cần thiết phải
triển khai, nhưng bệnh viện không thể thực hiện được, bới các nguyên nhân như sau:
(1) Bệnh viện có đội ngũ nhân lực mạnh nhưng hệ thống trang thiết bị lại thiếu (như
xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng,…) hoặc (2) chúng ta có hệ
thống trang thiết bị, cơ sở hạ tầng tốt nhưng lại chưa có đội ngũ có kinh nghiệm để
làm hoặc (3) chúng ta thiếu cả hệ thống trang thiết bị và nhân lực thực hiện kỹ thuật
có kinh nghiệm
Ưu điểm:
Tận dụng được nguồn vốn từ các doanh nghiệp
Đáp ứng được nhu càu khám bệnh, chữa bệnh cho người bệnh
168
Tăng thu nhập cho bệnh viện, nâng cao đời sống cho cán bộ y tế
Đảm bảo chính sách y tế cho người dân
Nhược điểm:
Đối với hoạt động liên doanh, liên kết theo hình thức đặt TTBYT Doanh nghiệp
nhằm mục đíchbán hóa chất xét nghiệm chỉ để bán hóa chất, vật tư tiêu hao để kiếm
lợi
Về công tác đấu thầu, chưa ban hành các văn bản quy định cụ thể về đấu thầu
trang thiết bị y tế, đặc biệt là công tác xây dựng, phê duyệt kế hoạch đấu thầu mua sắm
hóa chất, vật tư tiêu hao còn nhiều bất cập
Giá giữa các loại hóa chất của các hang khác nhau, hoặc giá cùng một loại hóa
chất ở mỗi địa phương có sự khác nhau
Có sự móc nối giữa doanh nghiệp – Bệnh viện – nhân viên y tế nhằm chuộc lợi
2.3. Ưu và nhược điểm của phương thức thuê TTBYT
Ưu điểm: Không phải bỏ vốn ngay từ ban đầu
Nhược điểm:
Định giá máy cao, tính thời gian khấu hao trang thiết bị lớn
Chi phí định kỳ kiểm chuẩn, bảo dưỡng và sửa chữa cao
Thủ tục pháp lý chưa chặt chẽ gây thất thoát cho nhà nước
Chuộc lợi cá nhân cao
Các rủi ro này chủ yếu do thiên tai gây ra như lũ lụt, sóng thần, bão tố, hoả hoạn
làm gián đoạn và gây hậu quả cho bệnh viện
Hợp đồng giao thầu có thể hấp dẫn hơn với các đối tác tư nhân vì hợp đồng này
giảm bớt các rủi ro đi kèm với khả năng thu hồi vốn chậm khi cung cấp dịch vụ. Phí
giao thầu thường được tính theo một tỷ lệ thỏa thuận trong mỗi đơn vị dịch vụ được
bán ra. - Hạn chế: Vấn đề chủ chốt trong việc chuyển từ các hợp đồng dịch vụ và hợp
đồng quản lý sang một hợp đồng cho thuê là doanh thu của nhà thầu từ các khoản
thanh toán của khách hàng và vì thế vấn đề về các mức phí dịch vụ ngày càng trở nên
nhạy cảm. Điều này có thể đòi hỏi các thỏa thuận điều chỉnh và cơ cấu phí phức tạp.
Thêm vào đó, đầu tư vốn vẫn thuộc nghĩa vụ của chính phủ và vốn đầu tư tư nhân
không được huy động.
2.4. Ưu và nhược điểm của phương thức thanh toán theo hoạt động “PAY PER
ACT”
Thực tế cho thấy các hoạt động liên doanh, liên kết tại bệnh viện công đã mang
lại nhiều kết quả tích cực, đáp ứng nhu cầu về đổi mới trang bị kỹ thuật y tế, đặc biệt
những trang thiết bị kỹ thuật cao, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong
hoàn cảnh kinh phí Nhà nước chưa cung cấp đủ. Việc huy động các nguồn đầu tư tư
nhân dưới các hình thức khác nhau cho y tế đã tạo sự chuyển biến tích cực trong việc

169
huy động các nguồn lực xã hội, giúp nâng cao một bước số lượng cũng như chất lượng
các dịch vụ y tế phục vụ nhân dân
Ưu điểm:
Không phải đầu tư kinh phí
Dễ thanh toán
Hợp đồng dịch vụ thông thường thích hợp nhất khi dịch vụ có thể được xác định
rõ ràng trong hợp đồng, mức độ nhu cầu tương đối chắc chắn và việc thực hiện có thể
theo dõi một cách dễ dàng. Các hợp đồng dịch vụ là một lựa chọn có độ rủi ro tương
đối thấp trong việc mở rộng vai trò của khu vực tư nhân. Các hợp đồng dịch vụ có thể
có tác động nhanh và đáng kể đối với hoạt động và tính hiệu quả của hệ thống và là
một phương thức để chuyển giao công nghệ và phát triển năng lực quản lý. Các hợp
đồng dịch vụ thường có thời gian ngắn, tạo điều kiện cho cạnh tranh liên tục trong lĩnh
vực. Các rào cản đối với việc tham gia cũng ở mức thấp căn cứ trên việc chỉ có một
hoạt động dịch vụ riêng biệt được đưa ra đấu thầu. Việc đấu thầu lặp đi lặp lại duy trì
áp lực đối với các nhà thầu phải duy trì chi phí thấp, trong khi các rào cản ở mức thấp
khuyến khích nhiều công ty tham gia cạnh tranh với nhau
Nhược điểm:
Dễ bị làm sai lệch trên giấy tờ, sổ sách nhằm chuộc lợi cá nhân
Tính pháp lý lỏng lẻo
Các hợp đồng dịch vụ sẽ không phù hợp nếu mục tiêu chính là thu hút vốn đầu
tư. Các hợp đồng có thể nâng cao tính hiệu quả và vì thế giúp đem lại một lượng
doanh thu nhất định để sử dụng cho các mục đích khác, nhưng nhà thầu không có
nghĩa vụ cung cấp tài chính cho dự án. Tính hiệu quả của nhà thầu có thể sẽ không đạt
được nếu nguồn tài chính cho dự án (từ chính phủ hoặc từ nhà tài trợ) không thể huy
động được. Thực tế hoạt động của nhà thầu tách biệt khỏi các hoạt động chung của
công ty có nghĩa là có thể không có tác động rộng rãi hoặc sâu sắc tới hoạt động chung
của hệ thống mà chỉ có những cải thiện riêng biệt và giới hạn. Khu vực nhà nước vẫn
chịu trách nhiệm về tài sản và qui định biểu phí dịch vụ, cả hai vấn đề này đều có tính
nhạy cảm chính trị và là yếu tố then chốt để duy trì hệ thống.
2.5. Ưu và nhược điểm của phương thức thanh toán theo xét nghiệm (PAY PER
TEST)
Ưu điểm:
Không phải đầu tư ban đầu
Kinh phí ít
Nhược điểm:
Lợi nhuận không cao
Chất lượng khó kiểm soát
Người bệnh dễ bị móc túi do số chỉ định nhiều
170
CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ
Câu 1: Trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý và sử dụng trang thiết bị y tế
Câu 2: Trình bày ưu, nhược điểm của phương thức đầu tư trang thiết bị y tế

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Y Tế (2016), Quản lý bệnh viện, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội.
2. Bộ Y Tế (2012), Tài liệu đào tạo Tăng cường năng lực quản lý điều dưỡng.
3. Bộ Y tế (2011), Thông tư số 24/2011/TT – BYT ngày 21/6/2011 về việc hướng
dẫn nhập khẩu TTBYT
4. Bộ Y Tế (2004), Quyết định số 437/QĐ-BYT ngày 20/02/2002 về việc ban
hành Danh mục trang thiết bị y tế Bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện, phòng
khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã và túi y tế thôn bản.
5. Bộ Y Tế (2007), Tổ chức và quản lý y tế, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội trang
187 – 188.
6. Bộ Tài chính (2008), Quyết định số 32/2008/QĐ-BTC, ngày 29 tháng 5 năm
2008 về việc ban hành chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong các
cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng ngân
sách Nhà nước.
7. Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP có hiệu lực từ ngày
19/6/2018 thay thế cho Nghị định 15/2015/NĐ-CP
8. Nghị định số 36/2016/NĐ-CP quy định việc quản lý trang thiết bị y tế bao gồm
phân loại trang thiết bị y tế; sản xuất, lưu hành, mua bán, cung cấp dịch vụ
trang thiết bị y tế; thông tin, nhãn trang thiết bị y tế và quản lý, sử dụng trang
thiết bị y tế tại các cơ sở y tế.
9. Nghị định số 169/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung các quy định Nghị định số
36/2016/NĐ-CP.
10. Thông tư liên tịch Bộ Y tế- Bộ Nội vụ số 11/2005/TTLT-BYT BNV.
11. Trường Đại học Y Hà Nội - Bộ môn Tổ chức và Quản lý y tế. Bài giảng Quản
lý và Chính sách y tế. Hà Nội, 2002.

171
CHUYÊN ĐỀ 6
LẬP KẾ HOẠCH, THỰC HIỆN VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG
TRUYỀN THÔNG VÀ TƯ VẤN SỨC KHỎE

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 12 tiết


Số tiết lý thuyết: 08 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Mô tả quá trình lập kế hoạch và chuẩn bị thực hiện hoạt động truyền thông,
giáo dục sức khỏe.
2. Mô tả các phương pháp truyền thông, giáo dục sức khỏe.
3. Giải thích mục tiêu, các chỉ số và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động
truyền thông, giáo dục sức khỏe.

NỘI DUNG
1. LẬP KẾ HOẠCH TRUYỀN THÔNG, GIÁO DỤC SỨC KHỎE
Lập kế hoạch chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) thường
qua 5 giai đoạn chính: (1) Thu thập thông tin, xác định, phân tích vấn đề sức khỏe,
phân tích đối tượng đích; (2) Xây dựng mục tiêu TT-GDSK; (3) Lựa chọn phương
pháp TT-GDSK; (4) Lập kế hoạch hành động TT-GDSK; (5) Chuẩn bị thực hiện kế
hoạch.
1.1. Xác định và phân tích vấn đề sức khỏe, đối tượng đích
Các thông tin cần thiết được thu thập thông qua nhiều phương pháp thu thập
thông tin để từ đó phân tích, xác định các vấn đề sức khỏe, xác định những vấn đề sức
khỏe ưu tiên, phân tích để hiểu rõ các yếu tố liên quan, ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe
hay các nguyên nhân của vấn đề sức khỏe, xác định và phân tích đối tượng đích để
hiểu rõ họ là ai, có những đặc điểm nhân khẩu học gì; kiến thức, thái độ, hành vi liên
quan đến vấn đề sức khỏe, hiểu biết về pháp luật, các qui định liên quan đến chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe, phòng bệnh; tiếp cận, sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám
chữa bệnh… để làm cơ sở xây dựng mục tiêu và các phương pháp TT-GDSK tương
ứng, phù hợp.
Tại các cơ sở y tế như các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, để có cơ sở lập kế
hoạch hoạt động TT-GDSK cho các đối tượng liên quan, hàng năm tại các đơn vị cụ
thể (các Khoa/Đơn vị chuyên môn khác) tiến hành những điều tra với các hình thức,
mức độ, phương pháp khác nhau nhằm có được những số liệu chính xác, khoa học để
có thể viết các mục tiêu TT-GDSK đáp ứng các yêu cầu của mục tiêu.
Những số liệu, thông tin có thể thu thập từ nguồn thống kê, báo cáo của các khoa,
172
đơn vị; từ báo cáo tổng hợp định kì của cả bệnh viện hay các cơ sở khám chữa bệnh
khác (số lượng bệnh nhập khoa trong năm trước, tần suất xuất hiện trong từng tháng và
nhu cầu theo từng chuyên khoa…). Các hoạt động thu thập thông tin, số liệu được tiến
hành theo kế hoạch, có sự chỉ đạo của các cấp quản lí và sự tham gia của các bên liên
quan.
Tại cộng đồng, các vấn đề sức khỏe thường được xác định, phân tích để lập kế
hoạch can thiệp thường là những bệnh lây, như: Sốt xuất huyết, Tay chân miệng, Sởi,
Lao, v.v. hoặc là những bệnh không lây, như: Ung thư, Đái tháo đường, Tăng huyết
áp, các Rối loạn tâm thần, v.v. Các đối tượng đích của quá trình TT-GDSK thường là
người dân nói chung hoặc các nhóm người dân có nguy cơ mắc cao.
Tại các cơ sở khám chữa bệnh, bệnh viện, tùy chức năng chuyên môn, nhiều vấn
đề sức khỏe nêu trên được ưu tiên đề cập và dành nhiều thời lượng để triển khai các
hoạt động TT-GDSK tương ứng. Đối tượng đích của quá trình TT-GDSK tại các cơ sở
khám chữa bệnh, bệnh viện là người bệnh, người nhà của người bệnh, người dân khu
vực lân cận hoặc người dân nói chung.
1.2. Viết mục tiêu truyền thông, giáo dục sức khỏe
Dựa vào kết quả phân tích ở giai đoạn 1, nhu cầu TT-GDSK của các nhóm đối
tượng đích được xác định cụ thể, làm cơ sở xây dựng mục tiêu TT-GDSK. Nếu mục
tiêu của chương trình sức khỏe là những mong muốn cải thiện tình trạng sức khoẻ cho
nhóm đối tượng đích (ví dụ: giảm số lượng/tỉ lệ mắc bệnh), thì mục tiêu TT-GDSK tập
trung cải thiện các yếu tố kiến thức, thái độ và thực hành liên quan với vấn đề sức
khỏe cụ thể của đối tượng đích (ví dụ: tăng tỉ lệ đối tượng có kiến thức đúng, có thái
độ phòng bệnh tích cực và thực hiện các hoạt động phòng bệnh).
Mục tiêu TT-GDSK thường là những mục tiêu cụ thể của một chương trình sức
khỏe nói chung. Ví dụ: Kiến thức, thái độ, thực hành về nuôi dưỡng con nhỏ của các
bà mẹ là các yếu tố chính ảnh hưởng tới tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em; như vậy
mục tiêu TT-GDSK về phòng chống suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em có thể là: Sau 6
tháng thực hiện chương trình TT-GDSK phòng SDD trẻ em, 90% bà mẹ có con dưới 5
tuổi tại … có kiến thức đúng về chế độ dinh dưỡng hợp lí cho trẻ; nếu một số bệnh
dịch ở trẻ nhỏ xuất hiện do tiêm chủng không đúng lịch thì mục tiêu TT-GDSK có thể
là: sau khi chương trình TT-GDSK về tiêm chủng kết thúc, tất cả bà mẹ có con dưới 1
tuổi đưa con đi tiêm chủng theo đúng lịch tiêm chủng.
Việc xây dựng mục tiêu TT-GDSK hợp lí giúp người làm TT-GDSK chuẩn bị
nguồn lực tương ứng để đạt mục tiêu, theo dõi, giám sát các hoạt động để đảm bảo các
hoạt động tập trung đạt được mục tiêu; đồng thời tạo thuận lợi để đánh giá kết quả. Để
đạt được những mong muốn như vậy, mục tiêu TT-GDSK phải đạt được các yêu cầu
về tính cụ thể, đo lường được, có khả năng đạt được, phù hợp và thời gian xác định rõ
ràng, thường gọi là yêu cầu SMART (theo các chữ viết tắt của tiếng Anh) đối với mục
tiêu.
1.2.1. Đặc thù, cụ thể (Specific)
Yêu cầu này đòi hỏi tuyên bố về mục tiêu phải đề cập vấn đề, đối tượng đích, địa
173
điểm, thời gian cụ thể, rõ ràng. Ví dụ: Nâng cao kiến thức và kĩ năng tự chăm sóc của
người bệnh sau khi xuất viện.
1.2.2. Đo lường được (Measurable)
Yêu cầu này đòi hỏi tuyên bố về mục tiêu phải nêu rõ mức độ thay đổi và sự thay
đổi này phải đo lường được bằng những công cụ cụ thể. Đo lường được sẽ giúp người
làm TT-GDSK kết luận về sự thay đổi, sự khác biệt sau khi TT-GDSK để kết luận
mục tiêu có đạt được hay không.
1.2.3. Có thể đạt được hay tính khả thi (Achievable)
Mục tiêu nêu ra phải có thể đạt được với một chương trình hành động cụ thể.
Nếu đặt ra mục tiêu với mức độ thay đổi quá lớn, khó đạt được với chương trình hành
động cụ thể nghĩa là tính khả thi của mục tiêu thấp. Viết mục tiêu sao cho có khả năng
đạt được với điều kiện nguồn lực và hoàn cảnh thực tế.
Đối với các chương trình TT-GDSK, thay đổi hành vi sức khỏe ở đối tượng đích
phụ thuộc hành vi sức khỏe cụ thể nào? Đối tượng đích là ai? Mức độ, tần suất thực
hiện hành vi như thế nào? v.v. để xác định mức độ thay đổi và khoảng thời gian can
thiệp trong tuyên bố mục tiêu. Một thói quen có hại đối với sức khỏe có thể mất một
thời gian dài và nhiều nỗ lực để thay đổi; vì thế nếu mục tiêu TT-GDSK mong muốn
nhiều người thay đổi trong thời gian ngắn có thể không khả thi.
1.2.4. Phù hợp (Relevant)
Yêu cầu mục tiêu phải phù hợp nghĩa là mục tiêu nhằm giải quyết vấn đề đã
được phân tích ở bước đầu tiên, đồng thời phù hợp với các định hướng, chiến lược
chăm sóc sức khỏe của tổ chức.
1.2.5. Xác định về thời gian (Time bound)
Mục tiêu TT-GDSK phải nêu mốc thời gian, khoảng thời gian để thực hiện. Nếu
không xác định đúng thời gian cần thiết để đạt mục tiêu thì sẽ không tạo động lực để
đạt được mục tiêu và có thể gây lãng phí nguồn lực, thời gian. Thời gian từ khi bắt đầu
chương trình đến khi kết thúc phải đủ dài để đạt được các thay đổi mong đợi. Yếu tố
này giúp tính khả thi cao hơn.
1.3. Lựa chọn giải pháp, chiến lược truyền thông, giáo dục sức khỏe
Sau khi đã xác định rõ mục tiêu, bước tiếp theo là cân nhắc, lựa chọn các chiến
lược hay các giải pháp thích hợp để đạt được mục mục tiêu TT-GDSK. Chiến lược hay
giải pháp là các cách thức, phương pháp TT-GDSK phù hợp để đạt được các mục tiêu
đề ra. Ví dụ: TT-GDSK trực tiếp; đào tạo kĩ năng; truyền thông qua các phương tiện
đại chúng là một số chiến lược TT-GDSK phổ biến. Thông thường khi xác định và lựa
chọn giải pháp, nhiều yêu cầu được đặt ra như tính phù hợp, độ bao phủ rộng, hiệu
quả, khả thi... của chiến lược/giải pháp. Các yêu cầu của chiến lược, giải pháp TT-
GDSK có thể mô tả chi tiết hơn như sau:

174
- Phù hợp với nhóm đối tượng đích: ví dụ giáo dục đồng đẳng là chiến lược tiếp
cận TT-GDSK phù hợp với nhóm bán dâm hay tiêm chích ma túy trong phòng
lây nhiễm HIV/AIDS.
- Tác động tới nhiều đối tượng đích: ví dụ truyền thông đại chúng về phòng
bệnh sốt xuất huyết làm cho thông điệp phòng bệnh sốt xuất huyết tác động tới
đông đảo người dân trong khu vực.
- Các cách thức thực hiện phù hợp với nguồn lực, năng lực sẵn có và huy động
cộng đồng của tổ chức thực hiện TT-GDSK; nội dung, cách thức tiến hành
phù hợp với văn hoá, phong tục tập quán của cư dân địa phương nơi triển khai
các hoạt động TT-GDSK làm tăng tính khả thi.
Một số ví dụ về chiến lược TT-GDSK như: Đào tạo nâng cao kĩ năng tự chăm
sóc sức khỏe tại nhà cho người mắc bệnh mạn tính; TT-GDSK qua các chương trình
truyền hình hoặc phát thanh; GDSK trực tiếp với đối tượng đích; Tư vấn hoặc giáo dục
đồng đẳng về phòng tránh nguy cơ mắc các bệnh lây qua đường tình dục; Củng cố, cải
thiện chất lượng các cơ sở tư vấn sức khỏe, dịch vụ hỗ trợ thay đổi hành vi sức khỏe;
Xây dựng các nội quy, qui định để tăng cường, duy trì hành vi lành mạnh; Phát triển
các nguồn thông tin sức khỏe như website, diễn đàn sức khỏe; phát triển các ứng dụng
TT-GDSK cho các thiết bị thông minh; Tăng cường sự hợp tác của các bên liên quan
vì mục đích TT-GDSK…
Người lập kế hoạch TT-GDSK cũng cần xác định rõ nguồn lực nào đã có và cần
thêm nguồn lực nào để phục vụ cho các hoạt động TT-GDSK cụ thể. Nguồn lực không
đảm bảo thì khó có thể cụ thể hóa các chiến lược/giải pháp để đạt được mục tiêu như
mong muốn. Nguồn lực bao gồm tài chính, phương tiện, cơ sở vật chất, nhân lực, kĩ
năng, kinh nghiệm và sự nhiệt tình của tất cả các đối tượng sẽ tham gia chương trình.
Thời gian là yếu tố cần xem xét kĩ lưỡng sao cho phù hợp với các giải pháp và nguồn
lực.
1.4. Xây dựng chương trình hành động
Bước tiếp theo là xây dựng chương trình hành động gồm các hoạt động cụ thể,
phát triển theo các định hướng của các chiến lược hay giải pháp TT-GDSK đã lựa
chọn. Các hoạt động được sắp xếp với sự cân nhắc về thời gian, địa điểm tiến hành,
người thực hiện, người phối hợp, các trang thiết bị, phương tiện cần thiết, kinh phí và
kết quả mong đợi.
Trong bảng kế hoạch hành động, có thể trình bày các nhóm hoạt động theo từng
giải pháp TT-GDSK. Khi dự kiến các hoạt động, cần chú ý tới 3 loại hoạt động:
- Các hoạt động chủ yếu: gồm các hoạt động TT-GDSK để tác động thay đổi
kiến thức, thái độ, thực hành của đối tượng đích. Ví dụ: giáo dục về lợi ích của
tiêm chủng; vận động đối tượng đích tham gia thực hiện "vệ sinh môi trường"

175
- Các hoạt động hỗ trợ nhằm tạo thuận lợi cho các hoạt động chủ yếu đạt hiệu
quả tối ưu. Ví dụ: huy động sự tham gia của cộng đồng; tìm nguồn kinh phí tài
trợ; việc cung ứng, phân phối các tài liệu truyền thông...
- Các hoạt động theo dõi, điều phối bảo đảm cho hoạt động TT-GDSK theo
đúng kế hoạch. Ví dụ: theo dõi, giám sát hỗ trợ, đánh giá quá trình...
Các hoạt động cụ thể có thể được sắp xếp, trình bày trong bảng như sau:
Bảng kế hoạch hoạt động:

Hoạt Thời gian Địa Người Người Người Phương Kinh Kết
động (2) điểm chịu phối hợp giám tiện phí quả
(1) (3) trách (5) sát (7) (8) mong
Bắt Kết nhiệm (6) đợi
đầu thúc (4) (9)

1. Hoạt
động 1

2. Hoạt
động …

Các hoạt động TT-GDSK có thể được trình bày theo thời gian (Sơ đồ Gantt).
Hoạt động theo thời gian tương ứng được minh họa bằng mũi tên, tô màu các ô thời
gian tương ứng, có thể ghi rõ người thực hiện, cách thực hiện, phương tiện kèm theo…
Cách trình bày này tạo thuận lợi cho người quản lí, điều hành theo dõi tiến độ của từng
hoạt động cùng với các yếu tố nguồn lực tương ứng.
Bảng kế hoạch hoạt động theo thời gian

Hoạt động Tháng Ghi chú

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

1. Tên GDSK trực tiếp và phát tờ


hoạt động rơi/sách mỏng cho đối tượng
1 sau khi kết thúc

2. Tên Phát bản tin sức khỏe trên loa/đài, 1


hoạt động lần/ngày vào lúc 6.30, mỗi lần 3-5 phút.

Khi lập kế hoạch hoạt động cụ thể cần xác định: Những ai sẽ phải trực tiếp tham
gia thực hiện, những ai hỗ trợ, những ai là người cộng tác; trách nhiệm của họ cụ thể
như thế nào. Trong những trường hợp cần thiết thì mời ai phối hợp giải quyết. Lưu ý
những người có tác động tích cực đến đối tượng đích để có thể mời phối hợp khi cần
176
như: những tình nguyện viên, thầy cô giáo, cha mẹ, hội phụ nữ, đoàn thanh niên…
Rà soát, xem xét các phương tiện, tài liệu truyền thông sẵn có, có thể tận dụng,
tránh lãng phí hoặc có kế hoạch phát triển nguồn tài liệu mới, đáp ứng nhu cầu của đối
tượng đích. Nếu cần phát triển tài liệu TT-GDSK mới, cần chú ý một số nguyên tắc:
- Nội dung tương ứng với mục tiêu TT-GDSK, với nhu cầu đối tượng đích.
- Lượng thông tin cần và đủ tương ứng với nội dung phải biết (thông tin cốt lõi,
liên quan trực tiếp với vấn đề, nhu cầu của đối tượng), cần biết (thông tin bổ
trợ) và nên biết (thông tin giúp mở rộng hiểu biết).
- Phù hợp với đối tượng đích để tăng cường sự chú ý, dễ hiểu, dễ nhớ.
- Nguồn thông tin có giá trị, có cơ sở khoa học.
- Nêu rõ hành động có lợi sức khỏe, cách thức thực hiện phòng bệnh, nâng cao
sức khỏe cụ thể cho đối tượng; nhấn mạnh lợi ích của hành động và nêu rõ khó
khăn, thách thức có thể đối mặt và cách vượt qua.
Các hình thức TT-GDSK trực tiếp mặt đối mặt hay gián tiếp qua các phương tiện
truyền thông cần được xác định rõ và kết hợp hài hòa để tăng hiệu quả TT-GDSK.
Kế hoạch đánh giá kết quả
Một phần quan trọng khác trong nội dung bản kế hoạch là phần đánh giá kết quả
thực hiện. Phần này nêu rõ chỉ số đánh giá chương trình, bao gồm:
- Các chỉ số đánh giá quá trình thực hiện các hoạt động cụ thể
- Các chỉ số đánh giá kết quả ngắn hạn
- Các chỉ số đánh giá tác động dài hạn
Mục tiêu đánh giá thể hiện qui mô, mức độ đánh giá và các hoạt động đánh giá cụ
thể được lập kế hoạch cụ thể (các chỉ số cần đo lường, nguồn thông tin, công cụ thu
thập thông tin, phương pháp thu thập thông tin, nhân lực, kinh phí, phương tiện…).
1.5. Chuẩn bị thực hiện
Sau khi hoàn thành kế hoạch hoạt động với bảng kế hoạch hoạt động cụ thể, cá
nhân/đơn vị lập kế hoạch tổ chức lấy ý kiến của các bên liên quan, chỉnh sửa, hoàn
thiện và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nếu nhận được góp ý của cấp thẩm quyền,
tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện. Sau đó chủ động chuẩn bị sẵn sàng nguồn lực cần thiết
đã được lập kế hoạch, tương ứng với các nhóm hoạt động để triển khai thực hiện như
kế hoạch đề cập.
Bản kế hoạch TT-GDSK đã được phê duyệt là cơ sở để triển khai thực hiện. Quá
trình tổ chức thực hiện, theo dõi, giám sát và đánh giá sẽ được tiến hành theo kế hoạch.
Trong quá trình thực hiện, có thể bổ sung hoặc điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với
mục tiêu TT-GDSK đã đề ra.
2. TỔ CHỨC THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG SỨC KHỎE,
GIÁO DỤC SỨC KHỎE
Hoạt động TT-GDSK có thể tiến hành một cách trực tiếp hoặc gián tiếp giữa
người TT-GDSK với người dân hay đối tượng GDSK. Tùy thuộc số lượng đối tượng

177
đích và cách thức tương tác trực tiếp mặt đối mặt hay gián tiếp qua các phương tiện
truyền thông, các hoạt động TT-GDSK có thể thực hiện dưới các hình thức: TT-GDSK
với cá nhân, với nhóm và với cộng đồng; các cấp độ này có thể tiến hành trực tiếp mặt
đối mặt hoặc gián tiếp qua các phương tiện truyền thông.
2.1. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với cá nhân
2.1.1. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với cá nhân
Đây là hình thức TT-GDSK mà người GDSK nói chuyện về sức khỏe, cung cấp
thông tin sức khỏe, hướng dẫn cách phòng bệnh cho một người dân hoặc thuyết phục
một đối tượng nào đó thực hiện hành vi sức khỏe cụ thể. GDSK với cá nhân giúp
người làm GDSK hiểu được vấn đề sức khỏe, nhu cầu GDSK của đối tượng để từ đó
cung cấp thông tin, giải thích, thuyết phục đối tượng hành động. Đối tượng tiếp thu,
nêu câu hỏi, thắc mắc và nhận được phản hồi ngay.
Người GDSK cần chuẩn bị và vận dụng nhiều kĩ năng giáo dục, giao tiếp (tạo
mối quan hệ ban đầu; lắng nghe; hỏi; nói, trình bày, diễn đạt; giải thích; đồng cảm;
động viên…) để cùng với đối tượng đạt được mục tiêu GDSK. Hình thức GDSK này
dễ thực hiện, có thể tiến hành ở nhiều nơi và do người có nhiệm vụ hoặc có khả năng
làm GDSK thực hiện.
2.1.2. Tư vấn sức khỏe
Tư vấn sức khỏe là hình thức đặc biệt của GDSK với cá nhân. Phương pháp này
chú trọng tìm hiểu các đặc điểm tâm lí, mong đợi, chuẩn mực cá nhân; vấn đề sức
khỏe, nhu cầu giáo dục của đối tượng về kiến thức, kĩ năng; nhu cầu trợ giúp; và dựa
vào cơ sở này để cung cấp thông tin, nêu các giải pháp, hướng dẫn cách thực hiện,
giúp đối tượng hiểu rõ vấn đề, lợi ích, khó khăn của việc thực hiện; trợ giúp, động viên
đối tượng tự lựa chọn phương án phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của họ.
Tư vấn sức khỏe đòi hỏi người tư vấn sức khỏe phải có kiến thức; kĩ năng giáo
dục, giao tiếp, tư vấn; kinh nghiệm và nhạy cảm để tạo sự tin cậy của đối tượng để họ
có thể bày tỏ vấn đề của họ, những gì họ quan tâm. Hiểu đúng đặc điểm tâm lí, nhu
cầu của đối tượng để có đáp ứng phù hợp là điều quan trọng quyết định hiệu quả tư
vấn.
Cần chú ý thực hiện một số nguyên tắc tư vấn sức khỏe như: tạo dựng mối quan
hệ tốt với đối tượng; xác định đúng nhu cầu của đối tượng; thấu hiểu và đồng cảm với
đối tượng; tôn trọng đối tượng; cung cấp đủ thông tin và nguồn hỗ trợ cho đối tượng;
động viên đối tượng tự quyết định, lựa chọn giải pháp và thực hiện.
Quá trình tư vấn sức khỏe gồm các bước chính sau:
- Bước 1: Tạo mối quan hệ tốt với đối tượng
- Bước 2: Tìm hiểu vấn đề sức khỏe, mối quan tâm, nhu cầu của đối tượng.
- Bước 3: Cung cấp, chia sẻ thông tin sức khỏe, các giải pháp liên quan.
- Bước 4: Giúp đối tượng lựa chọn cách giải quyết vấn đề phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của họ
- Bước 5: Giải thích, làm rõ các nội dung liên quan; giải đáp các thắc mắc; trợ
178
giúp, động viên đối tượng lập kế hoạch thực hiện
- Bước 6: Thống nhất kế hoạch hành động và những trợ giúp khác.
GDSK với cá nhân có thể được tiến hành với hình thức mặt đối mặt, trực tiếp
nhưng cũng có thể tương tác gián tiếp qua điện thoại, mạng xã hội. Phương pháp
GDSK này có thể giúp người GDSK lượng giá nhanh những thay đổi về kiến thức,
thái độ và thực hành của đối tượng nhưng cần nhiều thời gian và nguồn lực để có thể
tác động được nhiều đối tượng. Cần kết hợp với các phương pháp GDSK khác để làm
tăng hiệu quả GDSK.
2.2. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với nhóm
2.2.1. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với nhóm
Phương pháp TT-GDSK với nhóm tương tự như TT-GDSK với cá nhân nhưng
với một nhóm đối tượng đích. Hình thức này thường được áp dụng tại cộng đồng hoặc
tại các cơ sở y tế theo cách tổ chức riêng theo chuyên đề sức khỏe hoặc lồng ghép
trong các buổi họp cộng đồng dân cư hoặc họp người bệnh.
Trước khi tiến hành, người làm GDSK thường chuẩn bị những việc sau:
- Xác định rõ đối tượng tham gia (Họ là ai? Có vấn đề gì? Nhu cầu GDSK của
họ?). Hiểu rõ đối tượng tham gia giúp người GDSK xác định rõ chủ đề sức
khỏe sẽ nói chuyện, chuẩn bị nội dung tương ứng; xác định mục tiêu GDSK
phù hợp; chuẩn bị cách nói chuyện, cung cấp thông tin sức khỏe.
- Chuẩn bị nội dung theo trật tự cần trình bày, các tài liệu truyền thông để sử
dụng hoặc phát cho đối tượng.
- Xác định thời gian, thời lượng cho các nội dung tương ứng.
- Chuẩn bị phương tiện hỗ trợ thích hợp (máy tính, màn hình, micro, loa…).
- Chuẩn bị thời điểm và địa điểm tiến hành phù hợp.
Trong quá trình GDSK với nhóm cần chú ý tạo mối quan hệ tốt với đối tượng
thông qua việc chào hỏi, giới thiệu mục đích, ý nghĩa của buổi nói chuyện; cần diễn
đạt rõ ràng, dễ hiểu; chú ý lắng nghe, quan sát đối tượng để điều chỉnh cách trình bày,
để trả lời câu hỏi của đối tượng. Chú ý thúc đẩy sự tương tác, trao đổi giữa các thành
viên và dành thời gian để người nghe được hỏi về những gì chưa rõ và giải đáp phù
hợp. Kết thúc buổi nói chuyện bằng cách tóm tắt những nội dung quan trọng, cần nhớ,
cần thực hiện; lượng giá nhanh đối tượng nếu có điều kiện; đánh giá, ghi nhận sự tham
gia của đối tượng.
2.2.2. Thảo luận nhóm về chủ đề sức khỏe
Một hình thức GDSK với nhóm đặc biệt hơn là “thảo luận nhóm về chủ đề sức
khỏe”. Quá trình thực hiện tương tự như GDSK với nhóm đã trình bày ở trên. Đối
tượng tham gia có chung một số đặc điểm cá nhân, vấn đề sức khỏe hoặc nhu cầu sức
khỏe cụ thể. Phương pháp GDSK này bên cạnh việc cung cấp kiến thức, kĩ năng về
một chủ đề sức khỏe nào đó cho nhóm đối tượng, còn nhằm mục đích tìm hiểu mức độ
kiến thức, thái độ, thực hành về một chủ đề sức khỏe cụ thể; tìm hiểu những thuận lợi,

179
khó khăn hoặc rào cản khi thực hiện; những yếu tố liên quan đến vấn đề; tìm hiểu cách
giải quyết vấn đề phù hợp với nhóm đối tượng để có cơ sở lập kế hoạch can thiệp.
Tiến trình thực hiện cần tạo điều kiện, dành thời gian để các thành viên tương
tác, trao đổi, thảo luận theo cấu trúc nội dung đã chuẩn bị để tìm được những điểm
chung, những giải pháp phù hợp với đặc điểm, nhu cầu của nhóm.
Người điều hành thảo luận nhóm về sức khỏe cần có những năng lực của người
GDSK như đã đề cập trong phương pháp GDSK với cá nhân cần có thêm những kĩ
năng tổ chức, điều hành hoạt động nhóm, giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong nhóm,
thương thuyết, thuyết phục thực hiện.
2.2.3. Giáo dục sức khỏe với gia đình
GDSK với gia đình tương tự như phương pháp GDSK với nhóm nhưng các thành
viên trong nhóm chính là các thành viên trong cùng hộ gia đình. GDSK với gia đình có
thể là buổi nói chuyện về sức khỏe với gia đình về các vấn đề sức khỏe mà cả gia đình
cần quan tâm giải quyết tại hộ gia đình, ví dụ: nhân viên y tế nói chuyện về phòng
bệnh sốt xuất huyết cho các thành viên trong gia đình hoặc nói chuyện về sức khỏe với
người bệnh, người thân và những người chăm sóc họ tại bệnh viện.
GDSK với gia đình có thể là buổi tư vấn sức khỏe cho các thành viên trong gia
đình, ví dụ: tư vấn chăm sóc sức khỏe và phòng lây nhiễm HIV cho gia đình có người
nhiễm HIV hoặc tư vấn chăm sóc giáo dục trẻ tự kỉ cho gia đình có trẻ tự kỉ.
GDSK với gia đình thường diễn ra tại hộ gia đình nên có nhiều ưu điểm như:
nhân viên y tế tạo được mối quan hệ tốt với cả gia đình, quan sát trực tiếp môi trường
sống và các biểu hiện liên quan đến các vấn đề sức khỏe; các thành viên có cảm giác
yên tâm, tự tin hơn trong môi trường gia đình nên nêu ý kiến, chia sẻ quan điểm dễ
dàng hơn để từ đó người làm GDSK nêu các hướng dẫn, gợi ý thực hiện phù hợp hơn.
Để GDSK tại gia đình hiệu quả hơn, cần tìm hiểu trước các thông tin cơ bản,
thông tin sức khỏe của hộ gia đình; lập kế hoạch GDSK tại hộ gia đình kĩ lưỡng. Tiến
trình thực hiện có thể theo trình tự:
- Mở đầu với những thăm hỏi chung, nêu rõ mục đích, ý nghĩa.
- Quan sát nhanh môi trường gia đình, phát hiện thêm các vấn đề sức khỏe, các
yếu tố ảnh hưởng.
- Thực hiện nói chuyện, giáo dục, tư vấn về các chủ đề đã chuẩn bị. Có thể nói
chuyện với từng thành viên hoặc trao đổi chung tuỳ từng nội dung.
- Phát hiện những người ốm đau, bệnh tật trong gia đình để thăm hỏi, tư vấn.
- Kết thúc thăm và GDSK với gia đình: nhấn mạnh các điểm chính, quan trọng;
nếu thuận lợi lượng giá nhanh về những thông tin vừa trao đổi; thể hiện sự sẵn
sàng trợ giúp, cung cấp thông tin sức khỏe; động viên thực hiện; ghi nhận, cảm
ơn sự hợp tác của gia đình.
2.3. Truyền thông, giáo dục sức khỏe với cộng đồng
GDSK với cộng đồng thường thực hiện ở qui mô rộng hơn, thông điệp, thông tin
sức khỏe tác động tới đông đảo người dân, gián tiếp thông qua các phương tiện truyền
180
thông đại chúng (báo in, tài liệu in; báo hình (các chương trình trên truyền hình,
internet, mạng xã hội); báo tiếng (đài, loa phát thanh). GDSK với cộng đồng còn được
thực hiện qua các sự kiện đại chúng, mít tinh, cổ động về chủ đề sức khỏe, các thông
điệp sức khỏe qua đó được truyền tải đến đông đảo người dân, đối tượng đích.
Các hoạt động TT-GDSK với cộng đồng thường được tổ chức, tiến hành nhân
những ngày lễ, ngày kỉ niệm những sự kiện sức khỏe cụ thể như: Ngày tiêm chủng,
Ngày vitamin A (01/6), Ngày Thế giới không thuốc lá (31/5), Ngày quốc tế phòng
chống HIV/AIDS (01/12).... Trong những chiến dịch này, các hoạt động sân khấu hóa,
giải trí giáo dục như: ca múa nhạc, kịch, đố vui có thưởng về các chủ đề sức khỏe
được tổ chức nhằm thu hút đông đảo các thành phần xã hội tham gia. Tờ rơi, sách nhỏ,
các tài liệu/sản phẩm truyền thông khác được phân phát cho nhiều người; treo nhiều
băng rôn, nhiều bảng tin quảng cáo lớn tại những nơi đông người tạo hiệu ứng truyền
thông mạnh mẽ tới đối tượng.
Các phương pháp GDSK vừa nêu thường được tổ chức, kết hợp hài hòa trong
khuôn khổ nguồn lực cho phép để phát huy các ưu điểm, kiểm soát nhược điểm của
mỗi phương pháp, góp phần nâng cao hiệu quả TT-GDSK cho các nhóm đối tượng
đích, cho người dân nói chung.
3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BUỔI TRUYỀN THÔNG, GIÁO DỤC SỨC KHỎE
Đánh giá là sự định giá, khẳng định giá trị của một sự vật nào đó. Đánh giá
chương trình, hoạt động TT-GDSK là quá trình xác định kết quả đạt được so với các
kết quả mong đợi, các mục tiêu TT-GDSK đã xác định trước khi thực hiện. Đánh giá
hiệu quả của buổi TT-GDSK được hiểu là xem xét, đo lường mức độ thay đổi về kiến
thức, thái độ, dự định thay đổi, thực hiện hành vi sức khỏe cụ thể.
Đánh giá các hoạt động thường liên quan tới các hoạt động quan sát, thu thập số
liệu để xác định các hoạt động TT-GDSK diễn ra như thế nào, kết quả đạt được so với
các chỉ số đánh giá. Mục đích của đánh giá buổi TT-GDSK thường nhằm xác định:
- Hoạt động TT-GDSK có được thực hiện theo kế hoạch không.
- Buổi TT-GDSK có đạt được mục tiêu đề ra không.
- Yếu tố nào dẫn đến thành công hay thất bại.
- Bài học kinh nghiệm để cải thiện hoạt động TT-GDSK
Buổi TT-GDSK cho một nhóm đối tượng đích cụ thể có thể được xem xét quá
trình thực hiện và kết quả thực hiện.
Quá trình thực hiện buổi TT-GDSK thường được xem xét các khía cạnh:
- Đối tượng tham gia: phù hợp không? Số lượng thế nào?.
- Thời gian, địa điểm tổ chức thực hiện phù hợp không?.
- Chủ đề TT-GDSK: rõ ràng, cụ thể không?
- Mục tiêu TT-GDSK: có đáp ứng các yêu cầu (SMART) không?.
- Nội dung, tài liệu, phương tiện chuẩn bị có đầy đủ, phù hợp không?
- Người TT-GDSK: năng lực như thế nào?
- Quá trình thực hiện buổi TT-GDSK như thế nào?

181
- Sự tham gia, phản ứng của đối tượng tham gia như thế nào?
- Sự hài lòng của đối tượng tham gia?
- Làm gì để cho buổi TT-GDSK tốt hơn, làm cho đối tượng hài lòng hơn?
Đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK thường thông qua kết quả đo lường các chỉ số:
sự nhớ lại các nội dung chính, các thông điệp sức khỏe chính; thái độ của đối tượng
đối với chủ đề, vấn đề sức khỏe và đối với hành động giải quyết vấn đề, hành vi cần
thực hiện; dự định thực hiện của đối tượng để giải quyết, cải thiện vấn đề sức khỏe nào
đó.
Để có thông tin đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK, các câu hỏi dưới dạng hỏi đáp
trực tiếp hoặc trên giấy sẽ được chuyển đến đối tượng tham gia để trả lời. Kết quả trả
lời câu hỏi sẽ được tổng hợp, phân tích để ước tính mức độ thay đổi về kiến thức, xác
định sự thay đổi về thái độ, dự định thực hiện và dự đoán khả năng thay đổi hành vi
của những đối tượng tham gia.
Nếu các buổi TT-GDSK đạt được mục tiêu đề ra sẽ góp phần đạt được mục tiêu
của chương trình TT-GDSK nói chung. Kết quả đánh giá cũng là bằng chứng để thuyết
phục và tranh thủ sự đồng tình hỗ trợ của các bên liên quan. Giải trình cho việc sử
dụng nguồn lực, đánh giá hoạt động chỉ ra hoạt động có tương xứng với nguồn lực đầu
tư không, tính chi phí hiệu quả chấp nhận được không.
3.1. Xác định mục tiêu, phạm vi đánh giá
Mục tiêu đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK cho một nhóm đối tượng nhất định
thường nhằm xem xét quá trình thực hiện buổi TT-GDSK hoặc ước tính những thay
đổi về kiến thức, thái độ và dự định hành động phòng bệnh, nâng cao sức khỏe của đối
tượng tham gia.
Tùy thuộc nguồn lực và mục đích của người quản lí, người làm TT-GDSK để
quyết định xem xét cả quá trình thực hiện và kết quả thực hiện hoặc chỉ tập trung vào
kết quả của buổi TT-GDSK.
Phạm vi đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK phản ánh qua mong muốn xem xét tất
cả các chỉ số về kiến thức, thái độ, dự định, hành vi của đối tượng đích hoặc chỉ tập
trung vào đo lường mức độ thay đổi kiến thức hoặc chỉ xem xét dự định hành động
như thế nào. Phạm vi cũng thể hiện mức độ đánh giá kiến thức toàn diện về vấn đề sức
khỏe hay chỉ tập trung đo lường kiến thức về phòng bệnh. Nếu là đánh giá quá trình
thực hiện buổi TT-GDSK thì phạm vi đánh giá thể hiện mức độ đánh giá cả tiến trình
thực hiện hay chỉ tập trung vào quá trình truyền tải nội dung và tài liệu sử dụng, v.v.
3.2. Xác định các chỉ số đánh giá
Chỉ số đánh giá hiệu quả buổi TT-GDSK bao gồm:
- Tỉ lệ đối tượng tham gia nói đúng các nội dung chính hoặc các thông điệp sức
khỏe chính của buổi TT-GDSK.
- Số lượng, tỉ lệ đối tượng tham gia thể hiện thái độ tích cực đối với hành động
cần thực hiện vì mục đích phòng bệnh.
- Tỉ lệ đối tượng tham gia có dự định thực hiện hành động khuyến cáo để phòng
182
bệnh, nâng cao sức khỏe.
- Số lượng, tỉ lệ đối tượng thực hiện đúng hành động khuyến cáo thực hiện.

3.3. Phương pháp đánh giá.


Để có thông tin nhằm phân tích, xác định kết quả thực hiện, cần xây dựng công
cụ thu thập thông tin. Nhiều câu hỏi tương ứng, liên quan với các chỉ số đánh giá hiệu
quả TT-GDSK nêu trên được viết ra và thể hiện trong bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi
được sử dụng để hỏi người tham gia buổi TT-GDSK một cách trực tiếp để thu thập câu
trả lời hoặc phát cho đối tượng đọc và trả lời.
Những câu hỏi có thể đặt ra khi đánh giá hiệu quả TT-GDSK là:
- Nêu các dấu hiệu, triệu chứng chính của bệnh?
- Nêu các nguyên nhân của bệnh?
- Nêu các biện pháp phòng bệnh?
- Tin vào lợi ích của các hoạt động phòng bệnh? Mức độ?
- Mức độ sẵn sàng, tự nguyện tham gia hoạt động phòng bệnh?
- Có dự định thực hiện không? Khi nào?
Các hình thức hỏi, đáp trực tiếp; trả lời câu hỏi trên giấy hoặc trả lời câu hỏi trực
tuyến có thể áp dụng để thu thập thông tin phục vụ mục đích đánh giá. Có thể quan sát
và sử dụng bảng kiểm để đánh giá thái độ hoặc hành động/hành vi sức khỏe của đối
tượng.
Tùy nguồn lực chuẩn bị cho hoạt động đánh giá, có thể áp dụng phương pháp
nghiên cứu định lượng để điều tra thu thập thông tin trên tất cả các đối tượng tham gia
và phân tích kết quả, hoặc áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính để phỏng vấn
hoặc thảo luận với một số đối tượng tham gia để từ đó ước tính hiệu quả đạt được từ
một buổi hoặc một số buổi TT-GDSK trong chương trình nâng cao sức khỏe chung.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


Câu 1: Trình bày quá trình lập kế hoạch và chuẩn bị thực hiện hoạt động truyền thông,
giáo dục sức khỏe?
Câu 2: Trình bày các chỉ số và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động truyền thông,
giáo dục sức khỏe?
Câu 3: Trình bày các chỉ số và phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động truyền thông,
giáo dục sức khỏe.?

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Bộ Y tế (2006). Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe. Tài liệu đào tạo cử
nhân Y tế công cộng.
2. Trường Đại học Y tế công cộng (2013). Đánh giá chương trình nâng cao sức
khỏe. NXB Lao động-Xã hội.
183
3. WHO (2012). Giáo dục sức khỏe: Lí thuyết, những chiến lược hiệu quả và
những năng lực cốt lõi (biên dịch).

CHUYÊN ĐỀ 7
KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN TRONG THỰC HÀNH
CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 16 tiết


Số tiết lý thuyết: 08 tiết
Số tiết thực hành: 08 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Trình bày được định nghĩa nhiễm khuẩn bệnh viện và dịch tễ học nhiễm
khuẩn bệnh viện.
2. Phân tích được thực trạng nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế
3. Trình bày được gánh nặng của nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế
4. Nêu được sự phối hợp giữa các khoa, phòng trong cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh về kiểm soát nhiễm khuẩn.

NỘI DUNG
1.TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn bệnh viện hay còn gọi là nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế
(Healthcare Associated Infection - HAI) là các nhiễm khuẩn xảy ra trong quá trình
người bệnh (NB) được chăm sóc, điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (KBCB) mà
không hiện diện hoặc ủ bệnh khi nhập viện. Nhìn chung, các nhiễm khuẩn xảy ra sau
nhập viện 48 giờ (2 ngày) thường được coi là NKBV. NKBV là một trong những
thách thức và mối quan tâm hàng đầu tại Việt nam cũng như trên toàn thế giới.
NKBV có thể được xem như là bệnh gây ra bởi bệnh viện. Những nghiên cứu cho
thấy rằng NKBV làm tăng tỉ lệ tử vong, kéo dài thời gian nằm viện, tăng việc sử dụng
kháng sinh, tăng đề kháng kháng sinh và chi phí điều trị. Cùng với sự xuất hiện một
số bệnh gây ra bởi những vi sinh vật kháng thuốc, hoặc bởi những tác nhân gây bệnh
mới, NKBV vẫn còn là vấn đề nan giải ngay cả ở các nước đã phát triển. Thống kê
cho thấy tỉ lệ NKBV vào khoảng 5-10% số bệnh nhân nằm viện ở các nước đã phát
triển và lên đến 15-20% ở các nước đang phát triển.

184
(2 ngày)

