Professional Documents
Culture Documents
Chương 1:
Tỷ suất bệnh và các nguyên tắc chung
1.1 Tần suất tiêm Một lời khuyên chung thường là, trong trường hơp cần thiết, một bệnh
nhân có thế được tiêm steroid với chu kỳ 3-4 tuần, và có thể không vượt quá 3-4 lần tiêm
trên môt tổn thương trong quá trình 1 năm. Quan điểm của tác giả là, sau 2 hay 3 mũi
tiêm mà không đat được kết quả mong muốn, bác sĩ nên xem lại chấn đoán. Dĩ nhiên, nếu
kê thêm liêu steroid bổ sung, bác sĩ cần biết bệnh nhân sẽ trải qua những tác dụng phụ
không mong muón đi kèm điều trị steroid kéo dài.
Điều này sẽ dấy lên càu hỏi về lý do một mũi tiêm không tạo được kết quả mong muốn,
cân cân nhắc sau khi làn thử đầu tiên không thành công, và nhà lâm sàng nên xem lại
chẩn đoán chính xác hay chưa, hoặc đã xác đinh đúng vị trí chưa. Trong những trường
hợp này, cãn phối hơp tiêm dưới hướng dẫn hình ảnh học.
Chương 1:
Tỷ suất bệnh và các nguyên tắc chung
Về hiệu quả, thứ tự này mang ý nghĩa là triamcinolone acetonide sẽ tạo hiệu quả kéo dài ở một liều
tương đối nhò. Điều này có lợi về mặt lâm sàng, vi trong một số thủ thuật tiêm, ví dụ như tiêm vào
mô liên kết chặt vùng nối gân xương trong hội chứng khuỷu tay người chơi tennis, có thể khá là
đau. Vì thế, liều tiêm càng càng bé càng tốt, nhằm giảm mức độ đau của mũi tiêm trong khi vẫn tạo
một hiệu quả tương đương.
Chương 1:
Tỷ suất bệnh và các nguyên tắc chung
1.5 Gây tê khu trú Có những trường hợp cần dùng thuốc tê khu trú trộn với steroid, và
những trường hơp khác thì không khuyến cáo. Lido- caine HC1 1% Plain là một trong
những thành phần hiệu quả và thông dụng nhất. Thuốc tê loại này cực kỳ hiệu quả; khởi
phát nhanh, hiệu quả kéo dài 2-4 giờ. Khi muốn tạo tác dụng tê vùng kéo dài hơn, ví dụ
như trường họp viêm cân gan chân tái hồi gây đau đớn dữ dội, đôi khi có thể dùng
bupivacine plain 0.25% hay 0,5% (Marcaine Plain). Hiệu lực kéo dài 5-16 tiếng.
Chương 1:
Tỷ suất bệnh và các nguyên tắc chung
1.6 Hậu thủ thuật Sau tiêm steroid, bệnh nhân nên nghỉ ngơi vùng khớp hay vùng bị ảnh
hưởng trong 2-3 ngày. Không nhất thiết khuyến cáo này có chứng cứ, nhưng sẽ giúp bệnh
nhân cải thiện mà không cần tăng nặng tình trạng bệnh liên quan hoạt động thể lực.
Không khiêng, mang đồ nặng hay túi xách nặng. Đồng thời, bệnh nhân cũng không nên tự
thực hiện các động tác gây đau trong vài ngày, sau đó, hoạt động dần trở nên bình thường
hóa. Thỉnh thoảng, có thể dùng nẹp treo sau tiêm vai hay khuỷu tay người chơi tennis,
nhưng sau đó sẽ ngưng đeo khi đã hết đau.
Chương 2: Tiêm corticosteroid khớp và mô
mềm: Y học bằng chứng
GIỚI THIỆU: Việc sử dụng tiêm corticosteroid trong điều trị các mô mềm và tình trạng
viêm khớp hiện đang phổ biến trong chăm sóc ban đầu và về sau.
Các qui trình kỹ thuật này hỗ trợ chẩn đoán và điều tri một loạt các bệnh lý cơ xương
khớp và là một sự hỗ trợ đáng kế cho cả trị liệu dược lý và chức năng liên quan đến sự
phục hồi chức năng và khỏi bệnh.
Mặc dù kinh nghiệm thực tiễn cho thấy các phương nháp điều trị như vậy có hiệu quả, cơ
sở bằng chứng vẫn khá hạn chế.
Chương này nhằm mục đích xem xét bằng chứng về việc tiêm khớp - mô mềm bằng corti
costeroid.
Chương 2: Tiêm corticosteroid khớp và mô
mềm: Y học bằng chứng
CHI TRÊN:
Trong các cơ sở chăm sóc ban đàu, các triệu chứng vai phổ biến và chiếm 1 trong mỗi 170 ca
tư vấn bệnh nhân người lớn. Với một phòng khám đa khoa có trung bình, bác sĩ có thể gặp
khoảng 30 bệnh nhân mỗi năm. Các bệnh lý bao gồm sự bất ổn định ở người trẻ tuổi,
impingement (bệnh viêm bao hoạt dịch chóp xoay) ở nhóm tuổi 25-50 và "cứng vai" ở bệnh
nhân tiểu đường lớn tuổi. Các vấn đề viêm khớp vai ít phổ biến hơn.
