You are on page 1of 40

DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KỲ III NĂM HỌC 2021-2022

Nhóm: 06 ( Lớp thứ 3,5 )

Tên đề tài:Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc-Vận dụng vào việc bảo vệ
chủ quyền biển đảo nước ta hiện nay.
TỈ LỆ %
STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN
HOÀN THÀNH
01 Lê Thị Kim Chi 21124041 100%

02 Võ Thị Bích Dân 21124346 100%

03 Hà Hương Giang 21124354 100%

04 Lý Lam 21128040 100%

05 Dương Minh Phát 21124394 100%

06 Trương Vũ Phương Thảo 21124406 100%

07 Nguyễn Viết Trung 21146161 100%

Ghi chú:

- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.

- Trưởng nhóm: Trương Vũ Phương Thảo SĐT: 0981450144

Nhận xét của giáo viên

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….
Ngày 10 tháng 7 năm 2022
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.1 Lý do chọn đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.3 Phương pháp nghiên cứu 2
1.4 Kết cấu của tiểu luận 2
PHẦN NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC 3
Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc 3
Khái niệm dân tộc 3
1.1.2 Cơ sở lí luận 3
1.1.3 Cơ sở thực tiễn 3
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc 4
1.2.1 Vấn đề dân tộc thuộc địa 4
1.2.1.1 Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa 4
Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc 4
Lựa chọn con đường phát triển dân tộc 6
1.2.1.2 Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa 7
Cách tiếp cận từ quyền con người 7
Nội dung của độc lập dân tộc 9
Chủ nghĩa yêu nước chân chính - Một động lực lớn của đất nước 11
1.2.2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp 12
1.2.2.1 Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau 12
1.2.2.2 Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội 12
1.3 Luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc 16
1.3.1 Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc. 16
1.3.2 Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, hạnh phúc dân tộc 18
1.3.3 Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để 19
1.3.4 Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ 20
CHƯƠNG 2:VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO NƯỚC TA HIỆN NAY 21
2.1 Thực trạng biển đảo nước ta hiện nay 21
2.2 Nguyên nhân của vấn đề tranh chấp biển đảo 24
2.2.1 Về nguồn lợi hải sản và tính đa dạng sinh học 24
2.2.2 Về khoáng sản 24
2.2.3 Về kinh tế 24
2.2.4 Về chính trị 25
2.2.5 Quốc phòng, an ninh 25
2.3 Giải pháp nhằm nâng cao quá trình bảo vệ biển đảo ở nước ta 25
2.3.1 Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước: 25
2.3.2. Trách nhiệm của thanh niên Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền biển
đảo ở nước ta hiện nay 29
PHẦN KẾT LUẬN 32
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH 33
PHỤ LỤC 35
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
PHẦN MỞ ĐẦU

1.1 Lý do chọn đề tài


Tư tưởng đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức
của dân tộc Việt Nam, được hình thành và phát triển trong suốt quá trình quá tình đấu
tranh dựng nước và giữ nước của ông cha ta bao đời nay, là một hệ thống quan niệm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đó còn
là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người, Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường tiến
lên xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội
chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề đấu tranh để giải
phóng các dân tộc thuộc địa. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến
sự chà đạp của ngoại bang lên nền tự do độc lập của đất nước, Hồ Chí Minh cho rằng:
đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời chính là độc lập của tổ quốc, tự
do của nhân dân.Tiếp thu từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới, người đã khái quát
nên cho mình một chân lý bất di bất dịch “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Nhưng hiện nay, vấn đề dân tộc ở Việt Nam cũng như trên thế giới cơ bản đã được giải
quyết, song ở một số nơi vẫn đang diễn ra gay gắt. Ở nước ta, thế lực thù địch vẫn
đang âm mưu với chủ quyền dân tộc đặc biệt là chủ quyền biển đảo. Vì vậy, chúng ta
phải nâng cao tinh thần yêu nước, bồi dưỡng lí tưởng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất
nước.
Để làm rõ những điều trên, nhóm chúng em chọn đề tài: “Quan điểm của Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc. Vận dụng vào việc bảo vệ chủ quyền biển đảo nước ta hiện
nay.”

1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài này, nhóm mong muốn được học hỏi và trao đổi những kiến thức cơ bản
của Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, từ đó thêm cảm phục về trí tuệ uyên
thâm cũng như tư duy sáng suốt của Người trong việc tìm ra lối đi phù hợp nhất cho
đích đến là giải phóng dân tộc Việt Nam. Hơn thế nữa, dựa trên Tư tưởng về vấn đề
dân tộc của Người, nhóm sẽ đi sâu vào luận bàn và đúc kết những giải pháp cho một
vấn đề của nước ta hiện nay, đó là giải quyết tranh chấp trên Biển Đông.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận:
- Cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học chủ nghĩa Mác Lênin và các
quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh.
- Các nguyên lý triết học Mác – Lênin, với tư cách là phương pháp luận chung
của các ngành khoa học.
Các phương pháp cụ thể: Phương pháp lịch sử, lôgic, liên ngành và các phương
pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh,
1.4 Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận được chia thành 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận; trong đó phần nội
dung được chia thành 3 chương như sau:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Chương 2: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh vào vấn đề dân tộc trong việc
bảo vệ chủ quyền biển đảo
Phần 3: Kết luận

2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1 Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
1.1.1 Khái niệm dân tộc
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh
thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc.
1.1.2 Cơ sở lí luận
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được “Luận cương về những vấn đề dân
tộc và thuộc địa” của Lênin. Từ đây Người sáng tỏ được nhiều điều đã tìm ra con
đường để giải phóng dân tộc mình. Người đã rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đó là con
đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân
lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện
người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới
mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chủ
nghĩa Mác – Lênin đã trở thành cơ sở lý luận cho hệ tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung
và về cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng.
1.1.3 Cơ sở thực tiễn
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt đầu đặt chế độ đô hộ hà khắc lên
nhân dân ta, bóc lột, cướp bóc trắng trợn của cải của nhân dân. Từ đó, đất nước lầm
than, nhân dân đói khổ. Đã có nhiều phong trào cách mạng nổ ra nhằm đánh đuổi thực
dân Pháp, đánh đổ triều đình phong kiến nhà Nguyễn bất tài nhưng tất cả đều đi vào bế
tắc. Trước tình cảnh đó, năm 1911, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định ra đi tìm đường
cứu nước. Trong suốt hơn 30 năm bôn ba nước ngoài, Người đã xây dựng được con
đường cứu nước cho dân tộc ta, đưa dân tộc thoát khỏi tối tăm, cùng khổ. Để đúc kết
được con đường cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã phải