Sơ đồ: Thời gian xuất hiện NKBV


Để chẩn đoán NKBV người ta dựa vào định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán cho
từng vị trí NKBV như: Nhiễm khuẩn vết mổ, Viêm phổi bệnh viện, Nhiễm khuẩn
huyết liên quan đến dụng cụ đặt trong lòng mạch, Nhiễm khuẩn đường tiết niệu v,v,.
Hiện nay theo hướng dẫn từ Trung tâm Giám sát và Phòng bệnh Hoa Kỳ
(CDC) và các hội nghị quốc tế đã mở rộng định nghĩa ca bệnh cho các vị trí
nhiễm khuẩn khác nhau và hiện đang được áp dụng để giám sát nhiễm khuẩn
bệnh viện trên toàn cầu. Nhiễm khuẩn liên quan đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
(KBCB) không chỉ là chỉ số chất lượng chuyên môn, mà còn là chỉ số an toàn của
người bệnh, chỉ số đánh giá sự tuân thủ về thực hành của nhân viên y tế (NVYT), chỉ
số đánh giá hiệu lực của công tác quản lý và là một chỉ số rất nhạy cảm đối với người
bệnh và xã hội.
1.2. Dịch tễ học nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn liên quan đến các hoạt động chăm sóc và khám chữa bệnh trong
các cơ sở y tế (CSYT) là một trong những yếu tố hàng đầu đe doạ sự an toàn của ngư -
ời bệnh trong các cơ sở y tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với sự gia tăng số ng-
ười nhiễm HIV/AIDS, viêm gan B, viêm gan C và các bệnh dịch nguy hiểm có nguy
cơ gây dịch, người bệnh đứng trước nguy cơ có thể bị mắc thêm bệnh khi nằm viện
hoặc khi nhận các dịch vụ y tế từ NVYT và những người trực tiếp chăm sóc cũng có
nguy cơ cao mắc bệnh như chính người bệnh mà họ chăm sóc.
1.2.1. Tác nhân chính gây nhiễm khuẩn bệnh viện:
Trong cuộc sống hàng ngày con người và vi sinh vật luôn luôn tiếp xúc với nhau. Trong
một hoàn cảnh nhất định, vi sinh vật có thể xâm nhập vào cơ thể con người tạo nên một phản ứng
phức tạp ta gọi chung là nhiễm khuẩn.
Nhiễm khuẩn: là sự tăng sinh của các vi khuẩn, virus hoặc ký sinh trùng dẫn tới phản ứng
tế bào, tổ chức hoặc toàn thân, thông thường biểu hiện trên lâm sàng là một hội chứng viêm.
Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến quá trình nhiễm khuẩn: Vi sinh vật gây bệnh; Tính chất phản
ứng của cơ thể (đối tượng cảm thụ); Yếu tố ngoại cảnh (môi trường).
Vi sinh vật gây bệnh: Đây là yếu tố trực tiếp quan trọng, khả năng gây bệnh của từng loại
185
vi sinh vật phụ thuộc vào yếu tố độc lực, số lượng và đường xâm nhập của chúng. Căn nguyên vi
sinh vật gây NKBV phần lớn nguyên nhân là do vi khuẩn, sau đó là do virus, nấm và ký sinh
trùng.
Tác nhân gây NKBV đã có nhiều thay đổi trong vài thập kỷ qua. Các vi khuẩn
gây bệnh có thể là các vi khuẩn gram dương và các trực khuẩn Gram (-), nấm, và ký
sinh trùng. Tuy nhiên, NKBV do trực khuẩn Gram (-) đa kháng thuốc kháng sinh đã
và đang trở thành một tai hoạ thực sự cho các bệnh viện. Tốc độ kháng kháng sinh
của các vi khuẩn này với các nhóm kháng sinh carbapenems và aminoglycoside cũng
tăng nhanh và lan rộng khắp các châu lục, trong đó có Việt Nam.
1.2.2. Đường lây truyền nhiễm khuẩn bệnh viện
Có 3 đường lây truyền chính trong cơ sở y tế là lây qua đường tiếp xúc, đường
giọt bắn, và không khí.
- Lây qua đường tiếp xúc là đường lây nhiễm quan trọng và phổ biến nhất trong
nhiễm khuẩn bệnh viện và được chia làm hai loại khác nhau là lây nhiễm qua đường
tiếp xúc trực tiếp (tiếp xúc trực tiếp với các tác nhân gây bệnh) và lây nhiễm qua tiếp
xúc gián tiếp (tiếp xúc với vật trung gian chứa tác nhân gây bệnh).
- Lây nhiễm qua đường giọt bắn: khi các tác nhân gây bệnh chứa trong các
giọt nhỏ bắn ra khi người bệnh ho, hắt hơi, nói chuyện bắn vào kết mạc mắt, niêm
mạc mũi, miệng của người tiếp xúc; các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm có trong các
giọt bắn có thể truyền bệnh từ người sang người trong một khoảng cách ngắn (<1 mét). Các
giọt bắn có kích thước rất khác nhau, thường >5 m, có khi lên tới 30 m hoặc lớn hơn.
Một số tác nhân gây bệnh qua đường giọt bắn cũng có thể truyền qua đường tiếp xúc trực
tiếp hoặc tiếp xúc gián tiếp.
- Lây qua đường không khí xảy ra do các giọt bắn li ti chứa tác nhân gây bệnh,
có kích thước < 5m. Các giọt bắn li ti phát sinh ra khi người bệnh ho hay hắt hơi, sau đó phát
tán vào trong không khí và lưu chuyển đến một khoảng cách xa, trong một thời gian
dài tùy thuộc vào các yếu tố môi trường. Những bệnh có khả năng lây truyền bằng
đường không khí như lao phổi, sởi, thủy đậu, đậu mùa, cúm, quai bị hoặc cúm, SARS
khi có làm thủ thuật tạo khí dung ...
1.2.3. Nguồn lây nhiễm khuẩn bệnh viện
Có nhiều nguồn lây nhiễm ở trong các cơ sở y tế ví dụ như: nguồn lây từ môi
trường (không khí, nước, xây dựng), bệnh nhân, từ các hoạt động khám và chữa bệnh
(thủ thuật xâm nhập và phẫu thuật, dụng cụ và thiết bị, hóa trị liệu,...).
* Từ môi trường
Các tác nhân gây bệnh có thể gặp trong môi trường (không khí, nước, bề mặt vật
dụng xung quanh người bệnh) như nấm vi khuẩn hoặc các loại vi rút và các ký sinh
trùng.
* Từ người bệnh
Con người (người bệnh, nhân viên y tế, người nhà người bệnh, khách thăm) đều có
186
thể đóng vai trò như ổ chứa hoặc nguồn chứa tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện.
Các yếu tố từ người bệnh làm thuận lợi cho nhiễm khuẩn bệnh viện gồm tuổi,
tình trạng sức khỏe và phương pháp điều trị được áp dụng. Nguy cơ có thể được phân
loại theo 3 mức độ khác nhau: nguy cơ mức độ thấp, mức trung bình và mức độ cao.
Các người bệnh có nguy cơ thấp khi không có dấu hiệu bệnh quan trọng, hệ miễn dịch
không bị ảnh hưởng và không phải điều trị can thiệp. Tình trạng sức khỏe kém, đặc biệt
là tuổi cao các đáp ứng miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể bị suy giảm; trẻ em có
hệ thống đáp ứng miễn dịch chưa hoàn chỉnh, sức chịu đựng stress kém vì thế sức đề
kháng với vi khuẩn yếu nên xuất hiện một nguy cơ toàn thân. Ngoài ra người bệnh cao
tuổi dễ mắc bệnh còn liên quan đến tình trạng dinh dưỡng kém.
Hơn nữa, người bệnh nặng dẫn đến tình trạng tăng trao đổi chất, khả năng miễn
dịch suy yếu, khả năng chống lại các vi sinh vật ngoại sinh giảm và vi sinh vật nội sinh
phát triển mạnh hơn. Một số yếu tố khác cũng góp phần nhiễm khuẩn bệnh viện như
tình trạng người bệnh khi nhập viện (cấp tính hay không cấp tính), thời gian nằm viện,
giới tính, khả năng khử nhiễm chọn lọc của ống tiêu hóa và các nguy cơ này mang
tính độc lập với mỗi loại nhiễm khuẩn. Nguy cơ cao nhiễm khuẩn bệnh viện cũng xảy
ra trên những người bệnh thay tạng, ung thư hoặc nhiễm trùng do suy giảm miễn dịch
ở người nhiễm HIV, người bệnh tổn thương hệ miễn dịch, người bệnh đa chấn
thương hoặc bỏng nặng và người bệnh thường xuyên phải điều trị can thiệp.
* Từ việc sử dụng kháng sinh không thích hợp
Ngày nay, mối quan tâm đặc biệt là khoảng 70% của nhiễm khuẩn bệnh viện là do
các chủng vi khuẩn kháng thuốc. Quá trình kháng thuốc là do hoặc phát triển tính
kháng tự nhiên hoặc do các nhà lâm sàng đã lạm dụng kháng sinh trong quá trình điều
trị các bệnh nhiễm khuẩn. Do vậy, vấn đề kháng thuốc của các tác nhân gây nhiễm
khuẩn đang là một vấn đề toàn cầu, đặc biệt là các căn nguyên vi khuẩn đa kháng kháng
sinh.
Tình trạng kháng thuốc của trực khuẩn Gram (-) gây nhiễm khuẩn bệnh viện ngày
càng gia tăng và phổ biến ở tất cả các khoa điều trị trong bệnh viện và tình trạng đa
kháng thường xảy ra với các kháng sinh thuộc nhóm quinolon, cephalosporin thế hệ
3 và aminoglycosid. Sự bùng nổ ngày càng nhiều chủng trực khuẩn mủ xanh và
A.baumannii đa kháng kháng sinh ở trong và ngoài khoa điều trị tích cực đang là vấn
đề thường xuyên được đề cập tới ngày càng nhiều ở hầu hết các nghiên cứu gần đây.
Khi sử dụng kháng sinh không hợp lý sẽ làm tăng chủng kháng thuốc do
có sự phối hợp chọn lọc tự nhiên và thay đổi các thành phần gen kháng thuốc
của vi khuẩn. Kháng kháng sinh xuất phát điểm từ các cơ sở y tế, sau đó lan rộng
ra cộng đồng và vi khuẩn kháng thuốc trở thành căn nguyên của khoảng 70% các
nhiễm khuẩn bệnh viện. Tỷ lệ mắc và tử vong do nhiễm khuẩn bệnh viện có liên
quan đến vi khuẩn kháng thuốc đã làm tăng đáng kể các loại chi phí.
Ngăn ngừa sự bùng phát và lây lan của các vi khuẩn kháng thuốc sẽ hạn
chế được ảnh hưởng bất lợi và tốn kém. Việc quản lý và sử dụng kháng sinh thích
187
hợp như lựa chọn thuốc, liều dùng trong quá trình điều trị và giám sát thường
xuyên tính kháng kháng sinh sẽ hạn chế được tốc độ kháng thuốc của vi khuẩn.
1.3. Thực trạng nhiễm khuẩn bệnh viện
1.3.1. Trên thế giới
Các nghiên cứu quy mô vùng, quốc gia và liên quốc gia của các nước và Tổ
chức Y tế Thế giới ghi nhận tỷ lệ NKBV từ 3,5% đến 10% người bệnh nhập viện.
Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV, làm 90.000
người tử vong, làm tốn thêm 4,5 tỉ dollar viện phí. Nghiên cứu về hiệu quả của
Chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện SENIC (Study on the Efficacy of
Nosocomial Infection Control) năm 1970 -1976 đã khẳng định Chương trình kiểm
soát NKBV bao gồm giám sát và áp dụng kỹ thuật có thể làm giảm 33% NKBV. Từ
đó, nhiều bệnh viện đã cải tiến các biện pháp kiểm soát NKBV và đã đạt được nhiều
thành công. Từ năm 2007, Hiệp hội KSNK và dịch tễ học Hoa Kỳ APIC (Association
for Professionals in Infection Control and Epidemiology) đã đưa ra mục tiêu “ hướng
đến không có NKBV”.
Một nghiên cứu của Rosenthal và cộng sự (2006), tiến hành tại 8 quốc gia đang
phát triển từ 2002-2005, cho thấy tỉ lệ NKBV chung là 14,7% và 22,5 ca NKBV/1000
ngày Điều trị, tỉ lệ tử vong khá cao ở khoa Hồi sức tích cực lên tới 35,2%-44,9% [5].
Một nghiên cứu khác của Tao L, Rosenthal và cộng sự (2011), tại 398 khoa Hồi sức
tích cực của 70 bệnh viện (BV) tại Thượng Hải, Trung quốc, cho thấy tỉ lệ NKBV
chung là 5,3% và 6,4 ca NKBV/1000 ngày nằm viện tại khoa Hồi sức tích cực, trong
đó viêm phổi mắc phải trong BV chiếm tỉ lệ cao nhất là 20,8 ca/1000 ngày thở máy,
kế đến nhiễm khuẩn Tiết niệu 6,4 ca/1000 ngày mang thông tiểu và 3,1 ca nhiễm
khuẩn huyết/1000 ngày mang catheter mạch máu, vi khuẩn thường gây NKBV hàng
đầu là Acinetobacter baumannii (19,1%), kế đến là Pseudomonas aeruginosa
(17,2%), Klebsi Một nghiên cứu ngang thực hiện tại các nước châu Âu gần đây cho thấy
NKBV chiếm tỷ lệ 4,6 – 9,3% người bệnh nhập viện. Ước tính hàng năm khoảng 5 triệu
trường hợp NKBV, trong đó chết 130.000 người, gây tổn phí khoảng 25 triệu ngày điều
trị và khoảng 13-24 tỷ EU. Tại Anh, ước tính mỗi năm khoảng 100.000 người bệnh mắc
NKBV, trên 5.000 người bệnh tử vong, chi phí phát sinh cho điều trị khoảng 1 tỷ bảng.
Theo khảo sát cắt ngang 1 ngày tại bệnh viện của Albania, Morocco, Tunisia và
Tanzania, tỷ lệ NKBV theo trình tự 19.1%, 17,8%, 17,9%, 14,8%. Ở các nước đang phát
triển, chương trình KSNK đã được triển khai từ đầu những năm 1980. Tuy nhiên, công
tác giám sát phát hiện NKBV ở hầu hết quốc gia chưa tốt do gặp phải những thách thức
như: thiếu nhân viên chuyên trách được đào tạo về KSNK, thiếu thống nhất về tiêu
chuẩn chẩn đoán NKBV (labo vi sinh, chẩn đoán hình ảnh...). Hầu hết những công bố
về giám sát NKBV thường chỉ đề cập đến từng bệnh viện đơn lẻ. Những khó khăn trên
kết hợp với những thách thức trong công tác phòng ngừa và kiểm soát (nhận thức của
NVYT, cộng đồng chưa tốt, tình trạng quá tải và kinh phí điều trị hạn hẹp) lý giải tại sao
NKBV tại các nước đang phát triển cao hơn nhiều so với các nước phát triển.
188
1.3.2. Nhiễm khuẩn bệnh viện tại Việt Nam và thực trạng công tác KSNK
Tình hình NKBV tại Việt nam chưa được xác định đầy đủ. Có ít tài liệu và
thống kê giám sát NKBV được công bố. Những tốn kém về nhân lực và tài lực do
NKBV trong toàn quốc cũng chưa được xác định. Có ba điều tra cắt ngang quốc gia
về nhiễm khuẩn bệnh viện đã được thực hiện. Điều tra năm 1998 trên 901 bệnh nhân
trong 12 bệnh viện toàn quốc cho thấy tỉ lệ NKBV là 11.5%; nhiễm khuẩn vết mổ
chiếm 51% trong tổng số các NKBV. Năm 2001 tỉ lệ NKBV trong số các bệnh nhân
đang điều trị tại 11 bệnh viện là 6.8% và viêm phổi bệnh viện là nguyên nhân thường
gặp nhất (41.8%). Một điều tra năm 2005 tại19 bệnh viện trong toàn quốc cho thấy
5.7% số bệnh nhân đang nằm viện mắc NKBV và viêm phổi bệnh viện chiếm 55.4%
các NKBV. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng thực hiện ở 62 bệnh
viện thuộc 3 tuyến: tuyến trung ương (11 bệnh viện); tuyến tỉnh/thành phố (34
bệnh viện) và tuyến quận/huyện (17 bệnh viện) được lựa chọn ngẫu nhiên, kết quả
tỷ lệ nhiễm khuẩn chung các tuyến bệnh viện: 7,8%; tỷ lệ người mắc NKBV tại
bệnh viện tuyến tỉnh/thành là 8,3%, cao hơn bệnh viện tuyến trung ương 5,4% và
tuyến quận/huyện là 6,4% và các NKBV thường gặp là: nhiễm khuẩn phổi
(44,7%), nhiễm khuẩn vết mổ (29,3%) và nhiễm khuẩn tiết niệu (13,9%) và theo
kết quả nghiên cứu này nhóm nghiên cứu cũng tìm ra yếu tố nguy cơ gây nên
NKBV là: mở khí quản, phẫu thuật, đặt nội khí quản, đặt ống thông tiểu, đặt ống
thông tĩnh mạch trung tâm.
Bệnh nguyên NKBV đa số là là vi khuẩn Gram âm (78%), 19% là Gram dương
và 3% là Candida các loại. Các bệnh viện Việt Nam đang đối diện với nhiều thách
thức trong công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, bao gồm tình trạng quá tải bệnh nhân, cơ
sở hạ tầng chưa đáp ứng đúng yêu cầu của kiểm soát nhiễm khuẩn, phương tiện còn
chưa đầy đủ. Theo báo cáo của Bộ Y Tế (2007), chỉ có 67% các bệnh viện ở Việt
Nam có Đơn vị tiệt khuẩn trung tâm trong bệnh viện, việc làm sạch bằng tay chiếm
85%; 60% các bệnh viện có lò hấp hơi nước, 2,2% có lò hấp nhiệt độ thấp; 20-40% số
bệnh viện có kiểm tra chất lượng dụng cụ khử khuẩn, tiệt khuẩn chủ động.
1.4. Tầm quan trọng của kiểm soát nhiễm khuẩn trong chăm sóc và điều trị.
Nhiễm khuẩn bệnh viện xảy ra liên quan đến nhiều yếu tố, bao gồm con người,
môi trường bệnh viện và bản thân người bệnh. Do đó, chương trình kiểm soát NKBV
cũng phải bao gồm các hoạt động đa chuyên ngành, với sự tham gia của tất cả mọi
người trong bệnh viện. Các yếu tố chính của các hoạt động này bao gồm: (1). Củng cố
hệ thống tổ chức KSNK trong bệnh viện (2). Triển khai các hoạt động, quy trình kỹ
thuật để phòng ngừa và kiểm soát NKBV (3). Huy động sự tuân thủ các thực hành của
nhân viên y tế.
NKBV có thể ngăn ngừa được thông qua những chương trình kiểm soát NKBV.
Mỗi bệnh viện cần xây dựng chương trình phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn, đưa
những chuẩn mực về chất lượng chăm sóc vào các thực hành lâm sàng. Nghiên cứu về
hiệu quả của chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện SENIC (Study on the
Efficacy of Nosocomial Infection Control) năm 1970 -1976 đã chứng minh rằng một
189
chương trình kiểm soát NKBV bao gồm giám sát và áp dụng kỹ thuật dự phòng có thể
làm giảm 33% NKBV. Từ đó, nhiều bệnh viện đã cải tiến các biện pháp kiểm soát
NKBV nhằm làm giảm đến mức tối đa tỉ lệ NKBV, và đã đạt được nhiều thành công.
Từ năm 2007, hiệp hội về KSNK và dịch tễ học Hoa Kỳ APIC (Association for
Professionals in Infection Control and Epidemiology) đã đưa ra mục tiêu “không có
trường hợp NKBV nào hoặc tiến gần đến không có trường hợp nào nữa”.
Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là một trong những thách thức và mối quan
tâm hàng đầu tại Việt nam cũng như trên toàn thế giới. NKBV có thể được xem như
là bệnh gây ra bởi bệnh viện, vì đây là những nhiễm khuẩn mắc phải chỉ trong thời
gian bệnh nhân nằm viện. Những nghiên cứu cho thấy rằng NKBV làm tăng tỉ lệ tử
vong, kéo dài thời gian nằm viện, tăng việc sử dụng kháng sinh, tăng đề kháng kháng
sinh và chi phí điều trị. Cùng với sự xuất hiện một số bệnh gây ra bởi những vi sinh
vật kháng thuốc, hoặc bởi những tác nhân gây bệnh mới, NKBV vẫn còn là vấn đề
nan giải ngay cả ở các nước đã phát triển. Thống kê cho thấy tỉ lệ NKBV vào khoảng
5-10% ở các nước đã phát triển và lên đến 15-20% ở các nước đang phát triển.
Có thể ngăn ngừa NKBVqua những chương trình kiểm soát NKBV. Chương
trình kiểm soát NKBV tốt đưa những chuẩn mực về chất lượng chăm sóc vào trong
những thực hành lâm sàng. Nghiên cứu về hiệu quả của chương trình kiểm soát nhiễm
khuẩn bệnh viện SENIC (Study on the Efficacy of Nosocomial Infection Control)
năm 1970 -1976 đã chứng minh rằng một chương trình kiểm sóat NKBV bao gồm
giám sát và áp dụng kỹ thuật có thể làm giảm 33% NKBV. Kiểm soát nhiễm khuẩn
bệnh viện như thế có ý nghĩa thiết thực trong góp phần nâng cao chất lượng điều trị và
nâng cao hiệu quả kinh tế. Việc kiểm soát và dự phòng NKBV hiệu quả được xem
như là một tiêu chuẩn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của
bệnh viện.
Kiểm soát nhiễm khuẩn là một phương pháp khoa học và giải pháp thiết thực
nhằm ngăn ngừa các tác hại do nhiễm trùng đối với người bệnh và nhân viên y tế, nó
có cơ sở dựa trên việc tăng cường hệ thống y tế, các bệnh truyền nhiễm, dịch tễ học
và khoa học xã hội. Kiểm soát nhiễm khuẩn có vị trí quan trọng nhất trong lĩnh vực an
toàn người bệnh và chất lượng dịch vụ y tế vì nó có liên quan đến nhân viên y tế và
người bệnh tại thời điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Năm 2018, Bộ Y Tế đã ban hành Thông tư 16/2018 Quy định Kiểm soát nhiễm
khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Thông tư mới này đã nâng cao vai trò
của kiểm soát nhiễm khuẩn lên một vị trí cao hơn những quy chế trước đây, đòi hỏi
các cơ sở khám chữa bệnh đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Các hướng dẫn về kiểm soát nhiễm khuẩn của Bộ Y Tế cũng đã được ban hành từ
năm 2012 và gần đây nhất là vào năm 2017, bao gồm 12 hướng dẫn với đầy đủ các
biện pháp phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn được áp dụng trong các cơ sở KBCB.
1.5. Thực trạng công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại Việt Nam
Năm 2009, Bộ Y Tế đã ban hành Thông tư 18/2019 hướng dẫn công tác KSNK
trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và đến năm 2018, Bộ đã ban hành Thông tư
16/2018 thay thế cho Thông tư 18/2009 cho phù hợp với những đặc điểm tình hình và
190
yêu cầu mới về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Thông tư mới này đã nâng cao vai
trò của kiểm soát nhiễm khuẩn lên một vị trí cao hơn những quy chế trước đây, đòi
hỏi các cơ sở khám chữa bệnh đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác kiểm soát nhiễm
khuẩn. Các hướng dẫn về kiểm soát nhiễm khuẩn của Bộ Y Tế cũng đã được ban
hành từ năm 2012 và gần đây nhất là vào năm 2017, bao gồm 13 hướng dẫn với đầy
đủ các biện pháp phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn được áp dụng trong các cơ sở
KBCB.
Năm 2017, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh có tiến hành một đánh giá nhanh để
tìm hiểu một số thông tin chính về công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh. Kết quả chính của khảo sát này như sau:
1.5.1. Về thực trạng tổ chức, nhân lực của hệ thống KSNK và Giám sát nhiễm
khuẩn bệnh viện:
1.5.1.1. Về nhân lực hệ thống KSNK
- Hệ thống tổ chức KSNK được thiết lập ở hầu hết các BV trong toàn quốc:
92,23% có Hội đồng KSNK, 88,66% có mạng lưới KSNK và 72,27% bệnh viện có
khoa KSNK.
- Nhân lực công tác trong khoa/tổ kiểm soát nhiễm khuẩn chiếm số lượng lớn
nhất là lao động phổ thông (34,65%), tiếp theo là trình độ trung học (30,80%), đại
học, sau đại học (20,81%), cao đẳng (5,57%) và sơ học (8,17%).
1.5.1.2. Về nhân lực bộ phận giám sát nhiễm khuẩn
- Chỉ có 35,29% BV có bộ phận giám sát chuyên trách.
- Phân bố nghề nghiệp nhân lực chủ yếu của bộ phận giám sát nhiễm khuẩn:
70,68% điều dưỡng/hộ sinh; 10,49% là bác sỹ và dược sỹ.
- Trình độ nhân lực của cán bộ tham gia bộ phận giám sát nhiễm khuẩn: 40,53%
có trình độ đại học và sau đại học; 17,58% có trình độ cao đẳng; 38,11% trình độ
trung cấp.
1.5.2. Thực trạng thực hiện giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện:
- 72,06% bệnh viện đã xây dựng kế hoạch giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện hằng
năm nhưng việc thực hiện giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện rất thấp.
+ Chỉ có 37,39% bệnh viện thực hiện giám sát NKBV hiện mắc trong toàn bệnh
viện và chỉ có 23,84% thực hiện giám sát NKBV mắc mới tại các khoa trọng điểm.
+ Tỉ lệ BV thực hiện giám sát các nhiễm khuẩn với các bệnh trọng điểm như
giám sát viêm phổi thở máy; giám sát nhiễm khuẩn huyết; giám sát nhiễm khuẩn tiết
niệu có tăng so với năm 2015, song vẫn chiếm tỷ lệ thấp: 25,42% bệnh viện thực hiện
giám sát vết mổ; 16,46% thực hiện giám sát nhiễm khuẩn thở máy; 12,61% bệnh viện
giám sát nhiễm khuẩn huyết và 14,29% bệnh viện thực hiện giám sát nhiễm khuẩn
tiết niệu. Đa số các bệnh viện thực hiện giám sát cắt ngang, một số ít thực hiện giám
sát dọc.

191
- 40,97% bệnh viện thực hiện việc giám sát vi sinh trong môi trường tại những
khu vực có nhiều nguy cơ lây nhiễm; 13,45% số bệnh viện thực hiện giám sát vi sinh
vật kháng thuốc.
1.5.3. Hoạt động đào tạo, phát triển kiểm soát nhiễm khuẩn:
Hoạt động đào tạo, phát triển chuyên ngành KSNK đang ngày được quan
tâm và đẩy mạnh. Các chương trình và tài liệu đào tạo liên tục về KSNK đã
được ban hành. Các cơ sở khám chữa bệnh phối hợp với các Hội KSNK khu
vực thực hiện đào tạo mới, đào tạo liên tục nhằm phát triển chuyên ngành
KSNK. Hợp tác quốc tế về KSNK được đẩy mạnh: Hợp tác đào tạo, trao đổi
chuyên gia lĩnh vực KSNK với các tổ chức quốc tế WHO, JICA… Các cơ sở
khám chữa bệnh đã chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công
tác KSNK: 58,6% cơ sở có đơn vị tiệt khuẩn tập trung, nhiều cơ sở đã đầu tư
trang bị đủ phương tiện vệ sinh tay và hóa chất, phương tiện cho công tác
phòng chống dịch, vệ sinh môi trường, khử khuẩn dụng cụ tái sử dụng.
Hoạt động KSNK được triển khai thường xuyên với chất lượng ngày càng tăng
tại hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh: giám sát ca bệnh NKBV, giám sát tuân thủ vệ
sinh tay, giám sát tuân thủ các quy trình KSNK, giám sát vi sinh vật gây NKBV và
kháng kháng sinh, từng bước chuẩn hóa công tác khử khuẩn, tiệt khuẩn, tăng cường
vệ sinh bệnh viện, chủ động phòng chống bệnh dịch. Đến nay, 75,8% cơ sở khám
chữa bệnh đã thực hiện giao nhận dụng cụ sạch và bẩn tại các khoa lâm sàng; 87,5%
cơ sở phát động chiến dịch vệ sinh tay và 75,2% cơ sở đã thực hiện giám sát tuân thủ
vệ sinh tay; 611 cơ sở khám chữa bệnh trong toàn quốc ký cam kết tham gia chiến
dịch “Bảo vệ sự sống hãy vệ sinh tay”; 668 cơ sở ký cam kết thực hiện “Bệnh viện vệ
sinh”. 
2. GÁNH NẶNG CỦA NHIỄM KHUẨN BỆNH VIỆN
2.1. Gánh nặng bệnh tật, sức khỏe của người bệnh
- Kéo dài thời gian nằm viện, gây tàn tật lâu dài, tử vong:
+ Châu Âu: NKBV gây 37.000 ca tử vong/năm, tăng 16 triệu ngày nằm
viện.
+ Mỹ: NKBV gây ra 99.000 ca tử vong/năm.
- Tăng khả năng kháng với thuốc kháng sinh, nguy cơ không có thuốc kháng
sinh để điều trị nhiễm khuẩn là hiện hữu.
- Cùng với thế giới, Việt Nam đang phải đối mặt với gánh nặng do nhiễm khuẩn
liên quan đến chăm sóc sức khỏe và kháng kháng sinh tại cơ sở y tế. Tính trung bình,
cứ 10 bệnh nhân ở Việt Nam thì có một người bị nhiễm khuẩn trong quá trình điều trị.
Tỷ lệ này thậm chí còn cao hơn ở các khoa chăm sóc đặc biệt tại các bệnh viện Trung
ương. Dịch bệnh xảy ra gần đây cùng với số ca nhiễm khuẩn tăng là cảnh báo đối với
các bệnh viện và cơ sở y tế ở Việt Nam, đồng thời nó cũng cho thấy tầm quan trọng
của hoạt động kiểm soát nhiễm khuẩn trong việc đối phó với nhiễm khuẩn liên quan

192
đến chăm sóc sức khỏe và kháng kháng sinh. Một số vụ việc đáng lưu ý đã xảy ra
như: dịch SARS năm 2003; dịch sởi năm 2014; nhiễm trùng vết mổ tại Bệnh viện Đa
khoa Hà Giang năm 2013; các trường hợp nhiễm khuẩn liên quan đến chăm sóc sức
khỏe ở trẻ sơ sinh ở Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh vào năm 2017; tỷ lệ kháng kháng
sinh gia tăng, đặc biệt là Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) và
Enterobacteriaceae kháng Carbapenem (CRE).
2.2. Gánh nặng kinh tế
Nhiễm khuẩn bệnh viện dẫn đến nhiều hệ luỵ cho người bệnh và cho hệ thống y
tế như: tăng biến chứng và tử vong cho người bệnh; kéo dài thời gian nằm viện trung
bình từ 7 đến 15 ngày; tăng sử dụng kháng sinh dẫn đến tăng sự kháng thuốc của vi
sinh vật và tăng chi phí điều trị cho một NKBV thường gấp 2 đến 4 lần so với những
trường hợp không NKBV.
Theo báo cáo của một số nghiên cứu: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn huyết
bệnh viện là $34,508 đến $56,000 và do viêm phổi bệnh viện là $5,800 đến $40,000.
Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV, làm tốn thêm 4,5 tỉ
dollar viện phí. Ở Việt Nam, chưa có những nghiên cứu quốc gia đánh giá chi phí của
NKBV, một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy NKBV làm kéo dài thời gian
nằm viện 15 ngày với chi phí trung bình mỗi ngày là 1.192,000 VND và ước tính chi
phí phát sinh do NKBV vào khoảng 8 -12,880,000 VND/ người bệnh.
2.3. Gánh nặng đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và hệ thống y tế
Nhiễm khuẩn bệnh viện dẫn đến nhiều hệ luỵ cho người bệnh và cho hệ thống y
tế như: tăng biến chứng và tử vong cho người bệnh; kéo dài thời gian nằm viện trung
bình từ 7 đến 15 ngày; tăng sử dụng kháng sinh dẫn đến tăng sự kháng thuốc của vi
sinh vật và tăng chi phí điều trị cho một NKBV thường gấp 2 đến 4 lần so với những
trường hợp không NKBV.
Theo báo cáo của một số nghiên cứu: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn huyết
bệnh viện là $34,508 đến $56,000 và do viêm phổi bệnh viện là $5,800 đến $40,000.
Tại Hoa Kỳ, hàng năm ước tính có 2 triệu người bệnh bị NKBV, làm tốn thêm 4,5 tỉ
dollar viện phí. Ở Việt Nam, chưa có những nghiên cứu quốc gia đánh giá chi phí của
NKBV, một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy NKBV làm kéo dài thời gian
nằm viện 15 ngày với chi phí trung bình mỗi ngày là 1.192,000 VND và ước tính chi
phí phát sinh do NKBV vào khoảng 8 -12,880,000 VND/ người bệnh.
3. VAI TRÒ CỦA KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN VỚI AN TOÀN NGƯỜI
BỆNH
Trong an toàn người bệnh, cấu phần về kiểm soát nhiễm khuẩn đóng vai trò
quan trọng
3.1. Các cấu phần của an toàn người bệnh
An toàn của người bệnh thường được đánh giá dựa trên năm hậu quả: lỗi, tác
dụng phụ, nhiễm trùng, thương tích và tử vong. Những hậu quả này là các biện pháp
cuối cùng được sử dụng trong an toàn của bệnh nhân để làm rõ những tác hại mà bệnh
193
nhân phải đối mặt. Tuy nhiên, những kết quả này là phương tiện thụ động để đạt được
sự an toàn của người bệnh. Vì vậy, điều quan trọng là kết hợp những kết quả này
trong các nguyên nhân gần và xa ảnh hưởng đến sự an toàn của bệnh nhân. Sự hợp
nhất của các kết quả và nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của các cấu phần an toàn
của người bệnh, bao gồm chính sách của nhà nước, chẩn đoán, thuốc men, phẫu thuật,
nhiễm trùng và chấn thương. Sự phân loại này đã được quyết định vì các thành phần
được đề cập đòi hỏi một loạt chuyên môn, kiến thức và kỹ năng để đạt được sự an
toàn cho bệnh nhân.
Các cấu phần của sự an toàn của người bệnh được mô tả trong hình dưới và
được sắp xếp theo kiểu phân cấp dựa trên khả năng xuất hiện của chúng. Theo đó, các
thương tích ảnh hưởng đến sự an toàn của bệnh nhân được nhìn thấy rõ hơn so với các
cấu phần như chính sách của nhà nước.

Ch
ấn
thư
ơn
Nhiễmg khuẩn

Phẫu thuật

Sử dụng thuốc

Chẩn đoán

Thực trạng chính sách

3.2. Ảnh hưởng của nhiễm khuẩn bệnh viện đến sức khỏe người bệnh
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm có 30 triệu người lớn, 3 triệu trẻ
sơ sinh và 1,2 triệu trẻ nhỏ nhiễm khuẩn huyết trên toàn cầu, trong đó 6 triệu người
lớn và 500.000 trẻ sơ sinh tử vong. Tất cả trường hợp nhiễm khuẩn huyết liên quan
đến chăm sóc y tế đều có thể phòng ngừa được nếu nhân viên y tế thực hiện tốt các
quy trình vô khuẩn bệnh viện.
Những con số đó cho thấy nhiễm lây nhiễm chéo là một trong những mối đe dọa
hàng đầu, tác động trực tiếp đến sự an toàn của người bệnh. Nhiều người trị ung thư,
phẫu thuật thành công nhưng sau đó lại bị nhiễm khuẩn tại chính cơ sở y tế, khiến
bệnh trở nên nghiêm trọng, kéo dài thời gian nằm viện và phát sinh chi phí điều trị,
thậm chí có thể tử vong.
WHO cho biết, cứ 100 người nằm viện thì có 7 người mắc thêm bệnh nhiễm
trùng mới. Các thống kê cũng chỉ ra có khoảng 50 loại nhiễm khuẩn khác nhau có thể
xảy ra tại bệnh viện.
194
4. VAI TRÒ CỦA ĐIỀU DƯỠNG TRONG KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN
4.1. Nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện trong thực hành chăm sóc
Trong hoạt động chăm sóc và điều trị người bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh người điều dưỡng/hộ sinh là người tiếp xúc nhiều nhất với người bệnh. Thủ
thuật, kỹ thuật chăm sóc áp dụng cho người bệnh có thời gian và tần xuất cao nhất so
với điều trị. Do đó, nguy cơ gây nhiễm khuẩn bệnh viện từ các hoạt động chăm sóc
người bệnh cao hơn cả.
Khi sử dụng thiết bị xâm nhập như đặt nội khí quản, máy trợ hô hấp, nội
soi thăm dò, dẫn lưu sau mổ, đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, dẫn lưu tiết
niệu...tất cả các điều trị can thiệp đó đã làm mất đi cơ chế bảo vệ tự nhiên của cơ
thể là ngăn cản sự xâm nhập và tấn công của các vi sinh vật gây bệnh và luôn
được xem là có nguy cơ cao. Tỷ lệ các nhiễm khuẩn bệnh viện liên quan đến quy
trình điều trị xâm nhập hoặc dụng cụ xâm nhập chiếm xấp xỉ 80% tổng số nhiễm
khuẩn trong bệnh viện.
Nhiễm khuẩn liên quan đến thiết bị xâm nhập đã được các tác giả mô tả
nhiều trong các công trình nghiên cứu, và thời gian sử dụng các thiết bị càng
kéo dài thì nguy cơ đối với tất cả các nhiễm trùng càng tăng, đặc biệt là nhiễm
khuẩn huyết và tỷ lệ tử vong cao thường tập trung trên người bệnh bị nhiễm
khuẩn phổi và nhiễm khuẩn huyết.
Do chưa tuân thủ các quy định phòng ngừa lây nhiễm: của nhân viên y tế như tuân
thủ vệ sinh tay còn thấp, sử dụng chung găng tay, xử lý các dụng cụ y tế để dùng lại đặc
biệt là các dụng cụ nội soi chưa đúng quy định.
Với cả 3 đường lây truyền nhiễm khuẩn bệnh viện: tiếp xúc; giọt bắn, không khí,
sự hiện hữu của 3 đường lây truyền này giữa người điều dưỡng/hộ sinh với người
bệnh đều rõ nét.
4.2. Tuân thủ quy trình kỹ thuật bảo đảm kiểm soát nhiễm khuẩn
Sự tiếp xúc giữa NVYT và người bệnh cung như trong thủ thuật, kỹ thuật chăm
sóc áp dụng cho người bệnh luôn tiềm ẩn nguy cơ gây nhiễm khuẩn bệnh viện. Do đo
trong thực hành chăm sóc người bệnh, việc tuân thủ các quy trình kỹ thuật bảo đảm
phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn giữa người bệnh và điều dưỡng/hộ sinh và giữa
người bệnh với người bệnh đòi hỏi phải được tuân thủ chặt chẽ.
Trong bối cảnh hiện nay tại nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong toàn quốc,
sự quá tải người bệnh, nhất là tại các tuyến cao làm tăng tỉ lệ không tuân thủ các quy
trình kỹ thuật chuyên môn trong chăm sóc người bệnh, dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm
khuẩn.
Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải ban hành các quy trình kỹ thuật chuyên
môn, trong đó có kỹ thuật chăm sóc người bệnh nhằm bảo đảm an toàn cho người
bệnh và nhiễm khuẩn bệnh viện. Việc tuân thủ thực hành kỹ thuật chăm sóc trong cơ

195
sở khám bệnh, chữa bệnh phải được giám sát thường xuyên nhằm tăng tỉ lệ tuân thủ
cao.
4.3. Truyền thông, giáo dục nội dung kiểm soát nhiễm khuẩn cho người bệnh,
người nhà.
Hiện nay, một thực tế trong chăm sóc người bệnh trong các cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh là người nhà vẫn tham gia chăm sóc người bệnh, phần lớn các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh chưa thực hiện được việc chăm sóc người bệnh toàn diện, đặc biệt ở
tuyến dưới và các chuyên khoa không phải chăm sóc đặc biệt. Việc trang bị kiến thức
về phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn cho người nhà người bệnh tham gia hỗ trợ chăm
sóc người bệnh là rất quan trọng trong hoạt động của người điều dưỡng/hộ sinh
Thông tư 16/2018/TT-BYT cũng đã quy định rõ:
+ Khoa hoặc bộ phận kiểm soát nhiễm khuẩn có nhiệm vụ: tổ chức truyền thông
về kiểm soát nhiễm khuẩn cho người bệnh, người nhà người bệnh và khách đến thăm
+ Mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, giám
sát nhân viên y tế, học viên, người bệnh, người nhà người bệnh và khách thăm
tại khoa thực hiện các quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn.
4.4. Phối hợp giữa điều dưỡng và bác sỹ trong điều trị
4.4.1. Bác sĩ và điều dưỡng còn làm việc riêng lẻ, không hoặc ít trao đổi nhau về
cách thức điều trị, chăm sóc người bệnh.
- Thông tin đôi khi còn khác nhau (sinh hiệu, bộ phận tổn thương trên cơ thể -
nhất là bộ phận đó có 2, nhận định vết mổ, dịch dẫn lưu,..)
- Bác sĩ khám bệnh, điều dưỡng phát thuốc, tiêm cùng thời điểm tại một phòng
làm cho phòng bệnh mất trật tự, gây khó khăn cho cả bác sĩ và điều dưỡng.
- Điều dưỡng chủ yếu quan tâm đến thực hiện y lệnh, chưa thể hiện hết vai trò
chủ động của mình, đặc biệt là cung cấp thông tin và GDSK cho người bệnh.
- Một số y lệnh chưa được thực hiện đầy đủ/chưa kịp thời/thiếu thống nhất,..
nhất là y lệnh bổ sung.
4.4.2. Nguyên nhân của việc phối hợp chưa chặt chẽ này là do:
- Có tập huấn nhưng chưa đi sâu vào thực trạng phối hợp, giao tiếp giữa bác sĩ
và điều dưỡng.
- Triển khai phân công chăm sóc theo nhóm nhưng chưa giám sát, đánh giá và
cải tiến
- Thiếu quy trình phối hợp giữa bác sĩ và điều dưỡng.
4.4.3. Giải pháp tăng cường phối hợp giữa bác sỹ và điều dưỡng:
 - Thực hiện quy định của Thông tư 07/2011 Điều 26, Điều 27 về trách nhiệm và
phối hợp giữa bác sỹ và điều dưỡng trong việc đánh giá, phân cấp chăm sóc, thực hiện
chăm sóc cho từng người bệnh

196
- Cải thiện trao đổi thông tin, làm việc nhóm, sự hợp tác giữa bác sỹ và điều
dưỡng.
- Hướng tới chăm sóc người bệnh toàn diện tại bệnh viện
- Xây dựng và ban hành quy trình kỹ thuật nêu rõ sự phối hợp giữa bác sỹ và
điều dưỡng trong chăm sóc và điều trị người bệnh.
5. PHỐI HỢP GIỮA CÁC KHOA PHÒNG CỦA BỆNH VIỆN TRONG KIỂM
SOÁT NHIỄM KHUẨN
5.1. Vai trò trách nhiệm của các khoa, phòng của bệnh viện trong hoạt động
kiểm soát nhiễm khuẩn.
Công tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong mỗi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không
phải là nhiệm vụ của riêng khoa KSNK hay người phụ trách KSNK của cơ sở. Nguy
cơ nhiễm khuẩn bệnh viện của người bệnh đến khám, điều trị tại bệnh viện, cho nhân
viên y tế, người nhà người bệnh có thể xảy ra vào bất kỳ thời điểm nào trong cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh do đó cần sự tham gia tích cực của nhân viên y tế tại các khoa
phòng, người bệnh, người nhà người bệnh.
Cụ thể sự tham gia của nhân viên y tế các khoa phòng trong cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh như sau:
- Tham gia Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:
Theo quy định của Thông tư 16/2018 của Bộ Y tế, Hội đồng kiểm soát nhiễm do
Giám đốc quyết định thành lập và là Chủ tịch hội đồng, các thành viên Hội đồng kiểm
soát nhiễm khuẩn là đại diện lãnh đạo các khoa lâm sàng, cận lâm sàng và các phòng
chức năng, trong đó tối thiểu phải có sự tham gia của lãnh đạo các phòng chức năng,
khoa vi sinh/xét nghiệm, khoa dược và một số khoa lâm sàng có nguy cơ nhiễm
khuẩn bệnh viện cao. Nhiệm vụ của Hội đồng hay của mỗi một thành viên trong Hội
đồng là: a) Tư vấn cho Giám đốc về kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh và tư vấn về việc sửa chữa, thiết kế, xây dựng mới các công trình y tế trong
cơ sở phù hợp với kiểm soát nhiễm khuẩn; b) Tham gia giám sát, đào tạo, nghiên cứu
khoa học về kiểm soát nhiễm khuẩn; c) Xem xét, đánh giá và định hướng việc thực
hiện kiểm soát nhiễm khuẩn của cơ sở.
- Nhiệm vụ Khoa hoặc bộ phận kiểm soát nhiễm khuẩn: a) Đầu mối tham mưu
cho Giám đốc về các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại Chương II Thông tư 16/2018 của Bộ Y tế; b)
Tổ chức hoặc phối hợp với các khoa, phòng liên quan triển khai thực hiện, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại Chương II Thông tư 16/2018 của Bộ Y tế;
c) Xây dựng mô tả công việc cho nhân viên y tế của khoa; d) Xây dựng định mức,
tiêu chuẩn kỹ thuật và đề xuất mua sắm trang thiết bị, phương tiện, vật tư, hóa chất
liên quan đến hoạt động kiểm soát nhiễm khuẩn và kiểm tra, giám sát việc sử dụng; đ)
Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các hoạt động kiểm soát nhiễm
khuẩn của thành viên mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn; e) Tổ chức đào tạo, tập huấn
về kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế và học viên; g) Tổ chức truyền thông về
197
kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế, học viên, người bệnh, người nhà người
bệnh và khách thăm; h) Thực hiện nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và chỉ đạo
tuyến về kiểm soát nhiễm khuẩn; i) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo phân công của
Giám đốc.
- Cử những nhân viên có liên quan tham gia mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn
của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Theo quy định, các khoa phòng liên quan phải có ít
nhất 1 bác sỹ và một điều dưỡng tham gia mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn và phải
chủ động tham gia đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn đủ điều kiện như quy định. Các
thành viên mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn có nhiệm vụ đã được quy định cụ thể,
bao gồm: a) Tham gia tổ chức thực hiện kiểm soát nhiễm khuẩn tại khoa theo phân
công của giám đốc và hướng dẫn kỹ thuật của trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn
hoặc của người phụ trách kiểm soát nhiễm khuẩn; b) Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
nhân viên y tế, học viên, người bệnh, người nhà người bệnh và khách thăm tại khoa
thực hiện các quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn; c) Định kỳ và đột xuất báo cáo
lãnh đạo khoa và trưởng khoa kiểm soát nhiễm khuẩn hoặc người phụ trách kiểm soát
nhiễm khuẩn về tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện, tuân thủ thực hành kiểm soát
nhiễm khuẩn của nhân viên y tế, học viên, người bệnh, người nhà người bệnh và
khách thăm tại khoa.
5.2. Xây dựng kế hoạch, quy trình triển khai các hoạt động kiểm soát nhiễm
khuẩn
- Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải xây dựng, phê duyệt và phổ biến văn
bản nội bộ về kiểm soát nhiễm khuẩn bao gồm:
+ Hướng dẫn thực hiện kiểm soát nhiễm khuẩn
+ Quy định bảo đảm kiểm soát nhiễm khuẩn đối với các nhân viên y tế, người
bệnh, người nhà và khách thăm.
+ Các quy trình triển khai các hoạt động, kỹ thuật chăm sóc và điều trị bảo đảm
phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn.
+ Quy định giám sát, đánh giá việc thực hiện các quy định về kiểm soát nhiễm
khuẩn.
- Xây dựng, phê duyệt, phổ biến kế hoạch kiểm soát nhiễm khuẩn trên cơ sở kế
hoạch hành động quốc gia, mục tiêu chất lượng về kiểm soát nhiễm khuẩn phù hợp
với nguồn lực và điều kiện thực tiễn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo từng giai
đoạn. Các kế hoạch của đơn vị bao gồm các kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.
Song song với việc xây dựng kế hoạch cần triển khai đánh giá việc thực hiện kế
hoạch.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


Câu 1: Trình bày định nghĩa và dịch tế học nhiễm khuẩn bệnh viện?
Câu 2: Trình bày thực trạng công tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại Việt Nam?

198
Câu 3: Trình bày vai trò của điều dưỡng trong kiểm soát nhiễm khuẩn?
Câu 4: Trình bày ghánh nặng của nhiễm khuẩn bệnh viện?

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hướng dẫn thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn môi trường bệnh viện, Bộ Y tế,
Nhà xuất bản Y học, 2013.
2. Quyết định số 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
phê duyệt các Hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh.
3. Quyết định số 3671/QĐ-BYT ngày 27 tháng 09 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Y tế về việc ban hành các  hướng dẫn kiểm soát nhiễm khuẩn áp dụng trong các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh.
4. Thông tư 16/2018/TT-BYT ngày 20 tháng 7 năm 2018, quy định về kiểm soát
nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
5. Tài liệu hướng dẫn giám sát nhiễm khuẩn huyết và nhiễm khuẩn tiết niệu áp
dụng tại các bệnh viện mẫu về kiểm soát nhiễm khuẩn, Cục Quản lý Khám, chữa
bệnh, Bộ Y tế, 2017.
6. Bộ Y tế (2019), Tài liệu tập huấn kiểm soát nhiễm khuẩn trong cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh.
7. Bộ Y tế (2016), Quản lý bệnh viện.

199
CHUYÊN ĐỀ 8
KIỂM SOÁT YẾU TỐ NGUY CƠ VÀ PHÒNG CHỐNG DỊCH
TRONG THẢM HỌA

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 08 tiết


Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Trình bày được một số thuật ngữ cơ bản sử dụng trong quản lý nguy cơ thảm
họa.
2. Trình bày được qui trình đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe của cộng đồng bị
tác động bởi thảm họa.
3. Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch đánh giá nhanh nguy cơ sức khỏe của
cộng đồng chịu tác động của thảm họa.

NỘI DUNG
1. MỘT SỐ THUẬT CƠ BẢN VỀ THẢM HỌA
Bảy thuật ngữ cơ bản thường được sử dụng trong quản lý thảm họa bao gồm:
- Hiểm họa
- Cộng đồng
- Tính dễ bị tổn thương
- Nguy cơ
- Năng lực (sự chuẩn bị sẵn sàng đáp ứng với tình trạng khẩn cấp/thảm họa)
- Tình huống khẩn cấp
- Thảm họa
Các tác giả khác nhau có thể định nghĩa những thuật ngữ này theo các cách khác
nhau (WHO, 1999). Tuy nhiên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các khía cạnh chung
trong những định nghĩa. Những điểm chung trong các định nghĩa khác nhau về những
thuật ngữ trên được tóm tắt dưới đây:
Hiểm họa (Hazard)
Hiểm họa là khả năng gây hại tiềm tàng. "Hiểm họa là bất cứ hiện tượng nào có
khả năng phá vỡ hay gây thiệt hại cho con người và môi trường" (WHO, 1999, tr.31).
Nói cách khác, hiểm họa là hiện tượng/sự kiện có thể gây chết người, chấn thương và

200
gây thiệt hại về kinh tế hay phá hủy môi trường. Ví dụ: bão, lũ lụt, động đất, cháy,
sóng thần, núi lửa phun, rò rỉ hóa chất độc hại, rõ rỉ chất phóng xạ, tràn dầu…
Có một số cách phân loại hiểm họa khác nhau cùng tồn tại. Về cơ bản hiểm họa
có thể chia làm 2 loại là hiểm họa tự nhiên (bão, lụt, động đất,…) và hiểm họa do con
người gây ra (cháy, nổ, sập công trình xây dựng,…). Một cách phân loại khác là dựa
vào bản chất hiểm họa, người ta có thể phân làm bốn loại sau:
Hiểm họa tự nhiên (lũ lụt, động đất, bão,…)
Hiểm họa kĩ thuật (hiểm họa hạt nhân, xây dựng, …)
Hiểm họa sinh học (bệnh dịch: bệnh than, đậu mùa, …)
Hiểm họa xã hội (chiến tranh, khủng bố, bạo động, …)
Cộng đồng (Community)
Theo nghĩa thông thường, cộng đồng được hiểu là một nhóm người sống trong
một khu vực địa lý, có tổ chức xã hội và hành chính, có chia sẻ về nguồn lực và trách
nhiệm. Trong lĩnh vực quản lý thảm họa, cộng đồng bao gồm năm thành phần sau đây:
- Người
- Tài sản (tài sản cá nhân, cơ sở hạ tầng)
- Dịch vụ (dịch vụ hành chính, y tế, du lịch, thương mại, giao thông vận tải v.v)
- Sinh kế (nghề nghiệp, phương thức kiếm sống)
- Môi trường (tự nhiên và xã hội)
Tính dễ bị tổn thương (Vulnerability)
Tính dễ bị tổn thương là tính nhạy cảm của cộng đồng với một loại hiểm họa
nhất định. Tính dễ bị tổn thương liên quan tới mức độ thiệt hại hay hậu quả có thể xảy
ra khi một hiểm họa tác động tới cộng đồng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới tính dễ bị
tổn thương của một cộng đồng, ví dụ: đặc điểm địa lý, nhân khẩu, tuổi, giới, dân tộc,
trình độ học vấn, khả năng hồi phục của môi trường, trình độ phát triển khoa học kĩ
thuật, sự khác biệt về xã hội, cũng như nền kinh tế, chính trị của vùng và toàn cầu.
Yếu tố địa lý: đặc điểm địa lý là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tính dễ bị tổn
thương. Ví dụ: cộng đồng sống ở vùng đất thấp (đồng bằng sông Cửu Long) dễ bị tổn
thương bởi lũ lụt; cộng đồng sống gần sông suối, khe núi ở vùng núi phía Bắc dễ bị
tổn thương bởi lũ quét và sạt lở đất; cộng đồng sống ở vùng ven biển miền Trung dễ bị
tổn thương bởi bão, lụt.
Yếu tố đặc điểm sinh học: người già, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật là những
người có nhiều hạn chế trong việc tự di chuyển và thực hiện các biện pháp để bảo vệ
chính mình, do đó nhóm người này dễ bị tổn thương trước những hiểm họa hơn so với
những nhóm người khác.
Tuy nhiên, những cộng đồng cùng sống trong những vùng địa lý giống nhau
nhưng trình độ phát triển khoa học kĩ thuật khác nhau thì tính dễ bị tổn thương cũng sẽ
khác nhau. Ví dụ: nếu cộng đồng sống tại vùng ven biển miền Trung sống trong những
201
ngôi nhà được thiết kế và xây dựng đúng tiêu chuẩn có thể chịu được bão lớn thì tính
dễ bị tổn thương của cộng đồng đó sẽ được giảm đi. Ví dụ: ở Nhật Bản, một đất nước
có nền khoa học kĩ thuật phát triển nhưng lại thường có động đất. Tại những vùng hay
xảy ra động đất, các công trình xây dựng đều phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn để có thể
không sụp đổ khi có động đất xảy ra với một cường độ nhất định. Kết quả là tính dễ bị
tổn thương của các công trình xây dựng và dân cư trong khu vực được giảm đi.
Kinh tế, trình độ khoa học và khả năng/ sự chuẩn bị sẵn sàng của cộng đồng là
yếu tố cực kỳ quan trọng ảnh hưởng đến tính dễ bị tổn thương của cộng đồng. Ví dụ:
mặc dù động đất ở Chi Lê (27 tháng 2 năm 2010) có cường độ cao hơn động đất ở
Haiti (13 tháng 1 năm 2010) nhiều lần nhưng thiệt hại về người lại rất nhỏ (hơn 700
người chết) so với thiệt hại về người do động đất ở Haiti (trên 200.000 người chết).
Nguyên nhân chính là do Chi Lê có nền kinh tế phát triển hơn nên có điều kiện xây
dựng những công trình bảo đảm chống được động đất, trong khi đó ở Haiti, do hạn chế
về kinh tế nên phần lớn các công trình không được xây dựng đủ tiêu chuẩn để chống
được động đất. Hơn nữa, Chi Lê nằm trong khu vực có nguy cơ động đất cao hơn nên
ngoài việc các công trình được xây dựng đủ tiêu chuẩn chống động đất, cộng đồng còn
thường xuyên được đào tạo, diễn tập phòng chống tác hại động đất nên khi có động đất
xảy ra, người dân đã đáp ứng nhanh, hiệu quả dẫn đến số người bị thiệt mạng được
giảm thiểu.
Nguy cơ (Risk)
Nguy cơ là khả năng một hậu quả không mong muốn có thể xảy ra khi hiểm họa
tác động đến cộng đồng. Những hậu quả đó là khả năng bị tử vong, bị thương, mắc
bệnh, bùng phát dịch, ảnh hưởng tâm lý, sức khỏe tâm thần, cơ sở vật chất bị hư hỏng
hay phá hủy. Nguy cơ có thể được xem như sự tương tác giữa hiểm họa và tính dễ bị
tổn thương. Sự tương tác này có thể được minh họa bằng mô hình sau đây:

TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG

NGUY CƠ = HIỂM HỌA *


NĂNG LỰC

Từ mô hình trên ta có thể thấy: nếu có hiểm họa nhưng không có tính dễ bị tổn
thương, thì sẽ không có thảm họa và nếu có tính dễ bị tổn thương nhưng không có
hiểm họa thì cũng không có thảm họa. "Một thảm họa xảy ra khi có một số lượng lớn
người dễ bị tổn thương trải qua một hiểm họa và chịu những thiệt hại và/hoặc sự phá
vỡ nghiêm trọng nguồn sống của họ ở mức không thể hồi phục được nếu không có sự
trợ giúp từ bên ngoài" (Blaikie và cs. 1994, tr. 21). Nếu cộng đồng có khả năng ứng
phó cao, đồng nghĩa với tính dễ bị tổn thương giảm đi thì nguy cơ sẽ giảm. Như vậy,
hiểm họa luôn tồn tại, không thể loại trừ được hết hiểm họa, do đó tăng khả năng ứng
phó của cộng đồng, giảm tính dễ bị tổn thương là trung tâm của quản lý thảm họa.
Năng lực (sự chuẩn bị sẵn sàng - Capacity/Readiness)

202
Chuẩn bị sẵn sàng là yếu tố quyết định mức độ nghiêm trọng và khả năng quản lý
những hậu quả của thảm họa. Chuẩn bị sẵn sàng làm cho cộng đồng sẵn sàng với một
thảm họa có thể xảy ra. Năng lực ứng phó của cộng đồng đối với thảm họa bao gồm tất
cả những nguồn lực của cộng đồng (kiến thức, kỹ năng, khoa học kỹ thuật, tài chính,
luật pháp…) và những hoạt động nhằm giảm nguy cơ. Năng lực cũng bao gồm sự
thích ứng với các hiểm họa của cộng đồng và khả năng phục hồi sau thảm họa. Sau
đây là một số ví dụ về một số hoạt động chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với thảm họa:
- Đào tạo cán bộ y tế nhằm nâng cao năng lực quản lý thảm họa
- Truyền thông, giáo dục cộng đồng biết cách trú ẩn, thoát ra khỏi vùng nguy
hiểm khi có động đất, lũ lụt, cháy v.v.
- Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm (còi báo động, kẻng, hệ thống thông tin
v.v.)
- Xây dựng hệ thống thông tin trong tình trạng khẩn cấp
- Chuẩn bị sẵn sàng trang thiết bị y tế, thuốc, phương tiện,….
- Trang bị túi thuốc cấp cứu gia đình
- Chuẩn bị những vật dụng cần thiết trong trường hợp bị lụt (lương thực, chất
đốt, đèn pin, quần áo v.v.)
- Lập kế hoạch sơ tán, kế hoạch tìm kiếm cứu nạn, kế hoạch quản lý chấn
thương hàng loạt v.v.
- Lập kế hoạch quản lý sức khỏe môi trường, phòng chống dịch bệnh sau thảm
họa
- Diễn tập v.v
Tình huống khẩn cấp (Emergency)
Là một sự kiện xảy ra đòi hỏi phải có những hành động đáp ứng ngay lập tức để
phòng và giảm tác động của sự kiện đó đối với tính mạng, tài sản và môi trường.
Trong tình trạng khẩn cấp, cộng đồng vẫn đủ nguồn lực và khả năng đáp ứng với tình
trạng này, chưa cần đến sự trợ giúp từ bên ngoài. Ví dụ: một cơn bão cấp 12 sắp đổ bộ
vào các tỉnh miền Trung trong 12 giờ tới, một vụ động đất cấp 8 xảy ra trên biển có
cảnh báo sóng thần, ... Những sự kiện này đều đòi hỏi cộng đồng có hành động ứng
phó ngay lập tức (sơ tán khỏi vùng nguy hiểm…).
Thảm họa (Disaster)
Hiện nay có nhiều định nghĩa về thảm họa được sử dụng bởi các nhà khoa học và
các tổ chức khác nhau sử dụng. Những định nghĩa cho thấy khó có thể có một định
nghĩa về thảm họa duy nhất được toàn thế giới chấp nhận. Mặc dù không có một định
nghĩa duy nhất về thảm họa được mọi người công nhận, nhưng một số nội dung chính
mà các định nghĩa nêu trên đều đề cập tới là:
- Phá vỡ mối quan hệ giữa con người và môi trường (tự nhiên và xã hội).
- Gây ra những tổn thất lớn về người, vật chất, cơ sở hạ tầng và môi trường.
203
- Vượt quá khả năng của cộng đồng bị ảnh hưởng để ứng phó với thảm họa
bằng chính các nguồn lực của cộng đồng.
- Cần có sự trợ giúp bên ngoài.
Như vậy, hiểm họa là mối nguy hại tiềm tàng trong khi thảm họa là sự kiện đã
xảy ra, tác động và gây thiệt hại cho cộng đồng nơi thảm họa xảy ra. Ví dụ:
 Cơn bão số 7 (bão Damrey) đổ bộ vào một số tỉnh miền Bắc Việt Nam ngày
26-27 tháng 9 năm 2005 làm 69 người chết, phá hủy hàng chục nghìn ngôi
nhà.
 Sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ ngày 27 tháng 9 năm 2007 làm thiệt mạng 52
người.
 Lũ quét xảy ra tại một số tỉnh miền núi phía Bắc (Yên Bái, Lào Cai, Lạng
Sơn) vào tháng 8 năm 2008 đã làm chết trên 100 người.
 Động đất sóng thần xảy ra vào cuối tháng 12 năm 2004 tại châu Á đã làm
trên 200.000 người chết.
 Bão Ketsana (bão số 9) đổ bộ vào miền Trung, Việt Nam ngày 29 tháng 9
năm 2009 làm gần 200 người chết, hàng ngàn người bị thương. Thiệt hại
kinh tế lên tới hơn 14.000 tỷ đồng.
 Động đất mạnh 7 độ Richter tại Haiti ngày 13 tháng 1 năm 2010 làm thiệt
mạng hơn 200.000 người.
 Thảm họa ô nhiễm môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung xảy ra vào tháng
04 năm 2016 gây thiệt hại nghiêm trọng mội trường biển, ảnh hưởng sinh kế
của ngư dân, ảnh hưởng đến tình hình xã hội.
 Lũ lụt tại miền Trung trong tháng 12/2016 làm tử vong hơn 100 người và
thiệt hại kinh tế hàng chục nghìn tỷ đồng.
Các định nghĩa trên đây về bảy thuật ngữ cơ bản được tóm tắt trong Bảng 1.
Bảng 1. Tóm tắt định nghĩa bảy thuật ngữ cơ bản

Khung logic các thuật ngữ cơ bản

Hiểm họa (Hazard) Nguy cơ (Risk)


Bất kì mối đe dọa tiềm tàng nào đối với Những hậu quả có thể xảy ra khi hiểm
an toàn/sức khỏe của cộng đồng họa tác động tới cộng đồng

Tình huống khẩn cấp (Emergency) Tính dễ bị tổn thương (Vulnerability)


Bất kì mối đe dọa thực sự nào đối với Những yếu tố quyết định mức độ
an toàn/sức khỏe của cộng đồng nghiêm trọng của những hậu quả của
thảm họa

Thảm họa (Disaster) Năng lực (Capacity)


204
Là tình huống khẩn cấp trong đó nhu Là yếu tố quyết định mức độ nghiêm
cầu của cộng đồng vượt quá khả năng trọng và khả năng quản lý những hậu
đáp ứng của cộng đồng bị ảnh hưởng, quả của thảm họa.
do đó cần sự hỗ trợ từ bên ngoài (quốc
gia hoặc quốc tế).

Cộng đồng (Community): người, tài sản, dịch vụ, sinh kế và môi trường (những
yếu tố phơi nhiễm với hiểm họa)

2. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NHU CẦU SỨC KHỎE TRONG THẢM HỌA
2.1. Khái niệm về đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe trong thảm họa
Trong tình huống thảm họa, việc đưa ra những quyết định can thiệp nhanh và phù
hợp nhằm đáp ứng nhu cầu sức khỏe của cộng đồng bị ảnh hưởng là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy đã có nhiều can thiệp kém hiệu quả, không hướng tới đúng
nhóm đối tượng có nhu cầu cao nhất, không cung cấp đúng những hỗ trợ cần thiết
hoặc đáp ứng chậm với nhu cầu cấp bách của cộng đồng v.v. Nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng này là việc ra quyết định không thực sự dựa trên những thông tin thực
tế, đáng tin cậy hoặc do không có đầy đủ thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết
định. Vì vậy, việc thu thập thông tin, đánh giá nhu cầu của cộng đồng sau thảm họa là
cần thiết. Đánh giá nhanh là một phương pháp thường được áp dụng. Đánh giá nhanh
“là thu thập các thông tin khách quan và chủ quan nhằm đo lường được các tổn
thất và xác định được các nhu cầu thiết yếu của cộng đồng bị thiên tai, thảm họa
tác động đang cần được giúp đỡ” (WHO, 1999).
Mục tiêu của đánh giá nhanh: mục tiêu của đánh giá nhanh là cung cấp cho
người ra quyết định những thông tin cần thiết để họ có thể đưa ra những can thiệp kịp
thời và phù hợp nhằm mục đích:
 Giảm số người tử vong
 Giảm số người chấn thương
 Duy trì việc cung cấp các nhu cầu thiết yếu và dịch vụ y tế cho cộng đồng
bị ảnh hưởng
 Ngăn chặn sự lây lan của bệnh dịch
 Hỗ trợ công tác lập kế hoạch phục hồi sau thảm họa
Mặc dù đánh giá nhanh nhu cầu y tế trong tình huống thảm họa có vai trò quan
trọng trong việc cung cấp những thông tin cần thiết cho việc lập kế hoạch đáp ứng nhu
cầu của cộng đồng bị tác động bởi thảm họa, không nhất thiết phải tiến hành đánh giá
nhanh nếu hệ thống thông tin y tế bảo đảm cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết
cho việc lập kế hoạch đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Hệ thống thông tin y tế hiện tại
thường sẵn có nhiều thông tin quan trọng mà các nhà quản lý y tế có thể sử dụng để ra
quyết định, do đó trong quá trình tiến hành đánh giá nhanh, nhóm đánh giá cũng cần
chú ý khai thác những thông tin sẵn có trong hệ thống thông tin y tế. Việc này cũng
giúp tiết kiệm nguồn lực trong bối cảnh khẩn cấp.
205
2.2. Phương pháp đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe trong thảm họa
Đánh giá nhanh có thể được chia thành 5 bước như sau:

1. Lập kế hoạch đánh giá nhanh

2. Thu thập số liệu tại thực địa

3. Phân tích số liệu

4. Viết báo cáo

5. Chia sẻ và sử dụng kết quả đánh giá

Bước 1: Lập kế hoạch đánh giá nhanh


Thảm họa thường xảy ra bất ngờ, đòi hỏi đáp ứng nhanh, tuy nhiên để những
hoạt động đáp ứng có hiệu quả thì việc chuẩn bị sẵn sàng là hết sức quan trọng. Một
trong những hoạt động chuẩn bị sẵn sàng là lập kế hoạch. Cũng như đối với bất kì hoạt
động nào, lập kế hoạch đánh giá nhanh bảo đảm cho việc thực hiện đánh giá nhanh
một cách hiệu quả. Trong quá trình lập kế hoạch đánh giá nhanh, những nội dung sau
đây cần được chú ý:
- Xác định mục tiêu đánh giá: đánh giá nhanh nhằm mục tiêu xác định thiệt hại
và nhu cầu y tế của cộng đồng bị ảnh hưởng, cung cấp thông tin cần thiết cho việc lập
kế hoạch và thực hiện các hoạt động đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bị ảnh hưởng bởi
thảm họa. Các mục tiêu cần được ghi rõ trong bản kế hoạch đánh giá nhanh cũng như
trong báo cáo đánh giá nhanh sau này.
- Xác định thời gian và địa điểm đánh giá: đánh giá nhanh cần được tiến hành
sau khi thảm họa xảy ra càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, nhóm đánh giá cần cân nhắc
các điều kiện cần thiết cho phép thực hiện đánh giá tại thực địa. Những điều kiện đó
là: tình hình diễn biến của thảm họa (Nhóm đánh giá có thể tiếp cận cộng đồng trong
điều kiện hiện tại hay không? Có mối nguy hiểm nào cho đoàn đánh giá hay không?).
Địa điểm đánh giá được xác định phụ thuộc vào mục tiêu cụ thể của đợt đánh giá và
yêu cầu của các bên liên quan (Sở y tế, Bộ Y tế, Tổ chức Y tế thế giới v.v.). Thông
thường đánh giá nhanh chỉ được thực hiện trong một phạm vi địa lý hạn chế vì nguồn
lực và thời gian có hạn. Những nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất thường được ưu tiên
đánh giá. Nhóm đánh giá nhanh cần tính toán cụ thể thời gian cần sử dụng cho di
chuyển và tiếp cận địa điểm đánh giá. Trong tình huống khẩn cấp, tiếp cận cộng đồng
có thể mất khá nhiều thời gian nếu không có phương tiện phù hợp cũng như nhận được
sự hỗ trợ của các ban ngành liên quan.

206
- Thành lập nhóm đánh giá: thành viên nhóm đánh giá nên được lựa chọn theo
các nội dung đánh giá và đặc điểm của tình huống thiên tai, thảm họa. Với những điểm
chung về hậu quả y tế công cộng của các thảm họa thì một nhóm đánh giá nhanh cần
có các chuyên gia trong các lĩnh vực như dịch tễ học, nước sạch và vệ sinh môi trường,
dinh dưỡng, quản lý bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm, viện trợ nhân đạo và
quản lý thảm họa. Các thành viên nhóm đánh giá cần được đào tạo trước đó trong các
khóa tập huấn về đánh giá nhanh nhu cầu y tế trong thảm họa và phải được phân công
nhiệm vụ rõ ràng. Các thành viên trong nhóm đánh giá cần được lựa chọn theo những
tiêu chí khác nhau nhằm đảm bảo đa dạng, khả năng làm việc hiệu quả nhất, có thể
ứng phó được với những tình huống phức tạp trong thảm họa với những kinh nghiệm
trong lĩnh vực chuyên môn riêng của từng cá nhân. Một bảng phân công vai trò của
từng thành viên trong nhóm đánh giá cần được xây dựng và phổ biến cho mọi thành
viên trước khi xuống thực địa. Để thống nhất các nội dung đó, cả nhóm cùng với đơn
vị liên quan cần có một buổi họp để thảo luận về vai trò phù hợp với năng lực làm việc
của từng cá nhân trong nhóm đánh giá. Các tiêu chí chọn thành viên nhóm đánh giá có
thể là:
 Quen thuộc với khu vực hoặc cộng đồng bị ảnh hưởng
 Có kiến thức, kinh nghiệm về đánh giá nhanh
 Các kĩ năng phân tích thông tin
 Khả năng đưa ra các quyết định đúng
- Lựa chọn phương pháp và chuẩn bị công cụ đánh giá: thông thường, không
phải tất cả các kĩ thuật đánh giá nhanh đều được áp dụng trong mọi cuộc đánh giá
nhanh nhu cầu y tế trong tình huống thảm họa. Phương pháp và công cụ thu thập thông
tin phụ thuộc vào loại thông tin cần thu thập. Công cụ đánh giá phụ thuộc vào phương
pháp đánh giá được lựa chọn. Một số kĩ thuật thường được sử dụng là: quan sát (bảng
kiểm, giấy bút để ghi chép và vẽ sơ đồ, máy ảnh, máy quay video); phỏng vấn nhanh
cộng đồng, người cung cấp thông tin chính (bản hướng dẫn nội dung phỏng vấn); thảo
luận nhóm (bản hướng dẫn thảo luận nhóm); thu thập số liệu sẵn có (mẫu thu thập số
liệu sẵn có: số người tử vong, số người bị thương, số người bị ốm v.v). Sau khi xác
định những thông tin cần được thu thập, nhóm đánh giá phải xác định nguồn thu thập
thông tin (từ sổ sách báo cáo của y tế, các bên liên quan, lãnh đạo y tế, lãnh đạo địa
phương v.v).
- Những thông tin chính cần thu thập: dưới đây là những nhóm thông tin chính
cần thu thập trong bất kì cuộc đánh giá nhanh nào, tuy vậy nhóm đánh giá không nên
chỉ giới hạn trong việc thu thập những thông tin này mà còn có thể thu thập những
thông tin liên quan khác tùy theo nhu cầu thực tế. Với mỗi nhóm thông tin được liệt kê
trong kế hoạch đánh giá, nhóm cần xác định rõ khoảng thời gian cần thiết để hoàn
thành việc thu thập thông tin. Khoảng thời gian cần thiết để thu thập thêm các thông
tin chi tiết sau đánh giá ban đầu cũng cần được xác định rõ ràng trong khâu lập kế
hoạch. Nhờ việc xác định rõ khoảng thời gian cho mỗi nhóm hoạt động nhỏ, nhóm
đánh giá nhanh có thể ước lượng tổng thời gian có thể hoàn thành đánh giá nhanh.

