You are on page 1of 26

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN


Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh

ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội và liên hệ với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của thanh niên và
sinh viên hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Hạnh

Sinh viên thực hiện: Mã sinh viên:

Trịnh Thị Quỳnh Trang TT47C1-0509

Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2021


1

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 5
Chương 1: Phần lý luận: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 5
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 5
1.2. Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. 7
1.2.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. 7
1.2.2. Chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. 8
1.3. Sự gắn bó hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. 9
1.3.1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. 9
1.3.2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc. 10
1.4. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. 11
1.5. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách
mạng Việt Nam. 14
1.6. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay. 14
1.6.1. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định. 14
1.6.2. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa. 16
1.6.3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ
thống chính trị. 16
1.6.4. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 17
Chương 2: Phần liên hệ: Liên hệ với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của thanh niên,
sinh viên hiện nay. 17
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 17
2.2. Vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ trẻ trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. 20
KẾT LUẬN 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.


Vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra bước ngoặt trong tiến tình giải
phóng và phát triển dân tộc Việt Nam. Với tấm lòng yêu nước nồng nàn, trí tuệ và tầm
nhìn thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy ánh
sáng chân lý thời đại để giải phóng và phát triển dân tộc Việt Nam. Đó là đường lối
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
và giải phóng con người. Đó là con đường phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách
mạng nước ta, là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là triết lý phát
triển Việt Nam trong thời đại mới.

Trong khi đó, hiện nay, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển,
đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn
hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn nguy cơ
xung đột. Các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng các hoạt động, yêu sách chủ
quyền, nhất là ở những vùng biển giáp ranh, nhạy cảm, chưa phân định. Vì vậy, vấn đề
bảo vệ chủ quyền biển, đảo càng trở nên quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần
sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ vững chắc chủ quyền
biển, đảo.

Do đó, việc tìm hiểu rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội hết sức quan trọng để mỗi chúng ta hiểu rõ hơn vai trò và trách
nhiệm của mình trong cuộc sống đối với mọi người, đối với đất nước. Đó cũng là lý
do tôi quyết định làm đề tài tiểu luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội và liên hệ với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của
thanh niên, sinh viên hiện nay”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.


3

Liên quan đến đề tài, đã có những công trình khoa học, bài viết của nhiều tác
giả. Các công trình, bài viết đã góp phần làm sáng rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội những đây vẫn luôn là vấn đề nóng cần tiếp
tục bàn luận sâu rộng hơn nữa để từ đó rút ra được những vấn đề có tính nguyên tắc,
những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu để có thể vận dụng vào sự nghiệp cách
mạng hiện nay.

Với đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội và liên hệ với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của thanh niên, sinh viên hiện
nay” sẽ góp phần tiếp tục nghiên cứu vấn đề trên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Đề tài này nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, từ đó liên hệ với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay, giúp
thanh niên, sinh viên nhận thức về vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ trong bảo vệ chủ
quyền biển đảo Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích trên một cách hiệu quả nhất, đề tài sẽ từng bước giải
quyết những nội dung về: (1) Phân tích lý luận chung về nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. (2) Liên hệ thực tiễn:
vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của thanh niên, sinh viên hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Quan điểm của Hồ Chí Minh về về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Quá trình hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội vận động trong thực tiễn. Vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:


4

Những tài liệu lịch sử cụ thể cùng hệ thống tư liệu về tư tưởng Hồ Chí Minh về
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo
Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.

5.1. Cơ sở lý luận:

Nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quan điểm của Hồ Chí Minh về về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm và đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về chiến lược “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài sử dụng phương pháp: phương pháp lôgic, phương pháp lịch sử, phương
tích phân tích văn bản kết hợp với nghiên cứu hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh,
phương pháp liên ngành.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lý luận:

Đề tài giải quyết được các vấn đề sau: (1) Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. (2) Liên hệ vấn đề bảo vệ
chủ quyền biển đảo của thanh niên, sinh viên hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn:

Giúp cho sinh viên có khả năng nhận diện và phản bác những luận điểm xuyên
tạc tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Làm cho
sinh viên thêm tự hào về sức mạnh của dân tộc, tin tưởng sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.