Các tác giả kết luận rằng tiêm cor-ticosteroid dưới mỏm cùng vai trong bệnh chóp xoav và
tiêm nội khớp trong viêm dính bao hoạt dịch có thể có lợi, măc dù lợi ích có thể nhỏ và không
được duv trì tốt.
Chương 2: Tiêm corticosteroid khớp và mô
mềm: Y học bằng chứng
CHI TRÊN: Thuật ngữ viêm lồi câù có một chút sai lầm vì sinh lý bệnh là thoái hóa chứ
không phải viêm. Mặc dù vậy, corticosteroid đã được chứng minh là một điều trị hữu ích
khi kết họp với các biện pháp không xâm lấn khác. Hay và cộng sự ngẫu nhiên xếp các
bệnh nhân bị viêm lồi câù ngoài thành 3 nhánh điều trị: giả dược, NSAID uống và tiêm
corticosteroid. Họ phát hiện ra rằng, những ca cải thiện triệu chứng tốt nhất và ngắn hạn
(trong vòng 4 tuần) xảy ra trên nhóm tiêm corticosteroid. Sau 1 năm theo dõi, kết quả
bệnh nhân tương tự nhau giữa ba nhóm.
Các khớp của bàn tay và cổ tay cùng với các cấu trúc mô mềm là nơi tiêm trong nhiêu
loại bệnh lý, bao gồm viêm khớp và viêm xương khớp, viêm bao gần hoạt dịch, hội chứng
ổng cố tay và ngón tay bóp cò.
Chương 2: Tiêm corticosteroid khớp và mô
mềm: Y học bằng chứng
CHI TRÊN: Một nghiên cứu quan sát lâm sàng với 83 bệnh nhân bị viêm xương khớp bàn tav, cho thấy 15% bệnh nhân
đã giảm đau đáng kể sau 6 tháng, và gần một nửa đã giảm đau trong hơn 3 tháng, với đáp ứng trung bình là tiêm 2,5 tháng.
Chèn ép dây thần kinh giữa trong đường hầm ống cổ tay - hội chứng ống cổ tay - là hội chưng mắc kẹt dây thần kinh phổ
biến nhất, ảnh hưởng đến 4% dân số nói chung. Một đánh giá của Cochrane được công bố năm 2007 cho thấy tiêm
corticosteroid tại chỗ giúp cải thiện triệu chứng tốt hơn sau 1 tháng so với tiêm giả dươc và tạo ra sư cải thiện lâm sàng
đáng kể so với steroid đường uống tới 3 tháng.
Một đánh giá lâm sàng về hiệu quả của việc tiêm steroid trong điêu trị ngón tay cò súng đã tóm tắt kết quả từ hai thử
nghiệm lầm sang với tống cộng 63 bệnh nhân. Các tác glả kết luận rằng kết quả ngắn hạn tốt đạt được khi tiêm kết hợp
corticosteroid và gầv tê cục bộ so với chỉ dùng thuốc gày tê cục bộ. Một trong những nghiên cứu này cho thấy tác dụng
này đã được nhận thấy sau 4 tháng tiêm.
Tiêm corticosteroid (và gâv tê cục bộ) cho bệnh viêm bao gân hoat dịch De Quervain, đã được chứng minh ỉà vượt trội so
với nẹp bằng spica ngón tay cái sau 1 và 6 ngàv sau khi tiêm. Tuy nhiên, kích thước mẫu nghiên cứu nhò. Thời gian theo
dõi ngắn và chì giới hạn ờ phụ nữ có thai và cho con bú.
Chương 2: Tiêm corticosteroid khớp và mô
mềm: Y học bằng chứng
VAI TRÒ CỦA TIÊM DƯỚI HƯỚNG DẪN HÌNH ẢNH HỌC LÀ GÌ ?
Độ chính xác của việc dùng steroid đã được chứng minh là có liên quan đến cải thiện kết quả lâm sàng
trong một số nghiên cứu. Độ chính xác về mặt giải phẫu của tiêm mù được chứng minh là có thế thay đổi
với tỉ lệ thành công quan sát được từ 37% đến 52% bệnh nhân. Vị trí tiêm dưới mỏm cùng vai chính xác
ít phổ biến một cách kinh ngạc, vì vị trí của nó có thể thay đối và chỉ được quan sát thấy ở mức 29%.
Tiêm theo hướng dẫn bằng hình ảnh cũng cho phép tiêm chính xác vào các khu vực bất thường nhìn thấy
được. Do độ phân giải không gian vốn có của siêu âm, các cấu trúc nhỏ có thể được nhắm mục tiêu dễ
dàng (chẳng hạn như túi hoạt dịch dưới mỏm cùng vai, xếp theo thứ tự cách vài mm khi không bị cản
trờ). Độ chính xác như vậy rõ ràng là không thể có được khi chỉ dựa vào các mốc giải phẫu.