3
rút ra những bài học, đường lối từ các cuộc cách mạng công nhân của Pháp, và cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917, bên cạnh đó là phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa trên thế giới. Người đã phân tích đường lối, nguyên nhân thắng lợi và
thất bại để nâng lên thành quan điểm giải phóng dân tộc của mình. Đồng thời dựa trên
cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam với sự phát triển của phong trào yêu nước và
phong trào công nhân ở nước ta.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
1.2.1 Vấn đề dân tộc thuộc địa
1.2.1.1 Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản phương Tây
ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân với những chính sách tàn bạo.
Trước khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đưa đại bác đến gõ cửa các quốc gia
phương Đông thì những quốc gia này vẫn còn đang chìm nặng trong bóng tối của chế
độ phong kiến ở giai đoạn suy vong, với cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp: địa chủ
phong kiến và nông dân. Dưới tác động của những chương trình khai thác thuộc địa,
các giai cấp này ở Việt Nam ít nhiều có sự biến đổi, những giai cấp mới lần lượt ra
đời: công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Tất cả các giai cấp đó đều nằm dưới ách thống trị
của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Từ thuở thiếu thời, trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã thấy
được sự đối kháng giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược qua các phong
trào yêu nước của ông cha và sớm hình thành chí hướng cứu nước. Những năm 20 của
thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc
đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng
quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân và nông dân), mà cả các giai
cấp và tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục
của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do. Ngay giai cấp tư sản Việt
Nam cũng khác với giai cấp tư sản phương Tây, mặc dù vẫn là giai cấp bóc lột nhưng

4
không phải là giai cấp thống trị.Họ không phải là đối tượng cách mạng, mà trái lại, có
thể trở thành lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc.
Cuộc cách mạng ở thuộc địa là một cuộc đấu tranh dân tộc hay đấu tranh giai cấp?
Đâu là “cái cốt” của cuộc cách mạng ở thuộc địa? Trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, đã từng có luận điểm cho rằng: “Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
là vấn đề nông dân”, mà nông dân thì gắn với ruộng đất, vì thế phải nhấn mạnh cách
mạng ruộng đất và cuộc đấu tranh giai cấp ở thuộc địa. Với Hồ Chí Minh thì không
phải như vậy. Người nhận thấy, yêu cầu bức thiết nhất, trước nhất của xã hội thuộc địa
là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ chưa phải là đấu tranh giai
cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Đối tượng của cách mạng
thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc nói chung. Tuy hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng
sản, nhưng quan điểm của Nguyễn Ái Quốc có nhiều điểm không trùng hợp với quan
điểm của Trung ương Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, trong đó có vấn đề
dân tộc ở thuộc địa. Người phê phán sự không quan tâm đến cách mạng thuộc địa của
một số Đảng Cộng sản trên thế giới. Người chỉ rõ thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc
địa là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc.
Trong nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa,
Công cuộc khai hóa giết người..., Hồ Chí Minh tập trung tố cáo chủ nghĩa thực dân,
vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người viết: “Để che đậy sự xấu
xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn điểm trang cho
cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng,
v.v.”.“Nếu lối hành hình theo kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với
những người da đen là một hành động vô nhân đạo, thì tôi không còn biết gọi việc
những người Âu nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì
nữa”. Trong những bài có tiêu đề Đông Dương và nhiều bài khác, Người lên án mạnh
mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đông Dương trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự đối kháng giữa các dân
tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là
mâu thuẫn không thể điều hòa được. Sự áp bức, thống trị dân tộc càng nặng nề, thì

5
phản ứng dân tộc sẽ càng quyết liệt về tính chất, đa dạng về nội dung và phong phú về
hình thức. Nghiên cứu tình hình Đông Dương, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Đằng sau sự
phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và
sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân đã tước bỏ
tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc địa.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V. I. Lênin
bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí Minh tập trung bàn
về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C. Mác và V. I. Lênin bàn nhiều về đấu
tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh bàn nhiều về đấu tranh giải
phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong nhiều tác phẩm, nhất là tác phẩm Đường kách mệnh,
Người phân biệt ba loại cách mạng: cách mạng vô sản, cách mạng tư sản và cách
mạng giải phóng dân tộc, xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa là
giải phóng dân tộc.
Lựa chọn con đường phát triển dân tộc
Để giải phóng dân tộc cần xác định một con đường phát triển của dân tộc, vì
phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung trước mắt của
cuộc đấu tranh giành độc lập. Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử
nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc Việt Nam
trong bối cảnh thời đại mới là chủ nghĩa xã hội. Hoạch định con đường phát triển từ
cách mạng giải phóng dân tộc lên cách mạng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề hết sức
mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn
chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hồ Chí Minh viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản”.“Đi tới xã hội cộng sản” là hướng phát triển lâu dài.“Tư sản
dân quyền cách mạng” là giai đoạn chiến lược giải phóng dân tộc, hoàn thành nhiệm
vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc (chưa tiến hành triệt để cuộc cách mạng
ruộng đất).“Thổ địa cách mạng” không nằm trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền,
mà là một giai đoạn chiến lược với nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng đất.“Đi tới

6
xã hội cộng sản” lại là giai đoạn phát triển kế tiếp để từng bước đạt mục tiêu cuối
cùng.
Mỗi giai đoạn chiến lược có một nhiệm vụ chiến lược trung tâm và trong mỗi giai
đoạn có thể làm trước một phần nhiệm vụ của giai đoạn sau hoặc là làm nốt nhiệm vụ
của giai đoạn trước để lại.
Sự hoạch định con đường phát triển dân tộc của Hồ Chí Minh là biện chứng và
khách quan, không nhập hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến vào một
cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở thuộc
địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở
các nước phương Tây.
1.2.1.2 Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
Điểm cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc chính là độc lập dân
tộc. Người từng nói rằng :“Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Có tự do thì chúng ta
sẽ có được những quyền lợi mà mỗi con người đều có được một cách bình đẳng với
nhau. Bác đã vận dụng hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ để làm rõ vấn đề này.
Cách tiếp cận từ quyền con người
Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người hoàn toàn khác với các học giả tư sản và
những nhà tư tưởng hay triết học của nhân loại. Cách tiếp cận của Người hoàn toàn
mới mẻ và sâu sắc. Người đã khéo léo kế thừa những giá trị tư tưởng từ bản Tuyên
ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp năm 1791 để tiếp cận vấn đề dân tộc rồi đúc kết thành những luận điểm vô cùng
sâu sắc về độc lập dân tộc:“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.Tạo hóa
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

7
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng
ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng
nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do
và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Những lời lẽ này được Bác nói rõ trong bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày
2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử. Như vậy, từ quyền con người mà thành tựu
các cuộc cách mạng Mỹ và Pháp mang lại, Bác đã khái quát và nâng cao thành quyền
dân tộc. Đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Việc Bác nâng cao quyền con người lên thành quyền dân tộc là hoàn toàn đúng
đắn và hợp lý. Bởi quyền con người nằm trong quyền dân tộc. Một khi quyền dân tộc
bị xâm phạm thì điều tất nhiên là quyền con người cũng sẽ bị lấy đi. Điều này là hoàn
toàn trái ngược với những gì đã được Mỹ và Pháp công bố trong bản tuyên ngôn của
mình.
Với cách tiếp cận này, Hồ Chí Minh muốn khẳng định rằng : con người muốn tự
do thì dân tộc phải được tự do; dân tộc muốn tự do thì dân tộc ấy phải được giải phóng
khỏi ách nô lệ; không thể có thứ tự do bị kìm hãm, bị áp bức và bóc lột.