7. Kết cấu của đề tài.

Tiểu luận bao gồm: Mở đầu; Nội dung (2 chương); Kết luận; Danh mục tài liệu
tham khảo.
5

NỘI DUNG

Chương 1: Phần lý luận: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược nước ta, sau khi hoàn thành
việc xâm lược và thiết lập bộ máy thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam, thực dân
Pháp tiến hành công cuộc khai phá, chúng cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ
mạt, cho vay nặng lãi và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của chính quốc, đã đẩy
nhân dân Việt Nam vào cảnh cùng cực. Chính quyền nhà Nguyễn từng bước khuất
phục trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp, lần lượt ký các bản hiệp ước đầu hàng,
thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Mâu thuẫn giữa nhân
dân ta với giai cấp, địa chủ, phong kiến và giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp ngày
càng trở nên sâu sắc. Nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước đã diễn ra phát huy chủ nghĩa
yêu nước và giá trị truyền thống Việt Nam. Trong giai đoạn này, phong trào dân tộc và
dân chủ với nhiều tổ chức theo xu hướng mới ra đời. Cho đến cuối thế kỷ XIX, các
cuộc khởi nghĩa vũ trang với khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu văn thân lãnh đạo
cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ
lịch sử. Các nhà nho học tiến bộ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh tổ chức và vận
động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Phan
Bội Châu chủ trương tôn quân và bạo động, lập Duy Tân Hội, tôn Kỳ Ngoại Hầu
Cường để làm minh chủ. Trong tập “Tự Phán” ông nêu tôn chỉ của Hội như sau:
“Chuyên đánh đổ chính phủ Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến thiết quân chủ lập hiến
quốc”. Phan Bội Châu còn đề xướng phong trào Đông Du, vận động người trong nước
xuất dương qua Trung Hoa, Nhật Bản du học để thu nhận kiến thức mới của nước
ngoài về giúp nước nhà, động thời mua vũ khí của Nhật để tiếp tay cho các cơ sở
chống Pháp trong nước. Sự thất bại của Đông Du là ngay từ đầu Phan Bội Châu đã sai
lầm về đường lối đúng như nhận xét của Bác Hồ là: Cụ Phan muốn dựa vào Nhật để
đánh đuổi Pháp, như thế khác gì tiễn hổ về của trước, rước beo cửa sau. Và thực tế là
6

chỉ sau một thời gian ngắn, khi thực dân Pháp đánh hơi thấy và nhận ra tính chất nguy
hiểm của phong trào này đã ngay lập tức đàm phán với Nhật để chính phủ Nhật trục
xuất các sinh viên Việt Nam về nước. Chủ trương bạo động là đúng, nhưng tư tưởng
cầu viện là sai (không thể dựa đế quốc đánh đế quốc được). Cần xây dựng thực lực
trong nước, trên cơ sở đó mà tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế chân chính. Phan Châu Trinh:
Đánh đổ phong kiến, thực hiện cải cách xã hội “Khai thông dân trí, mở mang dân
quyền” (Lập Hội buôn, mở trường Đông kinh nghĩa thục,...). Phan Châu Trinh:
Giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước bằng phương pháp
năng cao dân trí, dân quyền, Vạch trần chế độ vua quan phong kiến thối nát, đòi Pháp
sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa. Con đường cứu nước của Phan Chu Trinh chưa
đúng đắn. Ông không tán thành việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật để chống Pháp,
nhưng bản thân ông lại đi theo đường lối dựa vào Pháp, yêu cầu Pháp tiến hành cải
cách, thực hiện tự do dân chủ, lật đổ chế độ phong kiến, làm cho dân giàu nước mạnh,
làm cho dân giàu nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc - Đây là một điều “không
tưởng” và thực tế đã chứng minh nó là sách lược sai lầm. Ông không gặp thời. Lúc
này Pháp rất mạnh, ta không có gì để buộc Pháp thương lượng, thỏa hiệp với ta. Và
mãi tới ngày 19/6/1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và
Nguyễn Tất Thành soạn bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi cho Hội nghị
Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, làm nổ ra “quả bom chính trị” chấn động
tại nước Pháp. Đó là dấu ấn cuối cùng của Phan Châu Trinh ở một phương diện nào
đó. Còn khởi nghĩa của người anh hùng Hoàng Hoa Thám còn mang nặng “cốt cách
phong kiến” chưa phải lối thoát rõ ràng đúng đắn. Hàng loạt phong trào yêu nước nổ
ra song đều thất bại. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX cách mạng nước ta bị khủng hoảng về
đường lối, tình hình đen tối như không có đường ra. Trong khi đó, lịch sử thế giới giai
đoạn này cũng có những biến chuyển to lớn, chủ nghĩa độc quyền xác lập vị trí trên
toàn thế giới, chủ nghĩa đế quốc trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Cao
trào cách mạng thế giới với đỉnh cao là cách mạng Tháng Mười Nga đã làm “thức tỉnh
các dân tộc châu Á”. Trên con đường cứu nước cứu dân, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác - Lênin con đường mới của cách mạng Việt Nam. Người khẳng định:
“muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”. Đó là con đường “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Độc
7

lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội mới xóa bỏ tận gốc cơ sở áp bức dân tộc và áp
bức giai cấp. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, yêu nước truyền thống đã phát triển thành yêu
nước trên lập trường của giai cấp vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Con đường: “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” của Hồ Chí Minh
khác cơ bản với con đường giải phóng dân tộc của những người đi trước như phong
trào Cần Vương của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học đều dựa trên
hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư sản (những hệ tư tưởng này đã lỗi thời, lạc hậu) không
gắn với tiến bộ xã hội nên đã thất bại. Chủ nghĩa tư bản là do giai cấp tư bản lập
nên,nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, bóc lột người dân lao động. Chỉ có chủ
nghĩa Mác - Lênin là mang tính nhân đạo triệt để, toàn diện, vì nó nói đến giải phóng
dân tộc, giai cấp, giải phóng con người khỏi vòng xiềng xích, đem lại tự do cho con
mỗi dân tộc.Con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh phản ánh đúng yêu cầu
tất yếu của cách mạng và dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với tiến bộ xã hội
nên nó là con đường duy nhất đúng đắn và tất yếu là giành được thắng lợi.

1.2. Mối quan hệ biện chứng của “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.

1.2.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi, luận
điểm trung tâm xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tìm ra con đường cách
mạng Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội “con đường cách mạng vô sản”,
Hồ Chí Minh cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân Việt Nam mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản có sức mạnh
lãnh đạo được sự nghiệp cách mạng đó đến thành công. Con đường cách mạng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là lý tưởng cao đẹp nhất của thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, xã hội và con người một cách triệt để. Con đường đó cực kỳ khó khăn,
gian khổ, phức tạp và lâu dài nhằm xây dựng một xã hội phồn vinh, có kỷ cương, lối
sống lành mạnh và văn hóa cao; có quan hệ hữu nghị và bình đẳng với các quốc gia
dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh kết luận: nhân dân Việt Nam không thể cứu nước,
8

giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng dân chủ tư sản; độc lập dân tộc không
thể gắn liền với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là một khát vọng mang tính phổ
biến. Nó bao hàm một nội dung rất rộng: đó là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, độc
lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc; gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no hạnh
phúc cho nhân dân. Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, nền độc lập dân tộc bị mất, nhân
dân bị đè nén, thống trị của ngoại bang. Xuất phát từ hoàn cảnh Việt Nam là một nước
thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật, cấp bách
cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược
cùng bọn tay sai bán nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục
tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta là giành lại độc lập cho dân tộc,
trong khi không quên nhiệm vụ dân chủ nhân dân, song khi thực hiện nhiệm vụ này
trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Có thể khẳng định rằng, Đảng Cộng
sản lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là nhân tố quyết định nhất đảm bảo
cho cách mạng tiến hành triệt để, phát triển lên cách mạng chủ nghĩa xã hội; nhưng
trước hết phải giành lại được độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời là tiền đề tất yếu để cuộc cách mạng
này phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

1.2.2. Chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Chủ nghĩa xã hội là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Phương hướng phát triển này không những làm cho cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân được tiến hành triệt để, thể hiện ở mục tiêu giành lại
độc lập hoàn toàn, thực sự cho dân tộc, mà còn đảm bảo cho nền độc lập dân tộc đó
được giữ vững và ngày càng củng cố thêm; có những điều kiện, tiền đề để cách mạng
phát triển lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa; xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc của
nhân dân, làm cho độc lập dân tộc thực sự có ý nghĩa, có giá trị.

Theo Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh.
9

Về kinh tế: từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
thực hiện quản lý dân chủ và phân phối theo lao động, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Về chính trị: xây dựng chế độ do nhân dân làm chủ dựa trên nền tảng liên minh
giữa công nhân, nông dân và trí thức, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Về văn hóa xã hội: thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại.

Về đối ngoại: thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác và làm bạn với
tất cả các nước.

1.3. Sự gắn bó hữu cơ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong cách mạng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

1.3.1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Vào đầu thế kỷ XX vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề cấp bách, sống còn của
dân tộc Việt Nam. Những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp lúc bấy giờ lâm
vào hoàn cảnh “một trăm lần thất bại mà không một lần thành công”. Sự thất bại một
mặt là do đường lối cách mạng sai lầm, thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo cách
mạng, mặt khác là không nhận thức và đi theo quy luật phát triển của thời đại nhất là
sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917.

Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận cách
mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong việc xác định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” (1930),
Người “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản”. Tư tưởng trên của Người xuất phát từ nhận thức thực tế nước ta là một
nước thuộc địa và phong kiến, cho nên nhiệm vụ đầu tiên của cách mạng phải là tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng tức đánh đổ đế quốc - phong kiến rồi
sau đó mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vậy, theo Hồ Chí
Minh độc lập dân tộc sẽ là mục tiêu đầu tiên của cách mạng, là cơ sở, là tiền đề cho
10

mục tiêu tiếp theo: xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng trên
của Hồ Chí Minh đúng đắn và sáng tạo vì không chỉ đáp ứng được yêu cầu khách
quan, cụ thể của cách mạng Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát triển của thời
đại.