207
 Mô tả thảm họa
- Tính chất
- Địa điểm
- Thời gian
- Phạm vi ảnh hưởng
- Chiều hướng
 Dân số, sức khỏe
- Số lượng, đặc điểm tuổi giới, dân tộc v.v
- Số mắc, số chết, chấn thương (loại chấn thương, nguyên nhân, tuổi và
giới v.v.)
 Nhu cầu cơ bản
– An ninh
– Lương thực, nước sạch
– Chỗ ở & điều kiện vệ sinh (nhà vệ sinh, nhà tắm v.v.)
– Quần áo, chăn màn
– Dụng cụ nấu ăn, chất đốt
– Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ (khám, chữa bệnh, thuốc, chăm sóc tâm
lý, VSMT v.v.)
 Khả năng đáp ứng của cộng đồng và những hoạt động đáp ứng hiện có
- Chuẩn bị hậu cần cho đoàn đánh giá: phương tiện đi lại, trang thiết bị bảo hộ,
lương thực, nước uống, phương tiện thông tin liên lạc, thuốc và dụng cụ cấp cứu thông
thường. Nguồn kinh phí được chuẩn bị sẵn hoặc có cơ chế huy động được xác định rõ
ràng trước khi cần dùng cho việc chuẩn bị hậu cần để các thành viên đoàn đánh giá có
thể tiếp cận và làm việc tại thực địa. Tại Việt Nam, hiện tại các hoạt động đánh giá
nhanh tác động của thiên tai, thảm họa và nhu cầu hỗ trợ thường được tổ chức thực
hiện và cung cấp kinh phí bởi mạng lưới các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Tổ
chức Y tế thế giới, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, cũng là các tổ
chức hoạt động tích cực nhất trong Nhóm làm việc về quản lý thảm họa tại Việt Nam
(Disaster Management Working Group-DMWG). Tại địa bàn xảy ra thảm họa, tình
hình có thể phức tạp và khó kiểm soát có thể làm nảy sinh nhiều nguy cơ cho bản thân
nhóm đánh giá. Do vậy, người phụ trách nhóm đánh giá cần liên hệ với chính quyền
địa phương để được đảm bảo về mặt an ninh: thư giới thiệu, văn bản xác nhận, những
yếu tố cá nhân. Liên hệ trước với các bên liên quan tại thực địa để thống nhất kế hoạch
và các hoạt động phối hợp.
- Các vấn đề khác cần quan tâm: bản đồ vùng bị ảnh hưởng, vùng sẽ đến đánh
giá, những thông tin sẵn có về vùng sẽ đến đánh giá: phạm vi ảnh hưởng, tình hình tiến

208
triển của thảm họa, mức độ thiệt hại về người, cơ sở y tế, giao thông, thông tin liên lạc,

Bước 2: Thu thập số liệu tại thực địa
Một số điều cần lưu ý trong quá trình thu thập thông tin tại cộng đồng
- Cần liên hệ với lãnh đạo địa phương và thông báo về kế hoạch đánh giá nhanh,
giới thiệu nhóm đánh giá, mục tiêu, phương pháp tiến hành đánh giá nhanh
- Tham khảo ý kiến của cộng đồng bị ảnh hưởng
- Tìm ra những nhu cầu cụ thể, tính dễ bị tổn thương của các nhóm khác nhau
(đàn ông, phụ nữ, người già, trẻ em v.v.)
- Kiểm tra tính chính xác của thông tin: sự kiện, ý kiến, tin đồn v.v.
- Xem xét những thông tin không chính xác
- Xác định các nhóm bị cách ly để đảm bảo họ sẽ nhận được hỗ trợ
- Nắm được những thay đổi và chiều hướng tác động đến cộng đồng
- Cảnh báo/chuẩn bị cho những sự kiện không mong muốn có thể xảy ra
- Nghiên cứu tác động của thảm họa trên toàn cộng đồng
- Trong quá trình đánh giá, cần dự đoán các thông tin sẽ được sử dụng ra sao
- Cân nhắc thời gian tiến hành đánh giá tại thực địa
Lập kế hoạch theo ngày phụ thuộc vào tình hình thực tế:
- Lập danh mục các thông tin cần được thu thập: mỗi ngày trong tình huống thảm
họa có thể làm phát sinh ra những nhu cầu thu thập thông tin khác nhau nhằm nắm bắt
được tình huống thảm họa để có thể đưa ra quyết định khẩn cấp. Do đó, vào đầu mỗi
ngày làm việc tại thực địa, nhóm đánh giá cần lập ra danh mục các thông tin cần thu
thập trong ngày. Kế hoạch thu thập chuẩn bị từ trước do đó có thể được sửa đổi sau
mỗi ngày làm việc.
- Nguồn thông tin: xác định các nguồn thông tin có thể tiếp cận để tiến hành quá
trình thu thập thông tin. Cần xác định các yếu tố thuận lợi và khó khăn khi tiếp cận với
các nguồn thông tin khác nhau trong cộng đồng để đưa ra một kế hoạch thu thập phù
hợp.
- Xác định người được phỏng vấn: khi đã xác định được người cần phỏng vấn,
nhóm đánh giá cần thu thập thông tin về địa điểm phỏng vấn, thời gian gặp mặt. Cần
liên hệ trước để hẹn gặp, chuẩn bị người thông dịch nếu cần.
- Xác định trách nhiệm các thành viên: do đặc tính thay đổi liên tục của tình
huống thảm họa, kế hoạch làm việc mỗi ngày thay đổi kéo theo việc cần xác định lại
trách nhiệm và vai trò phù hợp của mỗi thành viên để phát huy năng lực chuyên môn
của từng cá nhân.
- Sử dụng những kĩ thuật đánh giá nhanh phù hợp để thu thập thông tin cần thiết:

209
 Quan sát thực địa
 Thảo luận nhóm
 Thăm và phỏng vấn hộ gia đình
 Phỏng vấn những đầu mối thông tin quan trọng
 Thu thập thông tin theo khu vực
 Làm việc nhóm hàng ngày
 Báo cáo tóm tắt kết quả đánh giá trước khi rời thực địa
Trong quá trình thu thập thông tin tại cộng đồng, nhóm đánh giá nên tận dụng
triệt để sự phối hợp với các ban ngành khác để có thể tham khảo các kênh thông tin
sẵn có của họ hoặc chia sẻ những thông tin đã thu thập được từ các bên liên quan. Do
đó, không phải lúc nào cũng cần phải xuống thực địa để thu thập thông tin chi tiết từ
các ban ngành khác. Trong buổi họp giữa các ban ngành liên quan, các báo cáo và kết
quả đánh giá của các ban ngành khác sẽ được chia sẻ - những tài liệu này có thể được
sử dụng như phụ lục trong báo cáo của ngành y tế.
Cần liên hệ với càng nhiều bên càng tốt nhằm tránh tình trạng thu thập các thông
tin trùng lặp, làm tốn thời gian và nguồn lực trong khi cần đưa ra một bức tranh tổng
quát về tình huống thảm họa trong thời gian nhanh nhất có thể. Các bên còn có thể
chia sẻ nguồn lực quí giá trong tình huống khẩn cấp.
Bước 3: Phân tích thông tin
Quá trình phân tích thông tin trong đánh giá nhanh nhằm tổng hợp thông tin từ
các nguồn khác nhau để trả lời các câu hỏi:
- Đâu là vấn đề chính?
- Những ai bị ảnh hưởng bởi những vấn đề đó?
- Khả năng của cộng đồng bị ảnh hưởng ra sao? Họ có thể ứng phó với tình
huống thảm họa như thế nào?
- Có những hỗ trợ nào sẵn sàng cho cộng đồng bị ảnh hưởng?
- Có nhu cầu can thiệp hay không? Nếu có, hoạt động can thiệp nào cần được
triển khai?
Quá trình phân tích
Thông tin thu thập được sẽ trải qua quá trình phân tích gồm 4 bước:

Giải quyết Tổng hợp Phân tích Kết luận


vấn đề số thông tin thông tin và khuyến
liệu không nghị
nhất quán

210
Hình 1. Quy trình phân tích thông tin
Giải quyết vấn đề số liệu không nhất quán:
- Xảy ra khi những người khác nhau trả lời khác nhau với cùng một câu hỏi.
VD: khi được hỏi về nguồn nước tại xã A
- Câu trả lời 1: nguồn nước cạn kiệt khoảng 2 tháng mỗi năm
- Câu trả lời 2: nguồn nước không bao giờ cạn
Người phân tích thông tin sẽ giải quyết vấn đề này theo trình tự sau:
Thứ nhất: Tự hỏi bản thân những câu hỏi sau:
 Thông tin mới bổ sung hay mâu thuẫn với thông tin thứ cấp?
 Các thông tin thu thập từ 1 người có bổ sung hay mâu thuẫn với thông tin từ
những người khác?
 Những thông tin được thu thập bởi các thành viên khác nhau trong nhóm
đánh giá có thống nhất hay không?
 Các thông tin có “ý nghĩa” hay không?
 Hỏi sâu thêm, tìm nguồn thông tin khác, quan sát.
Thứ hai: Thảo luận kết quả thu được thường xuyên với các thành viên khác:
Vào cuối mỗi ngày: họp ít nhất 1 lần/ngày. So sánh thông tin, thảo luận những
điểm không nhất quán và thống nhất lại kế hoạch phỏng vấn. Sau 1 ngày tại thực địa,
thảo luận về các thông tin đã thu được và các kết luận đã được đưa ra
Thứ ba: Xem xét các nguyên nhân có thể gây ra tình trạng thông tin không nhất
quán.
 Nhận thức: không phải lúc nào cũngcó những “câu trả lời đúng”. Cách nhìn
nhận sự kiện của mỗi người phụ thuộc vào hoàn cảnh riêng của họ.
 Tiếp cận với thông tin: một số người nhận được nhiều thông tin về một chủ
đề cụ thể hơn số còn lại.
 Không đại diện: đôi khi mọi người chủ ý cung cấp những thông tin sai lệch
nhằm một mục đích nào đó.
- Xác định mức độ ảnh hưởng của thông tin không nhất quán tới các kết luận và
khuyến nghị. Nếu sự không nhất quán là không nghiêm trọng:
 Cố gắng loại bỏ nhưng không tốn quá nhiều thời gian cho việc này.
 Nếu bạn không thể giải quyết, hãy kèm theo một phần giải thích về vấn đề
trong báo cáo cuối cùng
- Xác định mức độ ảnh hưởng của thông tin không nhất quán tới kết luận và các
khuyến nghị. Nếu sự không nhất quán là nghiêm trọng thì cố gắng xử lý theo cách sau:

211
 Tìm gặp người cung cấp thông tin ban đầu hoặc tìm đầu mối thông tin mới
có thể giải thích vấn đề.
 Ước lượng độ tin cậy của mỗi nguồn thông tin.
 Xác định nguyên nhân dẫn đến sự không nhất quán.
* Nếu không thể xử lý:
 Đưa ra kết luận dựa trên kết quả thảo luận của cả đội và xem xét các thông
tin sẵn có
 Đưa ra kết luận dựa trên kết quả của báo cáo cuối cùng
Tổng hợp thông tin
Tổng hợp thông tin là quá trình hệ thống hóa các thông tin đã thu thập theo những
phân nhóm khác nhau tùy thuộc vào nội dung thông tin và mục đích của việc phân
tích. Việc tổng hợp thông tin tốt sẽ tạo điều kiện cho công đoạn phân tích thông tin đạt
chất lượng cao:
- Tập hợp số liệu thu thập từ các nguồn (xem Bảng 2)
- Tổng hợp các thông tin một cách ngắn gọn dưới các tiêu đề trong mẫu báo cáo.
Phân tích thông tin:
Quá trình phân tích thông tin gồm 3 bước:
1: Liệt kê những vấn đề được phát hiện trong quá trình đánh giá. Một vấn đề mới
là một vấn đề được hình thành do tình huống thảm họa. Ví dụ: mất tích, chấn thương,
sập nhà, ô nhiễm nguồn nước do lũ, bệnh dịch hoành hành v.v.
2: Xác định cộng đồng bị ảnh hưởng bởi những vấn đề đó, nhu cầu của họ,
những chiến lược ứng phó và hỗ trợ sẵn có. Khi ước lượng số người trong cộng đồng
bị ảnh hưởng, chúng ta có thể gặp phải tình huống số lượng không nhất quán giữa các
nguồn thông tin. Khi đó cần xác định xem nguồn thông tin nào là đáng tin cậy và có
giá trị nhất. Các thông tin từ nguồn tin cậy sẽ được cân nhắc sử dụng để phân tích. Các
nhu cầu của cộng đồng bị ảnh hưởng cần được xác định đối với vấn đề tương ứng,
được mô tả và lượng hóa nếu có thể. Từ những thông tin về nhu cầu được lượng hóa,
những người ra quyết định có thể đưa ra kế hoạch hỗ trợ phù hợp nhằm thỏa mãn nhu
cầu cấp thiết của cộng đồng trong tình huống thảm họa.
Đối với các chiến lược ứng phó đã được triển khai tại cộng đồng, nhóm đánh giá
nhanh cần phân tích tính hiệu quả của từng chiến lược và chỉ ra những điểm kém hiệu
quả hoặc có tác động tiêu cực tới cộng đồng. Các chiến lược có tác động tích cực sẽ
được khuyến nghị duy trì và tăng cường hiệu quả. Ngược lại, cần có can thiệp ngay
đối với những chiến lược kém hiệu quả và có tác động tiêu cực. Cần xác định xem các
hỗ trợ hiện có được cung cấp từ bên trong hay bên ngoài cộng đồng, liên quan đến các
tổ chức nào. Các hỗ trợ hiện tại được bố trí theo kinh nghiệm địa phương hay theo tiêu
chuẩn dành riêng cho các tình huống khẩn cấp.
3: Đánh giá sự thiếu hụt:
212
- Đối với mỗi cộng đồng, liệt kê các nhu cầu hiện tại
- Xác định xem với các chiến lược ứng phó và hỗ trợ hiện có, các nhu cầu đó có
được đáp ứng hay không
- Nếu được, ước lượng độ bao phủ nhu cầu của các chiến lược ứng phó và hỗ trợ
hiện có

Những kết luận có thể có từ đánh giá:


- Cần có can thiệp ngay lập tức
- Không cần can thiệp ngay lập tức
- Có thể có nhu cầu can thiệp trong tương lai
- Không có nhu cầu can thiệp trong bất cứ thời điểm nào
Khuyến nghị của nhóm đánh giá nhanh:
- Các vấn đề cần được thông báo cho cộng đồng
- Khu vực can thiệp trực tiếp về y tế
- Những vấn đề liên quan (trại di cư, an ninh, nước, vệ sinh, véc-tơ, thực phẩm)
- Cộng đồng được hưởng lợi (địa điểm, số lượng)
- Đối tác tiềm năng (nếu có)
- Dự trù kinh phí cần thiết (nếu có)
Bước 4: Viết báo cáo đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe sau thảm họa
Sau khi đã thực hiện quá trình phân tích các số liệu thu được trong đánh giá
nhanh, các thông tin có được từ toàn bộ quá trình trước đó được tổng hợp, kết nối lại
nhằm đưa ra các báo cáo cuối cùng. Các báo cáo này sẽ được gửi tới các nhóm đối
tượng khác nhau nên sẽ có bố cục và ngôn ngữ trình bày, hàm lượng thông tin khác
nhau giữa các nhóm (Bảng 7.5).
Trong số các báo cáo cần xây dựng, báo cáo đánh giá nhanh (RHA) là báo cáo
chi tiết nhất được viết với ngôn ngữ kĩ thuật để gửi tới Bộ Y tế, các đối tác, những
người hoạt động trong mạng lưới quản lý thảm họa. Báo cáo này là kim chỉ nam cho
các hoạt động tiếp theo của hệ thống phòng chống, ứng phó và khắc phục hậu quả của
thảm họa. Chất lượng của báo cáo liên quan trực tiếp tới tính đúng đắn của các quyết
định can thiệp từ các bên liên quan. Do vậy, một lần nữa tầm quan trọng của việc triển
khai một đánh giá nhanh “nhanh và chất lượng” lại được nhấn mạnh.
Các báo cáo chi tiết về tình hình địa phương nơi xảy ra thảm họa, các báo cáo
được đưa lên website và trên báo sẽ được xây dựng với hàm lượng thông tin phù hợp,
ngôn ngữ truyền đạt dễ hiểu nhằm mục đích chuyển tải càng nhiều thông tin trong thời
gian càng ngắn càng tốt. Do vậy, các báo cáo hướng tới quần chúng thường được viết
theo ngôn ngữ phổ thông, với những thông tin quan trọng nhất được đưa lên ngay trên
đầu báo cáo.
213
Tổ chức Y tế thế giới đã ban hành phương pháp, công cụ và báo cáo kết quả đánh
giá nhanh nhu cầu y tế trong thảm họa. Các nước thành viên của Tổ chức Y tế thế giới
có thể sử dụng các tài liệu này sao cho phù hợp với điều kiện của từng nước. Những
tài liệu này được đăng tải trên trang web của tổ chức Y tế thế giới tại địa chỉ:
www.who.int. Dưới đây là nội dung chính của một báo cáo kết quả đánh giá nhanh:
1. Tên báo cáo
2. Tóm tắt: phần này nêu tóm tắt các kết quả chính và khuyến nghị.
3. Giới thiệu chung về sự kiện thảm họa: loại thảm họa, nơi, thời gian xảy ra,
phạm vi ảnh hưởng, tiến triển v.v
4. Những thiệt hại:
- Người
- Cơ sở y tế
- Cơ sở hạ tầng: giao thông, điện, thông tin liên lạc v.v
- Nước sạch
- Lương thực, thực phẩm
- Nơi ở
- Vệ sinh môi trường, tình trạng vệ sinh nơi ở tạm thời
- Tình trạng sức khỏe của cộng đồng: bệnh truyền nhiễm, nguy cơ bệnh
truyền nhiễm, dịch bệnh
5. Khả năng đáp ứng của cộng đồng, hoạt động và kết quả đáp ứng hiện tại?
6. Nhu cầu cấp thiết hiện nay là gì?
7. Những khuyến nghị nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết và các vấn đề liên quan?
8. Các phụ lục:
- Sơ đồ, bản đồ
- Ảnh minh họa
- Bảng số liệu chi tiết
Bước 5. Chia sẻ và sử dụng kết quả đánh giá nhanh
Kết quả đánh giá nhanh có thể được chia sẻ với các bên liên quan theo nhiều
cách khác nhau. Kết quả đánh giá nhanh phải được gửi tới những cơ quan, tổ chức phù
hợp như Sở y tế, Bộ Y tế, cơ quan yêu cầu đánh giá, các tổ chức phi chính phủ trong
nước và quốc tế. Báo cáo kết quả đánh giá nhanh cũng có thể được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trên internet để các bên liên quan có thể sử dụng. Tổ
chức hội thảo chia sẻ thông tin với các bên liên quan cũng là một trong những hình
thức chia sẻ thông tin hiệu quả và thường được lựa chọn.
Các cơ quan và tổ chức sẽ tham khảo và sử dụng những thông tin, kết luận và
khuyến nghị trong báo cáo kết quả đánh giá nhanh một cách phù hợp trong việc lập kế
214
hoạch và triển khai các hoạt động đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Một lưu ý quan
trọng cho những cơ quan tổ chức sử dụng kết quả đánh giá nhanh là những thông tin
thu thập được trong đánh giá nhanh tuy rất có giá trị nhưng do tính chất của đánh giá
nhanh và sự thay đổi tình hình của sự kiện thảm họa, do đó thông tin ở các thời điểm
khác nhau thường có những thay đổi, nên việc cặp nhật thông tin trong từng giai đoạn
là cần thiết và phải được thực hiện nhằm bảo đảm thông tin là chính xác tại thời điểm
cụ thể. Nói cách khác, đánh giá nhanh nên được thực hiện nhiều lần (nếu có thể). Đánh
giá nhiều lần sẽ đáp ứng được mục đích cập nhật thông tin, vốn thay đổi theo thời gian
trong mọi tình huống khẩn cấp.
3. KẾ HOẠCH ỨNG PHÓ VỚI THẢM HỌA VÀ PHÒNG CHỐNG DỊCH
BỆNH CỦA CƠ SỞ Y TẾ
3.1. Khái niệm và quy trình xây dựng kế hoạch ứng phó với thảm họa
Mọi hoạt động quản lý thảm họa trong giai đoạn trước, trong hay sau thảm họa
muốn đạt được hiệu quả đều cần dựa trên nền tảng một bản kế hoạch hoàn chỉnh được
xây dựng theo đúng qui trình. Bên cạnh những lợi ích quan trọng như cung cấp các
hướng dẫn thực hiện trong các tình huống khẩn cấp, việc xây dựng các bản kế hoạch
còn đem lại nhiều lợi ích khác. Bạn có thể phát hiện ra các hiểm họa tiềm ẩn nguy cơ
tăng cao trong các tình huống khẩn cấp để có phương án giảm nhẹ hoặc loại bỏ chúng.
Ví dụ như việc thực hiện qui trình lập kế hoạch giúp phát hiện ra các nguyên nhân gây
ra thiếu ánh sáng trong các cơ sở y tế trong tình huống khẩn cấp như thiếu cơ sở vật
chất, trang thiết bị, cán bộ được tập huấn… hoặc những qui trình có thể được điều
chỉnh trước khi tình huống thực sự xảy ra. Ngoài ra, kế hoạch quản lý tình huống khẩn
cấp góp phần nâng cao nhận thức về an toàn của các cá nhân và cam kết của đơn vị
nhằm đảm bảo an toàn cho nhân viên của mình.
Việc thiếu kế hoạch quản lý tình huống khẩn cấp/thiên tai, thảm họa có thể dẫn
tới nhiều hậu quả nghiêm trọng như chấn thương, tử vong, bệnh tật cho con người,
thiệt hại cơ sở hạ tầng và khủng hoảng tài chính cho đơn vị bị ảnh hưởng do bị động
trong xử lý tình huống hoặc hoàn toàn bị tê liệt/không có đáp ứng nào trước những hậu
quả nặng nề gây ra bởi thảm họa. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới
hạn chế trong hoạt động lập kế hoạch đáp ứng với tình huống khẩn cấp là thái độ cho
rằng “tình huống đó không thể xảy ra ở đây/với cơ quan chúng tôi”. Do đó, lãnh đạo
cũng như các cá nhân có vai trò quan trọng trong cơ quan không ưu tiên dành thời gian
thực hiện đánh giá nguy cơ, hiểm họa, khả năng ứng phó của đơn vị để triển khai lập
kế hoạch theo qui trình phù hợp.
Do các tình huống khẩn cấp có thể xảy ra bất cứ thời gian nào nên việc lập kế
hoạch cho các loại tình huống khẩn cấp là hết sức cần thiết. Nhờ đó, khi tình huống
thực sự xảy ra, các cá nhân, tổ chức có thể ra quyết định nhanh chóng hoặc thực hiện
triển khai kế hoạch đã được xây dựng và thử nghiệm/diễn tập từ trước nhằm xử lý tình
huống hiệu quả nhất, giảm thiểu những hậu quả sức khỏe cũng như thiệt hại về chức
năng hoạt động, cơ sở hạ tầng của tổ chức. Nếu qui trình lập kế hoạch không được
thực hiện đầy đủ, các hoạt động ứng phó với tình huống khẩn cấp chắc chắn sẽ gặp
phải nhiều khó khăn do bị động, thiếu nhân lực được tập huấn/phân công nhiệm vụ cụ
215
thể, thiếu phương tiện, trang thiết bị được chuẩn bị trước/có qui trình huy động khẩn
cấp từ trước, thiếu sự phối hợp giữa các bên liên quan trong khi tình huống khẩn cấp
đòi hỏi những hành động tức thì. Những hạn chế này sẽ dẫn tới thiệt hại nặng nề hơn
cho các đơn vị cả về con người, cơ sở hạ tầng và chức năng.
Những mục tiêu chính của qui trình lập kế hoạch đáp ứng với tình huống khẩn
cấp bao gồm:
 Phòng chống chấn thương và giảm số trường hợp tử vong
 Giảm thiểu thiệt hại cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế
 Bảo vệ môi trường và cộng đồng
 Đảm bảo nhanh chóng phục hồi các hoạt động chức năng của cơ sở y tế
Việc xây dựng kế hoạch bắt đầu với một đánh giá tính dễ bị tổn thương và khả
năng chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với tình huống khẩn cấp. Kết quả đánh giá sẽ thể hiện:
 Khả năng xảy ra các tình huống khẩn cấp (các hiểm họa)
 Tính dễ bị tổn thương của cơ sở y tế, người, trang thiết bị
 Nguồn lực nào sẵn có để phòng chống hoặc ứng phó
 Những yếu tố cần thiết để đáp ứng với tình huống khẩn cấp
Từ kết quả phân tích này, qui trình lập kế hoạch phù hợp sẽ được triển khai.
Trong giai đoạn lập kế hoạch, điều quan trọng cần được thực hiện là cần huy động sự
tham gia của một số nhóm cá nhân, đơn vị liên quan. Một số đại diện chính quyền địa
phương phù hợp cũng cần thiết được mời tham gia tư vấn lập kế hoạch để có thể tận
dụng được kinh nghiệm quản lý các tình huống khẩn cấp của địa phương cũng như
huy động các nguồn lực bổ sung từ địa phương hoặc phối hợp ứng phó nếu cần. Việc
huy động đầy đủ các bên liên quan tham gia vào quá trình lập kế hoạch là vô cùng
quan trọng để đảm bảo tính toàn diện của bản kế hoạch về mặt nội dung, sự phù hợp
của kế hoạch với các cá nhân, nhóm trong đơn vị, với toàn thể đơn vị và tình hình địa
phương cũng như nâng cao nhận thức và cam kết của các cá nhân, các bên liên quan từ
khâu lập kế hoạch đến phối hợp thực hiện và đồng thời đảm bảo các nguồn lực cần
thiết sẽ được huy động nhanh nhất trong tình huống khẩn cấp.
Việc quản lý và thực hiện công tác chủ động phòng và khắc phục hậu quả thiên
tai, thảm họa có nhiều điểm giống như việc tổ chức triển khai thực hiện các chương
trình y tế khác ở những điểm sau:
- Về bản chất, đó là kế hoạch phối hợp nhiều ngành trong xã hội. Không chỉ
riêng Ngành Y tế mà phải có sự phối hợp liên ngành, sự cam kết lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp Đảng, chính quyền địa phương và sự tham gia của cộng đồng
thì mới thực hiện được.
- Các tác động của kế hoạch là một quá trình hoạt động hơn là một bản kế hoạch
trên giấy. Vì vậy kế hoạch phải thật cụ thể, có tính khả thi cao và nhất thiết
phải được tiến hành triển khai thử để rút kinh nghiệm.

216
- Kế hoạch và những thành phần của kế hoạch mang tính đặc trưng thực hiện
khi có tình huống khẩn cấp, ứng phó với thảm họa tự nhiên cũng như thảm
họa do con người gây ra.
Những điều kiện tiên quyết cho việc lập kế hoạch là:
- Có mối đe dọa thực sự (hiểm họa).
- Cộng đồng nhận biết được sự cần thiết của kế hoạch: làm cho nhân viên y tế,
cộng đồng hiểu được mối nguy hiểm của hiểm họa và sẵn sàng tham gia vào
việc thực hiện kế hoạch phòng chống và khắc phục hậu quả do thảm họa gây
ra.
- Những nhà chức trách và người lập chính sách được thuyết phục về sự cần
thiết của kế hoạch.
- Những ngành và những người có liên quan tán thành đối với qui trình lập kế
hoạch và hiểu biết về lợi ích của kế hoạch mang lại: kế hoạch phòng chống
thảm họa là kế hoạch liên ngành nên phải được sự hưởng ứng và sẵn sàng
tham gia. Ví dụ: ngành tài chính sẵn sàng cung cấp kinh phí, ngành công an
sẵn sàng tham gia bảo vệ trật tự trị an v.v.
- Việc thực hiện kế hoạch được đảm bảo bằng những công cụ pháp lý thích hợp:
có văn bản pháp qui (Chỉ thị, Nghị quyết v.v) của chính quyền các cấp (Chỉ thị
của Thủ tướng Chính phủ, của ủy ban nhân dân các cấp, chỉ thị của Bộ trưởng
Bộ Y tế v.v) làm cơ sở cho việc triển khai thực hiện.
- Thiết lập một thể chế phối hợp giữa những điều nêu ra của kế hoạch và việc
khắc phục hậu quả thực tế trong trường hợp có thảm họa. Trong thảm họa mọi
việc đều rất khẩn trương, nếu không có phối hợp tốt thì sẽ thất bại. Ví dụ: cần
có sự phối hợp giữa lực lượng công an, quân đội trong khi sơ tán dân đến nơi
an toàn, có đủ phương tiện giao thông để chở dân đi sơ tán. Trường hợp các cơ
sở y tế cần di chuyển máy móc lớn (máy chụp X quang) lên nơi cao, an toàn
cần phối hợp trước với nơi có cần cẩu để khi cần gọi là có ngay, không phải
chờ đợi lâu.
Qui trình lập kế hoạch
Trước hết, cần hiểu rằng bản kế hoạch trên giấy chỉ là sản phẩm đầu ra của qui
trình lập kế hoạch, không có ý nghĩa tác động trừ khi nó được thực hiện phối hợp với
các lợi ích khác của qui trình. Điều này có nghĩa là việc thực hiện đúng qui trình lập kế
hoạch có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với bản kế hoạch được viết ra. Qui trình lập
kế hoạch phòng chống thảm họa đối với Ngành Y tế là các bước nối tiếp nhau, đó là
một quá trình tác động qua lại với nhau nhằm:
- Tăng sự hiểu biết về chức năng nhiệm vụ của tất cả các bên có liên quan khi
có thảm họa xảy ra.
- Tăng cường mạng lưới cấp cứu bao gồm mạng lưới tại chỗ (huyện, xã bị thiên
tai, thảm họa) và hệ thống chi viện của tuyến trên: Trung ương hoặc tỉnh,
thành phố chi viện cho tuyến huyện, xã bị thiệt hại.
217
- Tăng cường hiểu biết của cộng đồng và xúc tiến chiến lược tuyên truyền giáo
dục cho cộng đồng để cộng đồng biết cách tự bảo vệ mình (sơ tán, tìm nơi an
toàn, tự cứu mình và cứu người xung quanh khi có thảm họa).
- Thiết lập mạng lưới thông tin cộng đồng nhằm mục đích liên lạc, truyền tin,
cảnh báo cho cộng đồng và các yêu cầu triển khai khác. Sử dụng tối đa các
phương tiện truyền thông hiện có; đôi khi chỉ đơn giản là mọi người gọi nhau
đúng lúc để tìm đến nơi an toàn cũng có thể cứu sống được rất nhiều người. Ví
dụ trong thảm họa sóng thần tại Thái Lan năm 2004, một em bé 10 tuổi khi
thấy có dấu hiệu sóng thần mà em được học ở nhà trường đã chạy ra biển gọi
mọi người quay trở vào tìm nơi trú ẩn. Nhờ đó mà hàng trăm người đang tắm
ngoài biển đã được cứu sống trong khi hệ thống phát thanh, truyền hình không
kịp thông báo gì cho cộng đồng (trang tin The Telegraph, Anh).
Qui trình lập kế hoạch đáp ứng với thảm họa gồm 9 bước tóm tắt trong hình sau.

1. Xác định cơ sở pháp lý lập và thực hiện kế họach

2. Thành lập Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện


kế họach

3. Phân tích nguy cơ - Xác định mục tiêu kế họach

4. Xác định cơ cấu tổ chức và trách nhiệm từng


thành viên

5. Xác định và phân tích nguồn lực

6. Viết bản dự thảo kế họach

7. Tổ chức thực hiện thí điểm

8. Sơ kết, chỉnh sửa kế họach chính thức

9. Tổng kết và bổ sung kế họach định kỳ hàng năm

Bước 1: Xác định cơ sở pháp lý của kế hoạch


Kế hoạch được xây dựng dựa trên những cơ sở pháp lý sau:
- Luật Phòng, chống thiên tai số 33/2013 được ban hành bởi Quốc hội 13
- Quyết định của Chính phủ, Ủy ban nhân dân, Bộ trưởng Bộ Y tế
218
- Quyết định của thủ trưởng đơn vị: Giám đốc Sở Y tế
- Kế hoạch tổng thể của Bộ Y tế
Bước 2: Thành lập Ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch
Cần thiết phải có đại diện của các cơ quan có liên quan đến việc chủ động phòng
chống và khắc phục hậu quả thảm họa; ít nhất cũng phải có đại diện chính quyền, Ban,
Ngành, Đoàn thể trong đó các lực lượng vũ trang (quân đội, công an) là rất quan trọng.
Thông thường, nếu là kế hoạch của địa phương (huyện, tỉnh) thì Chủ tịch ủy ban nhân
dân là Trưởng Ban, ngành Y tế là thành viên cùng các ban, ngành, đoàn thể khác. Nếu
là kế hoạch của ngành Y tế thì lãnh đạo y tế tuyến đó là trưởng ban, các đơn vị thành
viên có liên quan là ủy viên trong đó nhất thiết phải có đại diện của bệnh viện, y tế dự
phòng, dược, tài chính v.v. để đảm bảo nguồn lực cho việc thực hiện kế hoạch.
Bước 3: Phân tích nguy cơ - Xác định mục tiêu của kế hoạch
Việc phân tích các nguy cơ xảy ra thảm họa tại địa phương phải được làm đầy
đủ, tỉ mỉ, dựa trên các dữ liệu của địa phương trong nhiều năm để có thể lường trước
được tất cả các loại thảm họa có thể xảy ra, mức độ nghiêm trọng nhất phải đối phó.
Nếu làm được như vậy thì khi có thảm họa xảy ra sẽ không bị bất ngờ cả về loại thảm
họa cũng như nguy cơ các loại thảm họa có thể gây ra.
Mục tiêu của kế hoạch đối với ngành Y tế thường tập trung ưu tiên vào các lĩnh
vực sau:
- Làm giảm tới mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản đối với ngành Y tế.
- Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bệnh nhân, người nhà chăm sóc bệnh nhân tại
các cơ sở y tế.
- Nhanh chóng ổn định hoạt động ngay sau khi thảm họa đã qua, huy động cao
nhất lực lượng cán bộ nhân viên, trang thiết bị để khắc phục hậu quả thảm họa
gây ra.
Các mục tiêu của kế hoạch cần thật cụ thể, có tính khả thi và không nên đề ra quá
nhiều mục tiêu, tối đa cũng chỉ khoảng 3 - 4 mục tiêu là đủ. Nên sắp xếp các mục tiêu
theo thứ tự ưu tiên cho từng giai đoạn như: giảm nhẹ thiệt hại đối với giai đoạn chuẩn
bị ứng phó với thảm họa, nhanh chóng đưa cơ sở y tế trở lại hoạt động bình thường sau
khi thảm họa xảy ra.
Bước 4: Xác định cơ cấu tổ chức và xác định trách nhiệm từng thành viên
Cần xác định cơ quan tổ chức thực hiện kế hoạch là Ban chỉ huy PCTT&TKCN
của các cấp. Trong Ban chỉ huy phải có người đại diện của các bộ phận, cơ quan có thể
huy động cao nhất nguồn lực cho việc thực hiện kế hoạch. Mối liên quan của các bộ
phận, cơ chế điều phối khi có thảm họa xảy ra. Ví dụ: khi xảy ra cháy nổ, tai nạn giao
thông gây thương vong hàng loạt nạn nhân thì người chỉ huy, quản lý phải là người có
uy tín và trách nhiệm lớn, cao nhất tại địa phương để có thể huy động nguồn lực nhiều
Ngành cho công tác khắc phục hậu quả thảm họa ngay tại hiện trường, có thể ra các
quyết định và tổ chức thực hiện ngay trong điều kiện khẩn cấp. Tuy nhiên, cần nhớ là

219
khi có thảm họa thì nhân dân là người tiếp cận đầu tiên trước khi cán bộ y tế và người
chỉ huy đến. Vì vậy, việc tuyên truyền cho nhân dân biết các kĩ thuật cơ bản nhất như
cầm máu, cố định gãy xương, thổi ngạt, bóp tim ngoài lồng ngực, vận chuyển nạn
nhân đến cơ sở y tế là rất cần thiết.
Cần phân công trách nhiệm thật cụ thể cho các thành viên thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể trong kế hoạch. Ví dụ: khi có thảm họa xảy ra, ai sẽ huy động nhân lực, ai đảm
bảo hậu cần, phương tiện đi lại. Phải phân công cán bộ phụ trách theo địa bàn, xuống
ngay các trọng điểm để trực tiếp nắm tình hình và chỉ huy khi giao thông bị chia cắt do
thảm họa gây ra.
Một cá nhân trong tổ chức cần được phân công và tập huấn để trở thành Người
điều phối ứng phó với các tình huống khẩn cấp cũng như người thay thế cho người
điều phối trong trường hợp người điều phối chính không có mặt. Nhân lực tại chỗ
trong các tình huống khẩn cấp chính là chìa khóa đảm bảo hoạt động ứng phó hiệu quả
và kịp thời để giảm thiệu thiệt hại. Trong một số trường hợp, có thể cần phải huy động
khẩn cấp cả những nhân viên đã về hưu hoặc đang nghỉ phép trên cơ sở qui trình huy
động nhân sự khẩn cấp đã được xây dựng và thông báo rộng rãi đến các cá nhân từ
trước.
Nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn và các nguồn lực cụ thể cần được định nghĩa
rõ ràng. Những trách nhiệm chính cần được mô tả bao gồm:
 Báo cáo về tình huống khẩn cấp
 Triển khai kế hoạch ứng phó khẩn cấp
 Giả định những chỉ đạo toàn diện
 Thiết lập hệ thống thông tin, truyền thông
 Cảnh báo tới nhân viên
 Yêu cầu sơ tán
 Cảnh báo tới các cơ quan bên ngoài
 Xác nhận sơ tán xong
 Cảnh báo cộng đồng lân cận về các nguy cơ tiềm ẩn
 Yêu cầu hỗ trợ từ bên ngoài
 Điều phối hoạt động của các nhóm khác nhau
 Chăm sóc người thân của nạn nhân
 Cung cấp dịch vụ y tế
 Đảm bảo cơ chế ứng phó khẩn cấp kết thúc
 Thông báo kết thúc tình trạng khẩn cấp
 Cung cấp thông tin cho truyền thông

220
Danh mục những trách nhiệm trên cần được xây dựng dựa trên tổng hợp các biện
pháp ứng phó đã được đưa ra cho các tình huống khẩn cấp khác nhau. Trong một số
đơn vị có thời gian làm việc theo ca với nhân lực tối thiểu, một số cá nhân có thể cần
đảm nhiệm thêm các nhiệm vụ khác trong tình huống khẩn cấp. Các trách nhiệm hoặc
vai trò này đều cần được đặt tên và văn bản hóa để đảm bảo các hoạt động ứng phó
diễn ra thuận lợi và nhanh chóng nhất trên cơ sở nhân lực được phân công thường trực
trong mọi tình huống.
Các tổ chức bên ngoài có thể hỗ trợ (trong các khoảng thời gian khác nhau) bao
gồm:
 Chữa cháy
 Đội cấp cứu, cứu nạn lưu động
 Dịch vụ cứu thương
 Cảnh sát
 Công ty viễn thông
 Bệnh viện
 Công ty dịch vụ khác
 Khu công nghiệp lân cận
 Các cơ quan chính phủ
Các tổ chức này cần được liên hệ để tham gia vào các bước trong quá trình lập kế
hoạch quản lý tình huống khẩn cấp, xác định các giải pháp phù hợp dựa trên kinh
nghiệm ứng phó trên thực tế, xác định cơ chế phối hợp và phân công nhiệm vụ cụ thể
mỗi bên sẽ đảm nhận trong tình huống khẩn cấp có thể xảy ra. Việc thiếu sự tham gia
của các bên liên quan có thể dẫn tới chồng chéo trong hoạt động ứng phó, không có sự
phối hợp hoặc phối hợp không hiệu quả, lãng phí thời gian và nguồn lực vốn rất hạn
chế trong tình huống khẩn cấp.
Các hoạt động điều phối lập kế hoạch cần rất chú trọng đến sự trùng lặp hoặc
mâu thuẫn về trách nhiệm. Ví dụ như, các lực lượng cảnh sát, chữa cháy, cứu thương,
cứu nạn, cấp cứu ban đầu có thể xuất hiện tại hiện trường cùng lúc dẫn tới nhiều khó
khăn cho việc triển khai các hoạt động của các nhóm riêng rẽ cũng như phối hợp. Một
cơ chế hoạt động/phối hợp trong tình huống này cần được thảo luận giữa các bên và
thống nhất phương án thực hiện từ trong giai đoạn lập kế hoạch, sau đó là phổ biến,
diễn tập cho các cá nhân và tổ chức liên quan để tránh xảy ra tình trạng khó khăn nói
trên.
Một số vấn đề liên lạc có thể xảy ra trong các tình huống nhất định. Trong tình
huống khẩn cấp đó, cần có những nỗ lực tìm kiếm phương tiện liên lạc thay thế, đặc
biệt ưu tiên đảm bảo liên lạc thông suốt cho nhóm các cá nhân quan trọng như người
chỉ huy ứng phó chung, người chỉ huy ứng phó tại hiện trường, các chuyên viên kiểm
soát hiện trường, cứu hỏa, y tế, tìm kiếm cứu nạn, đại diện các tổ chức tham gia ứng
phó với tình huống khẩn cấp. Tùy thuộc vào phạm vi của hiện trường xảy ra tình
221
huống khẩn cấp và các nguồn lực, có thể lập kế hoạch thiết lập trung tâm kiểm soát
khẩn cấp tại hiện trường với các trang thiết bị liên lạc phù hợp. Tất cả các cá nhân chịu
trách nhiệm truyền thông tin cảnh báo và báo cáo trong tình huống khẩn cấp cần được
cung cấp danh mục cập nhật các cá nhân và tổ chức họ cần phải liên lạc.
Trên cơ sở các điểm trên, cần lập ra bộ máy tổ chức thực hiện có hiệu quả với
những cán bộ có năng lực và phải thường xuyên bổ sung để có tính khả thi khi tình
huống xảy ra. Về tổ chức thực hiện cần phân công cụ thể đến từng người, kiểm tra tận
tay từng loại vật tư, phương tiện. Ví dụ: phải đảm bảo chắc chắn có đủ thuốc, phương
tiện đi lại hoạt động tốt khi có tình huống thiên tai xảy ra. Nhiều nơi có trang bị canô,
xuồng cứu nạn nhưng khi bị ngập lụt mang ra thì máy không nổ, xuồng bị thủng, nước
tràn vào không dùng được. Các đội lưu động chi viện cho tuyến dưới khi bị thiên tai
cũng phải sẵn sàng cả về con người cũng như phương tiện đi lại để có thể lên đường
ngay khi có lệnh điều động.
Bước 5: Xác định và phân tích nguồn lực
Cần xác định và phân tích nguồn lực về các mặt sau:
Nhân lực: khi có thảm họa sẽ điều động nhân lực thế nào? Cần phân công cụ thể
đến tận mỗi cán bộ, nhân viên y tế để dễ dàng huy động được ngay trong tình huống
khẩn cấp. Ví dụ: bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí chỉ sau 30 phút đã huy
động tối đa nguồn nhân lực khi xảy ra cháy nổ tại địa phương. Ngay sáng hôm bị lũ
quét, cán bộ nhân viên y tế TTYT huyện Sơn Dương đều có mặt tại bệnh viện để khắc
phục hậu quả.Các bệnh viện phải có kế hoạch điều động thêm cán bộ chuyên môn đến
hỗ trợ cho kíp trực khi có thảm họa. Cần có cơ chế phân công gọi điện thoại truyền
nhau: một người gọi cho 3 - 4 trưởng nhóm, mỗi trưởng nhóm lại gọi cho 10 nhân viên
khác. Trường hợp cần thiết đối với các chuyên gia cao cấp phải cho xe đi mời đến
ngay.
Tài lực: cần chuẩn bị về mặt kinh phí và cơ chế sử dụng kinh phí khi có thảm
họa xảy ra. Thông thường khi có thảm họa, việc huy động kinh phí dễ được các cơ
quan cấp trên giải quyết nhanh hơn. Tuy nhiên, cũng cần lường trước các cơ chế phức
tạp trong chuyển tiền, mua vật tư, thuốc men cần thiết để nhanh chóng khắc phục hậu
quả.Người chỉ huy cần lường trước mọi tình huống, báo cáo với lãnh đạo chính quyền
cấp trên có cơ chế cho phép sử dụng nguồn lực hợp lý khi có thảm họa và chịu trách
nhiệm về các quyết định của mình.
Vật lực: cần có kế hoạch dự trữ thuốc men, máy móc, hóa chất, lương thực, thực
phẩm, chất đốt... để khi có thảm họa còn nguồn lực sử dụng được một thời gian nhất
định trước khi có chi viện của cấp trên. Việc tính toán các vật tư, thuốc men, chuẩn bị
kế hoạch cung cấp nước uống, lương thực, nơi ở tạm thời và các hỗ trợ khác cho
những người bị ảnh hưởng bởi thiên tai có thể dựa trên thông tin về dân số, nhóm tuổi,
tính dễ bị tổn thương của cộng đồng, khả năng của địa phương và tham khảo tài liệu
Tiêu chuẩn tối thiểu trong cứu trợ nhân đạo – SPHERE được xuất bản năm 2011. Đặc
biệt lưu ý đến tình huống bị nước ngập lụt chia cắt dài ngày, mất điện, nước, mất liên
lạc với cấp trên v.v. Ví dụ: bệnh viện Trung Ương Huế năm 1999 bị ngập sâu 2 mét
trong 3 ngày, không có điện, không có nước, không liên lạc điện thoại được trong khi
222
phải lo nuôi gần 1000 bệnh nhân và khoảng 1000 người nhà bị kẹt lại tại bệnh viện.
Nếu không lường trước tình huống này sẽ rất khó khăn.
Bước 6: Viết Bản dự thảo kế hoạch
Sau khi làm tốt tất cả các bước chuẩn bị nói trên thì mới nên bắt tay vào việc viết
dự thảo kế hoạch. Có đảm bảo như vậy thì kế hoạch mới sát thực tế và có khả năng
thực hiện. Việc chuẩn bị quyết định thành công và chất lượng kế hoạch. Viết kế hoạch
không khó, chỉ cần một ngày là có thể hoàn thành nhưng việc chuẩn bị đúng quy trình
nhiều khi mất cả tháng mới xong.
Bước 7: Thực hiện thí điểm kế hoạch
Để đảm bảo kế hoạch thực hiện được trên thực tế, cần tổ chức thực hiện thí điểm
kế hoạch tại một địa bàn trọng điểm trong các điều kiện giống thực tế nhất. Thông
thường nên bố trí diễn tập, thực tập để rút kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện.
Việc thực hiện thí điểm kế hoạch mang tính bắt buộc để tìm ra các thiếu sót nhằm bổ
sung kế hoạch cho hoàn thiện trước khi ban hành chính thức.
Bước 8: Sơ kết, bổ sung kế hoạch chính thức ban hành
Sau khi tổ chức thực hiện thí điểm, kế hoạch cần được bổ sung cho hoàn chỉnh và
ban hành chính thức. Cần coi kế hoạch này là một trong các nhiệm vụ thường xuyên
của đơn vị để kiểm tra việc sẵn sàng thực hiện hàng tháng, hàng quí nhất là trong giai
đoạn cao điểm của thiên tai hàng năm tại địa phương, đơn vị.
Bước 9: Tổng kết và bổ sung định kỳ hàng năm
Hàng năm cần tổng kết, sơ kết kế hoạch và bổ sung thêm về nhân lực, vật lực,
các yếu tố nguy cơ của thảm họa cho sát với tình hình của địa phương, đơn vị. Không
được chủ quan vì năm trước hoặc nhiều năm liên tiếp không có thiên tai, thảm họa nên
giảm bớt mức độ sẵn sàng, đầu tư nhân lực, tài lực, vật lực cho công tác này. Điều này
có thể gây ra những hậu quả không lường được do thiếu sự đáp ứng sẵn sàng.
3.2. Xây dựng kế hoạch ứng phó với thảm họa và phòng chống dịch bệnh của cơ
sở y tế
Phần 1 - Giới thiệu
 Mô tả đặc điểm địa lý (diện tích, địa hình v.v.)
 Lịch sử thảm họa đã xảy ra
 Mô tả về dân số, kinh tế xã hội
 Mô tả về hệ thống chăm sóc sức khỏe (bệnh viện, phòng khám, Trung tâm Y tế,
Trạm Y tế)
 Những dịch vụ đáp ứng tình trạng khẩn cấp (vị trí, con người, trang thiết bị,
v.v.).

Phần 2-Đánh giá nguy cơ


223
 Mô tả một loại hiểm họa nghiêm trọng (các hiểm họa tự nhiên: bão, các hậu quả
từ bùng phát bệnh dịch, các hiểm họa nhân tạo: các đập, các nhà máy hóa chất
v.v.)
 Tác động của nguy cơ lên sức khỏe
 Tác động của nguy cơ lên tài sản
 Tác động của nguy cơ lên môi trường
 Mô tả các hậu quả có thể xảy ra khi có sự tương tác giữa hiểm họa và các vấn
đề sức khỏe tiềm tàng (các nguy cơ)
Phần 3 - Những hoạt động quản lý thảm họa hiện có tại địa phương hoặc tỉnh
 Sự chuẩn bị sẵn sàng/sự phòng ngừa
 Đáp ứng
 Hồi phục
 Những rào cản/vấn đề trong quản lý thảm họa
Phần 4 - Mục tiêu
Giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người (người dân và cán bộ y tế v.v), cơ sở
và trang thiết bị y tế, bảo đảm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước, trong và sau
thảm họa.
Phần 5 - Phân tích nguồn lực
 Nhân lực
 Cơ sở vật chất
 Tài chính
 Trang thiết bị
 Hậu cần
 Dự phòng
Phần 6 - Tổ chức quản lý
 Tổng quan về vai trò của ngành Y tế trong quản lý thảm họa
 Quản lý về cấu trúc phòng chống thảm họa: các thành viên của ủy ban phòng
chống thảm họa (tỉnh, huyện)
 Cấu trúc chỉ huy
 Khởi động bộ máy
 Thiết bị thông tin liên lạc
 Hệ thống báo cáo
 Các thành viên của ủy ban nhân dân phòng chống thảm họa địa phương
 Quản lý các nguồn lực
224
 Phối hợp với các đơn vị khác
Phần 7 - Trách nhiệm của các tuyến
 Sở Y tế (nếu đây là một đơn vị phòng chống thảm họa y tế tuyến tỉnh)
 Trung tâm y tế huyện
 Trạm Y tế xã
 Trung tâm Y tế dự phòng
 Các phòng/đơn vị trong Sở Y tế và Trung tâm Y tế huyện
Phần 8 - Kế hoạch và phương pháp phổ biến kế hoạch
Việc phổ biến kế hoạch là vô cùng quan trọng và là một bước trong cả quá trình
lập kế hoạch. Việc phổ biến kế hoạch sẽ làm tăng sự gắn kết của tất cả các thành viên.
Việc phổ biến kế hoạch bao gồm:
 Quyết định tổ chức nào và/ hoặc lãnh đạo cộng động nào sẽ nhận kế hoạch
 Quyết định kế hoạch sẽ được tuyên truyền như thế nào tới cộng đồng địa
phương trước, trong và sau một thảm họa
 Quyết định khi nào kế hoạch sẽ được phổ biến tới các tổ chức và cá nhân khác
nhau
 Quyết định ai sẽ được tập huấn trong việc thực thi kế hoạch
 Quyết định về lịch tập huấn (bao giờ, ở đâu)
Phần 9 - Phương pháp cập nhật và bổ sung kế hoạch
Những phương pháp nào có thể được áp dụng để rà soát và cập nhật kế hoạch?
Kế hoạch có thể được rà soát bằng cách tổ chức hội thảo, các cuộc họp hoặc
phỏng vấn những người liên quan.
Những ai tham gia vào rà soát và cập nhật kế hoạch?
Những người tham gia xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện kế hoạch, đại diện
của cộng đồng bị ảnh hưởng bởi thảm họa.
Đối tác, nhà tài trợ, tổ chức NGOs, tổ chức quốc tế, chuyên gia trong và ngoài
nước.
Khi nào cần phải rà soát và cập nhật bản kế hoạch?
Vì bản kế hoạch có thể đã không phù hợp ngay sau khi được in ra, vì thế kế
hoạch phải được rà soát lại hàng năm, ngay sau khi triển khai khi có thảm họa xảy ra
hoặc sau bất kì hoạt động triển khai thí điểm nào.
Nội dung chính của bản kế hoạch chỉ nên viết ngắn gọn, những nội dung chi tiết
có thể để ở phần phụ lục. Sau đây là những ví dụ về một số phụ lục:
 Định nghĩa, khái niệm dùng trong kế hoạch
 Bản đồ hành chính
225
 Bản đồ nguy cơ
 Bảng ghi tên và địa chỉ, điện thoại của những người chủ chốt
 Sơ đồ quản lý, điều hành
 Danh sách những đơn vị nhận bản kế hoạch
 Các kế hoạch quản lý các vấn đề cụ thể, ví dụ:
- Kế hoạch quản lý vệ sinh môi trường
- Kế hoạch quản lý chấn thương hàng loạt của bệnh viện
- Kế hoạch phòng chống bệnh truyền nhiễm
- Kế hoạch sơ tán có thể kèm theo sơ đồ đường đi và các vị trí
4. THỰC HÀNH
Học viên sẽ áp dụng những kiến thức lý thuyết về đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe để
xây dựng kế hoạch đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe trong thảm họa, sử dụng kết quả
đánh giá nhanh để xây dựng kế hoạch ứng phó với thảm họa và phòng chống dịch
bệnh trong thảm họa.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


Câu 1: Trình bày một số thuật ngữ cơ bản sử dụng trong quản lý nguy cơ thảm họa.
Câu 2: Trình bày các bước đánh giá nhanh nhu cầu sức khỏe trong thảm họa.
Câu 3: Xây dựng kế hoạch ứng phó với thảm họa và phòng chống dịch bệnh của cơ sở
y tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Y tế (2019). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề ngiệp bác sỹ
chính (hạng II). Trường Đại học Y tế Công cộng, Nhà xuất bản Y học.
2. Thông tư số 17/2019/TT-BYT ngày 17 tháng 7 năm 2019.
3. Bộ y tế (2011), Quản lý y tế công cộng trong thảm họa.
4. Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nghị định Số:
66/2014/NĐ-CP, ngày 04 tháng 07 năm 2014 “Qui định chi tiết hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật phòng, chống thiên tai”.
5. Dự án vận động chính sách phòng chống thiên tai dựa vào cộng đồng (JANI)
(2010), Phương châm bốn tại chỗ trong phòng chống thiên tai.
6. Dự án vận động chính sách phòng chống thiên tai dựa vào cộng đồng (JANI)
(2010), Quản lý rủi do thiên tai dựa vào cộng đồng.
7. “Khung hành động Sendai về GNRRTT, 2015-2030”, bản dịch tiếng Việt trên
trang web: phongchongthientai.vn).
8. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật số
33/2013/QH ngày 19 tháng 6 năm 2013 “Luật phòng, chống thiên tai”.
226
CHUYÊN ĐỀ 9
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG CHĂM SÓC HỘ SINH
VÀ THỰC HÀNH CHĂM SÓC DỰA VÀO BẰNG CHỨNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 20 tiết


Số tiết lý thuyết: 08 tiết
Số tiết thực hành: 12 tiết
227
MỤC TIÊU HỌC TẬP:
1. Trình bày được khái niệm chăm sóc SKSS dựa vào bằng chứng
2. Trình bày được vai trò của nghiên cứu khoa học trong chăm sóc hộ sinh.
3. Trình bày được quy trình nghiên cứu khoa học trong chăm sóc hộ sinh

NỘI DUNG
1. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ THỰC HÀNH DỰA VÀO BẰNG
CHỨNG
1.1. Khái niệm CS SKSS dựa vào bằng chứng
Thực hành CS SKSS dựa trên bằng chứng là việc sử dụng có chủ ý, chọn lọc
nền tảng lý thuyết y học, các kết quả nghiên cứu liên quan đến sức khỏe của
con người để hướng dẫn các hành động trong thực hiện quy trình điều dưỡng.
Thực hành CS SKSS dựa vào bằng chứng là một quá trình thu thập, giải
thích, thẩm định và tích hợp các kết quả nghiên cứu có ý nghĩa lâm sàng và
ứng dụng vào trong thực hành CS SKSS. Thực hành CS SKSS dựa vào bằng
chứng là một phương pháp thực hành dựa vào phối hợp kĩ năng lâm sàng với
bằng chứng khoa học nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân. Thực
hành dựa trên bằng chứng đòi hỏi sự tích hợp của chứng cứ tốt nhất từ các
nghiên cứu khoa học với kinh nghiệm lâm sàng vào tình huống cụ thể của
người bệnh.
Thực hành CS SKSS dựa vào bằng chứng là một quá trình liên tục mà bằng
chứng, lý thuyết và kinh nghiệm lâm sàng được đánh giá và xem xét nghiêm
túc, kết hợp với sự tham gia của bệnh nhân, để cung cấp dịch vụ chăm sóc
điều dưỡng tối ưu cho người bệnh.
1.2. Các loại bằng chứng, chứng cớ
Bảng kiểm đánh giá các mức độ của bằng chứng được chi làm 7 mức độ và
mỗi mức độ chia làm 3 loại: Chất lượng cao; chất lượng tốt; và chất lượng
thấp. Cách chia và phân loại mức độ cũng như chất lượng trên mỗi mức độ
dựa vào chất lượng của nghiên cứu, giá trị nội dung, tính khoa học, độ tin
cậy và mức độ cập nhật.
  Bảng kiểm đánh giá các mức độ bằng chứng sử dụng trong thực hành điều
dưỡng
STT Nội dung Mứ Chất Chất Chất
c độ lượng lượng lượng
cao: tốt: thấp

228
1 Bằng chứng từ Cấp Kết quả Kết quả Ít bằng
các nghiên cứu I: nhất hợp lý chứng
đánh giá có hệ quán, phù với kết
thống hoặc phân khái hợp; cỡ quả
tích tổng hợp quát; cỡ mẫu đủ không
các thử nghiệm mẫu đủ cho nhất
đối chứng ngẫu cho thiết thiết kế quán;
nhiên kế nghiên không
2 Bằng chứng từ Cấp nghiên cứu; đủ cỡ
các nghiên cứu II: cứu; một số mẫu cho
thử nghiệm đối trình bày kết quả, thiết kế
chứng ngẫu cân đối; kết luận nghiên
nhiên được thiết kết luận khá dứt cứu; kết
kế tốt dứt khoát; luận
khoát; khuyến không
khuyến nghị thể
3 Bằng chứng từ Cấp nghị nhất hợp lý được rút
các nghiên cứu III: quán dựa phù hợp ra; hoặc
thử nghiệm trên tổng dựa trên đưa ra
kiểm soát được quan tài đánh kết luận
thiết kế tốt liệu, kết giá tài không
không ngẫu quả của liệu khá rõ ràng.
nhiên nghiên toàn
cứu; có diện
tính khoa bao
4 Bằng chứng từ Cấp học. gồm
các nghiên cứu IV: một số
trường hợp hoặc tài liệu
đối chứng tham
khảo có
bằng
chứng
khoa
học.
5 Bằng chứng từ Cấp Tài liệu Tài liệu Tài liệu
các nghiên cứu độ chính chính không
tổng hợp có hệ V: thống thức được
thống về các được công bố công bố
nghiên cứu mô công bố đăng bởi một
tả hoặc định tính bởi một bởi một tổ chức
229
tổ chức tổ chức hoặc cơ
có uy tín; có uy quan
tài liệu tín; chính
tìm kiếm chiến thức;
có hệ lược tìm chiến
thống; kiếm có lược tìm
kết quả hệ kiếm tài
phù hợp thống liệu
với đủ số hợp lý không
lượng và thích xác
nghiên hợp; kết định,
cứu được quả phù xác định
thiết kế hợp, đủ kém,
tốt; đánh số hoặc
giá dựa lượng hạn chế;
trên tiêu nghiên không
chí về cứu đánh giá
sức mạnh được điểm
khoa học thiết kế mạnh và
tổng thể tốt; hạn chế
và chất đánh của các
lượng giá nghiên
của các điểm cứu
nghiên mạnh được
cứu được và hạn đưa
đưa vào chế của vào,
và kết các không
luận dứt nghiên đủ bằng
khoát; cứu chứng
chuyên được với kết
môn rõ đưa vào quả
ràng; tài với kết không
liệu sử luận nhất
dụng khá dứt quán, có
được khoát; thể rút
phát triển chuyên ra kết
hoặc sửa môn rõ luận;
đổi trong ràng; tài không
vòng 5 liệu sử được
năm qua. dụng sửa đổi

230
được trong
phát vòng 5
triển năm qua
hoặc
sửa đổi
trong
vòng 5
năm
qua
6 Bằng chứng từ Cấp Mục đích Mục Mục
một nghiên cứu VI: và mục đích và đích và
mô tả hoặc định tiêu rõ mục mục
tính ràng; kết tiêu rõ tiêu
quả nhất ràng; không
quán trên kết quả rõ ràng
nhiều nội nhất hoặc
dung; kết quán còn
luận dứt cho một thiếu;
khoát; nội kết quả
khuyến dung không
nghị phù duy nhất
hợp với nhất; quán;
tài liệu cải cải thiện
tham thiện chất
khảo có chất lượng
bằng lượng được
chứng hoặc xác định
khoa học phương kém,
pháp phương
đánh pháp
giá đánh giá
được sử tài
dụng; chính
khuyến hoặc
nghị chương
hợp lý trình
phù hợp kém;
với một khuyến
số tài nghị
liệu không
231
tham thể
khảo, có được
bằng thực
chứng hiện
khoa
học
7 Bằng chứng từ ý Cấp Chuyên Chuyên Chuyên
kiến chuyên gia độ môn rõ môn có môn
VII: ràng; đưa vẻ đáng không
ra kết tin cậy; thể nhận
luận dứt rút ra thấy
khoát; kết luận hoặc
cung cấp khá dứt không
cơ sở khoát; rõ ràng;
khoa cung kết luận
học; nhà cấp lập không
quản lý, luận thể
chuyên hợp lý được rút
gia am cho các ra
hiểu ý kiến
trong
lĩnh vực
chăm sóc

1.3. Áp dụng bằng chứng


Tích hợp bằng chứng với kiến thức, kinh nghiệm lâm sàng và các ưu tiên của
người bệnh để áp dụng giải quyết tình huống lâm sàng.
Bước quan trọng tiếp theo trong EBP là ứng dụng các bằng chứng tốt nhất
tìm thấy từ tài liệu, các ưu tiên và giá trị của người bệnh để thực hiện quyết
định hành động ưu tiên. Sau khi thẩm định bằng chứng, cần phải tích hợp nó
với chuyên môn của nhà cung cấp và sở thích của bệnh nhân. Bệnh nhân
được khuyến khích thực hành tự chủ và tham gia vào quá trình ra quyết định.
Do đó, ngay cả khi nghiên cứu có kết quả thành công, bệnh nhân có thể từ
chối điều trị. Kết quả đánh giá và tiền sử bệnh nhân có thể tiết lộ thêm các
chống chỉ định đối với một điều trị dựa trên bằng chứng nhất định. Cuối
cùng, sự sẵn có của các nguồn lực chăm sóc sức khỏe có thể hạn chế việc
thực hiện điều trị ngay cả khi nó được chứng minh là có hiệu quả trong một
nghiên cứu.