Chương 3: Các vấn đề pháp lý khoa, biến
chứng và đồng thuận
Chương 3: Các vấn đề pháp lý khoa, biến
chứng và đồng thuận
1. Giới thiệu
2. Đặt vấn đề gánh nặng của bệnh lý viêm
3. Thử thách đế chuẩn đoán
4. Cách chuẩn đoán
5. Sự quản lý.
6. Tiêm trong viêm khớp
7. Phần kết luận
Chương 4: Thách thức của việc nhận biết và
kiểm soát viêm khớp
1. Giới thiệu
Chỉ định tiêm thường dành cho khớp bị viêm. Đây có thế là dấu hiệu đầu tiên của tình trạng
viêm khớp lan tỏa. Mặc dù cuốn sách này chủ yếu nhằm giúp người đọc tiêm khớp với sự tự
tin và kỹ thuật tốt, nhưng một điều quan trọng đối với người thực hiện tiêm, đó là phải có một
số kiến thức về loại tình trạng này. Mục đích của chương này là cung cấp cho các bác sĩ đa
khoa, điều dưỡng chuyên nghiệp và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe về những hướng dẫn
trong chẩn đoán và quản lý viêm khớp.
Chương 4: Thách thức của việc nhận biết và
kiểm soát viêm khớp
5. Sự quản lý.
Khi chẩn đoán viêm khớp dai dẳng, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng steroid (toàn thân, tiêm bắp hoặc tiêm khớp) trong thòi gian ngắn. Trị liệu này nằm trong một khoảng thời gian từ
4 đến 8 tuần sử dụng steroid toàn thân
theo phương pháp giảm liều. Điều này giúp điều trị nhanh chóng viêm và giảm thiếu triệu chứng. Đế duy trì sự thuyên giảm bệnh, các DMARD như methotrexate, leflunomide,
sulfasalazine và hydroxychloroquine được sử dụng. Những thuốc này thường cần tới 12 tuần để có hiệu lực. Methotrexate là DMARD được sử dụng phổ biến nhất, miễn là không có
chống chỉ định, và đây là loại thuốc đàu tiên chúng tôi lựa chọn cho RA. Tất cả bệnh nhân đều được yêu cãu xét nghiệm máu (đặc biệt là kiểm tra chức năng thận, gan và tủy xương)
cùng vói chụp X quang ngực trước khi sử dụng. Xét nghiệm chức năng phổi cũng hữu ích ở những bệnh nhân mắc bệnh phổi đông thời. Một bệnh nhân có tổng công suất khuếch tán
thấp (DLCO) sẽ không có dự trữ phổi để bù trừ trong trường hợp viêm phổi methotrexate hiếm gặp. Thuốc này nên tránh trong những trường hợp như vậy. Hầu hết các trung tâm đều
có dịch vụ tư vấn thuốc DMARD bởi các điều dưỡng chuyên khoa.
Bằng chứng đã chỉ ra rằng liệu pháp DMARD kết hợp vượt trội hơn so với đơn trị liệu trong thuyên giảm triệu chứng, duy trì sự thuyên giảm và chống xói mòn khớp. Do đó, hai
hoặc nhiều DMARD thường được kết họp
ngay từ đàu. Các phòng khám viêm khớp ban đầu được thiết kế đế có sự theo dõi chặt chẽ, thường là trong một phòng khám điều dưỡng, khoảng 6 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Mục
đích của việc này là để đánh giá đáp ứng điều trị và khả năng dung nạp thuốc. Sau đó, mức độ hoạt động của bệnh nên được đánh giá lại bởi một bác sĩ lâm sàng chuyên khoa để đo
lường hiệu quả của DMARD được sử dụng và xác định liệu pháp trong tương lai. Điểm hoạt động của bệnh (DAS) là điếm tổng họp dựa trên số lượng khóp căng đau, số lượng khóp
bị sưng, điểm VAS từ bệnh nhân và CRP/tốc độ lắng máu. Điểm DAS28 (dựa trên việc đếm 28 khóp) tạo thành cơ sở của các tiêu chí đủ điều kiện dùng thuốc sinh học. Theo tiêu chí
của Viện Sức khỏe và Chăm sóc Sức khỏe (NICE) Quốc gia, nếu bệnh nhân RA có bằng chứng về mức hoạt động của bệnh cao (DAS28> 5.1) mặc dù sử dụng hai hoặc nhiều
DMARD (một trong số đó là methotrexate, trừ khi bị chống chỉ định), bệnh nhân có thể chuyển sang điều trị thuốc sinh học.
Những loại thuốc này đã gây cách mạng hóa việc điều trị RA, đạt được tỷ lệ thuyên giảm bệnh cao mà trước đây không thể thực hiện được. Bằng chứng ủng hộ các chế độ kiểm soát
điều trị chặt chẽ, kèm với việc theo dõi thường xuyên trong phương thức điều trị theo mục tiêu được áp dụng ờ nhiều trung tâm thấp khớp. Thuốc sinh học là thuốc ức chế miễn dịch,
và do đó, nên tạm thời dừng lại nếu bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng hoặc dấu hiệu nhiễm trùng. Có thể khởi động lại sau khi nhiễm trùng đã được điều trị đằy đủ. Điều quan
trọng càn nhớ là bệnh nhân đang điều trị ức chế miễn dịch có thể có các biểu hiện không điển hình của nhiễm trùng cơ bản.