Mặt khác, theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và
dân chủ; độc lập dân tộc cũng phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hòa bình; độc
lập phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Cho nên, khi đề cao
mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách
mạng, mà là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo - cách mạng xã hội chủ nghĩa,
cuộc cách mạng mang lại hạnh phúc, cơm no, áo ấm cho nhân dân. Vì vậy, cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu sắc, triệt để thì càng tạo ra những tiền đề thuận lợi,
sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã được Hồ Chí Minh xã định đi theo con đường
cách mạng vô sản, cho nên bản thân cuộc cách mạng này mang tính định hướng xã hội
chủ nghĩa, được nhân dân đồng thuận và tin tưởng. Độc lập dân tộc vì vậy không
những là tiền đề mà còn là nguồn sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.

1.3.2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc.

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc mà dân vẫn không có cơm ăn, áo mặc,
không được học hành thì độc lập đó không có ý nghĩa gì, độc lập đó trước sau gì cũng
không tồn tại, cho nên sau khi tiếp thu học thuyết cách mạng vô sản, Người khẳng
định: độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, Hồ Chí Minh tiếp
tục khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Kết hợp lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã
hội trước hết là một chế độ dân chủ, do nhân dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
tư tưởng này thể hiện điểm khác biệt và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với các
chế độ chính trị trước đó. Chế độ dân chủ thể hiện trong tất cả mọi mặt đời sống xã
hội chính trị, kinh tế đến văn hoá, xã hội,... và được thể chế hoá bằng hiến pháp, pháp
luật, đây là điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo nền độc lập dân tộc, tạo ra nền tảng
ý thức xã hội bảo vệ chủ quyền dân tộc, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu
11

thôn tính, đe dọa nền độc lập, tự do của dân tộc. Và cũng chính chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa đã làm cho người dân tin tưởng, thiết tha với chế độ hơn, kiên định với mục
tiêu chiến lược mà Hồ Chí Minh vạch ra cho cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Mặt khác, theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội còn là một xã hội đạt tới mức
hoàn chỉnh, hoàn toàn tốt đẹp, là một chế độ không còn tình trạng người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng, công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng, bảo đảm phúc lợi xã hội cho người già, trẻ em và
những người còn khó khăn trong cuộc sống; mọi người đều có điều kiện để phát triển
như nhau. Chủ nghĩa xã hội theo Người, còn là một xã hội có nền kinh tế phát triển
cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, bảo đảm đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, là một xã hội phát triển cao về đạo đức và văn hoá, thể hiện
những giá trị tư tưởng, truyền thống quý báu của dân tộc và hơn thế nữa là một chế độ
có mối quan hệ hữu nghị, hoà bình sẵn sàng đoàn kết với các nước trên thế giới đấu
tranh vì mục tiêu chung của cách mạng: độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất cũng sẽ đi đến xóa bỏ hoàn
toàn, tận gốc mọi sự áp bức, bóc lột, bất công về giai cấp, dân tộc.

Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng những cơ
sở vững chắc về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội cho sự phát triển đất nước
và nó cũng là nền tảng, điều kiện để bảo vệ nền độc lập dân tộc.

1.4. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời
và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 và đến mùa
xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường
cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai
cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử
12

suốt hơn 90 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:

Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam là
con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân
dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của
chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1; xác định đối tượng đấu
tranh của cách mạng là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản và địa
chủ chống lại độc lập dân tộc; xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể
nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung,
tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông, tập
hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; xác
định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính quốc”,
cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản “chính quốc”, tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc”.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã
giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này
đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở
đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện "kháng chiến và kiến quốc". Thời kỳ này Hồ
Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách
mạng Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm
phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự
ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán
đường lối: “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát
triển lịch sử dân tộc, dựng nước đi đôi với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 8
13

xây dựng từng bước chế độ mới; là nguyên nhân quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư
tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ
này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ
đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối quan hệ giữa cách mạng hai
miền, Người xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động,
hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây là sự cụ thể hoá nội dung con đường
cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa
xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì bảo vệ.

Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng
dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh
đổ là đế quốc Mỹ. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách
làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong
chiến tranh cách mạng; từ đó đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh
của “ba tầng Mặt trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước;
Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ
nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba tầng Mặt trận” đã tạo nên sức mạnh
tổng hợp to lớn làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại.

Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn
chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung
phát triển sáng tạo, nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm
rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong phạm vi một nước. Người đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách
14

thức, phương thức, biện pháp, bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.

1.5. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
của cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ
vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là
một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định
trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.

Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho “rừng
cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn
dân, và nó có một cái tương lai “trường xuân bất lão”.

Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và
tiến bộ trên thế giới đƣợc giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947,
Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai”.

Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan
chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi
cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.

1.6. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay.

1.6.1. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định.

Tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù
hợp với khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh
và sự khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xuất phát từ bối cảnh trong nước và
15

quốc tế, tại Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng đã thông qua “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh năm 1991.
Đến Đại hội XI năm 2011, bổ sung, phát triển). Trong Cương lĩnh, từ thực tiễn phong
phú của cách mạng Việt Nam, Đảng đã rút ra những bài học, mà bài học đầu tiên là
phải “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ quang vinh
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau”2.
Đảng nhận thức rõ: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có
quan hệ chặt chẽ với nhau”3.

Cương lĩnh đã xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng, những mối quan hệ cơ bản mà nhân dân ta phải giải quyết trong
giai đoạn hiện nay để từng bước làm cho những đặc trưng cơ bản đó trở thành hiện
thực. Sự thống nhất giữa tính kiên định và đổi mới, khoa học và cách mạng, trí tuệ và
tình cảm, hiện tại và tương lai của cương lĩnh là định hướng cho cả dân tộc thực hiện
mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định.

Trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc
gia, tranh chấp địa phận, không phận, hải phận và tài nguyên, v.v. tiếp tục diễn ra gay
gắt và phức tạp, cần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng là: “Bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên
của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân là nòng cốt”4.

2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.65.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.65.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.32-33.
16

1.6.2. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy sức mạnh bản chất ưu
việt của chế độ xã hội; là bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; là dân
chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống để
nhân dân tham gia vào tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”.

Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa không tách rời quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa
vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp hiện hành; không tách rời với việc tăng
cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân và đạo đức xã hội, phê phán những biểu
hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức và xử lý nghiêm minh những hành vi lợi
dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như tất cả những
hành vi vi phạm quyền dân và quyền làm chủ của nhân dân5.

1.6.3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ
thống chính trị.

Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam là tính chất nguyên và tính thống
nhất: Nhất nguyên về chính trị, về tổ chức, về tư tưởng; thống nhất dưới dự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, thống nhất về mục tiêu chính trị. Các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau,
phương thức hoạt động khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau tạo nên một thể
thống nhất, phát huy sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nhân dân thực hiện quyền làm
chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.

Như vậy, củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của
toàn bộ hệ thống chính trị thực chất là để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực
hiện, quyền làm chủ của nhân dân được phát hiện đầy đủ.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.36-39, tr.156-170.
17

1.6.4. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam thu được nhiều thành tựu vĩ đại trong các
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và trong
sự nghiệp đổi mới. Song chỉ trong một thời gian rất ngắn so với lịch sử của Đảng, tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
các cán bộ, đảng viên đã xuất hiện và trở nên nghiêm trọng. Nếu không ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái này sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của
đất nước, của chế độ chủ nghĩa và của Đảng6.

Hồ Chí Minh chưa sử dụng những khái niệm như “suy thoái” tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhưng đã đề cập nhiều “căn
bệnh” biểu hiện của nó và đã cảnh báo về tác hại của những “căn bệnh” này. Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nói riêng và thực
hiện có hiệu quả toàn bộ công tác xây dựng Đảng nói chung là những hành động cụ
thể, đặt trong bối cảnh cụ thể mà Đảng tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh để
Đảng xứng đáng là Đảng cầm quyền, thực hiện được nhiệm vụ của Đảng cầm quyền
trong sự nghiệp xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh để giữ vững nền độc lập dân tộc trên con đường quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội.

Chương 2: Phần liên hệ: Liên hệ với vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của thanh
niên, sinh viên hiện nay.

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí, tầm
quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp bảo vệ và kiến thiết đất nước. Người khẳng
định:“Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”7. Theo

6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.29, 65.
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 374
18

Người, “biển bạc” chính là của cải vật chất, là sự giàu có nếu khai thác tốt tiềm năng,
đi liền với bảo vệ biển; biển, đảo chứa đựng tài nguyên có giá trị về kinh tế, nối liền
không gian kinh tế đất nước với khu vực và thế giới. Khẳng định về vị trí, vai trò của
biển, đảo, Người đã đưa ra hình ảnh gần gũi mà dễ hiểu với toàn dân: “Đồng bằng là
nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không? Nếu mình không lo
bảo vệ miền biển, thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một nhiệm vụ quan
trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người
canh cửa cho Tổ quốc”8.