232
2. VAI TRÒ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG CHĂM SÓC HỘ
SINH
2.1. Vai trò của nghiên cứu hộ sinh
Nhằm sàng lọc, phát triển và mở rộng kiến thức nghề nghiệp và dựa vào các
bằng chứng tin cậy để cải tiến thực hành trong CS SKSS.
Nghiên cứu trong CS SKSS là môn học về các phương pháp quan sát, can
thiệp, diễn giải những hiện tượng, sự vật và hành vi liên quan tới chăm sóc
SKSS và trình bày kết quả một cách khách quan, chínhxác và hệ thống.
Nghiên cứu trong CS SKSS có tầm quan trọng rất lớn trong nâng cao chất
lượng dịch vụ chăm sóc và phát triển nghề nghiệp, cụ thể là:
Tạo ra kiến thức mới: Một trong những đặc điểm của NCKH nói chung và
NCĐD nói riêng là bao giờ cũng hướng đến cái mới: Kiến thức mới, thay đổi
phương pháp chăm sóc, kỹ thuật chăm sóc, cách tiếp cận người bênh/cộng
đồng… Tất cả những cái mới này đều được mang lại dựa trên những kết quả
nghiên cứu khoa học điều dưỡng, những bằng chứng và phát minh khoa học.
Nâng cao chất lượng và sự an toàn của các dịch vụ chăm sóc: Các kết quả
nghiên cứu điều dưỡng là những bằng chứng giúp cho nhà quản lý điều
dưỡng đưa ra các chính sách, qui định phù hợp nhằm nâng cao chất lượng và
đảm bảo an toàn cho các dịch vụ chăm sóc; giúp cho các điều dưỡng viên
tiến hành các kỹ thuật chăm sóc đúng qui trình, đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Tăng cường giá trị nghề nghiệp:
- Theo quan niệm cũ điều dưỡng, hộ sinh là một nghề phụ thuộc, người điều
dưỡng thực hành chăm sóc theo y lệnh của bác sĩ. Ngày nay trước nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ ngày càng tăng và áp dụng mới các thành tựu khoa học
công nghệ vào y học ngày càng nhiều đòi hỏi người hộ sinh phải nâng cao
tính chuyên nghiệp.
- Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo dịch vụ chăm sóc SKSS do hộ sinhcung
cấp là một trong những trụ cột của hệ thống dịch vụ y tế. Vì vậy người điều
dưỡng cần được khuyến khích làm nghiên cứu để phát triển kiến thức nghề
nghiệp, đồng thời chứng tỏ sự đóng góp của họ sẽ tạo ra sự khác biệt trong
chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Như vậy, nghiên cứu không những góp phần tăng cường uy tín nghề nghiệp
mà còn làm cho xã hội đánh giá đúng mức giá trị của các dịch vụ chăm sóc
và vị thế của người hộ sinh.
Tăng cường hiệu quả chi phí trong lĩnh vực chăm sóc:
- Một chương trình y tế được đánh giá hiệu quả khi nó mang lại nhiều lợi ích
hơn mà chỉ sử dụng một lượng kinh phí nào đó. Việc phân tích chi phí sẽ
233
giúp chúng ta đánh giá được hiệu quả dịch vụ chăm sóc hoặc một chương
trình y tế.
- Hiện nay, do chi phí trả cho dịch vụ y tế ngày càng cao làm cho các nhà
quản lý y tế và người bệnh quan tâm ngày càng nhiều tới chi phí cho các loại
dịch vụ y tế mà họ nhận được. Hơn nữa, hệ thống bệnh viện đang từng bước
chuyển dịch tiến tới tự chủ về tài chính theo chủ trương của Nhà nước, đặt ra
yêu cầu không chỉ đối với người quản lý bệnh viện mà cả thầy thuốc và hộ
sinh cũng phải quan tâm tới vấn đề chi phí. Giảm một đồng chi phí tức là
tăng thêm một đồng đóng góp vào công quỹ của bệnh viện hoặc để hỗ trợ
người nghèo.
- Chính vì vậy mà trong CS SKSS cần phải nghiên cứu, đánh giá hiệu quả chi
phí trong lĩnh vực chăm sóc người bệnh, để các nguồn hạn hẹp của bệnh viện
được sử dụng một cách hiệu quả nhất.
2.2. Các giải pháp nhằm tăng cường nghiên cứu hộ sinh
 - Đào tạo về phương pháp nghiên cứu
Một trong những khó khăn cho hộ sinh viên bắt tay vào làm nghiên cứu là
chưa biết bắt đầu từ đâu và cách tiến hành như thế nào.Do đó muốn khuyến
khích hộ sinh viên làm nghiên cứu cần đào tạo để tạo khả năng nghiên
cứu.Hiện nay,các chương trình đào tạo hộ sinh cao đẳng và đại học đều đã
được bổ sung thêm môn học về nghiên cứu. Ngoài ra,các lớp học ngắn hạn
về phương pháp nghiên cứu do các Sở Y tế và các bệnh viện tổ chức chắc
chắn sẽ không chỉ tạo năng lực nghiên cứu mà còn thúc đẩy điều dưỡng bắt
tay vào làm nghiên cứu.
- Thiết lập bằng chứng vững chắc thông qua chiến lược nghiên cứu khẳng
định. 
Người ta không thể thực hiện một cải tiến về quy trình kỹ thuật hoặc ứng
dụng mới nếu chỉ dựa trên kết luận của một nghiên cứu hay một tác giả.
Vì vậy, thực hiện nghiên cứu khẳng định trên các nhóm người bệnh khác
nhau, trong các cơ sở thực hành khác nhau và vào thời điểm khác nhau là cần
thiết để đảm bảo tính khách quan và khoa học của các kết quả nghiên cứu.
Có thể thực hiện chiến lược nghiên cứu khẳng định nghiên cứu bằng cách các
nhà nghiên cứu cùng phối hợp thực hiện nghiên cứu tại các thời điểm khác
nhau.
- Thực hành dựa vào bằng chứng “Evidense Based Practise”. Hộ sinh viên
được khuyến khích áp dụng những kết quả nghiên cứu vào thực hành hay còn
gọi là thực hành dựa vào bằng chứng.
- Tăng cường phổ biến kết quả nghiên cứu.
Sử dụng rộng rãi các kênh thông tin như: nội san, tại chí chuyên ngành,
234
Internet là phương tiện truyền thông rất có hiệu quả để tăng cường phổ biến
và sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học về hộ sinh ở các bệnh viện, các tỉnh,
cấp quốc gia và quốc tế là các giải pháp quan trọng để phổ biến các kết quả
nghiên cứu và khuyến khích áp dụng các kết quả nghiên cứu vào thực hành.
2.3. Khái niệm nghiên cứu khoa học trong chăm sóc hộ sinh
Nghiên cứu là quá trình thu thập thông tin có hệ thống và phân tích thông tin
để tăng cường sự hiểu biết của chúng ta về hiện tượng/vấn đề được nghiên
cứu. Đây là chức năng của nhà nghiên cứu để đóng góp vào sự hiểu biết về
hiện tượng này và truyền đạt sự hiểu biết đó đến những người khác. Các mục
tiêu chung của nghiên cứu là: (i) Quan sát và Mô tả; (ii) Dự đoán; (iii)xác
định các nguyên nhân; và (iv) Giải thích.
Nghiên cứu là quá trình thu thập, phân tích, diễn giải và trình bày dữ liệu một
cách khách quan, chính xác và hệ thống để trả lời hoặc giải quyết vấn đề
quan tâm.
Nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi nhằm phát hiện qui luật của sự vật, hiện
tượng và/hoặc vận dụng qui luật để tạo dựng nguyên lý công nghệ.
Đặc điểm của nghiên cứu khoa học
- Có tính thông tin và bao giờ cũng hướng tới cái mới.
- Có tính tin cậy cao: lặp lại được những kết quả đúng như đã công bố.
- Có tính giá trị
- Có tính chính xác.
- Có độ tín nhiệm.
- Có tính khái quát. 
Nghiên cứu trong CS SKSS là một bộ phận của nghiên cứu y học.
2.5. Các lĩnh vực nghiên cứu hộ sinh
- Chăm sóc sức khỏe sinh sản tuổi dậy thì-VTN
- Chăm sóc sức khỏe phụ nữ tuổi tiền mãn kinh- mãn kinh
- Chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong khi có thai và thời kỳ cho con bú
- Chăm sóc sức khỏe các bệnh phụ khoa
- Chăm sóc sức khỏe bà mẹ có các bệnh lý kèm theo trong thai kỳ
- Tư vấn các biện pháp tránh thai
- Chăm sóc sau nạo/phá thai
2.6. Các thuật ngữ thường được sử dụng trong nghiên cứu
Đặt vấn đề
235
Tổng quan tài liệu
Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Quần thể, chọn mẫu, cỡ mẫu
Biến số, chỉ số
Thu thập số liệu
Đảm bảo chất lượng số liệu
Quản lý, xử lý số liệu
Phân tích số liệu
Sai số và nhiễu
Đạo đức nghiên cứu
Kết qủa nghiên cứu và bàn luận
3. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG CHĂM SÓC
HỘ SINH
3.1. Quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu bao gồm một loạt các bước cần thiết để thực hiện một
nghiên cứu. Các bước trong quy trình có mối liên hệ chặt chẽ với nhau
3.2. Các bước của quy trình nghiên cứu
- Chọn đề tài, chủ đề
- Xác định câu hỏi, giả thuyết, phương pháp
- Xây dựng đề cương và lập kế hoạch nghiên cứu
- Thu thập dữ liệu, xử lý số liệu
- Viết báo cáo kết quả nghiên cứu

4. CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU


4.1. Chọn lĩnh vực nghiên cứu, chủ đề nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu
Vấn đề/ đề tài nghiên cứu chính là sự vật, hiện tượng (vấn đề) đang tồn tại
quanh chúng ta, đòi hỏi hay có nhu cầu cần phải được giải quyết và có thể
giải quyết được. Vấn đề được coi là vấn đề nghiên cứu khi
- Vấn đề đó là có thật và đang tồn tại.
- Vấn đề đó gây bức xúc cho người bệnh, người nhà, chúng ta hoặc xã hội.
- Có đủ năng lực, vật lực và tài lực để giải quyết vấn đề đó.
236
Trước khi làm nghiên cứu cần bắt đầu với câu hỏi nghiên cứu. Đó là những
câu hỏi cụ thể mà nhà nghiên cứu muốn trả lời cho vấn đề nghiên cứu. Câu
hỏi nghiên cứu chỉ dẫn cho việc thu thập thông tin cho nghiên cứu. Những
câu hỏi nghiên cứu thuộc những vấn đề nghiên cứu cụ thể như dự đoán được
trả lời thông qua việc kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
Trong báo cáo nghiên cứu, đôi khi chúng ta sẽ gặp một sự thuật ngữ khác
như mục đích nghiên cứu, được tổng hợp từ các mục tiêu nghiên cứu. Một
nhà nghiên cứu đôi khi cũng xác định một số mục tiêu nghiên cứu cụ thể.
Một nghiên cứu không thể thực hiện được nếu không lựa chọn được vấn đề
phù hợp. Vấn đề và các câu hỏi nghiên cứu cần phải được viết ra một cách
cẩn thận trước khi bắt tay vào thiết kế nghiên cứu haythực hiện nghiên cứu.
Một vấn đề được coi là vấn đề nghiên cứu khi
- Vấn đề đó là có thật và đang tồn tại.
- Vấn đề đó gây bức xúc cho người bệnh, người nhà, chúng ta hoặc xã hội.
- Có đủ năng lực, vật lực và tài lực để giải quyết vấn đề đó.
Khi vấn đề được tìm hiểu sẽ cung cấp thêm kiến thức hay định hướng cho
những nghiên cứu hay chiến lược can thiệp tiếp theo. Việc trình bày vấn đề
nghiên cứu bao hàm việc xác định bản chất của vấn đề đang được đề cập
trong nghiên cứu, và thường là bối cảnh và ý nghĩa của nó.
- Bản chất của vấn đề là gì?
- Sự chi phối của vấn đề: Ai/cái gì có ảnh hưởng đến ai/cái gì? Khi nào? ảnh
hưởng như thế nào?
- Tầm cỡ của vấn đề: Có rộng không? Có quan trọng không? Hậu quả/hiệu
quả ra sao?
Nhìn chung, việc mô tả vấn đề cần phải đủ rộng để bao gồm các mối quan
tâm trọng tâm, nhưng phạm vi vừa đủ để có thể gợi ý thiết kế nghiên cứu.
4.2. Tham khảo tài liệu khoa học có liên quan
Ý tưởng của vấn đề nghiên cứu xuất hiện từ đâu? Xuất phát điểm đầu tiên
của các chủ đề nghiên cứu chính là những quan tâm của nhà nghiên cứu.
Nghiên cứu là một công trình cần nhiều thời gian, hứng thú và những quan
tâm của nhà nghiên cứu chính là chìa khóa thành công của nghiên cứu.
Trong các báo cáo, nhà nghiên cứu thường không chỉ ra vấn đề nghiên cứu
xuất phát từ đâu, tuy nhiên, có rất nhiều nguồn mà từ đó chúng ta có thể nhận
thấy cảm hứng của nhà nghiên cứu xuất phát từ:

237
- Kinh nghiệm lâm sàng: kinh nghiệm hàng ngày của người điều dưỡng trong
chăm sóc người bệnh chính là nơi bắt đầu của nhiều ý tưởng nghiên cứu.
- Tổng quan nghiên cứu CS SKSS: ý tưởng của các nghiên cứu thường đến
từ các nghiên cứu điều dưỡng. Các nghiên cứu thường gợi ý những vấn đề
gián tiếp thông qua trí tưởng tượng của nhà nghiên cứu hay trực tiếp những
vấn đề mà nhà nghiên cứu thấy cần bổ sung thêm cho nghiên cứu hiện tại
- Vấn đề xã hội: các chủ đề nghiên cứu có thể xuất phát từ các vấn đề xã hội
toàn cầu, hay những vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng. Sự thay đổi
của chủ nghĩa nam nữ bình quyền (feminist) đã đưa ra những câu hỏi về chủ
đề bình đẳng giới và những vấn đề về bạo lực gia đình.
- Học thuyết: những vấn đề nghiên cứu cũng có thể xuất phát từ các học
thuyết của điều dưỡng cũng như học thuyết của các ngành khoa học tương
đương. Nhà nghiên cứu có thể đặt câu hỏi: nếu học thuyết là chính xác thì tôi
có thể dự đoán gì về hành vi, cảm xúc của con người. Các dự đoán đó sau đó
được kiểm nghiệm lại thông qua nghiên cứu.
- Các ý tưởng bên ngoài: các nguồn dữ liệu bên ngoài đôi khi cũng mang đến
ý tưởng nghiên cứu. Ví dụ, ý tưởng nghiên cứu xuất hiện khi nhà nghiên cứu
tìm kiếm các chủ đề mà các tổ chức hỗ trợ kinh phí nghiên cứu ưu tiên hay
qua thảo luận với các điều dưỡng viên.
4.3. Phân tích vấn đề nghiên cứu 
Trả lời các câu hỏi :
- Câu hỏi nghiên cứu là gì ?
- Giả thuyết nghiên cứu là gì ?
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng là phương pháp nào ?
4.4. Lựa chọn các vấn đề nghiên cứu ưu tiên
Không có quy tắc để đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề nghiên cứu. Tuy
nhiên, một số tiêu chí nên được ghi nhớ trong quá trình ra quyết định. Bốn
vấn đề quan trọng nhất là tầm quan trọng, khả năng nghiên cứu, tính khả thi
của vấn đề, và sự quan tâm của nhà nghiên cứu.
- Tầm quan trọng của vấn đề
Một yếu tố quyết định trong việc lựa chọn một vấn đề cần được nghiên cứu
là ý nghĩa của nó đối với điều dưỡng - đặc biệt là đối với thực hành điều
dưỡng. Bằng chứng từ nghiên cứu nên có tiềm năng đóng góp ý nghĩa cho
kiến thức về điều dưỡng. Các nhà nghiên cứu nên đưa ra các loại câu hỏi sau:
Vấn đề có quan trọng không?
Liệu những người bệnh, điều dưỡng, cộng đồng hay xã hội có được lợi ích từ
những bằng chứng sẽ được tạo ra?
238
Các kết quả có dẫn đến các ứng dụng thực tiễn?
Các kết quả nghiên cứu có liên quan học thuyết?
Các kết quả tìm được có củng cố cho các giả định?
Nghiên cứu có hỗ trợ thay đổi thực hành hoặc chính sách điều dưỡng?
Nếu câu trả lời cho tất cả các câu hỏi này là "không", thì vấn đề nên bị loại
bỏ.
- Khả năng nghiên cứu của vấn đề
Không phải tất cả các vấn đề đều có thể được tiến hành nghiên cứu. Các vấn
đề về bản chất đạo đức hoặc đạo đức, mặc dù đáng được quan tâm, nhưng
khó có khả năng nghiên cứu. Ví dụ như: Nếu người bệnh mong muốn được
hỗ trợ để chết theo nguyện vọng, có nên hợp pháp hoá?
Câu trả lời cho một câu hỏi như vậy dựa trên giá trị của con người. Không có
câu trả lời đúng hoặc sai, chỉ có các quan điểm. Vấn đề thích hợp để tranh
luận, chứ không phải để nghiên cứu. Để chắc chắn, có thể hỏi các câu hỏi
liên quan có thể được nghiên cứu.
Những phát hiện từ những giả thuyết này sẽ không ảnh hưởng đến việc liệu
pháp tự sát có hỗ trợ có được hợp pháp hóa hay không, tuy nhiên thông tin có
thể hữu ích trong việc phát triển sự hiểu biết tốt hơn về các vấn đề này.
Trong các nghiên cứu định lượng, các vấn đề nghiên cứu là những vấn đề
liên quan đến các biến có thể được xác định và đo lường chính xác. Ví dụ,
giả sử một nhà nghiên cứu đang cố gắng để xác định những gì tác động trên
người bệnh phục hồi và được xuất viện sớm. Sự phục hồi (well-being) là một
khái niệm tương đối trừu tượng trong nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu sẽ
phải xác định rõ và định nghĩa khái niệm để nó có thể quan sát và đo lường
được. Tức là, nhà nghiên cứu sẽ phải thiết lập các tiêu chí để đánh giá sự
phục hồi của người bệnh.

5. VIẾT BÁO CÁO VÀ TRÌNH BÀY


5.1. Phần đầu của một bài báo cáo khoa học
Tên bài báo (Title)
Tên bài báo phải ngắn gọn, hấp dẫn người đọc. Phải chứa đựng những thông
tin/kết quả thú vị. Ví dụ: “Bú sữa mẹ có tác dụng chống viêm tai”. Cũng có
thể viết tên bài báo dưới dạng câu hỏi ví dụ: “Có phải đệm nước phòng loét
ép tốt hơn đệm hơi?”
Phần tóm tắt (Abstract)

239
Phần này yêu cầu cô đọng, xúc tích (thường ngắn từ 200-250 từ). Nội dung
bao gồm: Mục đích, phương pháp nghiên cứu đã sử dụng, đối tượng, kết quả
chính, những kết luận và đề nghị. Đây là phần đọc giả chú ý nhất và đọc
nhiều nhất do vậy cần đưa những thông tin cần thiết để người đọc hiểu được
nội dung chính của đề tài nghiên cứu.
5.2. Các nội dung chính của một báo cáo khoa học
- Tên bài báo (Title)
- Phần tóm tắt (Abstract)
- Phần đặt vấn đề (Introduction)
- Phương pháp (Methodology)
- Kết quả (Results/findings)
- Bàn luận (Discussion)
- Kết luận và đề nghị (Conclusions and suggestions/ recommendations )
- Lời cảm ơn (Acknowledgment)
- Tài liệu tham khảo (References)

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


1. Trình bày được khái niệm chăm sóc SKSS dựa vào bằng chứng
2. Trình bày được vai trò của nghiên cứu khoa học trong chăm sóc hộ sinh.
3. Trình bày được quy trình nghiên cứu khoa học trong chăm sóc hộ sinh

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bernadette, M.M & Ellen, F.O (2012).Evidence Based Practice in
Nursing & Healthcare. A Guide to best practice. Second edition.
Lippimcott Williams & Wilkins, Philadelphia.
2. Derntl M. (2014), Basics of research paper writing and publishing, Int J
Technology Enhanced Learning, 6(2).
3. Melnyk, B.M. & Fineout-Overholt, E. (2015). Evidence-based practice in
nursing & healthcare: A guide to best practice (3rd ed.). Philadelphia, PA:
Wolters Kluwer Health. ISBN 978-1-4511-9094-6.
4. Melnyk, B.M. (2011). Evidence-based practice in nursing & healthcare: A
guide to best practice. Philadelphia, PA: Lippincott Williams & Wilkins.
pp. 3–7. ISBN 978-1-60547-778-7.
5. Rita H. Pickler, (2019). Nursing Research. Volume 68 - Issue 5,
Philadelphia, PA: Wolters Kluwer Health, DOI:
10.1097/NNR.0000000000000378.

240
6. Scott, K. & McSherry, R. (2009). Evidence Based Nursing: clarifying the
concepts for nurses in practice." Journal of Clinical Nursing; 18(8): 1085-
95.

CHUYÊN ĐỀ 10
GIỚI THIỆU VỀ TÀI CHÍNH Y TẾ
VÀ BẢO HIỂM Y TẾ CỦA VIỆT NAM

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 08 tiết


Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


241
1. Mô tả được một số khái niệm liên quan đến Tài chính Y tế và Bảo hiểm Y tế.
2. Phân tích được nhiệm vụ và chức năng của hệ thống Tài chính Y tế.
3. Trình bày được thực trang các nguồn tài chính cho y tế và một số giải pháp.
4. Mô tả được nguyên lí căn bản và các loại hình Bảo hiểm Y tế.
5. Trình bày được một số quy định của Bảo hiểm Y tế liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ của cơ sở cung cấp dịch vụ y tế.
6. Trình bày được đặc thù, đánh giá thực trạng của Bảo hiểm Y tế.
7. Trình bày được vai trò việc của Điều dưỡng trong quản lí tài chính tại cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế.

NỘI DUNG
1. TÀI CHÍNH Y TẾ
1.1. Một số khái niệm cơ bản về Tài chính Y tế
1.1.1. Khái niệm về Tài chính Y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tài chính Y tế (TCYT) là một chức năng của
hệ thống y tế, thực hiện việc huy động, tập hợp và phân bổ nguồn kinh phí cho nhu cầu
chăm sóc sức khỏe của người dân, cho cá nhân và cộng đồng.
Khái niệm Tài chính Y tế (TCYT, ở nơi này hay nơi khác chưa được thống nhất,
cả ba nội dung tập hợp lại thành TCYT hay mỗi một nội dung nói trên đều có thể được
hiểu là TCYT.
TCYT không chỉ là tạo đủ nguồn kinh phí cho chăm sóc sức khỏe, mà còn là việc
tạo nguồn tài chính sao cho công bằng (ai đóng góp và đóng góp bao nhiêu), và sử
dụng nguồn tiền có được sao cho có hiệu quả nhất. Hơn thế nữa, năm 2007, WHO cho
rằng: “Một hệ thống TCYT tốt huy động đủ tiền để người dân có thể sử dụng dịch vụ y
tế khi cần, và được bảo vệ trước chi phí y tế thảm họa hoặc bảo vệ không bị nghèo hóa
do phải chi trả chi phí y tế. Hệ thống TCYT tốt khuyến khích cung ứng và sử dụng
dịch vụ một cách hiệu quả”.
Dịch vụ y tế thường tiêu tốn rất nhiều tiền, trong khi đó người cần sử dụng dịch
vụ y tế nhiều khi lại không có đủ khả năng về tài chính. Điều này có thể dẫn đến tình
trạng sử dụng này một cách không đầy đủ. Chính vì thế, các chính phủ đều tìm cách
tạo nguồn kinh phí cho ngành y tế thích hợp nhất cho quốc gia của mình trong từng
thời gian cụ thể
1.1.2. Chức năng và luồng của hệ thống Tài chính y tế ở Việt Nam
Về TCYT, tỉ trọng các nguồn tài chính công trong tổng chi tiêu y tế của toàn xã
hội, trong đó có nguồn chi từ ngân sách nhà nước còn thấp; chi trực tiếp (tiền túi của
người dân) còn rất cao, tác động bất lợi tới sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Bảo hiểm y tế (BHYT) có diện bao phủ tương đối hẹp, mức phí bảo hiểm hiện ở mức
thấp. Tỉ lệ bao phủ của người hưởng lương thường xuyên thấp (46%) và số người tham
gia đóng phí bảo hiểm cũng ít so với tổng số người được bảo hiểm (6,2 triệu/36 triệu).
242
Chính sách BHYT tự nguyện được sửa đổi để mở rộng khả năng tham gia của nhân
dân, tăng quyền lợi của người có BHYT tự nguyện, nhưng lại làm nặng thêm các vấn
đề cân đối quỹ BHYT do lựa chọn bất lợi trong số người tham gia. Việc phân bổ ngân
sách dựa trên số giường kế hoạch mà không phải trên nhu cầu thực tế và kết quả hoạt
động của cơ sở. Tỉ lệ phân bổ ngân sách cho dự phòng và chi cho đầu tư phát triển còn
thấp (điểm này đang có hướng khắc phục bằng một số giải pháp được nêu trong Nghị
quyết của Quốc hội mới ban hành nêu ở phần trên), nhiều cơ sở y tế Nhà nước đang
hoạt động trong tình trạng xuống cấp. Phương thức thanh toán (viện phí) không
khuyến khích việc sử dụng hiệu quả nguồn tài chính. Viện phí chưa được tính đúng,
tính đủ với các chi phí cho dịch vụ. Còn thiếu một cơ chế quản lí giá thuốc và sử dụng
thuốc hợp lí.

Đơn vị Đơn vị quản Đơn vị cung


thu phí lí quỹ ứng dịch vụ

Viện trợ Nhà nước Bộ Y tế Bệnh viện/


quốc tế trung đơn vị
ương, Bộ thuộc trung
Y tế ương
Chương
Trợ cấp trình mục Bệnh viện
tiêu tỉnh
Doanh Chính
nghiệp/ quyền địa Sở Y tế Bệnh viện
chủ sử phương/ huyện/
dụng lao Sở Tài Trạm y tế
động chính xã
Các đơn vị
y tế dự
phòng/ đào
BHXH BHXH tạo, v.v.
(BHYT) tỉnh Các cơ sở y
Cá nhân/
hộ gia tế tư nhân
đình/ BHYT tư
người lao nhân
động Nhà thuốc

Chi tiền túi hộ gia đình


(OOP)

Nguồn tài Kết quả


chính đầu ra

Hình 1: Luồng TCYT của Việt Nam


243
Hệ thống TCYT của Việt Nam được chỉ ra ở hình 1 với các ví dụ cụ thể về
những đơn vị, cơ quan trực tiếp tham gia vào hệ thống TCYT.
Hình 1 cũng chỉ ra luồng tài chính chu chuyển từ đơn vị thu phí, đến đơn vị giữ
quỹ và cuối cùng đến đơn vị cung ứng dịch vụ. Ở Việt Nam có 2 nguồn thu lớn cung
cấp tài chính cho y tế, đó là nguồn thu ngân sách của Nhà nước và nguồn thu BHYT
của BHXH Việt Nam.
Tuy nhiên trong thực tế, có những kênh tài chính không tuân theo hoặc bỏ qua
các bước - đó là khi người dân/ hộ gia đình chi trả trực tiếp cho nhà cung ứng khi ốm
đau, có sử dụng và chi trả cho các sản phẩm, dịch vụ y tế. Kênh tài chính này được thể
hiện bằng đường đậm, chỉ luồng tiền từ hộ gia đình trực tiếp đến nhà cung ứng (không
qua đơn vị quản lí quỹ trung gian). Những khoản tiền trả như thế này được gọi là chi
trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình cho y tế (out of pocket payment), bất kể khoản tiền
này được thu bởi nhà cung ứng công (Nhà nước sở hữu) hay nhà cung ứng tư (tư nhân
sở hữu).
Hệ thống TCYT phải thực hiện 3 chức năng cơ bản:
(1)- Huy động nguồn tài chính/thu phí (để có nguồn tài chính đủ lớn và có tính
công bằng). Thu từ nguồn nào, bao nhiêu, thu như thế nào để đảm bảo công bằng và
hiệu suất cao nhất (tốn ít chi phí nhất).
(2)- Tập trung thành quỹ/quản lí quỹ tài chính (quản lí tốt, tránh thất thoát, tạo
được tiếng nói với bên nhà cung ứng, đảm bảo đủ tài chính cho các ưu tiên sức khỏe
của xã hội và chia sẻ rủi ro giữa các thành viên trong cộng đồng).
(3)- Chi trả/ mua dịch vụ hoặc phân bổ cho đơn vị cung ứng (nhằm tạo nên giá trị
sức khỏe cao nhất, thỏa mãn nhu cầu sức khỏe của người dân với chi phí thấp nhất,
giúp người dân, đặc biệt là người nghèo tránh các rủi ro về tài chính).
Cả ba chức năng trên của hệ thống TCYT đều có ý nghĩa quan trọng đối với việc
thực hiện công bằng. Trong TCYT, vấn đề công bằng thường được cân nhắc trong hai
lĩnh vực chính: công bằng trong đóng góp về tài chính cho hệ thống và công bằng
trong hưởng thụ từ hệ thống. Các cơ chế tài chính và các chính sách tài chính khác
nhau sẽ có những tác động khác nhau đến hai lĩnh vực này.
Về nguyên tắc, công bằng trong đóng góp nghĩa là đóng góp tùy theo khả năng
chi trả - người có thu nhập nhiều thì đóng góp nhiều và thu nhập ít, đóng góp ít. Như
vậy, đóng góp cho hệ thống y tế thông qua nộp thuế thu nhập là một đóng góp mang
tính công bằng. Đóng góp phí BHYT xã hội, theo phần trăm nhất định của thu nhập
của người lao động, cũng được coi là công bằng. Những người thu nhập thấp hoặc
không có thu nhập, về danh nghĩa không phải đóng gì cả, hoặc hoàn toàn được bao cấp
bởi ngân sách nhà nước. Việc hưởng thụ không có liên quan đến mức đóng góp -
người hưởng thụ được hưởng theo nhu cầu bệnh tật của mình. Tuy nhiên, điều này phụ
thuộc vào khả năng huy động nguồn lực tài chính qua việc thu thuế và phí bảo hiểm.
Như vậy, hai cơ chế tài chính công - sử dụng nguồn thu thuế của Nhà nước và
nguồn thu của BHYT, được coi là có tính công bằng cao hơn so với cơ chế tài chính

244
do bệnh nhân tự trả trực tiếp. Khi tổng chi phí qua cơ chế tài chính tư này chiếm tỉ lệ
lớn trong tổng chi y tế quốc gia (> 50%), thì hệ thống TCYT đó được coi là rất mất
công bằng.
Chức năng thứ 3 của TCYT - phân bổ nguồn lực/ mua dịch vụ, có ý nghĩa quan
trọng bảo đảm tính công bằng và hiệu quả của hệ thống y tế. Chức năng này thường
được đề cập dưới nhiều tiêu đề khác như phương thức phân bổ ngân sách (trong
trường hợp quỹ ngân sách; phương thức thanh toán/ chi trả/ bồi hoàn chi phí cho bên
cung ứng dịch vụ, cho bệnh viện (trong trường hợp quỹ BHYT). Có nhiều phương
thức thanh toán khác nhau, mỗi phương thức có điểm mạnh, điểm yếu và thường gây
nên những động cơ khác nhau từ nhà cung ứng. Phương thức thanh toán có thể khuyến
khích những động cơ sai, thiên về gây lãng phí, gây lạm dụng, hay có thể khuyến
khích những động cơ đúng, thiên về nâng cao hiệu suất (giảm chi phí) và chất lượng
dịch vụ. Phương thức thanh toán cũng thường quyết định ai là người chịu rủi ro về tài
chính, đó là đơn vị quản lí quỹ, là nhà cung ứng, hay là bệnh nhân.
Dịch vụ y tế thường tiêu tốn rất nhiều tiền, trong khi đó người cần sử dụng dịch
vụ y tế nhiều khi lại không có đủ khả năng về tài chính. Điều này có thể dẫn đến tình
trạng sử dụng dịch vụ này một cách không đầy đủ. Chính vì thế, các chính phủ đều tìm
cách tạo nguồn kinh phí cho Ngành Y tế thích hợp nhất cho quốc gia của mình trong
từng thời gian cụ thể.
Dòng của nguồn tiền chi trả cho chăm sóc sức khoẻ hay cho hệ thống BHYT bao
gồm 3 nội dung:
(1) Nguồn kinh phí để chi trả cho các hoạt động y tế.
(2) Phân bổ kinh phí đã có cho các cơ sở y tế khác nhau của hệ thống y tế.
(3) Việc trả tiền công, tiền lương lao động cho các cá nhân tham gia vào hệ thống
chăm sóc sức khoẻ.
1.1.3. Tổng chi y tế quốc gia
Tổng chi y tế quốc gia là khái niệm và là một chỉ số được dùng khá thường
xuyên trong phân tích TCYT quốc gia và so sánh hệ thống TCYT giữa các quốc gia.
Tổng chi y tế quốc gia thể hiện tổng chi của toàn xã hội huy động được cho y tế. Tổng
chi y tế được tạo nên bởi hai nhóm chi tiêu chính là chi công và chi tư cho y tế.
Tổng chi y tế quốc gia = Chi công cho y tế + Chi tư cho y tế
1.1.4. Chi công cho y tế
Nói theo cách đơn giản nhất, khi một dịch vụ được chi trả thông qua cơ chế tài
chính công (như đã thảo luận ở phần trên) hay từ nguồn vốn vay hoặc viện trợ nước
ngoài nhưng do Nhà nước điều phối, thì khoản chi đó được gọi là chi công.
Chi công = chi trực tiếp từ NSNN + chi quỹ BHYT xã hội
+ chi nguồn ODA
1.1.5. Chi tư cho y tế

245
Các khoản chi do cá nhân, hộ gia đình trả trực tiếp cho nhà cung ứng dịch vụ khi
ốm đau và sử dụng dịch vụ, khi mua thuốc và các vật tư thiết bị liên quan đến sức
khỏe, là chi tư. Với khái niệm như vậy, viện phí và các khoản đồng chi trả (khi khám
chữa bệnh BHYT) do bệnh nhân trả trực tiếp từ tiền túi, dù được thu ở bệnh viện công
hay bệnh viện tư, đều là chi tư. Ngoài ra, chi tư còn bao gồm các khoản chi khác do
doanh nghiệp, do các tổ chức xã hội, từ thiện chi trả, nhưng quy mô thường nhỏ. Chi
từ BHYT tư nhân vì lợi nhuận cũng được tính là chi tư.
Chi tư = chi trực tiếp của hộ gia đình (OOP) + chi bởi doanh nghiệp
(không kể đóng góp của doanh nghiệp cho BHYT xã hội) + chi BHYT tư nhân
Hai khái niệm này không có liên quan gì đến chủ sở hữu đơn vị cung ứng dịch
vụ, cho dù đó là sở hữu Nhà nước (hoạt động phi lợi nhuận) hay tư nhân (vì lợi
nhuận). Trên thực tế, chi công thường được dùng chủ yếu để trả cho đơn vị cung ứng
công, nhưng cũng có thể được trả tại đơn vị cung ứng tư (ví dụ BHYT xã hội thanh
toán cho bệnh viện tư).
Tương tự, chi tư có thể (hoặc phần lớn) được trả tại đơn vị cung ứng công (ví dụ
viện phí thu tại bệnh viện công) hoặc đơn vị cung ứng tư. Trên thế giới, hầu hết các
quốc gia đều có một hệ thống cung ứng dịch vụ công tư hỗn hợp, đồng thời quốc gia
nào cũng có một hệ thống TCYT dựa vào chi công và chi tư, tuy nhiên, về mặt chiến
lược, chính phủ các nước thường có xu hướng nâng tỉ trọng chi công cao lên, bởi chi
công thường công bằng hơn, mang tính chia sẻ hơn. Chi tư, đặc biệt là chi từ tiền túi
của hộ gia đình khi ốm đau, là lí do đẩy gia đình vào hoàn cảnh kinh tế khó khăn và
dẫn đến đói nghèo.
1.1.6. Ngân sách Nhà nước cho y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Ngân sách nhà nước (NSNN) cho y tế là
tổng chi phí mà các cơ quan Nhà nước dùng để mua hàng hóa và dịch vụ y tế, bao gồm
chi tiêu cho y tế của Nhà nước tại tất cả các cấp, của các tổ chức Bảo hiểm Xã hội và
chi tiêu trực tiếp cho y tế của các doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài nguồn kinh phí trong
nước, NSNN cho y tế còn bao gồm cả các nguồn viện trợ và vốn vay thông qua ngân
sách quốc gia. NSNN chi cho y tế và nguồn tài chính của Quỹ BHYT xã hội được coi
là nguồn tài chính công cho y tế.
Cho đến nay, NSNN vẫn là nguồn tài chính chủ yếu cho y tế tại 106 nước trong
tổng số 191 nước thành viên của Tổ chức Y tế thế giới. Nhiều ý kiến cho rằng nguồn
tài chính này là yếu tố quan trọng để đảm bảo tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Bởi vì đây là nguồn tài chính để đảm bảo thực hiện các chức năng chủ yếu của Nhà
nước trong y tế, một lĩnh vực luôn tồn tại các yếu tố thất bại của thị trường liên quan
đến tính chất dịch vụ công cộng (Public goods).
Trong lĩnh vực y tế, hai chức năng chính của Nhà nước là bảo vệ sức khỏe cộng
đồng và đảm bảo công bằng trong y tế. Bảo vệ sức khỏe cộng đồng nghĩa là đảm bảo
cho người dân được thông báo đầy đủ về các nguy cơ sức khỏe, được đảm bảo dịch vụ
y tế có chất lượng và chi trả được và được giúp cách phòng bệnh.

246
Đảm bảo công bằng trong y tế nghĩa là giảm thiểu sự khác biệt trong sử dụng
dịch vụ y tế cơ bản và trong chỉ số sức khỏe giữa các vùng và các nhóm dân cư; tạo ra
các cơ chế để chia sẻ gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe giữa người giàu và người
nghèo, giữa người khỏe và người ốm. Các chương trình, hoạt động nhằm thực hiện hai
chức năng cơ bản đó cần được đảm bảo đủ nguồn tài chính, chủ yếu từ NSNN, được
phân thành 2 loại.
(1)- Phân loại theo nội dung, tính chất hoạt động:
- Ngân sách khoản mục.
- Ngân sách chương trình hoặc ngân sách hoạt động.
(2)- Phân loại theo cấp độ hành chính:
- Ngân sách Trung ương.
- Ngân sách các địa phương.
- Ngân sách các bộ, ngành.
NSNN vẫn được bố trí theo các nhiệm vụ chi thường xuyên: chi cho khám chữa
bệnh (KCB), Y tế Dự phòng (YTDP), cải cách tiền lương, chi bổ sung, sửa đổi chế độ
phụ cấp đặc thù và chế độ phụ cấp chống dịch, kinh phí thực hiện Chương trình Mục
tiêu quốc gia (CTMTQG), chi mua BHYT cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và đối
tượng hỗ trợ khác theo Luật Bảo hiểm Y tế.
Tỉ lệ chi cho YTDP và nâng cao sức khỏe tăng lên qua các năm do chi địa
phương tăng mạnh, đến năm 2011 chi cho YTDP chiếm 69,8% tổng NSNN chi cho y
tế. Một số dự án đang được xây dựng để tiếp tục dành kinh phí NSNN cho các hoạt
động ưu tiên trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế tuyến huyện, xã. Nhiều
địa phương lấy kinh phí từ NSNN địa phương để hỗ trợ mua thẻ BHYT cho người cận
nghèo, người mới thoát nghèo. Kinh phí giao cho mua thẻ BHYT cho các đối tượng
yếm thế tăng lên các năm.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT đã được Quốc hội thông qua
ngày 13/6/2014; Bộ Y tế đã ban hành một số thông tư hướng dẫn thực hiện Luật
BHYT sửa đổi. Tỉ lệ bao phủ BHYT đạt 69,5% dân số.
Khó khăn về kinh tế vĩ mô làm giảm tốc độ tăng chi thường xuyên từ NSNN cho
y tế. Một số hoạt động quản lí Nhà nước về y tế như thanh tra, kiểm tra, thống kê
thông tin y tế, hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe, can thiệp phòng, chống bệnh
không lây nhiễm tại cộng đồng thiếu kinh phí để thực hiện. Tỉ lệ chi tiền túi của hộ gia
đình tăng lên mức 49% năm 2012 trong khi chi công cho y tế giảm còn 42,6%, chưa
đạt mục tiêu 50%.
Một số địa phương chưa bố trí đủ chi sự nghiệp y tế theo định mức của Bộ Tài
chính. Các CTMTQG bị cắt giảm kinh phí, gây khó khăn cho hoạt động các chương
trình, dự án, đặc biệt các dự án phòng, chống bệnh không lây nhiễm…, chủ yếu do
nguồn NSNN hạn hẹp.

247
Ưu tiên phân bổ NSNN cho Y tế Dự phòng, y tế cơ sở, CSSKBĐ, thực hiện
chính sách xã hội về y tế.
- Bảo đảm nguồn tài chính cho dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm một
cách bền vững:Sử dụng các bằng chứng về gánh nặng bệnh tật và gánh nặng kinh tế
của bệnh không lây nhiễm để thuyết phục phân bổ nguồn kinh phí đáp ứng nhu cầu
phòng chống bệnh không lây nhiễm. Bổ sung kinh phí cho hoạt động phòng chống
bệnh không lây nhiễm từ các nguồn NSNN, BHYT và Quỹ phòng chống tác hại thuốc
lá/rượu bia.
- Nâng cao hiệu quả chi phí bằng việc lồng ghép thực hiện các chương trình mục
tiêu phòng chống bệnh lây nhiễm và bệnh không lây nhiễm, tiến tới xây dựng hệ thống
chăm sóc sức khoẻ lồng ghép. Xác định gói dịch vụ cơ bản phòng chống không lây
nhiễm dựa trên bằng chứng về chi phí hiệu quả.
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu cung cấp bằng chứng chi phí hiệu quả đối
với bệnh không lây nhiễm.
1.2. Thực trạng Tài chính Y tế, các nguồn Tài chính Y tế Việt Nam
1.2.1. Mục tiêu của hệ thống Tài chính Y tế
TCYT là một trong những bộ phận chính cấu thành hệ thống y tế quốc gia. Hệ
thống TCYT huy động và phân bổ kinh phí trong hệ thống y tế để đáp ứng nhu cầu về
chăm sóc sức khỏe hiện tại của người dân (cá nhân và tập thể) bao gồm cả nhu cầu
chăm sóc sức khỏe trong tương lai. 
Điều cốt yếu đối với các quốc gia là phải xây dựng được hệ thống TCYT có thể
đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng khi cần, đồng
thời bảo vệ họ tránh được những khó khăn về tài chính do bệnh tật gây ra. Đó là đảm
bảo công bằng, tránh sập “Bẫy nghèo đói do bênh tật” và “Chi phí thảm họa”
(1)- Bất công bằng y tế, sức khỏe: Bất công bằng về y tế, sức khỏe giữa các
nhóm người dân giữa các vùng của đất nước, và giữa các nhóm thu nhập đang ngày
càng tăng trong những năm gần đây. Tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, tỉ lệ tử vong ở trẻ
dưới 1 tuổi (IMR), tỉ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi (U5MR), và tỉ lệ tử vong mẹ (MMR)
vẫn còn cao ở các vùng nghèo, miền núi, và vùng sâu vùng xa.
Đổi mới đổi mới hệ thống y tế có thể được hiểu như là: “Sự thay đổi có mục đích
và được duy trì để nâng cao hiệu suất, công bằng và hiệu quả của hệ thống y tế”.
Chính phủ và các tổ chức quốc tế đang nhận ra rằng hệ thống y tế công bằng
đóng vai trò quan trọng để đạt được các mục tiêu về sức khỏe liên quan đến mục tiêu
phát triển thiên niên kỉ và để đạt được mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Ở Việt Nam, đổi mới hệ thống y tế theo hướng công bằng được xác định là một
định hướng lớn của hệ thống y Kế hoạch 5 năm của ngành y tế về chăm sóc, bảo vệ và
nâng cao sức khỏe người dân giai đoạn 2011 - 2015 cũng đã xác định mục tiêu: “Tiếp
tục phát triển một hệ thống chăm sóc y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát
triển, nâng cao chất lượng chăm sóc, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người
dân ngày càng tăng và đa dạng”.
248
Bình đẳng (Equality) và bất bình đẳng (Inequality) đề cập đến sự khác biệt. Bất
bình đẳng sức khỏe y tế, sức khỏe là thuật ngữ dùng để chỉ ra sự khác biệt về một chỉ
số y tế, sức khỏe nào đó giữa các cá nhân hoặc các nhóm kinh tế-xã hội trong xã hội.
Bất công bằng y tế, sức khỏe (Inequity) đề cập đến sự bất bình đẳng được cho là do có
sự bất công nào đó hoặc “những khác biệt về các chỉ số y tế, sức khỏe giữa nhóm dân
số yếu thế so với nhóm dân số có lợi thế hơn trong xã hội và sự khác biệt này có thể
phòng tránh được” .
Ví dụ:
Sự bất bình đẳng y tế, sức khỏe là tỉ lệ mắc bệnh ở những người lớn tuổi thường
cao hơn so với những người trong độ tuổi từ 25-34 tuổi. Điều này là không thể tránh
khỏi (do nguồn gốc sinh học) và không hàm ý bất công bằng. Tuy nhiên, nếu tỉ lệ mắc
bệnh ở những người cao tuổi nghèo cao hơn so với những người cao tuổi không nghèo
thì đây chính là sự bất bình đẳng có thể phòng tránh được hay là bất công bằng (bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố kinh tế - xã hội…). Sự khác biệt giữa sự bất bình đẳng và bất
công bằng về y tế được minh họa trong hình 2.

Có thể phòng tránh được,


Không phòng tránh được
và không thể giải thích
Có thể giải thích được
được = bất công bằng

Hình 2: Bất bình đẳng và bất công bằng y tế, sức khỏe
Công bằng y tế, sức khỏe bao gồm công bằng theo chiều ngang và công bằng
theo chiều dọc.
(2)- “Bẫy nghèo đói do bênh tật”: nghèo đói và bệnh tật có mối quan hệ hai chiều
rất chặt chẽ, bệnh tật dẫn đến nghèo đói và ngược lại, nghèo đói dẫn tới bệnh tật.
Bệnh tật dẫn tới nghèo đói: về cơ bản, ốm đau, bệnh tật gây nghèo đói bởi hai lí
do: một là giảm năng suất lao động, giảm thu nhập của hộ gia đình; hai là tăng chi tiêu
hộ gia đình cho khám chữa bệnh.
Nghèo đói dẫn tới bệnh tật: Người nghèo dinh dưỡng kém, sức đề kháng kém,
nhà ở chật chội, ẩm thấp, làm việc trong môi trường độc hại, thiếu vệ sinh, thiếu các
điều kiện đảm bảo an toàn, ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế dự phòng và
điều trị, ít đi khám bệnh và thường đến bệnh viện khi bệnh đã nặng, đây là những lí do
dẫn tới tình trạng dễ ốm đau, bệnh tật của người nghèo.
249
Bẫy đói nghèo: Trong những trường hợp bị ốm nặng và cần có chăm sóc của y tế
khẩn cấp, hầu hết mọi người đều cố gắng hết khả năng để tìm đủ kinh phí chi trả cho
những dịch vụ này thậm chí là họ phải bán cả các tư liệu sản xuất, cho con cái thôi học
hoặc đi vay nặng lãi. Hậu quả là, nhiều bệnh nhân nghèo cố gắng chi trả cho các chi
phí y tế đã trở lên nghèo đói hơn, còn những bệnh nhân thuộc nhóm những người vừa
thoát nghèo và những người thuộc nhóm cận nghèo thì sẽ rơi vào tình trạng nghèo đói.
Việc tăng lên của chi tiêu bằng tiền túi đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tư
nhân và công đã làm cho rất nhiều gia đình rơi vào cảnh nghèo đói và làm cho những
người vốn đã nghèo càng trở nên nghèo hơn. Mức độ của tình trạng này - được biết
đến với cái tên là “Bẫy nghèo đói”.

Giả m sứ c - Giả m thu nhập


- Giả m chi tiêu
lao động
- Bá n sản phẩ m LĐ
Tă ng chi tiêu
- Bá n tà i sả n
cho KCB
- Bán công cụ SX

Nghèo
ố m đau, bệnh tậ t
đó i

Dinh dưỡ ng kém, sứ c đề khá ng kém,


điều kiện lao độ ng vấ t vả …

Hình 3: Mối liên quan giữa sức khoẻ kém và đói nghèo
Nguồn: MOH-Vietnam Health Report, 2002
Chúng ta có thể làm gì để tránh bẫy nghèo đói? Kết quả thực tế của các cuộc cải
cách theo hướng thị trường trước đây và hiện nay thường trái ngược với các mục tiêu
đã đề ra, đó là khả năng tiếp cận về mặt kinh tế của người nghèo bị suy giảm và tổng
chi phí tăng lên. Khoảng cách giữa mục tiêu và kết quả đã cho thấy việc thiếu và sự
cần thiết phải có cơ sở thực tế vững chắc hơn cho việc hoạch định chính sách trong
lĩnh vực y tế. Rõ ràng cần thiết phải có các nghiên cứu chính sách để đánh giá độ chắc
chắn của những giả định cho cải cách theo định hướng thị trường, và những lựa chọn,
và trở ngại đối với sự phát triển của hệ thống chăm sóc sức khỏe công bằng và hiệu
quả.
Cách tiếp cận dựa trên bằng chứng để đảm bảo cải cách lĩnh vực y tế theo hướng
công bằng và hiệu quả là đã được triển khai quá chậm và đòi hỏi các nhà hoạch định
chính sách tập trung nỗ lực vào nhiều mặt. Nghiên cứu cộng đồng có một vai trò quan
trọng trong việc phân tách lí thuyết và thực tế, và làm rõ những giá trị cơ bản của

250
chính sách đề xuất. Những người làm công tác nghiên cứu y tế nên mở rộng đối tượng
nghiên cứu bao gồm mối quan hệ với chiến lược xoá đói giảm nghèo và ngược lại.

CÁC ĐẶC TRƯNG


CỦA NGƯỜI NGHÈO
- Thiếu dịch vụ, vệ sinh không
đảm bảo, các phong tục tập
quán lạc hậu...
Nguyên nhân:
- Thiếu thu nhập và kiến thức.
- Nạn nghèo đói trong cộng
đồng.
CÁC KẾT
- Các chuẩn mực xã hội, các QUẢ SỨC
thể chế và cơ cấu an sinh xã KHỎE YẾU
hội kém, môi trường bất lợi. KÉM:
- Cung cấp dịch vụ y tế chưa - Bệnh tật. THU
tốt, không thể sử dụng các NHẬP
dịch vụ, thiếu các đầu vào - Suy dinh GIẢM
quan trọng, dịch vụ không phù dưỡng.
-Mất thu
hợp và chất lượng thấp. - Tỷ lệ sinh nhập.
-Không thể tham gia hệ thống cao.
-Các chi
TCYT, bảo hiểm và số tiền tự - Nguy cơ bị phí chữa
thanh toán bị hạn chế. đau ốm nghiêm bệnh
trọng cao hơn

251

Hình 4: Mối liên hệ giữa sức khoẻ và nghèo đói


Trên tất cả, sự thay đổi là cần thiết nhằm nhấn mạnh hơn đến tính công bằng khi
đánh giá tác động lên y tế và sức khỏe của các gia đình của bất kỳ những thay đổi
chính sách nào. Đặc biệt là những thay đổi cần phải được xem xét đối với những người
nghèo - bộ phận dân cư dễ bị tổn thương hơn trong xã hội - để đảm bảo rằng những
nhóm người này được chứ không mất trong công cuộc cải cách chính sách y tế mang
tính toàn cầu.
Nghèo đói - bệnh tật, công bằng và phát triển là vấn đề mang tính toàn cầu. Đó là
vấn nạn của các nước đang phát triển, mục tiêu xoá đói, giảm nghèo là một trong
những mục tiêu quan trọng của phát triển bền vững.
Số tiền tự chi trả cho khám chữa bệnh, cho các dịch vụ y tế, đặc biệt khi nằm
điều trị nội trú có thể làm cho các gia đình lâm vào cảnh nghèo khó.

Trách nhiệm giải trình xã hội


Chất lượng kĩ thuật

Tính kịp thời và liên tục


Tính hợp lí của các dịch vụ

Chất lượng tổ chức thực hiện

Tính sẵn có về nguồn lực vật chất

Tính sẵn có về nhân lực


Khả năng tiếp cận về mặt vật chất

Sự gia tăng nhân khẩu trong các gia đình chia nhỏ nguồn lực ít ỏi của các gia
Hình
đình nghèo, dẫn đến5:thiếu
Tá m bướ
dinhcdưỡng,
để tiếp dẫn
cậ n hiệu quả kiệt
đến suy tớ i ngườ i nghèo
và bệnh tật.
Các nhóm nước nghèo và người nghèo phải chịu nhiều hình thái khác nhau của
sự tước đoạt các quyền cơ bản, đặc biệt quyền được chăm sóc y tế khi ốm đau.
Điều kiện sống: thiếu nước sạch, ô nhiễm môi trường, không có thể tiếp cận các
dịch vụ dự phòng...
Tất cả những yếu tố bất lợi đó làm cho người nghèo dễ mắc bệnh hơn và khi mắc
bệnh có khó khăn hơn trong việc chữa trị trên cả phương diện kĩ thuật và kinh tế.

252
Tóm lại, người nghèo bị buộc chặt trong một vòng luẩn quẩn, sự nghèo đói của
họ sinh ra bệnh tật, sau đó bệnh tật lại góp phần làm họ nghèo đói thêm (Hình 4).
Bằng cách sử dụng khuôn khổ phân tích (Hình 5), trong đó có chương trình y tế
(Clacson, et. al 2001), khuôn khổ này kết nối tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến mục tiêu
về nghèo đói liên quan đến y tế. Qua khuôn khổ này xem xét đến các mục tiêu liên
quan đến y tế, các cản trở đối với hộ gia đình và cộng đồng, phân tích về dịch vụ y tế
và hệ thống y tế, các chính sách về y tế.
Để đánh giá mức độ của chiến lược quốc gia về xoá đói giảm nghèo giải quyết
các vướng mắc đối với việc cung cấp tốt hơn các dịch vụ cho người nghèo, người ta
đánh giá quy mô các chỉ số hoạt động, được phân tích thành từng nấc tùy theo mức độ
đóng góp vào kết quả và hiệu quả chung của lĩnh vực y tế trong việc tiếp cận đến
người nghèo (Hình 5) dựa theo Clacson et. al 2001.
(3)- Chi phí thảm họa và nghèo hóa do chi phí cho y tế:
“Chi phí thảm họa”: Chi tiêu thảm họa cho y tế (Catastrophic payments): chi phí
cho chăm sóc sức khỏe ở những nước có thu nhập thấp vẫn được thể hiện qua việc chi
trả tiền túi và thiếu cơ chế chi trả trước như thuế và bảo hiểm y tế. Khi thành viên của
hộ gia đình bị ốm đau, việc chi trả bằng tiền túi cho chăm sóc y tế sẽ ảnh hưởng tới
mức sống của hộ gia đình nếu những chi phí này chiếm một phần lớn trong nguồn chi
thường xuyên.
WHO định nghĩa chi tiêu cho y tế được gọi là thảm họa khi tổng số chi trực tiếp
cho y tế của hộ gia đình (thường là 1 năm) lớn hơn hoặc bằng 40% chi tiêu phi lương
thực, thực phẩm hoặc dưới 10% tổng chi cho tiêu dùng của hộ gia đình.
Nghèo hóa do chi phí y tế: một hộ gia đình không nghèo bị trở thành hộ nghèo
sau khi chi trả các chi phí dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Chi phí thảm họa và nghèo hóa do chi phí y tế là các chỉ số phản ánh mức độ bảo
vệ rủi ro tài chính, cho thấy phần trăm dân số có nguy cơ phải đối mặt với khó khăn tài
chính do các chi phí y tế phát sinh, cũng như mức độ của sự khó khăn đó. Hai chỉ số
này được sử dụng để đo lường phạm vi bảo hiểm tài chính hoặc bảo hiểm chi phí hay
mức độ bao phủ của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Các nhóm dân số được thực hiện
so sánh bao gồm: hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi; Hộ gia đình có người già; Dân tộc;
Tình trạng kinh tế (phân theo 5 nhóm tiêu dùng); Nơi cư trú (nông thôn và thành thị).
1.2.2. Cơ chế Tài chính Y tế
Trong chi công, có hai cơ chế tài chính cơ bản:
(1)- NSNN bao cấp trực tiếp cho đơn vị cung ứng dịch vụ;
(2)- Chi cho y tế thông qua cơ chế BHYT.
Chi NSNN được lấy từ nguồn thu của Nhà nước, mà chủ yếu là từ nguồn thu từ
thuế, trong khi đó, nguồn thu của BHYT chủ yếu dựa vào đóng góp của người lao
động và chủ sử dụng lao động trên cơ sở thu nhập của người lao động. Nguồn ngân
sách thường được lập kế hoạch hằng năm, trải qua quá trình xét duyệt và được cấp trực

253
tiếp cho đơn vị cung ứng dịch vụ thông qua BYT (đối với các bệnh viện và đơn vị trực
thuộc trung ương) hoặc Sở Y tế, Sở Tài chính đối với các đơn vị cung ứng trực thuộc
tỉnh. Như vậy Ngân sách Y tế trung ương cấp cho y tế tuyến trung ương và ngân sách
địa phương cấp cho y tế địa phương (tuyến tỉnh trở xuống). Đối với những tỉnh nghèo,
Nhà nước có các khoản điều tiết/ trợ cấp chuyển từ ngân sách trung ương cho tỉnh để
trang trải chi phí của các tỉnh. Hiện tại phần lớn kinh phí đầu tư cơ bản và một phần
kinh phí chi thường xuyên, đặc biệt là chi lương cho cán bộ nhân viên y tế của hệ
thống cung ứng công, đều đang được bao cấp từ NSNN. Bên cạnh đó nguồn thu được
từ BHYT do cơ quan BHXH - một cơ quan Nhà nước độc lập quản lí quỹ và thanh
toán cho đơn vị cung ứng cho những dịch vụ được sử dụng bởi người có bảo hiểm.
Từ 2005, với chính sách trợ giúp người nghèo tham gia BHYT, và gần đây là
chính sách cho trẻ em dưới 6 tuổi, một nguồn tiền ngân sách đang được chuyển hàng
năm sang cơ quan BHXH như một khoản đóng góp phí BHYT thay cho người nghèo
và trẻ em. Với cơ chế tương tự, Nhà nước cũng đang bao cấp phí BHYT cho một số
nhóm dân cư khác như những người có công với cách mạng, người đang hưởng trợ
cấp xã hội, v.v. Như vậy, nguồn thu của BHXH bao gồm phần đóng góp của khối lao
động chính quy (do doanh nghiệp và người lao động đóng) và phần bao cấp từ ngân
sách. Nhà nước Việt Nam cũng đang bàn đến việc bao cấp tương tự cho khối dân số
cận nghèo. Đây là xu hướng đang diễn ra không chỉ ở Việt Nam mà còn ở một số nước
đang phát triển khác, những nước đang muốn thiết lập và phát triển cơ chế tài chính
thông qua BHYT. Những nước này đều ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, khối lao
động chính quy nhỏ trong khi khối dân số thu nhập thấp và dễ tổn thương lớn. Cùng
với phát triển kinh tế, khối lao động chính quy sẽ lớn lên, số người lao động đóng góp
và sử dụng dịch vụ y tế thông qua cơ chế BHYT sẽ tăng lên, việc này sẽ dẫn đến các
chi phí trực tiếp từ tiền túi cho các dịch vụ y tế sẽ giảm đi. Tuy nhiên việc dự đoán này
dựa trên các giả thiết là Nhà nước sẽ có những chính sách và chế tài đồng bộ để củng
cố hệ thống đăng ký, thu phí và quản lí, sử dụng hiệu quả quỹ BHYT.
Hai cơ chế tài chính mô tả ở trên thường được nhắc đến là những cơ chế chi trả
trước, nghĩa là trả khi chưa ốm và được biết trước. Đây là những điểm chính để phân
biệt với một cơ chế chi trả nữa - chi trả trực tiếp từ tiền túi của hộ gia đình (OOP).
Những chi trả này được trả khi hộ gia đình có người ốm và sử dụng dịch vụ y tế. Chi
trả trực tiếp từ hộ gia đình là một bộ phận của chi tư. Ngoài ra chi tư còn bao gồm chi
từ BHYT tư và các chi tư khác (ví dụ chi từ các tổ chức từ thiện, hảo tâm).
1.2.3. Các nguồn Tài chính Y tế
Có bốn nguồn chính: chi trả trực tiếp, BHYT tư nhân, BHYT xã hội và thuế.
(1)- Chi trả trực tiếp bao gồm các chi trả mà người sử dụng phải lấy tiền túi của
mình để mua dịch vụ y tế. Người sử dụng có thể phải chi trả toàn bộ chi phí phải trả
hay đồng chi trả với BHYT. Các chi trả này xảy ra ngay khi sử dụng dịch vụ. Ví dụ:
một bệnh nhân nội trú khi ra viện, nếu không có BHYT sẽ phải trả toàn bộ phí khám,
chữa bệnh (KCB), nếu có BHYT sẽ chi trả một tỉ lệ nào đó, hoặc chi trả thêm những
phần thuốc không có trong danh mục của BHYT. Phần này sẽ được phân tích kĩ trong
bài viện phí.
254
(2)- BHYT tư nhân: người sử dụng dịch vụ y tế mua BHYT tư nhân theo mệnh
giá nhất định. Mệnh giá - được quyết định tuỳ theo nguy cơ mắc bệnh của người mua
bảo hiểm. Với mệnh giá này họ sẽ được cung cấp gói dịch vụ như đã thoả thuận với
công ty BHYT tư nhân. Công ty bảo hiểm tư nhân là loại công ty hoạt động có lợi
nhuận.
(3)- Bảo hiểm Xã hội (BHYT xã hội): mọi người đều đóng BHYT xã hội dựa
trên thu nhập, không kể người đó có sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ hay không.
BHYT xã hội cũng có thể được trích ra thuế.