Chương 4: Thách thức của việc nhận biết và
kiểm soát viêm khớp
1. Giới thiệu
2. Biểu hiện và chuẩn đoán
3. Hạn chế trong chuẩn đoán
4. Giải phẫu học chức năng
5. Thăm khám khớp vai
6. Ý nghĩa đau (Xem hình 5.1)
7. Kỹ thuật tiêm
8. Viêm gân cơ nhị đàu
9. Viêm khớp khớp cùng - đòn
10. Vật lý trị liệu vùng vai
Chương 5: VAI
1. Giới thiệu: Đây là một khái niệm quan trọng để hiểu về nhiều nguyên nhân gây đau liên quan đến chóp xoay là do thoái hóa theo bệnh học và các thuật ngữ mô tả bệnh lý cơ bản:
Tendinosis là một cách gọi sai, vì các tế bào viêm hiếm khi được nhìn thấy về mặt mô học.
Tendinopathy là một mô tả lâm sàng đề cập đến cả tình trạng cấp tính và mãn tính.
» Tendinosis đề cập đến tình trạng không viêm với bằng chứng mô học về sự vô tổ chức collagen và hoại tử.
Nguyên nhân của bệnh viêm gân thường là đa yếu tố và liên quan đến sự lặp đi lặp lại của vi chấn thương, với sự phá vỡ liên kết ngang collagen. Nếu sửa chữa không đầy đủ, nó có
thể tiến triển thành chấn thương và đứt gân.
Các chẩn đoán càn cân nhắc như sau:
Viêm gân cơ trên gai (cơ dưới vai, cơ dưới gai).
Rách chóp xoav.
"Vai đông cứng" (viêm dính bao hoạt dịch).
Viêm hoạt dịch dưới mỏm cùng vai.
Viêm gân cơ nhị đầu (đầu dài cơ nhị đầu).
Viêm xương khớp mỏm cùng - đòn, hoặc khớp vai.
Bệnh khớp cấp tính, ví dụ, bệnh thấp khớp, bệnh vấy nến và các bệnh khớp huyết thanh âm tính khác.
Viêm gân cốt hóa.
Chương 5: VAI
Chương 5: VAI
Bệnh nhân ngồi thẳng, hai tay buông thõng, không xoay. Sờ nắn điểm ngoài cùng của vai và làm dấu bằng ngón cái,
khoảng 0.5 inch (1.3 cm) bên dưới đầu mỏm cùng vai. Dùng 1 ml steroid hòa với 1 ml lidocaine 1% trong xy- lanh
2 ml gắn kim 1.5 inch (3.8 cm). Kim lớn hơn được khuyến cáo vì mô mỡ dưới da của tay trên thường dày tại điểm
này. Tiến kim về phía góc trong, bên dưới mỏm cùng vai và đi theo phương ngang, hướng nhẹ xuống theo hướng hố
trên gai. Tiêm ở khoảng cách 1 inch (2.5 cm) khi đã đâm kim.
Trong viêm bao hoạt dịch dưới mỏm cùng vai, thường có tràn dịch, gây cảm giác bập bềnh ở mỏm cùng vai. Có thể
chọc hút trước khi tiêm hỗn hợp steroid và thuốc tê. Viêm bao hoạt dịch mỏm cùng vai có thể thấy trong gout, trong
hội chứng Reiter sau chấn thương hay trong viêm khớp dạng thấp. Đôi khi, có thể do tinh thể hydroxyapatite (99%
calci, được tạo từ tinh thể hydroxyapatite của xương, một thành phần khoáng trong xương). Ngoài tràn dịch, có thể
chẩn đoán tình trạng này bằng cách yêu cầu bệnh nhân đặt tay bị ảnh hưởng chéo ngực. Gõ nhẹ khuỷu tay sẽ tạo cơ
đau lan truyền tới dưới mỏm cùng vai. Tiếp cận tiêm vai thường tùy lựa chọn cá nhân, vì hiệu quả của cách tiêm từ
ngoài, phía trước hay phía sau đều có cùng hiệu quả với chóp xoay và các vấn đề cứng vai.
Chương 5: VAI
7. Kỹ thuật tiêm
Chương 5: VAI
7. Kỹ thuật tiêm
7.3 Tiếp cận phía sau (Hình 5.4)
Dùng 1ml steroid trộn lẫn 1ml lidocaine 1% trong xylanh 2ml. Gắn kim 1.5 inch (3.8 cm),
bởi vì, một lần nữa, lớp mỡ dưới da ở phía lưng dày hơn, nhất là trên bệnh nhân béo phì.
Bệnh nhân ngôi đưa lưng hướng về người thực hiện thủ thuật. Sờ nắn phần đãu sau của
mỏm cùng vai bằng dẫu ngón cái. Đặt ngón trỏ của cùng bàn tay đó lên mỏm quạ. Một
đường tưởng tượng giữa ngón cái và ngón trỏ sẽ đánh dấu đường đi của kim.
Tiến kim từ điểm vào, khoảng 1 inch (2.5 cm) phía dưới đầu ngón cái (là dưới dầu mỏm
cùng vai và phía trong của đầu xương cánh tay) và khoảng 1 inch hướng tới ngón trỏ đang
đánh dấu ở mỏm quạ. Khi tiêm sẽ không thấy kháng lực, vì đầu kim nằm trong bao khớp
vai.
Cách tiếp cận này phù hợp cho tất cả tổn thương chóp xoay và cứng vai.
