Professional Documents
Culture Documents
HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
Lớp QTL46A1_Nhóm 1
Tóm tắt Bản án số 02/2021/DS-PT ngày 11/1/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Nông:
- Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổ hợp tác và suy
nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.
Những điểm mới ở Bộ luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005 về tổ hợp
tác đã khắc phục phần nào được những hạn chế của Bộ luật dân sự 2005 và khiến cho
Bộ luật dân sự 2015 phù hợp hơn với thực tiễn xã hội hiện nay.
- Câu 2: Trong Quyết định năm 2021, đoạn nào cho thấy giao dịch (hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất) được xác lập giữa ông Th và bà H với Tổ hợp tác?
Căn cứ pháp lý:
Điều 503 Bộ luật Dân sự 2015: “Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu
lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật đất đai.”
Khoản 7 Điều 95 Luật Đất Đai 2013: “Việc đăng ký đất đai, tài sản gắn
liền với đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào Sổ địa chinh.”
Khoản 3 Điều 188 Luật Đất Đai 2013: “Việc chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất,
góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có
hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính.”
Đoạn cho thấy hợp đồng thuê quyền sử dụng đất được xác lập giữa ông Th và bà
H với Tổ hợp tác:
“Ngày 13/9/2018, Tổ hợp tác X xã N (viết tắt là Tổ hợp tác ) ký hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thế Th, bà Bùi Thị H để thuê 500m2
đất tọa lạc tại thôn 06, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, mục đích xây dựng kho
cất trữ cà phê sau thu hoạch, diện tích đất cho thuê là một phần của thửa đất số
50, tờ bản đồ số 03, diện tích 12.103m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Y do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 12/12/2006, đứng tên hộ ông
Nguyễn Thế Th và bà Bùi Thị H… Sau khi ký kết hợp đồng và chứng thực tại Ủy
ban nhân dân xã N….”
(Trang 156)
- Câu 3: Theo Tòa án, ai phía Tổ hợp tác là bên trong giao dịch (với ông Th và bà
H)? Hướng xác định như vậy của Tòa án có phù hợp với quy định không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
“Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật
c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.”
Khoản 2 điều 138: “Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại
diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản
chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư
cách pháp nhân.”
Điều 141: “Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:
Ông Nguyễn T- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã N nhiệm kỳ 2016-2021 trình bày:
Ngày 13/9/2018, ông chứng thực hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất giữa ông Th, bà
H với ông H là đại diện của Tổ hợp tác…. Cho nên giao dịch mà ông H đã ký là phù
hợp với phạm vi của một người đại diện.
Người đại diện của Vì vậy, Ông Bùi Vĩnh H là người đại diện cho Tổ hợp tác để
ký kết hợp đồng là hợp lý.
- Câu 4: Theo Tòa án, ai là Bị đơn và hướng xác định như vậy của Tòa án có
thuyết phục không ? Vì sao.
Theo Tòa án, ông Bùi Vĩnh H là Bị đơn trong vụ án. Hướng xác định như vật của
Tòa án là thuyết phục, bởi vì theo quy định Điều 101 BLDS 2015 thì chủ thể xác lập,
thực hiện giao dịch của Tổ hợp tác là tất cả các thành viên của Tổ hợp tác hoặc các
thành viên ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch và việc
ủy quyền phải được lập thành văn bản.
Trường hợp thành viên của Tổ hợp tác không được các thành viên khác ủy quyền
làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập,
thực hiện. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ việc ông H ký kết hợp
đồng thuê đất có được các thành viên của Tổ hợp tác ủy quyền hay không; trong hồ sơ
không có văn bản uỷ quyền của các thành viên Tổ hợp tác.
Như vậy, ông H là người trực tiếp ký kết hợp đồng là bị đơn trong vụ án, còn các
thành viên trong tổ hợp tác tại thời điểm ký hợp đồng là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan. Tổ hợp tác không có tư cách pháp nhân nên ông Bùi Vĩnh H không phải là
người đại diện cho Tổ hợp tác để ký kết hợp đồng.