8
Nội dung của độc lập dân tộc
Độc lập là tự do. Tự do là hạnh phúc. Hạnh phúc là quyền và lợi ích của mỗi con
người. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để một dân tộc được độc lập hoàn toàn thì nền độc
lập ấy phải được thể hiện một cách đầy đủ ở những điểm sau đây :
Một là, độc lập tự do là quyền tự nhiên, thiêng liêng, vô cùng quý giá và bất khả
xâm phạm của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cái tôi cần nhất trên đời
này là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Chúng ta có thể thấy rằng,
độc lập dân tộc là điều quý giá và thiêng liêng nhất của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Không gì cay đắng và chua chát hơn khi dân tộc mình bị xâm lăng và chia cắt.
Năm 1919, Bác đã gửi đến Hội nghị Véc-xây bản yêu sách gồm 8 điểm nhằm thay
mặt những người dân yêu nước đất Việt đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt
Nam.
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh xác định
mục tiêu “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “làm cho nước Việt
Nam hoàn toàn độc lập”. Đây là một cương lĩnh giải phóng dân tộc vô cùng đúng đắn
và sáng tạo so với các thế hệ tiền bối đi trước.
Cách mạng tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời độc bản
Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, trịnh trọng công
bố trước toàn thể thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
Hai là, độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia. Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời
gian sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Nhân dân chúng tôi thành
thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc
và độc lập cho đất nước”.
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ
quyền được thể hiện rõ: “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Và khi đế quốc Mỹ leo thang chiến

9
tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một chân lý bất hủ: “Không có gì
quý hơn độc lập tự do”.
Chính bằng tinh thần, nghị lực này cả dân tộc ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút, đánh
cho Ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ Quốc. Và chính phủ Mỹ phải
cam kết: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của nước Việt Nam như hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam đã công
nhận”.
Ba là, dân tộc độc lập là dân tộc phải được làm chủ về các mặt chính trị, kinh
tế, quân sự, ngoại gia. Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Nước Việt Nam là của
người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định, nhân dân Việt Nam không chấp
nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài”.
Trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam (hay còn gọi là Thỉnh nguyện thư của dân
tộc An Nam) do Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Hòa bình Versailles vào ngày
18/06/1919 gồm các điểm như sau :
• Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
• Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách để người bản xứ cũng được
quyền hưởng những bảo đảm pháp lý như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn những tòa
án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong
nhân dân An Nam.
• Tự do báo chí và tự do ngôn luận.
• Tự do lập hội và hội họp.
• Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
• Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản
xứ.
• Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
• Có đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được nguyện vọng của người bản xứ.
Như vậy, bản Yêu sách chỉ đề cập đến hai nội dung cơ bản là đòi quyền bình đẳng
về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với người châu Âu và đòi
quyền tự do dân chủ tối thiểu cho dân nhân. Nhưng bản Yêu sách này không được

10
chấp nhận. Từ đó, Bác mới kết luận rằng : “Muốn giải phóng dân tộc, không thể bị
động trông chờ từ sự giúp đỡ bên ngoài mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính
dân tộc mình”.
Bốn là, độc lập dân tộc phải mang lại hạnh phúc, cơm no, áo ấm cho nhân dân.
Cả một đời cống hiến tuổi xuân, sức khỏe và trí tuệ cho đất nước, Bác Hồ chỉ có một
ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn độc lập, dân tộc ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập,
dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính
nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh.
Tóm lại, “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ
sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do chiến đấu, là nguồn sức
mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của cả dân tộc
Việt Nam, đồng thời là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính - Một động lực lớn của đất nước
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản phương Tây
ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân với những chính sách tàn bạo.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy sự áp bức , bóc
lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề thì phản ứng của
dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng lao động (công nhân và nông
dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa chủ)
đều phải chịu nỗi nhục của người dân mất nước, của một dân tộc mất độc lập, tự do.
Cùng với sự lên án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy
đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của tiềm năng dân tộc trong sự nghiệp tự
giải phóng.
Người thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc
địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Theo Bác, "Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm
trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp

11
nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới". Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính "là một bộ phận của tinh thần
quốc tế", "khác hẳn với tinh thần "vị quốc" của bọn đế quốc phản động".
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước mà
những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy.
1.2.2 Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
1.2.2.1 Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết vấn
đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh thể hiện: khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam; chủ trương đại
đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống
lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân
và vì dân; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
1.2.2.2 Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết
Trong quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn
kiên định với tư tưởng lấy lợi ích dân tộc (trong lúc này là vấn đề dân tộc giải phóng)
là vấn đề đầu tiên, trước tiên của cách mạng. Có thể nói, chủ trương giải phóng dân tộc
là một tư tưởng lớn của Người, khẳng định sự nhạy bén về mặt chính trị và bản lĩnh
của người cộng sản vượt qua mọi rào cản giáo điều cứng nhắc.
Tháng 5 - 1941, sau khi trở về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương Tám, vấn đề lợi
ích dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh luận giải một lần nữa. Người chỉ rõ:
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu

12
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được”. Hội nghị đã quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, coi
đây là nhiệm vụ quan trọng nhất. Đặc biệt, sau khi Nhật vào Đông Dương và khi thời
cơ giành độc lập đang đến gần, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong lúc này,
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp
phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Như vậy, phải có lập
trường giai cấp vững chắc mới có được tư tưởng đó - tư tưởng dân tộc cao nhất trong
tình thế “nước sôi, lửa bỏng” lúc bấy giờ, và vì có lập trường giai cấp vững chắc nên
mới thể hiện được tư tưởng dân tộc cao nhất. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng
Tám năm 1945 là kết quả của tính sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, của tầm nhìn
đổi mới và phương pháp cách mạng của Người trong cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc ở một nước thuộc địa như Việt Nam. Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định một chân lý: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ: “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”, đồng thời luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên cần nêu cao lợi ích dân tộc và
phải có tinh thần dân tộc vững chắc, bởi: “Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm” đối với mỗi quốc gia dân tộc. Do đó, chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ."
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khắng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và con người. Chỉ
có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột và thiết lập một nhà nước thực sự của dân,
do dân, vì dân thì mới đảm bảo được quyền làm chủ và cuộc sống độc lập, tự do, hạnh
phúc của con người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Năm 1920, sau khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc

13
theo con đường cách mạng vô sản, ở Người đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và
giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, Người
nói: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ". Thêm vào đó, Người
khẳng định: "Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh thêm". Do đó, sau khi đã giành được độc lập, cần phải tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng,
tự do.
Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Dân tộc và giai cấp là hai phạm trù có nội dung khác nhau và chỉ các quan hệ xã
hội khác nhau. Mỗi phạm trù này có vai trò lịch sử riêng trong sự phát triển của xã hội,
song chúng lại có quan hệ hữu cơ và tác động qua lại với nhau. Mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp trong điều kiện lịch sử và những giai đoạn lịch sử nhất định còn được
biểu hiện như hai mặt của một vấn đề, chúng tác động biện chứng với nhau trong một
thể thống nhất của một quốc gia dân tộc. Giải quyết tốt mối quan hệ này là một trong
những nhân tố bảo đảm thành công của cách mạng. Tuy nhiên, trong lịch sử phong
trào cộng sản trên thế giới, đã có nơi, đã có lúc, đã có các tư tưởng tả khuynh, tuyệt
đối hóa quan điểm giai cấp, đề cao lợi ích giai cấp hạ thấp vấn đề dân tộc, lợi ích dân
tộc - nguyên tắc tối cao chi phối hoạt động thực tiễn của một quốc gia dân tộc - chỉ
mang lại những kết quả tức thời, không bền vững và để lại những hậu quả nặng nề,
khó khắc phục, làm tổn hại quốc gia dân tộc.
Có thể nói, sự thành công của cách mạng Việt Nam trong nửa thế kỷ vừa qua gắn
liền với vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và
giai cấp.
Vấn đề dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường
và theo quan điểm của một giai cấp nhất định. Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh
rằng, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết
đúng đắn được vấn đề dân tộc. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh,
nghiên cứu và hoạt động trong phong trào công nhân, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đề

14
cập đến những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp. Từ thực tiễn cách mạng châu Âu năm 1848 và phong trào đấu tranh của các dân
tộc, từ vị trí, vai trò và thái độ của các dân tộc trong cách mạng châu Âu, C. Mác và
Ph. Ăng-ghen khẳng định: phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận hợp thành
của đội quân cách mạng châu Âu, mở rộng trận địa cách mạng dân chủ tư sản và có
vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực phong kiến. Trong quan
niệm của mình, C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định mối quan hệ giữa sự nghiệp giải
phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Trong “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng, nếu xóa bỏ nạn người bóc lột người thì
nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ, khi mà sự đối kháng giữa các
giai cấp không còn nữa thì sự đối kháng giữa các dân tộc sẽ mất theo. Với quan điểm
trên, C. Mác và Ph. Ăng-ghen muốn nhấn mạnh mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
dân tộc và nhân loại và để thực hiện thành công sự nghiệp này phải tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp.
Hồ Chí Minh ưu tiên giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp nhưng
không quên đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Và vì thế nên, lợi
ích giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Tháng 5 - 1941, Người cùng với Trung
ương Đảng khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt
trước sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc,
thì chẳng những quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ
phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân
tộc khác
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình
mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. Người nói: “Chúng ta phải tranh
đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”.

15
Người nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế
cao cả của mình trong việc giúp đỡ các đảng cộng sản ở một số nước Đông Nam Á,
ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống Pháp và
khẳng định: “giúp bạn là tự giúp mình”, bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà
đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang một nội dung toàn
diện, sâu sắc và triệt để; không chỉ bao hàm độc lập, tự do, thống nhất cho dân tộc, mà
còn chứa đựng cả con đường và điều kiện phát triển dân tộc. Đó là gắn độc lập dân tộc
với dân chủ của nhân dân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm đó
trở thành mục tiêu, lý tưởng, thành khẩu hiệu động viên, cổ vũ nhân dân Việt Nam làm
nên kỳ tích oai hùng, đánh thắng mọi kẻ thù, đưa đến độc lập, thống nhất cho đất nước;
đồng thời cơ sở lý luận để hoạch định chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
1.3 Luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
1.3.1 Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc.
Như bao nhiêu người dân Việt Nam yêu nước khác sống kiếp nô lệ dưới thời
thuộc Pháp, khát vọng và mong muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh là quyết tâm giành
độc lập, tự do cho dân tộc, như Người từng nói. Cái mà tôi cần nhất trên đời là: đồng
bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.
Năm 1919, nhân dịp các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
hợp Hội nghị Vécxây (Pháp), thay mặt nhóm những người yêu nước Việt Nam ở Pháp,
người đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8 điểm với
hai nội dung chính: đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi các quyền tự do, dân
chủ của người dân Đông Dương. Đây là tiếng nói “bình đẳng”, “tự do, dân chủ" đầu
tiên của những người Việt Nam yêu nước ngay tại một hội nghị quốc tế quan trọng của
các nước đế quốc.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, trên cơ sở tiếp thu
những giá trị về tự do, bình đẳng, về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của
cách mạng Mỹ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp.

16
năm 1791, Hồ Chí Minh đã khẳng định những giá trị bất biến về quyền dân tộc, không
ai được xâm phạm: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.....Đó là lẽ phải không ai chối
cãi được". Và đó cũng là chân lý của thời đại, là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm
của các dân tộc nói chung trên thế giới, mà Hồ Chí Minh là người đại diện nổi lên
tiếng nói đó.
Vào đầu năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng do Người viết và
được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua. Người xác định mục
tiêu chính trị của Đảng và cũng là mục tiêu của cách mạng Việt Nam là:
a)Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b)Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra chính phủ công nông binh...
Phải đấu tranh, phải đánh đổ thực dân, đế quốc để giành độc lập cho dân tộc, theo
Người, đó phải là mục tiêu đầu tiên của cách mạng nước ta Năm 1945, tình hình Chiến
tranh thế giới thứ hai chuyển biến mau lẹ, có lợi cho cách mạng, trong nước nhân dân
ta sống trong nỗi thống khổ, lầm than...vấn đề giành độc lập dân tộc được đặt ra cấp
bách hơn lúc nào hết. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên quyết tâm phải đứng
lên đấu tranh, giành bằng được độc lập cho dân tộc, Người nói: “Dù hy sinh tới đâu,
dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh long
trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới rằng: nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, nhân dân Việt Nam quyết giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Trước âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp muốn xâm lược Việt Nam một lần nữa,
trong một bức thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, Người cũng đã trịnh trọng tuyên bố
rằng : “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng
tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn
vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Và khi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp bùng nổ trong cả nước, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày
19-12-1946, Người thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho bằng được nền độc lập dân

17
tộc mà nhân dân mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ, chư hầu vào miền Nam tiến hành
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Hồ Chí Minh đã
nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát nền độc
lập, tự do trên thế giới “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Với chân lý đó, nhân dân
Việt Nam đã đồng lòng, anh dũng chiến đấu và giành thắng lợi vẻ vang, buộc Mỹ phải
ký kết Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam, rút quân Mỹ về nước.
Quan điểm trên của Hồ Chí Minh vừa có giá trị lý luận, thực tiễn to lớn, vừa có ý
nghĩa bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền dân tộc, cụ thể là quyền độc
lập, tự do.
1.3.2 Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, hạnh phúc dân tộc
Độc lập phải gắn liền với tự do, đó là lẽ đương nhiên trong đấu tranh cách mạng
của các dân tộc. Hồ Chí Minh tiếp thu và đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn
Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Người cũng từng
viện dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi” để rồi khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được
tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Ngay trong
bản Yêu sách gửi đến Hội nghị Vécxây, nhóm những người Việt Nam yêu nước tại
Pháp, trong đó có Người, đã đề nghị các nước đế quốc thắng trận trong Chiến tranh thế
giới thứ nhất phải tôn trọng quyền tự do, trong đó có “Tự do báo chí và tự do ngôn
luận. Tự do lập hội và hội họp. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương. Tự do
học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người
bản xứ”3.
Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Người cũng xác định mục tiêu
của đấu tranh cách mạng là “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập...dân chúng
được tự do...thủ tiêu hết các thứ quốc trái...thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa

18
làm của công chia cho dân cày nghèo. Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo...thi hành luật
ngày làm 8 giờ”. Sau khi giành độc lập cho đất nước, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng
định “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Độc lập cũng phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Là một dân tộc thuộc
địa bị đế quốc thực dân thống trị, bóc lột, nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, cơ
cực, đói rét.. nên mong muốn, khát khao lớn nhất của dân tộc Việt Nam là làm sao
nước nhà được độc lập, ai ai cũng tự do, hạnh phúc, cơm no, áo ấm. Xuất phát từ tâm
tư, nguyện vọng tha thiết, chính đáng trên, sau khi giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh
tiếp tục đấu tranh vì mục đích cơm no, áo ấm... cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Chúng ta
tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng
không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no,
mặc đủ” và Người dạy: “Chúng ta phải thực hiện ngay:
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành
Có thể nói rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập luôn gắn liền với tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, như Người từng bộc bạch tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là năm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" —
một sự ham muốn đầy tính nhân văn và thắm đượm tình thương yêu dân tộc và đó
cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh.
1.3.3 Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Trong khi vạch trần chính sách mị dân, gieo rắc chiêu bài “độc lập, tự do" giả hiệu
hòng lừa bịp nhân dân ta của thực dân đế quốc, Hồ Chí Minh khẳng định: độc lập dân
tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, quân sự, ngoại giao...Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự
quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng..thì độc lập

19
đó chẳng có ý nghĩa gì. Với tư tưởng đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách
mạng Tháng Tám, để bảo vệ nền độc lập thật sự mới giành được trước kẻ thù dân tộc
và giai cấp bao vây tứ phía, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ký với Sainteny, đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày
6-3-1946, trong đó có ghi: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của
mình, tài chính của mình…. Đây là thắng lợi bước đầu của một sách lược ngoại giao
hết sức khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt nhưng có nguyên tắc, một phương pháp biết
thắng từng bước của Hồ Chí Minh và là một minh chứng cho tính đúng đắn của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1.3.4 Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Đất nước Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh thường bị kẻ thù chia cắt hỏng dễ cai
trị và áp bức, bóc lột nhân dân ta. Dưới thời thống trị của thực dân Pháp, đất nước Việt
Nam bị chia ra ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau Cách mạng Tháng Tám, thực
dân Pháp tái chiếm đất nước ta một lần nữa, lần này chúng dùng chiêu bài Nam Kỳ tự
trị hòng chia rẽ dân tộc. Với hoàn cảnh đất nước bị kẻ thù chia cắt như trên, Hỗ Chí
Minh trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946), Người khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ
là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao
giờ thay đổi”. Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam
tạm thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm
mưu chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá, không gì
lay chuyển: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai có thể chia cắt
được". Đến cuối cuộc đời, trong Di chúc, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự
thắng lợi của cách mạng, sự thống nhất nước nhà: Dù khó khăn gian khổ đến mấy,
nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi
nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp
một nhà.
Thực hiện tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tiến hành giải
phóng miền Nam, thống nhất nước nhà năm 1975 và độc lập dân tộc từ đỏ gắn liền với
toàn vẹn lãnh thổ.

20
CHƯƠNG 2:VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1 Thực trạng biển đảo nước ta hiện nay


Về vị trí địa lí: Nước ta giáp với biển Đông ở hai phía Đông và Nam.Vùng biển
Việt Nam là một phần biển Đông, bờ biển dài 3.260km, từ Quảng Ninh đến Kiên
Giang. Như vậy, cứ l00 km2 thì có l km bờ biển (trung bình của thế giới là 600km2 đất
liền/1km bờ biển). Biển có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa, với diện tích trên 1 triệu km (gấp 3 diện tích đất liền).
Nước ta có 2 quần đảo là: Hoàng Sa và Trường Sa, cùng 2.577 đảo lớn, nhỏ; gần
và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển. Có vị trí
chiến lược quan trọng: nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu
Âu, châu Úc với Trung Đông; thuận lợi giao lưu quốc tế và phát triển ngành biển.
Về tài nguyên thiên nhiên: Trên vùng biển Việt Nam đã phát hiện khoảng 11.000
loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh
học biển khác nhau; phát hiện khoảng 1.300 loài trên các hải đảo. Đa dạng sinh học
biển và các hệ sinh thái đã cung cấp nguồn lợi hải sản to lớn cho nền kinh tế. Tổng
lượng thủy sản khai thác tăng dần qua từng năm: năm 2018, tổng sản lượng thủy sản
khai thác của cả nước đạt trên 7,74 triệu tấn; năm 2019, đạt hơn 8,20 triệu tấn; năm
2020, đạt trên 8,40 triệu tấn. Riêng sản lượng thủy sản 4 tháng đầu năm 2021 ước đạt
trên 19,5 nghìn tấn.
Biển đảo Việt Nam có khoảng 35 loại hình khoáng sản với trữ lượng khai thác
khác nhau, trong đó dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa, có tầm chiến lược
quan trọng. Ngành dầu khí Việt Nam đã đạt mốc khai thác 100 triệu tấn dầu thô năm
2011; đạt mốc 200 triệu tấn dầu thô năm 2012. Năm 2013, xuất khẩu dầu thô đạt 300
triệu tấn. Biển Việt Nam còn có tiềm năng băng cháy - loại hình tài nguyên mới của
thế giới. Bên cạnh đó, vùng ven biển còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa
khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm,…

21
Với 125 bãi biển lớn nhỏ, nắng ấm quanh năm, không khí trong lành với nhiều
cảnh quan đẹp... là điều kiện lý tưởng để xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du
lịch cao cấp. Trong số đó, bãi biển Đà Nẵng được tạp chí Forbes bầu chọn là 1 trong 6
bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh. Đồng thời, Việt Nam cũng là 1 trong 12 quốc gia có
các vịnh đẹp nhất thế giới với Vịnh Hạ Long, Vịnh Nha Trang. Bên cạnh đó, đảo và
vùng ven biển tập trung nhiều di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển, vườn quốc gia,
các khu bảo tồn thiên nhiên; nhiều di tích văn hóa-lịch sử; các lễ hội dân gian của cư
dân miền biển; tín ngưỡng, phong tục tập quán liên quan đến biển…Với lợi thế này,
ngành du lịch biển Việt Nam hàng năm thu hút khoảng 15 triệu lượt khách, trong đó có
3 triệu khách quốc tế, đạt tốc độ tăng bình quân 13%/năm.
Tuy nhiên, từ nửa cuối năm 2016 đến nay, tình hình thế giới và khu vực diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, tác động nhiều chiều tới môi trường đối ngoại của nước ta.
Thế giới đang trong thời kỳ quá độ chuyển từ trật tự “nhất siêu, đa cường” sang một
trật tự mới với đặc điểm nổi bật là “đa trung tâm, đa tầng nấc”. Quan hệ giữa các nước
lớn, nhất là giữa ba nước Mỹ - Nga - Trung Quốc cũng có những thay đổi sâu sắc. Khu
vực châu Á - Thái Bình Dương đang chứng kiến nhiều diễn biến nhanh chóng, nhất là
sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ dẫn đến thay đổi tương quan so sánh lực
lượng; tiến trình hội nhập khu vực Đông Nam Á đã chuyển sang giai đoạn mới với
việc hình thành các cộng đồng ASEAN; tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức
tạp, khó có thể dự báo chính xác được chiều hướng vấn đề trong thời gian tới. Từ năm
1974 đến nay có thể được chia làm 3 giai đoạn chính:
Giai đoạn thứ nhất (1974-1990): Bản chất vấn đề Biển Đông trong giai đoạn này
cơ bản chỉ là tranh chấp lãnh thổ, chủ yếu liên quan giữa một số nước trong khu vực
và Trung Quốc.
Giai đoạn thứ hai (1990-2010): Bản chất vấn đề Biển Đông là mở rộng từ tranh
chấp lãnh thổ trở thành vấn đề an ninh khu vực. Các nước xung quanh Biển Đông
trong thời gian này liên tục đưa ra những yêu sách về quyền chủ quyền ở Biển Đông,
dẫn đến hình thành những khu vực biển rộng lớn. Từ đây, Biển Đông đã trở thành một
vấn đề quan trọng trong quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc. Các bên liên quan tới