Chương 5: VAI
Chương 5: VAI
1. Tỷ lệ mắc bệnh
2. Các tình trạng được xử lý bằng STEROID
3. Khớp cổ - bàn đàu tiên
4. Khớp bàn và khớp liên đốt
5. Hội chứng ống cổ tay.
6. Viêm bao gân hoạt dịch Dequervain's
7. Ngón tay cò súng
8. Vật lý trị liệu: Cổ tay và Tay
Chương 6: CỔ TAY VÀ BÀN TAY
Khớp cổ-bàn đàu tiên là một trong số ít các khớp bị ảnh hưởng bởi viêm xương khớp, và trong đó đáp ứng
khá tốt với tiêm Steroid (khớp còn lại đáp ứng tốt với tiêm Steroid là khớp cùng - đòn). Thường được mô tả
là "ngón cái thợ giặt", loại viêm xương khớp này đi kèm các động tác lặp đi lặp lại được thực hiện trong
quá trình nội trợ.
6.3.1 Biểu hiện và chấn đoán
Bệnh nhân thường than phiền đau nhức quanh khớp, và kiểm tra cho thấy đau khi cử động thụ động ngón
cái ra sau. Thông thường loãng xương đi kèm, cần lưu ý khi kiếm tra X quang khớp. Chúng có thể khiến
việc tiêm vào khoang khớp nhỏ trở nên khó khăn.
6.3.2 Giải phẫu chức nàng
Khớp này là khớp nổi của xương đốt bàn đàu tiên với xương thang cổ tay. Duỗi và dạng ngón cái gây đau
đớn và căng nề sâu trong hõm lào giải phẫu ở đường khớp, dễ sờ thấy hơn khi đối tượng gấp và khép ngón
tay cái vào lòng bàn tay. Khoang khớp, mặc dù nhỏ, sẽ có thể tiêm khoảng 0,5 ml dung dịch steroid.
Chương 6: CỔ TAY VÀ BÀN TAY
6.3.3 Kỹ thuật tiêm (xem hình 6.1)
Bệnh nhân khép ngón cái vào lòng bàn tay
càng sát càng tốt, và giữ nó ở đó cùng với
ngón trỏ và ngón giữa. Sờ nắn đường khớp ở
phía sau và sau đó tiêm từ phía ngoài, chú ý
tránh gân cơ dạng ngón cái - nó đánh dấu
ranh giới hõm lào. Sử dụng kim nhỏ 5/s inch
(1,6 cm) và tiêm khoảng 0,5 ml
triamcinolone acetonide. Không yêu cầu
lidocaine, mặc dù một số bác sĩ thích sử dụng
lượng tương đương lidocaine 1%.
Chương 6: CỔ TAY VÀ BÀN TAY
Kỹ thuật tiêm
Sờ nắn đường khớp bằng cách kéo lực nhẹ để mở khoang khớp trước khi tiêm 0,25-
0,5 ml triamcinolone acetonide vào mặt trước ngoài khoang khớp. Vì các khoang
khớp rất nhỏ, không cần thiết phải trộn steroid với lido- caine trừ khi các khớp rất
căng khi sờ nắn. Tiêm hai hoặc ba trong sổ các khớp này cùng một lúc là phù hợp
và thông thường, đạt được sự thuyên giảm kéo dài đến 6 tháng.
Chương 6: CỔ TAY VÀ BÀN TAY
Test Tinel
Đây là một xét nghiệm chẩn đoán đáng tin cậy. Gõ nhẹ trên mạc ngang gân gấp bằng búa gõ, đặc biệt là giữa gân cơ gan tay dài và gân cổ tay
quay. Xét nghiệm dương tính nếu bệnh nhân mô tả cảm giác ngứa ran theo phân bố dây thần kinh giữa.
Test Phelan
Đây là một test xác định hữu ích khác. Giữ cổ tay gấp một góc nhọn trong tối đa 1 phút; điều này thường tái hiện cơn đau và dị cảm điển hình.
Chẩn đoán có thể được xác nhận bằng điện cơ đồ, và xét nghiệm thêm này được khuyến nghị trong trường họp nghi ngờ. Thường cần phải loại
trừ các nguyên nhân gây dị cảm ở bàn tay hoặc đau ở cánh tay phát sinh từ cột sổng cổ, chẳng hạn như tổn thương đĩa đệm vùng cổ hoặc bệnh
cột sống gây ra các chèn ép rễ thần kinh C5 hoặc C6.
Giải phẫu chức năng
Dây thần kinh giữa nằm ở phía sau của gân cơ gan tay dài ở cổ tay và nó đi vào lòng bàn tay sâu đến mạc ngang gân gấp. cấu trúc sau là một
dải xơ dày đặc bao phủ một phần ba gần lòng bàn tay trong đó gân cơ gan tay dài bám vào. Gân cơ gan tay dài là gân nằm giữa và nông nhất,
nổi bật khi cổ tay gập chống lại kháng lực. Do đó, điều quan trọng là xác định được gân gan tay dài vì cho phép người thực hiện biết vị trí
chính xác của dây thần kinh giữa. Khoảng 13% số người không sở hữu gân cơ gan tay dài, và trong trường hợp đó, dây thần kinh giữa được
xác định nằm giữa gân gấp các ngón nông và gân cơ gấp cổ tay quay. Khi vào lòng bàn tay, dây thần kinh giữa sau đó nằm trong ống cổ tay,
nơi nó phân chia thành các nhánh chi phối các ngón.