Theo Người, muốn khai thác tài nguyên biển phục vụ cho công cuộc kiến thiết
nước nhà, trước hết cần phải giữ yên “cửa nhà”, nghĩa là giữ vững biển, đảo của Tổ
quốc. Ngày 15-3-1961, nhân dịp đến thăm Bộ đội Hải quân lần thứ hai, Người chỉ rõ:
“Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta
dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Đồng thời, Người căn dặn các chiến sĩ Hải
quân nhân dân Việt Nam: “Bờ biển ta có vị trí rất quan trọng. Vì vậy, nhiệm vụ của
Hải quân trước mắt cũng như lâu dài rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Phải biết tìm ra
cách đánh phù hợp với điều kiện con người, địa hình bờ biển nước ta và vũ khí trang
bị mình có. Hải quân ta phải học tập kinh nghiệm chiến đấu hiện đại nhưng không
được quên truyền thống đánh giặc xa xưa kia của tổ tiên”9.

Trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao và
văn hóa của đất nước. Theo Người, sức mạnh bảo vệ biển, đảo là sức mạnh đoàn kết
toàn dân. Ngày 10-4-1956, khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phát động miền biển,
Người đã căn dặn: “Lực lượng nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại,
mà phải tự lực cánh sinh”10. Đây là nguyên tắc chiến lược, bởi vì khi có nguy biến thì
lực lượng và phương tiện tại chỗ của đồng bào sẽ ứng phó kịp thời, cản trở hữu hiệu
mọi sự đe dọa, xâm lấn chủ quyền biển, đảo trước khi có sự phối hợp của các lực
lượng khác. Trong sức mạnh đoàn kết toàn dân bảo vệ chủ quyền biển, đảo, Người
luôn nhấn mạnh đến lực lượng trực tiếp và nòng cốt là Hải quân nhân dân Việt Nam.

8
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 311
9
Truyền thống Hải quân nhân dân Việt Nam (1955 - 2005), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 80
10
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 310
19

Ngày 7-5-1955, Người chỉ đạo thành lập Cục Phòng thủ bờ biển (nay là Quân chủng
Hải quân). Ngày 11-8-1965, nhân dịp hải quân ta vừa tròn 10 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi thư cho cán bộ và chiến sĩ hải quân, vừa khen ngợi thành tích, vừa vạch rõ
sự cần thiết xây dựng hải quân vững mạnh trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
“Tuy còn non trẻ, nhưng nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự tin yêu, giúp đỡ của
nhân dân, sự cố gắng không ngừng của mình, hải quân ta đã anh dũng chiến đấu, tích
cực diệt địch, bắn rơi máy bay và đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập công, bảo vệ
nhân dân, bảo vệ vùng trời và vùng biển của Tổ quốc. Các chú đã nêu cao truyền
thống anh hùng của dân tộc ta”11.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ lâu dài,
khó khăn, phức tạp, bởi phạm vi chủ quyền biển, đảo của nước ta rộng lớn, trong khi
thực lực của chúng ta còn hạn chế; nước ngoài có thể sử dụng nhiều thủ đoạn, kể cả
vũ lực để xâm chiếm biển, đảo. Vì vậy, chúng ta phải tìm cách đánh phù hợp với điều
kiện, con người, địa hình bờ biển nước ta, cùng trang bị vũ khí hiện có, học tập cách
đánh hiện đại kết hợp với truyền thống đánh giặc xa xưa của tổ tiên. Bên cạnh việc
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tập hợp lực lượng, phương thức bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, thì việc mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo được
Người đặc biệt quan tâm.

Theo Người, “nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước ta có
ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”12, nên
những hoạt động đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của nước ta có mối quan hệ với cuộc đấu
tranh chung của thế giới tiến bộ; nhưng phải “dĩ bất biến”, “ứng vạn biến” để tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Vì vậy, phải có chính sách đối
ngoại rộng mở, hội nhập quốc tế và hợp tác, hòa bình tốt; tránh đối đầu và không gây
thù oán với ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, cần tìm ra những
điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm tập hợp lực lượng đoàn kết
ủng hộ Việt Nam. Theo Người, để tập hợp các lực lượng quốc tế đoàn kết ủng hộ Việt
Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Việt
Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

11
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 597
12
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 346
20

2.2. Vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ trẻ trong bảo vệ chủ quyền biển,
đảo.

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam, bảo đảm quốc phòng – an
ninh trên biển là nội dung chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt hiện nay. Trách
nhiệm thiêng liêng này thuộc về mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, trong
đó trách nhiệm, nghĩa vụ và vai trò xung kích thuộc về thế hệ trẻ, đây là nhân tố quan
trọng bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng đất nước và phát triển bền vững hiện nay và
trong tương lai. Để thế hệ trẻ làm tốt việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần phải tập
trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quan điểm, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước về chủ quyền biển, đảo, quyền tài phán quốc
gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo.

Công tác tuyên truyền biển, đảo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho thanh niên
cần bám sát thực tiễn tình hình, không ngừng đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình
thức, phương pháp tuyên truyền phù hợp với trình độ, đặc điểm của từng địa bàn
nhằm đáp ứng thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đồng thời tận dụng có
hiệu quả các phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên truyền.

Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển cần có sự phối hợp đồng
bộ giữa các cấp, các ngành và địa phương trong việc phát huy các tổ chức, đoàn thể,
nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp
trong công tác tuyên truyền và gắn kết chặt chẽ với việc học tập và làm theo tấm
gương, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục truyền thống, các
bài học kinh nghiệm và gương các anh hùng trong kháng chiến chống xâm lược trong
thanh niên.

Thông qua các cuộc vận động và chương trình hành động của thanh niên với
cách làm thiết thực, như: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”, “Tuổi trẻ
giữ nước”, “Năm xung kích phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc”, “Doanh
nhân trẻ khởi nghiệp”, “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”, “Vì Trường Sa thân yêu”,
“Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về
biển, đảo của Tổ quốc”… Phối hợp giữa các cấp, ngành, tổ chức đoàn thể, gia đình,
21

nhà trường, xã hội (nhất là Đoàn Thanh niên) và các hoạt động văn hoá, các phương
tiện thông tin đại chúng tạo sức mạnh tổng hợp, hướng thanh niên chung sức bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Đối với các cấp Đoàn, cần chú trọng tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu, tọa
đàm về chủ quyền biển, đảo trong thanh niên bảo đảm thiết thực, chất lượng tốt; tăng
cường tổ chức cho thanh niên đi thăm và tiến hành các hoạt động nghiên cứu thực tế
trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.

Đồng thời, cần tổ chức cho thanh niên tham gia tìm hiểu về pháp luật Việt
Nam, pháp luật quốc tế để các thế hệ thanh niên hiểu và nắm vững các vùng, khu vực
thuộc chủ quyền có lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ quyền và quyền chủ
quyền đối với biển, đảo Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều khoản quy định
trong Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982; khẳng định, củng cố niềm tin cho
nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế nói chung cũng như đối với thanh niên về chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Thứ hai, cần có sự quan tâm và chính sách đãi ngộ cụ thể đối với thanh niên
khi tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Cùng với việc thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với các huyện đảo xa bờ
và các địa bàn trọng điểm, chiến lược; coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ và sự phối
hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở mỗi huyện đảo và giữa các
huyện đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hoàn trên biển để có thể nhanh chóng tập hợp
và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các lực lượng tại chỗ phục vụ cho quốc phòng – an
ninh trên biển, thì rất cần thiết để cho thanh niên nắm rõ được tính chất phức tạp của
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vừa nhận thấy nhân dân ta, đất nước ta có đủ ý
chí, quyết tâm và sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc biển, đảo của mình, qua đó,
củng cố thêm niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí vững vàng cho thanh niên về bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc một cách bền vững, để “không một phút nào được
quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập”13.

Động viên thế hệ trẻ nâng cao quyết tâm và hành động thiết thực để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, trong đó đang nổi lên vấn đề bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 11, tr. 372
22

và chủ quyền quốc gia trên các vùng biển đảo. Nhưng muốn có được quyết tâm và
hành động để bảo vệ, trước hết phải có đủ tri thức hiểu biết và lòng tự hào về những
điều mình sẽ dám bảo vệ, để thế hệ trẻ Việt Nam có ý thức về chủ quyền quốc gia nói
chung, chủ quyền biển đảo nói riêng. Đó là những cơ sở tri thức tiền đề quan trọng
giáo dục lòng tự hào dân tộc, bồi đắp tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức về chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đồng thời chống lại âm mưu xuyên tạc lịch sử,
âm mưu thôn tính từng bước, dưới nhiều hình thức của các thế lực xâm lược.

Một trong những nền tảng quan trọng trong việc củng cố niềm tin, thái độ,
động cơ và ý chí cho thế hệ trẻ đối với vận mệnh của đất nước, đó là cần nắm vững tư
tưởng, phương châm chỉ đạo giải quyết các vấn đề về biển, đảo của Đảng và Nhà
nước ta, để thanh niên thực sự là một lực lượng to lớn và vững chắc trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế các vùng
đảo, quần đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của biển đảo Việt Nam.

Thứ ba, chú trọng xây dựng quyết tâm cao, định hướng hành động thiết thực
trong thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Để xây dựng quyết tâm cho thanh niên, cần làm cho thanh niên thấy được sự
khó khăn, gian khổ đối mặt với nguy hiểm, sự phức tạp của các hoạt động trên biển,
đảo (đặc biệt là ở một số đảo có vị trí quan trọng về quốc phòng – an ninh như: quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa…), đòi hỏi thanh niên phải dũng cảm, mưu trí, chủ động,
sáng tạo, tự lực tự cường, sẵn sàng hy sinh xương máu, kiên quyết đứng lên bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đặc biệt là đối với
thế hệ trẻ là lực lượng kiểm ngư; hay thanh niên ở các địa phương ven biển, huyện đảo
tích cực tham gia vào lực lượng dân quân tự vệ để vừa tham gia sản xuất, khai thác hải
sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trên biển.