45,000,000
40,000,000 Nông dân có mức
sống TB
35,000,000
HSSV
30,000,000
TE dưới 6t
25,000,000
Người nghèo và
20,000,000 DTTS
15,000,000 Cận nghèo
10,000,000
5,000,000
-
2010 2011 2012 2013 2014 2015

Hình 6: NSNN hỗ trợ mua BHYT cho các đối tượng (Triệu đồng)
(Nguồn Vụ KHTC, Bộ Y tế 2014)
(4)- Thuế: Có thể dưới hai hình thức:
- Trực tiếp: theo thu nhập, thông thường mức đóng thuế trực tiếp này theo luỹ
tiến, tức là thu nhập càng cao thì tỉ lệ thuế phải đóng càng nhiều.
- Gián tiếp: theo mức tiêu thụ. (Thuế VAT: Value Added Tax).
Trên bình diện quốc tế, về mặt lí thuyết có 4 nguồn TCYT chính đã được đề cập
ở phần trên, tuy nhiên ở Việt Nam hiên nay chia ra:
(1)- Tài chính công bao gồm: NSNN; BHYT; Viện trợ
(2)- Tài chính tư: chi từ tiền túi người dân và chi tư khác.
Trong bối cảnh các nguồn viện trợ cho Việt Nam có xu hướng bị cắt giảm,
Ngành Y tế vẫn tăng cường huy động các nguồn viện trợ.
Cùng với việc đảm bảo tăng chi NSNN cho y tế, mở rộng BHYT và huy động
các nguồn hỗ trợ của quốc tế, tổng chi công cho y tế, được tạo thành từ 3 nguồn chủ
yếu nói trên, đã có sự gia tăng đáng kể trong thời gian qua.
Việc thực hiện chính sách xã hội về y tế được cụ thể hóa bằng việc đảm bảo
NSNN hỗ trợ trực tiếp cho một số nhóm đối tượng yếm thế. Hàng năm, kinh phí từ
ngân sách trung ương cấp hỗ trợ mua thẻ BHYT cho người nghèo, người dân tộc thiểu
255
số và TE dưới 6 tuổi và hỗ trợ một phần cho người cận nghèo, học sinh sinh viên và
người thuộc hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệm có mức sống trung bình được xác định
ngay trong Dự toán NSNN cấp hàng năm. Tổng kinh phí từ NSNN để hỗ trợ mua
BHYT cho các đối tượng này tăng lên qua các năm (Hình 6).
1.3. Tự chủ về tài chính của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
1.3.1. Tự chủ về tài chính của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trên thế giới
Quá trình tự chủ, trong đó có tự chủ tài chính (TCTC) được thực hiện ở nhiều
nước trên thế giới cùng với xu hướng đổi mới quản lí khu vực công diễn ra vào đầu
những năm 80 của thế kỷ trước. Khái niệm này ngày càng được xác định rõ hơn, tuy
nhiên vẫn chưa có sự thống nhất. Theo World Bank, tự chủ hóa và doanh nghiệp hóa
là những cải cách đem lại cho các cơ quan cung ứng dịch vụ công có quyền tự chủ
nhiều hơn và dựa vào những khuyến khích của thị trường hoặc “tương tự thị trường”
để thúc đẩy việc cải thiện kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Từ kinh nghiệm cải cách y tế của các nước, World Bank đã tổng kết đánh giá và
nhận định rằng chính phủ các nước trao quyền tự chủ cho các cơ sở cung cấp dịch vụ
KCB (cơ sở cung cấp dịch vụ y tế) là hướng đi đúng và có hiệu quả khi hệ thống y tế
các nước đạt được các yêu cầu sau:
- Các nước đã thực hiện được BHYT toàn dân hoặc ít ra cơ quan BHYT phải đủ
mạnh để kiểm soát được chất lượng và chi phí KCB của bên cung cấp dịch vụ.
- Cơ quan quản lí đã xây dựng được các quy trình lâm sàng hoặc các hướng dẫn
điều trị. Các hướng dẫn điều trị có khả năng giúp cải tiến chất lượng dịch vụ và giảm
chi phí bằng cách hạn chế các dịch vụ không cần thiết.
Trường hợp các nước trao quyền tự chủ khi đã áp dụng phương thức thanh toán
theo trường hợp bệnh (DRG) cho bên cung cấp dịch vụ cũng góp phần kiểm soát được
chi phí khám chữa bệnh. Phương thức chi trả theo DRG là phương thức chi trả mà mỗi
bệnh nhân cùng một chẩn đoán sẽ thanh toán chi phí điều trị ở mức như nhau. Thanh
toán theo trường hợp bệnh (DRG) sẽ yêu cầu bên cung cấp dịch vụ phải phấn đấu cắt
giảm các chi phí không cần thiết để giảm chi phí điều trị. Bên cạnh mặt tích cực, DRG
cũng có một số hạn chế đó là các DRG tạo ra động cơ cho những người cung cấp dịch
vụ cho bệnh nhân xuất viện sớm; giảm chất lượng dịch vụ và lựa chọn bệnh nhân nào
đem lại nhiều lợi nhuận hơn (các trường hợp bệnh dễ trong mỗi DRG). DRG cũng có
thể tạo ra tình trạng gian lận như “khai tăng” mã nhằm hưởng chi phí cao hơn có lợi
cho bên cung cấp dịch vụ. Có nhiều giải pháp để giải quyết các hạn chế trên của DRG
như: Có thể đưa ra các quy định cho những trường hợp nằm ngoài hệ thống (những
trường hợp tốn kém một cách bất thường) để tránh trường hợp người cung cấp dịch vụ
cố tình giảm chất lượng dịch vụ trong các trường hợp bệnh điều trị tốn kém; xây dựng
các quy trình lâm sàng; bên chi trả tăng cường giám sát phát hiện việc “khai tăng” mã
của người cung cấp và áp dụng nhiều hình phạt khác nhau; kết hợp phương thức thanh
toán theo DRG với các phương thức chi trả khác, một biện pháp chi trả bổ xung đang
được nghiên cứu ở Mỹ là thưởng cho các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế bằng cách chi trả
thêm nếu cơ sở cung cấp dịch vụ y tế đạt điểm cao về các chỉ số chất lượng gọi là chi
256
trả theo hiệu quả hoạt động P4P (pay for performance) để khuyến khích nâng cao chất
lượng dịch vụ.
Mục đích giao quyền tự chủ cho các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ và giảm chi phí giảm chi phí. Giao quyền quyết định số giường
bệnh, nguồn nhân lực…là những tiến triển quan trọng và thiết yếu để tăng cường sự
linh hoạt vốn rất cần thiết cho cơ sở cung cấp dịch vụ y tế. Tuy nhiên nếu các cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế được quyền tự chủ quá lớn như quyết định lâm sàng, xác định
giá thuốc, giá thu dịch vụ... trong khi chưa có đầy đủ các điều kiện trên thì chi phí vẫn
tiếp tục leo thang và chất lượng dịch vụ KCB vẫn khó kiểm soát. Chưa có hướng dẫn
điều trị sẽ không có cơ sở bảo đảm kiểm soát chất lượng đáng tin cậy cho các dịch vụ
khám chữa bệnh. Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế có thể tự quyết định điều trị cho
bệnh nhân theo cách họ muốn. Phương thức thanh toán theo phí dịch vụ không có tác
dụng bắt buộc các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế phải tiết kiệm chi phí. Để chạy theo
mục đích tăng thu các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế sẽ chú trọng nhiều tới các dịch vụ và
can thiệp đem lại nhiều lợi nhuận, dễ có nguy cơ lạm dụng dịch vụ đặc biệt các dịch vụ
kĩ thuật cao làm tăng chi phí điều trị từ đó làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ của
người bệnh đặc biệt là người nghèo.
Từ các kinh nghiệm này, bài học rút ra cho Việt Nam là thực hiện tự chủ cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế phải quan tâm đi liền với cải cách BHYT theo lộ trình thích hợp.
Trước mắt cần có biện pháp giảm thiểu các tác động không mong muốn làm tăng chi
phí và giảm chất lượng dịch vụ.
1.3.2. Một số chính sách liên quan đến tự chủ tài chính cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
của Việt Nam
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP, ngày 14/08/2005 về việc đẩy mạnh xã hội hóa (XHH) các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao.
Trong lĩnh vực y tế Nghị quyết chủ trương phát triển, nâng cao chất lượng và đa
dạng hóa các loại hình BHYT. Đổi mới chế độ viện phí trên cơ sở từng bước tính
đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh nhân. Từng bước chuyển đổi việc cấp
kinh phí hoạt động thường xuyên (HĐTX) cho các cơ sở khám chữa bệnh sang cấp
trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do nhà nước cung cấp thông qua hình
thức BHYT. Chuyển hầu hết các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công lập sang hoạt động
theo cơ chế cung ứng dịch vụ, khuyến khích các cơ sở y tế tăng cường tính tự chủ,
giảm dần sự phụ thuộc vào NSNN.
Tiếp theo Nghị quyết số 05, ngày 25 tháng 4 năm 2006 Chính phủ ban hành Nghị
định số 43/2006/NĐ-CP (Nghị định 43) qui định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập thay thế cho Nghị định 10.
Mục tiêu của Nghị định 43 nhằm trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn
vị sự nghiệp trong việc tổ chức công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và
nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của
257
đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng
bước giải quyết thu nhập cho người lao động. Thực hiện chủ trương XHH trong việc
cung cấp dịch vụ cho xã hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển
các hoạt động sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ NSNN.
Đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động,
Nghị định 43/CP quy định: cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính. Cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế được huy động vốn, tổ chức các hoạt động dịch vụ phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ.
Giám đốc cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được quyết định ký hợp đồng thuê khoán
lao động. Nhà nước khuyến khích cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tăng thu, tiết kiệm chi,
thực hiện tinh giản biên chế, tăng thêm thu nhập cho người lao động trên cơ sở hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN và phân phối
lợi nhuận góp vốn, cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trích lập Quỹ phát triển hoạt động sự
nghiệp (PTHĐSN) tối thiểu bằng 25% chênh lệch thu chi (CLTC), sau đó trích quỹ
tiền lương tăng thêm (tối đa không quá 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ trong
năm) và quỹ khen thưởng, phúc lợi (tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công và
thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện trong năm). Việc chi trả thu nhập cho người
lao động trong đơn vị được thực hiện theo nguyên tắc: Người có hiệu suất công tác
cao, đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi được trả nhiều hơn.
Sau sáu năm thực hiện NĐ 43/2006, ngày 15/10/2012 Chính phủ ban hành
NĐ85/2012/NĐ-CP Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2012 thay thế
NĐ95/CP ngày 27/8/1994 của Chính phủ, NĐ 85 tạo ra bước chuyển đổi cơ bản một
cách có lộ trình về cơ chế hoạt động của các cơ sở y tế công lập.
Mục tiêu của Nghị định 43/2006 trong hoạt động cơ sở cung cấp dịch vụ y tế là
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế mà đòn bẩy, động lực
chính là nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính. Tự chủ trong tổ chức hoạt động, trong
tổ chức biên chế là điều kiện đủ để các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế thực hiện TCTC,
nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính.
Việc huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển các cơ sở y tế công lập được
thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: Liên doanh, liên kết để đầu tư trang thiết bị y tế
và phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu
Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15/10/2012 của Chính phủ về Cơ chế hoạt
động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám
bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập.
Tiếp theo, ngày 14/02/2015 Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2015/NĐ-CP:
“Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập”.
Chính sách tự chủ tài chính (TCTC) đã tạo điều kiện cho các cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế tự chịu trách nhiệm và chủ động trong hoạt động cung cấp DVYT. Các cơ sở
cung cấp dịch vụ y tế được phép huy động nguồn vốn từ xã hội để đầu tư thêm TTB,
tổ chức cung cấp các dịch vụ có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người bệnh. Để tăng
258
nguồn thu, các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế sẽ tăng cung cấp dịch vụ về số lượng, đa
dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ y tế từ đó thực hiện chỉ tiêu chuyên môn tăng,
chất lượng các dịch vụ được cải thiện.
Chính sách TCTC cho phép cơ sở cung cấp dịch vụ y tế chủ động sử dụng nguồn
kinh phí được cấp để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sử dụng kinh phí tiết kiệm để
nâng cao hiệu quả tài chính. Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế chủ động bố trí nhân lực
phù hợp về cả số lượng và chất lượng để hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, tiết kiệm
chi phí, cải thiện thu nhập cho nhân viên y tế, gắn chất lượng với hiệu quả.
Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế chủ động xây dựng qui chế chi tiêu nội bộ, công
khai, minh bạch trong quản lí tài chính và phân phối thu nhập. Thực hiện cơ chế phân
phối thu nhập khuyến khích nhân viên y tế nâng cao hiệu quả làm việc, nâng cao chất
lượng dịch vụ, phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi. Cơ chế TCTC tạo cho các cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế từ một đơn vị sự nghiệp thụ động, chỉ trông chờ NSNN sang một đơn
bị hoạt động gần như cơ chế một doanh nghiệp công ích, chủ động, năng động và
sáng tạo hơn.
1.3.3. Kết quả thực hiện tự chủ tài chính tại Việt Nam
Sau khi thực hiện TCTC, hầu hết các chỉ số về KCB đều tăng, năng suất và chất
lượng chuyên môn của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế ngày càng tăng.
Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế đã thực hiện nhiều giải pháp để nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh, chống quá tải, giảm dần tình trạng nằm ghép như:
- Nâng cao chất lượng chẩn đoán điều trị để rút ngắn thời gian điều trị;
- Tăng giường bệnh thông qua việc nâng cấp cơ sở, giảm diện tích hành chính,
mở rộng buồng bệnh;
- Tăng cường giáo dục y đức.
- Các lĩnh vực hoạt động của đơn vị được mở rộng, hầu hết các đơn vị đều phát
triển về quy mô, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để tăng số lượng
các dịch vụ cung ứng cho xã hội.
Thực hiện TCTC nguồn thu sự nghiệp của các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tăng
đáng kể. Bên cạnh các nguồn thu từ NSNN, BHYT và nguồn thu từ viện phí theo quy
định, các đơn vị còn chủ động trong việc xây dựng giá thu của các dịch vụ phụ trợ
nhằm tạo thêm nguồn thu để bổ sung kinh phí HĐTX. Chỉ tính riêng các cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế trực thuộc BYT, năm 2011 tổng nguồn thu sự nghiệp tăng, bằng
202,3% năm 2006. Tuy nhiên, các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế có mức tự chủ cao thì
mức độ tăng thu mạnh hơn, các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế huyện thì xu hướng này
không rõ rệt. Cơ cấu của các nguồn thu cũng có sự thay đổi và khác nhau giữa các cơ
sở cung cấp dịch vụ y tế. Tại các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế trực thuộc BYT, tỉ trọng
nguồn thu sự nghiệp trong thu thường xuyên có xu hướng tăng (từ 70,2% năm 2006
tăng lên 84% năm 2011) trong khi nguồn NSNN cấp có xu hướng giảm dần (từ 29,8%
giảm xuống chỉ còn 16% năm 2011).

259
Tất cả các bệnh viện lớn đều thành lập Khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu,
hoặc Khoa khám chữa bệnh chất lượng cao, coi đây là nguồn tăng thu chủ yếu, được
tập trung đầu tư các máy móc hiện đại, phòng bệnh đầy đủ tiện nghi, chủ yếu để phục
vụ cho những người có khả năng chi trả. Một số bệnh viện có khu dịch vụ theo yêu cầu
riêng biệt, trong khi nhiều bệnh viện không có khu vực riêng. Bảng giá dịch vụ theo
yêu cầu của nhiều bệnh viện được thông báo rộng rãi cho người bệnh. Giá dịch vụ theo
yêu cầu có sự khác nhau giữa các bệnh viện
Nhìn chung, các chính sách xã hội hóa và giao quyền tự chủ đã có tác động tích
cực, tạo được nguồn thu đáng kể và nâng cao tính năng động của các bệnh viện, để
khắc phục những khó khăn về tài chính, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật; nâng cao
thu nhập của cán bộ y tế; cải thiện công tác quản lý các nguồn lực tài chính tại bệnh
viện; đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, đặc biệt là những người
có khả năng chi trả...
Thực hiện TCTC làm tăng tính cạnh tranh giữa các cơ sở cung ứng dịch vụ về
chất lượng, giá cả và phong cách phục vụ người bệnh. Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
phải phấn đấu tăng hiệu quả hoạt động và tìm cách thu hút thêm bệnh nhân, đặc biệt là
các đối tượng có khả năng chi trả cao. Tự chủ hoá cũng thúc đẩy việc đổi mới tư duy
quản lí tài chính, phương thức hoạt động cũng như văn hóa ứng xử với người bệnh, tạo
sự hài lòng cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.
Thực hiện TCTC các đơn vị chủ động hơn trong việc sử dụng các nguồn tài
chính, chủ động điều tiết các khoản chi hợp lí và hiệu quả hơn. Các đơn vị đã xây
dựng được quy chế chi tiêu nội bộ, tăng cường tiết kiệm chi bằng cách cắt giảm những
khoản chi tiêu không hợp lí, khoán chi đến tận các khoa phòng (như chi phí điện thoại,
điện nước, hội họp, công tác phí…). Do tiết kiệm chi nên tỉ trọng chi cho hành chính
phí có xu hướng giảm. Cơ cấu chi cho con người và phần lương tăng thêm có xu
hướng tăng lên ở các đơn vị có nguồn thu lớn, đặc biệt là các cơ sở cung cấp dịch vụ y
tế tuyến trung ương hoặc ở các thành phố lớn. Tuy nhiên chi phí chuyên môn nghiệp
vụ có xu hướng tăng mạnh đặc biệt là chi phí thuốc.
Thực hiện TCTC, việc huy động vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang
thiết bị của các đơn vị được tăng cường. Tính đến năm 2010, các cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế trực thuộc Bộ Y tế đã huy động vốn được khoảng 700 tỉ đồng để đầu tư trang
thiết bị.
Bên cạnh những mặt tích cực, quá trình thực hiện TCTC cơ sở cung cấp dịch vụ
y tế cũng đã xuất hiện một số tác động không mong muốn tại một số cơ sở cung cấp
dịch vụ y tế trong một số lĩnh vực.
Các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế được giao tự chủ nhưng không tính đủ chi phí
trong cơ cấu giá viện phí nên thiếu nguồn lực, đã xuất hiện hiện tượng tận thu. Tăng
nguy cơ lạm dụng xét nghiệm, siêu âm, X quang và trang thiết bị kĩ thuật cao đặc biệt
là dịch vụ từ các trang thiết bị đầu tư bằng nguồn vốn huy động, từ đó làm tăng chi phí
điều trị dẫn đến làm giảm khả năng tiếp cận dịch vụ của người bệnh.

260
Việc thực hiện tiết kiệm chi có thể dẫn đến hiện tượng các cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế cắt giảm chi quá mức (tiết kiệm chi không hợp lí) làm ảnh hưởng đến chất
lượng dịch vụ.
Thông thường cắt giảm chi xảy ra ở các nhóm không được tính thu viện phí gồm:
Các nhóm chi thanh toán cá nhân (chi cho con người), các nhóm chi cho dịch vụ công
cộng (DVCC) gồm điện, nước, rác thải đặc biệt là rác, nước thải y tế, chi sửa chữa; chi
thuê mướn (dịch vụ vệ sinh, dịch vụ bảo vệ,...), thậm chí cắt giảm cả mua sắm để giảm
chi, tăng thu nhập cho NVYT.
Tính công bằng. Tự chủ bệnh viện bao gồm cả tự lựa chọn dịch vụ cung ứng và
xác định giá, có xu hướng đẩy chi phí khám chữa bệnh của người dân ngày một tăng
cao, số gia đình gặp khó khăn vì chi phí khám chữa bệnh sẽ ngày càng nhiều, trong khi
bao phủ BHYT còn hạn chế và hỗ trợ từ BHYT cũng chỉ được một phần. Việc huy
động nguồn lực tư nhân và phát triển các dịch vụ theo yêu cầu, gắn với thu hồi vốn và
lợi nhuận của tư nhân (trong đó có người góp vốn là cán bộ của bệnh viện), cũng có
thể tạo ra sự cách biệt về thu nhập của cán bộ y tế giữa các tuyến y tế, các địa phương,
thúc đẩy sự chuyển dịch cán bộ y tế giỏi từ nông thôn về thành thị, từ tuyến dưới lên
tuyến trên, từ y tế dự phòng sang điều trị.
Tình trạng thu nhập thấp từ tiền lương, phụ cấp và tiền thưởng của cán bộ, nhân
viên các bệnh viện trước đây thường được coi là một trong những nhân tố tác động đến
sự suy giảm đạo đức nghề nghiệp. Song, tình trạng thu nhập tăng thêm ở các bệnh viện
tự chủ dựa vào nguồn thu viện phí trực tiếp hiện nay cũng đặt ra vấn đề về đạo đức
nghề nghiệp cần được xem xét. Việc chỉ định xét nghiệm, dịch vụ kỹ thuật cao không
cần thiết, hoặc kê đơn thuốc để lấy hoa hồng… về bản chất là các hình thức “kinh
doanh kiếm lợi trên người bệnh”, cần được coi là sự xói mòn đạo đức trầm trọng hơn
nhiều so với việc nhận phí ngầm.
Thực hiện tự chủ không được định hướng và kiểm soát chặt chẽ có thể dẫn đến
hậu quả không mong muốn là xa rời mục tiêu chung của công tác khám chữa
bệnh. Nếu tập trung nhiều vào mục tiêu gia tăng nguồn thu và các hoạt động vì  lợi
nhuận, thì hệ thống KCB có thể không còn động lực để thực hiện mục tiêu của hệ
thống y tế nói chung và khu vực KCB nói riêng là chăm sóc sức khỏe người dân tốt
nhất với mức chi phí hiệu quả tối ưu nhất có thể. Khi chạy theo lợi nhuận, công tác
cung ứng dịch vụ phòng bệnh và chăm sóc sớm (thường ít/ hoặc không có lợi nhuận)
sẽ không được các các cơ sở KCB quan tâm đúng mức; các bệnh viện lớn, bệnh viện
chuyên khoa sẽ tăng cường cung ứng dịch vụ thông thường đáng ra do các đơn vị
tuyến dưới cung ứng, từ đó sao nhãng nhiệm vụ trọng tâm của cơ sở tuyến trên là phát
triển kỹ thuật chuyên sâu, nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực có chất lượng cho cả
hệ thống...
Khi việc thực hiện tự chủ bị chệch sang hướng thị trường hóa thì các tác động
không mong muốn trong môi trường cạnh tranh sẽ xuất hiện. Hệ thống chuyển tuyến
sẽ bị phá vỡ khi các bệnh viện tuyến trên gia tăng thu hút người sử dụng dịch vụ, kể cả
những dịch vụ thông thường. Các cơ sở  dự phòng và KCB tuyến dưới có thể bị suy
yếu bởi sức cạnh tranh mạnh hơn của các cơ sở tuyến trên. Điều này này làm giảm tính
261
hiệu quả của cả hệ thống, gây ra tình trạng quá tải ở các bệnh viện tuyến trên và ảnh
hưởng trực tiếp tới tính công bằng và định hướng phát triển toàn diện của cả hệ thống.
1.4. Thực trạng Tài chính Y tế nước ta và một số giải pháp
1.4.1. Nguồn Ngân sách nhà nước
Cũng như nhiều nước có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới, hệ thống
TCYT Việt Nam là một hệ thống hỗn hợp, trong đó nguồn từ NSNN có vai trò quan
trọng để thực hiện các chức năng của nhà nước trong công tác bảo vệ sức khỏe cộng
đồng và đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khỏe.
Trong nhiều năm qua, Nhà nước luôn xác định ưu tiên ngân sách cho lĩnh vực y
tế, đặt mục tiêu tăng tỉ lệ chi NSNN cho y tế cao hơn tỉ lệ tăng chi NSNN, đổi mới
trong cơ chế phân bổ ngân sách y tế, trong đó 20% ngân sách y tế được sử dụng để hỗ
trợ người dân tham gia BHYT.
Theo Tài khoản Y tế quốc gia 2012, tỉ lệ chi NSNN cho y tế chiếm 26,8% tổng
các nguồn tài chính cho y tế, giảm nhẹ so với năm 2010 là 29,4%. Theo số liệu của Bộ
Y tế, năm 2014, tỉ lệ chi cho y tế chiểm 8,2% tổng chi NSNN, tăng so với năm 2010 là
7,7%. Theo số liệu báo cáo thực hiện dự toán Ngành Y tế 2011–2015, chi NSNN cho y
tế trong giai đoạn 2011–2015 tăng qua các năm với tỉ lệ tăng cao hơn so với chi
NSNN, đạt chỉ tiêu theo NQ 18 của Quốc hội (trừ năm 2011 có mức tăng trưởng âm
sau khi trừ đi tỉ lệ giảm phát GDP) (Hình 7).
Hình 7: NSNN chi cho y tế giai đoạn 2011 – 2015

(Nguồn: Vụ KHTC, Bộ Y tế)


Trong 9 năm thi hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh (2011 - 2019), tốc độ tăng chi
từ NSNN cho y tế luôn cao hơn tốc độ tăng chi bình quân chung của NSNN.
Thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lí và lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ
công, các dịch vụ y tế đã được chuyển từ thu một phần viện phí sang cơ chế giá dịch
vụ, thực hiện theo quy định của pháp luật về giá. Đây là bước đổi mới cơ bản nhất,
quan trọng về TCYT, khắc phục tình trạng “bao cấp qua giá”, là điều kiện cơ bản để
các cơ sở khám, chữa bệnh (KCB) thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính, tăng sự lựa
chọn của người sử dụng dịch vụ.
Mục tiêu của đổi mới cơ chế quản lí đối với đơn vị sự nghiệp trong việc tổ chức
công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng nguồn lực tài chính để hoàn thành nhiệm vụ
262
được giao; phát huy khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng chuyên
môn cao; tăng nguồn thu nhằm từng bước giải quyết thu nhập cho người lao động; huy
động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động sự nghiệp, từng
bước giảm dần bao cấp từ NSNN.
Công tác xã hội hóa, thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư cho y tế tăng
nhanh. Các cơ sở KCB công lập được huy động vốn, liên doanh, liên kết trên nguyên
tắc đảm bảo nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công, bảo toàn vốn và tài sản nhà nước, công
khai, minh bạch. Cơ sở KCB tư nhân phát triển nhanh, từ chỗ không có các cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế tư, năm 1993 tới nay đã có 206 các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tư
nhân với 15.475 giường bệnh và trên 35.000 phòng khám tư nhân. Đặc biệt đã xuất
hiện một số mô hình các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế, phòng khám tư nhân hoạt động
không vì lợi nhuận.
Tuy nhiên mức chi NSNN cho y tế vẫn chưa đạt mức đề ra trong kế hoạch bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2015 là 10%.
Mức tăng cao của NSNN cho y tế trong vài năm gần đây một phần là do tác động
lớn của nguồn trái phiếu Chính phủ cho các đề án:
- Phần kinh phí cấp từ trái phiếu chính phủ cho các đề án nâng cấp các cơ sở y tế
bao gồm Đề án nâng cấp các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế và đầu tư phát triển trung tâm
y tế huyện và trạm y tế xã theo Quyết định số 950/QĐ-TTg (2007).

2015

2014

2013

2012

2011

0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100%

Chi đầu tư XDCB Chi ĐTPT từ TPCP


Chi CTMTQG Chi mua BHYT cho các ĐT
Chi TX cho TƯ Chi TX cho địa phương

Hình 8: Cơ cấu chi NSNN cho y tế giai đoạn 2011 – 2015


(Nguồn: Vụ KHTC, Bộ Y tế)
- Chi thường xuyên chiếm tỉ lệ khoảng 55% trong đó phần lớn được phân bổ về
cho các địa phương.
- Nâng cấp các cơ sở y tế bao gồm Đề án nâng cấp các cơ sở cung cấp dịch vụ y
tế huyện theo Quyết định số 47/2008/QĐ-TTg.

263
- Đề án nâng cấp các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tuyến tỉnh và trung ương theo
Quyết định số 930/QĐ-TTg. Do vậy chưa thể coi đây là mức ổn định cho những năm
tới.
- Phần chi từ NSNN mua toàn bộ hoặc hỗ trợ một phần thẻ BHYT cho các đối
tượng quy định theo Luật BHYT chiếm tỉ lệ trên dưới 20% tổng NSNN chi cho y tế.
- Trong tổng chi từ NSNN cho y tế, tỉ lệ chi cho chi đầu tư phát triển bao gồm cả
đầu tư từ trái phiếu chính phủ đạt tỉ lệ dao động trên dưới 20% (Hình 2).
- Từ 2013, nguồn NSNN cho y tế có thêm một nguồn tài chính mới, đó là Quỹ
phòng, chống tác hại thuốc lá. Theo Luật Phòng chống tác hại thuốc lá, Quỹ Phòng,
chống tác hại thuốc lá được hình thành từ nguồn đóng góp của các doanh nghiệp sản
xuất, nhập khẩu thuốc lá. Mỗi năm Quỹ có khoảng 400 – 500 tỉ đồng và được sử dụng
toàn bộ cho các hoạt động phòng chống tác hại thuốc lá, các hoạt động truyền thông,
xây dựng chính sách, tìm hiểu khảo sát kinh nghiệm nước ngoài…
1.4.2. Nguồn Bảo hiểm Y tế
Thực hiện chủ trương phát triển BHYT xã hội như một cơ chế tài chính chủ yếu
cho y tế Việt Nam, chính sách BHYT được triển khai từ năm 1992, Luật Bảo hiểm Y
tế đã được ban hành năm 2008 và sửa đổi vào năm 2014. Chính phủ đã phê duyệt lộ
trình bao phủ BHYT toàn dân; năm 2014, đã có 71% dân số tham gia BHYT.
Tuy nhiên, đóng góp tài chính từ BHYT vào tổng chi y tế toàn xã hội chưa tương
xứng với tỉ lệ người tham gia BHYT. Năm 2012, nguồn từ BHYT đóng góp xấp xỉ
16% tổng chi y tế toàn xã hội. Mức đóng góp này không tương xứng với tỉ lệ bao phủ
BHYT là 66,4% dân số. Mức đóng BHYT cũng tăng lên theo lộ trình tăng lương.
Nhiều doanh nghiệp chưa tuân thủ đóng BHYT, số tiền nợ đọng BHXH, BHYT
không ngừng gia tăng. Nguyên nhân của tình trạng này liên quan đến nhiều vấn đề:
- Do quy định mức lãi suất chậm đóng BHXH thấp hơn mức lãi suất vay ngân
hàng nên đại bộ phận doanh nghiệp cố tình nợ BHXH, chấp nhận chịu phạt để chiếm
dụng quỹ BHXH;
- Chế tài xử lí vi phạm trong lĩnh vực BHXH còn nhiều bất cập như: mức xử phạt
thấp, thủ tục xử phạt phức tạp, không quy định xử lí hình sự khi chiếm dụng tiền đóng
BHXH của người lao động;
- Cơ quan BHXH lại không có chức năng thanh tra, xử phạt vi phạm BHXH nên
khi kiểm tra, phát hiện các đơn vị sử dụng lao động vi phạm pháp luật về BHXH chỉ
nhắc nhở và đề nghị doanh nghiệp chấp hành, sau đó dừng lại ở việc phản ánh với Ủy
ban Nhân dân tỉnh hoặc huyện xử lí.

Bảng 1: Số người tham gia BHYT theo nhóm đố tượng (9/2018)


(Nguồn: Công văn số 3681/BHXH-CSYT bổ sung nội dung báo cáo
tình hình thực hiện chế độ chính sách BHYT ngày 20/9/2018)

264
Đơn vị: Người

Nhóm đối tượng Đối tượng đích Thực hiện Tỉ lệ (%)


(ước tính)

Nhóm do người lao động 13.257.552 12.594.674 95,0


và sử dụng lao động đóng

Nhóm do cơ quan BHXH 3.047.068 3.047.068 100,0


đóng

Nhóm do NSNN đóng 34.215.442 3.4215.442 100,0

Nhóm do NSNN hỗ trợ 17.718.356 16.566.663 93,5

Nhóm tham gia BHYT 25.194.844 14.765.663 58,6


theo hộ gia đình

Cộng 93.433.261 81.188.991 86,9

Độ bao phủ (tỉ lệ tham gia) BHYT tốt ở khu vực có thu nhập cao và khu vực thu
nhập thấp, nhưng mức độ bao phủ kém ở khu vực người lao động phi chính thức có
thu nhập trung bình (Missing middle problem) và nhóm lao động trong các doanh
nghiệp.
Tỉ lệ tham gia BHYT ở nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình đang ở mức thấp
nhất (Bảng 1).
Các nhóm đối tượng có mức độ bao phủ gần như toàn bộ 100% đó là nhóm hành
chính sự nghiệp, nhóm hưu trí trợ cấp BHXH, nhóm nghèo, dân tộc thiểu số.
Nhóm học sinh, sinh viên cũng có tỉ lệ tham gia rất cao lên tới 94% năm 2014.
Cả hai nhóm này đều được NSNN hỗ trợ một phần phí BHYT.
Mức phí BHYT hiện là 4,5% đối với người làm công ăn lương, tuy nhiên việc áp
dụng mức đóng theo luật định là 6% khó thực hiện trong ngắn hạn, do quỹ BHYT
đang trong giai đoạn cân đối được thu chi (kết dư liên tục trong ba năm với số lũy kế
năm 2012 ước tính là 7722 tỉ đồng) và do tình hình kinh tế vĩ mô và hoạt động sản
xuất kinh doanh hiện nay đang có những khó khăn.
Vấn đề lựa chọn ngược đang thể hiện rõ ở khu vực tham gia BHYT tự nguyện.
Nhóm tự nguyện chỉ đóng góp 9% kinh phí quỹ BHYT trong khi chiếm 11,4% tổng số
người có BHYT, có tần suất và chi phí khám chữa bệnh cao gấp nhiều lần các nhóm
khác.
BHYT thương mại phát triển nhanh nhưng thiếu sự quản lí của Nhà nước. Hoạt
động của BHYT thương mại được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm. Các
chương trình BHYT thương mại hay Bảo hiểm phi nhân thọ đã bao phủ hàng chục
265
triệu người, chủ yếu nhằm vào các đối tượng khoẻ mạnh hoặc có thu nhập cao. Tuy
nhiên, hiện không có số liệu theo dõi, đánh giá về hoạt động của BHYT thương mại và
sự đóng góp của BHYT thương mại vào chi tiêu y tế ở Việt Nam.
1.4.3. Nguồn chi tiền túi hộ gia đình
Tỉ lệ chi trả tiền túi ở mức 48,8% là một thách thức lớn cho Việt Nam thực hiện
mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Các chỉ số về bảo vệ tài chính như tỉ lệ
hộ gia đình mức chi phí y tế thảm họa, tỉ lệ nghèo hóa do chi phí y tế chưa được cải
thiện rõ rệt. Chưa có bằng chứng thuyết phục về tác động bảo vệ tài chính của BHYT.
Bệnh nhân BHYT vẫn phải tự chi trả khi đi KCB do nhiều nguyên nhân trong đó có cả
tình trạng bệnh nhân có BHYT nhưng không dùng thẻ, bệnh nhân vượt tuyến, trái
tuyến. Một trong những mặt trái và nguy cơ của việc thực hiện chính sách tự chủ các
cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công chính là làm gia tăng chi phí tiền túi của bệnh nhân,
kể cả bệnh nhân BHYT.

52.4

50.5
48.8

45.6
44.8

2008 2009 2010 2011 2012

Hình 9: Tỉ lệ chi tiền túi trong tổng chi y tế giai đoạn 2008 – 2012
(Nguồn: Tài khoản Y tế quốc gia 1998 - 2012)
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc tăng các nguồn tài chính công thông qua
tăng cấp NSNN cho y tế, mở rộng BHYT song tỉ lệ chi tiền túi từ hộ gia đình của Việt
Nam vẫn cao với tỉ trọng 48,8% năm 2012 và có xu hướng tăng nhẹ trong vài năm
gần đây. Phân tích số liệu lịch sử cho thấy trong giai đoạn 2008-2012 chứng kiến sự
biến động khá rõ rệt của chỉ số này (Hình 3).
Tỉ lệ chi tiền túi giảm từ 52,4% năm 2008 xuống còn 44,8% năm 2010, tuy nhiên
sau đó lại có xu hướng tăng lên với mức gần 50% vào năm 2012.
Phân tích số liệu Tài khoản Y tế quốc gia năm 2011 cho thấy toàn bộ chi tiền túi
của các hộ gia đình là cho khám chữa bệnh trong đó 55,8% là chi trả cho dịch vụ khám
chữa bệnh nội trú, 43,7% chi cho tự mua thuốc, chỉ có 0,5% chi cho khám bệnh ngoại
trú. Trong tổng chi tiền túi của hộ gia đình cho khám chữa bệnh thì 62,5% chi trả cho
cơ sở KCB công lập, 37,5% chi cho các cơ sở KCB tư nhân.

266
Theo WHO khó có thể đạt được mục tiêu bao phủ toàn dân về dịch vụ y tế nếu
chi y tế từ tiền túi chiếm hơn 30% tổng chi y tế - Việt Nam còn một khoảng cách rất
lớn để đạt tới mục tiêu này.
1.4.4. Nguồn viện trợ, vốn vay
Nguồn hỗ trợ tài chính quốc tế cho y tế Việt Nam được dự báo sẽ giảm dần và ít
ưu đãi hơn do mức độ phát triển kinh tế Việt Nam tăng lên.
Từ năm 2010 khi Việt Nam đạt GDP bình quân đầu người hơn 1000 USD/năm,
nguồn vốn vay ODA với các điều kiện ưu đãi dành cho Việt Nam sẽ giảm, thay vào đó
vốn vay ODA với các điều kiện kém ưu đãi hơn sẽ tăng lên.
Đối với Ngành Y tế, nguồn hỗ trợ quốc tế, dù chiếm một tỉ lệ không lớn, nhưng
vẫn nằm trong chiến lược chung của các nhà tài trợ cũng như định hướng chính sách
của Chính phủ trong phân bổ, quản lí và sử dụng nguồn vốn này. Dự báo chung là hỗ
trợ quốc tế cho y tế sẽ thay đổi về cơ cấu, hình thức và nội dung. Các nhà tài trợ có thể
sẽ tập trung hơn vào các chương trình mục tiêu quốc gia đi đôi với việc đòi hỏi các
phương thức tiếp cận mới, hỗ trợ chương trình, tiếp cận ngành.
Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, các
nguồn viện trợ cho Việt Nam có xu hướng bị cắt giảm. Tỉ lệ nguồn chi cho y tế từ viện
trợ và vốn vay giảm khá rõ trong những năm gần đây. Năm 2012 tỉ lệ này ước tính là
1,6% giảm so với các năm trước (2,9% năm 2010 và 2,3% năm 2011).
Kinh phí cho y tế từ bên ngoài do Bộ Y tế quản lí gồm 2 nguồn:
(1)- Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): các lĩnh vực chủ yếu được hỗ trợ từ các
dự án ODA bao gồm:
- Nâng cấp cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị y tế;
- Hỗ trợ y tế dự phòng;
- Hỗ trợ y tế cơ sở;
- Hỗ trợ triển khai các Chương trình mục tiêu y tế quốc gia;
- Hỗ trợ phát triển y tế, phát triển chính sách nâng cao năng lực quản lí.
(2)- Viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ (NGO): Đối với nguồn viện trợ phi
chính phủ, trong vòng 10 năm từ 2003 - 2013, tổng số dự án do Bộ Y tế quản lí là 384
dự án với tổng giá trị đạt trên 400 triệu đô la Mỹ.
Bên cạnh đó, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài còn cung cấp một số lượng
lớn các dự án thuộc lĩnh vực y tế thông qua UBND các tỉnh/thành trên cả nước.
Trong tổng số 383 dự án tổ chức phi chính phủ nước ngoài (PCPNN) do Bộ Y tế
quản lí, thì các Tổ chức PCPNN của Hoa Kỳ đứng đầu về số lượng dự án và kinh phí
viện trợ cho Ngành Y tế, với 175 dự án chiếm 46% tổng số dự án và tổng số vốn 213,7
triệu đô la Mỹ, chiếm 49,7% tổng kinh phí viện trợ phi chính phủ trong giai đoạn này,
tiếp theo là các Tổ chức tổ chức phi chính phủ nước ngoài của các nước như Pháp,
Nhật Bản, Úc, Hà Lan, Anh, Thụy Sỹ, Bỉ, Thụy Điển, GAVI...
267
Các dự án viện trợ tổ chức phi chính phủ nước ngoài bao phủ nhiều lĩnh vực y tế,
góp phần cải thiện cơ sở vật chất, kĩ thuật, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ở các
tuyến và định hướng ưu tiên phân bổ cho Y tế Dự phòng, y tế cơ sở, miền núi, vùng
sâu, vùng xa và hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội, thực hiện mục tiêu công bằng
trong CSSK đóng góp vào thành tựu chung của Ngành Y tế trong CSSK nhân dân.
Liên quan đến nguồn viện trợ, nổi lên một số vấn đề liên quan chủ yếu đến hiệu
quả và giải ngân. Để sử dụng hiệu quả nguồn viện trợ đang có xu hướng giảm đi,
Ngành Y tế đã có các báo cáo tổng kết, đánh giá và phân tích các nguyên nhân hạn chế
hiệu quả các nguồn viện trợ liên quan đến:
- Công tác điều phối nguồn viện trợ;
- Các thủ tục hành chính;
- Năng lực thực hiện;
- Công tác theo dõi, đánh giá.
Tuy nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn, nhưng khả năng vay
nợ không còn nhiều.
Tổng nợ quy đổi của Việt Nam hiện nay là 37% GDP, nằm trong khoảng an toàn
(40% GDP là mức an toàn theo khuyến cáo của IMF), nhưng khả năng vay nợ của Việt
Nam không còn nhiều.
Đối với Ngành Y tế, việc đột ngột thiếu đi nguồn hỗ trợ quốc tế sẽ tăng gánh
nặng tài chính, đặc biệt là đối với ngân sách các địa phương ở các vùng khó khăn và
một số chương trình lớn (Chương trình phòng chống HIV/AIDS). Tương tự, kinh phí
đầu tư cơ sở vật chất cho hệ y tế dự phòng phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn viện trợ.
Hơn nữa, các hỗ trợ này có vai trò quan trọng trong chuyển giao kĩ thuật tiên tiến và là
những “bà đỡ” cho phát triển các chiến lược phù hợp của ngành.
1.4.5. Nguồn khác
Ngoài các nguồn tài chính chủ yếu như trên, kinh phí đầu tư cho CSSK còn được
huy động từ khu vực tư nhân dưới hình thức “Xã hội hóa”.
Thực hiện Nghị quyết 46 về việc “khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư
phát triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khoẻ”, các nguồn lực ngoài NSNN
được huy động để đầu tư phát triển các cơ sở y tế công lập hiện đang được thực hiện
dưới hai hình thức chủ yếu:
- Liên doanh, liên kết để đầu tư nâng cấp trang thiết bị y tế tại các các cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế công.
- Phát triển các dịch vụ theo yêu cầu tại các các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công.
Báo cáo kiểm tra các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công năm 2014 ghi nhận hầu
hết các các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công lớn đều thành lập Khoa khám chữa bệnh
theo yêu cầu, được đầu tư cơ sở tiện nghi, trang thiết bị hiện đại từ nguồn xã hội hóa.
Hoạt động liên doanh, liên kết tại các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công công đã góp
phần đáp ứng nhu cầu cấp thiết về đổi mới trang bị kĩ thuật y tế, đặc biệt những trang
268
thiết bị kĩ thuật cao, phục vụ nhu cầu KCB của nhân dân trong hoàn cảnh kinh phí Nhà
nước chưa cung cấp đủ để mua sắm các trang thiết bị này.
Tuy nhiên, các các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế công có xu hướng chỉ quan tâm
đến lĩnh vực có thu, tập trung kinh phí để phát triển khu dịch vụ theo yêu cầu, đầu tư
TTB chưa tương xứng với năng lực, trình độ chuyên môn, nhu cầu KCB; cung ứng
dịch vụ quá mức cần thiết đối với thiết bị xã hội hóa, chưa quan tâm đầy đủ đến công
tác kiểm tra, giám sát, thực hiện quy chế dân chủ. Sự tham gia góp vốn và điều hành
của tư nhân với động cơ vì lợi nhuận trong các dự án liên doanh liên kết đầu tư
TTBYT tại các cơ sở y tế công lập, có nguy cơ làm tăng các chỉ định không cần thiết,
dẫn đến tình trạng tỉ lệ chi phí y tế do người dân tự chi trả sẽ ngày càng tăng cao nếu
không có cơ chế kiểm soát việc chỉ định và sử dụng trang thiết bị kĩ thuật cao.
Đầu tư cho các cơ sở y tế công lập từ nguồn xã hội hóa đã góp phần đổi mới
trang thiết bị kĩ thuật đáp ứng nhu cầu CSSK nhưng cũng có những tác động không
mong muốn.
1.5. Vai trò việc của hộ sinh trong quản lí tài chính tại cơ sở cung cấp dịch vụ y tế
Hộ sinh là bộ phận không thể thiếu trong hệ thống chăm sóc sức khỏe nói riêng
và trong toàn xã hội nói chung hộ sinh làm tốt nhiệm vụ của mình là góp phầm giảm
chi phí, nâng cao hiệu quả, chất lượng cho xã hội nói chung, cho cơ sở cung cấp dịch
vụ y tế nói riêng.
Chất lượng chăm sóc người bệnh đã có nhiều chuyển biến rõ rệt thông qua việc
đổi mới các mô hình phân công chăm sóc, tổ chức chăm sóc người bệnh toàn diện,
chuẩn hóa các kĩ thuật điều dưỡng.
Hộ sinh là những người chăm sóc và ở cạnh bệnh nhân nhiều nhất và thực hiện
nhiều kĩ thuật nhất, nên những hành vi, thái độ của người điều dưỡng ảnh hưởng rất
nhiều đến tình cảm và sự hài lòng của người bệnh.
Số liệu nhân lực cán bộ y tế từ 1256 bệnh viện năm 2014 cho thấy, toàn quốc có
61.251 y bác sỹ làm công tác điều trị, 117.748 điều dưỡng viên, hộ sinh đang công tác
tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Tỉ số điều dưỡng, hộ sinh/bác sỹ là 1,9.
Có thể nói người điều dưỡng viên là một mắt xích quan trọng của hệ thống quy
trình chăm sóc bệnh nhân trong mỗi cơ sở cung cấp dịch vụ KCB. Trong mỗi người
điều dưỡng viên đều hàm chứa hầu hết các tính năng của cả hệ thống y tế. Họ là nhà
quản lí chuyên môn, tham gia quản lí tài chính, họ là người quyết định đến sử dụng vật
tư tiêu hao cho người bệnh, cho cung cấp dịch vụ
Ngày nay, điều dưỡng đã được công nhận là một nghề nghiệp độc lập, cùng cộng
tác với các bác sỹ, dược sỹ, kĩ thuật viên và các thành phần trong hệ thống y tế để cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Cùng với sự phát triển của nền y học thế giới, ngày nay điều dưỡng cũng được
phát triển thành các lĩnh vực chuyên môn theo từng lĩnh vực trong hệ thống y tế. Sự
phát triển này nhằm đáp ứng nhu cầu điều trị và chăm sóc cho người bệnh theo từng
lĩnh vực chuyên sâu.
269
Nhận định về vai trò của công tác điều dưỡng, WHO đã khẳng định: “Điều
dưỡng là một mắt xích quan trọng của công tác chăm sóc sức khỏe. Dịch vụ chăm sóc
sức khoẻ do người điều dưỡng - hộ sinh cung cấp tác động lớn tới sự hài lòng của
người bệnh”.
WHO đã đưa ra khuyến cáo: “Ở bất cứ quốc gia nào, muốn nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe thì phải chú ý phát triển công tác điều dưỡng”.
Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân, bên cạnh việc nâng cao chất
lượng chẩn đoán, điều trị của bác sỹ thì việc nâng cao chất lượng chăm sóc đội ngũ
điều dưỡng, được coi là một chiến lược quan trọng để tăng cường sự tiếp cận của
người nghèo với các dịch vụ y tế, cũng như đảm bảo công bằng xã hội trong y tế và sự
hài lòng của người dân.
Hộ sinh là sự phối hợp giữa điều trị, chăm sóc, nuôi dưỡng, phục hồi chức năng
và giáo dục sức khoẻ. Người điều dưỡng sử dụng kiến thức, kĩ năng để giúp đỡ người
bệnh và cộng đồng trong việc duy trì, nâng cao sức khoẻ, phòng ngừa bệnh tật, giảm
đau đớn về thể chất, tinh thần và biết cách tự chăm sóc bản thân một cách cơ bản nhất.
Hộ sinh có nhiệm vụ cá nhân rất quan trọng trong công tác thu viện phí và thanh
toán BHYT của bệnh viện:
- Trực tiếp quản lý, theo dõi, thống kê số lượng dịch vụ KCB, thuốc, vật tư mà
từng bệnh nhân đã sử dụng tại phòng khám, khoa chẩn đoán, xét nghiệm (đối với bệnh
nhân ngoại trú) và tại các khoa phòng chuyên môn trong thời gian điều trị nội trú, theo
mẫu biểu do Bộ y tế quy định.
- Theo dõi sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân để thẩm tra tính chính xác của
giấy chứng nhân là người nghèo để xin miễn giảm viện phí của một số bệnh nhân
trong khoa.
- Nhắc bệnh nhân đóng viện phí định kỳ theo quy định của bệnh viện.
- Quản lý bệnh nhân nội trú để hạn chế tình trạng bệnh nhân trốn viện khi chưa
đóng viện phí.
- Hướng dẫn, phổ biến cho bệnh nhân rõ những vấn đề liên quan đến:
+ Quyền lợi của bệnh nhân khi vào KCB tại bệnh viện; quyền lợi BHYT của
bệnh nhân có BHYT;
+ Trách nhiệm nộp viện phí theo quy định của bệnh nhân, kể cả bệnh nhân có
BHYT; các trường hợp được miễn, giảm viện phí;
+ Phương pháp tính số viện phí viện phí nộp trong từng trường hợp NB;
2. BẢO HIỂM Y TẾ
2.1. Khái niệm Bảo hiểm Y tế
Bảo hiểm Y tế (BHYT) là cơ chế san sẻ rủi ro (Risk - pooling) về tài chính khi
khám chữa bệnh cho người bệnh (Phua, 1994).

270
BHYT là hình thức bảo vệ cho người bệnh về tài chính trong trường hợp rủi ro bị
bệnh với khoản chi phí KCB lớn (Siripen Supakankunti, 2000) vì người tham gia
BHYT đóng góp một mức phí từ trước khi ốm đau vào quỹ BHYT và sẽ được hưởng
các quyền lợi về chăm sóc y tế khi đến các cơ sở khám, chữa bệnh. Cách thức tham gia
BHYT còn được gọi là hình thức trả trước chi phí cho khám, chữa bệnh. Trong quá
trình phát triển, BHYT đã trở thành một trong nhưng phương thức đảm bảo tài chính
có nhiều ưu điểm trong lĩnh vực y tế.
BHYT xã hội là chương trình BHYT trong đó mức phí bảo hiểm thường được
tính theo tỉ lệ thu nhập của người lao động, trong khi quyền lợi KCB được hưởng
không theo mức đóng góp mà theo nhu cầu khám, chữa bệnh. Quỹ BHYT xã hội được
hình thành từ nguồn đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và Chính
phủ. Chương trình BHYT xã hội thường mang tính bắt buộc. Quyền lợi của người
tham gia BHYT xã hội thường được đảm bảo cho người tham gia tiếp cận được với
các dịch vụ y tế cơ bản theo nhu cầu. Nguồn tài chính từ quỹ BHYT xã hội được coi là
nguồn tài chính công, có vai trò đặc biệt quan trọng để bảo đảm công bằng trong đóng
góp tài chính y tế thông qua cơ chế chia sẻ rủi ro.
Bảo hiểm Y tế xã hội ra đời nhằm những mục tiêu sau:
(1)- Tăng tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe thông qua cơ chế chia sẻ rủi ro
nhằm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế; Giảm gánh nặng tài chính đối với người bị
bệnh; Chia sẻ gánh nặng chi phí giữa người giàu và người nghèo, người khoẻ và người
ốm.
(2)- Huy động nguồn tài chính cho y tế
(3)- Tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực của ngành y tế (Với chức năng mua dịch
vụ Y tế, BHYT có thể dẫn đến sự kiểm soát tốt hơn và chất lượng cao hơn do tách
riêng hệ thống tài chính và cung cấp dịch vụ)
Sự ra đời của BHYT tạo ra một nguồn tài chính khá ổn định, bền vững cho các
cơ sở KCB. BHYT ra đời nhằm tăng tính công bằng thông qua sự chia sẻ rủi ro từ
người khoẻ cho người ốm. Tuy nhiên, nếu không có cơ chế chi trả phù hợp thì BHYT
có khả năng làm giảm hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ y tế do vấn đề lựa chọn
ngược và lạm dụng quỹ BHYT.
Cần lưu ý BHYT xã hội là cơ chế tài chính để cung cấp hàng hóa và dịch vụ
CSSK và việc quản lí BHYT liên quan đến quản lí tài chính. Nguyên tắc các nguồn tài
chính trong BHYT chỉ dùng để thanh toán các hàng hoá và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
có trong gói dịch vụ “tiêu chuẩn”. Điều này cho phép hình thành các gói quyền lợi bổ
sung (ví dụ gói bệnh viện) với điều kiện đóng thêm phí trong tương lai và tạo điều kiện
quản lý BHYT hiệu quả hơn. Cần hạn chế sử dụng nguồn tài chính trong BHYT để
tăng cường năng lực cho ngành y tế, như đầu tư vào xây dựng, đổi mới, cấp cứu và các
trang thiết bị. Đây là một nhiệm vụ của Bộ Y tế với vai trò là người chủ sở hữu, hay
trách nhiệm của các bệnh viện tự chủ tài chính hơn là trông chờ vào nguồn thu từ quỹ
BHYT.

271
Khác với một số loại hình bảo hiểm như bảo hiểm về hàng hóa, tài sản thông
thường, BHYT mang tính chính trị và nhân văn. Tính chất nhân văn biểu hiện ơ chỗ,
gánh nặng tài chính cho chăm sóc sức khỏe thường ảnh hưởng đến các nhóm dễ bị tổn
thương trong xã hội nhiều hơn so với các nhóm khác. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra : Tỉ
lệ chi phí cho y tế trong tổng chi hộ gia đình của các hộ gia đình nghèo cao hơn các hộ
giàu. Gánh nặng chi phí cho việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng với mất thu
nhập do bệnh tật có thể làm cho những người có mức sống trung bình trở thành nghèo.
Tính chính trị của BHYT thể hiện ở chỗ nhiều người cho rằng chăm sóc sức khỏe là
quyền lợi hay phúc lợi xã hội.
2.2. Nguyên lí căn bản và các loại hình Bảo hiểm Y tế của Việt Nam
2.2.1. Nguyên lí căn bản Bảo hiểm Y tế
BHYT được thực hiện theo những nguyên lí cơ bản nhằm bảo đảm sự công bằng
và hiệu quả, giúp phân biệt BHYT xã hội với các loại hình BHYT kinh doanh (BHYT
thương mại).

Hình 10: Mối quan hệ 3 bên trong KCB BHYT


(1)- Tính phi lợi nhuận:
BHYT xã hội được tổ chức thực hiện không vì mục tiêu lợi nhuận là một trong
những nguyên tắc cơ bản để phân biệt với các loại hình BHYT thương mại khác. Theo
đó mọi nguồn thu của quỹ BHYT, kể cả số tiền lãi thu được từ hoạt động đầu tư tăng
trưởng quỹ (nếu có) cũng được dùng để chi trả chi phí khám chữa bệnh cho cộng
đồng.

272
(2)- Đảm bảo chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT, đảm bảo sự hỗ trợ
chéo giữa các nhóm tham gia BHYT:
Nhóm có nguy cơ bệnh tật thấp (nhóm hành chính, doanh ngiệp…) hỗ trợ nhóm
có nguy cơ mắc bệnh cao hoặc không còn ở độ tuổi lao động (nhóm hộ nghèo, cận
nghèo, hưu trí…); nhóm đang ở độ tuổi lao động hỗ trợ nhóm chưa ở độ tuổi lao động
(nhóm trẻ em, nhóm học sinh, sinh viên…). Như vậy phân phối trong BHYT là không
đều, không bằng nhau, nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân
phối với số tiền như nhau, nguyên tắc này được quán triệt trong quá trình phân phối
bồi thường.
(3)- Đóng góp theo thu nhập, mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật:
Theo nguyên tắc này, mức đóng BHYT của mỗi cá nhân được xác định theo tỉ
lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp, tiền lương hưu hoặc mức lương cơ
sở của khu vực hành chính. Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng
trong phạm vi quyền lợi của người tham gia BHYT.
(4)- Chi trả trước:
Người tham gia BHYT có trách nhiệm đóng góp phí BHYT trước vào quỹ
BHYT khi chưa ốm đau, để được hưởng quyền lợi khi đau ốm.
(5)- Mối quan hệ ba bên trong Bảo hiểm Y tế:
Mối quan hệ giữa các bên liên quan trong hoạt động Bảo hiểm Y tế bao gồm:
(1)- Người sử dụng dịch vụ CSSK (BN BHYT);
(2)- Người mua dịch vụ CSSK (quỹ BHXH);
(3)- Người cung cấp dịch vụ CSSK (cơ sở KCB).
Mô hình sau thể hiện mối quan hệ giữa ba bên trong hoạt động khám chữa bệnh
BHYT (Hình 10).
Người tham gia BHYT khi sử dụng dịch vụ y tế không trực tiếp thanh toán chi
phí cho người cung cấp dịch vụ hoặc chỉ thanh toán phần cùng chi trả theo quy định,
cơ quan BHXH (quỹ BHYT) thanh toán cho người cung cấp dịch vụ theo hợp đồng
được hai bên thỏa thuận. Ba chủ thể này có chức năng khác nhau nhưng có mối quan
hệ chặt chẽ trong chu trình BHYT nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên. Người
tham gia có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm và được hưởng các quyền lợi KCB BHYT
theo quy định. Cơ quan BHXH thực hiện thu phí, xây dựng, xác định phạm vi quyền
lợi của người tham gia và có trách nhiệm chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí KCB
của người bệnh BHYT cho cơ sở y tế. Đơn vị cung cấp dịch vụ y tế bao gồm bệnh
viện các tuyến chuyên môn kĩ thuật, phòng khám đa khoa và chuyên khoa, thực hiện
cung cấp dịch vụ y tế theo hợp đồng với cơ quan BHXH cho người bệnh có thẻ
BHYT.
2.2.2. Các loại hình Bảo hiểm Y tế
Hiện nay ở Việt Nam có 2 loại hình BHYT:

273
- BHYT xã hội, là loại hình bảo hiểm bắt buộc toàn dân, mang tính cộng đồng
chia sẻ, nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều được chăm sóc sức khỏe, không vì mục
đích lợi nhuận và được Nhà nước tổ chức thực hiện theo Luật Bảo hiểm y tế số
25/2008/QH12 ngày 14/11/2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo
hiểm y tế số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014.
- BHYT thương mại/tư nhân: mang tính kinh doanh, hoạt động có lợi nhuận theo
Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010.
BHYT thương mại/tư nhân: Là chương trình kinh doanh BHYT vì lợi nhuận;
mức phí BHYT được xác định theo xác suất rủi ro mắc bệnh của người hoặc nhóm
người tham gia BHYT (dựa vào tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tiền sử bệnh...). Khác với
BHYT xã hội, quyền lợi của người tham gia BHYT thương mại tùy thuộc vào mức phí
BHYT đã đóng. Nhà nước thường không tổ chức kinh doanh loại hình BHYT thương
mại mà để cho tư nhân kinh doanh, nên còn gọi là BHYT tư nhân. BHYT thương mại
là hình thức BHYT tự nguyện, nên ở một số nước, BHYT thương mại còn được gọi là
BHYT tự nguyện.
Những người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện có thể tự chọn công ty bảo hiểm
y tế tư nhân. Với trường hợp này thì mệnh giá, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm
sẽ là sự thỏa thuận giữa công ty bảo hiểm và cá nhân người tham gia bảo hiểm. Những
công ty bảo hiểm tư nhân do hoạt động vì lợi nhuận nên quyết định mệnh giá dựa trên
tình trạng sức khỏe của từng thành viên mua bảo hiểm chứ không phải tình trạng sức
khỏe chung của cộng đồng. Thường những người có mức sống cao mới áp dụng hình
thức bảo hiểm này vì họ sẽ được nhận mức bảo hiểm cao khi họ đóng bảo hiểm nhiều
Sự giống và khác nhau của 2 loại hình bảo hiểm:
(1)- Giống nhau:
- Một nguyên tắc chung mà ai tham gia 2 loại bảo hiểm này đều phải thực hiện
đó là: phải đóng phí bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi, không đóng phí thì
không được hưởng quyền lợi.
- Hai loại hình bảo hiểm này đều hướng tới bảo vệ sức khỏe cho người tham gia
bảo hiểm. Họ sẽ nhận được các khoản tiền trợ cấp khi họ ốm đau, bệnh tật, gặp tai
nạn…, cụ thể là người tham bảo hiểm sẽ được cơ quan bảo hiểm chi trả một phần hoặc
toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cũng như chi phí mua thuốc men điều trị.
- Cách hoạt động của hai loại hình bảo hiểm này đều giống nhau, số tiền của
nhiều người tham gia bảo hiểm sẽ được chia sẻ cho một số ít người gặp phải các vấn
đề về sức khỏe.
(2)- Khác nhau:
- BHYT thương mại được tạo ra vì mục tiêu tạo ra lợi nhuận cho các công ty bảo
hiểm thì mục tiêu của BHYT xã hội là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà
nước, giúp đời sống người dân được ổn định hơn. BHYT xã hội là hoạt động phi lợi

274
nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Vì vậy mục tiêu của 2 loại bảo hiểm này là
khác nhau
- BHYT xã hội chỉ có tác dụng trong từng quốc gia cung cấp loại bảo hiểm này.
Còn BHYT thương mại có thể được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau tùy thuộc vào
khả năng của các công ty bảo hiểm.
- Mức phí phải đóng BHYT xã hội dựa vào thu nhập từ tiền lương của người
tham gia, mức lương cơ sở và mức hưởng được thực hiện theo quy định chung của
Luật Bảo hiểm y tế. Trong khi đó mức đóng phí của BHYT thương mại là quan hệ tỉ lệ
thuận, tức là mức phí đóng bảo hiểm càng cao thì bạn sẽ nhận được càng nhiều quyền
lợi và chất lượng phục vụ tốt hơn.
2.3. Một số quy định của Bảo hiểm Y tế liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cơ
sở cung cấp dịch vụ y tế
Luật Bảo hiểm Y tế số 25/2008/QH12 và Luật sửa đổi bổ sung 46/2014/QH13
bao gồm 10 chương và 52 điều.
Nghị định 146/2018/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày 1 - 12 - 2018, thay thế Nghị
định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15-11-2014 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số
41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24 – 11 - 2014. Nghị định 146 có một số điểm mới:
- Bổ sung một số đối tượng tham gia BHYT; quy định tham gia theo hộ gia đình;
bỏ quy định giao quỹ khám, chữa bệnh (KCB) cho cơ sở KCB (kể cả Trạm Y tế xã).
Thay vào đó là giao tổng mức thanh toán; sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể về
thanh toán chi phí KCB; quy định cụ thể hơn về Hợp đồng KCB BHYT …
- Một số nội dung mới có liên quan đến mức hưởng và thanh toán chi phí KCB:
(1)- Điều chỉnh tăng mức hưởng BHYT của một số đối tượng:
- Đối tượng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học có tỉ lệ suy
giảm khả năng lao động từ 81% trở lên: trước đây quy định mức hưởng 100%, có áp
dụng giới hạn tỉ lệ thanh toán đối với thuốc, hóa chất, vật tư y tế (VTYT) và dịch vụ kĩ
thuật (DVKT), theo quy định mới mức hưởng vẫn là 100% nhưng không áp dụng giới
hạn tỉ lệ thanh toán.
- Người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng sẽ tăng từ 80%
lên 100%.
(2)- Thanh toán chi phí KCB BHYT, có một số điểm quy định mới đối với các
trường hợp.
- Cụ thể, trường hợp người bệnh được cơ sở KCB tuyến trên chẩn đoán, chỉ định
điều trị và chuyển về để quản lí, theo dõi, cấp phát thuốc tại cơ sở KCB ở tuyến xã thì
được hưởng quyền lợi bảo hiểm theo quy định (theo hướng dẫn của Bộ Y tế). Quy
định mới này sẽ tạo điều kiện cho các bệnh nhân mắc các bệnh mãn tính, bệnh nhân
cao tuổi, bệnh nhân đi lại khó khăn được đi khám, chữa bệnh tại nơi gần chỗ cư trú,
tiết kiệm thời gian, chi phí.