Chương 6: CỔ TAY VÀ BÀN TAY
Sử dụng 1 ml steroid, ví dụ, triamcinolone acetonide đơn độc, trong ống tiêm 2 ml. Sử dụng kim 1 inch (2,5 cm).
Không thêm thuốc gây tê cục bộ, bởi vì tác dụng của nó có thể gây tê khó chịu ở ngón tay và lòng bàn tay chịu phân
bố của dây than kinh giữa, kéo dài trong vài giờ. Các triệu chứng của hội chứng ống cổ tay rất khó chịu đối với
nhiều bệnh nhân, do đó, việc tái tạo các triệu chứng này trong vài giờ sẽ tạo ra nhiều khó chịu, chưa kế gây ra một số
sự bất lợi cho bác sĩ!
Bây giờ, khi cổ tay thẳng, đưa kim tiến gần tới chuôi, hướng ra xa và nghiêng một góc 45 độ. Điều này đảm bảo
rằng dung dịch steroid được lắng trong ống cổ tay ngay sau mạc ngang gân gấp. Tại thời điểm này, luôn luôn hỏi
bệnh nhân điều này thoải mái hay không, và đảm bảo rằng không có cảm giác đau. Vô tình tiêm phải một nhánh chi
phổi ngón tay của dây thần kinh giữa sẽ gây đau ở lòng bàn tay và đi dọc theo một ngón tay. Nếu điều này xảy ra,
chỉ cần rút kim ra một chút trước khi tiêm. Hút để loại trừ tình huống tiêm nội mạch. Sau đó, bạn có thể tiêm steroid
dễ dàng, với ít kháng lực trên pít-tông. Tiêm chậm, vì điều này sẽ đảm bảo ít đau hoặc khó chịu do tiêm.
Chương 6: CỔ TAY VÀ BÀN TAY
Các dây thần kinh giữa nằm ở phía sau gân cơ gan tay dài. Nếu việc đâm kim gây ra dị cảm ngay lập tức, cho thấy kim
đã xâm nhập vào dây thần kinh giữa, rút kim ra một chút và đặt lại ngay sau đó. Điều này sẽ đảm bảo rằng không có
thiệt hại gây ra cho dây thần kinh.
Luôn nhớ nhắc nhở bệnh nhân rằng một sổ cơn đau cấp tính có thể xảy ra trong tối đa 48 giờ sau khi tiêm. Khuyên rằng
thuốc giảm đau đơn giản sẽ có hiệu quả và hướng dẫn bệnh nhân đặt cánh tay nghỉ ngơi trong 24 - 48 giờ sau khi tiêm.
Các triệu chứng sẽ cải thiện sau vài ngày và việc trấn an bệnh nhân là rất quan trọng. Nếu tình trạng đau ở cả 2 bên, tốt
hơn là nên tiêm một bên trước và chờ kết quả lâm sàng. Đôi khi bên còn lại cải thiện một cách tự nhiên và không càn
điều trị thêm. Trường họp không cải thiện triệu chứng, tiêm bên còn lại sau khoảng 3 tuần sẽ hợp lý hơn. Tuy nhiên, vị
trí không có sự cải thiện sau ba lần tiêm, nên cân nhắc giải áp bằng phẫu thuật.
Chương 6: CỔ TAY VÀ BÀN TAY
1. Giói thiệu
2. Chấn thương khuỷu tay.
3. Khuỷu tay người chơi Golf.
4. Tư vấn sau tiêm
5. Loạn dưỡng mỡ.
6. Vật lý trị liệu TENNIS và khuỷu tay của GOLFER
7. Viêm bao hoạt dịch mỏm khuỷu (Xem hình 7.3)
8. Khuỷu tay (xem hình 7.4)
9. Vật lý trị liệu : Khớp khuỷu tay.
Chương 7: KHỦY TAY
Giói thiệu
Có lẽ các mô mềm tổn thương nhiều nhất nằm ở phần duỗi và gấp của khuỷu tay, như trường họp khuỷu tay quần vọt và người chơi gôn - được gọi như
vậy là vì động tác đánh tay hoặc cú vung golf sai gây ra tình trạng này. Trong các tổn thương này, vùng gân nối xương, không có vỏ bao hoạt dịch, bản
thân bị viêm hoặc thoái hóa, và là một bệnh viêm gân chứ không phải là viêm bao hoạt dịch (trong đó vỏ bao hoạt dịch bị viêm).
Chấn thương khuỷu tay
Khuỷu tay quần vợt cấp tính phổ biến ở bệnh nhân từ trẻ đến trung niên do căng gân duỗi cẳng tay. Còn được gọi là viêm lồi càu ngoài, đây là một chấn
thương xảy ra tại vùng chèn gân - xương của gân duỗi lòi cầu ngoài xương cánh tay. Tình trạng này thường do bởi các chuyển động lặp đi lặp lại trong
công việc, chẳng hạn như kiểu tuốc-nơ-vít hoặc lau chùi. Một cú đánh trái tay hoặc thuận tay khi chơi tennis, bóng quàn hoặc cầu lông thường là một
yếu tố gây bệnh.
Rất hiếm khi, một vùng calci hóa thứ phát có thể gây đau và nề qua thăm khám; nó không được sinh ra do cử động duỗi cố ý của cổ tay. Nếu nghi ngờ,
hãy chụp
X quang khớp khuỷu tay trước khi tiêm steroid.