22
vấn đề Biển Đông bắt đầu sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để bảo vệ lợi ích của
mình, bao gồm cả quân sự, chính trị, ngoại giao, pháp lý,...
Giai đoạn thứ ba (từ năm 2010 đến nay): Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những nhân tố mới xuất hiện tác động trực tiếp đến
tình hình biển Đông. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và tranh chấp lãnh thổ,
chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ
xung đột, mất ổn định. Sáu năm sau vụ hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trong vùng
thềm lục địa nước ta, Trung Quốc vẫn có những hành vi xâm phạm chủ quyền biển
đảo nước ta; thậm chí, xuất hiện một số động thái và xu hướng mới. Một số nước trong
khu vực đã điều chỉnh chiến lược từ duy trì quyền lợi tự do đi lại trên biển, đến tiếp tục
theo đuổi mục tiêu chiến lược lấn chiếm biển, đảo của nước ta. Vì vậy, họ đẩy mạnh
các hoạt động và tiến hành hàng loạt biện pháp, thủ đoạn để từng bước độc chiếm, gây
mất ổn định, an ninh biển đảo, đe dọa nghiêm trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc. Hiện nay, trên biển Việt Nam còn bốn vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền
lãnh thổ cần phải giải quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ
chủ quyền và giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa
các nước, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Đài Loan (Trung
Quốc); phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hiệp quốc về Luật
Biển năm 1982; xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Như vậy, xét về bản chất, vấn đề Biển Đông hiện nay bao gồm ba lớp: lớp trong
cùng là tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa Trung Quốc và một số nước trong khu vực,
giữa các nước ASEAN có chồng lấn quyền chủ quyền trên Biển Đông. Lớp giữa là
vấn đề an ninh khu vực giữa ASEAN và Trung Quốc. Lớp ngoài cùng là cạnh tranh
chiến lược và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn. Tình hình Biển Đông những năm
qua căng thẳng hơn, phức tạp hơn, gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và mức độ
nghiêm trọng của các sự cố; phạm vi các sự cố trên biển, trên không liên tục được mở
rộng sâu xuống phía Nam và lên cả biển Hoa Đông; gia tăng đáng kể số bên liên quan
tới tranh chấp, nhất là sự tham gia của các nước lớn ở những mức độ khác nhau; có xu
hướng quân sự hóa và bán quân sự hóa rõ rệt; tính chất của vấn đề Biển Đông ngày
càng thách thức luật pháp quốc tế, ngay cả khi phán quyết của Tòa Trọng tài được

23
thành lập theo Phụ lục VII của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm
1982 đã được đưa ra là vai trò của ASEAN còn hạn chế, các giải pháp ở cấp độ khu
vực chưa có hiệu quả. Bên cạnh đó, lợi dụng tình hình dịch Covid 19, Trung Quốc liên
tục thực hiện cách hành vi khiêu khích trên biển Đông nên tình hình biển Đông trong
năm 2021 rất khó “hạ nhiệt”.
2.2 Nguyên nhân của vấn đề tranh chấp biển đảo
2.2.1 Về nguồn lợi hải sản và tính đa dạng sinh học
Trên vùng biển Việt Nam đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú
trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác
nhau. Ngoài ra, còn phát hiện khoảng 1.300 loài trên các hải đảo. Đa dạng sinh học
biển và các hệ sinh thái đã cung cấp nguồn lợi hải sản to lớn cho nền kinh tế. Năm
2015, sản lượng thủy sản khai thác của cả nước đạt trên 3 triệu tấn; trong 7 tháng đầu
năm 2016, con số này đã đạt trên 1,8 triệu tấn.
2.2.2 Về khoáng sản
Biển Việt Nam có khoảng 35 loại hình khoáng sản có quy mô trữ lượng khai thác
khác nhau. Trong đó, dầu khí là tài nguyên lớn nhất ở thềm lục địa nước ta có tầm
chiến lược quan trọng. Ngành dầu khí Việt Nam đã đạt mốc khai thác 100 triệu tấn dầu
thô năm 2011; mốc 200 triệu tấn dầu thô năm 2012. Năm 2013, xuất khẩu dầu thô đạt
mốc 300 triệu tấn. Ngoài ra, biển Việt Nam còn có tiềm năng băng cháy-loại hình tài
nguyên mới của thế giới; vùng ven biển còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa
khoáng như titan, zircon, thiếc, vàng, sắt, mangan, thạch cao, đất hiếm…
2.2.3 Về kinh tế
Vùng biển Việt Nam thuộc Biển Đông - một trong những con đường giao thương
hàng hải quốc tế nhộn nhịp nhất trên thế giới, nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương. Bờ biển mở ra cả 3 hướng Đông, Nam và Tây Nam nên rất thuận lợi cho việc
giao lưu thương mại quốc tế và hội nhập kinh tế biển. Theo báo cáo của Tổng cục Biển
và Hải đảo Việt Nam, bờ biển nước ta có 10 điểm có thể xây dựng cảng biển nước sâu
và nhiều điểm cảng trung bình với tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển đạt 50 triệu
tấn/năm. Đến nay, Việt Nam đã ký hiệp định hàng hải thương mại với 26 quốc gia.