275
- Quỹ BHYT sẽ thanh toán trong trường hợp cơ sở KCB gửi mẫu bệnh phẩm,
chuyển bệnh nhân đến cơ sở khác để thực hiện dịch vụ xét nghiệm, chẩn đoán hình
ảnh (theo nguyên tắc và Danh mục do Bộ Y tế quy định). Điều này có nghĩa, bệnh
nhân có thể được cơ sở KCB đang điều trị gửi mẫu xét nghiệm, chuyển bệnh nhân tới
nơi khác mà vẫn được thanh toán BHYT.
- Người có thẻ BHYT đang điều trị nội trú, nhưng thẻ BHYT hết hạn sử dụng thì
được thanh toán chi phí KCB trong phạm vi được hưởng và mức hưởng cho đến khi ra
viện nhưng tối đa không quá 15 ngày kể từ ngày thẻ hết hạn sử dụng. Cơ quan Bảo
hiểm xã hội (BHXH) có trách nhiệm thực hiện việc cấp hoặc gia hạn thẻ cho người
bệnh trong thời gian điều trị tại cơ sở KCB.
- Người có thẻ BHYT tự đi KCB không đúng tuyến, sau đó được cơ sở nơi tiếp
nhận chuyển tuyến đến cơ sở KCB khác, thì được quỹ BHYT thanh toán chi phí KCB
theo như đi trái tuyến, trừ các trường hợp cấp cứu, đang điều trị nội trú được phát hiện
bệnh ngoài phạm vi chuyên môn của cơ sở KCB, tình trạng bệnh diễn biến vượt quá
khả năng chuyên môn của cơ sở KCB.
- Quy định về thanh toán trực tiếp: người có thẻ BHYT đi KCB tại các cơ sở
KCB tuyến huyện không ký KCB BHYT hoặc điều trị nội trú tại các cơ sở KCB tuyến
tỉnh, tuyến T.Ư không ký hợp đồng kCB BHYT hoặc tại cơ sở đăng ký KCB ban đầu
nhưng không xuất trình thẻ BHYT (hoặc giấy tờ tùy thân có ảnh): người bệnh được
quỹ BHYT thanh toán theo tỉ lệ mức lương cơ sở áp dụng cho từng tuyến bệnh viện
nơi người bệnh đến KCB.
Tại Nghị định số 146 có bổ sung thêm Nhóm do NSNN đóng gồm có: 
(1)- Dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế;
(2)- Thanh niên xung phong cơ sở miền Nam tham gia kháng chiến giai đoạn
1965 - 1975;
(3)- Nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú được Nhà nước phong tặng có mức
thu nhập bình quân hằng tháng thấp hơn mức lương cơ sở. Và nhóm được NSNN hỗ
trợ đóng BHYT là người thuộc hộ nghèo có thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản.
Theo thống kê của BHXH Việt Nam, năm 2017 có hơn 34,2 triệu đối tượng được
NSNN đóng BHYT, chiếm 42% tổng số người tham gia BHYT. Nguồn kinh phí
NSNN đóng cho nhóm đối tượng này là 25.190 tỉ đồng, chiếm khoảng 31% số thu
BHYT của cả nước. Ngoài ra, NSNN còn hỗ trợ đóng BHYT cho gần 16,6 triệu người
với mức hỗ trợ từ 30 - 70%. Ngân sách hỗ trợ cho nhóm đối tượng này là 4.095 tỉ
đồng.
Quy định mới cho phép người có thẻ BHYT đang điều trị nội trú nhưng thẻ
BHYT hết hạn sử dụng thì vẫn được thanh toán chi phí KCB trong phạm vi được
hưởng và mức hưởng cho đến khi ra viện, nhưng tối đa không vượt quá 15 ngày kể từ
ngày thẻ hết hạn sử dụng. Cơ quan BHXH có trách nhiệm hướng dẫn, thực hiện việc
cấp hoặc gia hạn thẻ cho người bệnh trong thời gian đang điều trị tại cơ sở KCB.

276
Theo quy định của Nghị định 146, người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang sinh
sống tại các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27-12-2008 của
Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững và các huyện được
áp dụng cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CPđược ngân sách nhà
nước hỗ trợ 100% mức đóng BHYT tế.
Người thuộc hộ gia đình cận nghèo theo tiêu chí chuẩn cận nghèo theo quy định
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (trừ đối tượng cận nghèo sinh sống tại các huyện
nghèo nêu trên) được hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng BHYT tế.
Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
căn cứ khả năng ngân sách địa phương và các nguồn hợp pháp khác sẽ quyết định mức
hỗ trợ đóng BHYT cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu quy định tại Nghị định số 146. Hiện
tại nhiều địa phương đã bố trí nguồn ngân sách của tỉnh để hỗ trợ 30% còn lại cho
nhóm đối tượng này.
Để mở rộng tỉ lệ bao phủ BHYT, Nghị định số 146 đã quy định bổ sung một số
đối tượng tham gia BHYT; Hỗ trợ từ ngân sách và huy động các nguồn hợp pháp khác
cho người tham gia BHYT; Ngoài ra, một số các quy định thanh toán đã tạo điều kiện
cho người tham gia BHYT có cơ hội được tiếp cận DVYT dễ dàng hơn như. Thí dụ,
trường hợp người bệnh được cơ sở KCB tuyến trên chẩn đoán, chỉ định điều trị và
chuyển về để quản lí, theo dõi, cấp phát thuốc tại cơ sở KCB tuyến xã được hưởng
quyền lợi theo quy định. Bên cạnh đó còn có quy định bổ sung quỹ BHYT thanh toán
trong trường hợp cơ sở KCB gửi mẫu bệnh phẩm, chuyển bệnh nhân đến cơ sở khác
để thực hiện dịch vụ xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh; Sửa đổi các quy định về giao
tổng mức thanh toán, nâng cao trách nhiệm của cơ sở KCB trong việc quản lí sử dụng
nguồn kinh phí được giao có hiệu quả hơn; sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể về
thanh toán chi phí KCB ; quy định cụ thể hơn về Hợp đồng KCB BHYT… nâng cao
trách nhiệm của các bên liên quan, nhằm phát triển bền vững chính sách BHYT.
Theo quy định tại Nghị định 146/2018/NĐ-CP, đến năm 2020, BHXH Việt Nam
sẽ phải hoàn thành việc cấp thẻ BHYT điện tử cho người dân. BHXH Việt Nam quyết
tâm đến ngày 1 - 1 - 2020, sẽ thực hiện đầy đủ các nội dung liên quan đến thẻ BHYT
điện tử và chắc chắn sẽ phát hành thẻ BHYT điện tử đến với người dân theo đúng quy
định.
Thẻ BHYT sẽ tích hợp dữ liệu cả thẻ BHYT và sổ BHXH, lưu giữ các thông tin
cơ bản về quá trình đóng, hưởng của người tham gia BHXH, BHYT. Quá trình khám
chữa bệnh sẽ thuận tiện nhanh chóng hơn, góp phần cải cách thủ tục hành chính, hạn
chế thời gian chờ đợi.
2.4. Đặc thù của Bảo hiểm Y tế Việt Nam
2.4.1. Chính sách Bảo hiểm Y tế ở Việt Nam
(1)- Sau 17 năm thực hiện chính sách BHYT, năm 2008 Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật BHYT. Luật đã quy định về chế độ,
chính sách Bảo hiểm Y tế, bao gồm đối tượng, mức đóng, trách nhiệm và phương thức
đóng Bảo hiểm Y tế; thẻ Bảo hiểm Y tế; phạm vi được hưởng Bảo hiểm Y tế; tổ chức
277
khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia Bảo hiểm Y tế; thanh toán chi phí khám
bệnh, chữa bệnh Bảo hiểm Y tế; quỹ Bảo hiểm Y tế; quyền và trách nhiệm của các bên
liên quan đến Bảo hiểm Y tế. Đây là một đạo luật quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình tiến tới
BHYT toàn dân. Tuy nhiên, sau hơn 04 năm triển khai Luật BHYT hiện hành cũng đã
bộc lộ một số bất cập, như quy định tham gia BHYT chưa có tính ràng buộc cao, điều
này dẫn đến việc tiếp tục mở rộng các đối tượng tham gia BHYT gặp nhiều khó khăn,
thách thức. Các chế tài xử phạt khi không tham gia BHYT chưa đủ mạnh để mọi người
phải tham gia BHYT theo luật định vì vậy mục tiêu hướng tới bao phủ y tế toàn dân
khó có thể thực hiện.
(2)- Chính sách Bảo hiểm Y tế Việt Nam từ 2013 đến nay:
Quá trình thực hiện chính sách BHYT từ 1992 đến năm 2012 đã đạt được nhiều
thành tựu hết sức quan trọng như trên đã đề cập. Tuy nhiên, với tỉ lệ bao phủ còn thấp,
khó có thể thực hiện lộ trình BHYT toàn dân. Đây là thách thức lớn đòi hỏi các nhà
hoạch định chính sách phải xây dựng phương án và đưa ra giải pháp đồng bộ và cụ
thể, thiết thực phù hợp với sự phát triển của xã hội với sự tham gia của cả hệ thống
chính trị.
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác Bảo hiểm Xã hội, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 đã
được cụ thể hóa bằng quyết định số 538/2013/QĐ –TTg ngày 29/03/2013 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt đề án lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn 2012 –
2015 và 2020.
Luật Bảo hiểm Y tế sửa đổi, bổ sung có 8 điểm mới mang tính đột phá tạo hành
lang pháp lí giúp thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân:
- Quy định BHYT là hình thức bắt buộc;
- Quy định BHYT theo hộ gia đình;
- Quy định BHYT đối với trẻ em dưới 06 tuổi;
- Quy định mở thông tuyến khám chữa bệnh BHYT;
- Tăng quyền lợi BHYT và mức hưởng BHYT;
- Quy định về tỉ lệ thanh toán;
- Quy định mới về mức đóng BHYT.
- Quy định về thanh toán chi phí KCB trong trường hợp người có thẻ BHYT
đang điều trị tại cơ sở khám, chữa bệnh nhưng thẻ Bảo hiểm Y tế hết hạn sử dụng.
Quá trình hình thành và phát triển chính sách Bảo hiểm Y tế ở nước ta được khái
quát trên hình 11.

278
Hình 11: Các giai đoạn hình thành và phát triển BHYT Việt Nam
(3)- Tình hình bao phủ BHYT ở Việt Nam:
Trong những năm qua, số người tham gia BHYT ở Việt Nam ngày càng tăng,
tính đến cuối 2010, tỉ lệ người dân tham gia BHYT là 60%, tỉ lệ này tăng lên 81,7%
vào năm 2016 và tỉ lệ này đã là 86,4% năm 2017. Như vậy có thể thấy với nhiều nỗ
lực, Việt Nam đã đạt được mục tiêu bao phủ BHYT 80% sớm hơn dự kiến là năm
2020.
2.4.2. Giám định và thanh toán chi phí khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế tại Việt Nam
Theo Luật Bảo hiểm Y tế: “Giám định BHYT là hoạt động chuyên môn do cơ
quan Bảo hiểm Xã hội tiến hành nhằm đánh giá sự hợp lí của việc cung cấp dịch vụ y
tế cho người tham gia Bảo hiểm Y tế, làm cơ sở thanh toán chi phí khám, chữa bệnh
BHYT”.

Hình 12: Tỉ lệ bao phủ BHYT Việt Nam giai đoạn 2005 - 2017
Công tác giám định của cơ quan BHXH luôn được xác định là một nhiệm vụ
trọng tâm trong quản lí sử dụng quỹ BHYT. Nghiệp vụ giám định luôn phải thường
xuyên xử lí một khối lượng lớn thông tin để giải đáp các vấn đề về sử dụng thuốc, xét
279
nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, vật tư y tế, dịch vụ y tế… hợp lí, phù hợp với chẩn đoán
bệnh, hiệu quả trong KCB BHYT được thực hiện theo những nguyên tắc sau trước khi
thanh toán:
(1)- Đúng chế độ:
- Dịch vụ kĩ thuật (DVKT) được thanh toán là DVKT thuộc danh mục đã được
cấp có thẩm quyền phê duyệt và mức giá theo quy định phù hợp với tuyến chuyên môn
kĩ thuật của cơ sở y tế. Người thực hiện DVKT phải được cấp chứng chỉ hành nghề
theo đúng quy định.
- Thuốc được thanh toán theo chế độ BHYT là thuốc nằm trong danh mục thuốc
do Bộ Y tế quy định, được xây dựng phù hợp với tuyến chuyên môn kĩ thuật và phân
hạng bệnh viện, thuốc được mua sắm theo đúng quy định của Luật đấu thầu và các văn
bản hướng dẫn.
- Vật tư y tế (VTYT) được thanh toán phải nằm trong Danh mục do Bộ Y tế quy
định được sử dụng trong và ngoài DVKT, quỹ BHYT thanh toán theo tiêu chí sau:
- Không thanh toán riêng các VTYT đã được kết cấu và tính trong giá của
DVKT, giá ngày giường điều trị hoặc thu trọn gói theo ca bệnh.
- Những loại VTYT nào chưa được kết cấu và tính trong giá của DVKT, giá ngày
giường điều trị hoặc thu trọn gói theo ca bệnh thì quỹ BHYT sẽ thanh toán riêng.
(2)- Đúng người:
Đảm bảo người được hưởng quyền lợi khám, xét nghiệm, DVKT, thuốc, thủ
thuật, phẫu thuật… phải là người tham gia BHYT.
(3)- Đúng bệnh:
Việc chỉ định các thuốc, các dịch vụ y tế cụ thể cho người bệnh trong khám bệnh,
điều trị phải phù hợp với tình trạng bệnh, đúng liệu trình, đúng thời lượng, đúng quy
trình chuyên môn trong hướng dẫn điều trị.
(4)- Đúng chi phí:
Được phản ánh thông qua số lượng sử dụng đúng và áp giá đúng, đảm bảo số
lượng sử dụng xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thủ thuật, phẫu thuật, thuốc, VTYT…
thống kê để thanh toán BHYT là số lượng sử dụng thực cho bệnh nhân BHYT, bệnh
nhân BHYT được thụ hưởng phù hợp với chẩn đoán và điều trị.
Giá trong thanh toán BHYT chính là giá trên hóa đơn chứng từ hợp lệ theo quy
định của Bộ Tài chính và phù hợp phương thức mua sắm được lựa chọn. Máu và chế
phẩm máu được thanh toán theo giá quy định của Bộ Y tế.
Hoạt động thanh quyết toán chi phí KCB BHYT của cơ sở y tế với cơ quan
BHXH luôn tiềm ẩn những sai sót, từ dữ liệu đầu vào như ghi chép, thực hiện khám
bệnh, chẩn đoán, điều trị, thống kê chi phí… cho người bệnh có thẻ BHYT đến thông
tin đầu ra trình bày và thuyết minh các khoản mục chi phí chăm sóc sức khỏe trong hồ
sơ thanh toán.

280
Mức độ sai sót cần xem xét trong từng trường hợp cụ thể: quy mô (định lượng)
và tính chất (định tính), bao gồm:
- Sai do không đủ thủ tục hành chính: thiếu chữ ký bệnh nhân, thuốc có dấu (*)
phải hội chẩn khi chỉ định sử dụng cho người bệnh lại thiếu biên bản hội chẩn.
- Sai sót do áp sai giá: dịch vụ kĩ thuật, thuốc, VTYT, giường…
- Do áp dụng sai danh mục: chỉ định không có trong danh mục thanh toán với
BHYT, hoặc sai mục chi phí như thuốc, vật tư y tế tiêu hao đã tính trong chi trả trọn
gói của dịch vụ kĩ thuật nhưng tách riêng thanh toán BHYT (thuốc cản quang, thuốc
thụt tháo dùng trong siêu âm và chụp đại tràng, …)
- Sai sót về quy chế chuyên môn trong KCB như chỉ định các dịch vụ xét cận
lâm sàng, thuốc không phù hợp với chẩn đoán; thực hiện dịch vụ chưa được cấp có
thẩm quyền phê duyệt; người thực hiện kĩ thuật y tế chưa đủ các điều kiện về chuyên
môn theo quy định.
- Sai do thống kê: thừa hoặc thiếu ngày giường, thừa CĐHA, siêu âm, thừa
thuốc…
Kết quả giám định BHYT cho thấy có tình trạng lạm dụng BHYT cả về phía cán
bộ y tế cũng như người có thẻ BHYT. Những vi phạm phổ biến là lạm dụng xét
nghiệm, thuốc, hóa chất, vật tư y tế, kê đơn thuốc ngoài danh mục cho phép, kê khống
tiền thuốc, bệnh nhân nằm ghép nhưng vẫn thanh toán mỗi người/1 giường bệnh, lập
hồ sơ bệnh án khống (như làm giả kết quả xét nghiệm), sử dụng chung xét nghiệm ở
một số bệnh viện để thanh toán với quỹ BHYT; có nơi, cán bộ y tế ở bệnh viện sử
dụng thẻ BHYT của người thân để làm thủ tục lấy thuốc ở bệnh viện; người có thẻ
BHYT lạm dụng thông qua việc cho mượn thẻ, đi khám nhiều nơi trong ngày (nhất là
các bệnh mạn tính), cho thuê thẻ BHYT và thuê người bị bệnh mạn tính đi KCB để lấy
thuốc. Tuy nhiên số hồ sơ bệnh án giám định chỉ chiếm khoảng 20% nên chưa đảm
bảo việc thanh toán chính xác, chưa thể phát hiện đầy đủ việc lạm dụng BHYT ở các
bệnh viện. Các bệnh viện được thực hiện cơ chế tự chủ tài chính và xã hội hóa đã tìm
cách để tăng nguồn thu từ dịch vụ y tế làm phát sinh nhiều hình thức lạm dụng BHYT
tinh vi khó phát hiện và kiểm soát, đồng thời vai trò quản lí nhà nước ở các địa phương
còn hạn chế.
Tại Việt Nam, công tác giám định quản lí theo ngành dọc từ Trung ương đến địa
phương, dưới sự chỉ đạo của Ban Thực hiện chính sách BHYT, Ban Dược và Vật tư y
tế. Cơ quan BHXH thực hiện việc giám định BHYT và chịu trách nhiệm về kết quả
giám định theo quy định của pháp luật về BHYT. Cơ sở khám chữa bệnh BHYT cung
cấp hồ sơ bệnh án, tài liệu liên quan đến khám chữa bệnh của người bệnh BHYT theo
yêu cầu của cơ quan BHXH. Cơ quan BHXH tiếp nhận danh sách bệnh nhân và dữ
liệu thống kê chi phí KCB BHYT đề nghị quyết toán của cơ sở KCB BHYT. Nghiệp
vụ giám định chi phí KCB BHYT (gọi tắt là nghiệp vụ giám định) do giám định viên
của cơ quan BHXH thực hiện. Nghiệp vụ giám định được thực hiện trước, trong hoặc
sau khi người bệnh ra viện và phải bảo đảm tính chính xác, công khai, minh bạch. Mọi
chi phí khám, chữa bệnh BHYT của cơ sở y tế được cơ quan BHXH giám định theo
281
nguyên tắc: đúng chế độ - đúng người - đúng bệnh - đúng chi phí trước khi thực hiện
thanh quyết toán. Kết quả giám định được lập thành văn bản và thông báo cho cơ sở
KCB, trong đó nêu cụ thể những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục, những chi phí
không chấp nhận thanh toán. Cơ sở KCB tiến hành kiểm tra lại và có trách nhiệm chấp
hành kết quả giám định đã được thống nhất giữa hai bên. Trường hợp chưa thống nhất
thì phải ghi rõ ý kiến của các bên và báo cáo với cấp trên để giải quyết. Trong thời
gian chờ ý kiến chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền, cơ sở KCB BHYT có trách nhiệm
thực hiện thông báo kết quả giám định của cơ quan BHXH.
- Nội dung công tác giám định BHYT, yêu cầu thực hiện theo trình độ đào tạo,
cụ thể như sau:
+ Cán bộ có trình độ y, dược đại học có nhiệm vụ thực hiện nghiệp vụ giám định
chuyên sâu về y tế nhằm đánh giá tính hợp lí và hiệu quả của chỉ định chẩn đoán và
điều trị của cơ sở KCB thông qua phân tích các biểu báo cáo của cơ sở y tế và giám
định trực quan từng hồ sơ bệnh án; xem xét sự phù hợp của danh mục thuốc, dịch vụ y
tế tại cơ sở KCB BHYT.
+ Cán bộ được đào tạo về công nghệ thông tin: có nhiệm vụ tổng hợp, kiểm tra
dữ liệu báo cáo của cơ sở KCB trên các Mẫu 79a, 80a, 19/BHYT, 20/BHYT,
21/BHYT (các biểu mẫu trên do Bộ Tài chính và BHXH Việt Nam quy định). Phân
tích đánh giá sơ bộ chi phí KCB BHYT tại cơ sở y tế tăng, giảm... Báo cáo những vấn
đề phát hiện thông qua xử lí số liệu bằng phần mềm, những vấn đề cần lưu ý chuyển
cho cán bộ có chuyên môn y dược (bệnh nhân có chi phí lớn, trường hợp đi khám chữa
bệnh nhiều lần, gia tăng chi phí không hợp lí ...).
+ Cán bộ có chuyên ngành tài chính kế toán và chuyên ngành khác (kinh tế, luật)
kiểm tra việc thống kê tổng hợp chi phí KCB BHYT và lập các biểu quyết toán cho
công tác thanh quyết toán chi phí KCB BHYT giữa cơ quan BHXH với cơ sở KCB
BHYT (Biểu C82); xác định nguồn quỹ, kinh phí tạm ứng, quyết toán.
2.4.3. Các phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế
Phương thức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT đã được thay đổi nhiều
lần qua 3 lần ban hành Điều lệ BHYT. Theo quy định hiện hành, có 3 phương thức
thanh toán chi phí KCB BHYT, đó là thanh toán theo phí dịch vụ, theo định suất và
theo ca bệnh.
(1)- Theo phí dịch vụ (fee-for-service payment) là phương thức thanh toán trong
giai đoạn từ 23/11/1994 đến 19/12/1998.
Phương thức thanh toán trong giai đoạn này được quy định theo: Nghị định số
95/CP và các Thông tư số 20/TT-LB ngày 23/11/1994 của Bộ Y tế, Tài chính, Lao
động TBXH và Ban Vật giá Chính phủ, Thông tư số 14/TTLB ngày 30/9/1995 của liên
Bộ Y tế, Tài chính, Lao động, Thương binh và xã hội và Ban vật giá Chính phủ hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 95/CP về việc thu một phần viện phí.
Nghị định số 95/CP quy định “người có thẻ BHYT được cơ quan BHYT trả một
phần viện phí cho các cơ sở khám, chữa bệnh” (khoản 3, Điều 3). Phương thức thanh

282
toán một phần viện phí là “thu theo dịch vụ đối với người bệnh ngoại trú và thu theo
ngày giường điều trị đối với người bệnh nội trú” (Khoản 2, Điều 5 của Nghị định) theo
khung giá được ban hành theo Thông tư liên bộ số 20/TT-LB ngày 23/11/1994 và sau
đó Thông tư liên bộ số 14/TTLB ngày 30/9/1995.
Như vậy, từ 23/11/1994 phương thức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT
đã có bản chất là chi trả theo phí dịch vụ cho cả hai khu vực nội trú và ngoại trú. Riêng
khu vực ngoại trú, vẫn tiếp tục thực hiện trần thanh toán theo một tỉ lệ quỹ BHYT của
số người đăng ký tại từng cơ sở y tế. Quy định thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo
phí dịch vụ không có trần khống chế trong giai đoạn này đã dẫn tới tình trạng mất cân
đối thu chi quỹ BHYT tại nhiều địa phương trong năm 1996 và 1997. Xuất phát từ nhu
cầu thực tế, việc xem xét tìm kiếm phương thức thanh toán phù hợp đã được đề cập tới
và thảo luận lần đầu tiên trong hệ thống BHYT.
Với phương thức thanh toán theo phí dịch vụ, cơ sở cung ứng dịch vụ được hoàn
trả cho mỗi dịch vụ đơn lẻ được cung cấp cho khách hàng. Phương thức này có thể dựa
trên đầu vào hoặc đầu ra. Phương thức thanh toán theo phí dịch vụ cũng còn những bất
cập, tạo nên những rào cản về tài chính, cản trở khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ
CSSK cơ bản của người dân nhất là ở nhóm thu nhập thấp. Khi phải chi trả tiền túi cho
CSSK, người dân phải đối mặt với nguy cơ chịu chi phí quá mức và bị đẩy vào bẫy
nghèo đói. Với các chương trình BHYT, phương thức thanh toán theo dịch vụ là một
trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí CSSK.
Tuy nhiên, phương thức thanh toán theo phí dịch vụ cũng có những lợi thế nhất
định. Thứ nhất, phương thức thanh toán này có thể dễ dàng được thực hiện mà không
cần yêu cầu quá nhiều về năng lực mà chỉ cần dựa trên các biểu phí. Thứ hai, phương
thức thanh toán theo phí dịch vụ phản ánh chính xác hơn các dịch vụ thực sự đã thực
hiện, mở rộng hơn so với phương thức thanh toán theo mục ngân sách. Do đó khuyến
khích cơ sở cung ứng phí dịch vụ làm việc nhiều giờ hơn và cung cấp nhiều dịch vụ
hơn. Thứ ba, phương thức thanh toán theo phí dịch vụ được cho là cải thiện sự tiếp cận
và sử dụng cho những vùng khó khăn, cho người nghèo và cũng cho những dịch vụ ưu
tiên. Thứ tư, nếu việc xác định phí dịch vụ phù hợp thì phương thức chi trả này có thể
khuyến khích việc cung cấp các dịch vụ có tính chi phí-hiệu quả cao.
Mặc dù phương thức chi trả theo phí dịch vụ vốn là một phương thức thanh toán
có nhiều bất lợi trong tài chính y tế, hiện nay phương thức thanh toán này vẫn đang là
phương thức thanh toán được sử dụng rộng rãi trong toàn bộ hệ thống cung ứng dịch
vụ cho bệnh nhân BHYT.
(2)- Theo định suất (Per capita/Capitation):
Thanh toán theo định suất được hiểu là một phương thức trả trước cho cơ sở cung
cấp dịch vụ, theo đó tổng quỹ mà cơ sở cung ứng dịch vụ nhận được phụ thuộc vào số
người đăng ký và mức phí cố định theo mỗi đầu thẻ tại đó nhưng không phụ thuộc vào
số lượng dịch vụ đã thực hiện. Luật BHYT ngày 14/11/2008 được Quốc hội thông qua
cũng đề cập: “Thanh toán theo định suất là thanh toán theo định mức chi phí khám
bệnh, chữa bệnh và mức đóng tính trên mỗi thẻ BHYT được đăng ký tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh BHYT trong một khoảng thời gian nhất định”. Khái niệm này được
283
sửa đổi trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT ngày 13/6/2014 của
Quốc hội qui định lại là: “Thanh toán theo định suất là thanh toán theo mức phí được
xác định trước theo phạm vi dịch vụ cho một đầu thẻ đăng ký tại cơ sở cung ứng dịch
vụ y tế trong một khoảng thời gian nhất định”.
Cách tính phí trong phương thức thanh toán theo định suất được thực hiện dưới
hai hình thức:
- Tính theo tỉ lệ phần trăm cố định của số thu mà cơ quan bảo hiểm đã thu nhận;
- Tính theo giá chi phí thực tế cho từng thẻ đăng ký tại cơ sở cung ứng dịch vụ
dựa vào mức giá viện phí, phạm vi quyền lợi, mức cùng chi trả, số lượng người đăng
ký, tính chất đăng ký (cá nhân, tập thể).
Cách tính phí trong phương thức thanh toán theo định suất được thực hiện là một
cơ chế cung ứng dịch vụ có kiểm soát do có hợp đồng giữa cơ quan BHYT và cơ sở
cung ứng dịch vụ y tế.
Trong hệ thống thanh toán theo định suất, cơ sở cung ứng dịch vụ được chi trả
trước một tỉ lệ kinh phí cố định được xác định trước để cung cấp các dịch vụ đã được
xác định cho mỗi cá nhân đăng ký với cơ sở cung ứng dịch vụ trong một khoảng thời
gian cố định. Nguyên tắc của phương thức thanh toán này không liên quan đến đầu
vào mà cơ sở cung ứng dịch vụ sử dụng hoặc khối lượng dịch vụ được cung cấp.
Vì vậy, một số rủi ro được chuyển từ người mua dịch vụ sang cho cơ sở cung
ứng dịch vụ. Nếu cơ sở cung ứng dịch vụ phải chịu chi phí lớn hơn ngân sách theo
định suất, cơ sở cung ứng dịch vụ phải tự chịu trách nhiệm. Nếu cơ sở cung ứng dịch
vụ đạt được hiệu suất và chi phí thấp hơn so với ngân sách theo định suất, số dư có thể
được giữ lại và tái đầu tư.
Phương thức thanh toán trong giai đoạn từ 1/7/2005 đến 30/6/2009 được quy
định tại Điều lệ BHYT ban hành theo Nghị định số 63, bao gồm các phương thức
thanh toán theo phí dịch vụ, thanh toán theo định suất, theo nhóm chẩn đoán hoặc các
phương thức thanh toán phối hợp khác. Thông tư liên tịch số 21/2005 ngày 27/7/2005
của liên bộ hướng dẫn chi tiết hai phương thức thanh toán giữa quỹ BHYT và cơ sở y
tế là thanh toán theo phí dịch vụ có trần và thanh toán theo định suất. Theo đó, cơ sở
KCB lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp để ký hợp đồng với cơ quan BHXH.
Cả hai phương thức thanh toán theo phí dịch vụ và theo định suất đang được áp
dụng phổ biến nhưng đều có những vướng mắc: chi phí khám chữa của bệnh nhân
được giới thiệu khám, chữa bệnh tại tuyến trên cao, luôn là nguy cơ gây ra chi phí
vượt trần của tuyến dưới do đó cơ sở KCB phải đưa ra các giải pháp hạn chế quyền lợi
củangười bệnh BHYT. Nhiều cơ sở y tế hạn chế gửi bệnh nhân lên tuyến trên, có thể
ảnh hưởng đến tiếp cận dịch vụ y tế của người tham gia BHYT. Ngay tại bệnh viện
tuyến tỉnh, chi phí KCB của bệnh nhân ở ngoại tỉnh cũng có thể khiến bệnh viện mất
khả năng cân đối và phải hạn chế chi phí cho bệnh nhân BHYT.
(3)- Theo trần thanh toán:

284
Theo trần thanh toán là phương thức thanh toán trong giai đoạn từ 19/12/1998
đến 1/7/2005 với bản chất là thu phí dịch vụ theo hướng dẫn tại thông tư liên bộ số
14/TTLB nói trên, nhưng đã có những giải pháp nhằm khống chế tình trạng gia tăng
chi phí y tế, theo hướng dẫn tại Thông tư số 17/1998/TT-BYT của Bộ Y tế ngày
19/12/1998. Bản chất phương thức thanh toán trong giai đoạn này là:
- Khu vực ngoại trú: thanh toán theo phí dịch vụ, có trần thanh toán bằng 45%
quỹ khám, chữa bệnh của số thẻ đăng ký tại cơ sở y tế. Chi phí khám, chữa bệnh ngoại
trú tuyến trên cũng được tính vào trần thanh toán này;
- Khu vực nội trú: thanh toán theo phí dịch vụ, có trần, trần thanh toán bằng (Chi
phí khám, chữa bệnh nội trú bình quân một đợt điều trị năm trước x tổng số bệnh nhân
ra viện trong kỳ thanh toán x 1,1);
- Chi phí vượt trần được cân đối, thanh toán vào quý đầu năm tài chính kế tiếp;
Ngoài ra, cơ sở y tế được sử dụng 5% quỹ KCB cho hoạt động chăm sóc sức khỏe ban
đầu.
(4)- Theo nhóm chẩn đoán (Dianogsis related group: DRG)
Quyết định số 488/QĐ-BYT đã phê duyệt đề án xây dựng và thí điểm phương
thức chi trả chi phí khám chữa bệnh theo nhóm chẩn đoán liên quan (DRG). Phương
thức thanh toán này được sử dụng trong thanh toán trong bệnh viện như một cơ chế để
kiểm soát chi phí và giảm công suất sử dụng giường bệnh trong lĩnh vực bệnh viện.
Khi thanh toán theo trường hợp bệnh, tất cả các trường hợp bệnh nằm trong một số
nhóm thanh toán được xác định trước. Nhóm thanh toán thường được xác định theo
mức độ sử dụng nguồn lực bình quân. Tất cả các trường hợp bệnh nằm trong một
nhóm chẩn đoán được hoàn trả ở tỉ lệ như nhau.
Bằng chứng trên Thế giới cho thấy thanh toán bệnh viện theo trường hợp bệnh
liên quan đến việc giảm bình quân ngày điều trị nội trú. Sự giảm thời gian nằm viện
được quan sát có ý nghĩa thống kê chủ yếu cho các nhóm bệnh mạn tính; bình quân
ngày điều trị nội trú các bệnh cấp tính không bị ảnh hưởng đáng kể.
Tuy nhiên, thanh toán theo trường hợp bệnh có thể làm tăng cả số người bệnh
nhập viện và số người bệnh tái nhập viện không cần thiết.
Ở Hungary, Nga và nhiều nước khác, số người bệnh nhập viện tăng đáng kể sau
khi hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh được áp dụng. Phương thức thanh toán
này cũng dẫn đến việc để có lợi cho mình, các bệnh viện thường cố gắng nhận các
trường hợp bệnh ít tốn kém hơn trong một nhóm thanh toán, tránh các trường hợp yêu
cầu điều trị tốn kém. Ngoài ra cơ sở cung cấp dịch vụ y tế cũng có xu hướng phân chia
các trường hợp bệnh cần nhiều nguồn lực trong điều trị (chi phí đắt) thành nhiều đợt
nằm viện. Những điểm trên cũng có thể tạo ra rào cản tiếp cận dịch vụ y tế cho người
bệnh nặng. Để giảm những tác động bất lợi, các phương pháp phân biệt giữa các
trường hợp có mức độ nguồn lực khác nhau đã được áp dụng, phương thức thanh toán
theo nhóm bệnh như DRG đã được phát triển và liên tục được hoàn thiện.

285
Hệ thống thanh toán theo trường hợp bệnh cũng còn có một số nhược điểm khác,
bao gồm:
- “Chuyển dịch mã bệnh”, trong đó cơ sở cung ứng dịch vụ có khả năng mã
người bệnh vào một nhóm với điểm (hoặc chỉ số) cao để có được sự bồi hoàn lớn hơn
(như đã thấy ở Croatia, Hungary và Slovenia).
- “Chuyển dịch chi phí”, trong đó cơ sở cung ứng dịch vụ thay đổi mô hình chăm
sóc và chi phí cho người bệnh không thuộc nhóm chẩn đoán.
- Khuyến khích xuất viện sớm, trong đó chi phí được chuyển sang dịch vụ ngoại
trú, chăm sóc tại nhà và chăm sóc tại nhà dưỡng lão (làm giảm chất lượng chăm sóc do
gián đoạn) hoặc cung cấp dịch vụ dưới mức cần thiết, không đáp ứng nhu cầu điều trị
thực sự của người bệnh BHYT.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


Câu 1: Trình bày khái niệm tài chính y tế và các nguồn của hệ thống tài chính y tế,
cho ví dụ?
Câu 2: Trình bày các chức năng của hệ thống tài chính y tế.
Câu 3: Trình bày vai trò việc của Điều dưỡng trong quản lí tài chính tại cơ sở cung
cấp dịch vụ y tế.
Câu 4: Trình bày khái niệm, lý do ra đời và nguyên lý của bảo hiểm y tế?
Câu 5: Trình bày các phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Luật
BHYT giai đoạn 2015-2018.
2. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình thực hiện chế độ, chính
sách BHYT.
3. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình sử dụng quỹ KCB BHYT.
4. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tình hình sử dụng quỹ BHYT năm
2017.
5. Bộ Y tế, Tài khoản Y tế quốc gia 2009 – 2011, 1998 – 2012.
6. Bộ Y tế và Nhóm đối tác y tế (2018), Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm
2016: Hướng tới mục tiêu già hóa khỏe mạnh ở Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ Y tế và Nhóm đối tác quốc tế (2014), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế
các năm 2008, 2013, 2014.
8. Bộ Y tế và Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2017), Thông báo số 789/TB_BHXH
VN kết luận của Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến và Tổng Giám đốc
BHXH Việt Nam.
9. Bộ Y tế (2017), Thông tư số 39/2017/TT-BYT ngày 18 tháng 10 năm 2017 về
quy định gói dịch vụ y tế cơ bản cho tuyến y tế cơ sở.
286
10. Bộ Y tế & Bộ Tài Chính (2015), Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC
ngày 29 tháng 10 năm 2015 về quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh BHYT giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc.
11. Bộ Y tế & Bộ Tài Chính (2014), Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT- BYT-BTC
ngày 24 tháng 11 năm 2014 về hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm Y tế.
12. Bộ Y tế (2018), Thông tư số 15/2018/TT-BYT ngày 30 tháng 5 năm 2018 về
quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các
bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi
phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trong một số trường hợp.
13. Bộ Y tế (2013), Báo cáo 20 năm hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà
tài trợ..
14. Nguyễn Phú Trọng (2017). “Nghị quyết số 20-NQ/TƯ ngày 25 tháng 10 năm
2017 của Ban Chấp Hành Trung Ương về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới”.
15. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (2013). Dự thảo báo cáo Đánh giá 3 năm
thực hiện Luật Bảo hiểm y tế.
16. Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) (2015). Dự báo kinh tế-xã hội
Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020.
17. Tài liệu Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp bác sĩ chính (hạng
II), Bộ Y tế, Nhà xuất bản Y học, 2019.

287
CHUYÊN ĐỀ 11
TỔNG QUAN VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG
THỰC HÀNH ĐIỀU DƯỠNG

THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 08 tiết


Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Trình bày được khung đạo đức y tế cơ bản.
2. Trình bày được đạo đức trong thực hành điều dưỡng.
3. Trình bày được nội dung đạo đức trong nghiên cứu điều dưỡng.

NỘI DUNG
1. MỘT SỐ KHUNG ĐẠO ĐỨC Y TẾ
1.1. Khung đạo đức y tế của Kass
Khung đạo đức y tế được Nancy E. Kass 1 đề xuất để xem xét. Đây không phải là
một quy tắc đạo đức nghề nghiệp, có nhiều khả năng sẽ giải quyết các quy tắc chung
và mong đợi của chuyên gia hành vi; thay vào đó, đây là một công cụ phân tích, được
thiết kế và đề xuất để giúp các chuyên gia y tế xem xét các yếu tố liên quan đến đạo
đức của các can thiệp các chính sách, các sáng kiến nghiên cứu và các chương trình.
1.1.1 Mục tiêu
Bước đầu tiên cho bất kỳ chương trình y tế nào được đề xuất là xác định các mục
tiêu của chương trình. Các mục tiêu này nói chung phải được thể hiện trong điều khoản
về cải thiện sức khoẻ cộng đồng, nghĩa là giảm bệnh tật hoặc tử vong. Chẳng hạn,
giảm nguy cơ tim mạch cần phải là mục đích cuối cùng của chương trình giáo dục sức
khoẻ (hoặc mục tiêu cuối cùng của chương trình lớn hơn mà nó là một phần), cụ thể là
các cá nhân sẽ có ít cơn đau tim hơn, chứ không đơn thuần là các cá nhân sẽ tìm hiểu
thông tin mới hoặc thậm chí họ sẽ thay đổi hành vi của mình. Đối với một nghiên cứu,
mục tiêu cuối cùng của nó sẽ là việc các kết quả, nếu tích cực, sẽ được áp dụng vào
cộng động với số lượng dân số tối đa và cải thiện tình trạng sức khoẻ của nhóm đối
tượng.
Mặc dù các mục tiêu cần đạt được (chẳng hạn như liệu các cá nhân sẽ nắm được
thông tin y tế hay liệu họ có đồng ý thử nghiệm) là những phần quan trọng của kế
hoạch và đánh giá chương trình và có thể là rất quan trọng để đạt được sự cải thiện sức
khoẻ, mục tiêu cơ bản của giảm tỷ suất mắc bệnh và tử vong là kết quả của chương
trình hoặc đánh giá được kết quả cuối cùng của chương trình. Đây không phải để nói

288
rằng mỗi chương trình cá nhân hoặc nghiên cứu phải đạt được kết quả này. Các nghiên
cứu dịch tễ học có thể cung cấp dữ liệu mô tả giúp các nhà khoa học nhiều năm sau
hình thành và phát triển một can thiệp để làm giảm tình trạng bệnh tật hoặc tử vong;
một chương trình giáo dục sức khoẻ có thể là một trong những can thiệp đa dạng giúp
làm giảm nguy cơ và sức khoẻ kém. Tuy nhiên, lập luận đưa ra ở đây là các chương
trình, can thiệp hoặc nghiên cứu sức khoẻ cộng đồng phải được thiết kế với nhận thức
về mối quan hệ giữa chương trình này và giảm tỷ lệ bệnh tật hoặc tử vong.
Tất nhiên, các loại lợi ích khác, nói chung là các phúc lợi xã hội, có thể tích luỹ
từ các chương trình y tế. Các chương trình y tế có thể dẫn đến việc làm lớn hơn, ví dụ,
cũng như các lợi ích ít hữu hình hơn, chẳng hạn như xây dựng liên minh hoặc nâng cao
sức khỏe cộng đồng. Những lợi ích này rất quan trọng và cần được xem xét kỹ lưỡng.
Tuy nhiên, chúng là các kết quả ngẫu nhiên hoặc trung gian của các chương trình y tế
chứ không phải là mục tiêu cuối cùng của chương trình y tế. Nếu một chương trình
nhằm mục đích tăng việc làm như là kết thúc (ví dụ như tăng việc làm như một phương
tiện để làm giảm tình trạng tâm lý hoặc như một phương tiện để cải thiện tình trạng
kinh tế xã hội và do đó dẫn đến cải thiện sức khoẻ) hoặc tăng cường cộng đồng (thay
vì củng cố cộng đồng như một phương tiện để giảm bạo lực giữa các cá nhân hoặc như
một phương tiện để giúp đỡ để giám sát phúc lợi của những người trẻ tuổi hoặc người
già trong cộng đồng), thì chương trình này chủ yếu là một chương trình xã hội, chương
trình y tế.
Như được mô tả dưới đây, giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong không cần và không thể
là mục tiêu của mỗi chương trình hoặc chương trình can thiệp y tế; tuy nhiên, các
chương trình y tế đơn lẻ không nên được thực hiện mà không phải là một phần của một
gói lớn các chương trình có mục tiêu kết hợp là giảm bệnh tật và tử vong.
Theo quan điểm này, can thiệp nhằm mục đích cải thiện việc tiếp cận chăm sóc trong
số những người khó tiếp cận có một mục tiêu y tế cực kỳ hợp lý, giả định rằng chương
trình này có hiệu quả trong việc cải thiện khả năng tiếp cận. Các can thiệp khác sẽ
được thiết kế để giảm bất bình đẳng xã hội sẽ được thảo luận thêm trong bước 5.
Khi chúng ta xem xét các mục tiêu và lợi ích y tế để xem ai sẽ được hưởng lợi và
liên quan, chúng ta sẽ không khó để nhận thấy các can thiệp y tế thường được nhắm tới
một nhóm người để qua đó bảo vệ sức khoẻ của những người khác. Chẳng hạn, các
chương trình phòng chống bệnh Lao được thiết kế để bên cạnh việc điều trị cho người
nhiễm Lao còn là bảo vệ những người dân trong cộng đồng khỏi các mối đe dọa về sức
khoẻ do người khác gây ra. Trong một số trường hợp, các chương trình y tế được thiết
kế chủ yếu để bảo vệ các cá nhân khỏi bị ảnh hưởng bởi đe dọa lây bệnh, cho thấy rằng
hoạt động y tế là có tính đề phòng. Các chiến dịch giáo dục sức khoẻ, kiểm tra huyết
áp hay giới hạn tốc giao thông, v.v... là nhằm thúc đẩy các mối quan tâm xã hội về chi
phí, chủ yếu là tăng cường khả năng bảo vệ sức khoẻ của người dân. Hạn chế quyền tự
do của ai đó để bảo vệ bản thân và hạn chế tự do để bảo vệ người khác tạo ra những
gánh nặng về đạo đức khác nhau.

1.1.2. Công cụ phân tích


289
Các can thiệp đề xuất hoặc các chương trình dựa trên một số giả định nhất định
dẫn chúng ta tin rằng các chương trình sẽ đạt được các mục tiêu đã đề ra. Bước 2 yêu
cầu chúng ta kiểm tra những giả định đó là gì và những dữ liệu nào tồn tại để chứng
minh cho mỗi yếu tố đó. Một chương trình giảm nguy cơ tim làm mục tiêu cuối cùng
là giảm các yếu tố tim và gây tử vong. Các giả định của chương trình giáo dục này
(hoặc nỗ lực lớn hơn mà nó là một phần) là chương trình sẽ tiếp cận những cá nhân có
nguy cơ mắc các biến cố về tim; những cá nhân này sẽ học được những thông điệp
giảm rủi ro; từ đó cá nhân sẽ thay đổi hành vi của họ (ví dụ như ngừng hút thuốc lá,
thay đổi chế độ ăn uống, tăng cường tập thể dục) theo cách được đề xuất bởi chương
trình; những thay đổi này sẽ không xảy ra nếu không có chương trình; và sự thay đổi
hành vi tự nó sẽ dẫn đến các tác động xấu đến hoạt động tim ít hơn.
Trong khi nhiều chương trình giáo dục sức khoẻ rất hiệu quả trong việc truyền tải
thông tin mà người nhận học và hiểu, các chương trình nói chung ít thành công hơn khi
mục tiêu hướng tới thay đổi hành vi. Như vậy, mặc dù đánh giá khá hẹp có thể cho
thấy thành công (về sự hiểu biết của người tham gia), một chương trình cuối cùng
không thể tuyên bố thành công nếu không thay đổi được hành vi tỷ lệ bệnh tật và tử
vong vẫn không thay đổi.
Đây không phải là để cho thấy rằng mỗi chương trình phải đạt tới giảm bệnh tật
của chính nó. Các chương trình giáo dục sức khoẻ cá nhân hoặc các chương trình sàng
lọc, ví dụ, có thể là những sáng kiến lớn hơn để giảm tỷ lệ bệnh tim và tử vong. Dữ
liệu có thể cho thấy rằng nhiều chiến dịch giáo dục ở các định dạng khác nhau và với
các thông điệp khác nhau được yêu cầu là để làm thay đổi hành vi lan rộng. Các nỗ lực
nhiều chiều được xem là thích hợp và có ích khi có dữ liệu cho thấy sự kết hợp có thể
mang lại kết quả mong muốn. Một lần nữa, nếu các phương pháp tiếp cận nhiều chiều
chỉ đơn giản là giả thuyết hoặc giả định để giảm các yếu tố gây ra bệnh tật, thì cần phải
nghiên cứu thêm.
Bước này kiểm tra dữ liệu hiện có để thách thức các giả định của chúng ta và chỉ
thực hiện các chính sách hoặc chương trình dựa vào dữ liệu thường bị bỏ quên trong y
tế. Người ta có thể cho rằng đây không phải là vì các chuyên gia không quan tâm đến
việc liệu các phương pháp của họ có liên quan đến kết quả của họ mà là vì chúng ta chỉ
đơn giản giả định rằng họ làm và chúng ta bỏ qua việc tìm kiếm dữ liệu chứng minh
chúng đúng hay sai. Vì vậy, giới thiệu một chương trình dựa trên giả thiết rằng một số
người biết thuốc lá gây hen suyễn và ung thư phổi sẽ bỏ thuốc lá hoặc sàng lọc HIV
bởi vì chúng ta cho rằng những người biết họ bị nhiễm sẽ bắt đầu sử dụng bao cao su
trong mối quan hệ tình dục. Đó là khi các giả định của chúng ta có vẻ rõ ràng nhất về
mặt trực giác rằng chúng ta đang có nguy cơ lớn nhất là không quan tâm đến việc xác
định mức độ chúng được hỗ trợ bằng chứng thực.
Câu hỏi đặt ra cho việc phân tích chính sách và đạo đức là số lượng dữ liệu nào
đủ để biện minh cho việc thực hiện chương trình? Theo nguyên tắc chung, gánh nặng
lớn hơn của một chương trình - ví dụ như về chi phí, những ràng buộc về tự do hoặc
nhắm mục tiêu vào các phân đoạn cụ thể, dễ bị tổn thương đến người dân - thì phải có
bằng chứng rõ ràng hơn để chứng minh rằng chương trình sẽ đạt được mục đích của
290
nó. Nếu ít nhất một số dữ liệu không tồn tại để chứng minh tính hợp lệ của các giả định
của chương trình, phân tích có thể dừng ngay ở đây và về mặt đạo đức y tế, chương
trình không nên được thực hiện. Ngược lại, sự hiện diện của dữ liệu tốt bản thân nó
không biện minh cho chương trình; nó cho phép chúng ta chuyển sang giai đoạn tiếp
theo của phân tích.
1.1.3. Giá trị đạo đức
Nếu dữ liệu gợi ý rằng một chương trình có khả năng đạt được các mục tiêu đã đề
ra, thì bước thứ ba của khung này yêu cầu chúng ta xác định những gánh nặng hoặc
những nguy cơ và rủi ro có thể xảy ra trong việc thực hiện các can thiệp hay nghiên
cứu y tế.
Mặc dù có nhiều loại gánh nặng hoặc nguy cơ có thể đưa đến trong các chương
trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, đa số sẽ chia thành 3 loại chính: nguy cơ đối với
sự riêng tư và bảo mật, đặc biệt là trong các hoạt động thu thập dữ liệu; nguy cơ đối
với tự do và tự quyết của cá nhân khi mục tiêu sức khoẻ cộng đồng được đặt lên hàng
đầu, các quy định có thể được ban hành với các biện pháp cần thiết để kiểm soát dịch
bệnh; và nguy cơ đối với công bằng, nếu các chuyên gia y tế đề xuất các can thiệp sức
khoẻ cộng đồng chỉ nhắm vào các nhóm cụ thể. Các loại gánh nặng khác nhau ít nhiều
có thể xảy ra do các loại hình hoạt động y tế khác nhau mang lại.
Giám sát dịch bệnh và các số liệu thống kê quan trọng nhằm theo dõi các xu
hướng về sức khoẻ và dân số, đặc biệt là kể từ khi thu thập dữ liệu là bắt buộc và dữ
liệu thường có thể nhận biết được danh tính, trong nhiều trường hợp, các số liệu này
còn công khai, điều này làm tăng mối quan ngại về quyền riêng tư của các đối tượng.
Mặc dù các loại dữ liệu thu thập được không được coi là rất cá nhân hoặc nhạy cảm
bởi hầu hết mọi người, đều có ranh giới riêng tư của riêng mình. Hơn nữa, đối với một
số cá nhân, các yếu tố đặc biệt của số liệu thống kê quan trọng, chẳng hạn như quan hệ
cha con hoặc cái chết, có thể được coi là sự xâm phạm đời tư của họ. Cuối cùng, thống
kê quan trọng và các dữ liệu thu thập công khai khác có thể tiết lộ về các nhóm dân tộc
hoặc các đối tượng yếm thế khác từ đó có thể gây kỳ thị hoặc phân biệt đối xử.
Báo cáo về bệnh truyền nhiễm cũng làm tăng mối quan ngại về quyền riêng tư,
nhưng sự vi phạm và rủi ro có thể lớn hơn, vì tên chỉ được báo cáo cho những người có
điều kiện báo cáo (và thường có xu hướng xã hội). Do các cá nhân thường muốn có
khả năng kiểm soát xem liệu những thông tin cá nhân nào được tiết lộ, báo cáo về bệnh
tật sẽ làm tăng thêm nguy cơ vi phạm tính bảo mật nếu các biện pháp an ninh không
được tuân thủ hoặc không hoạt động tốt. Đối với một số người, nguy cơ vi phạm quyền
riêng tư chỉ ở mức độ bảo mật không được duy trì và gây tổn hại như kỳ thị xã hội
hoặc mất việc làm do có sự tiết lộ không chính đáng.
Báo cáo bệnh tật là một ví dụ về một chức năng y tế, ít nhất là trong khuôn khổ
của nó, cũng là thể hiện không công bằng, trong đó gánh nặng của chương trình là do
những người mắc bệnh, làm ảnh hưởng đến lợi ích của những người không mắc bệnh.
Sự không đồng đều này của gánh nặng và lợi ích có thể được biện minh trong những
trường hợp nhất định, khi các lợi ích là quan trọng và khi không có cách nào giảm
gánh nặng để đạt được chúng. Sự không đồng đều về lợi ích và gánh nặng luôn là vấn
291
đề khó giải quyết, nếu giải quyết các nhóm gánh nặng theo cách độc đoán và không có
lý do sức khoẻ.
Tiếp xúc, đôi khi đi kèm với báo cáo bệnh truyền nhiễm, đặt ra thêm những nguy
cơ riêng. Không chỉ tên và tình trạng của một cá nhân được báo cáo, nhưng các cá
nhân còn được yêu cầu cung cấp các địa chỉ liên lạc khác (ví dụ như là đối tượng quan
hệ tình dục) mà họ thường tiếp xúc. Rõ ràng là một hành vi xâm phạm quyền riêng tư,
việc truy tìm cũng xâm phạm quyền riêng tư của cá nhân có tên được tiết lộ, những
người không thể tự quyết định cho dù họ phải tiết lộ tên của mình cho các điều tra
viên. Như đã nêu ở trên, có thể xảy ra các thiệt hại nếu sự bảo mật bị tiết lộ, các cá
nhân có thể cảm thấy bị đối xử phân biệt khi quyền riêng tư của họ bị rò rỉ.
Giáo dục sức khoẻ đặt ra những câu hỏi thú vị về đạo đức. Theo một số cách nhất
định, giáo dục sức khoẻ là sự can thiệp rộng rãi và tốt nhất cho sức khoẻ cộng đồng, vì
nó hoàn toàn tự nguyện và nhằm trao quyền cho mọi người tự quyết định sức khoẻ của
mình khi họ được trang bị thông tin chính xác. Từ quan điểm đạo đức, giáo dục rõ ràng
là thích hợp hơn với các chiến lược phòng ngừa khác, trong chừng mực có hiệu quả
tương đương vì nó tạo ra rất ít gánh nặng cho mọi người và cho xã hội (nếu có).
Tuy nhiên, giáo dục sức khoẻ, mặc dù là một thành phần thiết yếu của hầu hết các
chiến dịch y tế, sẽ không thích hợp cho tất cả các tình huống. Thứ nhất, giáo dục có thể
không hiệu quả ở tất cả các môi trường, và có thể cần phải có những biện pháp mạnh
hơn. Thứ hai, để tăng hiệu quả, các chương trình giáo dục sức khỏe có thể đưa ra
những tình huống đáng nghi ngờ về đạo đức, như thao túng hoặc thậm chí cưỡng ép
đối tượng. Ví dụ, một chương trình ngừng hút thuốc lá có thể cố vận dụng thái độ bằng
cách cho thấy rằng người hút thuốc không được ưa chuộng và chỉ cung cấp thông tin
sai lệch một phần hoặc thậm chí là sai hoàn toàn để đạt được mục đích của nó. Thứ ba,
tất cả các chiến dịch giáo dục sức khoẻ đều mang tính phổ biến áp đặt. Thứ tư, các
chương trình giáo dục sức khoẻ có thể hướng tới mục tiêu truyền tải các thông điệp tới
một số đối tượng nhất định. Mặc dù các mục tiêu này thường được chứng minh trong
các lĩnh vực y tế(ví dụ dữ liệu dịch tễ cho thấy rằng các thành viên trong nhóm này có
nguy cơ cao nhất, vì vậy hình ảnh của họ sẽ đi vào bảng quảng cáo và thông điệp sẽ
được quảng bá trên các đài phát thanh mà họ lắng nghe) và thậm chí cả việc chia sẻ
sức khoẻ cộng đồng trong việc nhắm mục tiêu phải được xem xét nghiêm túc. Sự kỳ
thị xã hội có thể xảy ra nếu một số nhóm người nhất định được cho là những người
mang bệnh lây truyền qua đường tình dục và cơ hội để can thiệp sức khoẻ cộng đồng
sẽ bị bỏ sót nếu tất cả chúng ta đều tin tưởng thông qua các chiến dịch truyền thông có
thiện chí, chỉ có một số nhóm có nguy cơ bị bạo lực gia đình hoặc HIV. Cuối cùng, các
chiến dịch giáo dục sức khoẻ có thể được kèm theo các ưu tiên. Các biện pháp khuyến
khích thường được xem là ít có vấn đề về mặt đạo đức hơn là các biện pháp cưỡng chế
hoặc đe dọa, nhưng thậm chí các động cơ khuyến khích có thể gây ra vấn đề về mặt
đạo đức trong những bối cảnh nhất định, chẳng hạn như khi các biện pháp khuyến
khích tài chính được đưa ra để sử dụng các loại biện pháp tránh thai cụ thể hoặc tránh
mang thai. Nghiên cứu về những gánh nặng trong y tế cho thấy một loạt tác hại có thể
xảy ra thông qua sự tham gia nghiên cứu. Những rủi ro này bao gồm rủi ro y học nếu
nghiên cứu là lâm sàng và rủi ro tâm lý hoặc xã hội nếu nghiên cứu là dịch tễ học hoặc
292
khoa học xã hội. Trong những năm gần đây, cũng có sự quan tâm nhiều hơn đến gánh
nặng cá nhân và xã hội có thể là kết quả của sự bất công hoặc bóc lột trong nghiên cứu
khi một số quần thể bị thiệt thòi hoặc được hưởng đặc quyền thông qua việc tham gia
nghiên cứu. Ngoài những rủi ro này, có thể xảy ra nếu những phát hiện của nghiên cứu
sức khoẻ cộng đồng chưa bao giờ được thực hiện trong chính sách hoặc thực tiễn y tế.
Bất kỳ nghiên cứu nào cũng chỉ ra ít nhất là gánh nặng của sự bất tiện đối với những
người tham gia và tất nhiên có thể gây nguy hiểm lớn hơn cho các cá nhân hoặc cộng
đồng tình nguyện. Cuối cùng, trong trường hợp này, luật có thể áp đặt, bằng cách thiết
kế hoặc vô tình có mối đe dọa đối với công bằng nếu các quy định áp đặt gánh nặng
không đáng kể lên các phân tầng cụ thể của xã hội.
1.1.4. Giải quyết xung đột đạo đức
Phần này đòi hỏi chúng ta phải giảm thiểu gánh nặng khi đã được xác định. Nếu
bước 3 cho thấy chương trình hoặc chính sách đặt gánh nặng gián tiếp hoặc trực tiếp,
chúng ta cần có đạo đức để xác định liệu chương trình có thể được sửa đổi theo cách
giảm thiểu gánh nặng, đồng thời không làm giảm hiệu quả của chương trình. Các
chuyên gia y tế, ví dụ khi sẵn sàng báo cáo tên và bệnh của bệnh nhân với nhà nước,
cần thông báo cho bệnh nhân biết tên của họ, theo luật pháp, phải được báo cáo với cơ
quan y tế nhưng luật pháp cũng yêu cầu họ được báo cáo một cách kín đáo. Mặc dù
các chương trình báo cáo không bắt buộc, nhưng những cán bộ y tế cần tôn trọng bệnh
nhân nếu bệnh nhân được thông báo đầy đủ.
Liên hệ với các chương trình cần chú ý, đặt ra những mối đe dọa đến sự riêng tư
và bí mật cá nhân. Tuy nhiên, các chương trình nghiên cứu điều tra cần được nguyện,
trong đó không áp dụng hình thức xử phạt đối với công dân từ chối hợp tác. Nhân viên
y tế phải có trách nhiệm về mặt đạo đức đối với các cá nhân muốn tìm tham gia nghiên
cứu theo dõi quyền từ chối tiết lộ tên của các đối tác cũng như quyền của mình để
thông báo cho các đối tác, các đối tác liên lạc với một đại diện của nhà nước.
Nếu có 2 lựa chọn tồn tại để giải quyết vấn đề sức khoẻ cộng đồng, chúng ta
được yêu cầu phải có đạo đức để lựa chọn cách tiếp cận ít rủi ro hơn đối với những
tuyên bố đạo đức khác, chẳng hạn như tự do, sự riêng tư, cơ hội và công bằng, giả định
lợi ích không giảm đáng kể. Đánh giá dựa trên sự tồn tại của dữ liệu âm thanh. Nếu dữ
liệu cho thấy một chương trình sàng lọc tự nguyện sẽ kiểm tra cơ bản cùng một số cá
nhân như là một bắt buộc, bởi vì hầu như không ai từ chối thử nghiệm khi được hỏi, thì
sẽ không hợp lý về mặt đạo đức để thực hiện một chương trình bắt buộc. Nếu giám sát
bệnh hiệu quả như nhau với các định danh duy nhất hoặc với tên một chương trình
nhận dạng duy nhất là sự lựa chọn thích hợp về đạo đức.
Chương trình có được thực hiện một cách công bằng không?
Phần này phù hợp với nguyên tắc đạo đức công bằng, yêu cầu đối sử công bằng
lợi ích và gánh nặng đối tượng trong xã hội có các lợi ích sức khoẻ cộng đồng, chẳng
hạn như nước sạch, không thể giới hạn ở một cộng đồng, hoặc không thể có một dân
số phải chịu gánh nặng không cân xứng. Chẳng hạn, các chương trình kiểm tra HIV
không thể được thực hiện ở các cộng đồng dân cư nghèo hoặc cộng đồng dân cư thiểu
số nếu không có sự can thiệp mạnh mẽ để thảo luận về lý do tại sao các chương trình
293
kiểm tra HIV phổ cập lại thích hợp hơn với các chương trình mục tiêu); các chương
trình giảm nguy cơ tim không thể nhắm mục tiêu riêng cho người đàn ông da trắng khi
phụ nữ và người thiểu số cũng có nguy cơ mắc bệnh tim.
Các chương trình được thực hiện công bằng thậm chí còn quan trọng hơn nếu các
biện pháp hạn chế được quan tâm đúng mức. Sự bất công là sai trái vì lợi ích của nó,
cũng như những thiệt hại vật chất nó có thể gây ra. Hậu quả xã hội xảy ra nếu các
khuôn mẫu xã hội được tạo ra hoặc tồn tại, chẳng hạn như khuôn mẫu mà chỉ có những
phân đoạn nhất định của dân số có nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình
dục. Ngoài ra, sức khoẻ cộng đồng thực sự gây tổn hại đến kết quả khi các cá nhân
không tin rằng họ có nguy cơ mắc bệnh vì họ không bao giờ được nhắm tới các chiến
dịch giáo dục, hoặc do các bác sĩ của họ không bao giờ sàng lọc họ vì mắc phải tình
trạng nguy cơ phổ biến. Điều này không có nghĩa là các chương trình hoặc nguồn lực
phải được phân bổ bình đẳng cho tất cả các cộng đồng - thay vào đó, phân bổ phải
công bằng. Đó là, sự khác biệt không thể được áp dụng một cách tùy tiện hoặc dựa trên
các giả định lịch sử về những nhóm có thể có nguy cơ. Một lần nữa, các chương trình
phân phối không công bằng phải được chứng minh bằng dữ liệu. Hơn nữa, các hậu quả
xã hội phải được xem xét nếu một cộng đồng được phân bổ các nguồn lực không công
bằng, những hậu quả này phải được công bằng với những lợi ích cho cộng đồng đó
hoặc những người khác.
Mặt khác liệu y tế có vai trò rõ ràng trong việc điều chỉnh những bất bình đẳng
hiện tại, đặc biệt là do mối liên hệ chặt chẽ giữa điều kiện sống nghèo nàn và kết cục
sức khoẻ kém. Trong phạm vi nào đó, có một trách nhiệm tích cực từ phía các chuyên
gia y tế để ủng hộ nhà ở tốt hơn, việc làm tốt hơn và tiếp cận tốt hơn với các chương
trình thực phẩm, vì vận động đó có thể là con đường tốt nhất để cải thiện sức khoẻ
cộng đồng.
Một số khái niệm về luật pháp cho phép và thậm chí yêu cầu phân bổ không công
bằng các quyền lợi cho các bất bình đẳng hiện tại. Luật pháp đòi hỏi chúng ta phải
phân bổ các nguồn lực một cách không bình đẳng để giúp những người gặp điều kiện
khó khăn vượt qua. Xác định nhu cầu để tất cả các thành viên trong xã hội được đáp
ứng một mức độ "hoạt động bình thường điển hình", mà còn có thể dẫn đến việc phân
phối đồng đều các nguồn lực nhất định. Phải thừa nhận rằng, không phải tất cả các nhà
triết học đều chấp nhận khái niệm công bằng; một số phân biệt giữa các bất bình đẳng
xã hội đã tồn tại trước đây là không công bằng (vì họ là kết quả của một người hoặc
một cộng đồng đã bị làm nhục bởi một nguồn có thể nhận dạng được), nơi mà sự can
thiệp bị nợ và những bất bình đẳng chỉ là điều không may, nếu không có sự can thiệp
nào được yêu cầu về đạo đức.
Y tế có trách nhiệm tích cực tham gia vào các chương trình và can thiệp nhằm
giảm bớt bất bình đẳng xã hội, ít nhất là khi những bất bình đẳng này liên quan đối với
vấn đề sức khoẻ. Thực tế, rất khó để tìm ra một dự báo mạnh tích cực hơn so với lý
thuyết và do đó nó là một chức năng thích hợp, nếu không bắt buộc, của y tế để giảm
nghèo đói, điều kiện nhà ở kém chất lượng và mối đe dọa đối với một nền giáo dục có
ý nghĩa - không vì lý do nào khác ngoài việc làm giảm tỷ lệ mắc bệnh.
294
Lợi ích và gánh nặng của một chương trình có thể được cân bằng như thế nào?
Nếu xác định được rằng can thiệp sức khoẻ cộng đồng, chính sách hoặc chương
trình có thể sẽ đạt được các mục tiêu đã đề ra, nếu gánh nặng tiềm ẩn được thừa nhận
và giảm thiểu, và nếu chương trình dự kiến sẽ được thực hiện theo cách không phân
biệt, thì phải có quyết định đạt được về việc liệu những lợi ích kỳ vọng có thể giải
quyết được những gánh nặng đã được xác định. Nhận thấy tất nhiên, chính sách dựa
trên nhiều yếu tố ngoài đạo đức, vấn đề được đặt câu hỏi là liệu từ góc độ đạo đức,
chương trình có nên đi tiếp không. Cán bộ của các sở y tế và các chuyên gia y tế khác
có thể không có quyền thực hiện tất cả các chương trình mà họ cho là có lợi, nhưng họ
có trách nhiệm vận động các chương trình nâng cao sức khoẻ và loại bỏ các chương
trình chính sách phi đạo đức, thiếu dữ liệu, thủ tục đối xử phân biệt rõ ràng, hoặc
những hạn chế không có căn cứ đối với tự do cá nhân.
Tuy nhiên, trong khi những người hợp có trách nhiệm sẽ đồng ý rằng gánh nặng
và lợi ích phải cân bằng, các chương trình nặng nề nhất nên được thực hiện chỉ trong
bối cảnh những lợi ích to lớn và quan trọng, nhưng sự bất bình đẳng đều được bảo đảm
thông qua các chi tiết. Tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người, sẽ có những quan
điểm khác nhau về các chương trình khác nhau như thế nào, ví dụ như bắt buộc phải
tiêm chủng cho trẻ em trước khi bắt đầu đi học. Người dân có thể có kỳ vọng khác
nhau về mức độ bảo vệ nguồn cung cấp nước cho các thế hệ tương lai, đặc biệt nếu nó
có ý nghĩa là khi thuế cao hơn hoặc cấm sử dụng nước sạch mục đích giải trí – Tuy nó
rõ ràng là có lợi, không chỉ riêng về mặt cá nhân, mà còn về sự gắn kết cộng đồng.
Những bất đồng ý kiến không thể tránh khỏi, nhưng sẽ được khắc phục thông qua
một hệ thống các chính sách công bằng. Công bằng theo chính sách đòi hỏi một xã hội
tham gia vào một quá trình xây dựng chính sách để xác định chức năng nào của y tế
mà nhà nước muốn duy trì, thừa nhận rằng một số hành vi vi phạm tự do và các gánh
nặng khác là không thể tránh khỏi. Cần phải có cuộc thảo luận cởi mở về những gì mà
xã hội thu được từ sức khoẻ cộng đồng tốt và tại sao những lợi ích như vậy thường
không thể đạt được thông qua các phương pháp ít hơn trong cộng đồng hoặc tự do hơn.
Dĩ nhiên, vấn đề đặt ra là nên giải quyết tại sao những lợi ích khác lại có những đòi hỏi
về đạo đức. Một quá trình như vậy, ngay cả khi được thực hiện theo các tiêu chuẩn
nhất định, không được đưa ra quyết định dựa trên ý chí của đa số. Thực tế, các cuộc
thảo luận, đặc biệt là những khác biệt, phải được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo rằng
quan điểm của thiểu số được xem xét cẩn thận. Các chương trình khác biệt nên được
tiến hành trước bởi các buổi thảo luận công khai, không chỉ là phiếu bầu, để có thể
lắng nghe và xem xét các quan điểm thiểu số một cách cẩn thận.
Trong thực tế phải thừa nhận rằng sẽ có một số người không muốn nước của họ
sử dụng có Flour, không muốn con của họ được tiêm chủng, không muốn đeo dây an
toàn, không muốn giới hạn tốc độ giao thông. Sự bất đồng quan điểm không đủ để
ngăn chặn chương trình y tế; thực sự, sự bất đồng quan điểm là điều tất yếu trong tất cả
các đề xuất. Tuy nhiên, phải cân nhắc đến những vấn đề khác và nó đáng được chú ý,
đặc biệt nếu nó được nêu lên bởi một nhóm nhỏ được xác định cụ thể như người dân