Bên cạnh việc bảo vệ chủ quyền, thanh niên cần phải tiếp tục gìn giữ và phát
triển những tiềm năng của biển đảo Việt Nam, để Việt Nam có thể làm giàu từ biển,
mạnh về biển, củng cố vị trí của Việt Nam giữa các quốc gia trên thế giới để sớm đưa
đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ, sánh vai với cường quốc năm châu như Bác
Hồ hằng mong muốn.
23

KẾT LUẬN

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn liền với nhau là con đường tất yếu của
dân tộc Việt Nam. Khẳng định tính tất yếu của nó không có nghĩa là không cần đến
điều kiện, không cần tạo ra những điều kiện để tạo ra những điều tất yếu đó. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất yếu vì rằng, đó là quy luật phát triển của xã
hội Việt Nam, sớm hay muộn rồi xã hội Việt Nam sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội, không
ai có thể ngăn cản nổi. Điều này không những đúng đối với Việt Nam mà còn đúng
với thế giới. Những khúc vận động quanh co của lịch sử, những thất bại là điều
thường thấy trên đường đi tới đích. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tất
yếu chỉ khi nó gắn với các điều kiện bảo đảm đó và nó nằm ngay trong yếu tố chủ
quan của chính sự hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó quan trọng nhất là phụ
thuộc vào chính yếu tố chủ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, do đó, trở thành yếu tố then chốt bảo đảm cho dân tộc Việt Nam phát
triển đúng hướng, đúng quy luật, bảo đảm và giữ vững ngọn cờ chiến lược độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Qua
hàng ngàn năm lịch sử, biển đảo trong tâm thức của người Việt là đất nước, là cuộc
sống mà biết bao thế hệ cha ông ta đã đổ xương máu để xây dựng, gìn giữ, phát triển
và bảo vệ chủ quyền đất nước cho hiện tại và tương lai. Hiện nay, Biển Đông đang có
những diễn biến hết sức phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền biển, đảo Việt
Nam. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam, bảo đảm quốc phòng – an
ninh trên biển là nội dung chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt hiện nay. Trách
nhiệm thiêng liêng này thuộc về mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, trong
đó trách nhiệm, nghĩa vụ và vai trò xung kích thuộc về thế hệ trẻ nói chung, sinh viên
nói riêng, đây là nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng đất nước và phát
triển bền vững hiện nay và trong tương lai, như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII đã khẳng định: “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước
mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên… phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Giáo trình:

1. Bộ Giáo dục và đào tạo (2018), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia.

2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho
bậc đại học - không chuyên ngành Lý luận chính trị), Tài liệu tập huấn giảng
dạy 2019, HN tháng 8/2019.

B. Sách, bài tạp chí và các tài liệu khác:

3. Hồ Chí Minh toàn tập (2010), tập 1 - 15, Nxb Chính trị quốc gia.

4. Đào Việt Dũng. (2021). Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang. Truy cập
ngày 10/12/2021, từ

<https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/24668/22/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-d
oc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi.html>

5. GS.TS. Bùi Quảng Bạ, TS. Trần Thị Thúy Hà. (2021). Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam. Hội đồng lý luận Trung ương. Truy cập ngày 10/12/2021, từ

<http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia
-xa-hoi-la-quan-diem-nhat-quan-xuyen-suot-cua-cach-mang-viet-nam.html>

6. Nguyễn Hữu Cần. (2021). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới. Tạp chí cộng sản. Truy cập ngày
10/12/2021, từ

<https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-
/2018/821811/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-bao-ve-chu-quyen-bien%2C-
dao-viet-nam-trong-tinh-hinh-moi.aspx#>

7. ThS. Nguyễn Thị Hồng Ngọc, ThS. Nguyễn Thị Thúy Vân. (2021). Bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Việt Nam và trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay. Báo Hòa
Bình Điện Tử. Truy cập ngày 10/12/2021, từ
25

<http://baohoabinh.com.vn/305/150776/Bao-ve-chu-quyen-bien,-dao-Viet-Na
m-va-trach-nhiem-cua-the-he-tre-hom-nay.htm>

8. Hữu Phương. (2021). Nâng cao nhận thức, hành động của sinh viên với chủ
quyền biển đảo của Tổ quốc. Tuổi trẻ Nghệ An. Truy cập ngày 10/12/2021, từ

<https://tinhdoannghean.vn/?x=27316/doan-tncs-ho-chi-minh/nang-cao-nhan-t
huc-hanh-dong-cua-sinh-vien-voi-chu-quyen-bien-dao-cua-to-quoc>

.HẾT.

You might also like