24
Việt Nam đã phát triển được 30 cảng biển với 166 bến cảng, 350 cầu cảng với tổng
chiều dài khoảng 45.000m; xây dựng 18 khu kinh tế ven biển…
2.2.4 Về chính trị
Trung Quốc gia tăng các đòi hỏi chủ quyền vô lý, cải tạo các cấu trúc địa lý thành
đảo nhân tạo và quân sự hóa trái phép. Có tranh chấp liên quan đến hai nước như vấn
đề quần đảo Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc, có tranh chấp liên quan đến
nhiều bên trong khu vực như vấn đề quần đảo Trường Sa; có những vấn đề liên quan
đến các nước ở ngoài khu vực như vấn đề hòa bình ổn định, an ninh an toàn, tự do
hàng hải và hàng không cũng như tính thống nhất và toàn cầu của Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.
2.2.5 Quốc phòng, an ninh
Biển nước ta nằm trên đường giao thông quốc tế từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống
Nam, vì vậy có vị trí quân sự hết sức quan trọng. Đứng trên vùng biển-đảo của nước ta
có thể quan sát khống chế đường giao thông huyết mạch ở Đông Nam Á. Trong những
năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, quân và dân ta đã tích
cực triển khai các hoạt động nhằm quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc,
bảo vệ các lợi ích quốc gia trên biển. Thành tựu về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
đã được Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Quốc phòng, an ninh được tăng cường;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Tuy
nhiên, tình hình quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp hơn đòi hỏi các giải pháp tổng
thể về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế, kinh tế, xã hội.
2.3 Giải pháp nhằm nâng cao quá trình bảo vệ biển đảo ở nước ta
2.3.1 Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước:
Những năm qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, quân và dân ta triển khai
tích cực các hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Đại hội XIII đã
khẳng định, chúng ta đã: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc
gia – dân tộc trên biển, trên không và trên bộ; hợp tác quốc tế về biển, đảo được tăng
cường, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thúc đẩy quan hệ với các nước”. Hiện

25
nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế và lực của ta trên các vùng biển, đảo đã tăng
lên nhiều.
Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” trên biển, đảo
không ngừng được củng cố, tăng cường. Các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo từng
bước được xây dựng, phát triển ngày càng vững mạnh hơn. Trong đó, Hải quân nhân
dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển.
Hiện nay, Hải quân nhân dân Việt Nam đã có đủ các lực lượng cơ bản, được xây dựng
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức quản lý, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo trong tình hình mới. Trên mặt trận chính trị - đối ngoại, chính sách của Việt
Nam ở Biển Đông đã vận dụng thành công chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ trong
hoạt động đối ngoại, hợp tác quốc tế. Chúng ta đã giữ vững các đảo, điểm đóng quân,
các bãi cạn không người... Trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông thời gian qua,
Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện cơ bản chiến lược bảo đảm chủ quyền, an ninh; xử
lý kịp thời các tình huống trên biển, bảo đảm giữ vững được chủ quyền, mối quan hệ
và môi trường hòa bình trên biển.

Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại
Để có được những kết quả như trên, một trong những nguyên nhân, điều kiện quan
trọng, tiên quyết chính là vì chúng ta đã đề ra được những quan điểm, đường lối đúng
26
đắn trong công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo, xử lý kịp thời các tranh chấp trên biển
Đông. Có thể thấy rằng, sau 35 năm đổi mới, hệ thống quan điểm của Đảng ta về công
tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát triển.
Điều đó được thể hiện rõ nhất qua các văn kiện của mỗi kỳ Đại hội Đảng. Gần đây
nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những quan điểm
cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo trong tình hình mới. Trong đó, Đảng đã
xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết vấn đề trên biển hiện
nay.
Thứ nhất là “thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là
không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Việt Nam là một quốc gia ven biển, vùng biển của nước ta
có diện tích gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích biển Đông. Vùng
biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên con đường hàng hải và hàng không huyết
mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; giữa châu Âu, Trung
Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Vùng biển của
chúng ta còn là vùng biển “giàu có” với các tài nguyên, khoáng sản quan trọng như
dầu khí, than, sắt, titan, muối.. và hàng triệu tấn thủy sản. Chúng ta có đường bờ biển
dài và đẹp, sinh vật biển phong phú, đa dạng thuận lợi cho phát triển du lịch biển. Đối
với hoạt động an ninh, quốc phòng, biển nước ta như mặt tiền, cửa ngõ quốc gia; biển
làm tăng chiều sâu phòng thủ hướng ra biển, củng cố tuyến phòng thủ bảo vệ Tổ
Quốc.
Thứ hai là "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước". Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định hướng chiến
lược để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc. Kiên quyết thể
hiện quyết tâm dứt khoát, sự đồng thuận cao hơn trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
về yêu cầu bảo vệ chủ quyền, lợi ích của đất nước; kiên quyết giữ vững những vấn đề

27
có tính nguyên tắc, bảo vệ đến cùng lợi ích quốc gia - dân tộc, với quyết tâm cao nhất.
Chúng ta xác định, giải quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp
tác tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng
của ta, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật
pháp quốc tế.
Thứ ba, Việt Nam “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi”.
Với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, chúng ta
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Chúng ta
không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu tác động hay sự lôi
kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành con bài trong tay các nước
lớn. Bên cạnh đó, chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy
trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển.
Thứ tư, “Duy trì hòa bình, an ninh, an toàn tự do hàng hải, hàng không ở Biển
Đông; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc
tế, công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982”. Lập trường của Việt Nam
về vấn đề Biển Đông là rõ ràng và nhất quán. Mọi hoạt động trên biển cần được tiến
hành trên cơ sở Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, tôn trọng chủ
quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia ven biển tại các vùng biển
được xác lập phù hợp với Công ước. Khẳng định Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và
bằng chứng lịch sử chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như các quyền
hợp pháp khác trên các vùng biển của Việt Nam được xác lập.
Thứ năm, “Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố,
tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biện khó
khăn, biên giới, hải đảo”. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định kinh tế biển là
một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là
nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Chúng ta tập
trung phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ

28
vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Tư tưởng này được hình thành dựa trên
kinh nghiệm quốc tế, dự báo tình hình trong nước và trên thế giới, thực tiễn Việt Nam
và phù hợp với xu thế thời đại. Các thành tựu ta đạt được trong thời gian qua đã cho
thấy sự vận dụng đúng đắn quan điểm, đường lối của Đảng trong phát triển bền vững
kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Tiếp nối truyền thống và trách nhiệm đấu tranh, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn được Đảng, Nhà nước ta
đặc biệt coi trọng. Mục tiêu mà Đảng ta luôn hướng tới trong giải quyết các tranh chấp
trên vùng biển, đảo là duy trì khu vực Biển Đông ổn định, hòa bình, hợp tác và phát
triển. Vì vậy, chúng ta cần tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết các tranh
chấp theo đúng đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước dựa trên cơ sở
phát huy nội lực và sức mạnh tổng hợp của cả quốc gia. Việc nắm vững, tuyên truyền
sâu rộng các quan điểm, đường lối của Đảng đối với công tác bảo vệ chủ quyền biển
đảo trong tình hình mới là nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên.
2.3.2. Trách nhiệm của thanh niên Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo
ở nước ta hiện nay
Thanh niên là lực lượng đông đảo, là lớp người trẻ tuổi, có sức khỏe, ham học hỏi
cái mới, giàu sức sáng tạo, hăng hái, có chí tiến thủ, xung kích, sáng tạo trong việc
quán triệt và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, là nguồn nhân lực chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp cách mạng
của dân tộc. Do đó, phát huy vai trò của thanh niên đối với nhiệm vụ này hiện nay là
vấn đề có ý nghĩa to lớn nhất là khi tình hình biển Đông đang có những diễn biến phức
tạp. Qua quá trình nghiên cứu, nhóm xin đưa ra bốn nhiệm vụ cơ bản của giới trẻ ngày
nay để bảo vệ chủ quyền của đất nước như sau:
Thứ nhất, thanh niên phải thường xuyên nâng cao hiểu biết của mình về lịch sử và
chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.Qua đó, thanh niên sẽ nhận thức rõ tầm quan trọng
của biển, đảo, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ to lớn của mình trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