295
tộc thiểu số, một nhóm tuổi đặc biệt hoặc cư dân của một khu vực cụ thể đáng quan
tâm.
Trong việc cân bằng các giá trị và lợi ích, gánh nặng của chương trình càng lớn
thì lợi ích sức khoẻ cộng đồng sẽ càng cao đồng thời những lợi ích và gánh nặng
không đồng đều hơn (nghĩa là gánh nặng được áp đặt lên một nhóm để bảo vệ sức
khoẻ của người khác), lợi ích lớn hơn phải là lợi ích kỳ vọng. Các chương trình áp đặt
phải được giữ ở mức tối thiểu; không bao giờ thực hiện khi một chương trình cho thấy
mục tiêu có thể thấy rõ hạn chế và chỉ nên thực hiện khi có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng rõ ràng và dự báo cho thấy hiệu quả rõ ràng. Tuy nhiên, chúng ta là một xã
hội đa nguyên, bao gồm cả những quan niệm về đạo đức của chúng ta. Các tổ chức và
cộng đồng khác nhau sẽ quyết định khác nhau về các hoạt động y tế thích hợp. Cuối
cùng, các cộng đồng khác nhau sẽ ban hành các chính sách công khác nhau, dựa trên
sự cân bằng giữa lợi ích và gánh nặng của họ, có thể chỉ ra một quy trình công bằng,
hoặc ít nhất là một quá trình có nhiều tổ chức chỉ đạo các chính sách y tế địa phương.
1.2. Khung đạo đức y tế của Nuffield
1.2.1. Mục tiêu
Các mục tiêu cho sức khỏe cộng đồng
- Giảm thiểu rủi ro về sức khỏe do hành động của những người khác, như lái xe
và uống thuốc ở nơi công cộng.
- Giảm các nguyên nhân gây bệnh liên quan đến điều kiện môi trường, ví dụ như
cung cấp nước uống sạch và thiết lập các tiêu chuẩn nhà ở.
- Bảo vệ và tăng cường sức khỏe của trẻ em và những người dễ bị tổn thương
khác.
- Giúp mọi người vượt qua những cơn nghiện có hại cho sức khỏe hoặc giúp họ
tránh những hành vi không lành mạnh.
- Đảm bảo rằng mọi người dễ dàng có được một cuộc sống lành mạnh, ví dụ như
bằng cách cung cấp các cơ hội thuận tiện và an toàn để tập thể dục
- Đảm bảo rằng mọi người có quyền truy cập thích hợp vào các dịch vụ y tế.
- Giảm bất bình đẳng về sức khỏe
Đồng thời, các chương trình y tế công cộng nên:
- Không cố gắng ép buộc người lớn sống một cuộc sống khỏe mạnh
- Giảm thiểu việc thực hiện các biện pháp mà không hỏi ý kiến mọi người (cá
nhân hoặc sử dụng các thủ tục dân chủ)
- Giảm thiểu các biện pháp xâm phạm hoặc xung đột với các khía cạnh quan
trọng của cuộc sống cá nhân, chẳng hạn như quyền riêng tư
1.2.2. Công cụ phân tích
Một cách để bắt đầu suy nghĩ về việc giải quyết căng thẳng giữa việc nâng cao
sức khỏe cộng đồng và bảo vệ các quyền tự do cá nhân được cung cấp theo “nguyên
296
tắc gây hại” nâng cao nổi tiếng bởi John Stuart Mill trong bài tiểu luận về Tự do (On
Liberty):
Đối tượng của bài tiểu luận này là để khẳng định một nguyên tắc rất đơn giản,
như việc chính phủ quản lý xã hội thông qua việc kiểm soát và áp đặt các cá nhân, cho
dù các phương tiện được sử dụng là vũ lực dưới hình thức pháp lý, hoặc ép buộc đạo
đức của dư luận. Nguyên tắc đó là, xã hội được bảo đảm, cá nhân hoặc tập thể được tự
do hành động trong khuôn khổ cho phép, là tự bảo vệ. Đó là mục đích duy nhất mà sức
mạnh có thể là thực hiện đúng trên bất kỳ thành viên nào của một cộng đồng văn minh,
trái với ý muốn của anh ta, là để ngăn ngừa tổn hại cho người khác. Lợi ích riêng của
anh ta, cả về thể chất hay đạo đức, không phải là một lệnh bảo đảm. Anh ta không thể
bị buộc phải làm hay cấm bởi vì anh ta sẽ làm tốt hơn vì vậy, bởi vì nó sẽ làm cho anh
ta hạnh phúc hơn, bởi vì, theo ý kiến của người khác, làm vậy sẽ như khôn ngoan, hoặc
thậm chí đúng Đây là những lý do tốt để tái hợp với anh ta, hoặc lý luận với anh ta,
hoặc thuyết phục anh ta, hoặc cầu xin anh ta, nhưng không phải để thuyết phục anh ta,
hoặc thăm Anh ta với bất kỳ xấu xa, trong trường hợp anh ta làm khác. Để biện minh
cho điều đó, hành vi mà nó là muốn răn đe anh ta phải được tính toán để tạo ra tội ác
cho người khác. Phần duy nhất của hành vi của bất kỳ ai, mà anh ta có thể hòa nhập
được với xã hội, là điều khiến người khác quan tâm. Trên chính bản thân mình, trên cơ
thể và tâm trí của chính mình, cá nhân có chủ quyền.
1.2.3. Giá trị đạo đức
Bình đẳng về cái gì?
Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi quan trọng về chính xác những gì cần thiết để
giảm bất bình đẳng về sức khỏe không công bằng, và ‘tăng cường sức khỏe của mọi
người như nhau. Hai chiến lược chính, không phải là loại trừ lẫn nhau, là:
- Bình đẳng về kết quả sức khỏe. Có thể lập luận rằng sự bình đẳng chỉ đạt được
ở nơi dữ liệu khách quan có thể đo lường được như tuổi thọ, chỉ số khối cơ thể BMI)
hoặc huyết áp là như nhau giữa các nhóm hoặc cá nhân được so sánh. Một trong những
lợi thế thực tế của hương pháp tập trung vào kết quả là về nguyên tắc, có thể đo lường
mức độ bình đẳng một cách tương đối đơn giản.
- Bình đẳng về cơ hội và tiếp cận (với các dịch vụ y tế và môi trường thuận lợi
cho sức khỏe).
Một cách tiếp cận khác là tập trung vào sự bình đẳng của tiếp cận. Bằng cách
này, người ta có thể bao gồm quyền tiếp cận cả dịch vụ y tế và môi trường thuận lợi
cho sức khỏe, như đường đi xe đạp, công viên, cơ sở thể thao, hoặc môi trường làm
việc và sinh hoạt an toàn. Trong thực tế, nhiều cách tiếp cận bình đẳng có thể mang lại
một số trọng lượng cho các vấn đề truy cập. Một vấn đề của phương pháp tiếp cận dựa
trên truy cập là mọi người có thể có khả năng khác nhau để sử dụng quy định tiếp cận.
Do đó, mặc dù quyền tiếp cận có thể bằng nhau, kết quả có thể không.
1.2.4. Giải quyết xung đột đạo đức

297
Cuối cùng, câu hỏi đặt ra là nên giảm bất bình đẳng như thế nào? Có một số các
chiến lược khác nhau có thể được theo đuổi. Về nguyên tắc, có thể đạt được sự bình
đẳng bằng cách nâng mức phúc lợi hoặc cơ hội của những người kém nhất lên mức của
những người được hưởng các tiêu chuẩn cao nhất, hoặc bằng cách hạ thấp phúc lợi của
những người đứng đầu. Về sau tùy chọn, để tránh vấn đề ’giảm mức độ phản đối đối
với các cách tiếp cận bình đẳng tìm cách loại bỏ sự bất bình đẳng, một số nhà bình
luận đã đề ra một chiến lược ưu tiên: thay vì tình trạng sức khỏe tương đối, người ta
nên tập trung vào vị trí tuyệt đối của điều tồi tệ nhất và nâng cao nó. Cách tiếp cận như
vậy có thể có những hậu quả khác nhau trong thực tế và những tác động cần theo dõi
chặt chẽ.
Rõ ràng, sự bình đẳng về sức khỏe của người Viking có nhiều khía cạnh và được
xem là một khái niệm đa chiều. không tìm kiếm ở đây để ưu tiên kết quả sức khỏe cụ
thể. Chúng tôi cũng không cố gắng chỉ định sự bất bình đẳng không thể chấp nhận
được ở một số nhóm hơn là những nhóm khác. Tuy nhiên, khung nên cung cấp một
công cụ tham khảo hữu ích để thiết lập sự bất bình đẳng hay không tồn tại, và nếu vậy,
theo nghĩa nào thì kết quả sức khỏe hoặc cơ hội được phân phối không đồng đều, cho
dù phân phối này là không công bằng, và nếu vậy, làm thế nào nó nên được sửa chữa.
2. ĐẠO ĐỨC TRONG THỰC HÀNH ĐIỀU DƯỠNG
2.1. Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng Việt Nam theo Quyết định số
20/QĐ-HĐD, ngày 10/09/2012 của Hội Điều dưỡng Việt Nam
Nghề Y nói chung, nghề điều dưỡng nói riêng được phân biệt với các nghề khác
bởi nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp mang tính đặc thù, đó là: chăm sóc, điều trị, cứu
người, làm giảm nhẹ sự đau đớn của con người do bệnh tật và do các can thiệp y tế. Để
hoàn thành nghĩa vụ nghề nghiệp đối với sự ủy thác của xã hội điều dưỡng viên phải
vừa giỏi chuyên môn và vừa phải có đạo đức nghề nghiệp. Tính chuyên nghiệp và đạo
đức nghề nghiệp là nền tảng của nghề điều dưỡng.
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam được xây dựng dựa
trên các cơ sở: (1) Pháp lý: dựa vào Điều 42 Luật Phòng chống tham nhũng; (2) Nghĩa
vụ nghề nghiệp của điều dưỡng viên được quy định bởi: các mối quan hệ với người
bệnh, đồng nghiệp, nghề nghiệp và xã hội; (3) Những thách thức của y đức trong cơ
chế thị trường: nảy sinh những mâu thuẫn trong việc thực thi nghĩa vụ nghề nghiệp của
điều dưỡng viên; (4) Trên cơ sở hội nhập quốc tế: tham khảo Chuẩn đạo đức nghề
nghiệp điều dưỡng viên của Hội đồng Điều dưỡng quốc tế (The ICN Code of Ethics
for Nurses; 2000) và Quy tắc đạo đức y học của Hiệp hội Y học thế giới (Medical
Ethics manual of the World Medical Asociation; 2005).
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên là những nguyên tắc, những giá
trị nghề nghiệp, những khuôn mẫu để hướng dẫn điều dưỡng viên đưa ra các quyết
định có đạo đức trong quá trình hành nghề. Chuẩn đạo đức nghề nghiệp cũng là cơ sở
để người bệnh, người dân và người quản lý giám sát, đánh giá việc thực hiện của hội
viên trên phạm vi cả nước. Mọi điều dưỡng viên cần cam kết áp dụng mọi lúc, mọi nơi
hành nghề và tại mọi cơ sở y tế.

298
Bảo đảm an toàn cho người bệnh
1. Duy trì chuẩn mực thực hành tốt nhất có thể ở nơi làm việc.
2. Chịu trách nhiệm cá nhân về mọi quyết định và hành vi chuyên môn trong
chăm sóc người bệnh.
3. Can thiệp kịp thời và báo cáo cho người phụ trách khi phát hiện các hành vi
thực hành của người hành nghề không bảo đảm an toàn cho người bệnh.
Tôn trọng người bệnh và người nhà người bệnh
1. Tôn trọng tuổi, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng của người bệnh.
2. Tôn trọng quyền tự quyết của người bệnh trong khi thực hành chăm sóc.
3. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm và bảo đảm kín đáo tốt nhất có thể cho người
bệnh khi chăm sóc và làm thủ thuật.
4. Cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến các giải pháp và hoạt động chăm
sóc cho người bệnh.
5. Giữ gìn những bí mật liên quan đến bệnh tật và cuộc sống riêng tư của người
6. Đối xử công bằng với mọi người bệnh.
Thân thiện với người bệnh và người nhà người bệnh
1. Giới thiệu tên và chào hỏi người bệnh, người nhà người bệnh một cách thân
thiện.
2. Lắng nghe người bệnh, người nhà người bệnh và đáp lại bằng câu nói ân cần
với cử chỉ lịch sự.
3. Cung cấp dịch vụ chăm sóc kèm theo nụ cười thân thiện.
4. Giúp người bệnh giảm nhẹ đau đớn do bệnh tật và do phẫu thuật, thủ thuật.
Trung thực trong khi hành nghề
1. Trung thực trong việc quản lý, sử dụng thuốc và vật tư tiêu hao cho người
bệnh.
2. Trung thực trong việc thực hiện các hoạt động chuyên môn chăm sóc người
bệnh và thực hiện các chỉ định điều trị.
3. Trung thực trong việc ghi các thông tin trong hồ sơ bệnh án của người bệnh.
Duy trì và nâng cao năng lực hành nghề
1. Thực hiện đầy đủ chức năng nghề nghiệp của điều dưỡng viên.
2. Tuân thủ các quy trình kỹ thuật, các hướng dẫn chuyên môn khi chăm sóc
người bệnh.
3. Học tập liên tục để cập nhật kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp.
4. Tham gia nghiên cứu và thực hành dựa vào bằng chứng.
Tự tôn nghề nghiệp
299
1. Giữ gìn và bảo vệ uy tín nghề nghiệp khi người khác làm tổn hại đến các giá trị
và danh dự của nghề.
2. Tận tụy với công việc chăm sóc người bệnh và tự giác chấp hành các quy định
ở nơi làm việc.
3. Từ chối nhận tiền hoặc lợi ích khác của người bệnh, người nhà người bệnh vì
mục đích được ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh.
4. Tôn trọng Điều lệ Hội và tự nguyện tham gia các hoạt động của Hội Điều
dưỡng ở các cấp.
Thật thà đoàn kết với đồng nghiệp
1. Hợp tác và giúp đỡ đồng nghiệp hoàn thành nhiệm vụ.
2. Tôn trọng và bảo vệ danh dự, uy tín của đồng nghiệp.
3. Truyền thụ và chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp với đồng nghiệp.
Cam kết với cộng đồng và xã hội
1. Nói và làm theo các quy định của Pháp luật.
2. Gương mẫu tại cộng đồng và nơi sinh sống.
3. Tham gia các hoạt động từ thiện và bảo vệ môi trường.
2.2. Phẩm chất đạo đức
2.2.1. Ý thức trách nhiệm cao
Các công việc của người làm Điều Dưỡng đều liên quan tới sức khỏe, cuộc sống
của con người. Mà sức khỏe thì luôn là tài sản vô giá của con người. Vì vậy trong công
việc Điều Dưỡng viên không thể lơ là, cẩu thả mà phải làm cẩn thận, có trách nhiệm.
Mọi sự cẩu thả, sơ xuất của Điều Dưỡng viên đều có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng
đối với bệnh nhân. Hơn ai hết Điều Dưỡng viên phải hiểu rõ trách nhiệm cao cả của
mình và phải rèn luyện để nâng cao ý thức trách nhiệm của mình.
2.2.2. Sự trung thực
Điều này vô cùng quan trọng. Vì nó là cơ sở để xây dựng sự tin tưởng của bệnh
nhân đối với Điều Dưỡng viên. Không một ai có thể kiểm tra hết được các công việc
của người làm Điều Dưỡng. Vì vậy rất cần sự trung thực đáng quý từ Điều Dưỡng viên
2.2.3. Tác phong khẩn trương và tự tin trong công việc
Do tính chất nghề nghiệp đặc thù của công việc là đấu tranh cho sự sống của con
người vì vậy nếu chậm trễ, luống cuống, thiếu tự tin thì trong nhiều trường hợp dẫn
đến hậu quả quan trọng không cứu sống được bệnh nhân. Bởi nhiều khi ranh giới giữa
sự sống và cái chết thật mong manh như sợi tơ. Vì vậy đối với Điều Dưỡng viên đòi
hỏi phải có sự khẩn trương, bình tĩnh, tư tin khi làm việc. Tuy nhiên khẩn trương
không đồng nghĩa với hấp tấp vội vàng như vậy chỉ làm hỏng việc thêm.
2.2.4. Niềm đam mê, lòng yêu nghề

300
Bất kỳ một nghề gì nếu như chúng ta không yêu nó thì sẽ không thể nào chuyên
tâm làm tốt được. Điều Dưỡng cũng vậy đặc biệt lại là nghề chăm sóc sức khỏe cho
con người. Có yêu nghề, có say nghề thì mới đặt hết lòng mình, có trách nhiệm trong
làm việc. Nghề nào cũng có cái khổ, cái khó khăn riêng nhất là nghề Điều Dưỡng –
nghề làm dâu trăm học thì cái sự khổ vất vả lớn hơn rất nhiều. Tuy nhiên nếu như yêu
nghề, sẵn sàng sống chết với nghề thì bạn có thể vượt qua được mọi khó khăn cũng
như khổ ải.
Ngoài ra, người Điều dưỡng cần có
Sự cảm thông và ân cần đối với người bệnh
Điều Dưỡng viên phải đồng cảm thấu hiểu với nỗi đau của người bệnh, đặt mình
vào địa vị của người bệnh thì mới có thể tận tâm trong chăm sóc được. Tuy nhiên phải
tránh không để tình cảm lẫn vào công việc. Đây là điều tối kỹ không chỉ đối với nghề
Điều Dưỡng mà đối với bất kỹ một ngành nghề nào
Sự mềm mỏng khi làm việc nhưng vẫn giữ nguyên tắc riêng
Điều Dưỡng viên không chỉ là người chăm sóc cho bệnh nhân mà đôi khi còn
phải đóng vai trò là nhà tư vấn, nhà tâm lý để nắm bắt được tâm lý người bệnh, hiểu
được họ thì mới khiến cho công việc thuận lợi hơn. Người Điều Dưỡng giỏi phải là
người có sự co dãn linh hoạt, lúc thì rất mềm mỏng nhưng có lúc lại phải rất nguyên
tắc.
2.3. Quy tắc đạo đức điều dưỡng của Hội điều dưỡng Việt Nam
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam được xây dựng trên
các cơ sở pháp lý: dựa vào Điều 42, Luật Phòng chống tham nhũng; Nghĩa vụ nghề
nghiệp của điều dưỡng viên được quy định bởi: các mối quan hệ với người bệnh, đồng
nghiệp và xã hội; Những thách thức của y đức trong cơ chế thị trường nảy sinh những
mâu thuẫn trong việc thực thi nghĩa vụ nghề nghiệp của điều dưỡng viên; Trên cơ sở
hội nhập quốc tế: tham khảo chuẩn đạo đức nghề nghiệp điều dưỡng viên của ICN
2000 và quy tắc đạo đức y học của Hiệp hội Y học thế giới 2005.
Chuẩn đạo đức nghiệp điều dưỡng viên là những quy tắc, những giá trị nghề
nghiệp, những khuôn mẫu để hướng dẫn điều dưỡng viên đưa ra các quyết định có đạo
đức trong quá trình hành nghề. Chuẩn đạo đức nghề nghiệp cũng là cơ sở để người
bệnh, người dân và người quản lý giám sát, đánh giá việc thực hiện của Hội viên là điều
dưỡng viên trên phạm vi cả nước. Mọi điều dưỡng viên cần cam kết áp dụng mọi lúc,
mọi nơi hành nghề và tại cơ sở y tế.
Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên được áp dụng cho điều dưỡng viên
Việt Nam, các giáo viên hướng dẫn điều dưỡng viên và điều dưỡng trưởng các cấp.
Chuẩn này được xây dựng với các mục đích: Giáo dục điều dưỡng tự rèn luyện theo
chuẩn mực đạo đức phù hợp với nghề điều dưỡng được xã hội thừa nhận; Giúp điều
dưỡng viên đưa ra các quyết định trong các tình huống hành nghề phù hợp với chuẩn
đạo đức nghề nghiệp; Công khai chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên; là
cơ sở để người dân, người bệnh và nhà quản lý y tế giám sát, đánh giá việc thực hiện

301
của điều dưỡng viên; Công bố chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt
Nam với các nước ASEAN và các nước khác.
3. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU ĐIỀU DƯỠNG
3.1. Một số vấn đề đạo đức nghiên cứu trong quá trình thực hiện nghiên cứu
3.1.1. Đảm bảo tính công bằng
Nguyên tắc này đòi hỏi sự công bằng trong phân bổ, nghĩa là phân bổ công bằng
cả lợi ích và nguy cơ rủi ro cho những đối tượng tham gia nghiên cứu, cũng như những
chăm sóc mà đối tượng tham gia nghiên cứu được hưởng. Nghĩa vụ của người thực
hiện nghiên cứu là phải đối xử với mọi đối tượng nghiên cứu một cách đúng đắn và
phù hợp về mặt đạo đức, đảm bảo mỗi cá nhân tham gia vào nghiên cứu nhận được tất
cả những gì mà họ có quyền được hưởng.
3.1.2. Đảm bảo tính riêng tư
Riêng tư trong đạo đức nghiên cứu là những thông tin, những vấn đề của mỗi cá
nhân đối tượng tham gia nghiên cứu. Những thông tin, những vấn đề của cá nhân đối
tượng tham gia nghiên cứu có thể là lịch sử của bản thân, của gia đình và của những
người thân trong gia đình, họ hàng do đối tượng cung cấp, có thể là tình hình sức khỏe
bệnh tật, những đặc điểm sinh học của cá nhân đối tượng nghiên cứu, cũng có thể là
những tâm tư, tình cảm trong mối quan hệ của cá nhân đối tượng, nó có thể là quan hệ
vợ chồng, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội…
3.1.3. Đảm bảo tính tự nguyện trên cơ sở được thông tin đầy đủ
Công cụ cung cấp thông tin chính của nhà nghiên cứu và nhà tài trợ là Phiếu chấp
thuận tham gia nghiên cứu. Tài liệu này được sử dụng trong tất cả các nghiên cứu
không được miễn lấy chấp thuận. Vì thế, hầu hết các nghiên cứu sẽ sử dụng Phiếu chấp
thuận tham gia nghiên cứu do Hội đồng đạo đức thông qua.
Thỏa thuận tham gia được chấp thuận phải tuân theo những yêu cầu về pháp lý
như sau:
 Những yếu tố cần có (như đã xác định trong các quy định) cần phải được nêu
rõ.
 Nội dung Phiếu chấp thuận phải dễ hiểu với những người không thuộc lĩnh
vực khoa học.
 Không đề cập đến khước từ quyền lợi hoặc quyền tự bảo vệ hay những từ
giải thích khác trong bản thỏa thuận.
Khi một nghiên cứu được tiến hành trên thực tế, nhà nghiên cứu sẽ tiếp cận và
tương tác với các đối tượng nghiên cứu để mời tham gia vào nghiên cứu và sau đó nếu
được đối tượng nghiên cứu chấp thuận tham gia nghiên cứu thì hoạt động thu thập số
liệu sẽ được triển khai. Vấn đề đặt ra lúc này là cung cấp đầy đủ thông tin cho các đối
tượng được mời tham gia nghiên cứu để những đối tượng tiềm năng này có thể ra
quyết định tham gia hoặc không tham gia nghiên cứu trên cơ sở được thông tin đầy đủ
về lợi ích và nguy cơ/rủi ro khi tham gia nghiên cứu. Những thông tin này không
302
những được nêu rõ trong đề cương nghiên cứu, bao gồm qui chế lưu giữ và bảo đảm bí
mật thông tin, lợi ích và nguy cơ khi tham gia nghiên cứu (nếu có), mà còn được nêu
rõ trong Bản thông tin giới thiệu nghiên cứu với các nội dung cơ bản sau:
- Mục đích, mục tiêu và bản chất của nghiên cứu; Quá trình thực hiện nghiên
cứu
- Lợi ích và rủi ro của đối tượng tham gia nghiên cứu
- Bồi dưỡng, bồi thường cho đối tượng tham gia nghiên cứu
- Vấn đề bảo đảm tính riêng tư của đối tượng tham gia nghiên cứu
- Vấn đề bảo mật thông tin của đối tượng tham gia nghiên cứu
- Đối tượng tham gia nghiên cứu có thể liên hệ với ai khi cần để biết thêm
thông tin chi tiết
Bản chấp thuận tham gia nghiên cứu cần bao gồm các nội dung sau:
- Tên dự án nghiên cứu
- Điều tra viên chính
- Tên nhà tài trợ
- Giới thiệu về mục đích, mục tiêu nghiên cứu
- Các bước tiến hành nghiên cứu
- Nguy cơ/rủi ro khi tham gia nghiên cứu
- Lợi ích của việc thực hiện nghiên cứu và của đối tượng tham gia nghiên cứu
- Bảo mật thông tin
- Bồi dưỡng cho đối tượng tham gia nghiên cứu
- Người liên hệ: đại diện của Hội đồng Đạo đức và nhóm nghiên cứu
- Xác nhận sự tự nguyện tham gia của đối tượng nghiên cứu
Vấn đề hình thức cung cấp thông tin cũng rất quan trọng. Nếu như đối tượng
nghiên cứu không biết chữ hay có trình độ học vấn thấp hoặc sử dụng ngôn ngữ khác
với ngôn ngữ được sử dụng trong Bản thông tin giới thiệu nghiên cứu thì văn bản này
sẽ không có ý nghĩa về khía cạnh đạo đức vì không thể cung cấp thông tin cần thiết
cho họ. Trong trường hợp này, thông tin phải được cung cấp kết hợp dưới dạng lời nói
hoặc hình vẽ phù hợp. Ngoài ra, cần cho phép người tham gia có thời gian suy nghĩ và
cân nhắc trước khi quyết định đồng ý hoặc không đồng ý tham gia.
3.1.4. Đảm bảo bí mật thông tin của đối tượng nghiên cứu
Vấn đề đảm bảo quyền riêng tư, giữ bí mật hay bảo mật riêng tư của đối tượng
tham gia nghiên cứu, chính là đảm bảo thực hiện nguyên tắc đạo đức “Tôn trọng con
người”. Những vấn đề riêng tư không được đảm bảo giữ kín chính là ngưyên nhân làm
cho đối tượng nghiên cứu thiếu tin tưởng vào người thầy thuốc và không tự nguyện
tham gia vào nghiên cứu. Trong nghiên cứu việc điều tra xác nhận sự riêng tư của đối
303
tượng nghiên cứu được đảm bảo giữ kín là chưa đủ mà đối tượng nghiên cứu cần phải
tự nhận thấy rằng sự riêng tư của họ được đảm bảo thông qua những biện pháp mà
người nghiên cứu sử dụng để đảm bảo bảo mật các thông tin.
Bí mật trong đạo đức nghiên cứu là giữ kín không để lộ các thông tin cá nhân,
những vấn đề riêng tư của cá nhân ra ngoài. Nhà nghiên cứu cần phải có những biện
pháp để giữ bí mật riêng tư như mã hóa các thông tin cá nhân, quy định cụ thể những
người có trách nhiệm được tiếp cận với các thông tin của nghiên cứu và được chia sẻ
các thông tin của nghiên cứu. Việc công bố các kểt qưả nếu có liên quan đến các thông
tin cá nhân phải được phép của cá nhân đối tượng tham gia nghiên cứu.
3.2. Các nguyên tắc đạo đức trong nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu trên nhóm đối tượng dễ bị tổn thương
Những nhóm dân dễ tổn thương là các nhóm người mà họ không thể đưa ra quyết
định nhất trí tham gia trên cơ sở tình nguyện và/hoặc trên cơ sở được thông tin đầy đủ
và có hiểu biết do tình trạng sức khoẻ hay vị thế xã hội của họ.
Những nhóm này thông thường bao gồm trẻ em, người già, nhóm dân tộc thiểu số
những người có bất thường về nhận thức, tinh thần, và đang ở giai đoạn cuối của bệnh
tật và những người đang sống trong bệnh viện, nhà tù, nhà dưỡng lão…. Theo danh
sách này chúng ta có thể chia ra thành hai nhóm: nhóm dễ tổn thương vì tình trạng sức
khoẻ và nhóm dễ tổn thương vì vị thế xã hội. Tất nhiên một số người có thể dễ tổn
thương cả vì sức khoẻ của họ và cả vì vị thế xã hội. Trong bất kể trường hợp nào thì
chúng ta cũng cần chú ý đến những vấn đề về lợi dụng/bóc lột, sự bảo vệ và việc tham
gia khi làm việc với các nhóm dễ tổn thương.
Quyền được bảo vệ:
Trước đây rất nhiều các nghiên cứu và các hoạt động y tế đã không bao gồm các
nhóm dân dễ thương tổn bởi mong muốn bảo vệ những người này khỏi sự lợi dụng/bóc
lột quá mức. Tuy nhiên, gần đây các nhà nghiên cứu nhận ra rằng nhóm dễ tổn thương
sẽ không được lợi từ nghiên cứu nếu chúng ta loại trừ những người này khỏi các
nghiên cứu. Như vậy, sự phân chia quyền lợi và các gánh nặng là không bình đẳng.
Các nhóm tổn thương thường có rất nhiều gánh nặng về sức khoẻ nhưng vì họ không
được tham gia vào nghiên cứu nên họ rất ít được hưởng lợi từ các chương trình y
tế.Tuy nhiên, khi cho phép những người này tham gia vào nghiên cứu hoặc các hoạt
động YTCC thì điều quan trọng là đánh giá tại sao phải cần có những người này tham
gia.
Chúng ta cũng không nên mặc định rằng chỉ những người thuộc nhóm dễ thương
tổn mới thực sự dễ tổn thương. Họ hoàn toàn có thể ra các quyết định trên cơ sở có
hiểu biết về sự tham gia của họ. Nếu chúng ta không thừa nhận khả năng này có nghĩa
là chúng ta đã không tuân theo nguyên tắc tôn trọng con người. Tương tự, những người
có tình trạng phụ thuộc và vì vậy sự tự chủ đã bị ảnh hưởng đều cần phải được bảo vệ
không để họ phải tham gia vào các nghiên cứu thuần túy là do thuận lợi về mặt hành
chính hoặc vì dễ dàng điều khiển họ do tình trạng kinh tế xã hội hay tình trạng ốm đau
của họ.
304
Một số điều cần xem xét khi đưa những nhóm dễ thương tổn vào các chương
trình y tế:
- Không quá sốt sắng trong việc bảo vệ các nhóm thực sự dễ thương tổn
- Đánh giá sự chia sẻ mức độ dễ tổn thương của mỗi cá nhân với nhóm của
họ.
- Đánh giá liệu chương trình có mang lại lợi ích trực tiếp đối với sức khoẻ
của những người tham gia hay các nhóm tương tự.
- Bảo đảm sự nhất trí trên cơ sở được thông tin đầy đủ và có hiểu biết, thông
qua việc phổ biến tới các cá nhân, nhóm chăm sóc sức khỏe, những người bảo
trợ hay những cuộc tư vấn giữa các bên có liên quan, là tiêu chuẩn cho việc
tham gia của những nhóm dễ tổn thương.
3.2.1.1. Nhóm trẻ em
Trẻ em được xem như là nhóm dễ thương tổn bởi năng lực ra quyết định tham gia
một cách chín chắn của họ là kém hơn người lớn.Tuy nhiên, việc đưa các em tham gia
vào các nghiên cứu và hoạt động là rất quan trọng bởi vì sự khác biệt của trẻ em so với
người lớn .Một chương trình y tế nhằm giảm tỷ lệ chết vì sử dụng thuốc quá liều có thể
có kết quả tốt đối với người lớn nhưng lại không thích hợp với trẻ em.Tương tự, trẻ em
có quá trình phát triển sinh học và sinh lý khác với người lớn.Vì vậy điều quan trọng là
huy động trẻ em tham gia vào nghiên cứu, nếu trẻ em không được tham gia vào nghiên
cứu thì chúng ta không thể lựa chọn được các phác đồ điều trị thích hợp cho trẻ
em.Thông thường cha mẹ đại diện cho trẻ em trong quá trình đồng ý tham gia vào
nghiên cứu nhưng cũng có nghĩa là sẽ nảy sinh các vấn đề về sự tình nguyện. Nếu trẻ
đang rất ốm, cha mẹ sẽ cảm thấy bắt buộc phải tham gia vào nghiên cứu hoặc cảm thấy
họ có thể đã không làm vừa lòng những người đang chữa trị và chăm sóc cho con họ
nếu họ từ chối tham gia vào nghiên cứu. Điều quan trọng là chúng ta cũng cần trao đổi
và bàn luận với trẻ em về nguyện vọng của chúng trong việc tham gia vào các nghiên
cứu hoặc chương trình can thiệp sức khỏe. Chúng ta cần luôn luôn lưu ý một điểm khi
trao đổi, bàn bạc với đối tượng là trẻ em cần tránh để các em cảm thấy là mình bị bắt
buộc phải tham gia vào các các nghiên cứu hoặc chương trình can thiệp sức khỏe.
3.2.1.2. Nhóm phụ nữ có thai
Dù rằng có thể đạt được một thỏa thuận với những phụ nữ có thai và phụ nữ cho
con bú và nghiên cứu không gây ra một vấn đề đặc biệt nào với những phụ nữ này, thì
trong bất cứ trường hợp nào họ cũng không thể là đối tượng tiến hành nghiên cứu bởi
vì có nguy cơ làm ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh hay bào thai trừ khi để làm sáng tỏ những
vấn đề liên quan đến thai nhi và việc cho con bú. Viêc nghiên cứu và chữa trị chỉ được
chấp nhận trong trường hợp cải thiện được sức khỏe của bà mẹ mà không tổn hại gì
đến bào thai và quá trình nuôi dưỡng trẻ, trong trường hợp tăng sức sống, sức đề kháng
của thai nhi hay là trong trường hợp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đứa
trẻ và khả năng nuôi con của người mẹ. Đối với những người tham gia vào các nghiên
cứu về vấn đề nạo thai thì tùy thuộc vào hiến pháp của từng nước cũng như đặc điểm
của tôn giáo, văn hóa do đó không thể đưa ra một quy tắc chung mang tính quốc tế.
305
3.2.1.3. Nhóm người cao tuổi
Người già được xem là nhóm dễ thương tổn vì sự phụ thuộc của họ vào những
người khác. Nếu một người già yếu và đang cần sự giúp đỡ của gia đình hoặc các nhân
viên y tế họ có thể cảm thấy có nghĩa vụ tham gia vào chương trình để giảm gánh nặng
cho gia đình họ. Những người già bị giảm trí nhớ hoặc mất trí nhớ có thể ra các quyết
định trên cơ sở không hiểu biết về chăm sóc sức khoẻ hay sự tham gia của họ vào
nghiên cứu. Trong trường hợp này thông tin, trao đổi với gia đình là hết sức quan
trọng. Tuy nhiên, một người già không có nghĩa là họ không có khả năng chủ động ra
các quyết định cho bản thân họ.
3.2.1.4. Nhóm bệnh nhân tâm thần
Những vấn đề đạo đức cần xem xét khi áp dụng việc nghiên cứu trên những
người bệnh tâm thần và thiểu năng trí tuệ về cơ bản là giống với trẻ em. Họ không thể
là đối tượng cho những cuộc nghiên cứu thí nghiệm như những người bình thường,
ngoại trừ trong trường hợp để nghiên cứu về những căn nguyên gây bệnh, cách điều trị
bệnh hay là điều trị thiểu năng trí tuệ.
Nhất quyết phải tính đến sự đồng ý của gia đình, người thân - vợ chồng, bố mẹ,
con cái anh chị em tuy nhiên phải xem xét giá trị của sự đồng ý này vì nhìn chung
trong gia đình những người bị bệnh tâm thần thường bị coi như là một gánh nặng.
Trong trường hợp chủ thể người bệnh được đưa vào một cơ sở y tế theo quyết định của
toà án, cần phải có một sự cho phép của tòa án trước khi tiến hành thí nghiệm.
3.2.1.5. Nhóm bệnh nhân HIV/AIDS
Đại dịch HIV/AIDS trên bình diện toàn cầu đã đưa ra những thách thức về sức
khoẻ đối với người dân, bao gồm các vấn đề đạo đức liên quan đến cuộc sống và nhân
phẩm con người. Căn bệnh này đã ảnh hưởng nhiều đến những người có HIV/AIDS và
những người thân của họ, từ đó thường dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Hiện
nay, tiếp cận điều trị và phát triển các phương pháp điều trị và phòng ngừa hiệu quả
hơn, đồng thời quan tâm tới các giá trị đạo đức trong chăm sóc sức khoẻ và nghiên
cứu. Các vấn đề về đạo đức chủ yếu xoay quanh tiêu chuẩn chăm sóc, sự đồng ý, sự
riêng tư và bảo mật, kỳ thị và phân biệt đối xử, bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, tư
vấn cộng đồng, các cơ chế xem xét về đạo đức, hợp tác quốc tế, nghiên cứu dịch tễ
học, các thử nghiệm lâm sàng và các nghiên cứu xã hội về HIV /AIDS [3]. Ngoài ra,
các mối quan tâm lớn về các thử nghiệm vắc-xin HIV/AIDS, các thử nghiệm diệt vi
khuẩn cũng như dự phòng các thử nghiệm truyền nhiễm từ mẹ sang con đặc biệt là ở
các quốc gia đang phát triển. Nâng cao hiểu biết của cán bộ y tế về các mối quan tâm
về đạo đức và xã hội khác nhau liên quan đến điều trị và nghiên cứu HIV/AIDS sẽ
giúp xây dựng các chính sách phòng, chống dịch bệnh phù hợp.
3.2.1.6. Nhóm dân tộc thiểu số
Nhóm thiểu số bao gồm những người ở vị trí dễ bị tổn thương do tình trạng kinh
tế, văn hoá, ngôn ngữ khác với những nhóm khác. Ví dụ, những người nói tiếng địa
phương khác với đa số những người khác đều thuộc nhóm dân tộc thiểu số. Tại sao
những người này được coi là dễ thương tổn? Điều này là bởi nhóm đa số thường giữ
306
các vị trí quản lý trong xã hội. Vì vậy, họ sẽ thường là những người thực hiện các
chương trình YTCC hoặc triển khai các nghiên cứu. Điều có thể xảy ra là chỉ những
người có đồng ngôn ngữ hoặc có văn hoá tương tự như người lãnh đạo/quản lý dự án
có thể tham gia vào chương trình y tế.
Mặt khác các nhóm thiểu số có thể là đối tượng mục tiêu để tham gia vào chương
trình mà không cần có sự giải trình cụ thể mang tính luật pháp nào. Thêm nữa, các
nhóm thiểu số thường giữ các vị trí xã hội thấp hơn so với các nhóm khác.Vì vậy từ
chối hợp tác có thể dẫn đến các hậu quả không có lợi cho cá nhân hoặc cộng
đồng.Ngược lại sự phối hợp có thể dẫn đến nhiều lợi ích cho các nhóm thiểu số này.
3.2.1.7. Nhóm tù nhân
Những người sống trong các cơ sở như nhà tù, bệnh viện, nhà dưỡng lão thường
được xem là nhóm dễ thương tổn. Tại các cơ sở này, những người làm việc ở đó có
quyền lực rất lớn so với những người phải ở trong đó (tù nhân, bệnh nhân, người sống
trong nhà dưỡng lão…). Vì vậy, có thể có các hậu quả bất lợi khi họ từ chối tham gia
vào các hoạt động YTCC và những người trong nhóm dễ tổn thương này có thể cảm
thấy có nghĩa vụ bắt buộc tham gia. Vì vậy, sẽ không đáp ứng được các nguyên tắc về
tính tự nguyện và tính tự chủ.
3.2.2. Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học (còn được gọi là Hội đồng đạo
đức độc lập – Independent Ethics Committee –IEC) là một hội đồng có thể được thành
lập ở các cấp khác nhau (cấp cơ sở, cấp quốc gia hoặc liên quốc gia) gồm các thành
viên là các nhà khoa học, các chuyên gia về y tế và các thành viên có thể không thuộc
ngành y. Chức năng chủ yếu của Hội đồng đạo đức là “bảo vệ chủ thể con người khỏi
các nguy cơ bị tổn thương hoặc những hành vi sai trái, và thúc đẩy các nghiên cứu có
ích” (CIOMS, 1991). Hội đồng đạo đức cần xem xét cả tính khoa học cũng như khía
cạnh đạo đức của nghiên cứu, bởi vì những vấn đề đó không thể tách rời.
Tính khoa học của một dự án cần được một hội đồng gồm các chuyên gia hiểu
biết sâu sắc về lĩnh vực cần nghiên cứu xem xét. Các chuyên gia này phải độc lập về
tài chính cũng như về các khía cạnh khác của dự án thì mới được xem xét. Trong mọi
trường hợp có thể, cần tránh mâu thuẫn lợi ích chuyên môn khi xem xét dự án: điều
này có thể xảy ra nếu những người tham hội đồng là bạn thân hoặc đồng nghiệp của
người thiết kế nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu cần được các chuyên gia xem xét kĩ chất lượng để đảm bảo
rằng thiết kế đó cho phép thu thập các thông tin có giá trị khoa học. Thực hiện các
nghiên cứu không có chất lượng cũng là trái với các nguyên tắc đạo đức nghiên cứu vì
các nghiên cứu như vậy gây lãng phí nguồn lực và thời gian. Tổ chức Y tế Thế giới và
nhiều nước trên thế giới đã có những qui định rõ ràng về Hội đồng đạo đức trong
nghiên cứu. Theo Loue (2000), Hội đồng Đạo đức phải đại diện cho quan điểm của
cộng đồng và các thành viên của Hội đồng cần cân nhắc những tác động xã hội và cá
nhân của nghiên cứu bên cạnh khía cạnh đạo đức.

307
Ở Việt Nam, để đáp ứng và hòa nhập với yêu cầu của cộng đồng nghiên cứu trên
thế giới, ngày 19/12/2002 Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số
5129/2002/QĐ-BYT về việc thành lập Hội đồng Đạo đức của Bộ Y Tế và các Hội
đồng Đạo đức của các cơ sở nghiên cứu trực thuộc Bộ Y Tế. Theo đó tất cả các nghiên
cứu y sinh học đều phải được thông qua Hội đồng Đạo đức của Bộ Y tế hoặc Hội đồng
Đạo đức của cơ sở trước khi triển khai tùy theo đặc điểm cụ thể của các nghiên cứu.
3.2.2.1. Nhiệm vụ
- Đảm bảo quyền lợi, sự an toàn và sự tình nguyện tham gia của những đối tượng
tham gia nghiên cứu.
- Đảm bảo sự công bằng đối với tất cả các bên tham gia nghiên cứu.
- Đảm bảo tính khoa học, khả thi của nghiên cứu, sự an toàn cho nghiên cứu viên
và Hội đồng.
- Thẩm định, xét duyệt hồ sơ nghiên cứu Y sinh học (đề cương nghiên cứu, các
báo cáo và tài liệu có liên quan) đảm bảo tính pháp lý, khách quan, trung thực.
- Theo dõi, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng theo
tiêu chuẩn thực hành lâm sàng tốt.
- Đánh giá thẩm định các kết quả nghiên cứu theo đề cương nghiên cứu đã được
phê duyệt trên cơ sở các hướng dẫn và quy định hiện hành.
- Tập huấn, hướng dẫn và phát triển đội ngũ nghiên cứu viên cho nghành Y tế
theo tiêu chuẩn Thực hành lâm sàng tốt (GCP) và đạo đức trong nghiên cứu.
3.2.2.2. Quyền hạn
- Chấp thuận hoặc không chấp thuận đề cương nghiên cứu làm cơ sở cho cơ quan
quản lý ra quyết định cho phép triển khai nghiên cứu Y sinh học với đối tượng nghiên
cứu là con người.
- Chấp thuận hoặc không chấp thuận những thay đổi về nội dung nghiên cứu
trong quá trình triển khai.
- Đề xuất về việc dừng nghiên cứu khi có các dấu hiệu vi phạm về khía cạnh đạo
đức trong nghiên cứu hoặc phát hiện thấy nguy cơ không đảm bảo an toàn cho đối
tượng nghiên cứu có thể xảy ra trong quá trình nghiên cứu.
- Yêu cầu chủ nhiệm đề tài, cơ quan quản lý báo cáo các số liệu, dữ liệu, các kết
quả nghiên cứu và hồ sơ có liên quan đến nghiên cứu.
3.2.2.3. Quá trình xét duyệt đạo đức
- Xây dựng đề cương và thông qua Hội đồng xét duyệt chuyên môn (hội đồng
khoa học)
- Chỉnh sửa đề cương sau xét duyệt chuyên môn, điền các mẫu đề nghị xét duyệt
đạo đức
- Các thành viên của Hội đồng Đạo đức thảo luận, chủ tịch Hội đồng Đạo đức
đọc trước và cho ý kiến về sự cần thiết của các kỳ họp thông qua.
308
- Phản hồi của Hội đồng Đạo đức và những góp ý, chỉnh sửa (nếu cần)
- Giám sát thực hiện và báo cáo
Hội đồng đạo đức nghiên cứu y sinh học chỉ tiến hành tiếp nhận và xem xét các
hồ sơ sau khi Hội đồng Khoa họcxét duyệt và có quyết định bằng văn bản thông qua đề
cương về học thuật, chuyên môn kỹ thuật, tính khoa học của nghiên cứu theo đúng các
quy định về quản lý KHCN đã được ban hành.
Hội đồng có thể mời chuyên gia tư vấn trong những trường hợp cần thiết, ý kiến
tư vấn của các chuyên gia chỉ có giá trị tham khảo. Chuyên gia tư vấn không tham gia
bỏ phiếu kín.
Khi xem xét và ra quyết định Hội đồng đạo đức nghiên cứu y sinh học cần quan
tâm cân nhắc các nội dung sau đây:
- Nguy cơ cho người tham gia nghiên cứu đã được giảm tối thiểu;
- Các nguy cơ là hợp lý so với những lợi ích dự kiến có được;
- Việc chọn người tham gia công bằng;
- Cần có được chấp thuận tham gia tình nguyện từ mỗi người tham gia;
- Sự chấp thuận tham gia tình nguyện được dẫn chứng bằng tư liệu thích hợp.
- Thu thập số liệu được giám sát để đảm bảo rằng người tham gia được an
toàn;
- Tính riêng tư và bảo mật của người tham gia được bảo vệ;
- Các điều kiện bảo vệ thêm phải được đưa ra đối với những quần thể dễ bị
tổn thương;
- Thiết kế khoa học và tổ chức nghiên cứu.
Ngoài các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm qui định từng thành viên trong Hội
đồng có các nhiệm vụ cụ thể sau:
Chủ tịch
- Xem xét các đơn xin miễn xem xét đạo đức toàn diện;
- Có quyền xem xét và trả lời liên quan đến giấy phép đạo đức tạm thời có điều
kiện hoặc miễn trừ tạm thời (trừ khi được Hội đồng chỉ đạo)
- Xem xét (và có thể cấp phép tạm thời) và có thể đề nghị những thay đổi nhỏ
đối với dự án được xem xét.
- Thông qua dự thảo báo cáo kết quả/ biên bản do Thư ký chuẩn bị sau các cuộc
họp của Hội đồng;
- Chủ trì các Tiểu ban xem xét đạo đức theo qui trình rút gọn; và
- Chủ trì (hay bổ nhiệm người chủ trì) các nhóm kiểm tra khác nhau, và các
nhóm công tác khác do Hội đồng lập nên.
- Chủ tịch có quyền bỏ phiếu đối với tất cả các vấn đề trước Hội đồng đạo đức
309
Ủy viên thường trực
Nhiệm kỳ của thành viên nòng cốt đề cập đến sự phân loại của thành viên theo
yêu cầu của Tuyên bố quốc gia (ví dụ phân nhóm nam và nữ không có chuyên môn).
Thành viên nòng cốt có quyền bỏ phiếu đối với tất cả các vấn đề trước Hội đồng đạo
đức (bao gồm việc xem xét các đơn). Trong một số vấn đề, sự có mặt của các thành
viên nòng cốt là bắt buộc (xem số đại biểu quy định cần thiết dưới đây).
Thư ký
Thư ký Hội đồng đạo đức có trách nhiệm cụ thể như sau:
- Nhận và chuyển những thư từ (như Bảng kiểm dành cho nghiên cứu viên, các
đơn xin xem xét đạo đức, đơn xin có sự thay đổi nhỏ so với giấy phép đạo đức/ dự
án…);
- Nhận các báo cáo về tiến độ và quyết định các hoạt động cần thực hiện
- Xử lý các đơn xin gia hạn xem xét đạo đức trong thời hạn 3 năm;
- Dự thảo các báo cáo, các chính sách và tài liệu theo yêu cầu của Chủ tịch.
- Đưa ra các vấn đề về chính sách và chiến lược để thu hút sự chú ý của Uỷ ban;
- Tư vấn cho các nhà nghiên cứu
- Trình bày và truyền tài các vấn đề về đạo đức trong nghiên cứu cho sinh viên/
cán bộ.
- Thư ký không phải là một Ủy viên của Hội đồng.

CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ


Câu 1: Trình bày được khung đạo đức y tế cơ bản?
Câu 2: Trình bày được đạo đức trong thực hành điều dưỡng?
Câu 3: Trình bày được nội dung đạo đức trong nghiên cứu điều dưỡng?

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


1. Bộ Y tế (2014). Tài liệu hướng dẫn đào tạo liên tục chăm sóc người bệnh toàn
diện.
2. Quyết định số 20/QĐ-HĐD, ngày 10/09/2012 của Hội Điều dưỡng Việt Nam
ban hành Chuẩn đạo đức nghề nghiệp của điều dưỡng viên Việt Nam
3. Bộ Y tế (2014), Dự thảo Tài liệu hướng dẫn quốc gia về đạo đức trong nghiên
cứu y sinh học
4. Bộ Y tế (2019). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp bác sĩ
chính hạng II.

CHUYÊN ĐỀ 12
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THỰC HÀNH CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ
TIẾP CẬN CỘNG ĐỒNG

310
THỜI LƯỢNG HỌC TẬP: 08 tiết
Số tiết lý thuyết: 04 tiết
Số tiết thực hành: 04 tiết

MỤC TIÊU HỌC TẬP


1. Nêu được tình hình thực hiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế
2. Phân tích được một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện văn hóa ứng xử tại
các cơ sở y tế
3. So sánh được 4 mô hình giao tiếp ứng xử giữa điều dưỡng viên và khách
hàng/người bệnh/cộng đồng.
4. Áp dụng một số kỹ năng giao tiếp quan trọng (thu thập thông tin, cung cấp
thông tin và tư vấn) và nguyên lý của các mô hình giao tiếp điều dưỡng viên-
khách hàng trong một số tình huống thực hành chăm sóc sức khỏe và tiếp cận
cộng đồng.