Siêu âm hoặc MRI có thể hữu ích trong các trường họp không điển hình hoặc kháng trị để xác định chẩn đoán và loại trừ bệnh lý phân biệt.
Chương 7: KHỦY TAY
Biểu hiện và chẩn đoán
Qua sờ nắn, có cảm giác đau tinh tế và khối nề cục bộ trên lồi cầu ngoài xương cánh tay. Cơn đau này có thể tái xuất
hiện bằng cách yêu cầu bệnh nhân gập cổ tay (dorsiflexion) chống lại sức đề kháng. Tất cả các chuyển động khác ở
khuỷu tay bình thường.
Giải phẫu chức năng
Vị trí bám phổ biến của các cơ duỗi của cẳng tay và bàn tay nằm ở lồi cầu ngoài xương cánh tay. Những cơ này về cơ
bản là cơ cánh tay quay, cơ duỗi cổ tay quay, cơ duỗi cổ tay trụ và cơ duỗi các ngón. Căng bất kỳ cơ nào trong số các
cơ này ở vị trí bám sẽ gây ra tổn thương tại đó, tạo ra một điểm khu trú dễ bị đau cấp tính. Yêu cầu bệnh nhân mở rộng
cổ tay chống lại sức đề kháng cho phép bác sĩ xác định chính xác tổn thương.
Chương 7: KHỦY TAY
Sử dụng kỹ thuật này để tiêm tất cả các phần nề của tổn
thương gân, người ta có thế yên tâm hơn về sự thành
công hoàn toàn trong điều trị khuỷu tay quần vợt và
người chơi gôn, và trong việc làm giảm các đợt tái phát
thường được báo cáo.
Bệnh nhân có thể ngồi hoặc nằm trong khi làm thủ thuật
này và phải được thông báo rằng cơn đau của thuốc tiêm
có thể kéo dài đến 48 giờ, nhưng sau đó sẽ giảm dần.
Giảm đau đơn giản có thể được khuyến cáo. Cánh tay
nên được nghỉ ngơi một hoặc hai ngày sau khi tiêm.
Bệnh nhân nên được khuyên không mang túi và mua
sắm bằng cánh tay được thực hiện thủ thuật trong một
tuần hoặc lâu hơn sau khi tiêm.
Chương 7: KHỦY TAY
7.3 Khuỷu tay người choi Golf Tình trạng này tương tự các tổn thương của khuỷu tay quần vợt, nguồn gốc là
các cơ gấp cẳng tay tại lồi cầu trong xương cánh tay. Còn được gọi là viêm lồi cầu trong, nó có thể là do người
chơi golf thực hiện động tác back- swing lỗi và các chuyển động lặp đi lặp lại khác ảnh hưởng đến nhóm cơ
gấp.
Biểu hiện và chẩn đoán
Bệnh nhân phàn nàn về cơn đau cấp tính tại một điểm ưên lồi cầu trong, dễ dàng tái hiện tại vị trí này bằng
cách yêu cầu bệnh
nhân gập cổ tay chống lại sức đề kháng.
Chương 7: KHỦY TAY
Chương 7: KHỦY TAY
7.8 Khuỷu tay (xem hình 7.4)
Biểu hiện
Đau khuỷu tay xảy ra trong đợt bùng phát của viêm khớp và viêm bao hoạt dịch hậu chấn thương (ví dụ, sau khi mang theo các vật nặng như hành lý
bằng cánh tay mở rộng). Tất cả các chuyển động gấp, lật sấp hay lật ngửa đều làm nặng cơn đau.
Giải phẫu chức năng
Khớp khuỷu tav bao gồm ròng rọc của xương cánh tay, khớp nối với mấu ròng rọc của mỏm khuỷu xương trụ, ngoài khớp nối của đàu xương quay với
đầu dưới của xương cánh tay (capitulum). Màng hoạt dịch rộng và cùng với mỡ ngoài bao, tạo thành một tấm mềm, nằm trước. Cách dễ nhất để tiêm
khớp là bằng cách sờ nắn vào tấm mềm này, sử dụng ngón tay để xác định các bờ xương nằm giữa lòi cầu ngoài xương cánh tay, mấu khuỷu và đầu
xương quay.
Một hình tam giác được hình thành, trung tâm là điểm tốt nhất để chèn kim. Chuyển động thụ động nhẹ nhàng của cẳng tay và đầu quay bằng cách lật
sấp và lật ngửa cho thấy khoang khớp và tạo điều kiện cho việc tiêm.
Chương 7: KHỦY TAY
Kỹ thuật tiêm
Bệnh nhân ngồi với cẳng tay tạo góc 90 độ nằm trên ghế hoặc bàn thăm khám. Tạo ấn ngón tay cái tại điểm
tiêm, như
trước đó, đăt ngón tav kiếm ưa trên một miếng gạc cồn. Chèn kim theo hướng trước ngoài 1 - 2 cm và tiêm
nhe nhang hỗn hơp thuóc steroid, chẳng han như 1 mi triamcinolone cetonide trộn vcn 1 - 3 ml capocaine
1%, sử dung kim màu xanh 1 inch (2,5 cm). Việc tiêm nên dễ dàng và thoái mai. Nếu nhận tháy kháng lưc,
nhe nhàng di chuyến kim cho đến khí hoàn thành.