29
Sinh viên tham gia triển lãm về biển đảo
Thứ hai, ta phải tuyệt đối tin tưởng vào chính sách, đường lối của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời, nâng cao cảnh giác cách mạng, nhận rõ đúng sai, không để các thế
lực thù địch lấy danh nghĩa bảo vệ Trường Sa, Hoàng Sa để lợi dụng lôi kéo vào các
hoạt động gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phá hoại mối quan hệ với
các nước láng giềng. Bên cạnh đó, thanh niên cần linh hoạt, sáng tạo, sắc sảo, nhạy
bén, kiên trì, thận trọng... không bị rơi vào “bẫy” của đối phương, để giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, song cũng sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, kiên
quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ ba, giới trẻ phải có quyết tâm cao, hành động thiết thực đối với nhiệm vụ bảo
vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đây là mục tiêu, là đích hướng tới của quá trình
phát huy vai trò thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Trên cơ sở
nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm và củng cố được niềm tin, thái độ, động cơ, ý chí
vững vàng, thanh niên cần phát huy cao nhất vai trò, trách nhiệm thông qua hiện thực
hóa những giá trị đó thành quyết tâm và hành động cụ thể, thiết thực trong bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc điển hình là chấp hành nghiêm túc nghĩa vụ quân sự.

30
Sinh viên tham gia chương trình Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương
Thứ tư, những công dân trẻ tuổi của đất nước, đặc biệt là học sinh, sinh viên cần
quyết tâm học tập thật tốt và rèn luyện nhân cách, đặc biệt là nâng cao khả năng ngoại
ngữ. Có như vậy thì Việt Nam mới nâng cao vị trí của mình trên trường quốc tế.Bên
cạnh đó, giao tiếp ngoại ngữ lưu loát sẽ tạo điều kiện thuận lợi để quá trình đối đáp,
ứng phó với đối phương khi có mâu thuẫn và bất hòa xảy ra được diễn ra thuận lợi và
dễ dàng hơn.

31
PHẦN KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc đã khái quát hóa được toàn bộ những
bức thiết trong vấn đề đấu tranh giai cấp và giải phóng dân tộc. Có thể thấy rằng, nó
mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập
đến nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, nhấn mạnh sự kết hợp vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập
của các dân tộc khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc không theo một khuôn
mẫu giáo điều, mà được hình thành và phát triển gắn liền với phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc, trong đó có phong trào đấu tranh của dân tộc Việt Nam, nhằm xoá bỏ
ách trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, hình
thành nên nhà nước dân tộc độc lập và tiếp tục phát triển theo sự lựa chọn của mỗi
quốc gia dân tộc, phản ánh chân lý lớn nhất của thời đại là “không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Riêng với dân tộc Việt Nam, thì sự phát triển đó theo phương hướng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện điều mong muốn cuối cùng của Hồ Chí Minh là: “Xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện
thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”. Vận dụng Tư tưởng về vấn đề dân tộc của Người, Đảng và
nhân dân ta cần phải bình tĩnh, sáng suốt trong phân tích, đánh giá bản chất vấn đề
Biển Đông trên các khía cạnh địa - chính trị và chủ quyền quốc gia, đánh giá bản chất
mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, để có những đối sách hợp lý bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc và xây dựng một mối quan hệ đúng đắn giữa hai quốc gia - quan
hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi.

32
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

H1:Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

H2:Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại

33
H3: Sinh viên tham gia triển lãm về biển đảo

H4: Sinh viên tham gia chương trình Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương

H5: Tàu lực lượng Bảo vệ bờ biển Nhật Bản thăm và giao lưu với Cảnh sát biển Việt
Nam.

34
PHỤ LỤC

KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN

Sinh viên thực hiện Nhiệm vụ Hoàn


thành
- Chương 1: Tốt
Trương Vũ Phương Thảo - Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí
Võ Thị Bích Dân - Minh về vấn đề dân tộc
Dương Minh Phát Vấn đề dân tộc thuộc địa
Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp

Chương 2 Tốt
Lê Thị Kim Chi Thực trạng về biển đảo nước ta hiện nay
Lý Lam - Nguyên nhân
Hà Hương Giang - Giải pháp nhằm nâng cao quá trình bảo vệ
- biển đảo ở nước ta

Nguyễn Viết Trung Mở đầu, kết luận Tốt

Dương Minh Phát Tổng hợp, định dạng hoàn chỉnh Tốt

35
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, trang 57-67, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013.
2. PGS.TS Vũ Quang Hiến, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc – mấy vấn đề
bàn luận, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường đại học khoa học - xã hội và nhân
văn,
http://www.ussh.vnu.edu.vn/d4/news/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-van-de-dan-tocm
ay-van-de-ban-luan-6-11808.aspx , 10/10/2021
3. N. Chung, Trách nhiệm của thanh niên với biển đảo và hội nhập quốc tế, Báo
Thanh niên,
http://thanhnien.vn/thoi-su/trach-nhiem-cua-thanh-nien-voi-bien-dao-va-hoinhap-q
uoc-te-721099.html, 1/10/2021
4. Trần Việt Thái, Bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh mới,
http://www.danvan.vn/Home/Bien-dao-Viet-Nam/10616/Bao-ve-chu-quyen-bienht
tp://www.danvan.vn/Home/Bien-dao-Viet-Nam/10616/Bao-ve-chu-quyen-bien-da
o-trong-boi-canh-moidao-trong-boi-canh-moi, 11/10/2021
5. Những điều cần biết về biển - đảo Việt Nam, Khái quát biển đảo,
https://ccvtlt.snv.binhdinh.gov.vn/index.php/vi/nghiep-vu/to-chuc-su-dung-taihttps:
//ccvtlt.snv.binhdinh.gov.vn/index.php/vi/nghiep-vu/to-chuc-su-dung-tai-lieu-luu-tr
u/khai-quat-bien-dao-61.htmllieu-luu-tru/khai-quat-bien-dao-61.html, 11/10/221
6. Biển, đảo Việt Nam: tiềm năng và lợi thế,
https://sonoivu.hanoi.gov.vn/thong-tinhttps://sonoivu.hanoi.gov.vn/thong-tin-tuyen
-truyen/-tuyen-truyen/-/view_content/pop_up/2386499-bien-dao-viet-nam-tiem-na
ng-vahttps://sonoivu.hanoi.gov.vn/thong-tin-tuyen-truyen/-/view_content/pop_up/2
386499-bien-dao-viet-nam-tiem-nang-va-loi-the.html?_loi-the.html, 11/10/2021
7. Thanh Huệ, Kết quả ngành sản xuất thủy sản năm 2020. Truy cập tại:
https://thuongtruong.com.vn/news/ket-qua-nganh-san-xuat-thuy-san-nam-2020-
43522.html,11/10/2021

36

You might also like