NỘI DUNG
1. VĂN HÓA ỨNG XỬ TẠI CÁC CƠ SỞ Y TẾ
1.1. Tình hình thực hiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, theo đó văn hóa ứng xử
là một trong những cách thức biểu hiện mối quan hệ đó. Thuật ngữ văn hóa ứng xử
nhấn mạnh giá trị nhân cách, khả năng giao tiếp xã hội của con người. Tuy nhiên, văn
hóa ứng xử của mỗi cá nhân khác nhau, được hình thành qua quá trình học tập, rèn
luyện, trưởng thành dưới sự tác động của môi trường văn hóa gia đình, xã hội.
Văn hóa ứng xử, theo nghĩa hẹp, được hiểu là hệ thống các khuôn mẫu ứng xử,
biểu hiện qua tri thức, thái độ, trách nhiệm, hành vi ứng xử của con người trong các
mối quan hệ với cộng đồng, công việc và với bản thân theo những giá trị, chuẩn mực
văn hóa, phù hợp với yêu cầu và lợi ích xã hội nhất định. Theo đó, văn hóa ứng xử bộc
lộ ở cả ba khía cạnh cơ bản, đó là: với xã hội, công việc và bản thân. Về thực chất, đó
chính là cách thức hành động để con người chung sống và làm việc một các có văn
hóa, nhằm làm cho cá nhân và cộng đồng xã hội giàu tính nhân văn hơn.
Những năm qua, phát triển và tăng cường cải thiện văn hóa ứng xử của cán bộ y
tế nói chung và của điều dưỡng viên ở các bệnh viện, cơ sở y tế nói riêng đã được hệ
thống y tế và cả xã hội quan tâm. Trong điều kiện hiện nay, các cơ sở y tế đang từng
bước chuyển đổi từ mô hình chăm sóc truyền thống một chiều sang chăm sóc sức khỏe
toàn diện. Nếu như trước đây nhân viên y tế chỉ quan tâm chủ yếu đến việc khám, điều
trị, thì nay cần phải quan tâm đến cả kỹ năng giao tiếp, ứng xử với người bệnh và với
các bên liên quan. Người bệnh có quyền được đưa ra những yêu cầu, tăng tính chủ
động trong quá trình điều trị, chăm sóc sức khỏe tại bệnh viện, cơ sở y tế. Dưới sự
hướng dẫn, tư vấn, động viên của đội ngũ nhân viên y tế, người bệnh tự quản lý, quyết
311
định những vấn đề liên quan đến sức khỏe của bản thân. Như vậy, cách thức thay đổi
mô hình chăm sóc sức khỏe đã và đang đặt ra những vấn đề mới về nhận thức, thái độ,
trách nhiệm, hành vi văn hóa ứng xử của đội ngũ nhân viên y tế nói chung và của điều
dưỡng viên nói riêng.
Trong hơn 10 năm qua Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản nhằm xây dựng và cải
thiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế, như: Quyết định số 29/2008/QĐ- BYT về việc
Ban hành quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp y tế; Thông
tư 07/2014/TT-BYT Quy định về Quy tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao
động làm việc tại các cơ sở y tế; Quyết định 2151/QĐ-BYT về Đổi mới phong cách,
thái độ phục vụ của cán bộ y tế, hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Xác định việc
thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng
của người bệnh” là một trong những đột phá để củng cố niềm tin của người bệnh, thời
gian tới, ngành Y tế sẽ tiếp tục triển khai có hiệu quả các nội dung, nhiệm vụ trọng
tâm. Theo đó, cùng với việc kiện toàn ban chỉ đạo, thực hiện tốt các nội dung đổi mới,
ngành sẽ tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để đánh giá kết quả thực hiện tại các
địa phương, đơn vị. Ngoài ra, ngành y tế sẽ tiếp tục huy động và tranh thủ các nguồn
lực để đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng nhu cầu
khám, chữa bệnh ngày càng cao của người dân.
Theo đánh giá của Bộ Y tế, sau thời gian triển khai thực hiện các Quyết định và
Thông tư nêu trên, đến nay, tại các cơ sở y tế đã có sự chuyển đổi rõ rệt trong tư duy
quản lý theo phương pháp tiếp cận từ “phục vụ” sang “cung cấp dịch vụ”. Đa số cán
bộ y tế đã nhận thức được tầm quan trọng của phong cách, thái độ phục vụ, kỹ năng
giao tiếp với người bệnh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nhiều nội dung đổi mới
phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế đã được tập trung thực hiện như tập huấn
nâng cao kỹ năng giao tiếp với người bệnh; thành lập các đơn vị chăm sóc khách hàng;
quy định trang phục của cán bộ y tế; duy trì và nâng cao chất lượng đường dây nóng,
hòm thư góp ý… Qua thống kê, đã có hàng chục nghìn cuộc gọi phản ánh đến đường
dây nóng của Bộ Y tế, trong đó có trên 30% cuộc gọi phản ánh đúng vi phạm. Các
trường hợp vi phạm, Bộ Y tế đã chỉ đạo các cơ sở y tế xử lý kịp thời.
Tại nhiều tỉnh, thành phố, cùng với việc tổ chức tập huấn nâng cao kỹ năng giao
tiếp, văn hóa ứng xử cho cán bộ y tế, các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh đã
thành lập bộ phận chăm sóc “khách hàng” đặt ở khoa Khám bệnh để đón tiếp, hướng
dẫn, cung cấp các thông tin cần thiết cho người bệnh và người nhà người bệnh. Bên
cạnh đó, tiếp tục duy trì “Đường dây nóng”, “Hòm thư góp ý”; triển khai đề án “Tiếp
sức người bệnh trong bệnh viện", qua đó, góp phần thay đổi phong cách giao tiếp ứng
xử, ý thức trách nhiệm, tinh thần thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ, viên chức trong
ngành.
Hiện nay, các bệnh viện cũng đang liên tục thực hiện cải tiến các quy trình đón
tiếp, chăm sóc người bệnh: thực hiện tốt quy chế giao tiếp với người bệnh, không có
sai sót lớn về chuyên môn; nâng cao tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh; đầu tư cơ
sở vật chất, ứng dụng triển khai công nghệ thông tin vào công tác quản lý khám, chữa
bệnh đạt hiệu quả cao; đơn giản hóa các thủ tục hành chính; thực hiện xét nghiệm một
312
cửa tại khoa Khám bệnh... Triển khai một số khoa đi làm sớm hơn so với giờ hành….
Kết quả của việc đánh giá sự hài lòng của người bệnh ở nhiều bệnh viện cho thấy đã
và đang cải thiện đáng kể đối với cả người bệnh ngoại trú và nội trú.
Nhiều bệnh viện có kết quả về đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y
tế, xây dựng cơ sở y tế xanh - sạch - đẹp, chất lượng bệnh viện hướng tới sự hài lòng
của người bệnh đạt trên 90 điểm. Nhiều Bệnh viện cũng đã rất chú trọng công tác vệ
sinh, trong đó khu vực vệ sinh dành cho người bệnh và được đánh giá là mô hình điểm
của ngành y tế để được nhân rộng như bệnh viện E.
Việc thực hiện quy tắc ứng xử được áp dụng linh hoạt, phù hợp với tình hình
thực tế, tính chất công việc chuyên môn của mỗi khoa, phòng; mỗi cán bộ, viên chức,
người lao động. Để thực hiện triển khai có hiệu quả quy tắc ứng xử, nhiều bệnh viện
đã tổ chức hướng dẫn tuyên truyền, tập huấn, phổ biến, giáo dục quy tắc ứng xử thông
qua các hội nghị lồng ghép; hướng dẫn tuyên truyền trực tiếp, đưa thông tin tuyên
truyền phổ biến trên trang thông tin điện tử của các bệnh viện; giúp cho nhân viên y
tế, người lao động trong toàn viện hiểu được tầm quan trọng của các văn bản qui định,
hướng dẫn trong mối quan hệ giao tiếp giữa đồng nghiệp với lãnh đạo, giữa đồng
nghiệp với đồng nghiệp, giữa nhân viên y tế với người bệnh; niêm yết công khai
những nội dung quy định trong quy tắc ứng xử tại tất cả các khoa, phòng để người
bệnh và người nhà người bệnh thuận tiện theo dõi, giám sát việc thực hiện quy tắc ứng
xử của đội ngũ y, bác sỹ.
Ngoài ra nhiều bệnh viện còn tổ chức tập huấn cho vệ sỹ, coi giữ xe, lao công,
phục vụ trong toàn viện. Các bệnh viện đã tổ chức phát động phong trào thi đua nâng
cao đạo đức nghiệp, gắn với khen thưởng và xử lý vi phạm. Tổ chức công tác tư vấn
về dinh dưỡng, vệ sinh phòng bệnh cho người bệnh và người nhà người bệnh; hướng
dẫn, đón tiếp người bệnh;… thông qua tổ/phòng công tác xã hội’ áp dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động khám, chữa bệnh như: lắp đặt hệ thống xếp số tự động, phần
mềm quản lý bệnh viện, lắp đặt hệ thống camera giám sát nhằm đảm bảo an ninh trật
tự bệnh viện và giám sát hành vi của cán bộ y tế, người sử dụng dịch vụ y tế. Nhiều
bệnh viện đã nhận được rất nhiều thư khen và góp ý tích cực từ phía người bệnh và
người nhà người bệnh cả về thái độ ứng xử và chuyên môn.
Việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, đáp ứng sự hài lòng người bệnh tiếp
tục cần có thời gian. Nhưng đó cũng là vấn đề quan trọng và cần thiết với chủ trương
“thay đổi để phát triển” hướng tới mục tiêu xây dựng các bệnh viện, cơ sở y tế có “môi
trường thân thiện” (Hộp 1).
Gần đây Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã đánh giá cao sự cố gắng,
nỗ lực của các đơn vị, địa phương trong việc thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ
phục vụ của cán bộ y tế" trong thời gian qua. Bộ trưởng đề nghị các đơn vị, địa
phương và các cơ sở khám chữa bệnh tiếp tục thực hiện hiệu quả các giải pháp mà
ngành Y tế đã đề ra trong thời gian tới. Trong đó, tăng cường hơn nữa sự chỉ đạo, lãnh
đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền trong triển khai kế hoạch “Đổi mới phong cách,
thái độ phục vụ của cán bộ y tế”; tiếp tục thực hiện đồng bộ các nội dung trong Quyết
định 2151/QĐ-BYT gắn với cải cách hành chính trong khám, chữa bệnh và đẩy mạnh
313
công tác kiểm tra, giám sát. Bên cạnh đó, tăng cường truyền thông nêu gương tập thể,
cá nhân điển hình tiên tiến, đồng thời phê phán hành vi không tốt của cán bộ y tế; tích
cực đầu tư, sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng, trang thiết bị nhất là tuyến huyện, xã,
vùng sâu, vùng xa góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong thời gian tới, ngành Y tế các tỉnh, thành phố sẽ tập trung kiện toàn và bổ
sung Ban Chỉ đạo tổ chức thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ
y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh” để triển khai cơ sở y tế “Xanh – sạch –
đẹp”. Tăng cường tập huấn kỹ năng giao tiếp, ứng xử, tạo mối quan hệ thân thiện giữa
bệnh viện với người bệnh, nhất là tôn trọng, lắng nghe phản ánh, bức xúc của người
bệnh qua các kênh thông tin; Tiếp tục thực hiện và triển khai mô hình bệnh viện “Xanh
– sạch – đẹp”, an toàn vệ sinh lao động, quản lý sát sao việc phân loại, thu gom và xử
lý chất thải y tế, chất thải thông thường. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh gắn với
đổi mới công tác quản lý, cải cách hành chính, cải tiến quy trình khám chữa bệnh,
giảm phiền hà, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh…

314
Hộp 1: Tháng hành động “Vì môi trường bệnh viện thân thiện” tại bệnh viện
Từ Dũ
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, bệnh viện là nơi mà công tác xã hội giữ vị trí
cầu nối hiệu quả nhất cho mối quan hệ giữa nhân viên y tế - người bệnh và thân
nhân người bệnh, với mục tiêu mang đến sự hài lòng cho “khách hàng” khi đến
khám và điều trị bệnh tại các cơ sở y tế. Đây cũng là chủ trương của Ban Giám
đốc Bệnh viện Từ  Dũ, nhằm không ngừng hoàn thiện tính văn minh, chuyên
nghiệp của hoạt động xã hội trong môi trường bệnh viện.

Từ ý nghĩa nêu  trên, nhân kỷ niệm Ngày Công tác xã hội Việt Nam lần thứ III
năm 2019, Bệnh viện Từ Dũ đã phát động “Tháng hành động Vì môi trường bệnh
viện thân thiện”  trong toàn bệnh viện, từ ngày 1/3/029  đến ngày 25/3/2019.
 Mục đích của đợt phát động nhằm tạo không khí thi đua xây dựng môi trường
làm việc sạch đẹp, phong cách giao tiếp ứng xử văn minh, lịch sự và thái độ chăm
sóc, chu đáo thân tình đối với bệnh nhân. Bên cạnh đó còn là hình ảnh đẹp về
người thầy thuốc với tấm lòng vì người bệnh, rất vững vàng trong chuyên môn và
thật gần gũi với mọi người. Nội dung “Tháng hành động Vì môi trường bệnh viện
thân thiện” được phát động gồm các chủ đề:
- Nụ cười Blouse trắng trong chăm sóc hậu phẫu – hậu sản: thường xuyên
mỉm cười và chào thân thiện công tác chăm sóc cho người bệnh và khi  thực hiện
các thủ thuật,.
- Thực hiện các sản phẩm truyền thông giáo dục sức khỏe (video clip,
brochure, …) nhằm đa dạng hóa các hình thức tư vấn sức khỏe cho người bệnh và
thân nhân, đồng thời trang bị những kiến thức cần thiết liên quan đến công tác
chuyên môn ngay tại khoa/phòng cho nhân viên y tế.
- Hướng dẫn người bệnh và thân nhân rửa tay đúng cách vào đầu ngày làm
vviệc.
- Trưa “Thứ Sáu vui” cùng bệnh nhân ung thư, thông qua các chương trình
sinh hoạt vui, mang ý nghĩa chia sẻ, xoa dịu những cơn đau và hoàn cảnh khó
khăn của bệnh nhân ung thư đang được điều trị tại Bệnh viện Từ Dũ.
- Chiếc hộp Em bé Từ Dũ nhằm gợi nhớ các bông bố - bà mẹ một kỷ niệm đặc
biệt trong thời gian sinh con tại Bệnh viện Từ Dũ, qua những chiếc hộp nhỏ lưu
giữ lắc tay hoặc cuống rốn của bé khi xuất hiện.
- Chủ nhật yêu thương cho các em Làng Hòa Bình.
- Khoa phòng xanh với góc không gian thư giãn thân thiện, tươi mát ngay tại
phòng làm việc hay tại phòng bệnh, hướng đến sự thư thái tinh thần cho nhân viên
y tế và cả người bệnh.
- Góc lan tỏa yêu thương  trưng bày những lời cảm ơn, tình cảm khách hàng
dành cho nhân viên y tế trong quá trình nằm điều trị tại bệnh viện, qua đó  tạo nên
sự gần gũi giữa người bệnh và nhân viên y tế, nâng cao sự tin tưởng của người
315
bệnh cũng như tiếp thêm động lực cho nhân viên y tế trong sự nghiệp chăm sóc
người bệnh.
- Thiết kế và cải tiến biểu mẫu hướng dẫn khách hàng dễ hiểu và gần gũi, …
Sau gần 1 tháng phát động, Phòng Công tác xã hội  - Bệnh viện Từ Dũ đã nhận
được 34 công trình của 34 khoa/phòng, thể hiện sự đầu tư rất đáng trân trọng của
tập thể các khoa, phòng trong việc tạo nên không gian thoải mái cho các y – bác
sĩ, điều dưỡng, hộ sinh… và tình cảm dành cho người bệnh vốn luôn đối diện áp
lực của các vấn đề sức khỏe.
Hoạt động công tác xã hội tại Bệnh viện Từ Dũ đã thể hiện được sự năng động và
từng bước khẳng định được vai trò trong việc kết nối nhân viên y tế với người
bệnh bằng các hoạt động thiết thực, không chỉ trong chăm sóc sức khỏe, mà còn
thực hiện tốt công tác tư vấn, hỗ trợ khách hàng qua văn hóa ứng xử và môi
trường, cảnh quan giao tiếp thân
thiện. Theo Giám đốc bệnh viện “Tháng hành động Vì môi trường bệnh viện thân
thiện không chỉ là phong trào mà phải là một trong các chương trình hoạt động
thường xuyên của bệnh viện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được xã hội phân
công”.

1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở
y tế
Văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế là những biểu hiện hoạt động của mỗi cá nhân
(hoặc nhóm người), được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ, sự giao tiếp và cách
ứng xử của con người đối với bản thân, với những người xung quanh, trong công việc
và môi trường hoạt động thực hành chăm sóc sức khỏe hằng ngày tại cơ sở y tế. Một
số yếu tố sau có thể ảnh hưởng đến thực hiện văn hóa ứng xử tại các cơ sở y tế. Mức
độ ảnh hưởng tùy thuộc vào bối cảnh thực tế tại mỗi cơ sở.
- Sự lãnh đạo có ảnh hưởng quan trọng tới việc thực hiện văn hóa ứng xử tại
cơ sở y tế: Nếu lãnh đạo có năng lực, cam kết, ưu tiên cho việc xây dưng
văn hóa ứng xử tại cơ sở y tế thì đó là một trong những điều kiện tiên quyết
cho việc triển khai thành công tại cơ sở y tế. Nếu sự lãnh đạo là hạn chế sẽ
dẫn đến việc hộ trợ không đầy đủ và không thường xuyên và không tạo
động lực cho các nhân viên y tế trong đơn vị cam kết với việc thực hiện văn
hóa ứng xử trong đơn vị. Để duy trì và phát triển văn hóa ứng xử trong cơ sở
y tế đòi hỏi người lãnh đạo phải hàng ngày, hàng giờ hỗ trợ và thúc đẩy văn
hóa ứng xử.
- Kỹ năng giao tiếp của nhân viên y tế: Kỹ năng giao tiếp của nhân viên y tế
nói chung và của điều dưỡng viên nói riêng cần phải được thường xuyên cải
thiện thông qua hoạt động đào tạo, tập huấn và chia sẻ kinh nghiệm qua các
tình huống cụ thể. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tạo dựng,
duy trì văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế.

316
- Sự hợp tác giữa các nhân viên y tế trong đơn vị: Đây là yếu tố cũng rất quan
trọng để thực hiện tốt việc xây dựng văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế. Các
loại hình nhân viên y tế trong đơn vị cần phải hiểu và nhận thức rõ ràng về
vai trò của các loại hình nhân lực khác nhau trong cơ sở y tế, các loại hình
này có tác dụng bổ trợ cho nhau trong việc thực hiện hiệu quả nhiệm vụ
khám, điều trị và chăm sóc cho người bệnh và cộng đồng và cùng xây dựng
văn hóa ứng xử của cơ sở.
- Kiến thức của nhân viên y tế về văn hóa ứng xử cùng ảnh hưởng đáng kể:
Để xây dựng văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế cần phải triển khai theo hệ
thống. Theo đó điều quan trọng là các y bác sĩ, điều dưỡng và các nhân viên
y tế khác phải hiểu đúng thế nào là văn hóa ứng xử. Khi đã hiểu đúng rồi thì
văn hóa phải được xây dựng bằng nỗ lực chung của toàn thể cán bộ nhân
viên và môi trường bệnh viện, cơ sở y tế chứ không của riêng ai. Khi đã
hình thành được văn hóa của cả đơn vị thì bất cứ cá nhân nào có hành vi
“ngược dòng” sẽ tự bị đào thải. Văn hóa ứng xử được hình thành từ những
cá thể riêng lẻ. Nhưng những cá thể này khi biết gắn kết với nhau thì tạo
thành nền tảng chung mà bây giờ trong xã hội đương đại được gọi là
“thương hiệu” của đơn vị. Mấu chốt trong văn hóa ứng xử của cơ sở y tế là
“lấy người bệnh/khách hàng” làm trung tâm, chứ không phải “lấy bệnh tật”
làm trung tâm. Lắng nghe và đáp ứng đầy đủ, kịp thời, chu đáo với trăn trở
“đa chiều” của người bệnh/khách hàng. Văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế là
tổng hợp nỗ lực chung của toàn thể nhân viên y tế và môi trường của đơn vị,
chứ không của riêng ai. Nhân viên y tế không chỉ là người phòng và chữa
bệnh mà còn là nơi người bệnh, cộng đồng gửi gắm niềm tin. Nét đẹp của
bệnh viện, cơ sở y tế không chỉ ở cơ sở vật chất và trang thiết bị, mà chủ yếu
là ở cách hành xử hàng ngày của mỗi nhân viên y tế đối với người bệnh và
người nhà của họ.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến kỹ năng ứng xử giao tiếp với người
bệnh/khách hàng, người nhà người bệnh, và giữa các nhân viên y tế trong
đơn vị để mọi người hiểu và tự nâng cao nhận thức trong thực hiện quy tắc
ứng xử của đơn vị cũng là yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện văn hóa ứng
xử của các cơ sở y tế.
- Cơ cấu tổ chức, các chính sách, qui trình/thủ tục của cơ sở y tế: Các yếu tố
thuộc về môi trường và hệ thống này có ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực
hiện văn hóa ứng xử của đơn vị. Ví dụ, nếu tổ chức càng cồng kềnh cùng
với việc các chính sách/qui định về việc trao đổi thông tin không rõ ràng sẽ
làm cho việc chia sẻ thông tin không kịp thời và thông suốt giữa các bộ
phận/đơn vị cả theo chiều ngang và chiều dọc thì càng ảnh hưởng tiêu cực
tới việc thực hiện văn hóa ứng xử tại cơ sở y tế.
Thảo luận:
- Các học viên thảo luận để bổ sung thêm các yếu tố có thể ảnh hưởng đến
việc thực hiện văn hóa ứng xử tại đơn vị mình mà chưa được đề cập ở trên.
317
- Các học viên thảo luận để đưa ra các ví dụ cụ thể về các yếu tố nào đã ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới việc thực hiện văn hóa ứng xử tại đơn vị
của mình và các giải pháp khắc phục để cải thiện những yếu tố có ảnh
hưởng tiêu cực.
2. QUAN HỆ GIỮA HỘ SINH VỚI KHÁCH HÀNG, NGƯỜI BỆNH,
CỘNG ĐỒNG
2.1. Các mô hình về mối quan hệ, giao tiếp của hộ sinh với người bệnh, khách
hàng và cộng đồng
Y văn đã đưa ra bốn mô hình mô tả sự tương tác, mối quan hệ giữa thầy thuốc
trong đó có điều dưỡng viên và người bệnh/khách hàng ở đó nhấn mạnh các khía cạnh
sự hiểu biết khác nhau về mục đích của việc tương tác giữa thầy thuốc và người bệnh,
nghĩa vụ và bổn phận của người thầy thuốc, vai trò của các giá trị của người bệnh, và
khái niệm về sự tự chủ của người bệnh.

Mô hình “Gia trưởng” (The Paternalistic Model)


Mô hình này nhấn mạnh rằng thầy thuốc chăm sóc người bênh dựa trên quá
trình đào tạo về y khoa và thường dựa trên các kiến thức mang tính kỹ thuật của
chuyên gia, chuyên khoa. Có thể tóm tắt ngắn gọn về mô hình này đó là “Thầy thuốc
là người biết về những điều tốt nhất”. Trên cơ sở đó thầy thuốc là người quyết định
những can thiệp tốt nhất cho tình trạng bệnh và đặc điểm của người bệnh. Thầy thuốc
là người chọn lựa thông tin trao đổi với người bệnh để người bệnh đồng ý với những
gì mà thầy thuốc đã lựa chọn để điều trị, chăm sóc cho người bệnh. Ở mô hình này
những giá trị quan trọng đối với người bệnh được cho là ít quan trọng hơn so với
những gì thầy thuốc tin là mang lại lợi ích tốt nhất cho người bệnh.
Mô hình này dựa chủ yếu trên nguyên lý đạo đức – đó là làm điều có lợi cho
người bệnh. Theo nguyên lý này người thầy thuốc phải đặt lợi ích của người bệnh lên
trên lợi ích của cá nhân thầy thuốc. Tuy nhiên trong những trường hợp không khẩn cấp
mô hình này có mâu thuẫn với nguyên lý về sự tự chủ của người bệnh (patient
autonomy).
Mô hình cung cấp thông tin/nâng cao kiến thức (Informative model)
Mô hình này đôi khi còn có tên gọi là mô hình khoa học, hay mô hình khách
hàng. Với mô hình này, mục tiêu của giao tiếp ứng xử giữa thầy thuốc và người bệnh
là để thầy thuốc cung cho người bệnh tất cả các thông tin phù hợp để người bệnh lựa
chọn giải pháp can thiệp/điều trị mà họ mong muốn và thầy thuốc là người thực hiện
can thiệp mà người bệnh lựa chọn. Theo mô hình này thầy thuốc cung cấp thông tin
cho người bệnh về kết quả chẩn đoán, tình trạng bệnh và các can thiệp, cách thức
chăm sóc, bản chất và các nguy cơ có thể cũng như lợi ích của các can thiệp, chăm sóc
và những gì không chắc chắn mà kiến thức y học tại thời điểm hiện tại có thể chưa giải
quyết được triệt để. Mô hình này thừa nhận sự phân biệt khá rõ ràng giữa thực tế và
các giá trị. Các giá trị của người bệnh được xác định rõ ràng và điều mà người bệnh
thiếu là các thông tin thực tế về vấn đề sức khỏe của họ. Vì vậy trách nhiệm của người
318
thầy thuốc là cung cấp tất cả các thông tin thực tế đó. Trong mô hình này thầy thuốc
đóng vai trò là chuyên gia kỹ thuật, cung cấp cho người bệnh các phương tiện để họ tự
kiểm soát vấn đề của họ. Thầy thuốc với vai trò là chuyên gia kỹ thuật họ có bổn phận
quan trọng là cung cấp thông tin chính xác và trung thực, học tập để duy trì và nâng
cao năng lực chuyên môn và tư vấn, hỗ trợ cho người khác khi kiến thức hoặc kỹ năng
của những người này còn thiếu. Sự tự chủ của người bệnh thể hiện ở việc họ là người
kiểm soát việc đưa ra quyết định về chăm sóc sức khỏe.
Mô hình giải thích (Intepretive model)
Với mô hình này, mục đích của việc tương tác giữa thầy thuốc và người bệnh là
giải thích, làm sáng tỏ các giá trị của người bệnh và những điều mà người bệnh thực
sự mong muốn và giúp đỡ người bệnh lựa chọn các can thiệp, cách thức chăm sóc sức
khỏe phù hợp, sẵn có phản ánh được các giá trị này. Cũng tương tự như mô hình cung
cấp thông tin, mô hình giải thích cũng cung cấp cho người bệnh các thông tin cần thiết
về bản chất, tình trạng của vấn đề sức khỏe, các nguy cơ và lợi tích tiềm tàng của các
can thiệp, cách thức chăm sóc. Thêm vào đó, ở mô hình giải thích thầy thuốc còn hỗ
trợ người bệnh làm sáng tỏ và kết nối các giá trị của người bệnh và xác định các can
thiệp nào phù hợp nhất với các giá trị cụ thể đó của người bệnh, do đó giúp người bệnh
phiên giải, hiểu rõ các giá trị này và khi đó họ sẽ tự chủ và tham gia có hiệu quả vào
quá trình chăm sóc sức khỏe của họ.
Theo mô hình giải thích, điều quan trọng là thầy thuốc không ra lệnh cho người
bệnh, mà cuối cùng người bệnh là người quyết định lựa chọn sẽ làm gì để tốt nhất cho
họ. Thầy thuốc không phán xét giá trị của người bệnh mà chỉ giúp đỡ người bệnh hiểu
và sử dụng các giá trị đó trong tình huống cụ thể về vấn đề sức khỏe của họ để lựa
chọn giải pháp điều trị, chăm sóc sức khỏe phù hợp.
Mô hình thảo luận (Deliberative model)
Theo mô hình này mục đích của tương tác, giao tiếp giữa thầy thuốc và người
bệnh là giúp đỡ người bệnh xác định và lựa chọn các giá trị tốt nhất liên quan đến sức
khỏe có thể được nhận thấy trong tình huống cụ thể. Mục đích cuối cùng người thầy
thuốc cần mô tả rõ các thông tin về tình trạng sức khỏe của người bệnh và sau đó giúp
giải thích, làm sáng tỏ các giá trị gắn kết với và tích hợp trong các lựa chọn chăm sóc
sức khỏe hiện có.
Mục tiêu của thầy thuốc bao gồm gợi ý tại sao một số giá trị liên quan đến chăm
sóc sức khỏe lại quan trọng và cần phải được hướng đến. Trong mô hình này người
thầy thuốc đóng vai trò như người thầy hoặc người bạn, gắn kết người bệnh vào các
cuộc trao đổi về hành động gì là tốt nhất có thể cho sức khỏe của họ.
Bảng 1 dưới đây tổng hợp và so sánh các đặc điểm cơ bản của bốn mô hình về mối
quan hệ, giao tiếp của thầy thuốc bao gồm cả các điều dưỡng viên và người
bệnh/khách hàng, cộng đồng được mô tả ở trên.

319
Bảng 1: So sánh bốn mô hình về quan hệ thầy thuốc và người bệnh/khách hàng

Mô hình cung Mô hình giải Mô hình thảo Mô hình gia


cấp thông tin thích luận trưởng

Các giá trị Được xác định, Còn lộn xộn, Mở để phát Khách quan và
của người ấn định, biết rõ mâu thuẫn đòi triển và điều được chia sẻ
bệnh/khách đối với người hỏi làm sáng tỏ chỉnh thông qua bởi thầy thuốc
hàng bệnh thảo luận và người bệnh

Trách Cung cấp các Làm sáng tỏ và Làm rõ và Nâng cao sức
nhiệm/bổn thông tin phù giải thích các thuyết phục khỏe của người
phận của hợp và thực giá trị phù hợp người bệnh về bệnh, độc lập
thầy thuốc hiện can thiệp, của người bệnh các giá trị tốt với mong muốn
cách thức chăm đồng thời nói rõ nhất đồng thời của người bệnh
sóc được lựa cho người bệnh làm rõ cho
chọn của người biết và thực người bệnh
bệnh hiện các can hiểu và thực
thiệp, cách thức hiện can thiệp,
chăm sóc được cách chăm sóc
lựa chọn của được lựa chọn
người bệnh của người bệnh

Quan niệm Lựa chọn và Tự hiểu biết Tự phát triển về Đồng ý, bằng
về sự tự chủ kiểm soát việc phù hợp với phẩm hạnh, đạo lòng với các giá
của người chăm sóc sức chăm sóc sức đức phù hợp trị khách quan.
bệnh khỏe khỏe với chăm sóc
sức khỏe

Quan niệm Chuyên gia kỹ Người tư vấn, Bạn hoặc giáo Người giám hộ
về vai trò thuật có năng cố vấn, hỗ trợ viên, người
của thầy lực hướng dẫn
thuốc

Trong nhiều năm qua, thảo luận về mối quan hệ thầy thuốc-người bệnh thường
tập trung vào 2 cực: tự chủ và gia trưởng. Nhiều quan điểm chỉ trích thầy thuốc cho
rằng thầy thuốc là gia trưởng và thúc giục cần phải trao quyền cho người bệnh để họ
kiểm soát việc chăm sóc sức khỏe của bản thân họ. Quan điểm này – mô hình cung cấp
thông tin – trở nên nổi bật trong tiêu chuẩn về luật pháp và y đức. Mô hình này tích
hợp những khiếm khuyết của tự chủ ở người bệnh và nó làm giảm vai trò của thầy
thuốc, chỉ còn dừng ở mức là nhà kỹ thuật. Người thầy thuốc với thái độ thông cảm,
quan tâm là tư tưởng và tiêu chuẩn được tích hợp trong mô hình thảo luận. Tư tưởng
320
này cần được đưa vào trong luật và các chính sách điều chỉnh mối quan hệ giữa thầy
thuốc và người bệnh. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng bốn mô hình trình bày ở trên
không chỉ giới hạn trong lĩnh vực y tế mà cũng có thể cung cấp thông tin về tương tác
trong các lĩnh vực khác ví dụ giữa luật sư và khách hàng, giữa giáo viên, giảng viên và
học sinh, sinh viên…
Tại Việt Nam, nhiều năm nay trong quan hệ và ứng xử giữa thầy thuốc – người
bệnh, khách hàng thường có hai quan niệm hơi cực đoan. Quan niệm thứ nhất nặng về
duy lý cho rằng thầy thuốc làm thiên chức cứu người nên phải phục vụ vô điều kiện
mà “quên” rằng thầy thuốc cũng là người hành nghề tương tự như nhiều nghề khác. Vì
thế không hiếm những trường hợp người bệnh, khách hàng và người nhà của họ thấy
thầy thuốc “trái ý” mình là hành hung, thậm chí gây án mạng. Quan niệm thứ hai nặng
về duy tình khi bệnh nhân, khách hàng đến cơ sở y tế là “trăm sự nhờ nhân viên y tế”.
Đã “nhờ” thì phải cố có phong bì, quà để tỏ lòng biết ơn hoặc qua đó tạo sự gần gũi,
thân thiết để yên tâm rằng mình hoặc người nhà sẽ được quan tâm chăm sóc tốt hơn.
Khi đó thầy thuốc hành nghề bỗng trở thành người “ban ơn”.
Tại Hội nghị trực tuyến “Đổi mới phong cách phục vụ của cán bộ y tế”, Bộ
trưởng Bộ Y tế đã đưa ra một quan niệm mới trong mối quan hệ này qua lời phát biểu:
Phải coi bệnh nhân là khách hàng đặc biệt. Vì vậy phải làm sao cho khách hàng thấy
hài lòng. Khi nhận thức bệnh nhân là “khách hàng đặc biệt”, thì thái độ ứng xử của các
bác sĩ, điều dưỡng viên và các nhân viên y tế khác trong cơ sở y tế cần phải thay đổi.
Bởi vì theo quy luật của cung cấp dịch vụ, các nhân viên y tế phải làm hài lòng khách
hàng như một điều kiện sống còn của cơ sở y tế. Nói cho cùng, y tế cũng là một ngành
cung cấp dịch vụ và trên nhiều nước tiên tiến, dịch vụ y tế cũng là một thị trường cạnh
tranh để người bệnh/khách hàng chọn lựa những cơ sở y tế có chất lượng cao, chi phí
phù hợp, thái độ phục vụ tận tình, có văn hóa ứng xử tốt và nhình chung là làm hài
lòng khách hàng...
2.2. Kỹ năng giao tiếp với khách hàng, cộng đồng
Văn hóa ứng xử trong cơ sở y tế là những biểu hiện hoạt động của mỗi cá nhân
(hoặc nhóm người), được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ, sự giao tiếp và cách
ứng xử của con người đối với bản thân, với những người xung quanh, trong công việc
và môi trường hoạt động thực hành chăm sóc sức khỏe hằng ngày tại cơ sở y tế. Dựa
vào các phân tích tổng quan các bằng chứng từ nghiên cứu cho thấy rõ ràng là giao
tiếp giữa nhân viên y tế trong đó có điều dưỡng viên và cộng đồng nói chung, người
bệnh nói riêng có ảnh hưởng đáng kể tới sự hài lòng, tuân thủ điều trị và thực hiện các
hành vi có lợi đối với sức khỏe của người bệnh và cộng đồng, và việc chia sẻ thông tin
đầy đủ và chính xác của họ giúp thầy thuốc trong chẩn đoán, chỉ định và theo dõi khi
chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho người bệnh, cộng đồng. Nghiên cứu cũng cho thấy
giao tiếp ứng xử tốt giữa thầy thuốc và người bệnh cũng đóng góp trong cải thiện kết
quả tự báo cáo về sức khỏe của người bệnh, cộng đồng làm giảm lo âu, căng thẳng về
bệnh tật, tăng khả năng ứng phó của người bệnh, cộng đồng với các vấn đề sức khỏe...
Vì vậy văn hóa ứng xử trong thực hành chăm sóc sức khỏe mà trọng tâm là giao tiếp
hiệu quả giữa thầy thuốc và khách hàng, cộng đồng là rất quan trọng giúp thiết lập mỗi
321
quan hệ hiệu quả giữa thầy thuốc và khách hàng, cộng đồng. Từ đó giúp thầy thuốc
giáo dục và tư vấn về sức khỏe cho người bệnh, khách hàng, người nhà người bệnh và
cộng đồng để có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khỏe có chất lượng
cao.
Để giao tiếp có hiệu quả trong thực hành chăm sóc sức khỏe, trước hết cần xác
định rõ và chính xác các đặc điểm của đối tượng cần giao tiếp (họ là ai?). Trong giao
tiếp nói chung và trong thực hành chăm sóc sức khỏe nói riêng sự hiểu biết rõ về đối
tượng giao tiếp (người bệnh, người nhà người bệnh, cộng đồng cụ thể) đóng một vai
trò hết sức quan trọng vì giúp xác định được cách thức thu thập và biểu đạt thông tin
tối ưu nhất và tránh được các xung đột trong giao tiếp. Thông thường, bên cạnh các
thông tin trực tiếp liên quan đến vấn đề sức khỏe, người thầy thuốc cần biết rõ những
thông tin cơ bản về người bệnh và gia đình họ như: Đặc điểm nhân khẩu học: tuổi, giới
tính, nghề nghiệp, dân tộc, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, tình trạng kinh tế;
Mức độ hiểu biết của người bệnh, người nhà người bệnh, cộng đồng về vấn đề sức
khỏe; Thái độ đối với vấn đề sức khỏe; Đặc điểm tính cách/tâm lý, niềm tin... Để có
thể có giao tiếp hiệu quả nhằm có được các thông tin trên một cách chính xác và kịp
thời. Ngoài những kỹ năng giao tiếp thông thường, người thầy thuốc cần có một số kỹ
năng giao tiếp quan trọng với người bệnh, người nhà người bệnh, cộng đồng như kỹ
năng thu thập thông tin, kỹ năng cung cấp thông tin và tư vấn sức khỏe... Các kỹ năng
giao tiếp có thể được phát triển thông qua thực hành thường xuyên, kiên nhẫn và với
tâm thế luôn sẵn sàng học hỏi. Dưới đây là thông tin chi tiết về một số kỹ năng quan
trọng của người thầy thuốc nói chung và điều dưỡng viên nói riêng trong giao tiếp với
người bệnh/khách hàng và cộng đồng.
2.2.1 Kỹ năng thu thập thông tin
Để thu thập thông tin hiệu quả trong giao tiếp của điều dưỡng viên, kỹ năng hỏi
và lắng nghe là rất quan trọng. Hỏi nhằm thu thập thông tin cần thiết cho việc lựa chọn
cách thức chăm sóc, nâng cao sức khỏe phù hợp cho người bệnh, cộng đồng… Điều
dưỡng viên thường bắt đầu đặt câu hỏi từ câu chuyện mà người bệnh, người nhà người
bệnh, các khách hàng thuật lại. Có hai loại câu hỏi: câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Với
câu hỏi đóng, người cung cấp thông tin chỉ cần trả lời có hoặc không, với câu hỏi mở,
người cung cấp tin thường phải mô tả, diễn giải về điều điều dưỡng viên muốn hỏi nên
thường bắt đầu bằng câu hỏi “tại sao?”… “làm thế nào”…. Nội dung trả lời cho câu
hỏi mở của người cung cấp tin giúp điều dưỡng viên biết được ý kiến hay nhận thức
của người bệnh, cộng đồng về chủ đề cần trao đổi một cách đầy đủ và sâu hơn. Muốn
vậy điều dưỡng viên phải đặt ra những câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với đặc
điểm của người cung cấp tin. Nội dung hỏi để thu thập thông tin bao gồm những câu
hỏi về: Cảm giác, dấu hiệu về thể chất, tinh thần, nỗi lo lắng, hành vi liên quan đến
vấn đề sức khỏe và kỳ vọng của người bệnh, cộng đồng… Khi hỏi điều dưỡng viên
cần lưu ý thể hiện sự quan tâm, lịch sự và nhã nhặn đối với người cung cấp tin và đồng
thời cần tạo cơ hội để họ thể hiện cảm xúc, mối quan tâm và động viên họ đặt câu
hỏi…

322
Bên cạnh việc hỏi hiệu quả thì lắng nghe tích cực cũng là một kỹ năng quan
trọng trong thu thập thông tin. Chỉ có lắng nghe tích cực điều dưỡng viên mới giải mã
được, hiểu được những thông tin ẩn chứa phía sau các lời nói, cử chỉ hay biểu hiện của
người cung cấp tin. Lắng nghe tích cực không chỉ đòi hỏi việc nghe chính xác thông
tin mà cần phải quan tâm đến điệu bộ, cử chỉ, sự thay đổi âm điệu trong lời nói của
người cung cấp thông tin và phải hiểu những điều mà họ không thể nói ra được.
Để lắng nghe tích cực, điều dưỡng viên cần:
- Ngồi/đứng đối diện với người bệnh/khách hàng/người cung cấp thông tin
một cách thoải mái nhất.
- Giữ thái độ cởi mở.
- Hơi nghiêng về phía người bệnh.
- Duy trì tiếp xúc bằng mắt vừa phải với khách hàng.
- Thư giãn để lắng nghe.
Các yếu tố cản trở đến quá trình nghe tích cực của điều dưỡng viên:
- Quan liêu, kẻ cả, hấp tấp, vội vàng, căng thẳng, lo lắng.
- Ngồi/đứng không thoải mái.
- Thiếu tập trung, chú ý lắng nghe.

Kỹ năng thấu hiểu người bệnh/khách hàng, cộng đồng: Thông cảm/thấu hiểu ở đây
muốn nói đến các hành động của điều dưỡng viên, trong việc hiểu các ý nghĩ và sẵn
sàng chia sẻ với khách hàng. Sự thông cảm có thể truyền đạt cho người khác bằng lời
hoặc không lời.
Cách thể hiện thông cảm bằng lời nói:
- Chứa đựng cảm xúc
- Đề cập đến cảm xúc
- Dùng nhiều câu hỏi mở
- Giọng nói ấm áp
- Nội dung nói không thể hiện sự thiên vị
Cách thể hiện sự cảm thông bằng ngôn ngữ không lời:
- Nhìn vào mắt người bệnh/khách hàng
- Gật đầu nhẹ nhàng
- Hơi mỉm cười
- Tác phong và điệu bộ nhẹ nhàng
- Hơi nghiêng người về phía trước khi ngồi/đứng giao tiếp với người bệnh/khách
hàng
- Phong thái thoải mái, không thể hiện sự vội vàng, khó chịu.

Một số gợi ý về cách giao tiếp giữa điều dưỡng viên và người bệnh để tham khảo:

323
Mở đầu: Giao tiếp hiệu quả trong thời điểm ban đầu gặp gỡ có vai trò quan trọng trong
thiết lập mối quan hệ tốt với khách hàng. Mở đầu cuộc gặp gỡ xây dựng nền tảng của
mối quan hệ.
- Giới thiệu tên (khi cần) và sử dụng tên của khách hàng khi có thể
- Chào hỏi người đi cùng/người chăm sóc… (nếu có)
- Biết các đặc điểm có nhân của khách hàng
- Bắt đầu giao tiếp bằng những câu hỏi mở, ví dụ anh/chị/em... cho biết điều
gì đang xảy ra? Hoặc tôi có thể giúp gì được anh/chị/em…?
Trao đổi/hỏi người bệnh/khách hàng:
- Ngồi/đứng hơi nghiêng người về phía trước và lưu ý giao tiếp qua cả ánh
mắt. Tránh kiểu ngồi/đứng khoanh tay trước ngực
- Dành hoàn toàn sự chú ý tới khách hàng. Dừng nói chuyện với người khác.
Dành 1-2 phút để khách hàng nói.
- Phát hiện khách hàng hiểu gì về vấn đề sức khỏe của họ. Điều dưỡng viên
không nên dùng từ “hiểu” khi trao đổi với người bệnh là người lớn vì khi đó
người bệnh thường có cảm giác là họ đang bị điều dưỡng viên kiểm trả và vì
vậy họ sẽ không thoải mái và không thích điều đó. Do đó điều dưỡng viên
nên nói theo cách như “… hãy nói về những gì mà anh/chị/em… cảm thấy
hoặc nghe các thầy thuốc khác nói về vấn đề sức khỏe của anh/chị/em…”
- Hãy hỏi người bệnh/khách hàng/cộng đồng trước khi điều dưỡng viên nói
với người bệnh/khách hàng/cộng đồng. Mỗi khách hàng sẽ có mong muốn
khác nhau về mức độ chi tiết của thông tin liên quan đến vấn đề sức khỏe và
việc điều trị, chăm sóc sức khỏe của họ. Hãy hỏi khách hàng về mong muốn
về thông tin của họ trước khi cung cấp thông tin cho họ.
- Hãy đồng cảm. Hãy chia sẻ với cảm xúc của người bệnh/khách hàng/cộng
đồng một cách rõ ràng. Điều này là quan trọng trong mối quan hệ trong
chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Điều này có thể làm cho cuộc gặp gỡ với
khách hàng, cộng đồng ngắn hơn vì tạo được cảm giác tin tưởng và thoái
mái của khách hàng, cộng đồng.
- Hãy chậm lại. Cung cấp thông tin cho khách hàng, cộng đồng một cách
chọn lọc và chậm rãi để họ có thời gian lĩnh hội thông tin mới và cho họ cơ
hội để hỏi, điều này có thể giúp điều dưỡng viên cung cấp thông tin một
cách trọng tâm hơn.
- Hãy cung cấp thông tin một cách đơn giản. Sử dụng các nhận định và lời
giải thích ngắn. Lựa chọn các thông tin phù hợp với mức độ thông tin mà
người bệnh/khách hàng/cộng đồng mong muốn, tránh những thuật ngữ
chuyên môn.
- Hãy nói sự thật. Không giảm thiểu hóa tác động của thông tin
- Tránh các câu hỏi “Tại sao”. Hãy hỏi các câu hỏi “Như thế nào”.
- Hãy quan sát cử chỉ và vẻ mặt của khách hàng. Hầu hết giao tiếp giữa điều
dưỡng viên và người bệnh/khách hàng bao gồm sự trao đổi phi ngôn ngữ hai
chiều. Hãy chú ý đến và đáp ứng với sự thể hiện trên vẻ mặt của người
bệnh/khách hàng.
324
- Hãy chuẩn bị với phản ứng của người bệnh/khách hàng. Chuẩn bị đủ thời
gian cho người bệnh/khách hàng thể hiện cảm xúc, im lặng và chăm chú
quan sát, lắng nghe người bệnh/khách hàng.
Kết thúc: Thời điểm cuối của cuộc tương tác sẽ phản ánh toàn bộ trải nghiệm mà
người bệnh/khách hàng có với điều dưỡng viên.
- Theo dõi và nhắc lại những bình luận mang tính cá nhân của người
bệnh/khách hàng.
- Sử dụng tên của người bệnh/khách hàng khi kết thúc cuộc gặp.
- Đưa ra các lời bình luận tích cực. Hãy cho người bệnh thấy điều dưỡng viên
hy vọng đến một kết quả tốt nhất. Ví dụ: “Tôi hy vọng với cách chăm sóc
này sẽ giúp anh/chị/em… cảm thấy dễ chịu hơn”.
- Hãy đưa ra lời phát biểu thể hiện sự hợp tác giữa điều dưỡng viên và người
bệnh/khách hàng. Đây là lời phát biểu thể hiện điều dưỡng viên và người
bệnh/khách hàng phối hợp cùng nhau trong một nhóm. Ví dụ: “Chúng ta
cùng phối hợp với nhau để giải quyết vấn đề sức khỏe này”.
2.2.2 Kỹ năng cung cấp thông tin và tư vấn sức khỏe
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe là loại dịch vụ đặc biệt liên quan đến tính mạng con
người. Tạo lập mối quan hệ gần gũi giữa thầy thuốc nói chung và điều dưỡng viên nói
riêng với người bệnh/khách hàng/cộng đồng sẽ củng cố và tăng cường niềm tin của họ
vào thầy thuốc và cơ sở y tế. Vì vậy thầy thuốc cần có kỹ năng giao tiếp, trong đó có
kỹ năng cung cấp thông tin, tư vấn nhằm giải thích có lý, có tình để người bệnh/khách
hàng yên tâm điều trị, chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Theo điều tra của Hội Ðiều
dưỡng Việt Nam thực hiện ở sáu bệnh viện, người bệnh khi nằm viện mang theo một
số lo lắng, băn khoăn chính: bệnh không khỏi và biến chứng nặng hơn (95 - 99%), cán
bộ, nhân viên y tế không nhiệt tình (62%), không đủ tiền để chữa bệnh (55%), phải
chờ đợi lâu (gần 40%)... Ðiều đó cho thấy sự đồng cảm và cung cấp đầy đủ thông tin
của thầy thuốc là hết sức quan trọng.
Kỹ năng cung cấp thông tin của thầy thuốc cho khách hàng là khả năng vận dụng
kiến thức, kinh nghiệm của người thầy thuốc vào việc truyền đạt cho khách hàng/cộng
đồng những thông tin ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, đúng lúc với thái độ tôn trọng,
đồng cảm nhằm mục đích giúp khách hàng/cộng đồng yên tâm, hiểu rõ về vấn đề sức
khỏe của mình và nâng cao nhận thức của họ để họ cùng tham gia vào giải quyết vấn
đề sức khỏe của họ trong quá trình thăm khám, điều trị, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe.
Quá trình điều trị, chăm sóc và nâng cao sức khỏe người điều dưỡng cần dành
thời gian gặp gỡ, giải thích cặn kẽ cho khách hàng. Cách giải thích và sự đồng cảm của
nhân viên y tế, điều dưỡng viên sẽ là liều thuốc "hạ áp" nỗi bức xúc, lo âu của người
bệnh, người nhà của họ và cộng đồng. Cung cấp những thông tin thiết yếu cho khách
hàng, như phương pháp điều trị, các thủ thuật can thiệp, chăm sóc cần làm, chế độ
thuốc sử dụng hằng ngày, chi phí khám, chữa bệnh, quyền và nghĩa vụ của người nằm
viện,... cũng là biện pháp "thu hẹp" khoảng cách giữa điều dưỡng viên với khách hàng.
Những lời tư vấn, hướng dẫn cụ thể của điều dưỡng viên đối với khách hàng sẽ tạo ấn
325
tượng tốt đẹp của người bệnh, khách hàng, cộng đồng về người thầy thuốc và cơ sở y
tế.
Cách thức cung cấp/truyền đạt thông tin:
- Nguồn thông tin cung cấp cần phải đáng tin cậy, hính xác và khách quan
giúp người bệnh, người nhà và cộng đồng nhìn nhận được toàn diện vấn đề
sức khỏe;
- Truyền đạt thông tin rõ ràng, mạch lạc (tránh việc người bệnh/khách
hàng/cộng đồng hiểu nhầm);
- Kiểm soát được cảm xúc trong quá trình cung cấp thông tin (không nghiêm
trọng hóa, hoặc đơn giản hóa vấn đề) giúp khách hàng, cộng đồng hình dung
được tổng thể vấn đề sức khỏe và có thể lựa chọn được phương án giải
quyết vấn đề sức khỏe dựa trên thông tin của thầy thuốc cung cấp và nền
tảng hiểu biết của khách hàng.
- Cần cung cấp thông tin cho khách hàng về bản chất, sự cần thiết và tất cả
các khía cạnh về xử trí và quản lý vấn đề sức khỏe của họ. Thảo luận với
khách hàng đề vấn đề sức khỏe, và các phương án xử lý/điều trị/chăm sóc
bao gồm cả các lợi ích và tác hại tiềm tàng/có thể xảy ra. Đảm bảo rằng các
khách hàng đều được thông báo và cung cấp đầy đủ thông tin về các nguy
cơ có thể liên quan với bất cứ một khâu nào trong kế hoạch chăm sóc, quản
lý vấn đề sức khỏe của họ. Cần phải trả lời các câu hỏi của khách hàng,
cộng đồng và cung cấp cho họ đầy đủ và kịp thời các thông tin về tiến triển
của vấn đề sức khỏe của họ.
- Khi tư vấn cho khách hàng, cộng đồng nên tóm tắt vấn đề khách hàng, cộng
đồng cần tư vấn (để đảm bảo điều dưỡng viên và khách hàng hiểu đúng vấn
đề cần tư vấn); Diễn đạt đúng, đủ, cụ thể về thông tin cần cung cấp; Có thể
hỏi lại khách hàng để kiểm chứng họ đã hiểu ý của điều dưỡng viên vừa trao
đổi.
- Thái độ khi cung cấp thông tin: Thư giãn, không căng thẳng, không nhăn
trán, nhíu mày gây khó hiểu cho khách hàng; Sẵn sàng bày tỏ sự hạn chế của
cá nhân trong việc cung cấp/trình bày thông tin; Không can thiệp sâu và áp
đặt đối với việc quyết định lựa chọn thông tin và cách thức chăm sóc sử c
khỏe của khách hàng.
Lưu ý: Cung cấp thông tin, hy vọng, an ủi và hỗ trợ không phải là tất cả đối với
việc xây dựng mối quan hệ trong chăm sóc sức khỏe giữa điều dưỡng viên và khách
hàng/cộng đồng. Thầy thuốc cần cung cấp thông tin chi tiết về tình trạng sức khỏe của
người bệnh dần dần với mức độ thông tin đảm bảo toàn diện và phù hợp, sử dụng ngôn
ngữ dễ hiểu tương xứng với kỹ năng và kiến thức của người bệnh. Thầy thuốc cần đảm
bảo sử dụng ngôn ngữ sao cho khách hàng hiểu được đúng nội dung thầy thuốc muốn
truyền tải. Theo các nghiên cứu đã chứng minh rằng việc dùng ngôn ngữ trong cung
cấp thông tin và tư vấn của thầy thuốc góp phần quan trọng và việc tuân thủ điều trị,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe của khách hàng và cộng đồng. Để đảm bảo cung cấp
thông tin và tư vấn hiệu quả thầy thuốc cần rất chú ý đến cảm xúc và nỗi lo lắng, quan

326
tâm của khách hàng, cộng đồng … Đồng thời thầy thuốc cũng cần quan tâm đến giá
trị, văn hóa và yếu tố giới của khách hàng, cộng đồng.

2.2.3 Kỹ năng tạo động lực để khách hàng, cộng đồng thay đổi thái độ, hành vi
trong điều trị, chăm sóc và nâng cao sức khỏe

Kỹ năng tạo động lực của người thầy thuốc nói chung và điều dưỡng viên nói
riêng để động viên khích lệ người bệnh tuân thủ điều trị, khuyến khích khách hàng,
cộng đồng thay đổi thái độ, hành vi trong điều trị, chăm sóc và nâng cao sức khỏe là
khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của người thầy thuốc vào việc bày tỏ sự
thấu hiểu vấn đề của người bệnh. Từ đó điều dưỡng viên khuyến khích và hỗ trợ khách
hàng, cộng đồng tự tin vào bản thân, giúp họ nâng cao nhận thức và năng lực tự giải
quyết vấn đề sức khỏe của cá nhân và cộng đồng mình trong quá trình chăm sóc và
nâng cao sức khỏe.
Tạo động lực cho khách hàng, cộng đồng để họ lựa chọn và chấp nhận kế hoạch
chăm sóc, can thiệp có lợi cho sức khỏe của họ trong một cuộc gặp ngắn giữa thầy
thuốc và khách hàng là một thách thức không nhỏ đối với thầy thuốc nói chung và các
điều dưỡng viên nói riêng. Vì vậy các chiến lược giao tiếp hiệu quả mà điều dưỡng
viên có thể sử dụng thành công trong một lần tư vấn ngắn (các thầy thuốc luôn phải
chịu áp lực về thời gian) rất cần các thầy quốc quan tâm. Cách tiếp cận truyền thống
của thầy thuốc đối với khách hàng là dựa trên đưa ra các lời khuyên và thuyết phục
một cách trực tiếp để họ làm theo những gì thầy thuốc hướng dẫn. Điều này có thể dễ
dẫn đến sự bất đồng và có thể dẫn đến việc không tuân thủ, đặc biệt ở những khách
hàng, cộng đồng đang có suy nghĩ lưỡng lự hoặc chưa sẵn sàng thay đổi hành vi. Trao
đổi tạo động lực là phong cách giao tiếp thay thế cho cách thức giao tiếp truyền thống
và đã thành công tại các cơ sở y tế và hiệu quả trong cải thiện nhiều hành vi sức khỏe
bao gồm cả trong bệnh viện, các đơn vị phục hồi chức năng và các chương trình can
thiệp tại cộng đồng. Cách tiếp cận này là khá phù hợp với công việc hàng ngày của các
thầy thuốc làm việc tại các cơ sở y tế đông khách hàng và việc tuần thu hướng dẫn của
nhân viên y tế cần được ưu tiên cải thiện. Với cách tiếp cận này trao đổi và tư vấn của
thầy thuốc sẽ không chỉ hiệu quả hơn mà còn giảm mệt mỏi, căng thẳng cho thầy
thuốc.
Nguyên tắc của trao đổi tạo động lực:
- Nhận thấy rõ rằng con người có những mức độ sẵn sàng khác nhau trong
việc thay đổi hành vi của họ (theo lý thuyết của 5 giai đoạn thay đổi hành
vi). Một số người có thể chưa bao giờ nghĩ đến sự thay đổi hành vi sức khỏe
mà thầy thuốc đang thảo luận, một số người đã nghĩ đến nhưng chưa bao giờ
thực hiện các bước để thay đổi. Một số khác lại có thể đang chủ động cố
gắng thay đổi hành vi của họ nhưng chưa thành công trong một thời gian
dài. Trao đổi tạo động lực cũng chấp nhận một thực tế là việc đắn đo ngại
thay đổi là một đặc điểm tự nhiên của con người.

327
- Sử dụng cách tiếp cận không phán xét, không đối đầu, không tạo mâu thuẫn.
Trao đổi tạo động lực nhằm tăng nhận thức của cá nhân về những hậu quả
và nguy cơ tiềm tàng mà họ phải đối mặt do hành vi của họ mang lại và giúp
cho họ thấy được tương lại tốt đẹp hơn nếu thay đổi để họ trở nên có động
lực ngày càng mạnh mẽ hơn để đạt được mục tiêu thay đổi hành vi đó. Định
hướng là nhằm vào việc hỗ trợ người bệnh, khách hàng suy nghĩ khác trước
về hành vi sức khỏe của họ.
- Động lực thay đổi là do khách hàng khám phá và tạo ra chứ không phải bị
áp đặt từ bên ngoài. Trao đổi tạo động lực dựa trên xác định và huy động giá
trị và mục tiêu thực chất, bên trong của khách hàng để hỗ trợ cho sự thay đổi
hành vi.
- Trao đổi tạo động lực cố gắng tạo ảnh hưởng tới khách hàng để họ xem xét,
cân nhắc thay đổi chứ không phải là khám phá một cách hời hợt những đặc
điểm của khách hàng và cảm xúc của họ. Tuy nhiên đây không phải là bắt
buộc hoặc thuyết phục một cách trực tiếp.
- Thể hiện sự cảm thông và thấu hiểu quan điểm của khách hàng. Nhưng trách
nhiệm thuộc về khách hàng trong việc xem xét và lựa chọn giải pháp để giải
quyết vấn đề sức khỏe của họ.
- Hỗ trợ xây dựng sự tự tin của khách hàng. Trao đổi tạo động lực khuyến
khích khách hàng chịu trách nhiệm đối với hành động của họ và giúp họ xây
dựng sự tự tin vào khả năng thay đổi của bản thân họ. Thông thường, trao
đổi tạo động lực mong muốn có được sự cam kết rõ ràng của khách hàng để
thể hiện rằng họ đang trở nên sẵn sàng để thay đổi.
Quá trình trao đổi tạo động lực gồm 4 bước cơ bản, đó là: Lôi cuốn – lắng nghe
một cách cảm thông; Tập trung – thay đổi có chủ đích; Khơi gợi – Ý tưởng của khách
hàng; Lập kế hoạch – bắt đầu thay đổi.
Dưới đây là một số ví dụ về các câu hỏi mở để khuyến khích các lời phát biểu
liên quan đến thay đổi hành vi:
Các câu hỏi rơi vào 4 lĩnh vực. Lưu ý là các câu hỏi này thường đi sau những câu
hỏi mở về thông tin chung nhằm tạo mối liên hệ và sự thân thiện ban đầu với khách
hàng. Ví dụ, tôi có thể làm gì để giúp anh/chị/em…? Tình hình của anh/chị/em… thế
nào?. Lưu ý là thầy thuốc dùng từ “vấn đề”, “bệnh” có thể không thật sự tạo được
thiện cảm với một số khách hàng. Hãy dựa trên cảm nhận của anh chị về khách
hàng/người bệnh để lựa chọn từ phù hợp khi mô tả về tình hình hiện tại của họ.
- (1) Những bất lợi của tình hình hiện nay (nhận biết vấn đề và mối quan
tâm). Điều gì làm anh/chị/em… lo lắng về tình hình hiện tại của mình?
Những khó khăn gì mà anh/chị/em … gặp phải trong điều trị bệnh đái tháo
đường? Điều gì đã làm cho anh/chị/em… suy nghĩ rằng anh/chị/em cần phải
có động thái gì đó đối với việc uống rượu hiện này của mình? Anh/chị/em…
nghĩ là điều gì sẽ xảy ra nếu anh/chị/em không thay đổi?...
- (2) Lợi ích của thay đổi. Lợi ích của việc thay đổi là gì? Ít nhất
anh/chị/em… ở đây cùng với tôi cho thấy phần nào đó anh/chị/em đang suy
328
nghĩ rằng đây là thời điểm để thay đổi? Những lý do chính mà anh/chị/em…
thấy cần thay đổi là gì?...
- (3) Lạc quan về sự thay đổi. Điều gì khích lệ anh/chị/em… rằng
anh/chị/em… có thể thay đổi nếu bản thân mình muốn thay đổi? Theo
anh/chị/em… giải pháp nào là hiệu quả cho anh/chị/em… nếu anh/chị/em
quyết định thay đổi? Điểm mạnh của anh/chị/em… có thể giúp anh/chị/em
thành công nếu anh/chị/em quyết định thay đổi là gì?...
- (4) Dự định thay đổi. Điều gì làm cho anh/chị/em… nghĩ là mình có thể
cần thay đổi? Nếu anh/chị/em… thành công 100% và mọi việc diễn ra đúng
như anh/chị/em… mong muốn thì điều khác biệt gì sẽ xảy ra với sức khỏe
của anh/chị/em…?
Chín chiến lược để tạo động lực cho khách hàng nói về thay đổi:
- Hỏi các câu hỏi liên tưởng: tại sao anh/chị/em… muốn thay đổi điều này?
Anh/chị/em…có thể làm gì để thay đổi này thành công? Ba lý do quan trọng
nhất khiến anh/chị/em…muốn thay đổi là gì? Việc thay đổi này quan trọng
như thế nào với anh/chị/em…? …
- Hỏi để nghe giải thích chi tiết hơn: Khi chủ để về những nội dung thay đổi
đã được đề cập hỏi để có thông tin chi tiết hơn. Theo những cách nào? Nói
cho tôi biết chi tiết hơn?...
- Hỏi để có các ví dụ: Khi chủ để về những nội dung thay đổi đã được đề cập
hỏi để có các ví dụ cụ thể. Hãy đưa ra ví dụ cụ thể? Còn gì nữa không? hiện
tượng này xảy ra lần cuối khi nào?...
- Nhìn lại: Hỏi về thời điểm trước khi có mối quan tâm này. Trước đây tình
hình tốt hơn như thế nào? Khác gì so với bây giờ?
- Nhìn về phía trước: Hỏi điều gì có thể xảy ra nếu mọi thứ không có gì thay
đổi. Cuộc sống của anh/chị/em… sẽ như thế nào sau 5 năm nữa?
- Hỏi về tình huống đặc biệt: Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì nếu
anh/chị/em… không thay đổi? Những điều tốt đẹp nhất có thể dự báo được
là gì nếu anh/chị/em… thay đổi?...
- Sử dụng thước đo sự thay đổi: Theo đang đo từ 0 đến 10 (0 là hoàn toàn
không quan trọng và 10 là rất quan trọng) anh/chị/em…đánh giá sự quan
trọng của việc thay đổi ở mức độ nào? Tại sao anh/chị/em… chọn mức độ…
mà không phải là 0?
- Khám phá mục đích và giá trị: Hỏi về các giá trị định hướng cho khách
hàng. Anh/chị/em…mong muốn gì trong cuộc sống?...
- Đi đến mục đích thay đổi: Có lẽ đây là điều rất quan trọng với anh/chị/em…
và anh/chị/em… sẽ không từ bỏ ý định thay đổi bất luận điều kiện gì?
Tóm lại: Trao đổi tạo động lực là để động viên khách hàng cảm thấy vững vàng
khi lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề sức khỏe của họ và quyết tâm thực hiện để tạo
sự thay đổi. Người thày thuốc cần thể hiện sự cảm thông, tán thành với khách hàng về
vấn đề của họ, công nhận những điểm tốt mà họ đã làm được cho sức khỏe của họ và
thể hiện sự tin tưởng, sẵn sàng trợ giúp khi khách hàng cần, tạo động lực cho họ để
thực hiện sự thay đổi mà họ mong muốn.
329
CÂU HỎI LƯỢNG GIÁ
Câu 1: Hãy phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện văn hóa ứng xử tại
các cơ sở y tế
Câu 2: Hãy áp dụng một số kỹ năng giao tiếp quan trọng (thu thập thông tin, cung cấp
thông tin và tư vấn) và nguyên lý của các mô hình giao tiếp điều dưỡng viên-khách
hàng trong một số tình huống thực hành chăm sóc sức khỏe và tiếp cận cộng đồng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Abul Barkat và cộng sự. (2017). Nghiên cứu Đánh giá chất lượng dịch vụ Kế
hoạch hóa gia đình tại Việt Nam. Bộ Y tế, UNFPA.
2. American Association of Critical-Care Nurses. (2016). AACN Standards for
Establishing and Sustaining Healthy Work Environments: A Journey to
Excellence. https://www.aacn.org/WD/HWE/Docs/HWEStandards.pdf.
Accessed 12/4/2019.
3. Ezekiel J. Emanuel, Linda L. Emanuel (1992). Four Models of the
Physician-Patient Relationship. JAMA. 267(16): 2221-2226.
4. http://bacninh.gov.vn/news/-/details/20182/bo-y-te-so-ket-thuc-hien-oi-moi-
phong-cach-thai-o-phuc-vu-cua-can-bo-y-te-huong-toi-su-hai-long-cua-nguoi-
benh. Ngày truy cập 10/4/2019.
5. Kieft et al.: How nurses and their work environment affect patient experiences
of the quality of care: a qualitative study. (2014). BMC Health Services
Research. 14:249.
6. O’Halloran R, Grohn B, Worrall L. Environmental factors that influence
communication for patients with a communication disability in acute hospital
stroke units: a qualitative metasynthesis. Arch Phys Med Rehabil 2012;93 (1
Suppl 1): S77-85.

330
331

You might also like