Chương 7: KHỦY TAY
Vật lý trị liệu : Khớp khuỷu tay
Phuc hỏi chức năng chuyên
động sau khi tiêm có thế được khuyến khích với chuyển động thường xuyên trong phạm vt không gây đau, lặp
đi lặp lại sau mỗi vài giờ. Cần chú trong ban đẫu vào viêc cải thiện đô gấp của khuỷu tay, vì điều này rát quan
trọng trong nhiều hoạt đông hàng ngày, như ăn uống và vè sinh cá nhân.
Bênh nhân bị cứng khớp hoặc yếu kéo dài, không cải thiện được bằng các bài tập đơn giản, nên đươc chuyển
tới khoa vật lý trị liệu sớm.
Chương 7: KHỦY TAY
Chương 7: KHỦY TAY
Chương 7: KHỦY TAY
https://www.wikihow.com/Sit-at-Work-If-You-Have-Back-Pain
Chương 7: KHỦY TAY
7.8 Khuỷu tay (xem hình 7.4)
Biểu hiện
Đau khuỷu tay xảy ra trong đợt bùng phát của viêm khớp và viêm bao hoạt dịch hậu chấn thương (ví dụ, sau khi mang theo các vật nặng như hành lý
bằng cánh tay mở rộng). Tất cả các chuyển động gấp, lật sấp hay lật ngửa đều làm nặng cơn đau.
Giải phẫu chức năng
Khớp khuỷu tav bao gồm ròng rọc của xương cánh tay, khớp nối với mấu ròng rọc của mỏm khuỷu xương trụ, ngoài khớp nối của đàu xương quay với
đầu dưới của xương cánh tay (capitulum). Màng hoạt dịch rộng và cùng với mỡ ngoài bao, tạo thành một tấm mềm, nằm trước. Cách dễ nhất để tiêm
khớp là bằng cách sờ nắn vào tấm mềm này, sử dụng ngón tay để xác định các bờ xương nằm giữa lòi cầu ngoài xương cánh tay, mấu khuỷu và đầu
xương quay.
Một hình tam giác được hình thành, trung tâm là điểm tốt nhất để chèn kim. Chuyển động thụ động nhẹ nhàng của cẳng tay và đầu quay bằng cách lật
sấp và lật ngửa cho thấy khoang khớp và tạo điều kiện cho việc tiêm.
Chương 7: KHỦY TAY
7.8 Khuỷu tay (xem hình 7.4)
Biểu hiện
Đau khuỷu tay xảy ra trong đợt bùng phát của viêm khớp và viêm bao hoạt dịch hậu chấn thương (ví dụ, sau khi mang theo các vật nặng như hành lý
bằng cánh tay mở rộng). Tất cả các chuyển động gấp, lật sấp hay lật ngửa đều làm nặng cơn đau.
Giải phẫu chức năng
Khớp khuỷu tav bao gồm ròng rọc của xương cánh tay, khớp nối với mấu ròng rọc của mỏm khuỷu xương trụ, ngoài khớp nối của đàu xương quay với
đầu dưới của xương cánh tay (capitulum). Màng hoạt dịch rộng và cùng với mỡ ngoài bao, tạo thành một tấm mềm, nằm trước. Cách dễ nhất để tiêm
khớp là bằng cách sờ nắn vào tấm mềm này, sử dụng ngón tay để xác định các bờ xương nằm giữa lòi cầu ngoài xương cánh tay, mấu khuỷu và đầu
xương quay.
Một hình tam giác được hình thành, trung tâm là điểm tốt nhất để chèn kim. Chuyển động thụ động nhẹ nhàng của cẳng tay và đầu quay bằng cách lật
sấp và lật ngửa cho thấy khoang khớp và tạo điều kiện cho việc tiêm.
Chương 7: KHỦY TAY
7.8 Khuỷu tay (xem hình 7.4)
Biểu hiện
Đau khuỷu tay xảy ra trong đợt bùng phát của viêm khớp và viêm bao hoạt dịch hậu chấn thương (ví dụ, sau khi mang theo các vật nặng như hành lý
bằng cánh tay mở rộng). Tất cả các chuyển động gấp, lật sấp hay lật ngửa đều làm nặng cơn đau.
Giải phẫu chức năng
Khớp khuỷu tav bao gồm ròng rọc của xương cánh tay, khớp nối với mấu ròng rọc của mỏm khuỷu xương trụ, ngoài khớp nối của đàu xương quay với
đầu dưới của xương cánh tay (capitulum). Màng hoạt dịch rộng và cùng với mỡ ngoài bao, tạo thành một tấm mềm, nằm trước. Cách dễ nhất để tiêm
khớp là bằng cách sờ nắn vào tấm mềm này, sử dụng ngón tay để xác định các bờ xương nằm giữa lòi cầu ngoài xương cánh tay, mấu khuỷu và đầu
xương quay.
Một hình tam giác được hình thành, trung tâm là điểm tốt nhất để chèn kim. Chuyển động thụ động nhẹ nhàng của cẳng tay và đầu quay bằng cách lật
sấp và lật ngửa cho thấy khoang khớp và tạo điều kiện cho việc tiêm.